Lượt xem của khách bị giới hạn

[Trinh thám] [Trinh Thám] Mô Kim Quyết - Quỷ Môn Thiên Sư - Thiên Hạ Bá Xướng

Trạng thái
Không mở trả lời sau này.
[Trinh thám] [Trinh Thám] Mô Kim Quyết - Quỷ Môn Thiên Sư - Thiên Hạ Bá Xướng

Lười Biếng Vô Tận

Thanh Phong 37
Tham gia
5/4/19
Bài viết
21
Điểm cảm xúc
67
Điểm
13
Mô Kim Quyết - Quỷ Môn Thiên Sư

Tác giả: Thiên Hạ Bá Xướng

Dịch giả: Đặng Nam

Thể loại: Trinh Thám, Linh Dị

Nguồn: facebook.com/MaThoiDen​


Văn án:

Những năm 60 của thế kỉ XX, một phong trào sục sôi, cuồng nhiệt cuốn qua khắp mọi miền đất nước (Trans: Tức là Trung Quốc). Tôi và Tuyền béo, bộ binh bọn tôi bị phân công về tham gia sản xuất kiến thiết tại Hắc Long Giang, binh đoàn nông khẩn, nông trường số 17 của sư đoàn 3. Mắt thấy mùa đông sắp đến, lão trung đội trưởng an bài ba người là tôi cùng Tuyền béo và nhân viên liên lạc trực ở lại để trông coi vật tư, còn mình thì dẫn theo những người khác rời khỏi nông trường. Mấy người chúng tôi ở lại trông coi nông trường, phát hiện củi gỗ trong nhà kho ngày càng ít. Băng tuyết phủ kín núi, củi lửa chính là mạng sống của mỗi người. Thì ra là do một con hồ ly kiếm chuyện báo thù, lén lút lấy đi củi. Ít hôm sau, một trận bão tuyết trước giờ chưa từng thấy ập đến, mấy người dự tính úp sọt con hồ ly, chẳng ngờ gặp phải một đàn sói từ Siberia tới đang tán loạn chạy bão, vì chạy thoát thân nên đi theo con hồ ly chui vào một cái hang đất, nhưng mà lại nhầm lẫn đâm đầu vào một cổ mộ từ thời nhà Liêu bị che giấu từ vạn năm trước...
 
Sửa lần cuối bởi điều hành viên:

Lười Biếng Vô Tận

Thanh Phong 37
Tham gia
5/4/19
Bài viết
21
Điểm cảm xúc
67
Điểm
13
Chương 1: Lão Thử Lĩnh Đả Thiên Đăng
*Lão thử: Chuột

Ngươi xem chuyện dưới vòm trời này, thật khó có thể chỉ một câu hai câu mà nói rõ được. Trên dưới 5000 năm lịch sử, qua nhiều thời kì nhiều thời đại cao nhân không ít, có người khởi đầu không hề dễ dàng, ví dụ nói đến Hàn Tín, người đó bản lĩnh tài giỏi ai mà không biết? Nhưng mà khi mới sinh ra, sớm đã phải chịu nhiều nhục nhã đến gập cả lưng, cho đến sau này được lên đài phong tướng, lấy cớ tu sửa sạn đạo để hoạt động bí mật, bố trí mai phục khắp nơi nhằm vây khốn Bá Vương, thẳng một hơi dồn ép đến sông Ô Giang buộc Hạng Vũ phải tự vẫn (Trans: Sở Bá Vương Hạng Vũ). Vậy mới nói, cuộc đời Hàn Tín thật gọi là lắm thăng trầm, khi lên voi lúc xuống chó, đầu đội trời chân đạp đất, cuối cùng lại thế nào? Vừa tiến cung đã bị Lã Hậu chém chết. Hàn Tín còn như vậy, huống chi là người thường?

Cuộc đời này, có người trước bần sau phú, lại có người trước phú sau bần, đều là không giống nhau. Đời người gặp nhiều gian nan trắc trở, không ai thuận buồm xuôi gió một lèo cả. Năm ấy có một gia đình giàu có, ở địa phương đó có thể nói là không ai sánh kịp, phú giáp một phương, phòng ở không hết, buôn bán cực lớn, trong nhà có không biết bao nhiêu là tiền với tiền. Lão đương gia quyên tiền mua lấy một chức quan, do đó được mọi người gọi là lão viên ngoại, đối nhân xử thế đặc biệt tốt, thích làm việc thiện, kính lão thương bần, ai có khó khăn để ông ta biết, nhận định sẽ được ra tay cứu giúp. Tu cầu sửa lộ, trợ giúp kẻ nghèo, đông thí áo bông, hạ thí dược thang, cửa nhà quanh năm mở ra giúp đỡ nơi ăn chốn ở cho mọi người, người nghèo không có gì ăn, không có nơi để ở đều tìm đến đây, ngươi nói xem, bây giờ cái gì cũng không có, thì chỉ cần cháo bột ngô với màn thầu cũng là quá đủ, có thể ăn không thể mang theo. Việc trợ giúp chúng sinh này thật không dễ dàng gì, một ngày, hai ngày, mười ngày nửa tháng, lại quanh năm đều làm như thế, vậy phải gánh lấy chi phí nhiều như thế nào? Viên ngoại gia người này một đời không làm gì khác, suốt ngày chỉ làm việc tốt, cho nên mọi người đều gọi viên ngoại gia là Bồ Tát sống, hoặc gọi là đại thiện nhân, tìm khắp trên trời dưới đất cũng không thấy người nào tốt được bằng viên ngoại gia.

Mặc dù lão tổ tiên nhà này cũng đã từng tại kim điện được thụ phong ban thưởng, nhưng đến thế hệ này của viên ngoại gia, sớm đã từ quan không làm nữa, chỉ một lòng lo liệu việc kinh doanh buôn bán. Bởi vì thường nói “từ bất chưởng binh, tình bất lập sự, nghĩa bất lập tài, thiện bất chưởng ấn” (Trans: ý nói người hiền lành không động binh đao, người tình cảm thì không dựng chuyện,... bản tính thế nào thì sẽ không làm việc trái với lương tâm mình.), những người thật sự tốt sẽ không nguyện ý ra làm quan, quan trường sóng gió chìm nổi nhiều sự tình không thể theo ý mình mà làm, không phải vì muốn lương tâm không bị vấy bẩn mà không nguyện ý làm việc xấu thì có thể không làm. Nói tóm lại người này là một người thiện lương từ trong ra ngoài, từ đầu xuống chân, từ tim chạy sang phổi. Bất quá tục ngữ có câu “nhân bất thập toàn”, chớ nhìn viên ngoại gia đã là đại lão gia tiền nhiều vạn quán, bản thân ông ta cũng có sự tình buồn phiền riêng, sự tình đó là gì vậy? Chính là không có con!

Viên ngoại gia trong lòng nói ra: “Bà nói xem ta cũng không làm điều gì thất đức, tu cầu sửa lộ, ăn chay niệm phật, thế nào mà ta lại vẫn không thể có một đứa con? Không nhất thiết phải là con trai, dù cho có là một cô nương đi nữa cũng được rồi! Tại sao đều không có lấy một đứa cơ chứ! Trong nhà không có người nối dõi, sau này ta nhắm mắt xuôi tay, gia nghiệp vĩ đại này biết để cho ai? Bất hiếu hữu tam, vô hậu vi đại (Trans: Trong ba điều bất hiếu, tuyệt hậu không có con là tội lớn nhất.), sau này xuống âm tào địa phủ gặp liệt tổ liệt tông ta biết ăn nói thế nào đây?”

Sau khi nói ra những suy nghĩ lâu nay, trong tim lão đầu như có vết dao cứa, mùi vị đầy tội lỗi. Đôi vợ chồng già ngồi cạnh nhau, cũng không làm gì khác, chỉ biết người này oán hận người kia. Viên ngoại gia nhìn phu nhân đầy chướng mắt, lão phu nhân nhìn viên ngoại gia cũng đầy khó chịu.

Một ngày này viên ngoại gia lại ngồi trong nhà chính mà lắc đầu rồi thở dài, nói với phu nhân: “Bà đừng thấy người ngoài đều gọi ta là đại thiện nhân, thế nhưng cũng có kẻ lén lút nói sau lưng để ta nghe thấy được, bà biết họ nói gì không? Người ta nói ta làm việc thiện để che giấu những tội ác bí mật, người trước người sau đều giống nhau, nói rằng ta làm việc tốt để cho người ngoài nhìn mà thôi, chứ không phải thật tâm thiện lương, nếu thật tâm thì không thể không có con nối dõi. Ta nghĩ trên trời có mắt, thần phật có linh, đáng ra phải cho ta có một đứa con mới đúng, nghĩ đi nghĩ lại, người phải trách chính là mụ già nhà bà, bà xem bà theo ta đã bao nhiêu năm rồi, ta lấy bà về để làm gì? Bà thế nào mãi không chịu đẻ lấy một đứa? Vẫn đừng có nói đến là sinh con trai, bà nghĩ đi, nghĩ cho kĩ đi, theo ta đến tận bây giờ, liền đến một cái rắm cũng không thả ra nổi!”

Viên ngoại gia nói những lời đó, thật khiến phu nhân không thể nghe nổi, tại sao thế? Đánh người đừng đánh mặt, mắng người chớ mắng lâu, phu nhân từ khi vào cửa đến nay chưa từng sinh đẻ được, nên sợ nhất là bị người ngoài nhắc đến chuyện này, ngày thường chúng hạ nhân vô ý nhắc tới đều đủ mất mặt rồi.

Giờ bị viên ngoại gia trước mặt nói ra, sắc mặt lập tức khó coi: “Không có con nhưng ông cũng không thể trách móc đổ tại một mình tôi được! Tục ngữ nói tâm thành ắt linh, để tôi nói cho mà nghe, ông ấy là tâm vẫn chưa thành, phải thắp hương bái phật! Chỉ có một tấm tâm thành mới có thể cảm động trời cao, như thế lão nương nương mới ban tặng cho chúng ta một đứa con!”

Một lời này nói ra cũng chẳng có ý gì, nhưng viên ngoại gia lại cho là thật, ông ta là người gặp núi bái núi, gặp miếu bái miếu, vì cầu lấy một đứa con, sông lớn nào danh sơn nào cũng đều lần lượt đi đến hết, ngay cả Hoa Quả Sơn cũng đến nốt. Lão phu nhân cũng chả khác gì, thấy miếu nhất định phải vào hương khói quỳ lạy, mỗi năm còn bái mấy lượt hương, thế nào gọi là “bái hương”? Kiểu như có một ngôi miếu ở trên núi, lão phu nhân sẽ bắt đầu từ dưới chân núi đi lên, cứ ba bước lại dập đầu một lần thẳng cho đến ngôi miếu. Tiền hương hoả trong miếu cũng chi ra quá là nhiều, dù cho bất luận nói thế nào, tâm đã rất thành. Không hiểu do đôi vợ chồng già tâm thành, hay là gặp đúng dịp, chỉ mới một năm này, quả thật là có một đứa con trai, khiến hai người vui mừng không thôi, mong trăng mong sao, cuối cùng đứa con mong ước bấy lâu cũng đến, lão thiên gia phù hộ, thần phật thật là có mắt.

Hàng xóm láng giềng xung quanh, họ hàng thân thích, bạn bè bốn phương đều đến để chúc mừng, cả nhà viên ngoại gia bày dọn tiệc rượu đãi khách, không dưới một trăm chiếc bàn được xếp thành từng hàng chật kín cả nửa con phố, ba ngày ba đêm cỗ bàn liên tục người đến kẻ đi như nước, không quản là quen biết hay không quen biết, cứ đến chúc mừng vài câu rồi ngồi xuống mà đánh chén, hơn nữa chỉ đãi khách chứ không lấy lễ mừng, lão đạo lẫn hoà thượng đều được mời đến niệm kinh tăng phúc tăng thọ cho thiếu gia, đây thật sự là phô trương quá đi. Viên ngoại gia mãi đến già mới có một đứa con, có thể không để nó lên trước mắt sao? Cầm trong tay thì sợ rơi, ngậm trong miệng thì sợ tan mất, cưng chiều hết mức. Đứa trẻ này muốn cái gì thì sẽ được mua cái đó, muốn ăn gì sẽ được làm cho mà ăn, tóm lại là nó muốn làm cái gì miễn là khiến nó vui vẻ thì thế nào cũng đều được, thật có thể nói là muốn sao được sao muốn trăng được trăng. Vị đại thiếu gia nhà này trưởng thành trong loại điều kiện như này, vậy có thể học hành ra gì không?

Về sau đôi vợ chồng già cũng có thêm hai đứa con nữa, nhưng đều bất ngờ chết yểu, chỉ có đứa con đầu tiên là nuôi dưỡng lớn lên được, lúc lên bảy lên tám có mời một vị tiên sinh về nhà dạy đại thiếu gia đọc sách, nhưng vị đại thiếu gia này là loại nhân tài như nào chứ? Đọc sách viết chữ đều không có hứng, cứ đọc được một chữ lại ngáp một cái, nhắc đến bút với mực là chỉ muốn gục ra bàn mà ngủ, không phải là loại người thích hợp đọc sách. Hai lão nhân gia thì yêu chiều con trai vô cùng, dù sao trong nhà cũng không có gì khác ngoài tiền, không đọc sách thì không đọc sách. Trong nhà có người nói, đại thiếu gia không thích văn vậy không bằng chúng ta thử cho học võ xem? Thường nói “học hội văn võ nghệ, hoá mại đế vương gia” (Trans: Cổ nhân học văn, học võ, gọi thành văn nghệ, võ nghệ. Hoàng đế cổ đại là người thống trị cao nhất lúc bấy giờ. Cả thiên hạ đều do mình ông ta tính toán định đoạt. Mà trên con đường quan lộ, hết thảy cống hiến đều là để phục vụ cho ông ta, thực hiện hệ thống vương quyền của mình - Theo baidu.com), đến lúc cung nâng vạn thạch, mã bộ như tiễn, thuần thục trong tay mười tám loại vũ khí, liền trở thành một thân bản lĩnh đầy mình, rồi sẽ có một ngày tiến vào võ khoa trường, nắm chắc danh đầu võ trạng nguyên, cũng là làm rạng danh quang vinh gia tộc. Viên ngoại gia cảm thấy lời này có lí, lại cho mời đến một vị lão sư chuyên về võ tới dạy cho thiếu gia, nhưng việc luyện võ này so với học chữ còn muốn khó hơn lên trời, miễn cưỡng ngồi trên lưng ngựa được hai ngày, đại thiếu gia đã bị quay cho phát mệt đái cả ra quần, khiến hai vợ chồng xót hết cả ruột vì thương con, vội vàng không bắt nó luyện tập nữa. Văn không thành, võ cũng chẳng xong, vị đại thiếu gia này cả ngày chỉ ăn không ngồi rồi, du thủ du thực, chỉ có một sở thích duy nhất, là gì đây? Chính là thích chơi! Miễn là dính đến chơi, không gì là hắn không biết, từ xách lồng chim đấu dế, đến nghe thuyết sách xem hí kịch tiểu khúc, nói đến đồ vật gì thú vị, chơi như nào mới khoái, hắn hoàn toàn hiểu rõ! Ngắn gọn lại là, thiếu gia một ngày lại một ngày lớn lên, cho đến mười mấy tuổi đầu, rượu chè cờ bạc gái gú bất kể cái gì cũng đã nếm qua và vô cùng thành thạo.

Chỉ một năm này, lão viên ngoại tuổi tác đã cao lại lâm trọng bệnh, cuối cùng đành từ giã cõi trần. Chưa đến hai năm sau, lão phu nhân cũng đi theo chồng sang thế giới bên kia, người trong nhà cử hành đại tang lễ, đại thiếu gia chịu tang thủ hiếu, chúng ta không nhắc đến họ nữa. Hai lão nhân gia đều đã qua đời, đại thiếu gia liền trở thành người đứng đầu gia đình. Hai đời tổ tông chẳng học được mấy chữ, vị đại thiếu gia này cũng không ngoại lệ, nguyên lai là lúc cha mẹ còn tại thế, hắn vẫn chưa dám phóng túng quá mức, bây giờ không có ai quản thúc nữa, rượu chè cờ bạc gái gú ngày càng bê tha hơn trước, thật sự phải gọi là táng gia bại sản. Nếu như nói chỉ có mình hắn ta thì cũng không đến mức miệng ăn núi lở như vậy, nhưng không biết sao hắn lại kết thân với một đám hồ bằng cẩu hữu. Cuộc đời con người ta không có bằng hữu bạn bè thì sẽ gặp rất nhiều khó khăn, vậy phải biết kết giao bạn bè như thế nào chứ, đằng này đám bằng hữu bên cạnh đại thiếu gia, chẳng có lấy người nào là tử tế, cả ngày chỉ thấy tụ tập cùng nhau không ngoài mấy việc là ăn ăn uống uống, đàn đúm sa đoạ.

Từ khi lên làm chủ gia đình, việc trong nhà một chút hắn cũng không quản đến, chỉ lo kéo theo một đám bạn, không phải là đến quán cơm thì là tửu lâu, không ăn thì uống, không đánh bạc thì chính là chơi đĩ, chuyện buôn bán làm ăn của gia đình chưa từng hỏi qua lấy một lần, mặc dù nói là tiêu xài hoang phí, nhưng nhà hắn về cơ bản là có rất nhiều của cải, cũng không đến mức hoang hết sạch được tiền, bất quá nhờ những đám bạn kia của hắn mà thật không chịu nổi! Đám người này chẳng phải thứ tốt đẹp gì, nghĩ ra nhiều cách mới thay hắn tiêu xài gia nghiệp cha ông để lại. Chúng nói như này, lầu xanh mới đến một cô nương không tệ, sinh ra đã khiến hoa hờn nguyệt thẹn, xinh đẹp tựa thần tiên, ngài phải thưởng thức đầu tiên, lúc cô nương ấy còn tươi roi rói, để lâu rồi thì cũng chỉ là hoa tàn mà thôi. Lại nói, tiểu lê viên ở Thập Tự Nhai Nhai mới mời một tiểu đào kép quá tuyệt vời, muốn giọng có giọng, muốn tư thái có tư thái, làm gì có quân tử nào không nuôi dưỡng một hai giai nhân trong nhà, ngài đây là dạng người khiêm tốn (Trans: Khiêm khiêm quân tử - Ý chí những người đạo đức giả), không xun xoe theo đám giai nhân đấy. Còn có kẻ nói, Đắc Nguyệt Lâu nhập từ đông bắc về được mấy con phi long điểu, mùi vị phải nói tuyệt hết chỗ chê, thường nghe “thịt rồng trên trời, thịt lừa dưới đất”, như nào gọi là thịt rồng? Chính là nói đến phi long điểu, chưởng quỹ đặc biệt để lại cho thiếu đông gia hai phần thịt ngon mập nhất. Thêm nữa, Đức Thắng Tường thu về một chiếc mũ hải long, nói rằng khắp vùng này của chúng ta, chỉ có duy nhất một vị có thể đội nó, chính là đại thiếu gia người.

Cứ như thế, chưa qua được mấy năm, gia tài hoàn toàn lụn bại hết sạch, vốn liếng mấy đời tổ tiên tích cóp đã không còn lại gì. Cây đổ thì khỉ tan, đám bằng hữu thường ngày xưng huynh gọi đệ giờ cũng chẳng thấy mặt đâu nữa. Trong nhà bỗng nhiên lại gặp một trận thiên hoả, thế lửa nhờ có gió to mà bùng lên cháy dữ dội, đốt trụi mọi thứ khiến đại trạch giờ biến thành một vùng đất trống. Đại thiếu gia liền một nơi để ở cũng không có, đành phải tìm mấy căn phòng tồi tàn rách nát vô chủ để ở tạm. Nhớ đến khoảng thời gian năm đó có tiền, ra khỏi nhà luôn luôn đều là tiền hô hậu ủng, đến nơi nào cũng có bằng hữu, nhưng họ không phải là vì ngươi mà đến, mà viền túi tiền của ngươi kìa. Nhưng giờ khố rách áo ôm, liền đến một con chuột cũng chả thèm mò đến, thì gọi là gì đây? Chính là “lòng người thay đổi, thói đời đen bạc”. Cổ nhân nói rất hay: “Đi khắp trên trời dưới biển, nhân tâm sao so được với nước chảy dài một đời chung thuỷ. Lần đầu gặp nhau ngọt như mật, lâu ngày tình cảm nhạt đi hỉ biến ưu sầu, phòng trước phòng sau lời nói thị phi. Ân vô tình biến thành oán hận cừu thù. Chỉ nghe kết nghĩa vườn đào, đây mới thật sự là kết giao đến bạc đầu?”

Đã đến nông nỗi này, đại thiếu gia mới biết run rẩy lo sợ, người phải có công ăn việc làm để kiếm sống, nhưng hắn đây cái gì cũng đều không biết không thông, biết làm cái gì mà đổi lấy miếng ăn bây giờ? Trước giờ không học chữ cũng chẳng học nghề, tứ chi yếu đuối lười biếng, ngũ cốc không có phần, bản lĩnh làm sơn tặc cướp tiền cướp của cũng không có, trong khi tiêu tiền như nào thì sành sỏi lắm, thử hỏi xem dạng người như hắn ta giờ bảo làm cái quái gì được bây giờ?

Sau này quả thật sống không nổi nữa, đại thiếu gia nghĩ ra một chiêu! Để nói về vị thiếu gia này, hắn cũng tuyệt không phải là cái gì cũng kém, ngày trước lúc nhà có tiền, hắn rất thích chơi súng, viên ngoại gia chiều con, lúc đó mới nhờ người mua cho hắn một khẩu súng bắn chim hai nòng, súng bắn chim hồi ấy toàn là lắp thuộc súng trước rồi lên nòng, chỉ có thể bắn phát một rồi lại phải nhồi thuốc. Súng của hắn cũng là loại lắp đạn rồi mới bắn, nhưng mà lại có thể bắn được hai viên cùng lúc, tầm bắn cũng xa, trang bị của cấm vệ quân quân bên cạnh lão gia tử hoàng đế bất quá cũng chỉ đến thế mà thôi. Vậy lúc đó dù nhà viên ngoại gia còn có tiền, nói mua súng là có thể mua được sao? Thực ra lão thời điểm năm đó cấu kết với quan thương, không có sự tình gì là không giải quyết được, mua một khẩu súng há lại chẳng phải chuyện dễ dàng? Vị đại thiếu gia liền hay dẫn theo đám bạn hồ bằng cẩu hữu đi săn, còn chưa nói, tiểu tử này thật sự là mấy phần năng lực, càng ngày trình độ càng lên tay, kĩ thuật bắn súng phải gọi là rất chuẩn. Đặc biệt rất giỏi săn thỏ, thỏ ở mấy khu đất hoang đều bị hắn săn hết sạch, khỏi phải nói bầy thỏ sợ hắn như nào, chỉ cần thấy hắn là chúng bốn chân run lên cầm cập. Sau khi gia sản lụn bại, cuối cùng rơi vào cảnh nghèo rớt mồng tơi, đồ vật nào có thể mang đi cầm cố là hắn mang đi hết, chỉ có mỗi khẩu súng chim này là không bán bỏ được, hắn lại tiếp tục đi săn, xách theo súng chim cùng bình thuốc, chui vào cánh rừng già trên núi. Cứ săn được hai con thỏ thì lưu lại một con còn một con mang đi bán, cũng kiếm được chút tiền gọi là đủ mua rượu mua gạo, những con để lại thì lột bỏ da rồi ăn phần thịt, da thỏ cũng có thể bán được vài phân tiền. May mắn thay hắn cũng là kẻ có chút thông minh, tự mình ăn no, cả nhà cũng không bị chết đói, dựa vào cây súng bắn chim đối phó với chuyện ăn uống của một người hắn cũng không thành vấn đề. Nhưng hắn là người đã quen xài nhiều tiền, chưa được mấy ngày, hắn đã bắn cả hoẵng, săn thỏ rừng để bán được nhiều tiền hơn, đối với hắn mà nói việc đi săn này giống như uống một ấm trà mà thôi, chốc lát là đã xong. Đi săn suy cho cùng vẫn là phải xem sắc trời mà ăn cơm, cũng có lúc cả ngày công cốc chẳng săn được gì, vậy đành phải chịu đói thôi.

Nghe kể rằng có một ngày, khi gần đến Tết Trùng Dương (Trans: Tết Trùng Dương hoặc Tết Trùng Cửu, diễn ra vào ngày 9/9 âm lịch. Người xưa cho rằng số 9 là số dương nên 9/9 gọi là trùng dương), trời nổi gió hanh, cỏ cây khô kiệt, chính là thời điểm thích hợp nhất để đi săn. Đại thiếu gia giống như mọi ngày, mặt trời lên cao đến ba con sào thì mới từ trong chăn bò ra, bao tử trống rỗng, đói đến dính cả da bụng với da lưng lại với nhau, trên trời lấy đâu ra bánh bao nóng hổi rơi xuống tận mồm, muốn ăn cơm thì vẫn phải tự ra ngoài mà kiếm cái ăn, thế là hắn lại xách theo súng chim, hướng lên trên núi mà đi. Ngọn núi mà hắn đi đến, tên tục thường hay gọi là Lão Thử Lĩnh! Người ngoài chưa từng nghe biết đến địa danh này, thông thường sẽ cho rằng: đã gọi là Lão Thử Lĩnh, chắc chắn có rất nhiều chuột, hoặc là sơn lĩnh này nhìn trông tương tự như một con chuột khổng lồ. Thực ra hoàn toàn không phải vậy, ngày xưa, Lão Thử Lĩnh thường ngày hay có bọn trộm mộ qua lại. Bọn chúng đào khoét khắp nơi, tạo ra nhiều hang động lẫn thông đạo, nên thường hay bị gọi thành “chuột đất”. Làm cái nghề này, tốt nhất là phụ tử huynh đệ, hoặc chí ít cũng phải là họ hàng đồng tông đồng tộc, để đề phòng có người khi thấy tiền tài báu vật nổi lòng tham, từ phía sau đâm dao chọc lén. Nghe nói rằng ở trong sơn lĩnh này có một tòa cổ mộ, không rõ là mộ của triều đại nào, thời kì nào, chỉ biết là rất lớn, việc này kéo theo rất nhiều chuột đất đến, không biết có bao nhiêu đạo động đã bị đào ra trên ngọn núi này, dần dà khiến cho sơn lĩnh bị đào đến rỗng cả ruột, minh khí tùy táng trong mộ cũng đều bị móc đi hết, cho nên vì thế người dân bản địa mới gọi nên này là Lão Thử Lĩnh.

Đại thiếu gia ở trên núi cả nửa ngày trời, đến một cái lông chim cũng không thấy, vốn nghĩ rằng lại phải tay không trở về, đúng vào lúc này, bao tử không chịu nổi nữa, quặn lên từng cơn khiến hắn bật cả dậy, đành phải chui vào bụi cỏ dại, cởi quần ra siêu độ cho đống ngũ cốc trong bụng được luân hồi (Trans: Tức là đi ị ý =)))). Thời đại ấy không có quá nhiều chú trọng, có tiền thì dùng lụa chùi, thấp hơn chút thì dùng giấy bồi, còn người nghèo thì chỉ cần lấy mảnh lá cây cọ cọ hai cái là xong, hoặc là tìm một góc tường nào đấy rồi giơ mông lên mà quệt vài cái, thế nào cũng đều có thể đối phó được hết. Vị đại thiếu gia này, đã nghèo đến mức không thể nghèo hơn, nhưng vẫn rất chú ý đến việc vệ sinh này, vội vàng móc ra từ trong ngực mấy tờ giấy bồi, chỉ thấy hắn “chân giẫm đôi bờ Hoàng Hà, tay cầm tài liệu bí mật, trước mặt súng máy bắn phá, đằng sau lửa đạn liên miên” (Trans: Là một câu đố của Trung Quốc, chỉ việc đi vệ sinh hai chân phải dạng ra, tay cầm giấy chùi, còn lại các bạn tự hiểu =)))), ở trên hoang sơn dã lĩnh phóng ra một đống lớn, bất ngờ “nỗi buồn” trong lòng được giải quyết, hắn cảm thán mở mồm ra nghêu ngao khúc “Thán Ngũ Canh”. Tục ngữ nói rất hay “Nữ sầu cuồng, nam sầu xướng” (Trans: Con gái khi buồn thì hay đi chơi để giải khuây, còn con trai buồn thì lại hay hát cho vơi nỗi lòng), từ xưa đến nay, đàn ông dễ gì mở miệng ra hát, đang yên đang lành bỗng nhiên xướng lên hai ba câu vu vơ, vậy là do trong lòng có nỗi sầu nỗi khổ không thể nói ra. Đại thiếu gia hắn cũng có nồi sầu, nhớ về trước kia quần áo dâng đến tận tay, cơm đưa đến tận mồm, cuộc sống hàng ngày trôi qua sung sướng nhường nào? Bây giờ sa sút đến hoàn cảnh thê lương như này, trong nhà “bốn cái bát vỡ, ba cái trống không, áo quần không có đón gió đông”, quanh đi quẩn lại bữa no bữa đói, khi nào mới thoát khỏi những ngày như này? Không sợ trước bần sau phú, chỉ sợ trước phú sau bần, cứ loanh quanh luẩn quẩn mãi cái kiểu này, còn không bằng nhổ phứt trong đũng quần ra một túm lông treo cổ chết cho rồi! Đại thiếu gia cảm thán một hồi, lại nghĩ cứ u sầu mãi thì cũng vô dụng, cứ u u mê mê còn khổ hơn là chết, không bằng xuống dưới núi lừa một nhà đại hộ nào đó, đối phó kiếm lấy vài đồng bạc, rồi tìm lấy một quán thuốc hảo hảo vào làm hai điếu, đấy mới là cách tốt nhất! Vừa nghĩ đến hút thuốc, xương cốt trong người hắn cứ phải gọi là ngứa hết cả lên, hồi còn có tiền, trong quán thuốc hắn còn có hẳn một phòng riêng, không cần biết hắn đi hay ở, người ngoài đều không được dùng phòng đó, quanh năm suốt tháng căn phòng chỉ có duy nhất một người là hắn lưu lại, tẩu thuốc, cao thuốc, bình trà, bát trà, đến cả chăn gối giường chiếu đều là đồ chuyên dụng dành riêng cho mình hắn, chỉ có độc một tiểu nha hoàn xinh đẹp nhất của thuốc quán phục vụ, giúp hắn châm thuốc thay nước, thỉnh thoảng gảy tì bà, xướng vài tiểu khúc. Đại thiếu gia chỉ việc nằm nghiêng mình mà hưởng thụ, hít một hơi thuốc, nhả một làn khói, thần trí phê pha như si dại đi, đó là những ngày sung sướng như nào chứ? Thần tiên trên trời bất quá cũng chỉ đến như thế mà thôi. Hắn ngồi chồm hỗm, chính lúc cơn nghiện thuốc đang dâng trào thì bỗng nghe thấy bụi cỏ hoang phía trước phát ra từng trận âm thanh “xi xi su su” đầy kì quái.

Khi đi săn chỉ cần nhìn thấy bụi cỏ chớp động, nhãn cầu sẽ lập tức mở to quan sát! Hắn vội đến nỗi không kịp kéo quần lên, một tay gạt đám loạn cỏ trước mặt, một tay cầm lấy súng chim, lặng lẽ thò đầu ra, nhìn về phía trước, chỉ thấy một con tiểu hồ ly, đang từ trong đám cỏ chui ra, gần như đụng phải miệng súng của hắn. Đại thiếu gia vừa kinh ngạc lại vừa mừng rỡ, thường ngày lên Lão Thử Lĩnh săn bắn rất ít khi thấy qua mấy loại hồ ly, da hồ ly đương nhiên có giá trị hơn da thỏ gấp mấy lần! Khó săn được nhất cũng chính là hồ ly, bởi vì bọn chúng rất giảo hoạt, từ xa xa phát hiện có người sắp đi qua, đợi đến khi lên được đến trên núi là chúng đã sớm chạy trốn từ lâu rồi, kể cả là đào hố đặt bẫy cũng vô dụng, hồ ly không dễ bị mắc lừa. Ngay cả khi vận khí tốt, bỗng nhiên bắt gặp hồ ly ở gần cũng rất khó để bắt được, một khi bắt không chuẩn rất dễ làm hỏng bộ lông, lúc đó bán cũng chẳng đáng được mấy tiền nữa.

Không thể để đánh mất cơ hội có một không hai này, đại thiếu gia căn bản không có nhiều thời gian để suy nghĩ, trong lòng chỉ kêu lên một tiếng “tốt”, đợi nghĩ cho kỹ thì gạo cũng nấu chín thành cơm rồi! Đoạn hắn nâng khẩu súng bắn chim hai nòng lên, ngắm thẳng vào mắt con hồ ly, ngón tay cài sẵn vào cò súng. Tại sao phải bắn vào mắt? Những tay thợ săn lão luyện mới dám dùng cách này, người trong nghề gọi là “đối nhãn xuyên”, viên đạn bay ra găm thẳng vào nhãn cầu, con hồ ly sẽ chết tươi đành đạch, bộ lông sẽ không bị chút tổn hại nào.

Lúc ấy đột nhiên có người bên cạnh kêu lên: “Đừng bắn!”

Đại thiếu gia chính lúc đang hết sức chăm chú tập trung để chuẩn bị bắt con hồ ly, bất thình lình nghe thấy từ đâu truyền đến một câu này, bị doạ cho tụt hẳn cả quần xuống đất, “lão nhị” tơ hơ như muốn sổ lồng tung bay, vội vàng ngoảnh đầu lại nhìn. Thì ra là một lão đầu với khuôn mặt trắng bóng cùng chòm râu dê, tuổi trên 60, tóc và râu đều bạc phơ hết cả, trên mặt không có một chút nếp nhăn nào hết, tuy già nhưng trông rất tráng kiện, mặc một kiện trường bào màu xám tro, không biết từ khi nào đã đứng phía sau đại thiếu gia, nửa điểm động tĩnh cũng không có.

Đại thiếu gia cau có nói: “Đại gia à đừng có làm phiền thằng này thế chứ, ta đây là đang săn thú đó chứ có phải chơi đâu!”

Lão đầu nói với: “Đừng bắt nó, người nhìn xem nó trông rất đáng thương phải không?”

Nói xong liền giơ tay lên chỉ về phía trước, đại thiếu gia cũng quay mặt về phía đó nhìn, con hồ ly đó không hề chạy trốn, chân sau quỳ trên đất, hai vuốt trước giơ lên, ngay ngắn chắp tay cúi người lạy hắn. Hắn bị doạ thất kinh ngay tại chỗ, không nói nên lời, bỗng chợt nhớ đến cái quần vẫn còn chưa được kéo lên, vội vàng cúi đầu kéo quần, vừa ngẩng đầu lại lên, con hồ ly ban nãy đã không thấy đâu nữa rồi. Đại thiếu gia bụng tức anh ách nhưng lại không dễ gì phát tác, oán hận lão đầu kia là đồ lắm chuyện kì đà cản mũi: “Con hồ lý đó đáng thương, còn ta thì không sao? Hôm nay để nó thoát được là ta sẽ không có cơm mà ăn đâuuu!”

Lão đầu hơi cười, nói: “Đói không chết được ngươi, ngươi bắt nó đi…”

Chưa nói xong lại liền giơ tay chỉ một cái. Đại thiếu gia bèn nhìn theo hướng tay lão đầu vừa chỉ, trong đám loạn cỏ xuất hiện hai con gà rừng, vội vàng kéo cò súng. Cây súng bắn chim của hắn có hai nòng, “pằng pằng” hai phát, bắn hạ cả hai con. Như vậy là hôm nay không lo không có cơm mà ăn rồi. Hắn đeo súng chim, mỗi tay xách một con gà rừng, cảm ơn lão đầu rồi khẽ ngâm nga vài câu sơn ca, vui vẻ xuống núi. Một con để bán lấy tiền, đổi lấy chút cao lương, con còn lại thì lấy bùn vàng đắp rồi nướng lên, quai hàm liên tục nhai nhồm nhoàm vừa ăn vừa uống, thoả mãn cơn đói khát, cũng gọi là đối phó qua được một ngày. Từ đó hắn dựa vào lên núi săn bắn, có lúc săn được thứ gì đó, cũng có khi lại phải về tay không. Nói ra cũng kì lạ, chỉ cần hôm nào hắn không săn được gì, lão đầu ngày ấy sẽ xuất hiện, chỉ điểm cho đại thiếu gia, hoặc đi đến phía Đông hoặc đi về phía Tây. Đại thiếu gia án theo sự chỉ điểm của lão đầu, lần nào cũng trúng, mỗi lần đều có thể săn được một, hai con thú. Hắn đối với lão đầu có thể nói là tâm phục khẩu phục, ngoài ra còn có mấy phần bái phục, cho rằng lão đầu cũng là người trong nghề, là một lão thợ săn thường xuyên săn bắn ở vùng núi này. Hỏi lão đầu họ gì tên gì, lão đều lắc đầu không nói, đại thiếu gia đành gọi là đại gia cho tương xứng.

Có một ngày, đại thiếu gia hắn lại lên “Lão Thử Lĩnh” săn bắn, một ngày dài trôi qua, không kiếm được bất cứ thứ gì cả, cũng không thấy lão đầu đâu, đại thiếu gia trong lòng bồn chồn: “Sao lão đầu còn chưa tới? Một ngày không thấy ông ta, cũng có chút nhớ a!”

Không được lão đầu chỉ điểm cho, đại thiếu gia không tránh khỏi tay không mà quay về, lại phải chịu đói một ngày, lại một ngày nữa qua đi, vẫn không thấy tung tích của lão đầu. Hắn liền đến một cái lông thỏ cũng không bắt được, trong lòng có chút lo lắng sốt ruột. Hai ngày liền phải chịu đựng cơn đói, mắt hắn xanh cả lên, đành xách súng chim lên núi, Đông một đầu, Tây một đầu, cắm mặt xuống đất mà sục sạo khắp nơi. Bỗng hắn vô tình ngẩng đầu lên, bắt gặp lão đầu đang ở ngay phía trước, hắn như mở cờ trong bụng!

Vội vàng chạy qua, chắp tay thi lễ: “Đại gia, hôm nay người bảo ta nên đi săn hướng nào đây?”

Lão đầu chỉ điểm giúp hắn bắt được hai con thỏ rừng, lại hỏi hắn một câu: “Ngươi có dám đi săn một thứ cho ta không?”

Đại thiếu gia đáp: “Ta có gì mà không dám chứ? Chỉ cần là đại gia ngài nói, ta không hề sợ gì hết!”

Lão đầu nói: “Con trai, ta nói thật cho người biết, ta tìm ngươi, một là thấy kỹ thuật bắn súng của ngươi rất tốt, hai là bát tự người trong gia đình các người miễn cưỡng gọi là đạt điều kiện của ta. Ngươi nếu như nghe theo ta, từ nay về sau ăn uống không cần phải lo nghĩ gì hết.”

Đại thiếu gia nghe thấy những lời này, hai mắt đều trợn trừng cả lên, lập tức vỗ ngực phát thệ, tất cả đều nghe theo sự phân phó của lão đầu.

Lão đầu không gấp không vội, nói: “Ta cho người một chiếc túi da hươu, hôm nay lúc nửa đêm, ngươi mang theo cái túi đấy và khẩu súng chim, trốn trong đám cỏ đừng có để lộ, cho đến khi nào trên trời không còn ánh trăng, một lát sau sẽ có hai ngọn đèn trên núi xuất hiện, ngọn đèn màu vàng phía trước ngươi đừng đụng đến, hãy đợi ngọn đèn màu đèn phía sau bay qua, ngươi hãy ngắm thẳng vào ngọn hắc đăng đó mà bắn! Hãy nhét sẵn đầy thuốc vào, súng của ngươi không phải là có hai cái nòng sao? Hai nòng mà còn không bắn trúng, sau này ngươi cũng không có cơ hội thứ hai! Bất kể bắn phải cái gì ngươi cũng đừng sợ, một khi đã bắn trúng, lập tức tranh thủ thời gian chạy qua, dùng cái túi da hươu này nhét thứ đó vào, rồi mang về trong nhà ngươi, chôn ở góc Đông Nam, rồi đắp lên bảy khối gạch mộ, nhưng chớ có mở ra xem trộm!”

Đại thiếu gia càng nghe càng cảm thấy kỳ quái, hỏi lão đầu: “Đến khi nào ta mới có thể mở ra xem thử?”

Lão đầu cảnh báo đại thiếu gia: “Cả đời ngươi cũng không được phép nhìn, ngươi trước đừng hỏi nhiều, mặt trời rất nhanh sẽ xuống núi, tìm nơi ẩn nấp nhanh lên!”

Đại thiếu gia tin rằng lão đầu nhất định sẽ không sai. Hắn xách con thỏ cùng khẩu súng chim lên, tìm một nơi có đám cỏ cao, chui vào đó nấp. Ngày hôm đó chính là ngày 15 âm lịch, một vầng trăng tròn sáng rõ treo trên cao, trên Lão Thử Lĩnh, tất cả âm thanh ban ngày giờ đây đều trở nên yên tĩnh.

Đại thiếu gia trong lòng như tội phạm, cứ tự thì thầm: “Đại gia hù ta sao? Hôm nay vừa vặn là ngày rằm, ánh trăng vừa to lại vừa tròn, tại sao lại nói với ta là không có ánh trăng?”

Hắn vừa đói vừa khát, nghĩ qua nghĩ lại một hồi rồi ngủ thiếp đi mất, đến lúc canh ba, bất ngờ nổi lên một trận gió, khiến toàn thân hắn phát lạnh, bỗng cảm thấy kinh ngạc, mở to mắt ra nhìn, gió thổi trăng lạc, trên núi đã tối đến mức chìa tay ra cũng không thấy năm ngón đâu, chỉ nghe thấy lá cây cùng đám cỏ bị gió thổi phát ra từng tiếng “xào xạc”. Đến lúc này hắn mới cảm thấy một nỗi sợ bùng lên trong lòng, nửa đêm gà gáy, ánh đèn trên núi sẽ là của cái gì đây? Hắn bán tín bán nghi, lại sợ nháy mắt một cái sẽ không thấy nơi có ánh đèn đâu, nên đành mở to hai mắt, một chút cũng không dám nháy. Ngay lúc ấy, một trận cuồng phong lại nổi lên, trong nháy mắt đại thụ cúi đầu, tiểu thụ khom lưng, gió càng thổi càng lớn, long trời lở đất, đất đá mù trời, thú vật trong núi chạy loạn, hổ gầm sói hú, khắp nơi rối loạn, thật đúng là người sợ nhà đổ, chim sợ tổ rơi! Đại thiếu gia chừng này tuổi cũng chưa thấy qua trận gió nào lớn như thế này, thổi to đến nỗi khiến cho người ta đứng cũng không vững, thật có thể gọi là “vô hình vô ảnh hàn thấu cốt, hốt lai hốt khứ lãnh xâm phu; nhã phi địa phủ ma vương khiếu, định thị sơn trung quỷ quái hô” (Trans: Dịch nghĩa tức là không hình không bóng mà làm người ta lạnh thấu xương, từng cơn từng cơn khẽ vờn qua da; trừ phi đấy là tiếng gọi của ma vương nơi địa phủ gọi ngươi xuống chịu tội, còn nếu không thì đích thị là do tiếng thở của quỷ núi gây ra). Đừng nhìn cơn gió to như thế, hắn thế nhưng cũng không dám nhắm mắt, hai mắt híp lại nhìn lên trên núi, từ Đông sang Tây xuất hiện hai ngọn đèn bay nhanh như tên bắn đến!

Hai ngọn đèn treo giữa trời cao, một ngọn hắc đăng, một ngọn hoàng đăng, hoàng đăng ở phía trước còn hắc đăng ở phía sau. Phải nói nửa đêm trời tối đen như mực, lại không có ánh trăng, làm sao lại nhìn ra là ngọn hắc đăng? Thực ra hoàng đăng cùng hắc đăng giống như hai đoàn quỷ hoả đầy u ám, một cái toả ra khói vàng, một cái toả ra khói đen, tốc độ rất nhanh, nói đến là đến, một chút âm thanh cũng không có. Đợi đến lúc tinh thần đại thiếu gia tỉnh táo trở lại, hoàng đăng đã bay vụt qua đầu hắn, hắc đăng còn chút nữa cũng bay qua. Đại thiếu gia không dám chậm trễ, thuốc đã sớm được nhét đầy trong nòng, giương súng ngắm lên trên trời đồng thời khai hoả, “pằng” một tiếng, khói thuốc súng cũng bay ra mù mịt. Bất quá thứ nhất là hắn đang rất sợ hãi, thứ hai là chưa có gì bỏ vào bụng, lại phải chui rúc trong đám loạn cỏ cả nửa đêm, nên chân tay mềm oặt đi, phát súng này bắn ra rõ ràng là không trúng đích. Đại thiếu gia bắn phát này trúng vào không trung, hắc đăng tựa hồ như bị làm cho kinh động, lắc qua lắc lại hai cái, mắt thấy nó như đang muốn hướng xuống phía dưới núi mà biến mất. Đại thiếu gia nhớ đến lời lão đầu nói, cây súng bắn chim này của hắn có hai nòng mà còn không bắn trúng, đồng nghĩa với việc hắn cũng không còn cơ hội thứ hai, nói thì chậm nhưng mọi việc diễn ra rất nhanh, hắn một mắt nhắm một mắt mở, ngón tay ngoắc vào cò súng, nhắm thẳng vào hắc đăng bóp cò. Phát súng này vừa bắn ra, hắc đăng lập tức tắt ngóm, một vật gì đó hình tròn đen thùi lụi rơi xuống xuống ngay phía trước đại thiếu gia. Hắn liền vội vàng mở rộng cái túi da hươu rồi nhảy bổ ra, chụp lấy thứ đó tóm vào trong túi, buộc chặt lại, trời tối om om, hắn căn bản không nhìn ra đây là thứ quái quỷ gì, nhưng lại thấy nó nặng trình trịch, nằm im bất động trong túi.

Đại thiếu gia án theo lời lão đầu đã dặn, đeo súng chim cùng cái túi da hươu lên vai, xách theo mấy con thỏ mà lúc sáng săn được, chân thấp chân cao lần mò rời khỏi Lão Thử Lĩnh. Về đến nhà không làm gì khác, hắn trước tiên mổ bụng lột da con thỏ săn được, cũng không nhìn xem nấu như nào mới ngon, trực tiếp ném tọt vào nồi nước, rắc lên một chút muối, trước luộc lấy một nồi canh thịt thỏ, cúng cụ dạ dày đã. Ăn no thịt, uống no canh, lúc này mới tạm gọi là yên ổn cái bụng. Trước kia lão đầu từng dặn dò đại thiếu gia, sau khi bắn rụng được hắc đăng phải nhét ngay vào túi da hươu, không những thế còn không được mở ra xem, lại phải chôn xuống góc Đông Nam nhà hắn, đắp lên bảy tấm gạch mộ. Nhưng mà đại thiếu gia ăn no xong thì toàn thân mệt rã rời, lại thêm bị doạ một trận quả thật không nhẹ, hắn giờ mệt đến nỗi chẳng muốn động đậy nữa, thuận tay ném cái túi da hươu nhét xuống dưới giường. Hắn là một kẻ vô tâm vô phế, hôm sau liền như quên hết tất cả mọi chuyện. Từ đấy về sau, hắn không bao giờ gặp lại lão đầu kia nữa, nhưng hằng ngày vẫn lên núi săn bắn, trình độ bắn súng chưa hề giảm, được hôm gặp may thì săn được cả hươu lẫn lợn rừng, phải hôm vận khí hơi xấu thì cũng vẫn có thể kiếm được một hai con gà rừng.

Tạm gác chuyện đại thiếu gia lên núi săn bắn không đề cập đến nữa, lại nói năm đó có một tên “chuột đất”, chính là một tay giang hồ thuật sĩ, tà đạo trung nhân, bình thường hay cải trang thành hỏa cư đạo, hằng ngày vẽ âm dương bát quái kiếm sống. Vẽ âm dương bát quái là làm cái gì? Ngày nay không còn có mấy ai ăn bát cơm này nữa, mà là từ rất lâu trước kia, có một nhánh chính của Hỏa Cư Đạo Nhân phái, chuyên ở trong mộ phần vẽ bát quái. Nhà nào có người chết, trước khi nâng quan hạ huyệt, nhất định phải mời đến một vị hỏa cư đạo, ở trong hầm mộ dùng đào mộc kiếm đã tẩm chu sa, vẽ lên một đạo âm dương bát quái phù. Có người nói như này thì khi người chết sau khi xuống dưới âm ty địa phủ, gặp diêm vương gia, sẽ không bị tra hỏi tội ở trần gian nữa. Bát quái trong mộ phần cũng là một loại trấn vật nhằm đề phòng việc bị trùng tang, cùng một nhà trong vòng 100 ngày có hai người chết liền nhau, đấy gọi trùng tang. Có mộ đặt vào đó một tấm gương, có mộ lại là một bức họa bát quái, nói chung đều được coi là trấn vật trong mộ cả.

Vị hỏa cư đạo chuyên vẽ âm dương bát quái này, tuy rằng là theo Đạo Lão nhưng tuổi lại không hề cao, cùng lắm chỉ tầm 30 tuổi trở lại, tướng mạo sinh cơ rất tốt, người xưa hay nói “nam sinh nữ tướng”, mi thanh mục tú, răng trắng môi hồng, trên đầu đội âm dương đạo quan, dưới chân đạp vân hài thuỷ vát, trên người khoác lên bát quái tiên y, trong tay vẫy phất trần đuôi ngựa, mang theo một thanh đào mộc bảo kiếm, cũng thật là có mấy phần tiên phong đạo cốt. Đừng nhìn lão đạo trưởng này trông có vẻ tốt, thực ra hắn chuyên làm việc mờ ám, toàn dựa vào hoá trang mà đi lừa người, Đông giả danh một người, Tây lại giả danh một người khác, cứ nơi nào có người chết, hắn lại đến nơi đó vẽ cho nhà đấy một bức âm dương bát quái; thấy nhà ai làm hậu táng (Trans: Đám ma lớn, trọng thể, chỉ các nhà giàu mới làm được), người nhà chân trước vừa mới hạ quan tài chôn xuống, hắn liền chân sau lén lút đào lên trộm lấy tiền vật tuỳ táng trong mộ. Người này mặc dù sử dụng các loại mánh khoé làm tổn hại âm đức, nhưng mà lại có đạo nhãn, rất giỏi nhìn nhận khí tức. Có một ngày từ dưới núi đi qua, nhìn thấy trong nhà đại thiếu gia có một thứ đồ vật, bèn tìm cách đến cửa, tuyên bố rằng muốn hàng yêu tróc quái đang ẩn nấp trong nhà đại thiếu gia!

Đại thiếu gia bị hắn nhiều khiến cho đầu bốc đầy khói, thật lòng nói ta nghèo đến mức chỉ còn có đúng bốn bức tường, đến chuột còn chán chẳng thèm mò đến thì lấy đâu ra yêu quái đây? Hoả cư đạo cũng không thèm để ý đến đại thiếu gia, cúi đầu đi thẳng vào trong nhà tìm Đông kiếm Tây, từ dưới gầm giường lôi ra một cái túi da hươu. Đại thiếu gia giờ mới nhớ đến cái túi da hươu không được phép mở, chính lúc hắn đang cố ngăn lại, không biết tại sao hoả cư đạo ra tay rất nhanh, đã mở được cái túi ra rồi. Đại thiếu gia cúi đầu xuống nhìn vào trong túi, bên trong chính là một con huyền hồ (Trans: Hồ ly màu đen). Huyền hay hắc cũng thế, huyền hồ cũng là hắc hồ. Thì ra hắc đăng trước kia hắn bắt được lại là thứ này, từ lúc hắn ở trên núi bắn hạ hắc hồ, lại nhét vào trong túi vứt xuống dưới gầm giường, đã không biết qua bao nhiều năm rồi, con hắc hồ thế mà trông như vừa mới chết mà thôi, toàn thân sờ vào hãy còn mềm.

Hoả cư đạo chỉ vào hắc hồ, nói: “Đây chính là yêu tà, ta phải trừ bỏ nó!”

Đại thiếu gia thế nhưng không phải kẻ ngu ngơ: “Khỏi cần giả bộ như thế, ta không phải một đứa trẻ.”

Hoả cư đạo nói: “Ta thay trời hành đạo, không thu lấy một đồng, chỉ xin lấy bộ da của yêu nghiệt đã chết!”

Đổi thành người khác có lẽ đã bị tên hoả cư đạo hù cho phát rét, nhưng chớ nhìn đại thiếu gia ngày thường bất điều, tốt xấu gì thì hắn cũng là xuất thân từ gia đình đại hộ, ăn qua bao thứ, thấy qua bao điều, huống hồ nhà hắn hồi đó cũng nhờ việc vận chuyển da hồ ly mà trở nên phát tài. Trước kia từ rất sớm, tổ thượng hắn chính là thợ săn, có biệt tài săn hồ ly nổi tiếng khắp bốn phương, mà hồi đó không có săn bằng súng bắn chim, hoàn toàn dựa vào bẫy kẹp, phóng diều hâu thả chó săn, lại không phải là dùng cung tên bắn. Có một mùa đông năm nào đó, bắt được một con bạch hồ, da của nó lại được gọi là “thảo thượng sương”, cực kì là hiếm thấy. Bởi vì loài hồ ly này hành động vô cùng nhanh, khi nó chạy giống như là đạp gió mà đi, dân gian bởi thế còn gọi nó là phi hồ. Sương là ý chỉ bộ lông trắng muốt từ đầu đến chân của nó, không có một chút tạp mao nào cả. Phi hồ bình thường dáng vóc đều không lớn, lão hồ trưởng thành thì cũng chỉ dài đến 2 xích là cùng (Trans: Đơn vị đo Trung Quốc, 1 xích = ⅓ m), một tấm da vừa đủ để làm được một chiếc khăn quàng cổ. Mà con phi hồ gia tổ hắn săn được lại dài 4 xích có dư, cơ thể béo khoẻ cảm giác rất cường trường, toàn thân trắng muốt, duy chỉ có cái mõm là một màu đen, mê tín mà nói, hồ ly chỉ cần mõm màu đen, đó chính là đã sống lâu năm sắp hoá thành tinh. Hơn nữa lại nói, lúc đó lại đúng tầm tam cửu (Trans: “Tam cửu” là chỉ chín ngày thứ 3 sau Lập đông, vào khoảng trung hoặc hạ tuần tháng giêng, là thời điểm lạnh nhất của mùa đông theo như dân gian Trung Quốc), chính là thời điểm da lông trong tràn thái tốt nhất. Tổ tiên nhà hắn biết được đó đích thị là một bảo bối, trăm phương ngàn kế, dùng mọi cách, nhờ cậy mọi mối quan hệ để tìm người mang tấm da bạch hồ nhập cung, dâng tặng lên hoàng đế đương triều.

Có người sẽ hỏi: “Dâng thẳng lên hoàng thượng là được, sao lại phải vất vả tốn công tìm người khác dâng hộ?”

Bạn đừng quên đây là thời kì nào, quá khứ có nguyên tắc của quá khứ — trên người không có công danh thì sẽ không thể nào được lên kim điện diện kiến vua, đừng nói lão bách tính bình thường, quan lại dưới ngũ phẩm, nếu như không có lệnh triệu kiến đặc biệt thì cũng không được phép lên điện diện vua. Hoàng thượng gia có thật nhiều nghiêm tắc a! Ở trên kim điện muốn ngẩng đầu lên hé dù chỉ là một con mắt nhìn trộm hoàng thượng đều không được, ngẩng đầu nhìn Thiên tử chính là khi quân phạm thượng, sẽ bị ném ra Ngọ Môn chém đầu thị chúng. Vậy mới nói lão bách tính muốn diện kiến hoàng thượng đã khó còn thêm khó, ngươi nói là dâng bảo, kỳ thực là có ý định lên điện hành thích hoàng thượng thì sao? Ai dám gánh lấy trách nhiệm cho ngươi đây? Vì vậy ban đầu phải biếu quà biếu bạc từng tầng từng lớp quan lại, cuối cùng mọi quan hệ đều được đả thông, rồi lại đến Lễ Bộ Diễn Lễ, dạy ngươi khi lên điện phải bái như nào, quỳ như nào, nói như nào, như thế xong xuôi mới có cơ hội lên điện vàng dâng bảo.

Người xưa nói rất hay — phổ thiên chi thổ mạc phi quân thổ, suất thổ chi tân mạc phi quân thần (Trans: Ý nói tất cả đất đai đều là của vua, tất cả các nước xung quanh đều là chư thần, vua nắm trong tay mọi thứ trên đời), hoàng thượng có đồ vật gì mà chưa thấy qua bao giờ chứ, chưa kể đến còn có quan lại Nam thất Bắc lục danh tỉnh cùng phiên bang lân quốc cống nạp, chỉ nói riêng trong hoàng cung đã có Tạo Biện Xử, với nhiệm vụ chuyên môn tận lực tìm mọi biện pháp vì hoàng thượng lão gia tử mà sưu tập hết thảy kỳ trân dị bảo trong thiên hạ. San hô hình chạc cây xếp thành từng hàng, ngọc bích tựa cải trắng đặt thành từng chồng, dạ minh châu cỡ quả trứng gà to cũng được đặt trong từng giỏ, vậy mà trong mắt hoàng thượng cũng chẳng là gì, một tấm da hồ ly thì có giá trị cỡ nào cơ chứ? Nhưng gia tổ hắn trong lòng đã có dự tính trước, bởi vì ngoài việc chống rét giữ ấm, còn có một tác dụng khác, ví dụ như nếu có thích khách tiếp cận, vốn ban đầu da lông hồ ly rất mềm mại lúc này sẽ dựng đứng lên, tục ngữ có câu “công cao mạt quá hộ cứu chủ, kế ngoan mạt quá tuyệt lương”, nói hơi quá một chút, thật đến lúc sống còn, tấm da hồ ly này có thể cứu lấy mạng hoàng thượng. Lại thêm vị đại quan đã được mua chuộc này tâng bốc thêm, nói rằng bách tính dân đen đều tâm tâm niệm niệm một lòng lo cho an nguy của Thiên tử, giang sơn cơ nghiệp không có người thì sẽ ra sao. Hoàng thượng nghe những lời nịnh nọt này, trên kim điện long nhan đại hỉ, ngay tại chỗ ban thưởng, gia tổ kể từ đó giành được một phiên gia nghiệp.

Vì thế đại thiếu gia sau khi nghe những lời của hoả cư đạo, thì biết ngay đối phương có ý đồ bất lương, một phát tóm lấy hoả cư đạo, quát: “Bớ bà con hàng xóm láng giềng mau cầm dao tới đây, giúp tôi lột mặt tên tặc đạo nhân này!”

Hoả cư đạo thấy đại thiếu gia biết thừa ý đồ của mình, không thể không nói ra sự thật: hắn xưng là có tiên thiên bát quái ấn, đạo pháp phi thường. Lúc đi lịch lãm thiên hạ, từng đi qua một con sông tên là Quỷ Môn giang, chỉ thấy nơi đây dòng nước ôm lấy núi non chạy vòng quanh, hổ ngồi rồng cuộn, địa thế không tầm thường, nơi đây nhất định là có một ngôi mộ lớn, tiếc rằng cổ mộ không ở trong núi, mà là ở dưới đáy Quỷ Môn giang, muốn đào được mộ này còn khó hơn cả lên trời! Lấy bản lĩnh của hắn, việc mở cửa mộ không cần phải bàn, bất quá oán khí trong mộ quá sâu đậm, đồ vật móc được bên trong chỉ sợ là không tốt! Cho nên nói muốn vào trong cổ mộ đào bảo, thế nào cũng không thể không có tấm da huyền hồ của đại thiếu gia. Loài hồ ly này khi trưởng thành miệng nhọn mũi chóp, đầu nhỏ đuôi lớn, lông có màu vàng, sống lâu năm sẽ biến thành huyền hồ hoặc bạch hồ. Theo như những lời mê tín ngày xưa mà nói, hồ ly thành yêu rất hay tác oai tác quái, mà muốn đắc đạo biến thành hình người thì không hề dễ dàng, nó phải nuốt vào nhả ra tinh hoa của nhật nguyệt, luyện thành huyền đan, sống đến hơn trăm năm trở lên, hiểu rõ thế giới bên ngoài, vẫn còn phải tránh qua “cửu tử thập tam tai”, sống trên nghìn năm thì mới đạt đến mức tương thông cùng trời, đến lúc này con người không thể bắt được, nó rất giỏi mê hoặc lòng người, biến hoá không ngừng, lại gọi là “thiên hồ”. Con huyền hồ mà đại thiếu gia bắt được, chỉ khác là không vượt qua được kiếp nạn cuối cùng này, lột bỏ bộ da của nó làm thành huyền hồ y, hoàn toàn có thể “tiêu tai tị hoạ” (Trans: Tai hoạ đều bị giải trừ, tiêu diệt), “chuột đất” mặc lên mới dám tiến vào toà cổ mộ này.
 
Sửa lần cuối bởi điều hành viên:

Lười Biếng Vô Tận

Thanh Phong 37
Tham gia
5/4/19
Bài viết
21
Điểm cảm xúc
67
Điểm
13
Chương 2: Đạo Mộ Quỷ Môn Giang
Hoả cư đạo rủ rê đại thiếu gia cùng hắn đi trộm mộ, có bộ huyền hồ y này rồi, vinh hoa phú quý dễ như trở bàn tay! Thường nói: “Nghèo sinh gian kế”, hơn nữa đại thiếu gia cũng chẳng phải là loại người tốt đẹp chó gì, nghe thấy bốn chữ “vinh hoa phú quý”, cái gì mà nhân với chả nghĩa, đạo với chả đức sớm đã quên sạch không nhớ một tí gì. Hai người phối hợp nhịp nhàng với nhau, lập tức vun đất thành lò, cắm cỏ làm hương, bái lạy một phen, kết thành huynh đệ. Đại thiếu gia dựa theo lời hoả cư đạo nói, mang con hồ ly đã chết ra mổ bụng lột da, rồi đem bộ da đã được thuộc chín may thành một kiện huyền hồ y.

Hoả cư đạo nói: “Chỉ có huyền hồ y thì chưa đủ, muốn thành đại sự, còn phải tìm thêm hai thứ đồ khác.”

Hắn là một tay đạo sĩ giang hồ, không chỉ biết vẽ âm dương bát quái, mà còn đầy một bụng bàng môn tà đạo phương thuật, hắn không hề nói rõ cần thêm gì, chỉ mang đại thiếu gia đi loạn khắp nơi, cặp mắt tặc nhân gian xảo hết nhìn phía đông rồi lại ngó sang phía tây. Hai người đi đến một vùng ruộng nương rộng lớn, nhìn thấy lão hương nơi đây đang gặt thành từng bó từng bó ma can nhi (Trans: Ma can nhi là cây vừng hoặc đậu, nhưng dịch ra cảm giác không hay lắm nên mình sẽ gọi là ma can nhi luôn), chất thành đống xếp ở ruộng bên cạnh. Trong đó có một gốc ma can nhi khác biệt, hình dáng kì quái, vừa to lại vừa dài, so với các gốc khác thì dài hơn đến 4, 5 lần. Hoả cư đạo đưa cho đại thiếu gia mấy đồng tiền, bảo hắn đi mua lấy gốc ma can nhi đó. Đại thiếu gia không biết rốt cuộc thứ thuốc bán bên trong hồ lô của hoả cư đạo là thứ gì, cũng không nghĩ nổi vì sao đi trộm mộ lại cần phải dùng đến ma can nhi, nhưng vì phát tài, hắn cũng chỉ đành an phận nghe theo lời của hoả cư đạo, đi qua nói với lão hương đang làm việc là muốn mua lấy gốc ma can nhi này, hỏi xem người ta muốn bao nhiêu tiền. Lão hương trong lòng bực bội khó chịu, ma can nhi trước giờ toàn là tính theo bó rồi bán, vốn cũng chẳng phải là thứ đồ chơi đáng tiền gì cả, một đồng bạc được hai bó lớn, đằng này lại chỉ mua có một gốc? Đừng nói chưa bán như vậy bao giờ, mà là cũng chưa có ai dở hơi đi mua như vậy, ngươi mua một bó thì còn nói là có thể cho vào làm củi đốt bếp, chứ một gốc thì làm được cái quái gì? Cho nên cũng không tìm đại thiếu gia đòi tiền, mặc kệ hắn tự đến mà rút ra gốc mình nhìn trúng. Hắn khiêng gốc ma can nhi vừa to vừa dài này trở về chỗ cũ, giao cho hoả cư đạo.

Hắn nhận lấy, gật gù cái đầu: “Chìa khoá đã có!”

Đại thiếu gia nghe thấy lời này cảm thấy rất lạ, chìa khoá là để mở khoá mở cửa, chưa từng thấy qua ai lại cầm ma can nhi làm chìa khoá cả. Lại nói hoả cư đạo sau khi đã có được gốc ma can nhi, lại tiếp tục mang theo đại thiếu gia đi về phía trước, đến một toà thị trấn, trong trấn thập phần ồn ào náo nhiệt, mua bán tấp nập đủ loại ngành nghề không thiếu thứ nào. Tuy rằng là huyện lị nhưng lại phát triển hơn cả châu phủ. Hai người đi vòng vòng cả nửa ngày, hoả cư đạo chỉ vào một hàng bán thịt trước mặt, ghé miệng nói nhỏ với đại thiếu gia mấy câu, phân phó hắn đi qua đó, mua lấy cái đòn treo thịt ở trên bàn. Đại thiếu gia ù ù cạc cạc chẳng hiểu gì cả, nhưng lại là vì trộm mộ phát tài, hắn cũng chẳng thèm nghĩ nhiều nữa, đi tới bên cạnh hàng thịt, giơ mặt lên nhìn một cái. Trước cửa có đặt một cái bàn dài, chưởng quỷ là một tên đồ tể Sơn Đông tai to mặt lớn, cánh tay để trần, trên mặt trên người hắn đầy dầu lẫn với mồ hôi, bụng thì đeo một cái tạp dề dơ bẩn bầy nhầy, trước ngực là một mảng lông đen tạp nham. Chưởng quỹ có một tay nghề gia truyền, tự mình giết heo, tự mình bán thịt, thịt rất tươi, cũng không ăn bớt cắt xén một phân một lượng nào, cho nên mọi người xung quanh đều nguyện ý đến nhà hắn mua thịt. Lúc này, chưởng quỹ đang dùng dao lóc xương cạo thịt, dáng vẻ mệt mỏi, mồ hôi chảy đầy cổ, trên bàn thịt có một cái đòn treo thịt to cỡ cánh tay, một đầu treo một cái móc sắc lớn, treo lên đấy nửa tảng thịt to, xem ra đã được dùng một khoảng thời gian không ngắn, trên đấy loang lổ nhiều vết dầu mỡ đã khô cáu lại, “ong ong ong” xung quanh vang lên tiếng của một bầy ruồi xanh lúc nhúc, ai thấy cũng đều phát ngán. Đại thiếu gia chỉnh trang lại quần áo, bước lên phía trước, cùng chưởng quỹ hàng thịt nói chuyện.

Chưởng quỹ cho là người tới để mua hàng, vội vàng chào mời khách: “Đến sớm không bằng đến đúng lúc, buổi trước vừa hay mới mổ một đầu heo béo, chất lượng miễn bàn!”

Đại thiếu gia cũng vội nói: “Chưởng quỹ à, ta không có mua thịt heo, cái đòn treo thịt này của ngài bán thế nào?”

Ba đời tổ tiên nhà tên chưởng quỹ đã ở chỗ này bán thịt, chưa từng nghe qua người đến không mua thịt mà lại là mua cái đòn treo, tự nói trong lòng: đây chẳng phải là muốn tới phá đám sao?

Không khỏi bực mình mà lại không phát tiết được ra ngoài, xua tay ra xuỳ xuỳ đại thiếu gia: “Biến biến biến, chớ quấy nhiễu việc buôn bán của ta!”

Đại thiếu gia xin xỏ hết lần này đến lần khác, nhất định phải mua được cái đòn treo thịt đó. Chưởng quỹ dù thế nào đi nữa cũng không chịu bán, mấy đời nhà hắn đã dùng cái đòn này rồi, sớm đã coi nó là đồ gia bảo.

Đại thiếu gia nói sống nói chết, tất cả tiền bạc trên người đều móc ra hết. Chưởng quỹ cuối cùng chịu không nổi, sợ rằng hắn chết ở đây sẽ gây ra phiền toái, hơn nữa có thằng dở hơi ở bên cạnh phá đám, hàng thịt còn biết bán cho ai? Chuyện đã thế thì đành chịu, đành phải lấy cái đòn thịt bán cho đại thiếu gia. Hắn vác đòn thịt trên vai, hớn hở quay lại chỗ hoả cư đạo.

Hoả cư đạo đại hỉ: “Có ma can nhi cùng đòn thịt móc sắt, lại còn có cả kiện huyền hồ y này, sao phải lo đại sự không thành!”
.
Được đề xuất cho bạn

Nương Tử Ngoan Ngoãn Để Ta Ăn

Nửa Thời Gian Ấm Áp

Nhặt Được Vợ Ngoan
Đề nghị từ
Đại thiếu gia nghĩ: “Hoả cư đạo thật có mấy phần tà môn, hắn dùng ma can nhi với đòn thịt trộm mộ bằng cách nào?”

Qua ngày hôm sau, bọn chúng mỗi người đeo một cái túi lớn trên vai, trước ngực ôm thiên lí hoả, chia nhau vác ma can nhi cùng đòn thịt có treo móc sắt, đi tới gần Quỷ Môn giang. Hoả cư đạo chỉ ra vị trí phương vị của cửa mộ trong lòng sông, nhìn lên vẫn thấy mặt trời hãy còn treo cao, dặn dò đại thiếu gia trước tiên cứ bình tĩnh nghỉ ngơi, đợi đến khi trời tối rồi mới hạ thủ. Hai vị đại gia đây uống hẳn một cân rượu thiêu đao tử, mua thêm một con ngỗng luộc, trực tiếp xé thành hai mảnh chia đôi mỗi người một nửa, ăn uống no say, bất giác đã đến canh ba từ lúc nào, lúc này mới vội vàng nhanh chóng thu dọn chuẩn bị đồ đạc, hoả cư đạo choàng lên người huyền hồ y, đẩy một con thuyền nhỏ trôi dần ra Quỷ Môn giang.

Đại thiếu gia ở bên bờ sông dùng cột dài khều lên một cái đèn lồng, hét to như muốn xé cổ: “Đạo trưởng, cửa mở ở chỗ nào?”

Hoả cư đạo chỉ tay ra giữa dòng sông: “Đợi ta mở ra cửa mộ, ngươi hãy nhớ kĩ không được phát ra tiếng động nào, bằng không một đời phú quý của chúng ta cuối cùng sẽ thành công cốc hết!”

Đại thiếu gia thầm giật mình, có ý muốn hỏi kết quả. Nhưng hoả cư đạo vẫy tay ra dấu cho hắn, ra hiệu chớ có lên tiếng, rồi lập tức bắt quyết niệm chú, sau đó lấy ra một đạo hoàng phù đốt lên, tay cầm gốc ma can nhi vừa to vừa dài kia, mang đoạn đầu vươn vào giữa sông, khuấy động một vòng rồi lại một vòng.

Nói ra cũng quái lạ, nước sông bị ma can nhi thế nào khuấy lên, lại có thể từ giữa tách ra, cuốn thành một xoáy nước lớn, chính giữa là một cái đại động tối như hũ nút, sâu không thấy đáy. Hoả cư đạo không nói lời nào, lại lấy ma can nhi cắm vào giữa xoáy nước, chọc lên chọc xuống mấy cái, bỗng nghe thấy “ầm ầm” mấy tiếng, đáy sông dường như mở ra một cái thạch môn rất lớn, nhưng dùng đèn lồng chiếu qua chỉ thấy ở phía sâu đen kịt một đoàn, không nhìn ra hình dáng của thạch môn đấy. Đại thiếu gia hai chân phát run, trong lòng muốn chuồn đi, nhưng lại luyến tiếc chỗ châu báu trong mộ mà lão đạo đã hứa chia cho hắn. Chỉ thấy hoả cư đạo dùng ma can nhi chọc chọc ra được cửa mộ, lại cầm chắc cái đòn treo thịt mua được ở trấn nọ trong tay, mang móc sắc ở chỗ đầu thò vào cửa mộ, từng chút từng chút một đưa cái móc vào, hắn hết sức chăm chú như đang chuẩn bị lâm trận xông vào đại địch, trong miệng lẩm bẩm niệm niệm, nhưng mà chỉ mấp máy môi chứ không phát ra âm thanh nào cả, trên mặt một trận xanh lại một trận trắng, gò trán thì gân xanh gân tím đều nổi hết cả lên. Thời gian ước chừng hút hết một bao thuốc, hoả cư đạo hai tay dùng lực, từ từ kéo đòn treo thịt lại, tựa như đang mở nắp quan trong mộ, lại móc xuống mấy cái, từ trong móc ra một cái bánh tông. Đại thiếu gia nhìn thấy vị chủ mộ này, không tin được vào mắt mình, thân hình vạm vỡ cường tráng, mặc một kiện hắc bào, móng tay dài không dưới một xích (Trans: 1 xích = ⅓ m), trên mặt mọc đầy lông trắng.

Đại thiếu gia ban nãy muốn chạy thì không chạy luôn, giờ có muốn cũng không chạy nổi nữa, bị doạ cho đái ướt hết cả đũng quần, ngã phịch ra đất. Bất quá vì phát tài, hắn bất chấp bò từ dưới đất dậy, khều cao lồng đèn để chiếu sáng cho hoả cư đạo, mắt thấy tên kia như đang muốn kéo xác chết từ dưới đáy sông móc lên, nhưng ai biết được xui xẻo nó có biết chọn thời gian đâu, chính lúc trọng yếu thế này, đột nhiên có người vỗ lên vai hắn một cái, quát to: “Hay cho cái gan chó nhà ngươi!”

Cũng thật vừa khéo, kẻ đến chẳng phải ai xa lạ cả, mà chính là chưởng quỹ của hàng thịt trong trấn mà trước đó đại thiếu gia đã tìm đến hắn để mua cái đòn treo thịt, hắn đã cảm thấy có gì đó kì quái, mổ heo giết bò bán thịt mới cần dùng đến cái đòn treo thịt có móc sắt. Trong khi đó tên đại thiếu gia này lại tự nhận mình là một tay thợ săn, thế thì việc quái gì phải sống chết muốn mua một cái đòn treo? Hỏi tiểu tử này mua về để dùng làm gì, hắn nhất quyết không chịu nói, hành vi bất chính, càng nghĩ càng cảm thấy có gì đó không đúng. Chưởng quỹ bèn bí mật theo dõi hắn, nhìn xem đại thiếu gia muốn mưu tính làm cái gì. Chỉ thấy hắn tụ họp cùng với một tên hỏa cư đạo chuyên vẽ âm dương bát quái, một đường đi tới bên bờ Quỷ Môn giang, hai người bọn chúng lấy ra một con ngỗng béo rồi chén sạch sành sanh, sau đó lén lén lút lút trốn đi, mãi đến lúc nửa đêm canh ba, dùng móc sắt treo thịt ra giữa sông chọc chọc ngoáy ngoáy loạn cả lên. Chưởng quỹ hàng thịt vốn tính tình ngay thẳng, cho là hai người này đang câu rùa, thật không hiểu nổi bọn chúng nghĩ gì mà nửa đêm trời tối lại mò đi câu rùa, không sợ câu lên phải xác chết trôi sông hay quỷ nước sao? Thế nên bèn đi lên phía trước, vỗ vào vai đại thiếu gia một cái.

Hắn bình thường vỗ một cái thì không sao, đại thiếu gia cũng sẽ không bị như vậy, đằng này trong lòng vốn đang run rẩy sẵn, lại bất thình lình bị vỗ vào vai, thành ra sợ đến nhảy dựng cả lên, ném bỏ đèn lồng trong tay, hét lớn: “Mẹ ơi cứu mạng a!” Không chỉ đại thiếu gia bị doạ cho sợ gần chết, vị hoả cư đạo chuyên vẽ âm dương bát quái kia cũng bị hù té đái, mà cái bánh tông vừa móc từ trong cổ mộ ra dường như đã bị kinh động, xoay người một cái, cuối cùng nắm chặt lấy đòn treo thịt. Hoả cư đạo cố gắng dùng toàn lực cũng không kéo nổi cái đòn treo thịt lại, hắn thấy miếng thịt béo sắp gắp vào đến mồm rồi còn rơi, làm sao cam lòng cho được? Chỉ bất quá hơi chần chừ một chút, không chịu buông tay vứt bỏ, ngược lại còn bị một cỗ quái lực kéo ngược vào trong mộ, nước sông cũng hồi phục nguyên trạng.

Trương chưởng quỹ hàng thịt không nhìn rõ vật kia là gì, còn cho rằng hoả cư đạo là bị một con rùa lớn ở giữa sông kéo đi, ông trời ạ, con rùa đó phải lớn chừng nào mới có thể kéo được cả một cơ thể người lớn như thế chứ? Mà đại thiếu gia bên cạnh chịu một cú sốc không nhỏ, trực tiếp bị doạ cho ba hồn mù mịt bay đầy trời, bảy vía hỗn loạn lăn khắp nơi, trước mắt tối sầm lại, đột nhiên ngã vật ra đất, so ra cùng người chết không có gì khác biệt lắm. Chưởng quỹ không thể làm gì khác hơn nên đành phải cõng hắn mang về nhà mình, bón hết cho hắn một tô canh thịt nóng hôi hổi, lúc này mới kéo lại được cái mạng đại thiếu gia trở về.

Hoả cư đạo vì lòng tham trộm mộ thành ra chết một cách oan uổng. Đại thiếu gia vốn tưởng giàu sang phú quý đã ở ngay trước mắt rồi, không nghĩ tới giữa đường lại nhảy ra một tên Trình Giảo Kim (Trans: Trình Giảo Kim là một nhân vật trong lịch sử Trung Quốc. Ngày bé hay phá làng phá xóm, lại còn từng làm thảo khấu, sau này làm tướng thì chuyên gia lấy toàn lực đánh ba búa. Đánh xong mà địch không chết thì bỏ chạy, nghỉ ngơi một chút quay lại đánh ba búa tiếp. Bởi vậy, tên này là một chuyên gia phá bĩnh, chịu lợi chứ không chịu thiệt. Ai mà hay nửa đường nhảy ra phá bĩnh chuyện của người khác thường gọi là Trình Giảo Kim), hoả cư đạo bản lĩnh lớn như vậy mà cuối cùng vẫn phải làm mồi cho cá dưới sông, nhìn mình xem có mấy phân mấy lượng mà đòi với tới, nhưng lại chợt nghĩ “sống chết có số, phú quý do trời”, hoả cư đạo hắn không có số phát tài, còn đại thiếu gia ta chưa chắc đã như thế. Đạo mộ đoạt bảo đâu có thể đơn giản dễ dàng như vậy được, đại mộ chân chính không hề dễ tìm cũng chẳng hề dễ xơi, còn mấy cái mả dễ kiếm dễ đào thì đồ vật lẫn bánh tông bên trong chả có mấy phần giá trị cả, không bằng lại lên Lão Thử Lĩnh mà săn bắn kiếm miếng ăn còn hơn. Bởi vì chưởng quỹ đã cứu hắn một mạng, thành ra hai người thường xuyên qua lại với nhau, kết thành bằng hữu.

Nghe đâu sau này đại thiếu gia gặp lại được lão đầu ngày đó đã dạy hắn săn bắn. Lão đầu nói cho hắn biết, hoả cư đạo kia là một tên trộm mộ bàng môn tà đạo, bởi vì lần này hắn muốn móc một đấu mà vị chủ nhân lại có lai lịch rất lớn, nên không dám tuỳ tiện hạ thủ. Mà bộ da huyền hồ của đại thiếu gia lại là báu vật có một không hai trên đời, rất khó tìm được, không chỉ có thể trừ tà, nó còn có thể chống cả nước, muốn đổ cái đấu giữa sông này thì thế nào cũng phải có huyền hồ y mới được. Ma can nhi và đòn treo thịt mỗi cái cũng có công dụng riêng. Trước nói ma can nhi, đều biết vỏ của nó có thể mang ra xe thành dây thừng, nhưng mấy ai biết lõi ma can nhi chính là một vật dẫn hoả, sau khi tách bỏ vỏ ma can nhi ra, đem nó ngâm vào trong bùn nhão, vài ngày sau lại đào nó lên sẽ thấy trắng bóc như mới. Lão hương trước khi đi ra ngoài thường thường đem ma can nhi phơi khô ra nắng rồi xe thành “hoả cụ” (Trans: Dụng cụ tạo lửa), đến đêm đem ra đốt dùng để soi đường, ngọn lửa mà ma can nhi dẫn tới chính là cực dương hoả, âm phong mạnh mấy đều không thể thổi tắt, âm dương tương khắc, vì vậy có thể mở ra được cửa mộ. Tiếp theo nói đến đòn treo thịt, là vật gia truyền đã qua mấy đời tổ tiên nhà tay chưởng quỹ hàng thịt, trên đấy dính không biết bao nhiêu là máu tanh dầu mỡ, bất luận là yêu ma tà ác hay là Đại La Kim tiên, đều sợ vật ô uế bẩn thỉu, ngày này qua tháng khác mổ heo xả thịt đều treo lên cái đòn này, lại thêm mấy phần sát khí, nghe nói vật này có thể hàng thi. Lão đầu trước kia bảo đại thiếu gia nấp trên Lão Thử Lĩnh bắt huyền hồ là bởi vì thứ này đi theo ma đạo, ăn tươi nuốt sống rất nhiều người, cho nên mới muốn tìm người trừ khử nó. Mà tổ tiên đại thiếu gia lại là những người am hiểu nhất về ngón nghề săn bắt hồ ly, không cần biết là đại hồ ly, tiểu hồ ly hay hồ ly đực, hồ ly cái, cũng bất luận là từng con một sống riêng lẻ hay là thành đàn thành ổ chui rúc dưới đất, cuối cùng thì vẫn là chết trong tay tổ tiên hắn, số lượng đếm không nổi, đến loài súc vật như dê bò nhìn thấy đồ tể còn tự biết là mệnh mình chỉ còn một sớm một chiều, huống chi là hồ ly còn có linh tính hơn vậy? Cho nên hồ ly trên thế gian này nhìn thấy người nhà hắn chắc chắn trước tiên phải sợ ba phép, tuy rằng đại thiếu gia là một tên chẳng ra gì, duy chỉ có thuật bắn súng, nhưng lại là hậu nhân của những thợ săn hồ ly tài giỏi nhất, cho nên mới bảo hắn lên núi bắt huyền hồ.
Mà đại thiếu gia miệng ăn núi lở, nhất định sẽ đói nghèo mà chết, không có mệnh đại phú đại quý, trong nhà có bao nhiêu tiền cũng bị hắn tiêu cho sạch bách, cho dù tích được đại đức, cùng lắm cũng chỉ giúp hắn có cái ăn cái uống không bị đói chết. Nếu như hắn mang cái túi da hươu chôn xuống góc đông nam ngôi nhà, lên núi săn bắt tuyệt sẽ không tay không mà trở về. Nhưng hắn nhất thời nổi lòng tham, đi theo hoả cư đạo đạo mộ quỷ nước giữa dòng Quỷ Môn giang, khiến cho cả huyền hồ y lẫn hoả cư đạo phải vùi thây dưới đáy sông. Đại thiếu gia nghe xong dậm chân đấm ngực, hối hận không kịp, cũng nhận ra lão đầu này tuyệt không phải là người thường, liền nước mắt nước mũi van xin cầu khẩn. Lão đầu mặc dù biết đại thiếu gia hắn tự làm tự chịu, nhưng suy cho cùng thì hắn đã giúp mình làm một việc không nhỏ, cũng không nỡ lòng nhìn hắn chết đói chết khát, lại chỉ cho hắn một con đường sống, bảo hắn làm như này, dặn hắn làm như kia.

Đại thiếu gia vừa mừng vừa sợ, cho rằng mệnh mình đã đến lúc được thay đổi, hắn theo sự chỉ điểm của lão đầu nửa đêm trời tối như mực thì chạy lên trên núi, đào ra một phiến đá xanh, dùng hết sức bình sinh đem phiến đá chuyển sang bên cạnh. Phía dưới là một cái hang đất, ở giữa không có quan tài cũng không có quách đá, chỉ có duy nhất một bộ xương khô, cũng không rõ là đã chết được bao nhiêu năm rồi, trường bào mặc trên người cùng với lão đầu kia có chút giống nhau, nhưng mà đã bị mục nát kha khá, rất khó nói rõ. Giữa ngực bộ xương có ôm một cái túi vải dầu, từ trong ra ngoài được bọc lại bảy tám tầng. Đại thiếu gia nóng lòng phát tài, nhắm mắt liều mạng thò tay ra móc lấy cái túi vải dầu, rồi liền quỳ xuống chắp tay vái lạy một hồi, lại dập váng cả đầu thêm chừng mười cái nữa, mới mang phiến đá xanh kia đẩy lại vị trí cũ, sau đó ôm chặt túi vải dầu cuốn xéo khỏi Lão Thử Lĩnh.

Đại thiếu gia cho rằng bộ xương khô bên trong cái hang kia sinh thời là một tên chuột đất, theo như tiếng lóng trên giang hồ, chuột đất dùng để gọi những kẻ chuyên đào đất trộm mộ. Đồ vật trên người chuột đất, chắc chắn là vàng bạc châu báu tuỳ tàng bên trong mộ, không phải vàng thì cũng là ngọc, cầm ra mang đi bán, bét nhất cũng đủ cho hắn hút phúc thọ cao được vài năm, cuối cùng lúc mở cái túi ra nhìn thử, đại thiếu gia hai mắt sững sờ, ngây dại cả nửa ngày. Bên trong chỉ có độc nhất một quyển cổ thư cùng một cái ngọc quyết hình móc câu, ngày trước cũng có người gọi đây là ngọc câu, so với ngọc hoàn (Trans: Ngọc hình vòng) thì ít hơn một chút, ngọc chất gần như thuỷ tinh, trong suốt không tì vết. Như nào gọi là “quyết”? Cổ nhân nói “Mãn giả vi hoàn, khuyết giả vi quyết”, nói trắng ra quyết chính là vòng tròn thiếu mất một mảnh, những người theo phái mô kim đạo mộ đem nó đeo lên trên người, nhắc nhở bản thân mình một khi đã làm ngón nghề này thì không được phép tham lam vô độ, hết lòng vì việc nghĩa, tuyệt không hề tham.

Nội dung được ghi chép lại trong quyển cổ thư đơn giản chỉ là mấy loại khẩu quyết về âm dương phong thuỷ, gọi là “Lượng Kim Xích”. Táng thư có nói: “Đồng Sơn tây Băng, linh chung đông ứng”. Những lời này có nghĩa là núi Đồng ở phía Tây sụp đổ, thì tại xa xa chuông đồng ở phương Đông cũng sẽ cảm ứng theo, bởi vì tất cả đồng đều là từ trong núi mà ra, ám chỉ người chết sau khi nhập thổ vi an, mà táng ở nơi hình thế hung cát khác nhau, vẫn có thể chi phối phúc hoạ của con cháu đời sau. Trong âm dương phong thuỷ “Dĩ thuỷ vi quý, dĩ long vi tôn” (Trans: Chôn nơi có nước thì về sau phú quý, chôn nơi có rồng thì đời sau tung hoành thiên hạ), tìm hình núi, tầm long thế được gọi là “Lượng Kim”. Quyển cổ thư đại thiếu gia lấy được trên Lão Thử Lĩnh, chả phải thứ đồ ăn được hay mặc được, mà là bí thuật tầm long định huyệt đạo mộ đoạt bảo, còn cổ ngọc hình móc câu là trấn vật dùng để khai quan trộm mộ. Dân gian tương truyền rằng, có ngọc câu hộ thân thì có thể “xuất nhập âm dương”, vào trong mộ đoạt bảo vật xong có thể bảo toàn tính tính mạng mà quay ra.

Lão đầu lúc trước có nhắc nhở đại thiếu gia: “Ngươi đời này không có số giàu sang phú quý, tuỳ ý làm bậy thì chỉ có nước tự rước lấy tai hoạ sát thân thôi, cầm vật này trong tay rồi thì cũng đừng có dùng linh tinh.” Đại thiếu gia là kẻ hám tiền, gặp năm đầu không thuận lợi lắm, hắn thử làm chuột đất, bất quá không dám đi đến những mộ lớn, cũng chẳng móc ra được đồ gì đáng tiền cả, từ đầu đến cuối vẫn nghèo rớt đít như thế. Tuy rằng hắn một là không được tổ gia truyền thụ, hai là không có bái qua sư phụ nào cả, nhưng trên tay lại có “Lượng Kim Xích” độc nhất vô nhị, thế mà làm chuột đất còn không xong, thật là chán chẳng buồn nói nữa. Thực ra không phải là hắn không muốn phát tài, mà là hắn không có mệnh giàu sang, không phải thiên thời không tới, thì là do địa lợi bất hoà. Có một lần tình hình kinh tế nghe vẻ không khả quan lắm, cháo còn chả có mà húp, thế là mưu tính đi đào một ngôi mộ nào đó, kết quả đi đến nửa đường gặp phải đám thổ phỉ nổi loạn do tên Lưu mặt rỗ cầm đầu. Tên Lưu mặt rỗ này tổ tiên mấy đời làm phỉ, tàn bạo xảo quyệt, sở thích giết chóc ăn sâu vào máu, hơn nữa thế lực của hắn rất lớn, dưới trướng là một đám thủ hạ hung ác như lang sói, thật có thể nói là giết người như ngoé, ở vùng đó nhắc đến hung danh của hắn, trẻ em ba tuổi cũng phải nín thinh không dám khóc. Ngày trước có một tên tướng quân bị người dân phán tội chết một cách oan uổng, hắn là người có đầu óc, trốn khỏi lao ngục trong thành, chạy thoát được ra ngoài, vì không còn đường nào để đi nữa nên hắn đành phải lên rừng làm thảo khấu, quy thuận Lưu mặt rỗ. Lưu mặt rỗ xem trọng hắn có tài dùng binh, phong làm quân sư quạt mo. Hắn quả nhiên không làm phụ lòng của Lưu mặt rỗ, đem đám quân lớn nhỏ ô hợp trên núi tổ chức thao binh luyện võ cả ngày, hoàn toàn dựa theo các nguyên tắc điều lệnh của quân đội, đám thổ phỉ lúc này phóng hoả giết người hay cướp của càng là dễ như trở bàn tay, thế lực của Lưu mặt rỗ dần dần được mở rộng phô trương hơn, trở thành địa phương mà nạn thổ phỉ khó kiểm soát được nhất. Quan trên đã nhiều lần ra mặt xuất quân dẹp loạn nhưng đều đại bại mà quay về.

Vùng đó có một tay quân phiệt, cũng xuất thân từ thổ phỉ mà ra, tự mình bàn tính muốn đem đám người Lưu mặt rỗ chiêu an, một là dẹp nạn thổ phỉ, hai là để mở rộng thế lực của bản thân. Không nghĩ tới thủ hạ của Lưu mặt rỗ cũng là một tên quân sư quạt mo lắm mưu nhiều kế, nhờ người nói với tay quân phiệt kia là bọn chúng nguyện ý quy thuận, đợi Lưu mặt rỗ mang theo đám nhân mã được trang bị đầy đủ tận răng từ trên núi xuống, chạy thẳng tới căn cứ của tay quân phiệt kia ở huyện thành. Bởi vì lấy danh nghĩa là dẫn quân đi quy thuận, nên thẳng một đường cũng không có ai cản trở, nhưng vừa vào đến huyện thành thì liền trở mặt, khiến cho quân đội phòng thủ trở tay không kịp, chiếm lấy huyện thành rồi giết người cướp của. Tay quân phiệt bên kia lúc này mới vội vàng điều binh nhằm chiếm lấy huyện thành, song phương giao chiến qua lại nhiều lần, liên tiếp hơn mười mấy ngày trời, đánh thẳng đến khi trời đất tối sầm, xác chất thành núi, máu chảy thành sông, từ trong thành cho đến ngoài thành, người trong phạm vị chục dặm xung quanh đều chết sạch không còn một ai (Trans: 1 dặm = 500m).

Đại thiếu gia trước đi trộm mộ, ngang qua vùng này thì bị đám loạn phỉ bao vây, bọn chúng không quan tâm ngươi có phải người của quân đội hay không, chỉ miễn không phải là người của chúng thì liền giơ đao chém chết, mắt thấy không thể thoát được cái nạn nhất định sẽ bị chém một đao này, thì bỗng cái khó ló cái khôn, vội nằm xuống lẫn vào đống người chết, lấy máu bôi lên mặt, lại ôm thêm mấy cái xác chết nữa che lên còn mình trốn ở phía dưới, cộng thêm mạng lớn sống dai, lúc này mới tránh được loạn phỉ giết chết. Thẳng cho đến lúc nửa đêm, xung quanh im ắng, đại thiếu gia mới dám thò đầu ra nghe ngóng, thấy trăng trên trời vừa sáng vừa tròn, ánh trăng trong veo, bốn phía không có lấy một bóng người. Hắn đang định từ trong đống xác chết bò ra, chợt thấy có ánh nến lập loè từ xa đang đến gần.

Đại thiếu gia lấy làm kinh hãi, tưởng là đám loạn phỉ bố trí mai phục ở lại, vạn bất đắc dĩ đành phải giả chết thêm một lần nữa. Không bao lâu sau, chỉ thấy có một thằng bé tay nâng đèn cầy đi trước để mở đường, theo sau là một người đàn ông mặc bộ hoàng bào, nét mặt già nua, thần sắc hiện lên trên mặt quái đản, âm trầm không nói lấy nửa lời. Đại thiếu gia nhìn ra đối phương tới đây với ý đồ bất thiện, loạn phỉ vừa mới rút đi, quá nửa đêm rồi còn đi đi lại lại nơi đất hoang còn nơi nào nhiều người chết hơn địa phương này mà sao không đi, vậy chẳng phải là kẻ xấu sao? Năm tháng ấy chiến tranh loạn lạc liên miên, mọi nơi đều chìm trong khói lửa đao thương, chiến loạn sau này, thường ngày xuất hiện mấy tên lưu manh vô lại lớn gan lớn mật, thừa dịp trời tối đi lột lấy những thứ đồ đáng tiền trên người người chết, bọn chúng lòng dạ độc ác vô cùng, thấy ai còn hấp hối chưa chết thì thường sẽ ra tay giết người diệt khẩu luôn. Đại thiếu gia thấy tình hình không ổn, nhất thời không dám vọng động, nằm im thin thít dưới đống xác chết, len lét theo dõi hành động của hai kẻ vừa tới kia. Chỉ thấy người mặc hoàng bào đang lảo đảo đi tới, khi hắn tới gần thì càng nhìn càng cảm thấy quỷ dị, chỉ thấy người này sắc mặt vàng khè, hốc mắt hõm xuống, huyệt thái dương cũng vậy, miệng kéo căng ra mỏng như tờ giấy, có thở ra nhưng không thấy hít vào. Mặc dù người này mặc áo choàng nên nhìn không ra béo gầy như nào, nhưng nhìn trên tay hắn, da bọc lấy xương, gân xanh nổi lên, móng tay mọc dài tới hai thốn (Trans: 1 thốn = 3,33 cm), lại còn đều là màu đen, nhìn thế nào cũng đều không thấy giống với người sống! Lại nhìn thằng bé kia, khoảng tầm bảy, tám tuổi, mặc một bộ quần áo sặc sỡ loè loẹt, tay nâng một cây đèn cầy, khuôn mặt nhỏ nhắn trông ảm đạm nhợt nhạt, lại còn tô một lớp phấn hồng nữa, ngược lại nhìn như một bộ người giấy bán trong cửa hàng vậy.

Đêm hôm khuya khoắt giữa trốn hoang vu đồng không mông quanh, lại nằm dưới đống người chết, nhìn thấy hai người kia, đừng nói là đại thiếu gia mà đổi lại là ai thì cũng đái ra quần thôi! Chỉ thấy người mặc hoàng bào dùng tay chỉ một cái, lệnh cho thằng bé cầm đèn soi vào xác chết, hễ là xác là phụ nữ, lão hương, tiểu hài tử, hay là cụt tay, thiếu chân, thân đầu chia đôi, thì đều bỏ qua không để ý đến, trực tiếp dùng tay cầm lấy vứt sang một bên, cho dù là ném lá cây cũng không tuỳ tiện như thế. Đại thiếu gia bị doạ cho hồn phi phách tán, một hơi cũng không dám thở, đáy quần lại ươn ướt, lo sợ lão già mặc hoàng bào kia sẽ đưa tay đến trên đầu mình, thế nên nằm im re.

Qua một lúc, đại thiếu gia thấy hắn xách lên một cái tử thi nam tử trung niên. Tử thi có vóc dáng khôi ngô, cao to vạm vỡ, hắn mượn nhờ ánh sáng đèn cầy quan sát cẩn thận cái xác đó một hồi lâu, thấy là một cái xác hoàn chỉnh nguyên vẹn, lúc này mới gật đầu một cái, mang người chết xách đến trước mặt, mặt đối mặt, mở miệng hướng lên trên mặt người chết thổi một hơi, nhả ra khí tức giống như một làn khí màu vàng, đều bị người chết “hút” hết lấy. Lại nhìn lão già hoàng bào kia chỉ thấy hơi thở yếu dần, còn cái xác nam tử to lớn thì từ từ động đậy. Cứ như vậy một lúc lâu sau, người chết hai mắt độc nhiên mở to, lão già hoàng bào cũng tự mình toi mạng. Người chết vừa sống lại đẩy cái xác lão già kia ngã ra đất, dùng tay gạt gạt đám bùn đất bám ở trên người, vẫn là không nói một tiếng nào, lệnh cho thằng bé cầm đèn đi phía trước dẫn đường, nghênh ngang mà rời đi. Đại thiếu gia kinh hãi muốn chết, thường nghe người ta nói, tiên gia phân thành “Thiên, Địa, Nhân, Thần, Quỷ”, thiên tiên cùng thần tiên là chí cao vô thượng, thuộc về thiên đạo, nhân tiên và địa tiên thứ nhì, thuộc về nhân đạo, còn quỷ tiên thì là ác quỷ ở địa phủ tu thành. Tuy nói đều là tu luyện đắc đạo, nhưng duy chỉ có quỷ tiên tu pháp là tà môn nhất, phải tìm người sống để mượn hình, đấy lại là hại người, không phải đạo, vì vậy phải tìm lấy một cái xác vừa mới chết không lâu, đem Nguyên Thần chuyển sang đấy, đến khi thân xác ấy hủ mục thì lại phải đi tìm một cái khác, tục gọi là tá thi hoàn hồn, lẽ nào vừa rồi chính là một quỷ tiên sao?

Đại thiếu gia sợ vỡ mật, lạnh toát người, nguyên một đêm không dám cử động, cho đến khi có tiếng gà gáy, phương Đông trời đang sáng dần, hắn mới từ đống xác chết bò ra. Trải qua một phen kinh hiểm, đại thiếu gia như già đi chục tuổi, thân thể yếu đuối hơn trước, có muốn đi làm chuột đất chui hầm mộ nữa cũng không được. Phải nói rằng một đời này của hắn, có thể tóm gọn lại trong hai câu — Phát tài như giấc mộng, xui xẻo ám không thôi!

Vị đại thiếu gia mà chúng ta nói đến này, chính là tổ phụ của tôi. Tôi ra đời sau năm toàn quốc giải phóng 1951, sau đó “Cách mạng văn hoá” bắt đầu được triển khai, tổ phụ tôi bị người ta đem ra phê đấu, nguyên nhân vì trước kia có tham gia buôn bán nên bị liệt vào “bốn sai phạm”. Tổ phụ sau khi bị đấu tố xong vẫn không hiểu tại sao, lén lén hỏi tôi: “Thế nào mà Đại cữu, Nhị cữu lẫn Tam cữu đều không bị sao, không phải là làm khó Tứ cữu chứ? Không biết Tứ cữu hắn trêu chọc phải ai?”

Người mặc dù không hiểu rõ về những chuyển biến thay đổi của xã hội bên ngoài, nhưng cũng sợ rằng quyển “Lượng Kim Xích” cùng với miếng ngọc câu vẫn mang bên người bấy lâu sẽ tạo thành một mối tai hoạ, lại cảm thấy để nó bị thất truyền thì thật đáng tiếc. Thế là bèn truyền thụ lại hết cho tôi, để cho tôi từng chữ từng chữ ghi nhớ, lúc này mới đem quyển sách đó cho một mồi lửa đốt quách đi, còn miếng ngọc câu thì đưa tôi cất ở trong người. Đến cả chuyện người làm sao ở trên Lão Thử Lĩnh bắt thiên đăng, thế nào lại đi cùng tên hoả cư đạo ra sông trộm mộ, tại sao gặp được một lão đầu chỉ điểm, lấy được “Lượng Kim Xích” cùng ngọc câu moi ra trên người tên trộm mộ, tất cả đều là tự người kể lại, tôi chẳng qua chỉ nghe rồi xem như là cố sự mà thôi. Thật không ngờ sau này nhìn lại, đồ vật mà tổ phụ gặp được mấy chục năm trước, lại khiến cho tôi đâm đầu vào! Mời các bạn đón đọc chương tiếp theo: Chạy trốn trong gió” đăng tại page Hội những người nghiện truyện của Thiên Hạ Bá Xướng
 
Sửa lần cuối bởi điều hành viên:

Lười Biếng Vô Tận

Thanh Phong 37
Tham gia
5/4/19
Bài viết
21
Điểm cảm xúc
67
Điểm
13
Chương 3: Chạy Trốn Trong Gió (Thượng)
Dịch: Đặng Nam

Học sinh tốt nghiệp phổ thông trung học những năm 1966, 1967 và 1968 được gọi chung là “Lão Tam Giới”. Những học sinh này sau khi rời khỏi mái trường, thì chỉ có duy nhất ba con đường để lựa chọn, một là đi tòng quân, hai là về nông thôn tham gia các đội sản xuất, ba là vào nhà máy làm công nhân thay ca. Trong thời đại ấy của chúng tôi, đối với bất kì ai mà nói, đầu quân nhập ngũ là sự lựa chọn vẻ vang nhất. Tôi vẫn luôn cho rằng mình mang trong người dòng máu lửa hồng, lại là con em gia đình quân đội, đứa cháu ngoan của Mao Chủ tịch, cho nên việc nhập ngũ tòng quân ấy là chuyện đương nhiên chẳng cần phải bàn cãi. Từ bé tiếp thu sự giáo dục cùng với hoàn cảnh của gia đình, tất cả đều khiến tôi nghĩ rằng mình chắc chắn sẽ trở thành một vị quân nhân, giải phóng toàn nhân dân thế giới khỏi cảnh chiến tranh đạn lửa, kiến lập nên thành tích chói lọi, ngàn vạn lần không có nghĩ đến cửa ải thẩm tra lí lịch, thế quái nào lại bị biến thành “Con cái có thể bị giáo dục lại”, đồng dạng đen đủi như tôi còn có Tuyền béo cùng Lục Quân. Tuyền béo chính là hậu nhân của vị chưởng quỹ hàng thịt năm xưa, hai nhà chúng tôi ba đời giao tình, từ khi hắn còn mặc quần thủng đít hở sạch cả bờ mông phốp pháp là tôi đã quen hắn rồi. Ngoài ra còn có bạn học của Tuyền béo tên là Lục Quân, hắn mắt cận thị, mặt trắng nõn, bình thường hay xem nhàn thư, thích tham tiện nghi nhỏ của người khác, chỉ toàn đưa ra những chủ ý vớ vẩn. Đã không theo được nghiệp binh, giai cấp công nhân cũng chả cần chúng tôi, thì thôi ba đứa chúng tôi chỉ còn lựa chọn duy nhất, không ngoài “Trời đất bao la luyện hồng tâm, lên núi xuống thôn làm thanh niên tri thức.”

Khi đó thanh niên trí thức bị phân công làm ruộng không gọi là làm ruộng, mà tự chế giễu nhau là “đi sửa chữa địa cầu”. Bất quá tuy cùng là thanh niên trí thức nhưng lại không giống nhau, cơ bản được chia thành hai nhóm riêng biệt, thanh niên trí thức đi tham gia sản xuất ở nông thôn là về các vùng quê rồi ở đấy luôn, toàn làm mấy việc đồng áng nhà nông; còn nhóm kia thì gọi là binh đoàn trí thức, đi đến các binh đoàn nông khẩn, ở biên giới khai hoang mở đất, thi hành bán quân sự hoá quản lí, hoàn cảnh e rằng so với mục khu và lâm khu có lẽ gian khổ hơn, nhưng mà có thể được sờ vào súng, trừ việc không có phù hiệu lẫn huy hiệu gắn trên mũ thì cùng với bộ đội chính quy không có nhiều sự khác nhau lắm.

Ba người chúng tôi tất nhiên là lựa chọn cái sau rồi, tuy rằng binh đoàn sản xuất cũng có kiểm tra xét duyệt lí lịch nhưng chung quy là vẫn thoáng hơn so với quân đội chính quy. Chúng tôi bị hành lên hành xuống, cuối cùng được phân công đến Đại Bắc Hoang tham gia sản xuất kiến thiết (Trans: Khu vực hoang dã phía Bắc), biên chế vào binh đoàn nông khẩn, sư đoàn Ba, đại đội súng máy. Trước khi đến được Bắc Đại Hoang, ba đứa đều nghĩ nơi này hẳn sẽ rất tốt, vốn tưởng rằng sẽ có hương thôn phụ lão cùng ruộng đất xanh tươi, có thể xuân gieo hạt giống thu hái trái xanh, mặt trời lên thì hăng say lao động, mặt trời xuống thì cùng nhau nghỉ ngơi, binh đoàn thực hiện bán quân sư hoá thì sẽ còn có cơ hội bắn súng, cưỡi ngựa, uy phong lẫm liệt dắt súng bên hông đi tuần tra biên giới, bảo vệ dải biên cương tổ quốc, không phải là rất kích thích sao? Thế nhưng cho đến khi tới nơi, nhìn một cái, nước mắt hạnh phúc dồn nén bấy lâu không thể rơi xuống, bởi vì cảnh tượng trước mắt, thật có thể nói là “Thiên lí vô nhân đoạn ngọ yên, hoang nguyên nhất vọng diểu vô biên” (Trans: Miêu tả cảnh nơi đây rất hoang vắng, tiêu điều không một bóng người, hoàn toàn khác xa so với suy nghĩ của ba vị chuyên tưởng bở kia)! Một vùng đầm lầy ẩm ướt hoang vu mênh mông bát ngát không thấy đầu cuối, lại vừa có thỏ vừa có sói, nơi ở hoàn toàn là túp lều lán trại mà thôi. Năm này vừa khéo là năm 1968.

Nơi sư đoàn nông khẩn số Ba đóng quân gần sát với Nội Mông thuộc biên giới Trung-Nga, tiếp giáp với vùng rừng rậm nguyên thuỷ của khu Đại Hưng An Lĩnh. Thời Bắc Tống, Hoàn Nhan A Cốt Đả của bộ lạc Nữ Chân thuở nhỏ đã từng tại nơi này đánh cá săn bắt mưu sinh, sau này Kim Bát Kỳ cũng là từ nơi đây mà phát tích, tiến vào Long Hưng quan ải kiến lập nên vương triều Mãn Thanh, sau đó đem vùng hoang dã rộng lớn này cùng rừng núi nguyên thuỷ bảo hộ toàn vẹn, săn bắn, chăn thả gia súc hay làm ruộng đều không được phép, trăm nghìn năm qua một mực bảo trì trạng thái man hoang cổ xưa của phiến thiên địa này. Mãi cho đến những năm 50 của thế kỉ này mới có binh đoàn đóng quân trấn thủ đầu tiên tới khai hoang. Binh đoàn lấy sư đoàn làm đơn vị, mỗi đơn vị có một khu vực riêng. Chúng tôi sau khi đã tham gia khoá huấn luyện quân sự đơn giản, bị phân về nông trường số 17 hoang vắng nhất vùng Tây Bắc, thuộc quản lý của sư đoàn Ba, binh đoàn sản xuất kiến thiết nông khẩn Hắc Long Giang. Mang tiếng gọi là nông trường nghe rất hay tai, nhưng thật ra đến một đống đất hình cái nhà cũng đều không có, mà là ở trên hoang nguyên đào ra mấy cái động, mặt trên bện lá cây lẫn cành cây làm thành cái mái, lại che lên thêm hai lớp vải bạt chống nước, gọi là “Địa oa tử”. Ăn ở sinh hoạt hoàn toàn thực hiện ở trong loại địa oa tử này, mùa đông thì rét căm căm, mùa hè thì nóng như lửa đốt, mưa một cái thì chẳng khác gì cái bể bơi, thật đếch phải nơi dành cho người ở, Tuyền béo chính là tại nơi này học được bản lĩnh bơi lội.

Biên chế của nông trường số 17 là một trung đội, nhưng trên thực tế thì nhân sự đếm ra chỉ được có một tiểu đội, trung đội trưởng là một vị quân nhân tàn phế đã từng tham gia kháng chiến chống Mỹ viện Triều. Hắn tại chiến dịch Trường Tân Hồ Đống mà hỏng mất một bên chân, từ năm 1953 bắt đầu về đây trấn thủ rồi làm nông khẩn, cắm rễ tại nơi biên giới này đã được hơn 15 năm rồi, đối với vùng đất hoang nguyên này hắn nắm rõ như lòng bàn tay. Ba thằng chúng tôi ở trong trung đoàn, thậm chỉ là cả trong sư đoàn, đều là xưng tên báo số cùng ba từ “Khó cạo đầu”, nói trắng ra chính là nghịch ngợm càn quất không chịu nghe theo quản lí của cấp trên, vậy cũng chẳng có gì là kì lạ, chúng tôi trước kia ở trong quân khu đại viện, thủ trưởng thấy qua không ít, là lập chí tại đại chiến thế giới lần thứ ba đại chiến trở thành tư lệnh viên, làm chủ chiến trận, ù ù một lão trung đoàn trưởng ở cái binh đoàn sản xuất rách này làm sao có thể chỉ huy được mấy người chúng tôi chứ? Bất quá tôi vẫn rất là bái phục vị trung đoàn trưởng này của chúng ta, bởi vì hắn có đầy một bụng những cố sự đã từng xảy ra trong khu rừng già núi thẳm này, khiến người ta vô cùng ghiền tai, nghe nhiều đâm ra thành nghiện!

Cuộc sống sinh hoạt hằng ngày ở binh đoàn nông khẩn vô cùng nhàm chán và buồn tẻ, trừ thuộc không xong ngữ lục, viết không nổi “Bản kiểm điểm” tâm đắc ra, trung đội chúng tôi chỉ có hai nhiệm vụ, một là đào đất bùn dưới mương đắp thành đầm nước, hai là huấn luyện quân sự và tuần tra canh gác. Công việc đào đất mương thật chẳng phải việc nhẹ nhàng dễ chịu gì, hai rưỡi bắt đầu vác xác đi làm việc, còn làm đến khi nào thì cũng chịu, từ lúc trời tờ mờ hãy còn nhá nhem làm thẳng đến khi tối mò mới trở về, từng ngày qua đi là từng ngày mệt mỏi muốn chết đi sống lại, trên tay xước xát từng vết trai vết bầm nổi lên nhưng cũng không có thời gian mà băng lại cẩn thận. Bởi vì thời gian này quan hệ hai nước Trung - Xô đang diễn ra theo chiều hướng xấu, các binh đoàn nông khẩn sản xuất đều được yêu cầu phải trang bị vũ khí, cho nên ngoài cuốc xẻng cần thiết mang theo để làm công cụ sản xuất khai hoang ra, toàn bộ mọi người đều được phát thêm súng đạn đầy đủ, nửa đêm canh ba còn hay thường xuyên bất ngờ tập hợp quân, bị trung đội trưởng lôi từ trong chăn ấm dậy trang bị tư trang đầy đủ, bắt đầu huấn luyện dã ngoại đêm, vì thế gây ra không ít chuyện cười chảy cả nước mắt. Có một hôm như này, lại là giữa đêm hôm khuya khoắt phát lệnh tập hợp khẩn cấp, tiếng kèn vừa vang lên, mọi người lăn một vòng từ trong chăn bò ra, cả tiểu đội hơn 10 người xếp thành một hàng. Trung đội trưởng giao cho Tuyền béo kiểm tra xem có hay không người nào chưa thực hiện xong công tác chuẩn bị quân tư trang. Tuyền béo bèn cầm theo sợi lông gà làm lệnh tiễn (Trán: Tượng trưng cho quân lệnh, các bạn xem phim cổ trang Trung Quốc đến đoạt ném thẻ xử trảm thì thẻ đấy chính là lệnh tiễn), lần lượt săm soi bới móc sai phạm của từng người chúng tôi, trước nói balo của Trương Tam đeo không đẹp, lại nói Lý Tứ trang bị mang theo không đủ. Tiểu tử này tính khí như cứt chó, lại có thể phê bình tôi là khăn quàng cổ không buộc cẩn thận, không phù hợp với yêu cầu thực chiến, khi đánh thật không ai biết sẽ phải lăn lê bò toài ngoài thời tiết lạnh giá này mấy giờ đồng hồ cả, không thể để bị đông lạnh mà chết cứng được. Trung đội trưởng cho là Tuyền béo nói rất là có lí, chính lúc đang muốn biểu dương cậu ta, cầm đèn pin đi về phía trước chiếu một cái, thiếu chút nữa là hai lỗ mũi của trung đoàn trưởng nổ tung. Thì ra là chỗ đứng quá tối, lúc này soi vào mới thấy Tuyền béo không biết là cầm phải cái ống tất dài của ai đang treo trên kháng đất để hong khô, tự mình vội vàng quấn một vòng trên cổ rồi chạy ra, cái tất đen hôi rình rình này thế nào vừa vặn lại quấn đúng vào miệng hắn.

Trung đội chúng tôi đóng quân ở khu vực hoang vu vắng vẻ, thỉnh thoảng ở sâu trong hoang nguyên có thể tình cờ thấy một, hai con sói. Nghe nói là trước kia còn có hẳn một đàn sói rất đông, nhưng mà qua mấy năm vận động diệt sói, đàn sói sớm đã bị bộ đội biên phòng đuổi đánh cho hết đường sống, số sói còn sót lại đến bây giờ đã ít lại càng ít. Có con vì muốn bảo toàn tính mạng, thậm chí còn vểnh đuổi lên để giả vờ làm chó nhà, cho dù là như thế, đêm đến cũng ít ai dám ra ngoài. Nếu như ban ngày mà đụng phải chó sói, cho phép nổ súng bắn, binh đoàn có kỷ luật của binh đoàn, có thể dùng súng đạn để bắn sói trừ hại, nhưng cấm không được vì cải thiện bữa ăn mà đem ra săn thỏ núi, gà rừng. Trung đội chúng tôi tổng cộng có tầm hơn 10 người, một năm nọ mùa đông lạnh lẽo chợt ập đến, bộ chỉ huy liền hạ lệnh cho rút lui một số lượng lớn người, bởi vì trời quá lạnh, đất đai đều đã đóng băng hết cả rồi, không thể trồng trọt chăn nuôi gì được nữa, phải đợi đến mùa xuân năm sau sông băng tan ra thì lúc ý mới lần lượt quay lại sản xuất tiếp. Trước giải phóng, thổ phỉ trong núi cùng những nhóm người vào rừng đãi vàng kiếm sống, không khỏi mê tín đối với thiên tương địa tương, thông qua quan sát sự biến hoá của núi non sông nước để tìm cách giữ cát lộc, trừ hung hoạ. Mùa xuân khi hoa tùng nở, sông băng tan, phải đứng bên bờ mà xem năm nay là văn khai giang hay là vũ khai giang: Văn khai giang ngón tay đặt trên sông băng sẽ khiến lớp băng dần dần tan ra; vũ khai giang ngón tay gõ gõ lên mặt sông, từng mảnh từng phiến băng lớn sẽ đâm vào nhau, thanh thế kinh người, nghe nói là do Độc Giác Lão Long dùng sừng xẻ băng rạch nước. Người xưa tin rằng vũ khai giang chính là điềm báo tốt báo hiệu một năm may mắn, mưa thuận gió hoà, bốn phương thái bình, ngũ cốc đầy nhà, như thế gọi là “Thiên hữu long trợ”. Thường nói “Nhất long trị thuỷ hảo”, ngược lại nhiều rồng quá thì lại không tốt tí nào. Còn văn khai giang kỳ thực nói rõ ra thì là báo hiệu một năm mất mùa, thời tiết khắc nghiệt, ở nơi cao hàn biên hoang này, sẽ bị ảnh hưởng trực tiếp đến việc thu hoạch, gặt hái nông sản.

Liên bộ ra chỉ thị để lại mấy người, có trách nhiệm trông chừng các trang thiết bị vật tư trọng yếu của nông trường. Tôi cùng Tuyền béo và Lục Quân, ba thằng bị nhắm trúng phải làm người ở lại, ngoài ra còn có một vị chiến hữu khác nữa, là một cô gái cũng đến từ Bắc Kinh, bởi vì vấn đề xuất thân không tốt nên cũng không được tuyển chọn vào quân chính ngạch giống chúng tôi, nên mới đi đến binh đoàn dành cho đám thanh niên tri thức này. Lão quản lí ở Bắc Kinh gọi cô gái xinh đẹp này là “Tiêm Quả”, người trong binh đoàn cũng theo thế mà gọi tên. Cô ta được xem như là người duy nhất trong trung đội biết sử dụng điện đài nên được làm liên lạc viên, bây giờ cũng bị lưu lại để trông coi nông trường số 17 cùng ba thằng tôi. Thực ra ban đầu vốn còn có một nữ thanh niên nữa, bất quá do mắc bệnh quáng gà, thành ra tạm thời bị điều đi, đoàn bộ cũng chưa kịp cắt cử người khác đến. Do thế nên ở lại trực nông trường chỉ có tôi, Tuyền bèo, Lục Quân cùng Tiêm Quả, 4 người không hơn không kém. Một thời gian trước, có bộ tộc dân du mục Mông Cổ đang trên đường chuyển bãi chăn thả khác, lúc đi qua nông trường số 17 của chúng tôi, có một con chó chăn dê lớn màu đen hạ sinh một con tiểu cẩu, đám du mục sợ rằng đường xá xa xôi, lại phải lặn lội vất vả không chăm sóc được con tiểu cẩu này, tạm thời gửi nó cho Tiêm Quả nhờ trông nom hộ, đợi đến mùa xuân năm sang năm sẽ dẫn đi. Tiểu hắc cẩu đầu tròn đít tròn, to chẳng khác gì con gấu con cả, mùa đông ở Bắc Đại Hoang vạn vật đều rơi vào giấc ngủ đông li bì, trước đã hoang vắng thì nay còn hiu quanh hơn, thành ra mỗi ngày cùng tiểu hắc chơi đùa khiến cho chúng tôi vui vẻ không ít. Mà theo từng cơn gió lạnh kéo đến, ở cái nơi hoang nguyên vắng vẻ này, cũng chỉ có bốn người chúng tôi cùng con chó nhỏ này sống nương tựa lẫn nhau.

Trung đội trưởng trước khi đi dặn đi dặn lại chúng tôi: “Một khi gặp bão tuyết lớn, mấy người các cậu nhớ chui vào trong địa oa tử mà tránh bão, nếu không cần thiết phải đi ra ngoài thì hãy ở yên trong đấy đừng có thò cái mặt ra, địa oa tử mặc dù thô sơ đơn giản nhưng ở phía dưới kháng đất có ống khói thông với bếp, cũng thông thẳng tới nền nhà, đốt lửa là sẽ có hơi nóng bốc lên sưởi ấm. Nhớ phải thay phiên nhau trông coi, tuyệt không được để lửa trong kháng đất bị tắt, còn phải thỉnh thoảng ra dọn bỏ tuyết đọng đề phòng địa oa tử cùng ống khói bị sập. Các cô các cậu chưa từng sống qua mùa đông ở vùng Bắc Đại Hoang này, không biết được sự lợi hại của gió lạnh thổi từ Siberia khủng khiếp như nào đâu, ngàn vạn lần chớ nên khinh thường, bằng không chỉ qua một đêm thôi các cậu sẽ chết đứ đừ cho mà xem!”

Sau khi người cuối cùng rời khỏi, chỉ còn bốn người chúng tôi ở lại Bắc Đại Hoang này để trông coi nông trường số 17, mỗi ngày trừ việc đi ra ngoài tuần tra, thì trọng yếu nhất chính là việc dùng gỗ để đốt lò sưởi ấm. Mùa đông năm nay lạnh một cách khác thường, mặc dù còn chưa có tuyết rơi, nhưng hàn phong từ Siberia thổi tới đã mang theo băng vụn, thổi lên mặt chẳng khác gì có dao cứa qua vậy, căn bản là không mở nổi mắt, khiến người ta cảm thấy không cách nào chống đỡ được. Mắt thấy thời tiết càng ngày càng xấu, từng đám mây nặng trình trịch từ Tây Bắc đang dần kéo đến, tôi phân công công việc cho mỗi người: Tiêm Quả phụ trách điện đài cùng cơm nước hàng ngày, đợi đến khi luồng không khí lạnh thổi đến mang theo bão tuyết, giao thông sẽ bị ngăn trở mất một hai tháng, lương thực chúng tôi để dành chỉ có hạn, vạn nhất không đủ ăn, muốn săn thú cũng chẳng có chỗ mà săn, thể nào cũng sẽ bị chết đói, cho nên khẩu phần ăn của mỗi người mỗi ngày phải theo định lượng; nhiệm vụ của tôi và Tuyền béo thì là nhóm lửa thêm củi, kết hợp với khi đi ra ngoài tuần tra, nhân lúc thời tiết hãy còn tốt, chúng tôi cố gắng bắt thêm vài con thỏ núi, dăm con gà rừng để bổ sung vào kho lương thực; Lục Quân thì phụ trách việc sinh hoạt văn hoá, mỗi ngày kiếm một câu chuyện để kể cho mọi người nhằm giải khuây.

Lục Quân mặt mày như đưa đám, giãy nảy: “Anh em à, tôi chẳng qua chỉ là đọc qua mấy quyển sách vớ vẩn thôi, đến Bắc Đại Hoang này cũng được gần một năm rồi, ngày nào các cậu cũng bắt tôi kể chuyện, dăm ba mẩu chuyện linh tinh đã sớm bị moi ra hết, thật sự là không còn gì để kể nữa, giờ bảo tôi bịa ra thì cũng chịu không bịa nổi đâu!”

Tuyền béo lập tức đốp lại: “Tên tiểu tử Lục Quân nhà ngươi đừng có không biết cân nhắc một hai, hai phân tiền một cân cà rốt — cậu hãy còn muốn lấy tiền của chúng tôi có phải không?”

Tôi cũng quay qua nói với Lục Quân: “Đừng có được tiện nghi mà khoe tài, nếu như cậu cảm thấy công việc kể chuyện này là khó khăn cực khổ, vậy thì được thôi, bắt đầu từ ngày mai nhiệm vụ của cậu là ra ngoài kiếm củi, được chứ?”

Thể trạng của Lục Quân vốn vô cùng gầy yếu, tới nỗi một trận gió lớn cũng đủ để thổi ngã cậu ta, nói gì đến hàn phong khủng khiếp ở Bắc Đại Hoang này, khéo cậu ta còn bị thổi bay đi mất, cho nên nghe thấy tôi nói vậy thì vội vàng: “Không được không được, trời lạnh như thế này, tôi biết đi đâu tìm củi đốt đây? Tôi thấy tôi vẫn nên là tiếp tục công tác làm tư tưởng văn hoá cho các cậu, mỗi ngày kể thêm cho các cậu vài mẩu chuyện về đồng chí Lôi Phong vậy.”

Tuyền béo nói: “Chuyện về đồng chí Lôi Phong thằng này nghe đến mòn cả hai lỗ tai rồi, không phải là cõng bà già qua sông thôi sao, cái này lại còn phải cần cậu kể?”

Lục Quân đáp lại: “Những mẩu chuyện kể về đồng chí Lôi Phong rất nhiều, cậu mới nghe qua được mấy đoạn chứ? Hồi bé Lôi Phong đi thả trâu bị chó nhà địa chủ cắn, chuyện này cậu có biết không?”
Tuyền béo đáp: “Chuyện này tôi thật còn chưa biết, nhưng toàn là mấy chuyện vặt vãnh hồi nhỏ, bị một con chó cắn thì có cái quái gì đáng ngạc nhiên cơ chứ? Cậu lôi chuyện này ra để kể, nhưng vẫn không qua được cửa ải hôm nay đâu.”

Tiêm Quả nói: “Hai người đừng chỉ có đấu võ mồm nữa, tôi thấy hai ngày nay chúng ta dùng củi quá nhanh, giờ phải đốt tiết kiệm thôi nếu không muốn phải mạo hiểm giữa trời gió tuyết này vào rừng sâu để kiếm củi.”

Lục Quân biết nói không lại Tuyền béo, thấy có người đã chuyển đề tài khác, vội vàng phụ họa theo: “Đúng đó! Tôi sáng nay có đi xem thử, củi gỗ dự trữ quả thật còn lại không nhiều, nghe nói mùa đông ở Bắc Đại Hoang không phải chỉ là lạnh bình thường thôi đâu, chúng ta ngay cả một cái nhà tử tế cũng không có, giờ đến củi để sưởi địa oa tử cũng hết nốt, theo như lời lão trung đội trưởng nói, chỉ cần một đêm thôi chúng ta sẽ bị đông cứng thành băng!”

Tôi nghe thấy bọn họ nói thế, trong lòng cũng bắt đầu thấy lo lắng, lúc trước tôi có nghe đám dân du mục Mông Cổ lúc đi qua nông trường nói, nhìn sắc trời báo hiệu sắp có một đợt giá rét trăm năm khó gặp, đến lúc đó gió lạnh Mạc Bắc cùng thổi tới, trên hoang nguyên sẽ nổi lên “Náo Hải Phong” vô cùng đáng sợ. Người chưa từng đến Bắc Đại Hoang, căn bản nghe xong cũng sẽ không hiểu gì cả, thế nào gọi là “Náo Hải Phong”? Đó là cường phong thổi cùng với bão tuyết, loại gió này khi nổi lên mang theo vang động đáng sợ, giống như tiếng sủa điên cuồng của chó dại đang lên cơn vậy, liên tiếp mấy ngày liền không ngừng, mà chúng tôi muốn từ nông trường số 17 này đi ra ngoài kiếm củi đốt, chỉ có thể đi đến vùng đầm lầy phía trước hoặc vùng rừng rậm nguyên thủy sát biên giới, gặp phải thời tiết tồi tệ như thế, đi khỏi cửa chưa được bao xa thì cái mạng nhỏ này đã quy tiên rồi, làm sao tìm được củi lửa về sưởi ấm? Huống hồ trời lạnh đất đông cứng băng tuyết bao trùm khắp nơi như này, căn bản cũng không dễ dàng mà tìm được củi gỗ!

Vừa nghĩ đến đây, bốn người chúng tôi mới thực sự ý thức được rằng đã gặp phải phiền phức lớn rồi! Người phụ trách tồn trữ củi lửa cùng nhóm lò thổi bếp chính là tôi cùng Tuyền béo, nếu để xảy ra chuyện gì không hay thì hai thằng tôi không thoát khỏi bị tra cứu trách nhiệm. Nhưng tôi không khỏi cảm thấy kì quái, tôi quả thật trước giờ không phải loại ngoại thiếu trách nhiệm hay làm việc qua quýt, làm sao có thể không để ý đến việc củi đốt quá nhanh, hoặc củi tồn trữ không đủ chứ? Nhân lúc bão tuyết còn chưa ập đến, tôi cùng Tuyền béo mang theo súng trường, quần áo mặc kín mít từ đầu đến đít, mạo hiểm đi sâu vào hoang nguyên kiếm củi mặc cho nguy cơ phải đối mặt với đàn sói hoang.

Chúng tôi vừa đảo mắt tìm xem nhánh cây nào thích hợp làm củi đốt, vừa nói với nhau: “Lúc trước củi lửa chuẩn bị rất đầy đủ, đều do chúng ta chỉ nghĩ đến việc sưởi ấm địa oa tử, nằm dài trong nhà tận hưởng ấm áp, thành ra hoang phí quá nhiều củi, nếu không phải có Tiêm Quả kịp thời phát hiện, đợi đến khi bão tuyết kéo tới nơi, bốn người chúng ta chỉ còn nước nằm chờ chết trong địa oa tử, lần này thật sự là quá nguy hiểm, tuyệt đối không được để xảy ra lần thứ hai!”

Ở trong hoang nguyên hoang vu vắng vẻ này tìm củi gỗ không phải chuyện dễ dàng, chúng tôi chạy đi chạy lại suốt mấy ngày trời, cũng không kiếm đủ củi đốt. Tôi và Tuyền béo đành phải mạo hiểm đi đến khu rừng rậm nguyên sinh Đại Hưng An Lĩnh ở sát biên giới, củi to củi già ở đấy khắp nơi đều có, chỉ là cách nông trường số 17 này quá xa, hơn nữa trung đội trưởng cũng nhiều lần quán triệt với chúng tôi, không cho phép đi đến gần phiến rừng già đó!

Tôi lúc đó có hỏi qua ông ấy: “Bên trong khu rừng nguyên sinh đó có nguy hiểm gì vậy? Mùa đông trời giá rét đất đóng băng, gấu to gấu nhỏ chui hết vào hang ngủ đông rồi, chỉ cần có cây súng trường trong tay, gặp sói gặp hổ cũng chẳng có gì phải sợ cả.”

Từ trước đã có đám thợ săn người dân tộc Ngạc Luân Xuân qua lại vùng sơn lâm thâm xứ này, cưỡi trên lưng hươu, lấy súng hoả mai cùng cung tên làm vũ khí, bọn họ sử dụng kiểu súng lỗi thời, trước khi muốn bắn phải nhồi thuốc súng vào nòng, vô cùng chậm chạp, lực sát thương cùng tầm bắn cũng chỉ có hạn, gặp hổ báo hay gấu đều rất nguy hiểm. Nhưng binh đoàn chúng tôi thì lại được trang bị toàn là súng trường bán tự động K-56 (Trans: Súng trường tự động Kiểu 56, hay K-56, là loại súng trường tiến công do Trung Quốc sản xuất dựa trên Súng trường tiến công Kalashnikov AK-47 và AKM. Súng được sản xuất từ năm 1956 tại Nhà máy sản xuất vũ khí số 66 của Trung Quốc), nhắm mắt cũng có thể hạ gục được mục tiêu mình cần, đem ra đối phó với dã thú thì dư sức có thừa, đừng nói là chó sói, chỉ có duy nhất một ngoại lệ, đó chính là heo rừng! Bọn heo rừng trên Đại Hưng An Lĩnh vừa tinh ranh vừa chạy nhanh, thường nói “không có gấu trên ngàn cân, chỉ có heo trên chục tạ”, bởi vì heo rừng thường ngày hay cọ cọ da lên thân cây tùng, khắp người dính từng lớp từng lớp nhựa cây dày thôi rồi, lâu năm tạo thành một bộ giáp vừa cứng vừa chắc chắn, cho dù bị đạn súng trường bắn cũng rất khó toi mạng, thành ra chỉ một hai người mà vào rừng gặp phải chúng thực sự rất nguy hiểm. Bất quá tôi cũng chưa nghe thấy ai nói khu vực này có heo rừng cả, ở vùng rừng sâu nước độc này, có cái gì lại khiến người từng vào ra chiến trường khói lửa như trung đoàn trưởng phải sợ hãi kiêng dè?

Thế là thừa dịp hôm đấy lão uống nhiều rượu ngô quá đâm ra cứ nửa tỉnh nửa say, lại bị ba thằng tôi, Tuyền béo và Lục Quân ở bên kích bẩy xúi giục, thành ra lỡ miệng, mà lão lại kẻ hay nói nhiều nên cứ thế nói ra hết, chuyện là những năm đầu thập niên 50, lão vừa tới binh đoàn nông khẩn này. Khi đó lão cũng là mới từ chiến trường trở về, mùi khói thuốc trên người hãy còn chưa tan hết, mang theo súng trường vào rừng kiếm củi, Đại Hưng An Lĩnh đang bước vào những ngày cuối thu, thời tiết lẫn cảnh sắc thật là quá mê người, khiến lão bất tri bất giác đi lên trên núi. Lão trung đội trưởng ở chiến trường Triều Tiên bị hỏng mất một cái chất, mặc dù không phải cắt cụt đi, nhưng đi bộ các thứ rất chi là tốn sức, vừa đi đến trên núi thì cảm giác không nhúc nhích được gì nữa, nên ngồi xuống nghỉ ngơi lấy sức, châm một điếu thuốc lá rít lấy hai hơi, phê đến nỗi hai mắt díu cả lại, ngủ luôn lúc nào cũng không hay. Chợt mơ mơ màng màng cảm thấy bên cạnh hình như có người, lão tưởng là chiến hữu cùng binh đoàn, mở mắt ra rồi quay sang nhìn một cái, lông tóc toàn thân lập tức dựng đứng, bởi vì thứ lão thấy là một con chó sói lớn đang ngồi bên cạnh, nhặt lấy mẩu thuốc lúc trước lão hút dở, từng hơi từng hơi y như người rít vào xong lại nhả khói ra!

Trung đoàn trưởng nói tới đây, trên mặt hiện lên thần sắc khó tin, lão hỏi chúng tôi: “Các người đã từng thấy chó sói hút thuốc lá bao giờ chưa? Đó chẳng phải là đã thành tinh thành quỷ rồi sao?”

Vào thời kì lúc bấy giờ, đây chính là những lời kiêng kị tuyệt không thể nói, đơn giản thì bị coi là tư tưởng mê tín, nghiêm trọng hơn thì là khép vào tội làm giao động lòng quân!

Tôi nói với lão: “Cháu đã từng thấy mấy con khỉ già ở trong vườn thú, chúng nó nhặt lấy những mẩu tàn thuốc còn chưa tắt lửa rồi đưa lên mồm rít mấy hơi, còn nói chó sói hút thuốc lá thì cháu chưa từng nghe nói đến bao giờ, móng vuốt sói như thế sao có thể cầm được điếu thuốc? Khéo bác ngủ say quá nằm mơ linh tinh lại cứ tưởng là thật thì có!”

Trung đội trưởng nói lão từng tham chiến ở Triều Tiên, đã thấy qua rất nhiều người chết, là quân nhân thì đều không sợ ma cũng chẳng sợ quỷ, lão vốn còn xuất thân từ thợ săn, sau đó lại đến Bắc Đại Hoang khẩn hoang kết hợp trấn thủ biên giới, hổ gấu gì lão cũng đánh qua cả rồi, dĩ nhiên không sợ dã thú. Bất quá lúc đó lão bị bất ngờ, sợ đến tái mét cả mặt, quên cả xách theo cây súng trường, trực tiếp lăn thẳng từ trên núi xuống. Sau này nghĩ lại, lão cũng không thể nào tin được chuyện gặp trên Đại Hưng An Lĩnh là thật, có lẽ là thật sự đã nhìn nhầm, có thể yêu quái mà lão nói, cũng không phải là con sói cầm điếu thuốc lên hút, mà là…. Chúng tôi nghe thế đều hết sức tò mò, cố gắng gặng hỏi lần nữa, nhưng trung đội trưởng lại không chịu nói tiếp. Tôi cùng Tuyền béo, hai đứa là loại người không sợ trời cũng chẳng sợ đất, hơn nữa bên người còn có súng trường bán tự động K-56 tăng thêm can đảm, sớm đem những lời trung đội trưởng nói quên mất tiêu luôn. Chúng tôi nói với Lục Quân cùng Tiêm Quả, nếu như mang theo súng trường, khi vào núi ngoài có thể kiếm được củi ra, nói không chừng còn săn được hươu nai gì đấy, thịt hươu thực sự vô cùng ngon, toàn thân không có mỡ, hấp lên ăn rất là sướng miệng, còn khi nướng thì ngoài giòn giòn trong thì mềm thơm, ngoại trừ hươu, còn đâu chúng tôi đều không thèm bắt!

Hai thằng to mồm thổi một hồi da trâu (Trans: Tự sướng, tâng bốc bản thân mình, giống câu “Thùng rỗng kêu to”), đi vào khu rừng rậm nguyên sinh Đại Hưng An Lĩnh, khi trở về nông trường còn kéo theo hai bó củi lớn. Cứ thế một lần đi rồi lại một lần về cũng không có phát sinh chuyện gì ngoài ý muốn, nhưng cũng chẳng săn được con hươu quái nào cả, đành phải bốc phét với hai người kia: “Chúng tôi có mấy lần thấy qua vùng hươu tụ tập, nhưng mà nơi đó lại là ở tận sâu trong rừng, sợ là săn được thì cũng không mang về được, cho nên quyết định thôi không nổ súng nữa, bất quá địa hình đường đi nơi đó chúng tôi đều thuộc hết rồi, chờ mùa xuân sang năm, mang theo nhiều người hơn đến đấy, tha hồ mà mang về cải thiện bữa ăn!”

Bốn người xếp củi lại thành từng bó, ước chừng nhiều củi như này sẽ đủ cho chúng tôi sống qua được mùa đông dài đằng đẵng ở Bắc Đại Hoang. Nguy cơ thiếu củi để sưởi ấm rốt cuộc đã được giải quyết xong, lo lắng trong lòng tôi cũng biến mất. Mắt thấy diên vân (Trans: Mây đen, dày, khiến người ta cảm giác đám mây này rất nặng) từ Tây Bắc càng ngày càng dày, nội trong hai ba ngày nữa thể nào cũng có tuyết rơi, chúng tôi phải tận lực hạn chế đi ra ngoài, chuẩn bị trốn vào trong địa oa tử tránh rét. Địa oa tử nông trường số 17 này tổng cộng được chia làm ba dãy trước, giữa và sau, hai dãy phía sau không có người ở, bốn người chúng tôi cùng tiểu hắc cẩu đều ở dãy trước. Mỗi dãy từ trái sang phải theo thứ tự lần lượt có năm gian nhà, gian đầu tiên bên trái dùng để cất súng máy đạn dược và các loại cuốc xẻng nông cụ làm việc. Tôi cùng Tuyền béo và Lục Quân, ba người ở gian thứ hai, nồi niêu xoong chảo bếp núc thì để chung ở một gian thứ ba, còn gian thứ tư là của Tiêm Quả, cuối cùng gian thứ năm thì đặt máy điện đài thông tin, các đồ dự trữ để sống qua mùa đông cũng đều ở chỗ này.

Ngoài ba dãy nhà phía sau vẫn còn có một kho chứa thóc nữa, bên trong chất đầy rơm rạ cỏ khô cao như núi, vốn là cũng muốn mang củi khô vào đây cất, nhưng lại thấy địa oa tử cùng kho thóc này cách nhau một đoạn khá xa, một khi trời nổi bão tuyết, rất khó để tới đây lấy củi về đốt, liền đem dãy thứ hai làm thành lán trữ củi. Lục Quân là người lắm mưu nhiều kế, ngay hôm đó đem đống củi dự trữ ra đánh số kí hiệu, án theo số lượng củi đốt tiêu tốn mỗi ngày mà phân chia, để tránh Tuyền béo cứ bạ đâu đốt đấy không đếm xem đã dùng bao nhiêu rồi. Nhưng mà qua một ngày kiểm tra lại, thật là thấy quỷ rồi, đống củi đã xếp hôm trước giờ lại thiếu mất đâu một chồng nhỏ. Lục Quân đổ tại chắc chắn chỉ có thể là do Tuyền béo lại phung phí củi lửa. Tuyền béo giận đến nỗi dậm chân bình bịch, trên đầu mồ hôi chảy ròng ròng, mồm năm miệng mười hướng Mao chủ tịch mà thề thốt, tuyệt đối không dùng nhiều củi như vậy!
Nông trường số 17 ở tại vùng hoang nguyên thậm chí một dấu chân người còn không có, nếu số củi đó không phải là do người dùng, vậy không phải là thấy quỷ rồi sao? Bốn người suy đoán lung tung cả nửa ngày, đều nói đừng tự mình hù doạ mình, nói không chừng chỉ là lầm lẫn mà thôi. Thật không hiểu nổi tại sao, qua hôm sau chúng tôi đến lán củi xem xét, kết quả là thiếu mất đi chồng củi nữa. Mọi người trố mắt nhìn nhau, trong lòng đều âm thầm dâng lên một nỗi sợ hãi, củi khô tại sao lại không cánh mà bay? Chẳng lẽ bị người đánh cắp đi sao? Nhưng mà củi nào phải là thứ gì đáng tiền, thà tới trộm còn không bằng mình tự đi nhặt lấy, đáng sợ ở chỗ là xung quanh nông trường lại không có người ở, tại sao có thể có kẻ gian vào trộm củi? Bất luận là ma quỷ lộng hành hay là có kẻ gian lấy mất, cứ mỗi ngày lại mất đi một đống nhỏ như vậy, nhìn thì cũng không nhiều lắm, nhưng thử nghĩ xem mười ngày, nửa tháng thì số củi đó lớn chừng nào chứ, mấy người chúng tôi thể nào cũng không chịu nổi đợt giá rét trăm năm mới gặp một lần này, vậy thật là bị lão thổ địa gia nhéo cái lỗ tai này — Kéo xuống bùn! (Trans: Tức là chết)

Chúng tôi dự cảm thấy có gì đó không lành, vội vàng mang củi dời đến dãy nhà thứ nhất, đặt ở trong gian đầu tiên luôn, súng đạn thì phân phát cho từng người. Tôi thầm quyết định, đêm nay phải đặc biệt chú ý mọi động tĩnh, đem đạn dược cùng súng trường để sát bên người, lúc ngủ vẫn không quên mở một con mắt, tôi muốn nhìn xem rốt cuộc thứ gì đang tác oai tác quái, đống củi không thể nào tự mọc chân ra mà chạy được!

Địa oa tử được chia làm năm dãy nhà, dưới nền có hệ thống nối liền với kháng đất thường được gọi là “địa hoả long”, tuỳ theo vị trí đốt củi không giống nhau, có thể khống chế nhiệt độ mỗi khu vực riêng biệt. Nửa đêm hôm đó, chúng tôi sau khi cửa đóng then cài địa oa tử một cách cẩn thận, liền cùng nhau ngồi vây quay trước bếp lửa mà hơ tay sưởi ấm. Tiêm Quả đem mấy quả táo đã đông cứng lại ra nướng, rồi đưa cho mỗi người một cái ca lớn, bên trong là nước trà táo đang bốc khói nghi ngút. Tiếp đến bắt đầu chương trình sinh hoạt văn hoá tư tưởng, Lục Quân lại đem mấy cái cố sự cũ ri cũ rích của đồng chí Lôi Phong ra kể, không biết đây đã là lần thứ mấy nghìn mấy vạn rồi nữa, chúng tôi sớm nghe đến phát ngấy. Tôi đành phải bắt đầu kể cho mọi người nghe về “Cánh đồng tuyết bao la”, mặc dù trước kia tôi đã từng xem qua quyển sách này, nhưng chỉ nhớ có gần một nửa nội dung, thế là bèn cao hứng phát huy tinh thần không nhớ chỗ nào thì ta bịa ra chỗ đó một hồi, nói là “tiểu phân đội tập kích bất ngờ Nãi Đầu Sơn, Dương Tử Vinh bắt sống con bướm mê”, căn bản là kể linh kể tinh cả lên không theo thứ tự nào cả, thế mà cũng hù doạ được ba người Tuyền béo, Lục Quân cùng Tiêm Quả phải ngây ra một lúc. Nói mãi cuối cùng về sau tôi cũng bí từ, không bịa ra được thêm câu chuyện nào nữa, vì vậy lưu lại Lục Quân ở gian đầu trông coi củi lửa, còn đâu mỗi người tự về phòng mình nghỉ ngơi.

Tôi ngay cả quần áo cũng không cởi, cứ thế leo lên giường chui tọt vào chăn ấm, súng trường bán tự động cùng đèn pin, đều đặt ở cạnh người, chỉ cần đưa tay qua là cũng lấy được, hai tai dỏng lên nghe ngóng tiếng động xung quanh. Cuộc sống sinh hoạt ở Bắc Đại Hoang rất nhàm chán khô khan, cái cảm giác thời gian dài đằng đặc không cách nào xua đi được, nằm suy nghĩ mường tượng về chiến tranh thế giới thứ ba là một trong những thú vui ít ỏi của tôi. Lúc này lại không nhịn được nằm trong chăn nghĩ ngợi lung tung, tưởng tượng về một ngày trời vừa tờ mờ sáng, mấy triệu quân lính Liên Xô cuồn cuộn như thiết sa kéo đến, từ khắp mọi hướng vượt qua biên giới phát động cuộc tiến công nhanh, nông trường số 17 chúng tôi là những người đứng mũi chịu sào, tiên phong đi đầu, cùng quân Liên Xô mở ra một trận kịch chiến. Mặc dù tôi anh dũng thiện chiến, dẫn dắt đám người Tuyền béo tiêu diệt một đợt lại một đợt quân địch, nhưng dẫu sao thì cuối cùng vẫn là địch nhiều ta ít, Tuyền béo hi sinh oanh liệt, còn Lục Quân bị chúng bắt làm tù binh, tiểu tử này tham sống sợ chết, không chỉ phản bội đồng đội trở thành phản đồ, còn mang địch nhân chặn đứng đường lui của chúng tôi. Tôi không thể làm gì khác hơn là dẫn theo Tiêm Quả đột phá vòng vây, các binh đoàn cùng lính biên phòng dưới sự chỉ huy của tôi, nhanh chóng thi hành chiến lược di dời. Sau khi tụ họp một chỗ cùng với các đơn vị quân khác ở hậu phương, tôi quyết định sẽ dụ địch tiến sâu vào, rồi nhất cử tiêu diệt sạch quân chủ lực Liên Xô. Tôi miệng ngậm thuốc lá cuốn, đứng trước địa đồ trong bộ chỉ huy quân sự, người khoác áo choàng dài, hai tay chống nạnh, mặt đầy ngưng trọng, cảnh vệ viên đem đến một bát canh gà nóng hổi, tôi cũng không có tâm tư mà đi uống. Cuối cùng, nhờ có sự cơ trí cộng thêm ánh mắt kiên nghị của tôi, rốt cuộc nhắm trúng dãy Thái Hành Sơn trên địa đồ. Thái Hành Sơn địa thế hiểm trở, từ xưa tới nay được coi là yếu địa chôn vùi xác quân, quân Liên Xô lấy xe tăng làm lực lượng cơ giới chủ lực, một khi lọt vào đây sẽ không cách nào triển khai được. Tôi với tư cách chỉ huy quân đội điều động đại binh đoàn từ ba mặt tiến vào vây diệt quân Liên Xô, nhưng không biết tại sao, Thái Hành Sơn trên địa đồ quân sự khi lọt vào mắt tôi lại biến thành một con cự long, trong âm dương phong thuỷ gọi là “sơn mạch ngưng chỉ khởi phục vi long” (Trans: Dãy núi nhấp nhô, ngưng tàng khí tạo thành rồng). Long giả, giỏi về biến hoá, tuỳ ý biến lớn hoá nhỏ, ẩn sâu hoặc lộ rõ, co được giãn được, có thể bay mà cũng có thể lặn, Thái Hành Sơn xưa nay vốn được coi là Trung Nguyên long mạch, mai táng ở đây chỉ đế vương công hầu mới có tư cách, đâu chỉ trăm ngàn…. Tôi vốn là đang suy nghĩ làm thế nào để chỉ huy đại binh đoàn tiêu diệt quân Liên Xô, nhưng khi địa đồ vừa hiện lên trong đầu, các dãy núi liền biến thành từng cái từng cái long mạch. Chuyện này cũng không có gì kì quái lắm, trước kia tổ phụ từng bắt tôi sống chết thế nào cũng phải học thuộc rồi nhớ kĩ bốn cái tàn quyển kia, giờ có muốn quên cũng không thể quên được, từng cái long mạch khởi khởi phục phục cứ quanh quẩn trong đầu không tan. Bất tri bất giác đã đến nửa đêm lúc nào không hay, tôi nằm trong chăn suy nghĩ linh tinh, Lục Quân ở bên cạnh đã sớm ngủ say như chết, bên trong địa oa tử dần trở nên lạnh lẽo, loáng thoáng có thể nghe được tiếng ngáy của Tuyền béo. Tôi biết ngay thằng ôn Tuyền béo lại ngủ con mẹ nó quên mà, lúc này là đến lượt hắn gác đêm thêm củi, đang muốn đứng dậy gọi hắn cùng đi, chợt nghe gian để củi bên cạnh có tiếng động rất nhỏ, vừa nghe liền biết ngay là có người đang di chuyển củi đi. Tôi tự nhủ: “Hắc! Con mẹ nó có quỷ thật sao?” Rồi lập tức mở mắt ra, lấy tay lay Lục Quân một cái, lại đi ra đạp vào đít Tuyền béo một cước, lặng lẽ chỉ chỉ về phía gian để củi. Hai người bọn họ đều không để ý đến việc mặc quần áo, chỉ lấy cái mũ da chụp tạm lên đầu, cầm theo khẩu súng trướng K-56, theo sát lưng tôi, rón rén bước ra ngoài, chỉ thấy bên cạnh cửa địa oa tử mở ra một khe nhỏ. Tôi bật đèn pin rồi chiếu vào bên trong, bắt gặp ngay một con hồ ly lông xù to béo, trong miệng ngậm củi dường như muốn chui ra ngoài. Hồ ly ở trong bóng tối đột nhiên bị ánh sáng đèn pin chiếu vào, nhất thời nhe ra bộ răng nhọn, cặp mắt phóng ra hung quang.

Củi lửa cất trữ ở nông trường số 17, luôn là vô duyên vô cớ mà ngày càng giảm bớt. Chúng tôi đêm hôm khuya khoắt trước là muốn đi bắt kẻ gian, ai ngờ khi vừa mở cửa địa oa tư, thứ mấy người phát hiện lại là một con đại hồ ly đang lén lút trộm củi, ba đứa thoảng ngần người mất một lúc, rồi lập tức bừng tỉnh, rốt cuộc là chuyện này là như nào, chúng ta hãy còn phải nói đến trước kia.

Đại khái là hơn một tháng trước, mùa thu ở Bắc Đại Hoang mang theo sắc thái phong phú, cảnh vật tuyệt vời nhất trong năm, trên đồng ruộng bao la bát ngát từng gốc lúa vàng óng, từng hàng cây xanh mướt, xa xa là dãy Đại Hưng An Lĩnh cùng rừng rậm nguyên sinh tầng tầng lớp lớp, mây trắng lững thững trôi trên bầu trời xanh ngắt, khung cảnh này so với một bức tranh sơn dầu của danh hoạ nào đó khéo còn mê người hơn gấp chục lần. Khi ấy có mấy nữ thanh niên trí thức ở vùng chăn nuôi đến nông trường của chúng tôi thăm bạn học, theo quy định của binh đoàn, không cho phép người không thuộc biên chế binh đoàn đến gần khu vực biên giới, nhưng mà nông trường số 17 này quá là vắng vẻ, núi thì cao hoàng đế thì xa, một năm từ đầu tới cuối cũng chẳng có mấy người tới chơi, cho nên trung đội trưởng đối với chuyện này thì một mắt nhắm một mắt mở. Mấy cô gái kia thấy cảnh sắc nơi này thật đẹp, không tự chủ được trước phong cảnh mê hồn như tranh vẽ, vô tình đi sâu vào trong hoang nguyên.

Nông trường số 17 này có vị trí khá đặc thù, vừa vặn nằm ở phần nổi bật nhất trên địa đồ Bắc Đại Hoang, phía Tây Bắc là đường biên giới rất dài, mặt Đông lại tiếp giáp với khu rừng rậm Đại Hưng An Lĩnh, phía Tây lân cận cùng đại mạc thảo nguyên, đi về phía Nam toàn là đầm lầy ẩm thấp vô biên vô tận. Quan hệ Trung - Xô lúc đấy hết sức căng thẳng, chiến tranh thiếu chút nữa là bùng nổ, bất quá khu vực này tất cả đều là ao đầm lầy lội, đến người còn không đi qua được, thì xe tăng của Liên Xô càng không phải nói, chỉ có nước nằm im bất động, cho nên nông trường này cũng không bị giải tán, chỉ lưu lại có mười mấy người vừa sản xuất vừa trông coi. Mấy nữ thanh niên từ khu chăn nuôi đến chơi không biết được nguy hiểm của nơi này, càng đi càng vào phía sâu trong hoang nguyên, sắp đi đến khu rừng rậm nguyên sinh. May mà mấy người họ mạng lớn số lớn, không gặp phải chó sói, ngược lại ở một bụi cỏ nào đó tít trong rừng phát hiện ra hai con tiểu cẩu mới sinh. Tiểu cẩu hai mắt đen nhánh mở to, thấy người lạ tỏ ra vô cùng sợ hãi. Con gái ai mà chẳng hay mềm lòng, ôm liền hai con tiểu cẩu không chịu buông, dứt khoát ôm trở về địa oa tử, còn chuẩn bị để mang đi khu chăn nuôi của họ, không nghĩ tới đã đụng phải một đại tai hoạ!

Toàn bộ người trong nông trường số 17 gộp lại chỉ được một tiểu đội, nhưng lại biên chế theo kiểu một trung đội, trung đội trưởng là một quân nhân, dẫn đầu nhóm chúng tôi tới Bắc Đại Hoang tham gia khẩn hoang cùng canh phòng biên giới, lão đối với những chuyện xảy ra tại vùng hoang nguyên này và cả khu rừng rậm nguyên sinh kia đều rất quen thuộc, nghe được tin tức mấy cô gái kia đem hai con chó nhỏ về, lập tức sợ hết cả hồn, cho rằng chúng là hai con sói con, vội vã chạy tới nhìn thử. Thì ra không phải là sói con, dĩ nhiên cũng không phải là chó nhỏ gì cả, mà là hai con tiểu hồ ly, nhìn bộ dạng xem ra mới được sinh ra chưa lâu. Trung đội trưởng trong lòng hơi có chút hồi hộp lo lắng, ra lệnh cho những nữ thanh niên kia mau chóng đem hai con tiểu hồ ly trả về ổ của chúng, nhặt ở đâu thì trả lại đúng chỗ đấy! Ai ngờ họ năn nỉ nhõng nhẽo một thôi một hồi với trung đội trưởng, hứa là sẽ nhất định nuôi dưỡng hai con tiểu hồ ly này thật tốt, đợi tới khi chúng lớn lên rồi thì sẽ thả lại về rừng. Lão trung đội trưởng không thèm để ý, khuôn mặt giận dữ trầm xuống, đem mấy người các nàng đi ra ngoài, nói rõ sự tình này có quan hệ lợi hại như thế nào. Hồ ly không phải chó, không thể nuôi như thú cưng được, lại nói tiểu hồ ly sau khi bị bắt mất đi, thì hồ ly mẹ nhất định sẽ đi tìm, tìm không được thì sẽ quay ra trả thù. Hồ ly không chỉ có lòng báo thù mạnh mẽ mà còn vô cùng xảo quyệt, ngàn vạn lần chớ nên tự mình đi tìm phiền toái. Trung đội trưởng còn hù doạ họ, nói là nếu như không đem hai con tiểu hồ ly về lại chỗ cũ, lão đành phải báo cáo lên cấp trên xử lí. Mấy nữ thanh niên trí thức cảm thấy uỷ khuất, nước mắt rơi lã chã, nhưng cũng đành phải chuẩn bị đem tiểu hồ ly trở về, nào ngờ đâu, khi vừa mới bước vào địa oa tử, mới nhìn thấy bọn chúng đã chết từ lúc nào, có thể là do bị kinh sợ, cũng có thể do không thích ứng được với điều kiện hoàn cảnh ở đây. Trung đội trưởng thấy vậy, cũng cảm thấy hết cách, đem hai con thú hoang mới đẻ nhốt vào trong địa oa tử thì không chết mới là lạ. Chuyện cho tới bây giờ đã không thể tưởng tượng được nữa, không còn cách gì hơn là cho người đem hai cái xác chôn ở nơi xa xa.

Mấy nữ thanh niên sau khi nghĩ rằng đã giải quyết sau tai hoạ thì liền rời đi, nhưng mà là hoà thượng chạy được miếu thì không, đại hồ ly liền để mắt tới nông trường của chúng tôi chuẩn bị báo thù, nó thông qua mùi hương mà nhận định, hung thủ giết hại hai con hồ ly con của nó, chính là những người ở trong địa oa tử này!

Bắt đầu hành động trả thù, con hồ ly mẹ thường xuyên lởn vởn xung quanh địa oa tử, ba ngày đầu liên tục quấy rối, đem mấy con gà đẻ trứng trong nông trường cắn chết toàn bộ. Trung đội trưởng cũng gấp, lão biết rằng thù này vướng mắc rất khó gỡ bỏ, chỉ cần con hồ ly mẹ không chết, thì sẽ không ngừng tiến hành trả thù. Tuy rằng nông trường số 17 này thường ngày vắng vẻ, nhưng cũng không phải là hoàn toàn vắng bóng dấu chân người ngoài, mà thỉnh thoảng sẽ có đám dân du mục Mông Cổ, hoặc mấy tay thợ săn Ngạc Luân Xuân săn bắn trong rừng đi qua. Mà vô luận là dân du mục hay là đám thợ săn, đối với hồ ly đều hết sức kính sợ, ngu phu ngu phụ (Trans: Chỉ những người quê mùa, kém hiểu biết, hay mê tín dị đoán) thấy hồ ly, thường thường sẽ hướng về phía nó mà quỳ mà bái. Trung đội trưởng thấy mấy chuyện đấy đều là mê tín dị đoan, bất quá binh đoàn có kỷ luật phải tôn trọng phong tục tập quán địa phương, cho nên từ trước tới giờ lão đều không cho phép săn bắt hồ ly. Hôm nay không còn cách nào khác, đành phải mượn của mấy tay thợ săn Ngạc Luân Xuân trên Đại Hưng An Lĩnh về hai con chó săn, mang theo súng trường cưỡi ngựa nhằm vây bắt con hồ ly mẹ này. Liên tiếp truy đuổi ba ngày ba đêm không nghỉ, súng trường cùng chó săn hành cho con hồ ly mẹ lên bờ xuống ruộng, chạy thục mạng hết lần này đến lần khác, cuối cùng cũng không rõ là còn sống hay đã chết, dù sao thì nó cũng đã biến mất sâu trong hoang nguyên, lại cũng không thấy xuất hiện ở xung quanh nông trường nữa.

Mọi người tưởng là chuyện này cứ thế rồi sẽ qua đi, không ngờ rằng con hồ ly này thừa dịp người trong nông trường rời đi tránh rét, phòng bị lơi lỏng liền lập tức lén lút quay trở lại! Nó dường như biết được sự lợi hại của súng trường bán tự động, không dám trực tiếp xuất hiện trước mặt chúng tôi, mà âm thầm đem từng cây từng cây củi mọi người dự trữ để trong lán tha đi, chỉ cần chúng tôi phát hiện chậm mất mấy ngày thôi, đến khi gió lớn cùng bão tuyết kéo đến, chắc chắn sẽ phải trơ mắt chờ chết. Đều nghe người ta nói hồ ly là loài xảo trá âm hiểm, nhưng không ai có thể nghĩ tới bọn chúng lại xảo quyệt khôn khéo đến mức này, thật không biết tại sao hồ ly lại nghĩ ra được là mấy người trong địa oa tử chúng tôi phải dựa vào củi đốt sưởi ấm để sống qua mùa đông giá rét này, không có củi toàn bộ mọi người sẽ chết cứng!

Mấy suy nghĩ này vừa loé lên trong đầu tôi, mới ngẩn người ra có một lúc ngắn, con hồ ly già giống như trên lưng mọc ra đôi cánh vậy, “vèo” một tiếng, phóng vọt qua ba cái đỉnh đầu của chúng tôi chuồn mất. Dáng người nó tuy lớn, nhưng lại vô cùng nhanh nhẹn linh hoạt. Đợi đến khi chúng tôi tinh thần bừng tỉnh, con hồ ly đã không một tiếng động, đáp xuống phía sau chúng tôi mấy trượng.

Tuy nói là tổ thượng nhà chúng tôi nhờ vào nghề săn bắt hồ ly mà phát tích, nhưng tôi từ bé đã không tin gì mà có hồ ly thành tinh với chả thành yêu, nhưng mà con hồ ly này thật sự đúng là sắp thành tinh thật con mẹ nó rồi, lại có thể nghĩ ra cách chui vào địa oa tử lấy trộm củi, đây là cố ý muốn lấy mạng của bốn người chúng tôi a! Nếu như để nó ung dung thoát thân, từ nay về sau không biết chừng sẽ còn xảy ra biến cố gì nữa! Tôi vừa mới nghĩ tới đây, Tuyền béo đã đột nhiên quay người lại, nâng súng trường lên dường như muốn nổ súng, kết quả là vội quá hoá quên, chốt an toàn còn chưa có kéo ra, hắn luống ca luống cuống kéo lại chốt.

Hồ ly vừa thấy súng trường trong tay Tuyền béo, bị doạ cho kinh hồn bạt vía, nhìn chúng tôi bằng ánh mắt căm hận tột cùng, rồi ôm đầu chạy như bay. Tôi, Tuyền béo và Lục Quân, ba người vừa tức vừa gấp, nhưng cũng không thể làm gì hơn, bởi vì con hồ ly thoát đi quá nhanh, đợi chúng tôi lên cò xong thì đối phương đã sớm chạy mất tăm. Lão trung đội trưởng kinh nghiệm, bản lĩnh đầy mình như vậy, vừa dùng súng lại vừa cưỡi ngựa đuổi theo suốt mấy ngày còn không bắn chết được nó, có thể thấy độ linh hoạt cơ động của nó không hề tầm thường. Nó nghĩ ra được chiêu này để đối phó với những người sống trong nông trường số 17, thật là không thể tưởng tượng nổi, khiến cho người khác khó lòng phòng bị! Hôm nay để con hồ ly này thoát được, tưởng chừng như không có gì, nhưng xem ra mùa đông này của chúng tôi sẽ không dễ dàng đây!

Đúng lúc này, trong màn đêm đột nhiên nhảy ra một bóng đen. Chúng tôi mượn ánh trăng sáng nhìn thử, rõ ràng là một con đại hắc cẩu, trên đỉnh trán mọc ra một đạo hồng văn, đầu và mặt tựa như đầu con gấu, tiếng như hổ gầm, nghiêng mình bổ nhào về phía con hồ ly, há to miệng như muốn cắn, lộ ra hàm răng sắc nhọn như đao. Con hồ ly kia chỉ chú ý đến việc báo thù những người trong nông trường, còn con hắc cẩu lại là từ hướng đầu gió đột nhiên vọt tới, bất ngờ tấn công tập kích khiến con hồ ly không kịp đề phòng, lập tức bị hắc cẩu lao đến trực diện, nhưng con hồ ly già này cũng là loại xảo quyệt tột cùng, thân thể nhanh nhạy, sau khi ngã xuống đất cũng không vội đứng dậy, bởi vì chỉ cần đứng lên sẽ lập tức bị con hắc cẩu thuận thế đè lại, nó liên tục lăn lộn tại chỗ, đợi đến khi con hắc cẩu cắn hụt một cái, nó đã phóng người chạy mất. Con hồ ly nhận thấy hắc cẩu kia hung ác dị thường, mình tuyệt đối không phải là đối thủ cùa nó, liền không chút do dự chạy như điên hòng thoát thân.

Đại hắc cẩu cắn hụt một phát, gầm lên một tiếng, lại lần nữa nhảy về phía trước, thế như mãnh hổ. Con hồ ly ứng biết rất nhanh, phát giác tình thế có vẻ không đúng, nhanh như chớp quẹo một cái, khiến cho con hắc cẩu tiếp tục vồ hụt vào hư không. Mấy hồi động tác này thật quá nhanh nhẹn mau lẹ, sinh tử chỉ như một đường chỉ mỏng, khiến ba đứa chúng tôi há mồm trợn mắt kinh ngạc. Tiêm Quả nghe thấy bên ngoài có tiếng động, cũng xách theo cây gậy chạy ra kiểm tra, thấy tình cảnh như vậy, đồng dạng cũng kinh hãi không thôi. Ánh trăng xuyên qua khe hở giữa các đám mây đen dày đặc, chiếu xuống hoang nguyên mênh mông vô tận, đại hắc cẩu cùng hồ ly tiến hành một cuộc truy đuổi kinh tâm động phách, một mất một còn!

Mời các bạn đón đọc chương tiếp theo: "Chạy trốn trong gió (Trung)" đăng tại page Hội những người nghiện truyện của Thiên Hạ Bá Xướng & https://truyenfull.vn
 
Sửa lần cuối bởi điều hành viên:

Lười Biếng Vô Tận

Thanh Phong 37
Tham gia
5/4/19
Bài viết
21
Điểm cảm xúc
67
Điểm
13
Chương 4: Chạy Trốn Trong Gió (Trung)
Dịch: Đặng Nam

Loài chó cùng hồ ly từ khi sinh ra vốn đã là thiên địch của nhau, đại hắc cẩu kia mạnh mẽ ngoan cường, thấy hồ ly xuất hiện thì một mực lao tới cắn xé, dồn nó vào chỗ chết, mà con hồ ly thì dựa vào kinh nghiệm gian xảo nhiều năm đã từng trải qua nhiều biến cố hung hiểm, có mấy lần, mắt thấy sắp bị hắc cẩu vồ đến nơi, thế nhưng nó lại có thể thoát khỏi trong đường tơ kẽ tóc, mỗi lần đều chỉ kém chút xíu nữa là chết chắc. Chúng tôi cầm súng trường đứng ở một bên, lòng bàn tay ai cũng lạnh đầy mồ hôi theo dõi trận chiến của đại hắc cẩu, thấy con hồ ly lần này qua lần khác ở trong tử địa đột phá được sinh môn, gấp đến độ mọi người trực tiếp giậm giậm chân, miệng liên tục kêu đáng tiếc!

Bất quá chúng tôi rất nhanh liền nhìn ra, con đại hắc cẩu kia hành động nhanh nhẹn tựa như hổ báo, hồ ly rốt cuộc là không cách nào có thể hoàn toàn thoát khỏi sự truy kích của nó, chỉ biết liều mạng chạy vòng quanh quỷ môn quan hết lượt này đến lượt khác, cứ thế này khí lực dần dần bị bào mòn, tiêu hao liên tục, nhất định sẽ bị đại hắc cẩu tóm được rồi cắn chết. Bốn người chúng tôi đều biết lai lịch con đại hắc cẩu này, trước có một đám dân du mục người Mông Cổ trên đường chuyển bãi chăn nuôi có đi ngang qua đây, con chó này là một con chó chăn dê cái, gọi là “Ô Lan”, trong tiếng Mông Cổ thì ô lan có nghĩa là màu đỏ, một cách đặt tên rất thường thấy thời kì ấy, con chó nhỏ mà đám mục dân đưa cho Tiêm Quả nhờ cô chăm sóc chiếu cố kia, nó chính là do Ô Lan sinh ra, chúng tôi nghĩ mãi không hiểu, tại sao con đại hắc cẩu kia lại quay lại, không phải nó đã cùng đám dân du mục Mông Cổ rời đi từ lâu rồi sao? Sau này chúng tôi nhìn lên trên cổ nó, thấy buộc theo một mảnh da dê, lúc ấy mới hiểu rõ nguyên do sự tình, thì ra là đám người kia không biết viết chữ, trên mảnh da dê kia có vẽ một bức hoạ đồ nhằm truyền tin cho chúng tôi. Đại khái trên đó nói như sau, đại hắc cẩu không yên tâm về con nhỏ của nó, mà đám dân du mục cho rằng nông trường số 17 này ở tít sâu trong hoang nguyên vắng vẻ, lại sắp gặp phải trận rét hiếm có trong lịch sử, chỉ có mấy người trẻ tuổi ở lại trông coi thì không an toàn chút nào hết, vì vậy nên để cho đại hắc cẩu đến đây sống cùng con nó và mọi người qua mùa đông này. Đại hắc cẩu đến cũng thật đúng lúc, khi đó chúng tôi đang đứng trước cửa lán củi, đối đầu với con hồ ly già, nó thấy thế lập tức lao vào hỗ trợ. Con hồ ly trăm ngàn lần không thể lường trước được, hoàn toàn không nghĩ đến trong nông trường này còn có một con chó vừa lớn vừa hung hãn như thế. Đám chó săn bình thường về cơ bản là không thể nào so sánh được với con đại hắc cẩu này, nghe nói là trước kia đại quân Mông Cổ viễn chinh đến châu Âu, ở trên cao nguyên ngập tuyết vùng Siberia tìm được giống chó này, huyết thống vô cùng lâu đời, ba con đại cẩu loại này cùng nhau vây công có thể đem một con gấu nặng trên nghìn cân xé ra thành từng mảnh vụn, bọn chúng sinh tồn ở những nơi có điều kiện sống khắc nghiệt nhất Siberia, thợ săn địa phương thường mang chúng theo bên người mỗi khi đi săn gấu, nên còn được gọi là “Liệp Hùng Khuyển” (Trans: Chó săn gấu).

Liệp Hùng Khuyển Ô Lan liên tiếp dũng mãnh vồ đến cắn xé không ngừng, khiến con hồ ly già mệt đến một hơi cũng không kịp thở, mắt thấy sẽ bị hàm răng sắc nhọn như những lưỡi dao của đại hắc cẩu cắm phập vào cổ đến nơi, chết là cái chắc. Mấy người chúng tôi đứng ở một bên quan sát thấy rất rõ ràng, cùng nhau vỗ tay reo hò cổ vũ. Ai ngờ con hồ ly gian xảo vô cùng, thừa dịp lúc đại hắc cẩu đang nhào tới, đột nhiên cái đuôi dài của nó vểnh lên, lộ ra cái lỗ đít be bé, “phốc” một tiếng, phóng ra một đoàn khói xanh. Nguyên nhân là do hồ ly sống trong hoang nguyên thường ăn một loại quả mọng rất hiếm thấy, không phải là ăn cho đỡ đói, mà là đem nó biến thành một loại “vũ khí sinh học”, một khi đoàn khói mang theo mùi hương vô cùng hôi thối này được nó phóng ra, sẽ khiến cho thần trí con người ta mất phương hướng, trở nên u u mê mê. Người xưa mê tín thường hay nói là bị hồ ly tinh mê hoặc, thực ra là do ảnh hưởng của loại khói kia gây ra mà thôi. Mà khứu giác của chó lại vô cùng nhạy bén, đứng thứ nhất trong các loài động vật, một khi bị đống khói xanh kia xộc thẳng vào hai lỗ mũi, bất luận là chó nghiệp vụ đã được huấn luyện cẩn thận hay là chó săn cường hãn hoang dã, cũng sẽ lập tức nổi điên tại chỗ, tự quay đầu ra đuổi cắn đuôi của chính mình, không chết không thôi. Chẳng qua là tuyến tạo mùi hôi của hồ ly cần phải tích luỹ khá lâu, tầm một đến hai tháng, hơn nữa là loại quả hiếm có kia không phải lúc nào cũng có thể tìm thấy được dễ dàng, vì vậy không đến lúc đường cùng mạt lộ, nó tuyệt đối sẽ không tuỳ tiện đem ra sử dụng.

Lúc này, con hồ ly già bị đại hắc cẩu truy đuổi gắt gao, trốn cũng hết đường trốn, chạy cũng hết đường chạy, lên trời không có lối, xuống đất chẳng có cửa, nó vì cố giữ lại cái mạng sống của mình, mà vạn bất đắc dĩ phải phóng ra làn khói thối kia để làm chậm đà tấn công của kẻ địch, đại hắc cẩu từ bé đến lớn chưa từng đụng phải đối thủ nào khó xơi như này, nó cũng ý thức được là làn khói của con hồ ly kia vô cùng lợi hại, vội vàng nhảy sang một bên né tránh. Hồ ly nhân cơ hội hiếm có này, vội hít lấy một hơi, rồi tựa như một con ngựa điên, một đường phi như bay. Nó bị doạ cho hồn kinh phách lạc, dưới chân không dừng lại một chút nào, mặc kệ gió rét thấu xương đang rít gào bên mình, vượt qua vùng hoang nguyên đầm lầy tối đen như mực phía trước, không ngừng phóng về hướng đường biên giới mà chạy trốn.

Tôi biết con hồ ly già kia trả thù nông trường số 17 này đều là do chuyện lúc trước mấy nữ thanh niên trí thức đã gây ra, ít nhiều cũng có chút cảm thông đối với nó. Lần này đối phương thoát chết trong đường tơ kẽ tóc, hẳn đã lãnh giáo được sự lại hại của đại hắc cẩu, phòng chừng đời sau kiếp sau cũng không dám bén mảng quay lại, dẫu sao oan oan tương báo không thể vẹn toàn, vì vậy liền quát đại hắc cẩu, không để cho nó tiếp tục đuổi theo con hồ ly kia nữa.

Gió rét lạnh thấu xương thổi khắp hoang nguyên vắng vẻ, tiếng gió rít gào ầm ầm ào ào tựa như tiếng sói tru. Chúng tôi bốn người trên đầu chỉ đội có mỗi chiếc mũ da, cả người mặc độc có chiếc áo mỏng tang, không thể chống nổi cơn gió lạnh đến cắt da cắt thịt, đã rét đến nỗi môi trên răng dưới va lập cà lập cập vào nhau, vội vàng mang theo đại hắc cẩu chui vào địa oa tử. Dưới ngọn đèn dầu le lói, nhìn tin tức mà mấy người du mục Mông Cổ gửi đến, đều là vừa mừng vừa sợ, có thêm con đại hắc cẩu này đến đây cùng chúng tôi trông nom canh gác nông trường, có thể không cần phải lo lắng chuyện con hồ ly già sẽ quay lại kiếm chuyện quấy rầy lần nữa.

Từ sau khi con hồ ly già bị đuổi đánh cho quắn hết cả đít, không thấy bóng dáng của nó xuất hiện xung quanh nông trường số 17. Khí hậu ở Bắc Đại Hoang càng ngày càng trở nên giá rét hơn, mây đen tích đầy khắp bầu trời phía Tây Bắc, nặng trĩu đến nỗi cảm giác như sắp sửa rơi từ trên trời xuống vậy, nhiều nơi cỏ vàng hãy còn chưa đóng băng hết, đã có từng bông tuyết trắng lả tả rơi xuống. Hàn lưu vô cùng mãnh liệt đang cuồn cuộn thổi không ngừng từ Siberia tràn xuống vùng Đông Bắc. Dựa theo cách suy diễn khi quan sát thiên tượng của đám dân du mục Mông Cổ mà nói, sắp tới chắc chắn sẽ có một trận đại hàn trăm năm khó gặp! Một trận bão tuyết với quy mô lớn chưa từng thấy ập đến vừa nhanh vừa bất ngờ, ở Siberia chỉ nội trong vòng mấy ngày thôi mà đã chết không biết bao nhiêu súc vật, theo cơn bạo phòng này, gió tuyết nhanh chóng kéo đến gần Bắc Đại Hoang, không bao lâu nữa, hoang nguyên rộng lớn này sẽ bị băng tuyết bao trùm hoàn toàn, đường xá giao thông cùng các phương tiện thông tin liên lạc hoàn toàn bị cắt đứt!

Bốn người chúng tôi ở lại trông coi nông trường sản xuất và trấn thủ số 17, trừ khi có việc thực sự cần thiết, cơ hồ là không đi ra ngoài bao giờ, chỉ ẩn tránh ở trong địa oa tử, ngày ngày duy trì củi lửa sưởi ấm kháng đất, chống cự với cái rét mà cơn bão tuyết ngoài kia mang đến. Một ngày nọ trời vừa tờ mờ sáng, bên trong gian thứ ba địa oa tử, trên bếp đang đặt một cái nồi sắt lớn, nước trong nồi đang sôi ùng ùng bốc khói nghi ngút. Bên dưới địa oa tử còn có một cái hầm đất, dùng để chứa khoai tây cùng các loại rau củ quả khác. Tôi kéo tấm ván đậy ra, thò tay vào trong cửa hầm, lôi ra một sọt khoai tây đầy ăm ắp, lựa ra mấy củ khá to đưa cho Tiêm Quả, căn bản là cũng chẳng cần rửa riếc gì cả, cứ thế để nguyên cả vỏ ném thẳng vào trong nồi nước, bắt đầu luộc. Theo kế hoạch đã phân chia lúc trước, ở dưới tình huống bây giờ không phải lao động nặng nhọc gì cả, chúng tôi một ngày ăn hai bữa, lấy khoai tây làm đồ ăn chính. Bốn người tụ lại với nhau, xếp thành một vòng tròn, tự lấy đũa của mình thò vào trong nồi mà gắp khoai tây đã được luộc chín ra, thổi thổi vài hơi cho bớt nóng, lột bỏ lớp vỏ ngoài rồi chấm muối ăn. Khoai tây ở vùng Đông Bắc này, vỏ càng sần sùi thì ăn càng ngon, chỉ muốn một miếng cắn hết sạch luôn, loại này gọi là khoai tây rỗ. Còn loại khoai tây mà vỏ mỏng bên trong chứa nhiều nước, ngược lại ăn chẳng ra gì cả. Ngoài ra còn có một loại khoai tây khác, vỏ ngoài màu vàng cam, khá là hiếm thấy, trong một trăm củ mới chọn ra được một củ như thế, có thể trực tiếp ăn sống luôn, so với lê còn ngọt hơn rất nhiều. Buổi sáng mới vừa ăn khoai tây xong, Tuyền béo liền đề nghị hay thôi buổi chiều chúng ta chuyển sang làm sủi cảo ăn đi, tôi và Lục Quân hai đứa đều hưởng ứng nhiệt liệt, đồng loạt nhất trí với ý kiến của tên béo kia, trời lạnh như này không ra ngoài được, cả ngày ngồi trong nhà bực bội đến phát chán, thà làm bánh sủi cảo ăn cho đỡ thèm, lại vừa có thể giết thời gian. Hơn nữa lại nói, ở Bắc Đại Hoang này mà được ăn một bữa sủi cảo nhân thịt lợn cùng cải trắng, vậy thì đồng nghĩa với việc được ăn Tết sớm!

Tiêm Quả nói: “Bột mì mà liên bộ để lại cho chúng ta không có nhiều, cứ chiếu theo cái miệng rộng của các anh, thì sang năm thời điểm Tết đến, chúng ta sẽ chẳng còn gì mà ăn nữa.”

Lục Quân đáp: “Tiêm Quả nói rất đúng, chi bằng mấy người chúng ta ăn ít đi một bữa, còn sủi cảo để đó đến sang năm thì đem ra làm.”

Tuyền béo giãy nảy lên: “Bên ngoài lạnh giá đến đất cũng đông cứng lại cả rồi, chúng ta cứ trốn mãi trong địa oa tử này không thò mặt ra ngoài một lần nào, ban ngày hay là đêm đen còn chẳng rõ như nào, qua hay không qua năm mới thì có gì khác biệt quái đâu. Để tôi nói cho mấy người nghe, hôm nay có rượu thì hôm nay say, để mai rượu lạnh chẳng ma nào thèm, trước hết bây giờ cứ đem sủi cảo kia ra chén một bữa đi đã rồi muốn nói gì thì để sau hay nói! Làm cách mạng mà, không thể nào thiếu được vài phần chủ nghĩa tinh thần lạc quan!”

Lục Quân tức giận nói: “Cậu đây là đã bị cái chủ nghĩa lạc quan vớ vẩn đấy làm cho hai mắt hồ đồ mù quáng, bão tuyết thổi đến phải mất mấy tháng trời mới tan, cậu bây giờ đem lương thực dự trữ ra ăn sạch sành sanh, từ nay về sau chịu khó ra bên ngoài ăn tuyết uống gió mà sống nhá!”

Mọi người chỉ vì mỗi việc là làm hay không làm sủi cảo để ăn, thay nhau bảo vệ ý kiến tranh luận của mình suốt cả nửa ngày. Cuối cùng vẫn là phải để tôi đứng ra làm chủ, đưa ra chỉ thị tối cao đối với Tuyền béo và Lục Quân: “Phải đoàn kết, tuyệt đối không được phép để xảy ra việc chia rẽ nội bộ, ăn hay không ăn, các cậu nghe tôi nói. Hôm nay tình huống có chút đặc thù, mấy người du mục Mông Cổ để cho đại hắc cẩu đến giúp chúng ta trông coi nông trường này, con hồ ly già ăn cắp củi lửa của chủ nghĩa xã hội đã bị nó đuổi đánh sợ vãi cả mật, đại hắc cẩu trở thành tâm phúc giúp chúng ta trừ bỏ đi được một mối hoạ nguy hiểm, rất xứng đáng để ăn mừng một phen, cho nên chỗ sủi cảo kia vẫn là nên đem ra làm. Nhưng từ nay về sau, chúng ta phải có kế hoạch phân phối củi lửa cùng lương thực một cách cụ thể, hơn nữa cần phải nghiêm khắc thi hành kế hoạch đã đề ra.”

Lúc bốn người chúng tôi đang bận cùng nhau thương lượng xem sẽ làm bao nhiêu cái sủi cảo, con đại hắc cẩu bỗng trở nên đứng ngồi không yên, lởn vởn từng vòng từng vòng bên trong địa oa tử, lại dùng đầu húc húc vào cánh cửa khiến nó mở tung ra, hai con mắt trừng lên hướng về phía hoang nguyên rồi phát ra tiếng gầm nhẹ, gió lạnh ào ào len vào trong nhà. Tuyền béo liền kêu lạnh thế, vội vàng đuổi con đại hắc cẩu đi chỗ khác, bất chấp gió tuyết bên ngoài đi ra dùng hết sức đóng thật chặt cửa lại. Nhưng nó vẫn dường như không yên lòng, vẫn không ngừng đi vòng vòng trong địa oa tử. Chúng tôi ai cũng đều cảm thấy hết sức kì quái, nhưng lại không biết rốt cuộc chuyện gì đang xảy ra, kể cả nói là do con hồ ly kia quay lại quấy rối thì đại hắc cẩu chắc cũng không thể tỏ ra khẩn trương như thế được, hoặc có thể là tại cơn bão tuyết khủng bố ngoài kia đang dần dần đến gần, khiến cho tính tình loài chó cũng trở nên khác thường!

Mãi lâu sau, bên ngoài náo hải phong đã ầm ầm nổi lên, trên hoang nguyên từng đoàn từng đoàn gió lớn mang theo cát bụi bay mịt mù, đó là vòng khí lưu tuyết vụ bạo phát, nối liền trời đất lại với nhau, hướng về phía nông trường số 17 kéo tới. Mà lúc ấy, chúng tôi đều đang ở trong địa oa tử, bận bịu làm sủi cảo, ở binh đoàn nông khẩn Bắc Đại Hoang này làm sủi cảo, ý nghĩa là cải thiện đời sống, nhưng ăn thì dễ chứ làm mới khó. Nói tới việc ăn, tôi cùng Tuyền béo, Lục Quân ba thằng, so về tư thái, so về dáng ăn, so về tốc độ, mỗi người đều có tuyệt chiêu riêng, nhưng sủi cảo không ai làm không cho mà ăn, nên vẫn là phải cố mà xắn tay lên làm, suy cho cùng đều là mấy thằng con trai mười tám mười bảy tuổi hãy còn ham chơi, ngay cả cán bột như nào cũng đều không biết.

Trước tiên là phải nặn vỏ cùng với nhân bánh, chúnh tôi làm ra bao nhiêu là kiểu dáng kì quặc lạ thường, loè loẹt đủ mọi mẫu mã đa dạng, hình dáng quái nào cũng có, có cái há miệng giống như bánh nướng, có cái được nhồi rất nhiều nhân bánh giả làm cái bụng bự của vị La Hán nào đó, cái nào cái nấy toàn là cố nhét thật nhiều thịt cải vào làm nhân lòi cả ra ngoài trông chả khác gì con nhím, hơn nữa càng làm càng lớn, bởi vì càng làm thì càng sốt ruột thèm ăn, dứt khoát tập trung đống vỏ bánh cùng chỗ nhân thịt còn sót lại, một tay giải quyết sạch, túm linh túm tinh thành mấy cái đặc biệt to khủng bố, kết thúc việc nặn bánh sủi cảo. Toàn bộ số bánh đã làm xong được đặt vào trong một cái bồn rửa mặt, xếp đầy một tầng lại thêm một tầng nữa, mấy tầng bánh được đặt chen chúc nhau cùng một chỗ, lại quên cả rải một lớp bột mì giữa cả tầng để chống dính, tầng dưới đáy chưa cả hấp đã bị ép cho thành bánh nhân thịt chứ không phải sủi cảo nữa rồi. Đến công đoạn hấp sủi cảo cũng không bày vẽ gì rườm rà, trực tiếp úp ngược cái bồn rửa mặt lại, để đít chổng lên trời, thế là thành một cái nồi hấp bánh lớn, đợi đến khi chín thì lật lại, đem sủi cảo gắp ra. Chớp mắt như vậy một hồi chắc bánh đã được, còn không đợi tôi và Lục Quân ngó xem bánh trong nồi dáng dấp ra sao, Tuyền béo đã tiêu diệt hết con mẹ nó hơn phân nửa chỗ sủi cảo. Hắn sau khi nuốt đầy một bụng bánh, cái miệng mới dừng lại rồi nói với chúng tôi là sủi cảo hãy còn chưa chín hẳn, phải bỏ vào hấp thêm một lần nữa mới được. Đến lần thứ hai gắp bỏ ra thì nhân đi đằng nhân, vỏ đi đằng vỏ, hoàn toàn chẳng thể gọi là sủi cảo được nữa mà biến thành một nồi canh thịt. Tốt xấu gì thì cũng đã chín hẳn rồi, so với cao lương cơm tẻ, bánh ngô cùng củ đậu thì mùi vị vẫn là thơm ngon hơn gấp trăm lần. Tầng bánh ở dưới đáy thì dính sền sệt lại như cháo nhão, liền cho hết vào một cái cặp lồng bằng nhôm rồi đậy lại, đến đêm đem ra nướng trên ngọn lửa đèn dầu, lại dùng dao cạo bỏ lớp vỏ cháy bên ngoài sau đó bỏ tọt vào miệng ăn, ngon đến không ngờ. Phát minh này của chúng tôi quả thật là quá xuất sắc — sủi cảo cháy!

Hôm nay Tiêm Quả báo một tin rất vui, chúng tôi không cần phải vật lộn với việc làm bánh với hấp bánh nữa. Vốn ban đầu định là ăn một nửa, còn một nửa để qua năm mới thì đem ra, cuối cùng thì liền làm tất luôn, chuẩn bị chén một bữa ngon lành, nhưng vẫn không dám quên nhiệm vụ kiểm tra một vòng khắp nông trường. Toàn bộ nông trường sản xuất và trấn thủ số 17 này, có ba dãy nhà chia làm trước, giữa và sau, tổng cộng ở được tất cả hai mươi mấy người, ống khói lộ thiên cắm thẳng trên mặt đất, nhìn xa trông như một tấm bia mộ cao vút dựng đứng giữa hoang nguyên vắng vẻ, dãy nhà thứ ba dùng để làm một căn nhà kho, cất giữ không ít nông cụ để sản xuất, lưu lại vài người chủ yếu là để thực hiện nhiệm vụ bảo đảm an toàn, đề phòng tuyết rơi quá dày có thể làm sập địa oa tử cũng như nhà kho. Phía sau cùng cả ba dãy nhà còn có một kho rơm rất lớn, tường đắp bằng đất nung đầm chặt cùng bùn nhão, bên trong chất từng đống cỏ khô cao như núi, cùng với những bao tải lớn chứa đầy hạt thảo.

Tầm ba giờ ba rưỡi chiều, một mình Tiêm Quả ở lại trong địa oa tử để chuẩn bị hấp sủi cảo, còn tôi cùng Tuyền béo và Lục Quân, ba người khoác lên tấm áo da, đội thêm cả một chiếc mũ nữa, bịt kín mít từ đầu đến đít, ra bên ngoài hút một điếu thuốc, thuận tiện kiểm tra xem nông trường có xảy ra tình huống gì khác thường không. Tôi trông về một mảnh đất trời trắng xoá mênh mông phía xa xa, phỏng chừng cơn bão tuyết mạnh nhất từ bình nguyên Siberia sắp thổi tới, đến đêm nay nông trường số 17 sẽ hoàn toàn bị nó nuốt lấy!

Tôi quay qua nói với Tuyền béo và Lục Quân đang ở bên cạnh: “Các cậu có thấy cái thời tiết này quá kì quái không, đột nhiên lại trở nên lạnh như vậy, con mẹ nó chứ ra cửa đứng chưa được bao lâu, hai cái lỗ tai sớm đã bị đông cứng lại. Nhưng ở trong địa oa tử cũng chưa chắc thoải mái hơn ngoài này, nhất là khi đi tiểu, vấn đề chính là, khi mà vừa vạch quần ra tè, thì nước tiểu cũng sẽ bị đóng thành cột băng luôn, đến lúc đó lại phải cầm “côn thịt” mà khua khua cho nó tan ra.”

Tuyền béo vừa kéo hai dòng nước mũi trong suốt đã bị đông thành băng, vừa giở cái giọng chính trị viên ra móc đểu tôi: “Tiên sư nhà cậu suốt ngày cứ mở mồm ra là kêu khổ, đấu tranh với thiên nhiên, giành giật sự sống trong những hoàn cảnh khắc nghiệt nhất chính là truyền thống quang vinh của chúng ta, dù sao cũng còn có củi khô dự trữ đủ để sống qua mùa đông này đó thôi, trời lạnh thì đem ra đốt vài khúc là đủ sưởi ấm cho cả địa oa tử rồi, gì mà không thoải mái hơn bên ngoài chứ, chút nữa trở về còn được ăn sủi cảo nóng hôi hổi do Tiêm Quả làm, T.R.U.Y.E.N.F.U.L.L.V.N đến nửa đêm thì nằm nghe gió tuyết gào rít ngoài ô cửa, rồi cậu lại kể tiếp cho chúng tôi nghe mấy cái chuyện bịa trong cái quyển cánh đồng gì ý nhỉ, cuộc sống như vậy còn có gì có thể tốt hơn được nữa? Dĩ nhiên giá như có thêm chút rượu thì càng tuyệt vời hơn rồi, sủi cảo nhắm với rượu, càng ăn càng ngon, uống hai chén thôi cũng đủ làm ấm người, khu hàn trừ lạnh rất hữu hiệu, lại được thêm đại hắc cẩu lôi từ trong đống tuyết ra hai con thỏ béo, ta phết chút mật ong xong đem đi nướng thành món nhắm nữa, cha chả chà cha vậy phải ngon biết bực nào a? Có một câu này rất hay — Rượu phải đi đôi với thuốc lá! Tuy có rượu có thịt rồi nhưng mà vẫn là thiếu một chút ý tứ, hình như trong địa oa tử có giấu đống thuốc lá hiệu Chiến Đấu của lão trung đội trưởng, giờ mà kiếm được thì thật hết ý, một tay phì phèo điếu Chiến Đấu, một tay gặm đùi thỏ nướng mật ong, uống thêm mấy chén rượu cay cay, cuối cùng gắp một miếng sủi cảo nhân đầy thịt với cải trắng bỏ tọt vào miệng, cuộc sống đấy bình thường ở nhà sao sánh được!”

Lục Quân ở bên cạnh nghe Tuyền béo nói liền trở nên mê muội, không nhịn được chen miệng vào bổ sung thêm: “Ăn sủi cảo muốn ngon còn phải kết hợp với tỏi nữa a! Nếu như kiếm được vài nhánh tỏi lớn, sau đó đem lên bếp lửa nướng qua, rồi pha lấy một cốc trà táo thật to, anh em ta vừa nằm vừa hưởng thụ, uống trà rít thuốc, nghe đồng chí Nhất bốc phét “Cánh đồng tuyết bao la”, như vậy phải nói là…”
Tôi nói: “Chớ có ngủ mơ giữa ban ngày nữa! Trước giờ có một câu danh ngôn rất hay: Thất bại là mẹ của thành công. Vậy thì tôi sẽ tặng hai người các cậu một câu nữa là: Còn nếu như là bố của tất cả bọn vô tích sự! (Trans: Ý để châm biếm những người chẳng chịu làm gì, chỉ suốt ngày mơ tưởng, mở miệng ra là nói “nếu như, giá như,..”) Hai người cứ nói nếu như cả nửa ngày, đầu dùng để trồng cây hết rồi à? Trời hãy còn sớm đừng có mơ tưởng vội, cái gì mà uống rượu với chẳng hút thuốc, gặm đùi thỏ lại còn uống trà táo…”

Lời còn chưa dứt khỏi miệng, chợt thấy một con thỏ rừng khắp người phủ đầy băng tuyết, cắm đầu cắm cổ chạy về phía mấy người chúng tôi. Thỏ rừng một khi rời khỏi hang ổ quen thuộc của mình, khi chạy trốn sẽ không để ý đến phương hướng, thường sẽ chạy như điên rồi đâm sầm vào một gốc cây to nào đó, gãy cổ mà chết. Con thỏ rừng này thấy người lạ thì không hề né tránh, chạy vọt tới rất nhanh, cái đầu đâm thẳng vào đùi Tuyền béo, bởi vì tốc độ của nó quá nhanh, lần đụng này cũng không hề nhẹ, choáng luôn, ngã ra mặt đất đầy tuyết, không đứng dậy nổi.

Tuyền béo mặc kệ giá rét liền cởi bỏ cái mũ da trên đầu, vội vàng vồ lấy con thỏ rừng, túm chặt hai tai nó ở trong tay xách lên, miệng ngoác ra cười đến tận mang tai. Hắn lấy ống tay áo quệt quệt qua đống nước mũi, xoay đầu lại hỏi tôi và Lục Quân: “Hai người các cậu, thằng nào vừa mới nói… Gì mà nếu như với chả bố của bọn vô tích sự ý nhỉ?!?”

Tôi và Lục Quân hai đứa thấy vậy đều á khẩu vì quá bất ngờ, một con thỏ rừng đang chạy như điên như dại giữa một cái hoang nguyên rộng lớn như này, thế quái nào lại đâm trúng phải Tuyền béo, đây lại hoàn toàn là chuyện tình cờ, bất quá cũng phải nói rằng vận khí của Tuyền béo cũng quá tốt đi, vừa ra khỏi cửa hút chưa xong điếu thuốc cũng có thể xách được một con thỏ rừng trở về, có phần vận khí này của hắn, chúng ta còn phải làm cái chó gì nữa chứ, hằng ngày vứt Tuyền béo ra ngoài đứng một hồi đảm bảo hôm đó có bữa ăn ngon.

Đang lúc chúng tôi ganh tị với sự rùa rùa ăn may của Tuyền béo, lại có thêm hai con thỏ rừng cùng một con đà lộc (Trans: Nai sừng tấm Bắc Mỹ) thân hình khá lớn chạy ngang qua người ba chúng tôi. Những động vật này ở trong hoang nguyên chạy tới, tựa hồ như gặp phải một con quái vật to lớn nào đó khiến chúng kinh sợ, chạy thục mạng, căn bản không để ý tới phía trước có chướng ngại vật gì hay không. Đà lộc trên đầu có cặp sừng rất lớn, phân ra thành nhiều nhánh trông như một chạc cây vậy, chạy như điên tới gần nông trường, rốt cuộc hết kiệt sức không chạy nổi nữa, ngã vật ra tuyết, hai mắt trắng dã trợn ngược lên, hai lỗ mũi phập phồng thở hổn hà hổn hển, khóe miệng máu tươi không ngừng chảy ra, xem ra là không sống được nữa rồi. Mà đám động vật đang chạy trốn khỏi gió tuyết không chỉ có mấy con thỏ cùng con đà lộc này. Ba đứa chúng tôi vô cùng kinh hãi, ngẩng đầu lên nhìn, chỉ thấy gió tuyết mờ mịt lẫn lộn, trời không ra trời, đất không ra đất, cũng không nhìn rõ xem có thứ gì từ đằng xa chạy tới hay không, tại sao lại khiến đám đông vật này phải kéo thành từng đoàn tháo chạy trong bão tuyết?

Chúng tôi đang định đi xem con đà lộc vừa cắm đầu xuống đất kia sống chết thế nào, Tuyền béo bỗng nhiên giơ tay lên chỉ một cái, kêu lên: “Các cậu mau nhìn xem, oan gia lại tới rồi kìa!”

Bị Tuyền béo gọi như vậy, tôi và Lục Quân cùng nhìn theo hướng ngón tay hắn chỉ, thì ra là con hồ ly trước kia đã bị đại hắc cẩu đánh đuổi, cũng đang chân trước chân sau vội tháo chạy về đây, nó dường như không để ý đến ba thằng đang đứng đực ra ở đây, ngay cả nhìn một cái cũng không, phi như bay lướt qua địa oa tử, phía dưới cánh cửa kho rơm có một khe hở nhỏ, thế là nó liền chui tọt vào đấy. Tuyền béo tức mình quát lớn: “Tiên sư con hồ ly đáng chết kia, thật mất con mẹ nó trí rồi, trộm củi lửa của chủ nghĩa xã hội chúng ta còn chưa hả giận, giờ lại muốn trộm thêm cả rơm rạ về để tế bố nó à!”

Tiếng mắng chửi vẫn còn vang vọng trong không trung, Tuyền béo đã chạy hộc tốc về địa oa tử thả đại hắc cẩu ra. Cứ tưởng rằng một khi được thả ra, nó nhất định sẽ đuổi tới kho rơm cắn chết con hồ ly già. Kho chứa rơm hoàn toàn khác so với các nơi khác, bốn phía đều là tường đất trộn bùn, cửa sổ một cái cũng không, chỉ có duy nhất một cái cửa ra vào, con hồ ly kia chui vào thì khác gì đâm đầu vào tử lộ, mọc thêm đôi cánh nữa cũng chịu chết mà thôi. Ai ngờ đại hắc cẩu lại không để ý đến hồ ly, mà như sắp sửa gặp đại nạn vậy, ba chân bốn cẳng đạp tuyết như điên chạy về phía Đông. Chúng tôi cùng nhìn nhau, đều cảm thấy tình hình lúc này càng ngày càng kì quái, loáng thoáng có chút dự cảm chẳng lành, chỉ sợ là sắp xảy ra đại sự thật, tại sao con hồ ly vẫn thường ngày ẩn trốn nay lại chạy ra? Đại hắc cẩu thì không những không đuổi theo nó mà còn chạy đi nốt? Nhưng trước mắt, ai cũng không mảy may suy nghĩ nhiều nữa, vẫn là bắt con hồ ly kia quan trọng hơn, một khi chưa bắt được nó, nông trường này cũng sẽ không được yên tĩnh ngày nào cả!

Tôi vẫy tay với hai người còn lại, bước nhanh trở lại địa oa tử, lấy súng trường cùng đạn dược. Tôi lại nghĩ đến cái kho rơm đằng sau nông trường này, bên trong chất đầy từng đống lớn cỏ khô. Mùa đông ở Bắc Đại Hoang vô cùng lạnh lẽo, cỏ khô không chỉ có thể dùng để làm nguyên liệu sưởi ấm, ngoài ra mái địa oa tử cũng không thể thiếu được thứ này. Kho rơm trừ một tấm cửa gỗ ra, xung quanh tường đất còn có vài lỗ thông hơi nữa, bên trên thì dùng cỏ tranh lợp thành trần nhà, bên trong tối mò mò chẳng nhìn rõ cái gì với cái gì cả, con hồ ly gian xảo kia rất có khả năng thừa dịp chúng tôi hai mắt mù tịt sẽ chạy ra khỏi kho. Vì vậy tôi bảo Tuyền béo và Lục Quân mang theo đèn pin và đèn đất để chiếu sáng (Trans: Đèn đất là loại đèn bên trong có sử dụng đất đèn, kết hợp với một bầu hơi nước để tạo ra phản ứng hoá học, phản ứng phát ra ánh sáng mạnh), xách theo súng trường chuẩn bị bao vây đổ bộ vào kho rơm. Tiêm Quả thấy có biến cũng khoác một chiếc áo choàng dài, đem tiểu hắc cẩu nhét vào trong ngực, đi theo hỗ trợ ba người chúng tôi. Tuyền béo xung phong lên trước, đạp tung cánh cửa gỗ, mọi người lập tức mở đèn pin rồi ập vào, chiếu xung quanh soi xét thử, tình hình trước mắt thật sự là nằm ngoài dự đoán của chúng tôi!

Con hồ ly kia nằm thở hổn hển ở trên một chồng cỏ cao ngất, căn bản không để ý đến mấy người vừa mới bước vào trong kho rơm, nó có khả năng là đã không còn khí lực để mà tiếp tục chạy trốn lần nữa, bày ra bộ dạng muốn giết muốn hành hạ gì hết thảy đều mặc cho chúng tôi xử.

Tuyền béo xoa xoa hai tay trông hệt một tên dâm tặc, nghiến răng nghiến lợi nói: “Ôn con này, lần trước chúng tao đã để cho mày chạy mất, mà giờ mày còn dám vác mặt quay lại! Mấy anh em chớ có nổ súng, để tổn hại đến bộ lông kia thì sẽ mất cả mớ tiền đó! Hôm nay các cậu hãy mở to mắt mà xem Tuyền gia đây trổ tài, tôi sẽ bắt sống nó rồi lột da, cái đuôi thì cho Tiêm Quả lấy mà làm cái khăn ấm quàng cổ, phần thân thì tôi sẽ may thành một bộ áo trấn thủ để mặc, còn bốn cái chân thối kia, cho lão Nhất và Lục Quân làm mỗi người một đôi găng tay, quá là vừa vặn luôn!”

Lục Quân vội ngăn Tuyền béo lại: “Trước chớ vội động thủ, anh không cảm thấy có gì đó rất kì quái sao?”

Tôi nói: “Không phải kì quái mà là không bình thường, cho tới bây giờ cũng chưa từng nghe ai nói qua bão tuyết gió rét sẽ khiến cho hồ ly, thỏ rừng bỏ chạy thục mạng, huống hồ ngay cả đại hắc cẩu kia cũng đều bị doạ cho sợ mà chạy mất, phải chăng là thứ gì đó rất đáng sợ đang đến nên mới khiến chúng trở nên kích động như vậy?”

Tiêm Quả nghe thấy chúng tôi nói đến những việc vừa xảy ra bên ngoài, đồng dạng cũng cảm thấy khó tin, đại hắc cẩu không thể nào bỏ lại con nó cùng mọi người ở nông trường để chạy trốn một mình, có lẽ nào là nó chạy đi tìm cứu viện?

Cô ấy vừa nói ra phỏng đoán kia của mình, tôi và Tuyền béo đồng loạt lắc đầu. Xung quanh nông trường sản xuất và trấn thủ số 17 này, trong phạm vi cả trăm dặm không hề có lấy một dấu chân người, hơn nữa dưới cái điều kiện thời tiết bạo phong tuyết trăm năm mới gặp một lần đang cuồn cuộn kéo tới, binh đoàn lính kỵ binh biên phòng cũng không cách nào điều động được, có thể tìm được người nào mà cầu viện đây? Vả lại, hướng mà đại hắc cẩu chạy đi lại là hướng Đông, đi về hướng đó chỉ có rừng rậm nguyên sinh Đại Hưng An Lĩnh rộng lớn vô cùng, chúng tôi mặc dù không dám tin đại hắc cẩu sẽ vứt bỏ chủ mà chạy trốn trước, nhưng cũng nghĩ không thông rốt cuộc nguyên do bên trong là gì?

Tuyền béo thì đếch thèm quản nhiều, đeo súng trường bán tự động lên lưng rồi rút ra một thanh đoản đao, đi lên như muốn mổ bụng lột da con hồ ly luôn bây giờ. Tiêm Quả nhìn dáng vẻ nó mệt nhọc vô lực, khoé miệng rỉ máu, chắc chắn đã phải bỏ chạy cuống cuồng trong hoang nguyên rất lâu rồi, đâm ra sinh lòng thương hại, muốn để lại cho nó một cái mạng.

Chủ trương của Tuyền béo là đuổi tận diệt tuyệt, để tránh hậu hoạ sau này còn có thể xảy ra, không để ý đến lời Tiêm Quả khuyên can mà vẫn đi lên động thủ, mới đi được nửa bước, cậu ta bỗng quay sang tôi nói: “Cậu đừng có nhu nhược yếu đuối như đám đàn bà con gái được không? Cậu nghĩ xem, con hồ ly chết tiệt kia tại vì gì mà lại muốn trộm đi củi lửa chứ? Nó là muốn chúng ta phải chết dở sống dở đấy Nhất à!”

Tôi nghĩ thầm trong đầu: Con mẹ nó chứ thằng béo này tự dưng bị dở à? Người ngăn nó chớ giết con hồ ly kia là Tiêm Quả chứ nào phải mình, mình đã mở mồm ra nói câu mẹ nào đâu, giờ lại lải nhải cái quái gì vậy? Nghĩ tới đây tôi quay qua định hỏi Tuyền béo hắn bị sao thế, vừa nhìn nhất thời lông tóc toàn thân đều dựng đứng hết cả lên!

Hoá ra là Tuyền béo tưởng rằng tôi bấm bả vai hắn để ngăn hắn đi về phía trước, vừa nói hắn vừa vung tay lên định gạt “cái tay” kia của tôi ra khỏi vai, nhưng vừa đụng phải, hắn cũng lập tức phát giác tình huống này có gì đó sai sai, đó không phải là bàn tay con người, mà là một bàn chân to đầy lông lá! Tuyền béo giật mình, từ từ quay đầu về phía sau nhìn thử, không ngờ lại có thể là một khuôn mặt lớn, bộ lông dài tuyền một màu xám, hai con mắt giống như hai ngọn đèn xanh lập loè lập loè. Đó là một đầu cự lang (Trans: Sói lớn), hai hàng nước dãi chảy dài bên khoé miệng, đứng lên so ra còn cao hơn cả Tuyền béo nửa cái đầu. Trước giờ trong dân gian có nói “Sói dựng vai, chớ quay đầu”, khi mà độc lang đang tấn công người, nó sẽ không công kích trực diện, mà là lặng lẽ theo sau lưng, tìm đúng thời cơ dùng chân trước bám lấy bả vai người, khi đó con người sẽ theo bản năng mà quay đầu lại nhìn, lúc này nơi yếu ớt nhất chính là cổ họng sẽ hoàn toàn lộ ra, chỉ cần cắn xuống một cái, tỉ lệ thành công cực lớn mà lại không hề tốn chút sức lực nào. Ngay bây giờ bàn chân đầy móng vuốt sắc nhọn của một con cự lang lại đang bám dính trên vai Tuyền béo, thấy Tuyền béo quay đầu lại, cái miệng đầy răng há to, mang theo một thứ mùi vừa tanh vừa thối xộc đến, nhắm thẳng đến cổ hắn mà cắn.

Tôi quay đầu sang nhìn đúng lúc con cự lang này đang muốn cắn tới. Biết là sẽ không kịp quay súng trường bán tự động trong tay qua bắn được, tôi lập tức nâng báng súng lên hung hăng đập vào đầu con sói một cú thật mạnh. Phát này của tôi sử dụng toàn lực, đập xuống không hề thương tiếc, ác lang kêu lên một tiếng “ô” nghe rất thảm, ngã vật ra đất. Tuyền béo ngay sau đó cũng kêu lớn một tiếng “a”, liều mạng nhảy về phía trước, áo bông trên người đã bị móng vuốt của con sói kia xé rách mất mấy chỗ. Đầu cự lang kia dường như đang đói đến rã họng, hai mắt đều đỏ ngầu, vằn vện tơ máu, bị báng súng đập thẳng lên mặt cũng hoàn toàn không để ý, lăn một vòng, đứng dậy vồ tới một lần nữa. Tuyền béo xách súng trường bán tự động lên, ngắm thẳng vào cự lang rồi nổ súng, trên hoang nguyên vô tận gió lên đang thét gào, tiếng súng trường nhả đạn dường như bị phong tuyết ngoài kia nuốt mất, còn con sói thì trong nháy mắt ngã xuống vũng máu chảy ra từ chính cơ thể nó.

Cả bọn chúng tôi đều đã từng thấy qua ở gần nông trường số 17 này thỉnh thoảng có chó sói qua lại, đám sói đó hoàn toàn là những con may mắn thoát chết khỏi lần chiến dịch vận động diệt sói mấy năm trước, sớm đã bị súng trường bán tự động K-56 làm cho sợ vỡ mật, do đó thường thì bọn chúng thấy người cũng sẽ không dám chủ động tấn công. Mà con cự lang mới xuất hiện này, hoàn toàn không giống với những con sói đã thấy trước kia. Đầu tiên là dáng người vô cùng to lớn, trông hung hãn lạnh lùng; thứ hai là màu lông trắng có pha chút xám. Chúng tôi không hẹn mà cùng ý thức được tình huống hiện tại có gì đó không đúng, không để ý tới chuyện này mà lại đi để ý con hồ ly trốn vào kho rơm làm gì cơ chứ, vội vội vàng vàng quay trở lại địa oa tử, nhưng mới đi được có nửa đường, chỉ thấy giữa trời tuyết, có năm sáu con cự lang khác đang tranh giành cắn xé xác con đà lộc ngã xuống lúc trước. Tuyền béo giương súng lên, đang định bắn chết bọn chúng, nhưng trong cơn gió lạnh thấu xương đang ầm ầm thổi đến, còn có trên trăm trên ngàn con sói đói, giống như thuỷ triều hướng vọt về phía nông trường số 17 nơi chúng tôi đang đứng, trước giờ ở trong hoang nguyên này chưa từng thấy đàn sói nào có quy mô lớn đến như vậy!

Đợt kỳ hàn trăm năm mới gặp một lần này khiến cho vô số dã thú trên hoang nguyên đều chết rét, chỉ còn đám sói xám Siberia vẫn sống được do cơ thể chúng có khả năng chịu lạnh vô cùng khủng khiếp, nhưng cũng đành rơi vào tuyệt cảnh là không có thức ăn, xuất phát từ bản năng cầu sinh, một số đàn sói nhỏ đang dần chết đói liền kết thành một khối, dong theo từng cơn gió lạnh thấu xương truy đuổi con mồi, lấy bão tuyết làm vật che chắn, dọc đường tập kích nhóm dân du mục cùng dê bò của họ, lại xuyên qua cả một đường biên giới rất dài, đột nhiên xuất hiện ở nông trường của chúng tôi, đây quả là một đợt “lang tai” (Trans: Giống như thiên tai hay nhân tai; là tai hoạ do sói gây ra) chưa từng phát sinh qua suốt mấy trăm nghìn năm ở vùng Bắc Đại Hoang này!

Bốn người chúng tôi bị binh đoàn lưu lại để làm người trông coi địa oa tử cùng nông trường, cho tới tận bây giờ chưa từng thấy qua sói xám Siberia, nhưng ở Bắc Đại Hoang vốn đã chẳng còn bao nhiêu chó sói nữa, tuyệt đối không thể nào vô căn cứ xông ra hơn nghìn con cự lang như thế này được. Nhìn phương hướng mà bầy sói mãnh liệt kéo đến, cùng với dáng vẻ lạnh lùng hung ác, mọi người ít nhiều cũng đã đoá ra được mấy phần. Sói xám Siberia thân hình to lớn, tính tình hung tàn, kết thành từng nhóm, từng bầy ẩn hiện ở vùng hoang nguyên Siberia giá rét, bởi vì bọn chúng có thói quen hành động theo bầy đàn, có thể nói dường như là không có thiên địch.

Đàn sói lớn ước chừng hơn nghìn con mạnh mẽ lao đến, dựa vào sức gió chạy một đường như bay, đảo mắt đã thấy vọt tới nông trường số 17. Lục Quân là một tên nhát gan, sợ đến nỗi mặt cắt không còn một giọt máu, hai cái chân đều mềm oặt ra như biến thành mì sợi, đứng cũng không vững nữa rồi. Còn Tuyền béo lại chính là một người chiến sĩ quả cảm, giương súng trường trong tay lên, ngắm vào một đầu cự lang đang xé xác con đà lộc tội nghiệp, chuẩn bị bóp cò. Tiêm Quả lập tức muốn quay trở lại địa oa tử, dùng điện đài thông báo tình hình cho đoàn bộ. Tôi xem tình thế hiện tại có vẻ bất lợi, bầy sói đang kéo đến số lượng quá nhiều và quá nhanh, chúng tôi cứ nghĩ rằng chỉ cần đối phó với con hồ ly già kia, đạn mang theo bên người cũng không nhiều, mà dù cho có đầy đủ đạn dược đi chăng nữa, chỉ dựa vào bốn cây súng trường bán tự động K-56, cũng không cản được bọn chúng.

Tôi suy nghĩ một chút: Lúc này chắc chắn sẽ không kịp quay trở lại địa oa tử lấy điện đài và đạn nữa, không đợi chúng ta vào được bên trong thì đám sói kia đã đuổi theo đến đít rồi, trong 36 kế thì chạy là thượng sách, bây giờ chỉ có thể chạy trốn mà thôi, nhưng với tình hình này, nếu chạy sai phương hướng thì chết là cái chắc, trước mắt cứ chạy về kho rơm đã, trốn tạm vào trong đó. Kho rơm bốn bề được dựng lên bằng từng tầng từng lớp đất nung trộn bùn, vừa cao vừa bền chắc, chỉ có duy nhất một cánh cửa gỗ để đi ra đi vào, chỉ cần đem cánh cửa đó đóng lại thật chặt là có thể ngăn cản được đàn sói ở bên ngoài. Tấm cửa kho rơm dùng bạch hoa mộc mà đóng thành, dùng dây thép gai bện lại, hết sức chắc chắn, ác lang chưa chắc đã đâm thủng được. Ở bên trong lại có rất nhiều cỏ khô chất thành đống như núi, nhất định có tác dụng giữ nhiệt, người tránh ở bên trong cũng không đến nỗi sẽ bị chết rét.

Cơ hội để chạy trốn trong nháy mắt sẽ vụt qua, tôi không có nhiều thời gian để suy nghĩ nữa, dẫn đầu kéo theo Lục Quân cùng hai người kia thành một đoàn hướng về phía nhà kho ra sức mà chạy. Con đà lộc đáng thương kia trong chớp mắt đã bị đàn sói hung ác cắn xé, gặm thành một đống xương trắng, chúng bỗng thấy mấy người sống chúng tôi, như ngửi được mùi máu nóng, lập tức bị kích thích, hai mắt lại long sòng sọc, lao tới. Bốn người chúng tôi bị buộc phải quay đầu lại nổ súng để ngăn cản khí thế hung tợn của đàn sói. Đàn sói này sớm đã bị đói đến phát điên, một khi có con nào bị đạn bắn trúng, gục ngã không đứng dậy nổi, liền sẽ bị những con còn lại vồ tới tranh nhau ăn thịt. Tính kỷ luật trong một bầy sói rất mạnh, dưới tình huống thiếu thốn nguồn thức ăn, bọn chúng sẽ không chậm trễ chút nào mà lao tới ăn thịt những đồng loại bị thương hay đã chết, nhưng tuyệt đối không hạ thủ đối với đồng loại vẫn bình thường, đây cũng chính là thiên tính được hình thành từ rất lâu của sói xám Siberia dưới điều kiện sinh tồn vô cùng khốc liệt và tồi tệ. Mọi người vừa bắn vừa chạy, vừa mới lui tới được trước cửa nhà kho, một con cự lang có vết sẹo dài trên mặt cũng đã đuổi kịp ngay sau lưng, đột nhiên nhảy lên một cái, khiến Tiêm Quả ngã nhào ra đất. Súng trường trong tay Tuyền béo đã bắn hết sạch đạn, còn chưa kịp nạp lại, hắn chợt nhớ tới bên hông vẫn còn giắt theo con thỏ vừa nhặt được khi nãy, vì vậy vội dùng sức quăng con thỏ nhằm ngay vào mặt con sói mặt sẹo đó, ném ra xa. Con sói mặt sẹo tung người lên, cắn phập một cái trúng ngay con thỏ rừng hãy còn đang lơ lửng trên không trung. Tôi cùng Lục Quân vội vàng đỡ Tiêm Quả dậy, đẩy cánh cửa gỗ, bốn người lảo đảo bước vào trong, lại xoay mình chống vào cánh cửa, lúc này mới hổn hà hổn hển hít lấy hít để từng ngụm không khí, ho liền một trận, nhưng lập tức lại vang lên tiếng đầu sói húc uỳnh uỳnh cùng tiếng móng vuốt ken két đang cào vào cửa. Tiếng gió tuyết gào thét cùng tiếng tru của đàn sói, hoàn toàn lẫn vào nhau tạo nên một âm thanh thê lương không thể tả nổi.

Mọi người sợ hết hồn hết vía, cả người đều lạnh toát, nếu như chỉ cần chậm nửa bước thôi, giờ phút này chắc chắn đã táng thân trong bụng sói rồi! May mắn nhà kho này có bốn bức tường đất nung vô cùng bền chắc, ngăn trở được bầy sói. Chúng tôi bốn người này cùng một tiểu hắc cẩu, còn có cả một con hồ ly già đang kiệt sức nữa, bị cả đàn sói hơn nghìn con vây khốn trong kho rơm. Cỏ khô bên trong xếp thành từng núi nhỏ, bản thân cỏ đã có tác dụng giữ nhiệt rất tốt, bất quá dưới cái thời tiết vừa có bão tuyết vừa có gió lạnh này, bức tường đất nung đã sớm đóng băng trắng xoá, không ai có thể chắc chắn sẽ sống qua được một đêm nay hay không. Nhà kho này tuy rằng có thể ngăn cản được bầy sói ở bên ngoài, nhưng với thời tiết ác liệt như này, cũng rất có thể phát sinh chuyện tuyết rơi dày quá khiến toà nhà sụp đổ, trực tiếp đem chúng tôi chôn sống ở bên trong. Ngoài ra một chút lương thực cũng không có, nồi sủi cảo vừa hấp chín xong còn chưa kịp chén lấy miếng nào, thật phải nói là rơi vào cảnh “Trong không có lương thảo, ngoài cũng chẳng có cứu binh”! Bị vây khốn trong bốn bức tường giữa trận bão tuyết này, liệu có thể chống cự được bao lâu?

Chúng tôi ý thức được rằng mình đang đứng ở tuyệt lộ, nhưng bất luận thế nào so với bị sói dữ xé xác ăn thịt vẫn còn tốt hơn chán. Bốn người liều mạng chạy vào kho rơm, còn chưa kịp thở xong một hơi cho hoàn hồn, thì đột nhiên ở khe hở giữa tấm ván cửa dưới cùng và mặt đất lộ ra một nửa đầu chó sói, đôi mắt loé hung quang, định bò vào bên trong. Tuyền béo dùng lưng dựa vào cánh cửa, ngồi phệt dưới đất ra sức mà thở, suýt chút nữa cái mông đã bị đớp mất, hắn vội vàng nhảy dựng lên, lôi báng súng ra đập thật mạnh. Cái đầu sói mới chui vào được một nửa, bị báng súng nện cho be bét đầy là máu, không thể không chui ra ngoài, chợt phía dưới cánh cửa có mấy bộ vuốt sắc nhọn thò vào, không ngừng đào khoét lớp đất bùn phía dưới cánh cửa. Chúng tôi thấy bầy sói muốn đào đất tạo hang chui vào, ai nấy đều thất kinh, vội vàng dùng súng trường và mấy cái bồ cào cắm ở đống rơm trong nhà kho, hướng về những móng vuốt hung hãn kia mà đâm tới. Cũng may trời giá rét khiến mặt đất đông cứng thành băng, so với gang thép còn cứng hơn mấy lần, móng vuốt sói cho dù có sắc bén đến đâu, cũng khó mà đào rộng được thành khe hở lớn hơn. Sói xám Siberia thân hình lớn hơn hồ ly rất nhiều, không thể trực tiếp lợi dụng khe hở sẵn có để chui vào. Song phương một trong một ngoài, cách nhau một cánh cửa giằng co liên tục, bầy sói rốt cuộc cũng buông tha cái ý niệm đào hang.

Ai cũng không dám xem thường, khiêng mấy chục bao tải gai chứa đầy cỏ khô tới, chặn kín cánh cửa nhà kho. Bên trong này dù ngày hay đêm cũng chỉ tuyền là một mảnh đen như mực, trước mắt chúng tôi chỉ có đèn pin và đèn đất có thể chiếu sáng. Nhắc đến đây, Lục Quân vội cầm đèn đất đi xung quanh kiểm tra cẩn thận từng li từng tí, thấy tường đất vững chãi không có một lỗ hổng, bầy sói hẳn không thể tấn công vào nổi, lúc này mới thoáng yên tâm. Tuyền béo không biết lôi đâu ra được nửa gói thuốc lá, vừa mới ngậm được vào mồm chưa cả kịp châm lửa, đã bị Tiêm Quả giật lấy, rồi dùng đèn pin soi lên trên tường, bốn chữ đỏ rực to đùng “Nghiêm cấm khói lửa” hiện lên, nhắc nhở Tuyền béo chớ có để cỏ khô trong đây bị bắt lửa. Tôi suy nghĩ, cảm thấy hành động của Tiêm Quả là rất đúng và kịp thời, bên trong nhà kho này toàn là cỏ khô, vạn nhất mà gây ra hoả hoạn thì chúng tôi liền biến thành bốn con vịt quay treo lò ngay. Tôi lấy tay dập tắt que diêm mà Tuyền béo vừa quẹt để châm thuốc, tịch thu nửa gói thuốc và hộp diêm của hắn, nhét vào ngực mình, lại cầm đèn đất soi vào một góc không có cỏ khô.

Liền thấy con hồ ly kia đang nằm ở đó, chăm chú quan sát nhất cử nhất động của bốn người. Chúng tôi tự lo cho thân mình còn chưa xong, cũng chẳng có tâm tư mà đi để ý nó nữa. Kiểm tra đi kiểm tra lại bốn phía nhà kho đều không thấy có sơ hở gì, trên cao có mấy cái lỗ thông hơi, bình thường hay đem mấy cục gạch nhét vào đó, phía trên nhất thì dùng vài phiến gỗ ghép thành trần nhà, rải thêm một lớp cỏ, vì lúc trước phòng ngừa bão tuyết sắp đến nên đã tiến hành gia cố thêm, cũng vô cùng bền chắc, hơn nữa còn lưu lại ba chỗ có thể mở ra cửa trời, để cho người sau này leo lên trừ bỏ tuyết đọng trên trần nhà và mái một cách dễ dàng. Trong nhà kho ngoà cỏ khô còn có hai cái thang gỗ. Bốn người liền lấy thang ra, bắc lên tường, trèo lên lỗ thông hơi nhìn thử tình hình bên ngoài thế nào. Lúc này mới hơn bốn giờ một chút, sắc trời vẫn chưa hoàn toàn tối, bất quá bão tuyệt cùng cuồng phong vẫn liên tục rít gào, cả hoang nguyên giờ biến thành một mảnh trắng xoá, xa xa không thể nhận ra gì nữa, chỉ thấy đàn sói vẫn lởn vởn bên ngoài.

Tuyền béo đem một cái thang qua, leo lên lỗ thông hơi canh gác, tuỳ thời chú ý tình huống bên ngoài. Tôi cùng Lục Quân và Tiêm Quả thì ở dưới bàn bạc đối sách. Trước mắt không có nước uống cùng lương thực, nhiệt độ vẫn liên tục hạ thấp, đến nỗi một giọt nước hắt ra cũng liền đông lại thành đá, nhưng không ai dám đốt cỏ khô để sưởi ấm cả, súng trường cũng không còn nhiều đạn nữa, lôi đạn trong túi ra đếm thử, chỉ có ba mươi mấy viên nữa thôi, không đủ để mở đường máu xông ra, song cố thủ đến nửa đêm, thể nào cũng bị cơn rét hành hạ cho sống dở chết dở mà xem!

Tiêm Quả nói: “Chỉ mong bầy sói sẽ sớm rời đi, bọn chúng không vào được trong này, thời tiết lại giá lạnh như vậy, hẳn sẽ phải đi nơi khác kiếm ăn.”

Lục Quân tuyệt vọng nói: “Không thể nào a! Các cậu có chỗ không biết, trước kia tôi có xem qua một quyển sách, trên đó nói chó sói là giống loài cổ xưa, hoàn mỹ nhất trong chuỗi thức ăn. Giống loài như vậy tổng cộng chỉ có ba loại, bắt đầu từ thời tiền sử xa xôi, thứ nhất là khủng long tước, thứ hai là hổ răng kiếm, và cuối cùng thứ ba chính là chó sói. Chỉ có duy nhất chó sói là vẫn tồn tại được cho tới tận bây giờ, bởi vì bọn chúng chịu đựng được các loại khí hậu tàn khốc lẫn điều kiện sinh tồn khắc nghiệt, có thể nhịn ăn nhịn uống suốt nhiều ngày trời, càng đói càng hung tàn, càng đói càng có kiên nhẫn, càng đói thì càng tham lam, cho nên mới có người nói chó sói bản tính của nó chính là chịu đói! Đám sói này đã đói đến mờ cả hai mắt, một khi đã thấy có con mồi trốn ở trong này, bọn chúng tuyệt đối sẽ không tự rút lui!”

Tôi nghe Lục Quân nói, cảm thấy hết sức tuyệt vọng, nhưng vẫn phải giả vờ mạnh mẽ, khích lệ hai người bọn họ một câu: “Chúng ta thà chết cứng ở trong kho rơm này, còn hơn là nằm trong cái quan tài bằng da sói, ở tình thế bắt buộc một mất một còn, người chết thì ta sống này, chúng ta nhất định phải dùng toàn lực cầu sinh, chớ vội nản lòng!”

Vừa nói xong, Tuyền béo ở trên kia đã không chịu nổi gió tuyết bên ngoài thổi vào lỗ thông hơi, nước mũi chảy ròng ròng, đành phải nhét mấy viên gạch vào lại, rồi leo xuống thang báo cáo tình hình quan sát được. Hắn một bên hà hơi thổi thổi làm ấm tay, một bên há miệng run rẩy nói: “Tình huống bên ngoài không có gì thay đổi, tôi thấy đám sói điên đang cắm đầu xuống đất như mấy con cáo săn cá ở trên sông băng ý. Chúng ta trước phải nghĩ cách sưởi ấm đã, nếu không chỉ sợ chẳng cần đợi đến nửa đêm đã có người chết rét rồi!”

Tôi nói với Tuyền béo: “Trong này dù gì cũng là kho rơm, cỏ khô không hề thiếu, chúng ta chui vào trong chồng cỏ nằm, miễn cưỡng có thể sống qua được đêm hôm nay. Bên ngoài lạnh lẽo đến nước còn đóng thành băng, bầy sói kia thử xem nhẫn nhịn được bao lâu, phỏng chừng đến mai sẽ rời đi mà thôi.”

Tuyền béo cố gắng gật đầu một cái: “Phương pháp đó rất hay! Mấy bó cỏ khô này quả thật có thể mang ra chống lạnh, huống chi chuyện đã tới nước này rồi, nào có ai nghĩ ra được cách gì hay hơn đâu, cứ chui vào nằm cho ấm cái người đã rồi hãy nói gì thì nói.” Nói xong hắn chui tọt luôn vào trong một đống cỏ khô.

Đúng vào lúc này, con hồ ly vốn đang nằm im trên một chồng cỏ khỏ đột nhiên bật người dậy, hếch mũi lên ngửi ngửi xung quanh một cách khẩn trương, rồi cứ thế xoay vòng ở giữa gian nhà kho, tỏ vẻ hết sức bất an.

Tuyền béo nói với nó: “Không cần hốt hoảng như vậy, ông nội ngươi đây chẳng thèm để ý đến ngươi đâu, nếu ngươi không muốn ra ngoài tự chui vào miệng sói, thừa dịp ông đây đang nằm yên một chỗ, cút sang chỗ khác đi.”

Tiêm Quả lên tiếng: “Hành động của con hồ ly này rất kì quái, nó vừa xoay vòng vừa nhìn chằm chằm vào chúng ta, có phải là muốn nói gì đó với mọi người hay không?”

Tôi nhìn vị trí mà nó đang lởn vởn, quả nhiên là ở dưới một cái lỗ thông hơi, liền đem thang qua rồi tự mình trèo lên ngó thử. Lục Quân cũng tò mò leo lên theo. Hai người đem gỡ mấy viên gạch sang một bên, bốn mắt dán vào lỗ thông hơi mà nhìn ra bên ngoài. Vừa nhìn, lập tức toàn thân lạnh toát mồ hôi.

Tuyền béo cùng Tiêm Quả ở dưới đỡ thang cho chúng tôi, không đợi được bèn hỏi: “Chuyện gì xảy ra thế? Đàn sói muốn tấn công lần nữa à?”

Tôi giật mình đáp lại: “Không phải, bọn chúng mang tới…. một con quái vật!”

Mời các bạn đón đọc chương tiếp theo: Chạy Trốn Trong Gió (Hạ)” đăng tại page Hội những người nghiện truyện của Thiên Hạ Bá Xướng
 
Sửa lần cuối bởi điều hành viên:

Lười Biếng Vô Tận

Thanh Phong 37
Tham gia
5/4/19
Bài viết
21
Điểm cảm xúc
67
Điểm
13
Chương 5: Chạy Trốn Trong Gió (Hạ)
Dịch: Đặng Nam

Tôi có nằm mơ cũng chưa từng thấy thứ gì như vậy, không thể nói rõ tột cùng đấy là con gì, chỉ có thể nói cho ba người kia biết: “Trong bầy sói có một con quái vật!”

Trên sống mũi Lục Quân đeo một chiếc kính cận nặng, hai mắt cộng lại hơn một ngàn tám trăm độ, so với đít chai rượu Tây còn muốn dày hơn, hơn nữa mắt kính còn bị gió lạnh cùng bão tuyết thổi từ nãy đến giờ, phủ lên một tầng sương mù mỏng, chẳng nhìn thấy rõ cái gì hết, hắn ở bên cạnh gặng hỏi tôi: “Quái vật mẹ gì vậy? Cậu có nhìn rõ được không, là quái vật như thế nào?”

Tôi cố chịu đựng từng cơn gió rét như cắt da cắt thịt đang ôm lấy mình, vừa quan sát tình huống bên ngoài nhà kho, vừa thấp giọng nói cho đám người Lục Quân: “Ác lang bây giờ càng ngày càng kéo đến đông trong khi bão tuyết vẫn không ngừng thổi, trong đó có một con cự lang đứt mất đuôi, nó được một con sói khác cõng trên lưng, tựa như một loài dã thú nào đấy chứ không phải là sói, trên người mọc lên bộ lông trắng xám rất dài, thật giống như đã sống rất nhiều năm rồi vậy. Giống chó sói từ trước đến giờ đều là chân phía trước dài, chân phía sau thì ngắn, cho nên là bọn chúng lên núi thì nhanh chứ lúc xuống thì lại chậm, khi xuống dốc chỉ có thể từng bước từng bước một dò dẫm mà đi. Còn con sói đứt đuôi này lại cùng với những con sói khác hoàn toàn ngược lại, hai chân trước ngắn hơn so với hai chân sau, vì nó đang nằm trên lưng con sói khác, nên nhìn dáng vẻ tựa hồ như đang chạy trên không vậy, con quái vật này phải chăng cũng là một đầu chó sói sao?”

Hai người kia thì ở dưới nên chẳng rõ lắm sự tình bên ngoài như nào, Tiêm Quả hỏi tôi: “Trên đời lại có loài sói chân trước ngắn hơn chân sau ư?”

Tuyền béo chõ mõm vào: “Các cậu có biết một trong những kẻ thù lớn của chủ nghĩa xã hội là gì không? Chính là sự ngu dốt! Kiến thức đã ít thành ra cái gì cũng thấy kì lạ. Giờ thử giơ mười ngón tay ra mà xem, cùng là ngón tay đấy, mà có dài ngắn như nhau quái đâu. Cho nên chắc gì đã không có con nào chân sau dài hơn chân trước chứ?”

Tôi nói: “Vừa nãy chúng ta rõ ràng thấy bầy sói kia sẽ đem những con bị thương trúng đạn chén sạch sẽ, tại sao chỉ giữ lại độc con sói già chân thọt này, còn có một con sói khác đặc biệt cõng nó trên lưng?”

Lục Quân nghe được đoạn nói chuyện giữa tôi và Tuyền béo, ngẩn người một lúc rồi đột nhiên kêu lên: “Mau nổ súng nhanh! Nhanh lên! Con quái vật này không phải là chó sói đâu, mà là quân sư của bầy sói!” Hắn vừa hoảng sợ vừa gấp gáp, tay chân luống cuống hết cả lên, suýt chút nữa là ngã nhào một cái từ trên thang gỗ rơi thẳng xuống đất, may mà nắm được lấy cánh tay của tôi, vừa lắc vừa luôn miệng thúc giục: “Mau, mau lên! Nhanh dùng súng trường bắn chết nó luôn đi đừng để chậm trễ!”

Lỗ thông hơi của nhà kho chỉ dùng để đối lưu không khí, chứ không phải là một lỗ đạn công sự, tôi lại đứng ở trên thang, căn bản là không có cách nào để thò được súng hướng ra bên ngoài mà bắn cả, nhưng ba đứa tôi, Tuyền béo và Tiêm Quả vừa nghe đến mấy từ “quân sư của bầy sói”, nhất thời tỉnh ngộ, đồng thanh kinh hô: “Bái!”

Trung Quốc có một câu thành ngữ như này “lang bái vi gian” (Trans: Nghĩa là cấu kết với nhau làm việc xấu. Sở dĩ nói như vậy là vì lang và bái cùng thuộc loài thú gian ngoan, xảo quyệt), chó sói tính tình tham lam tàn nhẫn, giảo hoạt cũng có thừa, nhưng so với bái thì chưa là gì, loài bái vô cùng nham hiểm và thâm độc, một bụng chỉ toàn suy tính xấu xa, phàm là chuyện gì mà bầy sói không nghĩ ra được biện pháp giải quyết thì bái lại nghĩ ra được, chẳng khác nào quân sư của bầy sói cả. Trong cổ thư sớm đã ghi lại vài thông tin liên quan tới loài bái này, bất quá nhiều năm như vậy rồi, thực sự nhìn thấy bái chẳng có mấy người. Bởi vì không phải bất kì trong bầy sói nào cũng có một con bái làm quân sư, bản thân bái hết sức hiếm thấy, tương truyền chỉ có sói và hồ ly giao phối với nhau, mới ngẫu nhiên lắm sinh ra được một con quái vật như vậy. Thực ra đấy là dân gian truyền nhau thế, chứ loài bái vẻ ngoài giống sói, nhưng lại không phải là sói, chẳng qua là thường xuyên qua lại cùng bầy sói mà thôi.

Hồi trước có không ít người, nhìn thấy chó sói cụt chân đi lại khập khễnh lại tưởng lầm là bái. Nghe nói vào những năm đầu thập niên 60, vùng Đông Bắc cùng khu Nội Mông triển khai chiến dịch vận động diệt chó sói, đã từng bắt được một con bái, tin đó được truyền đi làm náo động cả một phen, sau đó mới phát hiện kia chẳng qua chỉ là một con sói cụt chân bị thọt. Loài bái thật sự dường như đã tuyệt tích khỏi thế gian, chỉ bất quá nó có một đặc trưng riêng rất rõ ràng, chúng tôi ở trong binh đoàn nông khẩn và trấn thủ Bắc Đại Hoang, cũng đã nghe qua không ít truyền thuyết về chúng, lúc này nhìn thấy con quái vật trên lưng cự lang, cũng có thể dám chắc hơn phân nửa đấy chính là bái, quân sư của bầy sói hoang.

Lúc này mấy người chúng tôi mới hiểu, vì sao mà con hồ ly đang ẩn nấp trong kho rơm này lại đột nhiên trở nên khẩn trương và bất an như vậy, khứu giác của nó phát triển hơn loài người chúng ta rất nhiều, vô cùng bén nhạy, ban đầu nó nghĩ rằng nhà kho xây bằng đất nung này có thể ngăn cản được bầy sói dữ, cho nên mới yên tâm mà nằm nghỉ trên đống cỏ. Cho đến khi nó phát giác trong bầy sói có xuất hiện một con bái, lập tức cảm thấy đại hoạ sắp ập xuống đầu đến nơi, xem ra cái nhà kho này sắp không chống cự được nữa rồi! Mọi người đều biết bên trong bão tuyết ngoài kia ẩn chứa rất nhiều thứ đáng sợ, một khi mất đi chỗ núp này, đối mặt với sự hung dữ của cơn bão, chỉ trong chớp mắt thôi sẽ thành miếng mồi ngon cho bầy sói đói đang trực chờ sẵn nãy giờ. Giờ chỉ còn nước động não cực hạn, nghĩ mọi cách để giữ được kho rơm này, thì chúng tôi mới có cơ hội sống sót, nhưng mấy người chúng tôi chẳng ai nghĩ ra được là bọn sói sẽ tấn công vào nơi này từ đâu và như thế nào. Tôi đứng trên thang gỗ, nhìn qua lỗ thông hơi một hồi, đã sớm bị hàn phong thổi cứng hết cả người, chẳng mấy mà thành tảng băng sống, tôi bảo Lục Quân leo xuống trước, rồi kêu Tuyền béo lấy súng trường ra chuẩn bị đạn dược cẩn thận, Tiêm Quả cũng cầm cái bồ cào sắt thường ngày vẫn dùng để cào rơm ra phòng thân.

Bốn người chúng tôi căn cứ vào địa hình bên trong mà tiến hành bố trí đơn giản, nhà kho này tổng cộng chỉ có hai cái thang gỗ, liền đem mỗi cái gác lên một lỗ thông hơi riêng. Tôi cùng Tuyền béo chia nhau leo lên thang, thông qua hai cái lỗ mà quan sát động tĩnh của bầy sói bên ngoài, còn Tiêm Quả và Lục Quân thì ở dưới phụ trách việc cầm đèn pin chiếu sáng, đồng thời lắp hết số đạn còn lại vào súng trường, tất cả đã xong xuôi, chuẩn bị nghênh địch.

Tuyền béo nhắc nhở tôi: “Đạn trong súng chẳng còn mấy đâu Nhất ạ, cùng lắm chỉ bắn được vài lượt thôi. Nếu anh em mình mà có ba nghìn viên như này, lại được chi viện thêm hai thùng lựu đạn cầm tay nữa, thì con mẹ nó chứ, chỉ việc đứng ở trên đây ngó xuống, đến con nào giết con đấy, bao nhiêu sói thì bấy nhiêu xác, đếch phải nghĩ nhiều. Bất quá mặc dù điều kiện bây giờ không được như thế, nhưng được cái kho rơm này tường cũng cao mà lại vững phết, bầy sói kia cho dù bản lĩnh có lớn hơn nữa chưa chắc đã vào được a! Chúng ta cũng không cần khẩn trương như vậy chứ?”

Lục Quân nói với Tuyền béo: “Cậu chưa biết được sự xảo quyệt của bái đâu! Bọn chúng nhất định có thể nghĩ ra cách để tiến vào đây, đến lúc đó sợ rằng ngày này năm sau chính là ngày giỗ của bốn đứa chúng ta!”

Tuyền béo đốp lại: “Tên nhãi Lục Quân kia, cậu có phải đang sợ đái cả ra quần đúng không?”

Lục Quân đáp: “Chết thì có quái gì mà phải sợ! Chẳng qua là để cho chó sói xé xác, chết không toàn thây thì nghe có vẻ không được vinh quang cho lắm.”

Tuyền béo nói: “À thế thì cậu cứ yên tâm đi, ông đây sẽ đặc biệt để lại cho thằng nhãi nhà cậu một phát đạn ân huệ, một khi bầy sói tấn công vào được đến đây, đoàng một phát trực tiếp tiễn cậu đi gặp cụ Các cụ Lê (Trans: Karl Marx và Lenin), tuyệt đối không để cho cậu bị chó sói cắn chết, gặp hai cụ vẫn có thể ngẩng cao đầu báo cáo!”

Lục Quân: “Gớm, cậu quả là một người đồng chí tốt bụng, chỉ còn có một phát đạn mà cậu cũng để dành cho tôi, thế đến lúc đấy cậu dùng cái gì?”

Tuyền béo: “Tôi sẽ kiên trì đến giây phút cuối cùng, nói không chừng lại đợi được đến lúc đại quân chi viện kéo tới!”

Lục Quân cười khẩy: “Bão tuyết ngoài kia quá lớn, ba tháng tới cũng chưa chắc đã phục hồi xong các tuyến giao thông, không thể trông chờ vào đại quân chi viện được! Tuyền béo cậu đừng có mà chỉ mải đấu võ mồm, hãy trông chừng bên ngoài cho cẩn thận, coi chừng có chó sói thừa dịp cậu lơ là mà lẻn vào đấy!”

Tuyền béo đáp: “Cậu không cần phải thấp tha thấp thỏm như thế, đầu bọn sói có cứng như sắt đi nữa, cũng không có khả năng húc đổ được bức tường dày này mà lẻn vào đâu.”

Tôi vẫn đang đứng trên thang, mặt ngưng trọng, quan sát tình hình bên ngoài, chợt phát hiện bầy sói đang vây quanh nhà kho bất ngờ có động tĩnh, vội vàng vẫy tay ra hiệu cho Tiêm Quả, bảo cô ấy ra bịt mồm hai thằng dở hơi kia lại, thông báo sắp sửa có biến. Bầy sói bên ngoài đang lò dò tiến vào, càng ngày càng xiết chặt vòng vây hơn! Tôi trong lòng thầm cảm thấy có gì đấy hơi kì lạ thì phải: “Bầy sói chen nhau tiến lên, phải chăng bọn chúng định húc đổ bức tường này thật ư? Vậy chẳng phải là châu chấu đá xe sao, bọn sói này thật không biết tự lượng sức mình, có khi chúng ta đã đánh giá cao bọn chúng rồi cũng nên.”

Nhưng tôi rất nhanh đã nhận ra ý đồ của bầy sói, đợt cự lang đầu tiên đã bắt đầu xông lên, nằm rạp dưới tường đất, đợt cự lang thứ hai tiếp tục ùa theo ngay phía sau, đạp lên đầu những con sói kia leo lên. Tôi vội ngoảnh đầu nhìn lên trần nhà kho, lập tức hít phải một ngụm khí lạnh: “Bỏ mẹ! Bọn sói đang chồng tường để đổ bộ từ phía trên xuống!”

Hành động của chúng thật là nhanh, vừa mới nói xong, xung quanh bốn phía kho rơm, từng cái thang thịt dựng từ những con sói sống đã vươn lên khá cao, lập tức có đầu sói húc rơi những viên gạch chặn ở trong lỗ thông hơi, sau khi tìm được lối vào nó dường như trở nên phát điên hơn, cứ thế chui vào được bên trong. Tôi đang đứng trên thang gỗ, không có cách nào nổ súng bắn được cả, vội vàng trượt xuống dưới khỏi thang, nhặt súng trường bán tự động lên, bảo Tiêm Quả mau soi đèn pin lên chỗ bầy sói đang tranh nhau chui vào, ánh sáng vừa chiếu đến một cái, có thể thấy ở ngay lỗ thông hơi có một đôi mắt xanh lập loè nhìn chúng tôi, giống như hai ngọn lửa ma chơi vậy! Tôi nâng súng ngắm thẳng vào đôi mắt lửa ma chơi đấy, ngón tay vừa bóp cò, “Đoàng” một tiếng đanh gọn, ngọn lửa kia cũng theo đó mà tắt ngóm. Nhà kho này không chỉ có duy nhất một lỗ thông hơi, mọi khi vẫn dùng vài viên gạch nhét tạm vào, nếu như gỡ chúng ra, người ở bên trong có thể thò đầu ra ngoài nhưng không thể chui ra được, bất quá chó sói thì lại có thể.

Dường như cùng một lúc, gạch bịt ở mấy lỗ thông hơi còn lại cũng đồng thời bị đẩy ra, tôi cùng Tuyền béo trong tay lăm lăm khẩu súng trường, liên tiếp bắn mấy phát, hạ gục từng con sói một, không để chúng chui qua được. Mấy khẩu súng của chúng tôi tổng cộng chỉ còn có hơn ba mươi viên đạn, một lượt bắn vừa rồi đã dùng hết hơn một nửa, mà trên những lỗ cao kia lửa ma chơi vẫn cứ thoắt ẩn thoắt hiện, tắt được hai ngọn thì lại có hai ngọn khác bùng lên. Tôi thấy cứ phí hoài đạn mãi thì không ổn, vội kêu mọi người mau mau chuyển mấy bao tải bên trong đã được nhét đầy cỏ khô tới, đợi tôi bắn lui được con sói định chui vào, thì lập tức nhét thật nhanh bao tải vào lỗ thông hơi. Bốn người chúng tôi bận rộn y như một chiếc đèn kéo quân vậy, liều mạng nhét kín hết các lỗ ở bốn phía, rồi hò nhau dùng hết sức đẩy mạnh mấy cái giá gỗ, tiến hành củng cố khả năng phòng thủ, cuối cùng cũng tạm ngăn được bầy sói bên ngoài lần nữa. Chúng tôi vừa trải qua một hồi kinh hãi, lúc này vừa đói lại vừa mệt, toàn bộ mọi người đều không cầm cự được nữa rồi, trực tiếp ngồi trên đống cỏ khô mà tham lam hít lấy từng ngụm không khí lạnh buốt, đến khi định thần lại, mới phát giác toàn thân mồ hôi lạnh đã chảy đầm đìa.

Tuyền béo run cầm cập: “Lạnh chết cha chết mẹ tôi rồi! Mồ hôi trên người tôi sắp sửa đông cứng thành băng, nếu mà không có chút lửa để sưởi ấm thì chả mấy thành mẹ nó luôn que kem thịt người mất! Bất quá chó sói chỉ ăn mấy cái xác mà thịt hãy còn tươi, uống máu lúc còn nóng hôi hổi thôi, chứ thấy mấy miếng thịt quắt queo tím tái lạnh ngắt thì lại nuốt không trôi, chúng ta hay là đông mẹ lại thành bốn que kem đi, ít ra còn được toàn thây, sau này cũng đỡ vất vả cho các đồng chí tìm xác!”

Tôi và Tuyền béo mặc dù cả người đều bị lạnh, nhưng mà ít ra vẫn cố chịu đựng được một chút, còn hai người Tiêm Quả và Lục Quân bên kia thì sớm đã lạnh cóng đến phát run. Vạn bất đắc dĩ, tôi lúc ấy dựa sát vào một đống cỏ khô ở trong góc nhà kho, đành phải móc từ trong ngực ra nửa bao thuốc lá cũ cùng cái bật lửa mà lúc trước tịch thu được của Tuyền béo, phân cho hắn và Lục Quân mỗi người một điếu. Ba người ngồi xuống châm lửa, phì phèo rít từng hơi thuốc ấm áp, tiện tay đốt lên một đống lửa nhỏ. Bốn người vây quanh thành một vòng tròn, ngồi trước đống lửa sưởi ấm. Bao thuốc của Tuyền béo hiệu “Tân Công”, chất lượng dở tệ, hút cứ như cứt, nhưng cũng không trách cậu ta được, đây là loại thuốc lá duy nhất mà chúng tôi có thể kiếm được ở cái vùng chó ăn đá gà ăn sỏi này, ngày thường cả lũ còn tiếc không nỡ hút dù chỉ một điếu, toàn là lấy thuốc lá sợi, rồi cuốn với lá cây hút luôn, một hơi rít xuống cứ phải gọi là ho sặc sụa vì khói. Hôm nay, cái chết đang kề cận ngay trước mắt, chúng tôi cũng đếch thèm nghĩ nhiều làm gì cho mệt, cứ thế rít lấy rít để điếu thuốc lá “xịn”, hút được nửa điếu, cơ thể vốn đang căng thẳng cực độ mới dần dần được thả lỏng.

Tuyền béo nói: “Đời này điều tôi thấy đáng tiếc nhất chính là nồi sủi cảo còn chưa được ăn! Tới Bắc Đại Hoang non nửa năm trời, mãi mới được hôm làm sủi cảo nhân thịt cải tử tế, thì đã bị con mẹ nó bầy sói kia dí phá đám!”

Tôi nói: “Cậu đói quá hoá dở rồi! Sủi cảo còn phân tử tế với không tử tế cái gì hả?”

Hắn đáp lại ngay: “Mấy cái bánh nát hai thằng cậu với Lục Quân làm mà cũng dám gọi là sủi cảo sao? Nhiều nhất thì chỉ có thể tạm coi là nồi canh thịt! Nhìn qua biết ngay đều không phải là cùng sư nương học, mà trực tiếp học của sư muội thì đúng hơn!”

Lục Quân nghe chúng tôi nói đến sủi cảo, nuốt nước bọt ừng ừng vì thèm, tự lẩm bẩm một mình: “Không được ăn sủi cảo tử tế, thì có sủi cảo cháy nồi để ăn cũng đã hạnh phúc lắm rồi!”

Tiêm Quả khẽ thở dài một hơi, ảo não: “Chúng ta nghĩ đến sủi cảo nhân cải thịt trong nồi, còn bầy sói có khi nào đang nghĩ đến sủi cảo nhân thịt người trong kho rơm…”

Tuyền béo như ngộ ra một chân lí nào đó: “Thì ra tất cả cũng chỉ vì miếng ăn thôi à?”

Trong lòng tôi khẽ động một cái, đáp lời ba người kia: “Vậy thì có gì mà kì quái chứ, cậu muốn có cái ăn hằng ngày, thì chó sói cũng thế, cũng muốn có gì đấy để bỏ vào bụng, tất cả đều vì một mục đích duy nhất, chính là để sinh tồn. Lúc trước Lục Quân đã nói, bản tính của chó sói là đói bụng, kì thực bản tính của con người cũng giống vậy. Trước giờ tôi không hiểu rõ lắm hàm nghĩa của hai từ “đói bụng” là gì, thẳng cho tới khi đặt chân đến Bắc Đại Hoang, binh đoàn thực hiện chế độ cung cấp, hôm nào phải tham gia sản xuất thì một ngày ba bữa, còn không ở nhà đi tuần tra thì chỉ được có hai bữa một ngày, khẩu phần mỗi bữa là nửa cân lương thực. Trong quy định thì như thế, còn thực tế nửa cân lương thực không có gì hơn ngoài hai cái bánh ngô cùng một chén cháo loãng, kể ra cũng không tính là ít lắm, nhưng mà so với công sức lao động bỏ ra thì không tương xứng, lúc đào đất đắp mương trời nắng chang chang, toàn phải cởi trần làm việc, mồ hôi chảy ra cũng phải mất gần chục lít, một cân rưỡi lương thực còn chẳng đủ nhét kẽ răng nửa là có nửa cân, khi đó tôi mới thực sự hiểu cái gì gọi là đói, chữ đói viết như thế nào? Kể cả bày trước mặt tôi một nửa là lương thực, một nửa là phân bò, đến lúc đói hoa cả mắt — cái gì tôi cũng muốn ăn tất! Thấy việc bất bình thì ra tay, bị đau thì kêu, nghèo thì tìm cách làm giàu, đói thì tìm cái bỏ bụng, đây là lẽ thường bất di bất dịch! Nhưng người và sói khác nhau ở chỗ, tín niệm của con người có thể chiến thắng hết thảy mọi khó khăn, kể cả là đói bụng! Thử nghĩ đến những thứ mà các lão tiền bối cách mạng ngày trước đã từng phải trải qua xem — bụng đói sôi ùng ục như đánh trống, lương thực đã bị phong toả suốt ba tháng trời, số hạt gạo có trong ruột đếm ra khéo chưa được mười đầu ngón tay, lõng bõng toàn rau dại với nước canh! Bị phong lương ba tháng, chịu đói chịu khổ mà tinh thần lẫn ý chí chiến đấu vẫn mạnh mẽ như thường, đằng này chúng ta mới chỉ không được ăn một bữa sủi cảo thôi mà người nào người nấy ủ rũ như tàu lá chuối khô vậy, không cảm thấy xấu hổ sao? Chúng ta phải tin tưởng rằng, bánh mì rồi có…”

Tuyền béo liền tiếp lời tôi ngay: “Sữa bò cũng sẽ có!

Đến lượt Lục Quân và Tiêm Quả cùng đồng thanh: “Hết thảy đều sẽ có!”

Tôi nói: “Tôi đây là muốn khích lệ tinh thần cách mạng của mấy người các cậu, chớ có đùa giỡn nữa!”

Lục Quân đẩy nhẹ gọng kính bị trượt trên sống mũi: “Đồng chí Lênin từng đề cập đến việc này — sự cung cấp hữu hạn cũng giống như cơn đói vậy, để nó thường xuyên xảy ra thì sẽ phát sinh những mâu thuẫn gay gắt. Phương pháp giải quyết này của cậu là thuộc về trường phái ảo tưởng, thông qua ý niệm của bản thân mà chiến thắng được cơn đói.”

Tuyền béo đáp: “Tinh thần có thể trở thành món ăn được sao? Vậy thì đúng nghề của thằng này rồi…” Nhắc đến ăn một cái, hắn lập tức trở nên phấn chấn, cái gì mà kho với chẳng luộc, nướng với chẳng hấp, bánh bao, gan xào, vịt quay, gà quay, đều được hắn miêu tả một cách sống động, hình dáng màu sắc của từng món ăn như hiện ra rành rành trước mắt mọi người, hương thơm mùi vị như quanh quẩn ở bên mép, khiến mấy người chúng tôi vừa nghe mà vừa nuốt nước bọt đánh ực.

Tuyền béo càng bốc phét càng hăng say, kể ra cũng đúng thôi, nhà hắn có nghề thịt lợn gia truyền, từ bé đến giờ có thứ gì mà hắn chưa được ăn qua, cho nên thực sự là có đầy đủ vốn liệng để đem ra khoe khoang. Lúc chúng tôi mới đến binh đoàn, đúng lúc đang diễn ra một cuộc đại hội chiến — được khu chăn nuôi gửi tặng mấy phần thịt dê, toàn binh đoàn có hơn hai nghìn người tham gia chiến đấu, nhiệm vụ hoàn thành thắng lợi, liền tiến hành liên hoan ngay sau khi kết thúc đại hội. Dĩ nhiên, bởi vì điều kiện lúc ấy gian khổ, không có rượu thịt mấy, chỉ có bánh ngô là nhiều, ném nhau còn không hết, theo lời đoàn trưởng nói, liền tổ chức cuộc thi xem ai ăn khoẻ nhất! Thanh niên tri thức trong binh đoàn, tất cả đều mới mười bảy mười tám, cái độ tuổi nửa trẻ con mà cũng nửa người lớn, rất háo thắng và manh động, vừa nghe đến cuộc thi “Bánh ngô tỷ võ” liền nhiệt liệt hưởng ứng. Tuyền béo lấy ưu thế bản tính ham ăn vượt trội của mình áp đảo các đối thủ khác, cuối cùng dành được hạng nhất, bánh ngô xếp dọc thành một hàng, hắn thế như chẻ tre một hơi ăn hết hơn hai mươi cái bánh, khiến cho mọi người không ai theo kịp được, đồng thời phá vỡ kỷ lục ăn bánh ngô trong đợt tỷ võ của binh đoàn nông khẩn và trấn thủ Bắc Đại Hoang khoá trước! Hắn vì chả mấy khi được ăn thoả thích như này, cũng không muốn bị kẻ khác sau này phá kỷ lục của mình, ăn xong hai mươi mấy cái liền tu một hớp nước, rồi lại nhét thêm gần chục cái bánh nữa nhai nhồm nhoàm, tổng cộng tiêu diệt hơn ba mươi cái bánh ngô, cho đến tận năm 1977, thanh niên tri thức trở về với cuộc sống thành thị, vẫn chưa có ai ăn được một nửa số bánh Tuyền béo đã ăn, nói gì đến phá được kỷ lục kinh người ấy! Ở binh đoàn chúng tôi mỗi khi nhắc đến thành tích một lần ăn ba mươi cái bánh ngô của Tuyền béo, toàn bộ từ trên xuống dưới không ai dám nói hai chữ: không phục.

Tuyền béo tự thổi một hồi da trâu, đối với hắn cái sự tích ăn bánh ngô thiên hạ vô địch đã sớm thành chiến tích vĩ đại nhất cuộc đời. Hắn kể còn chưa xong, càng nói càng cảm thấy đói, bụng của hắn cũng đang kêu ùng ùng như trống trận, mới được một nửa câu chuyện, hắn chợt vỗ đùi cái “đét”: “Hắc! Tôi thật là ăn quá nhiều khoai tây với bánh ngô đâm ra lú lẫn rồi, chúng ta đâu nhất thiết phải ăn lương khô thì mới hết đói chứ?”

Lục Quân hai mắt sáng lên, vội hỏi: “Cậu mang lương khô sao?”

Tuyền béo đáp: “Lương khô quái gì? Tôi làm gì có lương khô.”

Lục Quân mất hứng: “Thế cậu vừa nói con mẹ lương khô gì đấy?”

Tuyền béo vỗ vỗ đầu Lục Quân, ôn tồn giải đáp như một người cha: “Tiểu tử này cũng ăn nhiều khoai tây với bánh ngô quá rồi…” Đoạn hắn liền chỉ tay về phía sau: “Trong kho rơm này không phải vẫn còn có một con hồ ly sao, há chẳng phải sẵn một món ăn dân giã đó à?”

Tôi nghe thấy Tuyền béo nói muốn ăn thịt hồ ly, như vậy chẳng phải đã phạm vào một trong những điều tối kị mà lão trung đội trưởng từng dặn dò sao? Nhưng mấy lời này lại không thể nói ra rõ ràng, tôi đang suy nghĩ làm thế nào để mở miệng, đã nghe thấy Lục Quân nói với Tuyền béo: “Thịt hồ ly cũng có thể ăn được à? Nghe nói thịt hồ ly rất hôi, vị khai như nước tiểu, đàn bà ăn vào là tịt luôn kinh nguyệt, không có cách nào ăn được đâu a!”

Tuyền béo đáp: “Kinh nguyệt cái gì ở đây? Đói bỏ con mẹ ra rồi mà còn lắm chuyện thế? Ta thật không nhìn lầm cái đồ nhà cậu, đúng là đầu đất chứa toàn bã đậu mà, hơi khai hơi hôi một chút thì đã làm sao mà phải sợ, dù gì cũng là thịt a! Bánh bột ngô có thể so sánh được à? Huống chi giờ đến một cái bánh ngô còn đếch có, cho ngươi ăn thịt ngươi còn chê ngắn than dài. Đồng chí Lênin đã nói như nào cậu còn nhớ không? Giai cấp vô sản chân chính là không nên kén ăn!”
Lục Quân ngạc nhiên nói: “Đồng chí Lênin đã từng nói qua như vậy?”

Tuyền béo vênh mặt: “Tất nhiên là đã nói qua rồi chứ sao. Cậu không nhớ đồng chí Lênin trước khi Cách mạng Tháng Mười giành được thắng lợi, ngay cả đồ ăn thức uống cũng vô cùng thiếu thốn, suốt ba mươi ngày trời chỉ có bánh mì đen để gặm, lúc đó ông ấy đã nói câu kia.”

Lục Quân đáp: “Tôi thuận miệng hỏi thế thôi, cậu còn cho là thật à?”

Tuyền béo nóng nảy: “Hắc, con mẹ tiểu tử nhà ngươi! Dám cho rằng đồng chí Lênin bịa ra chuyện đó sao?”

Tôi vội quay qua nói với Tuyền béo: “Đừng bốc phét nữa. Cậu kêu chỉ ăn khoai tây với bánh bột ngô thế mà người vẫn núc ních toàn thịt thế kia, từ đó có thể chứng minh rằng, chế độ ăn ưu việt đã được xã hội chủ nghĩa tính toán rất cẩn thận, ăn ít đi mấy bữa cũng không khiến cậu chết vì đói được.”

Tiêm Quả cũng khuyên Tuyền béo bỏ cái suy nghĩ ý đi, lúc trước con hồ ly này trộm củi của nông trường chúng ta, muốn mọi người đều phải chết hết, tuy rằng chuyện này nguyên nhân là do ý định trả thù cho hai con đứa con nhỏ mới sinh của nó, nhưng một khi hồ ly chưa được trừ khử, bốn người sẽ rất khó sống yên ổn được tiếp, rồi sau đó đại hắc cẩu được cử đến, không cần phải lo lắng hồ ly tới giở trò, cần gì phải đuổi tận diệt tuyệt nữa? Huống chi bây giờ chúng ta cùng nó đều bị bao vây ở trong kho rơm, nhờ có nó cảnh báo, mọi người mới phát hiện bên ngoài nông trường bầy sói đang gọi đến một con bái quân sư, lúc này mà đem nó ra ăn thì thật sự có hơi bất nhân bất nghĩa.

Tuyền béo giận dữ, bất bình nói: “Ba người các cậu thật là không phân biệt nổi quân ta với quân địch, yêu quái với người thường rồi. Nó là quân trộm cắp, là kẻ thù của xã hội chủ nghĩa, không xứng đáng được nhắc đến hai chữ nhân nghĩa!” Không đợi nói xong, hắn liền đứng phắt dậy, một tay cầm dao, một tay giơ đèn đất lên soi, quay đầu lại hướng về con hồ ly. Tôi muốn ngăn cản Tuyền béo, cũng vội vàng đứng lên đi theo. Hồ ly vốn sợ ánh lửa, sau khi chúng tôi đốt lửa để sưởi ấm, nó liền trốn vào góc bên kia kho rơm. Tôi và Tuyền béo vừa đi tới, nhìn một cái, chỉ thấy con hồ ly già nằm im không nhúc nhích, ngẩng đầu lên nhìn chúng tôi, mà không phải, nó không nhìn chúng tôi, mà là nhìn lên trên tường cao! Tôi theo bản năng cũng ngẩng đầu lên nhìn theo hướng mắt của nó, lỗ thông hơi hoàn toàn đã được lấp kín, trên đó tối mò mò, không biết con hồ ly sắp chết đến nơi rồi còn đang mải nhìn cái gì?

Tôi đang cảm thấy khó hiểu, chợt nghe trên trần nhà phát ra một tràng “cót két cót két” vang dội, trong lòng lập tức cả kinh, hỏng bét rồi! Bọn sói vây bên ngoài thấy không chui qua được lỗ thông hơi, tưởng rằng đã bỏ qua cho chúng tôi, nhưng không ngờ chúng lại kéo dài “cái thang” lên tận trên trần nhà. Mặt trên của kho rơm được dựng từ các tấm gỗ, chỉ trải lên một lớp cỏ khô, không thể nào so sánh được với bốn bức tường đất nung bền chắc! Tôi vội vàng gọi ba người còn lại, lập tức tổ chức phòng ngự trên chỗ cao, thừa dịp bây giờ chúng ta còn có địa thế thuận lợi, bất luận như nào cũng không được phép để cho bầy sói phá được trần nhà tiến vào. Mọi người vốn là vừa lạnh lại vừa đói, đều đã mệt mỏi đến cực hạn, nhưng vì mạng sống của mình, nhanh chóng vác thang ra leo lên trần nhà. Tôi và Tuyền béo một người một ngựa, đẩy tấm ván gỗ và đám cỏ khô ra, bão tuyết ngoài trời như hàng vạn mũi tên quất tới tấp vào mặt vào người, đã lên tới được nơi cao nhất của nhà kho. Bên trên chỉ có vài thanh xà cùng ván gỗ đan xen với nhau, có thể bước lên, còn lại là cỏ khô bện lại như chiếu rồi trải ra, chỉ cần hơi không để ý một chút thôi, giẫm phải là xác định rơi thẳng xuống phía dưới. Bên dưới mặc dù có cỏ khô chất thành đống cao như núi, rơi xuống cũng không chết được, nhưng lại phải leo lên lần nữa, sợ rằng sẽ không kịp ngăn cản bầy sói tấn công.

Hai người lên tới chỗ cao, bên tai nghe thấy gió tuyết đang rít gào “ô ô” quanh quẩn, mạnh đến nỗi giống như tuỳ thời có thể cuốn bay người ta lên không trung vậy, trước mặt là một mảnh trắng xoá đất trời. Tôi cùng Tuyền béo không còn cách nào khác, đành phải khoác súng trường lên vai, dùng cả hai tay hai chân bò về phía trước, bám lấy bờ tường, dè dặt thò đầu ra nhìn xung quanh, phát hiện một đầu ác lang đã lên được trần nhà. Tuyền béo lúc này liền rút súng trường bán tự động sau lưng ra giơ lên, nhắm thẳng vào ngay đầu con sói, giữa cuồng phong bão tuyết đang thét gào, tiếng xạ kích của súng trường hoàn toàn bị nuốt trọn, con ác lang bị trúng đạn, lảo đảo ngã vật ra, đập gãy mất mấy tấm ván gỗ, rơi xuống trong nhà kho. Một con gục liền có mấy con lao lên thay thế. Tôi và Tuyền béo, mỗi người trong tay cầm một cây súng trường, chỉ có thể chống đỡ được được hai hướng, Tiêm Quả cùng Lục Quân lần lượt cũng leo lên trợ chiến, bắn hết đạn thì lấy báng súng mà đập, lấy lưỡi lê mà đâm, trong nhà kho còn có mấy cái xiên cắm cỏ, đều được chúng tôi dùng làm vũ khí hết, đánh lui một đám lại một đám ác lang đang cố leo lên, cả người và chó sói đều là chém giết đến đỏ cả mắt, hoàn toàn quên mất giá rét và sợ hãi. Lúc này sắc trời càng ngày càng mờ mịt hơn, bão tuyết khổng lồ đang quét ngang qua nông trường số 17 này. Tôi trong lúc bận rộn đánh mắt xuống nhìn phía dưới, hiện lên vô số đôi mắt màu lục bích đầy tham lam của bầy sói, chập chờn như một rừng lửa ma chơi, bọn chúng chen chúc nhau, ngửa đầu nhìn đám người sống chúng tôi phía trên trần nhà, cảnh tượng này khiến cho da đầu người ta toàn bộ tê dại đi, hai chân bất giác run lẩy bẩy.

Tôi thoáng hoảng người, suýt nữa không đứng vững mà rơi xuống dưới, vội vàng ném bỏ khẩu súng trường đã hết đạn, giang hai tay ra ôm chặt lấy đầu tường. Một con cự lang nhân cơ hội này nhảy vọt lên, nanh nhọn nhe ra, há miệng nhào về phía tôi.

Cả người tôi như đông cứng lại, muốn né tránh nhưng lực bất tòng tâm, cho dù thoát được một phát này, cũng sẽ không cản hết được bầy ác lang đang ùn ùn kéo đến phía sau, nhất thời trong đầu tôi hoàn toàn trống rỗng, không thể làm gì hơn là nhắm mắt chờ chết. Đúng vào lúc này, thân hình của Tuyền béo bỗng xuất hiện, hắn từ bên tường đất bên kia chạy qua, quay ngược súng trường trong tay, báng súng hướng về phía trước hung hăng đập tới, một phát dộng thẳng vào đầu con ác lang kia. Nó kêu lên một tiếng “ô” đau đớn, cũng bị rơi từ trên này xuống. Tuyền béo không nghỉ tay, mà lập tức gắng sức kéo tôi tránh sang một bên, thoát được một miệng ác lang khác đang nhắm tới. Con ác lang kia trên lưng mọc hồng mao, vồ không trúng tôi, nhưng vừa vặn lại nhảy vọt lên được đến trần nhà. Một cú này nó sử dụng toàn thân khí lực, khiến cho trần nhà sập xuống một mảng to nữa, lăn thẳng vào trong nhà kho, không lệch không chệch một tí nào, rơi thẳng xuống đống lửa vẫn còn đang cháy mà chúng tôi vừa đốt lúc trước, khiến cho hoa lửa bắn tung toé. Bốn phía đều là cỏ khô chất đầy như núi, lửa gần rơm lâu ngày cũng bén, huống chi đây lại là rơm khô cao cấp, “oanh” một phát — bùng lên ngọn lửa dữ dội!

Lửa mượn sức gió, gió giúp sức lửa, trong thoáng chốc tựa như một con hoả long cuồng bạo, ngọn lửa bốc lên cao. Lửa đã bắt đầu bén vào trần nhà, tham lam nuốt lấy từng thanh xà gỗ, từng chiếu cỏ khô, đám ác lang thấy lửa thì sợ hết hồn, vội quay đầu nhảy xuống đất. Xung quanh nhà kho, bầy sói cũng rối rít lui lại phía sau, bởi vì thiên tính của sói là vốn sợ lửa, mặc dù đứng giữa trời gió rét bủa vây, nhưng cũng không dám bước tới quá gần. Cỏ khô trong kho bị bắt lửa mà bùng cháy, buộc bốn người chúng tôi phải lui đến mép trần nhà. Lúc này tuyết rơi từng bông trắng muốt như lông ngỗng, mượn sức gió kéo tới hoang nguyên mịt mù. Bên trong nhà kho khói lửa bốc lên ầm ầm, lại bị bão tuyết ngăn chặn, nhất thời vẫn chưa uy hiếp tới mấy người bọn tôi đang nằm sấp bên mép tường, ngược lại lại ngăn được bầy sói mạnh mẽ lao tới. Máu sói dính trên người tôi đã đông cứng lại, áo bông bị xé rách tả tơi, thân thể thì cứng ngắc lại vì giá rét, cả người tê dại đến mức còn không nhận ra trên người có chỗ nào bị thương hay không, đang định cúi đầu xem xét một lượt, chợt thấy Tiêm Quả bò đến chỗ thang gỗ, ngọn lửa hãy còn đang cháy ầm ầm nhưng cô ấy dường như vẫn muốn đi xuống, tôi vội vàng kéo Tiêm Quả trở lại.

Bão tuyết cuồng loạn từ Siberia kéo tới, một trận lại nối tiếp một trận, hai người dù có đối mặt với nhau hét to thì đối phương cũng hoàn toàn không nghe thấy gì hết, bởi vì tiếng gào tiếng thét đều bị tiếng gió nuốt trọn. Bất quá tôi nhận ra ngay Tiêm Quả muốn làm gì, tiểu hắc cẩu vẫn còn ở bên dưới, giữa tràng lửa dữ dội như này, khó mà may mắn thoát khỏi. Thế lửa quá lớn, Tiêm Quả không muốn để cho tiểu hắc cẩu bị thui cháy, liều chết leo xuống chẳng những không cứu được nó, mà ngay cả cái mạng nhỏ của cô ấy khéo cũng phải bỏ lại mất! Tôi đành nhẫn tâm ngăn cản hành động ấy, hai người bọn tôi một người kéo một người vùng ra, đôi bên giằng co kịch liệt, Tuyền béo và Lục Quân lúc này đang nằm bò trên trần nhà thì khản cả giọng mà kêu gào Tiêm Quả mau quay lại, nhưng cũng bị cuồng phong nuốt mất. Chính lúc ấy, chợt thấy con hồ ly bên trong kho rơm từ trong lửa chui ra, miệng ngậm tiểu hắc cẩu, vội vàng trèo lên thang gỗ, lông trên người đều bị lửa thiêu cháy rụi.

Tôi đưa hai tay lên ra sức dụi mắt, căn bản không dám tin tưởng một màn bất ngờ vừa hiện ra, hồ ly và chó vốn là khắc tinh, ngửi thấy mùi của nhau đã thấy khó chịu, làm sao có thể liều chết xông vào cứu một con chó nhỏ? Hay có khi nào con nó vừa mới chết cách đây không lâu, bản năng làm mẹ, mẫu tính trong người chợt bùng phát, khiến nó không nỡ lòng nào mà bỏ lại tiểu hắc cẩu bị lửa đốt chết, hoặc cũng có thể nó muốn dùng tiểu hắc cẩu để có cớ dựa dẫm vào chúng tôi đánh đuổi bầy sói, tóm lại nó đã mạo hiểm xông vào quỷ môn quan, liều mạng cứu lấy tiểu hắc cẩu mang lên chỗ an toàn. Lúc này bốn người đã quay trở lại tiếp tục nằm bò bên mép tường đất, sau lưng ngọn lửa vẫn hừng hực, xung quanh bầy sói vẫn gầm gừ vây chặt.

Bốn người thấy tình cảnh này, đều hiểu đã cùng đường mạt lỗ rồi, chuẩn bị chờ chết. Nhưng đương lúc ranh giới sinh tử chỉ cách nhau một đường mỏng như sợi tơ, đoàn sói hơn nghìn con vây quanh nhà kho chợt xảy ra một trận đại loạn. Chúng tôi không rõ tại sao bầy sói lại như vậy, bèn cố chút hơi tàn cuối cùng vươn ra khỏi mép tường, từ trên cao nhìn xuống, chỉ thấy giữa bão tuyết vọt tới một đàn chó hoang, cầm đầu là một con chó to lớn toàn thân màu đen, đó chính là đại hắc cẩu! Sau lưng nó là mấy con chó khác vô cùng to lớn, có lẽ cùng chủng loại với nhau, con to nhất cơ hồ cũng đen sì sì không khác gì đại hắc cẩu, theo sau chúng là hơn trăm con chó hoang bình thường khác. Hơn trăm con chó hoang lớn nhỏ này, đầy đủ mọi chủng loại, có chó săn, có chó chăn dê, còn có không ít chó đất nữa, rõ ràng con nào con nấy đều sống ở vùng rừng sâu núi thẳm cả năm không có lấy một dấu chân người lui tới, lông mọc dài lởm chởm, dã tính mười phần, không khác gì một bầy hổ xuống núi, vọt vào giữa bầy sói cắn xé điên cuồng.

Bởi vì bầy chó hoang đi từ phía ngược hướng gió, lại không đi thẳng mà quanh co một hồi rồi mới kéo tới, khiến cho bầy sói đang vây công nhà kho không tài nào phát hiện được, đến khi bọn chúng lấy lại tinh thần, đã có rất nhiều con bị chó hoang cắn chết. Tính kỷ luật của bầy sói rất mạnh, trời sinh chúng vốn kiên nhẫn và thiện chiến, sau một hồi hỗn loạn, dưới sự điều khiển của lang vương, đồng loạt nhe ra bộ răng nanh sắc nhọn, xông lên cùng chó hoang giao chiến. Mọi người nằm cạnh bờ tường, nhờ ánh lửa bập bùng trận huyết chiến bất ngờ liền hiện ra ngay trước mắt, ai cũng trợn trừng hai mắt, miệng há hốc, từ bé tới giờ chưa từng thấy qua cảnh tượng như vậy.

Tôi từng nghe dân du mục nói qua, trong biên giới giữa các cánh rừng bạt ngàn ở Bắc Đại Hoang này, thường xuyên có chó hoang qua lại kết thành từng bầy. Năm đó trên thảo nguyên triển khai chiến dịch vận động diệt sói vô cùng rầm rộ, bắt được một con sói lột bỏ bộ da, có thể đi “Cung Tiêu Xã” đổi lấy một bao thuốc lá vỏ mềm hiệu Chiến Đấu, hoặc được hai cân rượu trắng Muộn Đảo Lư. Dân du mục cùng đám thợ săn vì muốn bắt được nhiều chó sói, liền nuôi không ít chó. Chó ở khu chăn nuôi lớn ngang một con lừa trưởng thành, trên người có bộ lông màu xám xanh, mọc dài vô cùng, người trong binh đoàn đều nói đó là ngao Mông Cổ. Một con ngao Mông Cổ có thể đấu thắng bốn năm con sói cùng lúc, trước kia trên thảo nguyên có rất nhiều sói, bọn chúng có thói quen cứ đến nửa đêm là đánh lén bắt trộm dê, bên ngoài trời tối đen như mực, xoè bàn tay ra trước mắt còn không nhìn rõ ngón nào với ngón nào, nên người thường không ra được, dân du mục ở trong lều có thể nghe thấy tiếng chó ngao cùng bầy sói cắn xé nhau liên tục cả đêm không dứt. Đến khi trời sáng, con ngao Mông Cổ mệt mỏi nằm trên đất, cả ngày không ăn không uống, đến đêm lại cùng bầy sói ác chiến, mấy ngày kế tiếp, dù cho nó có khoẻ như sư tử cũng phải đuối sức, nhưng nó vẫn trung thành với nhiệm vụ của mình, kể cả có thêm nhiều sói tới nữa nó cũng sẵn sàng nghênh chiến không lùi bước. Nhưng từ khi có binh đoàn được vũ trang súng ống đầy đủ tới khai hoang, sói càng săn càng ít, ngược lại chó cùng thỏ thì càng ngày càng nhiều hơn. Nếu không có sói mấy, thì dĩ nhiên cũng không cần dùng đến nhiều chó như vậy, dẫu sao không thể cho chó ăn cỏ mà sống được, số lượng chó quá nhiều chính là một gánh nặng lớn. Trên thảo nguyên còn dễ nói, dân du mục đối với chó có một loại tình cảm rất tốt, trong khi đó lâm khu cùng nông khu lại bất đồng với nhau, “Bắt thỏ rừng, nấu chó săn” lời này được truyền tai nhau không biết từ bao giờ, cho nên có con bị người nấu ăn, có con thì bị vứt bỏ, từ đó trở thành chó hoang. Bầy chó hoang vì sinh tồn, lui vào sâu trong cánh rừng già Đại Hưng An Lĩnh, thấy người là trốn đi xa, rất ít khi có thể thấy tung tích của bọn chúng.

Đại hắc cẩu tựa hồ có quen biết với thủ lĩnh của bầy chó hoang, nó nhận ra bầy sói đã vượt qua được biên giới, đang tiếp cận nông trường số 17, biết rõ rằng mình nó không thể ngăn cản nổi, cũng không cách nào liên hệ cứu binh tới ngay được, nên đã vội vàng chạy vào rừng sâu tìm được đám chó hoang này, giữa tình huống ngàn cân treo sợi tóc, đã kịp thời quay về cứu chúng tôi. Cự cẩu cầm đầu sức lực mạnh như hổ, thân thủ nhanh như báo, thực là hiếm thấy. Theo như truyền thuyết mà những người dân du mục vẫn thường kể lại cho nhau, trên thảo nguyên từng có một con “Ma Cẩu” như vậy, lúc chiến dịch diệt sói vẫn còn sôi nổi, mình nó không biết mệt mỏi, lập được biết bao chiến công, sau đó thảo nguyên dần vắng bóng bầy sói, dân du mục cũng không nỡ đem nó vào nồi, liền đuổi nó vào rừng già, để cho nó tự sinh tự diệt, không nghĩ tới bây giờ tôi lại có thể thấy nó!

Bầy sói xám Siberia, so về lực lượng cùng thú tính tàn bạo đều vượt xa những con sói sinh trưởng ở vùng đồng cỏ Nội Mông, hơn nữa con nào con nấy đều đã đói đến mờ cả mắt. Trong trận hỗn chiến, cự cẩu mặc dù bị mấy con ác lang truy đuổi gắt gao không chịu buông, toàn thân trên dưới máu tươi chảy ướt đẫm bộ lông dài, nhưng nó vẫn tả xung hữu đột giữa bầy sói dữ, tấn công liên tục, mỗi lần miệng nó há ra, hàm răng sắc nhọn như đao liền xé rời một họng ác lang, ngay cả lang vương cũng bị nó cắn gần chết, cho đến khi máu trong người chảy hết sạch, mới lảo đảo ngã xuống.

Sói xám Siberia mặc dù hung ác, nhưng lại bị tập kích bất ngờ không kịp đề phòng, chỉ qua một thời gian ngắn mà đã tử thương vô số, hơn nữa lang vương còn bị cự cẩu cắn chết, đám sói còn lại không có người dẫn dắt, liền rối rít bỏ chạy. Trận huyết chiến này giữa đàn chó hoang và bầy sói diễn ra vô cùng tàn khốc, đại hắc cẩu cùng một con ác lang lấy mạng đổi mạng, một sói một chó cắn nhau đến khi cả hai cùng chết cũng không chịu buông. Giữa hoang nguyên khắp nơi ngổn ngang xác chó và xác sói đã chết, nhưng rất nhanh đã bị bão tuyết chôn vùi, chỉ còn là những gò tuyết nhấp nhô. Cả khu nông trường số 17 Bắc Đại Hoang rộng lớn, chỉ còn bốn người chúng tôi cùng một con hồ ly già còn sống. Tiểu hắc cẩu thì bị lạnh quá mà chết, nó mới được sinh ra không bao lâu, cơ thể hãy còn yếu, cuối cùng vẫn không qua được một kiếp này. Con hồ ly kia trên người bị lửa thiêu rụi một mảng lông lớn, cũng không thèm quay đầu lại nhìn chúng tôi, mà biến mất giữa gió tuyết mờ mịt. Chúng tôi thoát trên trong đường tơ kẽ tóc, tay chân lạnh cóng tê dại, nắm tay nhau, miễn cưỡng bò trở về địa oa tử. Cứ tưởng rằng chui vào lại địa oa tử thì có thể yên tâm giữ được cái mạng này, nhưng không ai ngờ tới, trần nhà địa oa tử đã bị bão tuyết thổi bay, địa hoả long dùng để sưởi ấm cả căn nhà cũng đã đông cứng từ bao giờ.

Đầu tôi sắp lạnh cóng thành băng, chợt “ông” lên một tiếng, hỏng bét rồi! Cái giá rét trong hoang nguyên không nơi nào có thể so sánh được, gió Bắc kết hợp với tuyết rơi, như hàng nghìn mũi tên, hàng vạn đầu đao đâm vào cơ thể, đến đám gia súc lông dày da thô còn không chịu được cái lạnh này nữa là con người? Mọi người thấy tình huống không ổn, vội vàng chia nhau đi tìm mồi lửa mà trung đội trưởng lưu lại, rồi thay vội mấy bộ tất nỉ áo bông khác, mang theo một cây đèn pin cỡ lớn, mỗi người vác một bó củi khô, chuẩn bị tìm nơi kín gió để tránh bão tuyết.

Trần nhà của kho rơm cũng đã mất, may mà vẫn còn tường đất có thể tạm chống đỡ được gió tuyết, nhưng không tránh khỏi cái lạnh đến cực độ, bất quá cố được chút nào hay chút ấy, khả năng là sẽ qua được một đêm dài này, có lẽ đến lúc đấy sẽ có lính biên phòng tới cứu viện cho chúng tôi. Tôi cố gắng nghĩ đến những viễn cảnh tốt nhất, nhưng mà trận bão tuyết này phải kéo dài ít nhất năm hay sáu ngày nữa, ở nơi hoang nguyên rộng lớn kết hợp với thời tiết khắc nghiệt như này sợ rằng sẽ chẳng có cứu binh nào tới được cả!

Trời đã tối hoàn toàn, nhìn ra xung quanh chỉ thấy một màu đen của hoang nguyên cùng tiếng gió thét gào bên tai. Chúng tôi mang củi khô chuẩn bị rời đi, lúc này tôi ngoảnh đầu lại kiểm tra lần cuối, lại thấy con hồ ly tưởng như đã chạy trốn rồi đang ở ngay phía sau. Tôi nghĩ thầm trong đầu: “Nó vừa mới trốn vào trong rừng, tại sao bây giờ lại quay lại làm gì? Vẫn muốn đối đầu với chúng ta sao?” Ngẩn ra một lúc, ba người còn lại cũng nhận ra sự xuất hiện của con hồ ly kia. Mọi người đều cảm thấy có gì đó không lành, lấy tay lên che từng bông tuyết đang sà vào mặt, đưa mắt nhìn khắp bốn phía, chỉ thấy từng đôi mắt sói xanh lét giống như quỷ hoả, thoắt ẩn thoắt hiện giữa màn tuyết trắng, bốn phương tám hướng đều có, không thể nhìn ra số lượng của chúng!

Mời các bạn đón đọc chương tiếp theo “Hắc Sơn Đầu Cổ Mộ” đăng tại page Hội những người nghiện truyện của Thiên Hạ Bá Xướng
 
Sửa lần cuối bởi điều hành viên:

Lười Biếng Vô Tận

Thanh Phong 37
Tham gia
5/4/19
Bài viết
21
Điểm cảm xúc
67
Điểm
13
Chương 6: Hắc Sơn Đầu Cổ Mộ
Dịch: Đặng Nam

Xác sói lẫn chó hoang bỏ mạng chất thành từng đống, mùi máu tanh từ đấy phảng phất trong không khí khắp nông trường số 17 này, chính nó đã kích thích một bầy sói đói khác còn đông hơn cả bầy đầu tiên, đồng thời những con nhanh chân bỏ chạy lúc trước giờ cũng tập trung quay trở lại. Cũng may bọn chúng giờ vẫn loạn cào cào thành một đám, chưa có con nào đi ra cầm đầu cả, tranh nhau cướp đoạt từng cái xác không kể là sói hay chó hoang moi ra từ trong tuyết, nhân lúc thịt còn tươi, máu vẫn còn nóng chưa đông lại thành băng mà điên cuồng cắn xé, còn bất chấp muốn nhào tới ăn thịt nốt đám người sống chúng tôi. Con hồ ly già mới chạy trốn chưa được bao lâu, liền bị bầy sói mới tập hợp lại kia ngăn cản đường đi, không còn cách nào khác đành cong đuôi quay trở lại nông trường. Bốn người chúng tôi mỗi người trong tay cầm theo một bó củi khô, thấy cảnh tượng này bất giác liền vung tay vứt bỏ hết, quay người co giò bỏ chạy, chỉ còn mỗi Tuyền béo vẫn ôm khư khư bó củi, khẩu súng trường hết đạn thì đeo trên lưng, mà kể cả có còn đạn đi nữa thì cũng chịu chết, vì cò súng đã sớm đông cứng rồi! Bầy sói một khi nhào lên, làm sao có thể ngăn cản được chứ?

Lại nói đến con hồ ly già kia, trên cổ nó một vệt máu đỏ thắm đang chảy dài, có khả năng là trên đường bỏ trốn đã bị con sói nào đó cắn một phát, đến khi chạy tới được trước mặt chúng tôi, nhìn thấy bên này cũng toàn sói là sói, nó liền lập tức quay đầu lại chui tọt vào một cái địa câu. Rời khỏi địa oa tử của nông trường số 17, đi về phía trước không xa lắm, ở giữa hoang nguyên có một cái địa câu do anh em trong binh đoàn nông khẩn và trấn thủ chúng tôi hồi trước đào ra, bề rộng chừng một mét, sâu tầm hai hay ba mét gì đấy tôi cũng không nhớ rõ lắm, dùng để thoát nước mỗi mùa lũ. Nếu như có thể chui xuống địa câu, có lẽ sẽ tránh được bão tuyết điên cuồng ngoài kia, bất quá không thể nào mà ngăn cản được bầy sói hung dữ đến từ vùng Siberia giá lạnh này. Nhưng chúng tôi cũng không có thời gian để suy nghĩ nhiều như vậy, vừa thấy con hồ ly kia chui xuống, mấy người cũng liền lăn một vòng vào địa câu, mở đèn pin lên soi đường, lao đảo bám theo phía sau nó, thất tha thất thểu cứ thế đi về phía trước không dám dừng một bước nào. Con hồ ly già tựa hồ như đang đợi chúng tôi vậy, thỉnh thoảng lại xoay đầu lại nhìn như kiểu xem xem chúng tôi có đi lạc hay không. Trong lòng tôi khẽ động: “Dẫu sao từ trước đến giờ nó đều coi mấy người trong nông trường là tử địch, lẽ nào giờ lại tốt bụng dẫn theo mọi người tìm đường thoát thân?”

Binh đoàn chúng tôi chỉ đào có duy nhất một cái địa câu để thoát nước, nhưng hai bên lại có rất nhiều hạn câu, nông sâu không hề giống nhau, thế đi cũng không theo quy tắc nào cả. Con hồ ly đi đằng trước, ba bước lại chuyển một phát, hai vòng lại lượn một cái, chạy vào một cái hạn câu, lại chui đầu tiếp vào một cái hang đất. Tôi quả thực không đoán ra được ý đồ của nó, trong lòng do dự một hồi, không dám tùy tiện theo vào, nhưng liền phát hiện từng cặp mắt xanh lét thoắt ẩn thoắt hiện trong bão tuyết ngày một nhiều lên, bầy sói Siberia đã vây lại gần.

Tuyền béo ném bó củi khô vẫn ôm trong tay nãy giờ quăng xuống đất, tháo bỏ khẩu súng trường bán tự động đeo trên lưng, mở cái lưỡi lê lá lúa sáng lấp lánh ở đầu họng súng ra. Cậu ta bảo Tiêm Quả và Lục Quân cầm đèn pin cỡ lớn chiếu lên phía trên đỉnh địa câu, chỉ cần có con sói nào thò đầu ra, hắn sẽ đâm mạnh lưỡi lê lên, xiên chết từng con một, chết một con là bớt đi một mối nguy hiểm.

Hai người Tiêm Quả và Lục Quân nghe theo lời Tuyền béo sắp xếp, chia nhau bật đèn pin công suất lớn, loại mà phải xài đến những 8 pin mới hoạt động được, hướng lên phía trên mà soi, chùm ánh sáng vừa vọt ra khỏi bóng đèn, liều chiếu thẳng vào một đầu ác lang, một đôi mắt sói hung tợn dưới ánh sáng của đèn pin, loé lên lục quang loá mắt. Sói xám Siberia cũng rất sợ ánh sáng mạnh, nó vừa bị luồng ánh sáng đèn pin chiếu đến, không đợi Tuyền béo dùng lưỡi lê đâm lên, đã lập tức rụt đầu lại lui ra xa. Bão tuyết đã nối liền mọi thứ lại với nhau thành một mảnh hỗn độn, rất khó phân biệt đâu là bầu trời và đâu là mặt đất, chúng tôi núp tạm ở trong địa câu, dù không bị lạnh chết thì thể nào cũng sẽ bị tuyết chôn kín mà thôi, lại thấy bầy sói vẫn không ngừng tiến tới gần, không còn cách nào khác chỉ đành cắn răng, hạ quyết tâm, đi theo con hồ ly già, chui thẳng vào hang đất. Không gian bên trong vô cùng chật hẹp, nhưng lại sâu hun hút, một nhóm bốn người chúng tôi xếp thành một hàng dọc, bò lổm ngổm về phía trước như mấy con sâu đo. Tôi lãnh trách nhiệm bọc hậu, đi ở sau cùng, mới bò được vài mét liền quay đầu lại kiểm tra thử, hình như có chó sói đi theo vào thì phải. Loài sói một khi đã đói đến cực hạn thì rất liều, có thể chui hang chui hốc chẳng khác gì mấy con chó bình thường cả. Tôi rất sợ sẽ bị con sói nào đấy bất ngờ đớp phựt lấy hai chân sau, ở nơi chật hẹp như này, rất khó quay người lại để đối phó với bọn chúng được. Bất quá ngay khi chúng tôi đã đi được chừng hai, ba trăm mét gì đấy, tầng đất phía sau liền sụp xuống, ngăn chặn con đường trở về của chúng tôi, đồng thời ngăn được cả bầy sói bám theo. Tôi âm thầm vui mừng, cố gắng kìm chế sự bất an do không gian chật chội này gây ra, tiếp tục bò về phía trước, sau đó tiến vào một cái khe nứt cỡ người chui vừa ở trên tường.

Đường lui đã tuyệt, bốn người chúng tôi buộc phải mò mẫm trong bóng tối, cảm giác đã đi được khá xa rồi, khe thạch nham này thẳng tuột, vừa dài lại vừa hẹp, dường như không có điểm cuối vậy, đại khái theo hướng vào ban đầu của chúng tôi mà phán đoán, cái khe nứt này khả năng cao là thông đến Hắc Sơn Đầu ở dãy Đại Hưng An Lĩnh, tại sao con hồ ly kia lại dẫn chúng tôi đến chỗ đấy? Cả bốn người toàn thân xước xát, da dẻ nứt toác, đèn pin cầm tay cũng yếu dần, cường độ sáng không còn được như ban đầu, Lục Quân quả thực không nhúc nhích nổi nữa rồi, nằm im trên đất như một con chó chết, chúng tôi muốn mở miệng nói mấy lời khích lệ hắn tiếp tục bước tiếp, nhưng mà có nói thế nào đi nữa hắn cũng đều không chịu nhổm dậy, không còn cách nào khác, tôi cùng Tuyền béo đành phải xốc nách lôi hắn theo, để cho Tiêm Quả đi đầu tiên cầm đèn soi đường, mọi người cố lết từng bước, từng bước một. Thật vất vả lắm mới bò đến một nơi rộng rãi hơn rất nhiều, chỉ thấy từng khối loạn thạch bày la liệt, rêu xanh bám đầy, chỗ sâu bên trong còn có mây mù lượn lờ, nếu nói đây là một cái động hồ ly, thì con mẹ nó chứ, rộng quá đi mất thôi!

Bốn người vừa chạy thoát thân đến đây, đều mệt đến rã rời chân tay, thở không ra hơi, nói cũng không nên lời, không hẹn mà cùng ngồi bệt xuống đất. Tôi đầu óc thần trí mơ mơ màng màng, tứ chi vô lực, cố chà chà hai bàn tay đang run cầm cập lạnh cóng và đôi chân tê dại cứng như gỗ, thuận thế dựa lưng vào một khối loạn thạch mà ngồi, cảm thấy trên người toàn thân phát lạnh, các vết rách trên mặt lẫn hai tay phát ra từng cơn đau vừa buốt vừa nhức, chỉ muốn chết quách cho xong, miệng khô môi nẻ, đèn pin ném ở một bên, khắp nơi chìm vào bóng tối, có mở hay nhắm mắt cũng như nhau mà thôi.

Tôi thở hổn hển mất một hồi mới dần bình tĩnh lại, đưa tay sang bên cạnh định tìm cái đèn pin, nhưng thế quái nào lại sờ trúng một ai đó, từ bàn tay truyền đến một loạt cảm giác kì lạ, không những người này toàn thân lạnh như băng mà còn cứng ngắc nữa, không phải Tuyền béo, không phải Tiêm Quả, cũng đếch phải Lục Quân nốt, không hiểu rốt cuộc lại thò đâu ra thêm một người nữa? Tôi lập tức cả kinh, cơn buồn ngủ theo đó cũng chợt biến mất, chân tay cuống hết cả lên, vội vàng móc trong người ra hộp diêm, quẹt lấy một que. Dưới ánh sáng yếu ớt do que diêm tạo ra, liền phát hiện người tôi vừa sờ trúng hóa ra là một xác chết, bị che phủ bởi một tầng bụi đất rất dày, y phục mặc trên người màu xanh, đầu đội một chiếc mũ nhỏ, bên người mang theo một cây dù đen, khoác một chiếc túi da, da thịt đã thâm đen hết, khuôn mặt khô khốc, chẳng thể nhìn rõ mặt mũi ra sao nữa rồi. Bên cạnh cái thây khô có một chiếc xẻng cắm ở phập vào đất, lưỡi xẻng giống như một cái mỏ vịt, phần chuôi thì tạo hình long trảo, ước chừng rất vừa tay, được chế tạo từ ô kim, hình dáng rất là hiếm thấy. Tôi ngắm đến độ nhập thần, bất giác que diêm đã cháy gần hết, khiến tôi phải co rụt tay lại vì bỏng, không gian trước mắt lại chìm vào một mảnh đen nhánh.

Ở khu vực Đại Hưng An Lĩnh này đám thợ săn thường truyền tai nhau mấy câu, nói là “Tuyết rơi chớ chui hang, mưa xuống đừng dẫm cỏ”. Ý là sau khi có tuyết rơi, chớ có dại mà chui vào hang vào hốc linh tinh, bởi vì nói không chừng sẽ đụng phải mấy con gấu đang ngủ đông trong đấy, để nó tợp cho một cái thì thôi xác định ngày này năm sau chính là ngày giỗ. Còn khi nào trời vừa trải qua mấy ngày nóng bức, bỗng đổ xuống một trận mưa to, đừng có đi vào chỗ nào có bụi cỏ rậm rạp, một khi bị rắn đất cắn vào da, chưa đi được quá năm bước là đã gục ngay tại chỗ. Cái vị đang “nằm” ở đây, hơn phân nửa là bị rắn cắn, da thịt đều biến thành màu đen, kể cả có ném ở giữa rừng thì cũng không loài dã thú nào dám động đến cả, liền biến thành thây khô.

Tôi vô cùng kinh hãi, vội vàng mò tìm cây đèn pin, lấy pin mới thay vào, rồi lập tức bật lên. Tuyền béo và Lục Quân thấy cảnh tượng hiện lên trước mắt, cả hai đều kinh ngạc và sợ hãi giống y như tôi vậy. Tiêm Quả thì trốn ra sau lưng tôi, nhắm tịt mắt không dám nhìn cỗ xác chết kia. Tuyền béo gan lớn, liền đã bình tĩnh trở lại, không thèm đếm xỉa gì cả, đi lên nhặt lấy cây xẻng, nhìn tới nhìn lui, tấm tắc khen ngợi, hắn lớn đến chừng này tuổi rồi mà vẫn chưa từng thấy qua cây xẻng nào như thế này cả, kích cỡ tương tự với xẻng công binh bọn tôi hay dùng, nhưng lại không giống với đồ vật thời cận đại, lưỡi xẻng vô cùng sắc bén, vứt ở trong hang động có lẽ cũng đã được nhiều năm mà sao không có lấy một vết rỉ sét, đầu xẻng lại chế tạo hình mỏ vịt, như vậy thì dùng kiểu gì nhỉ? Tôi nghe ông nội từng nói qua, cái này gọi là xẻng mỏ vịt, thời đấy, chỉ có chuột đất chuyên trộm mộ mới sử dụng loại xẻng hình dạng như này, chiếc dù đặt bên cạnh có lẽ nào là “Âm Dương Ô”? Vậy vị tiền bối bỏ mạng nơi này…. là một tên chuột đất sao????

Lúc mới chui vào đây, bốn người chúng tôi ai nấy đều là vừa đói vừa mệt, đèn pin cầm tay lại gần hết pin, chỉ phát ra được luồng ánh sáng yếu ớt, nên chưa có kịp nhìn rõ, còn bây giờ nhìn kĩ lại một lượt, vách động bốn phía đều bị bùn đất che kín, nhưng rất chỉnh tề chứ không phải kiểu tuỳ tiện, tựa hồ như đang ở trong một cái hang đá, đưa tay lau đi vết bùn đất trên tường, quả nhiên thấy từng tấm bích hoạt rực rỡ hiện lên. Mọi người lúc này mới nhận ra, con hồ ly già đã dẫn chúng ta tiến vào một ngôi cổ mộ! Tay chuột đất định đào hang chui xuống trộm bảo đã bỏ mạng ở đây, nhưng không thấy tung tích con hồ ly kia đâu. Tôi nhặt cái túi da trên người thây khô, mở ra xem thử, bên trong có mấy cây đuốc, hai cây nến, một cái chén chu sa, một cây dùi, cùng một đoạn dây thừng. Tuyền béo móc trong ngực thây khô ra được một vòng ngọc câu trong suốt như thuỷ tinh, lại giống y đúc với vòng ngọc mà tổ phụ trước kia để lại cho tôi, ngoài ra còn có một cái đinh cũ rích màu đen thường dùng để đóng quan tài, vài đồng tiền xu. Tuyền béo bèn lấy một cây nến ra đốt, đặt dưới ánh nến soi thử, có thể thấy trên mặt đồng xu có khắc hai chữ “Khang Đức” cùng số năm. Hẳn là tiền của Nguỵ Mãn Châu Quốc trước kia, suy ra lão chuột đất này đã chết ở đây không dưới mấy chục năm, không ngờ nơi hồ ly dẫn chúng tôi tới lại là một ngôi cổ mộ, bên trong còn có thi thể của một tên trộm.

Tôi để cho Tuyền béo cầm lấy mấy thứ này, Âm Dương Ô cùng xẻng mỏ vịt cũng mang theo, sau này có lẽ sẽ còn phải dùng tới chúng. Tuyền béo nói với tôi: “Anh em mình đến khu nông trường này cũng được gần 1 năm rồi, nhưng chưa từng thấy xung quanh có ngôi mộ cổ nào nhỉ?”

Tôi đáp: “Chỗ này là nơi tiếp giáp của hoang nguyên và dãy Đại Hưng An Lĩnh, người xưa gọi là Hắc Sơn Đầu, hổ phục rồng lượn, hình thế nơi này này không hề tầm thường, không có cổ mộ mới là chuyện lạ đấy, chỉ bất quá táng người — cũng chính là giấu người, người chết chôn sâu dưới đất, mục đích là để cho kẻ khác không tìm thấy được, cậu ở bên trên tất nhiên phát hiện thế chó nào được!”

Tuy nói như thế, nhưng cũng chẳng có ai rảnh mà đi săm soi cặn kẽ bên trong ngôi cổ mộ này ra sao, vẫn là xử lí mấy cái vết thương quan trọng hơn. Mặt mũi chân tay cả bốn người chi chít toàn là vết thương, nặn ra be bét nước vàng, nước vàng chảy ra hết lại đến nước trong, phải nặn đến khi nào ra được máu tươi thì mới được.

Bất quá chúng tôi ở binh đoàn nông khẩn và trấn thủ Bắc Đại Hoang, lúc đi tham gia sản xuất, trên người cũng chẳng thiếu vết thương nhưng tuyệt không ai mở miệng kêu khổ cả, trong binh đoàn có một câu như này “Một năm phân bốn mùa, có mùa nào không khổ”, tại sao lại nói như thế? Bởi vì thế này, khi xuân vừa mới đến, băng hãy còn chưa kịp tan hết, tầng đất dưới chân toàn là băng vụn, một cuốc bổ xuống, chả khác gì bổ vào sắt cứng, đào bới nguyên một ngày trời có thể khiến người ta mệt đến chết luôn, lại nhìn đôi tay này, cổ tay rạn nứt, xoè bàn tay ra chỉ thấy vết phồng rộp với vết máu bầm; rồi đến thời tháng phục thiên, tháng nóng nhất trong cả mùa hè, mưa đổ như trút nước suốt mấy ngày, nước ngập đến đầu gối vẫn còng lưng mà đào từng khối đất, đến tối về cởi giày ra xem, thật có thể nói là da thịt nát bét; mùa thu thì lại là mùa của thảo trùng, nhất là đám muỗi vằn sống trong cỏ rất thích hút máu người, toàn cắn vào những chỗ hiểm, từng bầy muỗi bay kín trời bay vọt tới, có muốn trốn cũng chẳng có chỗ nào mà chui vào được, mọi người đều sợ bị muỗi vằn cắn, càng sợ sẽ bị nhiễm bệnh sốt rét, số người đã chết vì bệnh này không ít, chỉ có mỗi cách cầm hương vòng hun muỗi. Muỗi vằn rất kị hương vòng, bị hun liên tục mấy ngày liền bỏ đi, người trong binh đoàn thế nhưng cũng bị hun đến cay xè cả hai mắt. Đợi đến khi hàn phong bắt đầu thổi tới, phải trốn trong địa oa tử chịu đói chịu rét qua ngày sớm đã quen như cơm bữa, kể cả mấy chuyện kiểu bị nhiễm lạnh, chân tay hoại tử, chỉ còn nước cắt cụt thành người khuyết tật cũng không phải là không có.

Chúng tôi mấy người sống ở Bắc Đại Hoang đã được gần một năm, nếm qua không ít khổ cực, thế nhưng chưa lần nào gặp phải một trận lang tai (Trans: Tai họa do sói gây ra) quy mô lớn như này, kinh nghiệm đối phó tất nhiên là không có mấy, chẳng biết đến bao giờ bầy sói mới rút đi nữa; lại lo lắng chuyện kho rơm bị thiêu rụi, xác sói lẫn chó hoang chết cũng đều đã bị bầy sói khác đến ăn sạch sành sanh. Đến khi bầy sói rút đi rồi, sau này thể nào cũng sẽ bị cấp trên gọi lên tra hỏi, ngươi nói là vừa xảy ra một trận lang tai, sợ rằng chẳng có ai tin cả! Hơn nữa địa oa tử lẫn nhà kho đều mất rồi, không còn nơi trú ẩn nữa, chỉ sợ sẽ chết trước vì giá rét!

Tuyền béo giờ cái gì cũng mặc kệ, nói: “Sao mấy người các cậu đứa nào cũng như bị mưa đá rơi cho ung hết cả đầu thế? Đừng có cúi đầu ủ rũ mãi như thế, chẳng phải có một câu nói rất hay như này sao — đại nạn không chết ắt sau này sẽ có đại phúc. Tôi dám cá luôn chắc chắn trong ngôi cổ mộ này có bảo vật, anh em ta sắp đổi đời được rồi!”
Lục Quân nghe Tuyền béo nói vậy, cũng vô cùng hưng phấn: “Cậu không nói thì tôi cũng quên mất không nghĩ tới, trước tôi có một thằng bạn đồng môn đi tham gia sản xuất ở trên núi, vô tình nhặt được một hóa thạch trứng khủng long, nộp lên cấp trên liền lập được đại công, còn được cho nghỉ phép về nhà thăm người thân tận nhưng hai mươi mấy ngày. Nếu như anh em mình lần này nhặt được vài món kim khí tùy táng, đợi đến lúc thoát ra được khỏi đây, đem lên cho sư bộ, không chỉ không bị truy cứu trách nhiệm vụ việc kia mà ngược lại còn trở thành người có công ý chứ, khéo được thăng lên làm bộ đội chính quy cũng nên, hí hí, thật không uổng công lăn lộn đến rách hết cả da như này!” Hắn mặc dù lá gan không lớn, nhưng không hề sợ xác chết này nọ trong mộ, thần là do người phong, quỷ là do người nói, thế gian nào ai đã thấy qua quỷ thần thực sự đâu? Người chết vì bị sói cắn từng thấy qua không ít, chết do bão tuyết giá lạnh cũng thấy nốt rồi, còn mỗi chết vì bị quỷ thần dọa là chưa thấy bao giờ thôi.

Vừa nói đến lập công phong thưởng, lại còn có cơ hội được đứng vào hàng ngũ quân chính quy, ngay cả Tiêm Quả cũng không thấy sợ nữa. Bốn người liền quyết định chủ ý, cởi bỏ tấm ác khoác da vừa dầy vừa nặng trên người xuống, cuộn lại thành bó đeo tạm sau lưng. Dù sao cũng là bước đi trong cổ mộ, miệng thì nói chẳng sợ gì cả, nhưng thực ra trong lòng ai cũng đều lo lắng, súng trường của Tuyền béo thì sớm đã hết đạn, vừa vào trong này liền vứt bỏ luôn cho đỡ vướng tay, giờ đành cầm cái xẻng kia làm vũ khí. Tôi có một thanh đoản đao, còn Lục Quân thì có một cái bồ cào cầm theo từ lúc chạy khỏi nhà kho đến tận bây giờ, mọi người đều có vật phòng thân trong tay, dũng khí tăng lên không ít. Tiêm Quả bật cây đèn pin công suất lớn lên, phụ trách việc chiếu sáng cho chúng tôi. Cây đèn pin công suất lớn được binh đoàn trang bị cho này mặc dù nghe thì hết sức dọa người, nhưng thực ra tầm chiếu sáng chẳng xa hơn mấy loại thường là bao nhiêu, nhất là ở trong cái hang tối mịt như này, hơn nữa lượng điện tiêu hao rất lớn, sử dụng được chừng hơn mười phút là sẽ tối dần, thời khắc mấu chốt căn bản không thể trông cậy vào nó được. Nghĩ đến đây tôi đành lôi một cây đuốc vừa lấy được lúc trước ra đốt lên, lần mò bước đi trong không gian âm u nơi cổ mộ.

Mọi người cẩn thận phân biệt, nơi mà chúng tôi đang đứng, tựa hồ là một đoạn nứt gãy khiến tầng đất phía trên cổ mộ sụp xuống, trên Đại Hưng An Lĩnh có nhiều chỗ đứt gãy như thế này, thường xuyên xảy ra chuyện một phần thân núi bị sạt xuống. Chúng tôi cùng con hồ ly già kia một trước một sau, từ trên đỉnh mộ thất đi vòng xuống, trước sau lẫn hai bên trái phải, mỗi hướng có một tòa môn động hình vòng cung, tất cả đều dùng đá tảng xây nên, gạch âm phía trên khắc hoa văn bảo tương hoa, hình dáng cơ hồ đồng nhất với nhau. Mỗi cánh cửa đều bị đất đá rơi xuống chôn vùi hơn một nửa động khẩu, phải bò sát sàn sạt như dính cả người xuống đất mới có thể chui vừa. Tuyền béo nhận lấy cây đuốc tôi đưa cho, lần lượt đi đến ngó thử vào bên trong nhìn qua một lần, tất cả đều tối như hũ nút, sâu không thấy điểm cuối. Hắn hỏi chúng tôi giờ muốn chui vào cái nào đây, tôi liền chỉ tay vào cái cổng vòng bằng đá ngay chính giữa, nói: “Hẳn là nên đi bên này!”

Tuyền béo lại hỏi: “Tại sao không đi bên này? Người xưa chẳng phải là rất mê tín cho rằng người chết rồi sẽ bay đến miền Tây Thiên cực lạc sao? Chủ nhân ngôi mộ này chắc chắn đang nằm ngáy khò khò ở phía Tây rồi!”

Lục Quân vội vàng xua tay nói: “Không đúng! Nghe nói người cổ đại rất coi trọng âm dương trạch, dương trạch là dạng gì, âm trạch cũng là dạng gì? Các cậu chưa từng nghe câu ngồi phía Bắc mà ngoảnh mặt về phía Nam à? Cửa Bắc chính là đại diện cho thượng thủ, cho nên hơn phân nửa là ở phía Bắc rồi!”

Tôi quay qua hỏi hai bọn hắn: “Các cậu bây giờ vẫn phân biệt được Đông Tây Nam Bắc nằm ở đâu à?”

Tuyền béo lắc đầu một cái, nhưng lại nêu ra một phương pháp của hắn: “Có cái quái gì ghê gớm đâu, bây giờ cứ lần lượt đi vào từng cái một, xem xem bên trong có đồ vật gì hay ho không là xong.”

Lục Quân nói: “Không thể tùy tiện đi loạn được, tương truyền trong cổ mộ thường bố trí cơ quan ám tiễn lẫn hỏa phục, cát chảy các thứ, tất cả đều là thứ có thể lấy được mạng người như chơi đấy!”

Tôi nói: “Đây là một tòa cổ mộ thời Liêu, đã tồn tại không dưới ngàn năm đâu, lại bị đào ra một cái đạo động, khả năng lớn là không cần lo lắng vấn đề hỏa phục.”

Tuyền béo không tin, hắn nói: “Từ lúc chui vào có thấy chữ Liêu mẹ nào đâu, làm sao có thể vừa thấy phát liền nói đây là tòa cổ mộ thời Liêu được chứ?”

Tôi lấy tay chỉ một cái, nói: “Cậu không thấy gạch âm khắc hoa văn bảo tương hoa trên kia à? Đó là một loại đồ án hoa cảnh vẽ về một loài hoa có nhiều tầng cánh, nhìn tổng thể sẽ thấy rất giống với một đóa hoa sen cánh chụm, hoa tâm được phác ra tựa như những đám mây bay. Nghe nói trên đời không hề có loài hoa này, mà là được sinh ra từ trong kinh phật, đứng đầu trong hai mươi tư loại phật hoa, quang minh tỏa ra khắp vạn trượng, chiếu rọi thập phương thế giới, sách cổ gọi là bảo tương hoa. Đến triều đại nhà Liêu, đồ án bảo tương hoa mới được dùng để khắc lên trên gạch mộ. Đấy là điểm thứ nhất, còn về điểm thứ hai, mộ cổ thời Liêu đa phần là được xây dựng trong các khe núi hình móng ngựa, cách cục ngồi Bắc ngoảnh Nam, mộ thất chủ đạo thường nằm ở chính giữa, hai bên làm thành hai phòng chứa đồ bồi táng gọi là nhĩ thất, tuy nhiên những điều này đều không quan trọng, cho dù không phân rõ được Đông Tây Nam Bắc, chúng ta vẫn nên đi bên này là hơn, vì sao? Các cậu mở to mắt ra mà nhìn kĩ xem, bên này có vết máu hồ ly lưu lại!”

Mọi người liền giơ đèn pin và đuốc lên soi gần hơn, vết máu kia hãy còn chưa khô hẳn, loang loang lổ lổ, kéo dài nguyên một đường thẳng đến toà môn động kia. Con hồ ly trong lúc chạy trốn gặp phải bầy sói Siberia, liền bị cắn một phát vào cổ, lại dẫn chúng tôi trốn vào tít trong này, xem ra mất không ít máu, không biết nó còn sống được không? Chúng tôi đều rất lo lắng cho nó, nói thế nào đi nữa thì cũng là đã từng đồng sinh cộng tử với nhau một trận, nếu như không có nó dẫn đường, chúng tôi sớm đã thành bữa tối cho bầy sói hung ác. Lập tức cúi thấp người xuống, đẩy ngọn đuốc lên đằng trước để mở đường, lần lượt nối đuôi nhau chui vào động môn hình vòng cung, bên trong là một toà cổ mộ thật sự là rất lớn, hai bên nhĩ thất đặt đầy những loại đồ vật hết sức lạ mắt, bốn ngọn nến mỡ người được bày ở bốn góc mộ. Chính giữa mộ không hề có cái quan quách nào cả, cũng chẳng có thi sàng. Tôi nhớ hình như trong cuốn bí thuật “Lượng Kim Xích” có ghi chép vài thông tin liên quan đến thứ này, mộ táng của quý tộc nhà Liêu thường bắt chước kiểu cách nhà Đường, bất quá có một bộ phận không có quan quách, chỉ dùng quan sàng để đặt thi thể lên, cái gọi là “quan sàng”, còn có tên khác là “thi sàng”, chẳng qua chỉ là một cái thạch đài được khắc rồng vẽ phượng, tuy nhiên yêu cầu về thạch đài này cũng khá là cao. Tử thi được đổ đầy thủy ngân, trải qua mấy trăm nghìn năm cũng sẽ không bị hủ bại quá mức, lại lấy vàng lá dát lên mặt, đồng thời quấn trong y phục chế tác bằng vàng xanh, đặt lên trên giường, một là ngửa mặt hướng lên trên, hai là ngả đầu sang một bên tựa như đang thư giãn nằm ngủ. Ngôi mộ thời Liêu này, không biết dùng để chôn cất người nào, không thấy quan quách cũng chẳng thấy thi sàng. Trong mộ thất có một bộ bạch cốt trông rất cô tịch, nhưng không phải xương người, mà là hài cốt hồ ly, đối diện với nó có mộ bức hoạ bích khổng lồ, trên đấy vẽ một con cửu vỹ hồ ly đang cưỡi mây đạp gió!

Tầng dưới cùng của bức bích hoạ được quét bằng một lớp bùn bạch cao, niên đại mặc dù xem chừng đã khá lâu đời, nhưng vẫn nhìn ra được bức vẽ vô cùng to lớn kia, ánh sáng bập bùng của ngọn đuốc cũng không thể nào chiếu hết được. Chúng tôi liền bị nó thu hút, truyền thuyết về hồ tiên hồ quái thì đã sớm được lưu truyền rộng rãi trong dân gian, tới tận thể kỉ 20 này, chúng tôi cũng từng được nghe kể không ít lần. Hồ ly nếu như đằng sau mọc ra chín cái đuôi, gọi là “cửu vỹ yêu hồ”. Theo như truyền thuyết mê tín trong liêu trai chí dị thì có năm thông thần, dân gian xếp thành ngũ đại tính là: “Hồ, Kim, Bạch, Liễu Khôi”, đứng đầu là Cổ Nguyệt Hồ, cũng chính là hồ ly. Tương truyền hồ ly thông linh, có thể thôn vào thổ ra thiên địa linh khí, thu nạp tinh hoa của nhật nguyệt, cứ sống qua được một trăm năm là hồ ly sẽ mọc ra thêm một chiếc đuôi nữa, phải sống đến hơn chín trăm năm, mới mọc đủ chín chiếc, bắt đầu từ đây có thể biến hình thành loài người. Trong đầu tôi không ngừng tuôn ra một ý niệm mạnh mẽ không kìm lại được, mộ chủ phải chăng là Tô Đát Kỷ (Trans: Vợ của Trụ Vương, thời nhà Thương bên Trung Quốc) sao? Bởi vì trong “Phong thần diễn nghĩa” có viết một đoạn như này “Trụ Vương vô đạo sủng Đát Kỷ”, giang sơn xã tắc vì ả mà lâm vào cảnh loạn lạc liên miên, có người nói Đát Kỷ chính là do một con cửu vỹ yêu hồ trong mộ Hiên Viên biến thành. Nhưng mà nghĩ kĩ lại một chút, đây là một ngôi cổ mộ thời nhà Liêu, làm sao lại có thể là nơi chôn cất Tô Đát Kỷ được chứ? Không biết vị chủ nhân được chôn trong ngôi cổ mộ này có lai lịch như thế nào, tại sao bên trong lại có bức bích hoạ hồ ly chín đuôi khổng lồ như vậy?

Con hồ ly già vừa là kẻ địch vừa là đồng minh kia bị bầy sói cắn trọng thương, toàn thân trên dưới loang lổ vết máu, nằm im không nhúc nhích trước bức bích hoạ, mãi cho đến khi chúng tôi đi vào, nó mới uể oải mở mắt ra nhìn. Dưới ánh lửa khi sáng khi tối của ngọn đuốc, chỉ thấy nó đang phun ra từng đoàn khí tức, giống như một làn khói nhạt còn sót lại sau khi ngọn nến vừa bị dập tắt vậy, từ từ bay qua trước mặt chúng tôi, rất chân thật.

Tôi đang quan sát vô cùng xuất thần, chợt nghe Tuyền béo nói: “Này, các cậu mau nhìn xem đây là thứ gì?” Nói xong hắn giơ cây đuốc soi lên phía trước, tôi lờ mờ nhận thấy ở sát bên bờ tường mọc ra từng cụm từng cụm nấm linh chi to tròn, màu sắc có hơi nhợt nhạt. Chúng tôi hồi trước khi đi vào khu rừng rậm Đại Hưng An Lĩnh đã từng thấy qua loại thực vật từa tựa như cây nấm linh chi này, bình thường chúng hay mọc lên kín cả một mảng rừng sau mỗi cơn mưa rào, thế nên mới hay có câu mọc nhiều như nấm sau mưa, có thể trực tiếp dùng dao cắt xuống ăn sống, giá trị dinh dưỡng còn nhiều hơn tùng ma gấp mười lần, không nghĩ tới nấm linh chi cũng có thể sinh trưởng được trong huyệt động này, hay là thứ này chỉ có bề ngoài trông giống nấm linh chi thôi, còn thực ra nó là một loại “thạch y, nham nhĩ”, hoặc thậm chí nó là một loại “địa nhĩ” mà chúng tôi chưa từng thấy qua. Bên trong mộ bốn phía có rất nhiều tấm gỗ mục, nấm linh chi đều mọc lên từ trên đấy.

Tuyền béo lên tiếng hỏi: “Thứ đồ chơi này liệu có ăn được không nhỉ?”

Lục Quân cũng thắc mắc: “Nấm linh chi làm sao có thế sinh trưởng được ở trong cổ mộ chứ, thứ này có thể ăn được không?”

Tuyền béo nuốt nước miếng một cái, nói: “Đằng nào chẳng chết. Để đấy tôi nếm thử trước cho!” Hắn liền cắm cây đuốc lên tường, rồi tiến lên phía trước đưa hai tay ra sờ mó một hồi, cảm giác vừa dày vừa mềm, khá là lắm “thịt”, bèn cầm xẻng gảy ra được một khối, ném tọt vào miệng nhai nhai, tuy nói chả có mùi vị đếch gì, nhưng lại chứa rất nhiều nước, xem ra nuốt xuống bụng cũng chẳng sao.

Tôi cùng Lục Quân, Tiêm Quả, bụng cả ba người đều đang sôi ùng ục vì đói, thấy vật này có thể ăn được, không ngừng vặt lấy vặt để bỏ vào trong miệng ăn nhồm nhoàm. Từ sáng tới giờ, chúng tôi mới chỉ được ăn vài củ khoai tây luộc với nước trắng, chờ nửa buổi hấp mãi nồi sủi cảo mới chín thì vẫn chưa kịp gắp lấy một miếng, bị bầy sói cùng bão tuyết vây khốn ở kho rơm đến tận nửa đêm, thẳng đến khi chạy tới địa câu rồi chui vào ngôi mộ thời Liêu này, thời gian trôi qua ước chừng đã được gần một ngày đêm rồi, một giọt nước còn chẳng có mà uống, đói khát đến phát rồ, phát dại, cơn đói một khi đã ngấm vào tận xương liền có thể khiến người ta bất chấp tất cả. Tôi thấy khóm nấm linh chi mọc trên đám gỗ mục là thứ ăn được, trong đầu hiện tại chỉ hiện lên duy nhất một chữ, chính là “đói”, không thèm để ý nhiều làm gì, hái xuống một cây liền bỏ nhét luôn vào trong miệng, đếch có mùi vị quái gì thật, không đắng cũng chẳng chua, kể cả một chút vị ngọt hay chát đều không có, không thể nói là ăn ngon được, nhưng tuyệt cũng không khó ăn lắm. Sau khi ăn xong, liền cảm thấy hết đói bụng, thậm chí mấy vết thương trên người cũng chẳng thấy đau nữa, lại hỏi xin Tuyền béo một điếu thuốc, rít hai hơi khói căng lồng ngực, lúc này mới cảm thấy mạng sống quay lại rồi!

Tiêm Quả hái mấy khóm linh chi bên cạnh, dè dặt bước lên phía trước, muốn đưa cho con hồ ly hãy còn đang nằm nghỉ ở trước bức bích hoạ ăn một miếng lấy sức, cũng có thể nhìn một chút xem nó bị thương ra làm sao. Không biết tại sao con hồ ly trông đã khá yếu, hơi thở thoi thóp mà vẫn phát giác được Tiêm Quả đang lại gần, ánh mắt lập tức trở nên hung ác, trong cổ họng phát ra tiếng gầm gừ âm trầm, có vẻ như chỉ cần Tiêm Quả bước lại gần một bước nữa thôi là nó sẽ nhảy vồ lên cắn vậy. Ba người còn lại chúng tôi thấy thái độ của nó bỗng chốc bất thường, vội vàng kéo Tiêm Quả quay lại, ngẩng đầu lên mới phát hiện, phía trên bức bích hoạ cửu vỹ hồ ly có một gốc hoàng kim linh chi sinh trưởng ở đấy, cỡ chừng một chiếc bát loa to, bị ngọn đuốc chiếu lên liền toả ra kim quang lấp lánh! Thì ra bất cứ con hồ ly nào sinh sống ở vùng Hắc Sơn Đầu này, một khi biết được mạng mình chẳng còn sống được bao lâu nữa, đều sẽ vào bên trong ngôi cổ mộ thời Liêu này mà nằm chờ chết! Chúng tôi không thể nào tưởng tượng nổi, vì sao lại có rất nhiều con hồ ly chọn nơi này làm táng địa của mình, là tập tính tự nhiên của loài hồ ly ư? Hay là bởi vì bên trong ngôi mộ này có hoàng kim linh chi vô cùng hiếm thấy? Hoặc rất có thể bọn chúng cho rằng con hồ ly chín đuôi được vẽ trên bức bích hoạ kia chính là tổ tiên của chúng?

Tôi nói khẽ với ba người kia: “Trước tiên chúng ta cứ từ từ, đừng tiến lại gần, hình như nó không muốn chúng ta tới gần gốc hoàng kim linh chi kia thì phải.”

Tuyền béo nói: “Ngay từ đầu nhìn phát đã biết ngay mày là loại keo kiệt bủn xỉn, hay so đo tính toán mà. Con mẹ nó chứ cái thứ này đối với ông đây chẳng có gì là hiếm lạ cả!” Con hồ ly già xác định rằng chúng tôi không muốn tiếp tục bước tới nữa, lúc này mới chịu thổ ra tia sinh khí cuối cùng, nằm chết ngay dưới bức bích hoạ cửu vỹ hồ ly.

Chúng tôi thấy nó đã chết, không khỏi cảm thấy luyến tiếc lẫn u ám trong lòng. Tuyền béo và Lục Quân thì thở dài, còn Tiêm Quả vốn là người mềm lòng, không cầm được nước mắt. Tôi cũng chẳng khá hơn là bao, cảm giác như vừa đánh mất một thứ gì đó. Tại sao con hồ ly nào dù sắp chết rồi đều vẫn không nỡ ăn gốc hoàng kim linh chi kia? Ăn vào nói không chừng còn có cơ hội cải tử hoàn sinh, cứ để mãi ở kia làm gì? Lại nghĩ đến lão chuột đất bỏ mạng ở ngoài cửa động, trên người lão có vài đồng xu khắc hai chữ “Khang Đức”, từ đó có thể đoán rằng sau khi nước Ngụy Mãn Châu được thành lập thì lão mới đào đạo động tiến vào trong này, trong khi đó ngôi mộ này đã sụp xuống từ rất lâu trước kia, xong lại bị bầy hồ ly chọn làm táng địa, ít nhất cũng phải mấy trăm năm rồi. Có lẽ lão chuột đất này sau khi đào được đạo động chui vào, thấy gốc hoàng kim linh chi kia thì nổi lòng tham định hái xuống, không nghĩ rằng lại bị hồ ly mê hoặc, cho nên phải phơi thây bỏ mạng tại nơi này. May mà khi con hồ ly dẫn chúng tôi tới cổ mộ thì địch ý đối với mọi người đã không còn, nếu không… Đứng suy nghĩ linh tinh một lúc, điếu thuốc hút dở trên tay đã cháy được gần nửa, tàn thuốc rơi xuống chân cũng không hề biết.

Binh đoàn cắm rễ ở nơi biên cương này, chuyện vật tư phải nói là vô cùng thiếu thốn, đối với mấy thằng đực rựa mà nói, thuốc lá là thứ quý báu nhất, có tiền cũng chẳng mua nổi bởi vì lấy quái đâu ra chỗ để mà đi mua! Xung quanh bốn phía đều là hoang nguyên không một dấu chân người qua lại, đừng nói đến mấy bao thuốc lá giấy loại bét nhất, mà ngay cả thuốc lá sợi cũng chẳng thấy mấy, thỉnh thoảng nhẫu nhiên lắm mới đổi được một hai bao thuốc cuốn, rút lõi ra trộn với ít lá cây cũng phải hút thêm được ít nhất nửa tháng nữa. Bình thường tôi sẽ không bao giờ dám để điếu thuốc cháy phí mất một nửa như này. Nhưng ngay lúc này đây, tôi thậm chí còn không ý thức được có tàn thuốc đang rơi xuống chân. Không gian trong mộ tối om om, cây đuốc mới vừa nãy Tuyền béo cắm trên tường vẫn đang toả ra thứ ánh sáng leo lét, chúng tôi cứ thế đứng ngẩn ngơ bức trước bức bích hoạ khổng lồ cuối mộ, trên bức bích hoạ hiện ra từng cái bóng mờ mờ ảo ảo, vừa khéo chính là bóng của 4 người tôi, Tuyền béo, Lục Quân và Tiêm Quả. Bỗng tôi đột nhiên phát giác số bóng người in trên bích hoạ có gì đó không đúng, không phải chỉ có mỗi 4 cái, mà là tận 5, bên cạnh chúng tôi còn có một người nữa! So với người bình thường lùn hơn phân nửa, trông như là ai đó đang cúi lưng ngồi xổm ở đó vậy. Toàn thân lông tóc dựng đứng, da gà nổi hết cả lên, rõ ràng chỉ có bốn người sống chúng tôi cùng một con hồ ly chạy trốn tới đây, không hiểu sao lại xuất hiện thêm một người nữa? Ánh sáng duy nhất trong mộ là từ cây đuốc kia, không thể nhìn rõ đường nét của cái bóng đấy, tôi không khỏi nghĩ tới trước kia tổ phụ từng nói qua về những truyền thuyết mê tín mà đám trộm mộ vẫn thường hay gặp. Trong lòng tôi lúc này chợt hiện lên một suy nghĩ, có lẽ thứ kia không phải người, mà là hồ ly! Nhưng rõ ràng chính mắt tôi đã trông thấy con hồ ly già trút hơi thở cuối cùng rồi nằm chết ngay phía dưới bức bích họa, không ngờ nó vẫn còn sống ư?

Tôi vội cúi đầu xuống nhìn, xác nó vẫn còn nằm ở đây, ngay trước mắt, không phải là người cũng chẳng phải là hồ ly, vậy rốt cuộc thứ quái quỷ gì đang ở phía sau chúng tôi vậy? Mà ba người kia vẫn chưa phát giác ra sự tình có gì khác lạ, trong lòng tôi chợt nảy sinh một quyết định mạo hiểm: “Cái thứ đầu buồi chết tiết kia, bố mày đây đếch sợ đâu con mẹ nhà mày!” Ngay lập tức tôi nắm chặt đoản đao trong tay, bất ngờ xoay người lại, quay ra phía sau nhìn một cái, tình hình trước mặt khiến cho tôi phải thất kinh, hai tay run rẩy, đoản đao cũng cầm không nổi nữa, chỉ trực rơi xuống đất.

Trước khi quay người lại, tôi sớm đã có chuẩn bị sẵn tinh thần, kể cả gặp ác quỷ trong cổ mộ thì tôi cũng sẽ không khiếp sợ như vậy. Chủ nhân của cái bóng thứ 5, rốt cuộc là quân sư của bầy sói xám Siberia lúc trước đã vây khốn chúng tôi ở kho rơm, cũng chính là con bái cụt đuôi kia. Lúc ấy hồ ly dẫn chúng tôi chui vào địa câu, có mười mấy con ác lang truy đuổi theo sát ngay phía sau, trong đó có con bái này. Sau đó hầm đất sụp xuống, cứ tưởng rằng bọn chúng đã bị chôn sống rồi, không nghĩ tới nó vẫn chưa có chết, bới đất móc động tiếp tục truy đuổi, lặng yên không một tiếng động tiến vào tận trong ngôi cổ mộ này. Trên thảo nguyên tôi đã từng thấy qua không ít con sói vì đói quá mà phải đào đất bới động để bắt thỏ.

Bất quá nghe nói sói xám Siberia thường không dám tuỳ tiện chui vào hầm động, bởi vì một khi chui vào là khỏi ra được luôn, bọn chúng chỉ có thế một mực đi về phía trước, không đi lùi lại được. Trong dân gian trước kia có truyền tai nhau thế này, bái là kết quả của sự giao phối giữa sói và hồ ly, mang trong mình một nửa dòng máu hồ ly, một nửa còn lại là sói, đầu so với sói thì nhỏ hơn, nhưng lại lớn hơn đầu hồ ly. Cho nên một con bái sẽ có bản tính tham lam hung tàn của sói, đồng thời có cả sự gian xảo nhạy bén như hồ ly, chỉ là con nào con nấy sinh ra đã bị thọt chân bẩm sinh, lúc bầy sói hành động, đặc biệt cử ra một con cự lang nhận nhiệm vụ cõng nó trên lưng. Điều khiến bái trở nên đáng sợ nhất chính là khả năng bày mưu tính kế của nó, nhưng đây chẳng qua là những lời tôi nghe kể lại thôi, đến nay vẫn chưa có ai chứng thực được những điều trên là đúng cả, chúng tôi không dám chắc đây có phải là một con bái thật sự hay là không. Mà bất luận là chó sói hay là bái, chỉ có mỗi mình nó thì chẳng có gì đáng sợ cả. Nó sở dĩ khiến tôi bị thất kinh đến ngây người, bởi vì bộ dạng nó bây giờ không khác gì so với người cả, đứng ở phía sau lưng mấy người chúng tôi, nhặt lấy phân nửa điếu thuốc mà tôi đánh rơi, hút lấy hút để!

Ba người kia thấy sắc mặt tôi trông rất khó coi, cũng đồng loạt quay đầu lại, chứng kiến tình hình sau lưng, tất cả đều cảm thấy hết sức khó tin, chợt nhớ tới câu chuyện mà trước kia lão trung đội trưởng từng kể, thì ra trong núi quả thật có một con chó sói biết hút thuốc lá như người, không phải do hắn mơ ngủ hay nhìn lầm! Nhưng mà nói đi thì cũng phải nói lại, móng vuốt của nó vừa dài vừa nhọn như thế làm sao có thể cầm được điếu thuốc lá chứ? Bốn người đều sợ hãi đứng im bất động tại chỗ, nhất thời, không khí trong cổ mộ trở nên âm u, yên lặng như tờ, cây đuốc cắm trên tường vẫn bập bùng, hai bên đứng cách nhau chỉ có mấy bước chân, so với lúc trước ở kho rơm có thể thấy rõ hơn nhiều, con quái vật này dáng dấp rất giống chó sói, từng sợi lông màu xám trắng vừa dài vừa cứng, trên lưng có rất nhiều vết bớt không mọc được lông. Trong truyền thuyết dân gian, loài này một nửa là sói một nửa là hồ ly, có tồn tại thật hay không giống loài như vậy thì rất khó nói rõ, thực ra nhìn kĩ thế nào đi nữa thì vẫn chỉ thấy giống một con sói già mà thôi. Tôi thấy móng vuốt của nó có thể cầm được nửa điếu thuốc dở, từng hơi một hút rất điệu nghệ và có nghề, tranh tối tranh sáng, chỉ thấy trong mắt nó bắn ra ánh nhìn hết sức tham lam về phía điếu thuốc, còn làm sao nó lại cầm được để mà đưa lên miệng hút, tôi hoàn toàn không nhìn rõ. Thật sự không thể lí giải nổi, con quái vật này lại có thể hút thuốc lá y hệt như con người! Chúng tôi cũng đã từng làm qua hồng vệ binh, càn quét hết thảy ngưu quỷ xà thần lúc bấy giờ, thế nhưng chút ngưu quỷ xà thần ấy, nói cho cùng thì vẫn là do con người đóng giả, còn bây giờ thực sự gặp phải yêu quái trong rừng sâu núi thẳm, không thể không sợ, bởi vì hết thảy niềm tin của chúng tôi trước kia, giờ đã hoàn toàn bị sụp đổ trong toà cổ mộ thời Liêu này.

Lục Quân sợ đến nổi đứng cũng không vững, bồ cào trong tay rơi “bịch” xuống đất. Chính âm thanh ấy đã phá vỡ không gian tĩnh lặng bên trong cổ mộ, con bái đứng đối diện với chúng tôi chợt ngẩng đầu lên, gốc hoàng kim linh chi mọc trên tường cao kia lập tức lọt vào trong tầm mắt nó. Hình như nó nhận ra lai lịch của thứ này, hai mắt đỏ rực nhìn chằm chặp, nước dãi chảy đầy ra đất, điếu thuốc còn chưa hút hết cũng liền vứt bỏ luôn, có ý muốn cướp lấy gốc hoàng kim linh chi kia, lại bị Tuyền béo cản đường. Hung quang trong mắt bắn thẳng lên người Tuyền béo, lập tức nhào tới. Tôi vội vàng kêu lên với hắn: “Cẩn thận!”

Tuyền béo vốn là kẻ lớn gan lớn mật, thấy đối phương nhào tới, không thèm né cũng chẳng thèm tránh, cái xẻng trong tay liền quơ lên, đập thẳng lên đầu con bái. Nó tuy chân sau bị què, nhưng hai móng vuốt đằng trước thì lại vô cùng khoẻ, một cái trực tiếp gạt phăng lưỡi xẻng, cái còn lại thì chụp thẳng vào mặt Tuyền béo. Tuyền béo không nghĩ tới con bái có thể sử ra được một chiêu này, có muốn tránh cũng không kịp nữa rồi, tay chân luống cuống vội lùi về phía sau để né, hắn mặc dù không bị móng vuốt bái cào trúng, nhưng hai chân lại vô tình vướng phải bộ hài cốt hồ ly trong mộ, lập tức ngã ngửa ra đất. Tôi cùng Lục Quân, Tiêm Quả sợ rằng con bái kia sẽ thừa dịp này mà vồ lên trên người Tuyền béo, đều quên cả sợ, đồng loạt từ hai bên xông lên, hai tay cùng tóm lấy bộ lông xám dài trên người nó. Đối phương đang dùng toàn lực lao về phía trước, nhưng bất ngờ lại bị ba người chúng tôi kéo mạnh về phía sau một cái, chỉ nghe một tiếng “xoạt”, đếch có ngờ tới, vậy mà lại xé toạc được cả một miếng da còn dính lẫn thêm chút thịt khá to trên người nó, càng khiến chúng tôi bất ngờ hơn nữa là miếng da phía chân trước cũng bị xé rách, máu chảy dầm dề, lộ ra hẳn bàn tay người, năm ngón mọc dài, giống như quỷ thủ dưới địa phủ bị tróc hết da vậy.

Dưới ánh lửa leo lét nửa sáng nửa tối của ngọn đuốc đã cháy gần hết, bốn người chúng tôi trông thấy bàn tay này, trong lòng liền không khỏi dâng lên một cảm giác kinh hãi, chẳng trách nó lại có thể nhặt được điếu thuốc lên mà hút như người vậy, thì ra phía dưới bộ móng vuốt này của nó là một bàn tay chẳng khác gì tay người vậy! Trong lúc chúng tôi hãy còn đang sững sờ, con bái bị xé mất một mảng da thịt lớn, đột nhiệ phát ra tiếng kêu gào hết sức thê lương thảm thiết, không phải tiếng sói tru, cũng chẳng phải tiếng người réo, nó dường như nổi điên, cứ thế đâm đầu xông vào động môn mộ thất. Ngôi mộ này đã trải qua biết bao nhiêu năm tháng, sớm đã sập mất một nửa, đất đá bùn lầy cơ hồ đã bịt kín và chôn vùi hết mọi động môn, phía dưới động mộn hình vòm cung chỉ có duy nhất một khe hở chật hẹp. Nó từ trong chui vào không hề nhìn thấy đường, cúi đầu bò loạn, đâm sâm vào chỗ này rồi lại húc vào chỗ nọ khiến cho không ít đất đá văng tung toé, gạch mộ sụp xuống không ít, khiến cho toàn bộ môn động sập xuống, đem nó chôn sống phía dưới. Mọi người đứng ngẩn ngơ chứng kiến hết thảy sự tình, rồi mượn ánh sáng từ ngọn đuốc giơ tấm da vừa lột được trên người bái ra xem thử, máu tươi đầm đìa hãy còn bốc hơi nóng hôi hổi, cả nửa ngày sau tinh thần mấy người mới bình thường trở lại.

Sau này hồi tưởng lại, ở Đông Bắc dãy Đại Hưng An Lĩnh, từng có một câu chuyện truyền miệng hết sức sởn tóc gáy như này: Năm đó thổ phỉ chiếm núi xưng vương, câu bè kết phái, đốt nhà cướp của hãm hiếp con gái nhà lành. Nhưng càng là đám người ô hợp thì càng phải có quy củ sâm nghiêm để dễ bề quản lý, hơn nữa toàn là những kẻ dùng thủ đoạn giết người uống máu tàn nhẫn để hành động, cho nên ghét nhất việc có người thay lòng đổi dạ, lén lút đâm một dao sau lưng bán đứng anh em đồng bọn, một khi kẻ nào có suy nghĩ như vậy bị bắt được, có lột da hay đem đi đốt thành thiên đăng cũng chưa hả giận. Như nào thì gọi là “đốt thiên đăng”? Nghe nói là một hình thức tra tấn do thổ phỉ ở vùng Tương Tây phát minh ra, khoan lấy một lỗ nhỏ trên đỉnh đầu tên phản bội, rót dầu thắp vào bên trong xương sọ rồi đốt lên, cái loại tư vị ấy liệu có dễ chịu được không? Còn có một loại điểm pháp khác gọi là “đáo điểm nhân du lạp” (Trans: Đốt đèn cầy mỡ người), lột hết sạch quần áo trên người xuống, dùng vải bố bọc kín lại như xác ướp, lại bỏ vào trong thùng dầu mà ngâm, đến khi nào da thịt ngấm no dầu cứng đanh lại gốc cây thì bỏ ra rồi dựng đứng lên, châm một mồi lửa từ dưới chân đốt lên, từng chút từng chút một đem người sống đốt đến chết. Bất quá đến như vậy rồi mà còn không hết hận, thì làm thế nào? Bọn thổ phỉ lại phát minh ra một hình phạt còn tàn khốc hơn rất nhiều so với hai cách kia, đem tên nghịch tặc lên Tụ nghĩa đường rồi lột sạch da trên người, lại lấy lưỡi dao sắc bén khoét ra trên người mấy chục vết rạch, mỗi chỗ rạch đều hãy còn bốc ra hơi nóng, chuẩn bị xong thì đem tấm da thú cũng vừa mới lột đến, nhân lúc còn nóng bọc chùm lên cơ thể toàn là vết rách của hắn, buộc chặt lại suốt ba ngày ba đêm, như vậy thì có muốn bóc ra cũng không được, trừ khi phải dùng một lực rất mạnh, lúc ấy cả da thú lẫn thịt người đều sẽ bị xé xuống. Lại bắt người này nuốt vào bụng một viên á dược (Trans: Thuốc làm người ta mất giọng, trở thành người câm), hơn nữa còn cắt cụt hai chân, khiến cho hắn sống dở chết dở, muốn chết không được mà muốn sống cũng chẳng xong, vứt vào cũi chó làm gương cho kẻ khác sau này. Có lẽ con bái mà chúng tôi đụng phải ở trong ngôi mộ thời Liêu ấy, chính là một tên phản tặc rồi bị trừng phạt theo cách đấy, mấy chục năm trước có đám thổ phỉ nào đó đã trùm lên người hắn bộ da sói, được cái hắn mạng lớn số lớn không có chết, bỏ trốn được vào trong rừng thiêng nước độc nhập bọn với bầy sói, lâu ngày mất hết nhân tính, dường như đã quên mất mình là người, lúc nhìn thấy điếu thuốc của tôi rơi xuống đất, theo bản năng mà nhặt lên rít lấy vài hơi, xem ra trước kia hắn là một tên nghiện thuốc nặng, ngấm sâu vào trong máu rồi. Dĩ nhiên đấy chỉ là suy đoán của chúng tôi, trước kia ở vùng quan ngoại liên quân dân chủ dẹp trừ phiến loạn thổ phỉ, quả thật có người thấy qua sự tình như vậy, bất quá cũng không có cách nào chứng thực được.

Quay trở lại lúc ấy, bốn người chúng tôi bị con hồ ly già dẫn vào trong toà cổ mộ thời Liêu, phải ăn đám nấm mọc trên gỗ mục để nối dài sự sống, trốn ở trong mộ mất mấy ngày liền, cũng tránh được đại nạn bão tuyết trăm năm mới gặp một lần cùng bầy sói Siberia hung dữ. Cảm niệm đối với ơn cứu mạng của hồ ly, không ai muốn động tới gốc hoàng kim linh chi mọc phía trên bức bích hoạ nữa. Suy nghĩ của chúng tôi lúc ấy tương đối đơn giản, nếu hồ ly đã chết ở nơi này, thì để gốc hoàng kim linh chi kia chôn theo nó cũng tốt. Sau đó chúng tôi theo đạo động bên nhĩ thất phía Tây mà bò được ra ngoài, quả nhiên nơi đây chính là Hắc Sơn Đầu thuộc dãy Đại Hưng An Lĩnh. Khu vực này núi cao rừng rậm, người đi dưới biển cây mênh mông, ngẩng đầu lên cũng không thể thấy được ánh sáng mặt trời đâu cả, cho nên trong miệng đám thợ săn người Ngạc Luân Xuân mới gọi nơi này là “Hắc Sơn Đầu”. Bốn người đi từ trên núi xuống, liền gặp phải đội kỵ binh tiên phong của mục khu tới tiếp viện, nhờ thế mới có thể an toàn trở về. Chúng tôi cùng thề sẽ không ai được phép nói ra bí mật về ngôi mộ cổ trong núi này, để tránh rước lấy tai hoạ không đáng có!

* Mời các bạn đón đọc chương tiếp theo “Cửu Vỹ Yêu Hồ” đăng tại page Hội những người nghiện truyện của Thiên Hạ Bá Xướng
 
Sửa lần cuối:

Lười Biếng Vô Tận

Thanh Phong 37
Tham gia
5/4/19
Bài viết
21
Điểm cảm xúc
67
Điểm
13
Dịch: Đặng Nam

Biết nhiều chưa hẳn đã hay, nói ít đi vài lời chưa chắc đã là dở, bởi vì nói ra nghe thì đơn giản, nhưng liệu được mấy người sẽ tin đây? Dưới tình hình chính trị xã hội thời bấy giờ, không phải chuyện gì cũng có thể bô bô mà kể cho người khác nghe được, vạn nhất bị người ta chụp một cái mũ to lên đầu, vậy thì xin chúc mừng, cuộc đời bạn sắp đi tong, cho nên chớ có tự mình rước lấy phiền phức vào người. Đến thời điểm những năm 1968, binh đoàn cắt giảm biên chế, dẹp bỏ sư đoàn Ba vốn đang quản lý nông trường sản xuất và trấn thủ số 17, chúng tôi cũng được lệnh rời khỏi nơi đây, rồi điều đến tham gia đội sản xuất ở thượng nguồn và hạ nguồn Hắc Thuỷ Giang tít mãi trong Đại Hưng An Lĩnh. Bốn người được phân về hai thôn khác nhau, cũng may là không cách xa nhau lắm. Tôi và Tuyền béo ở thượng nguồn Hắc Thuỷ Giang, còn hai người kia thì ở phía hạ nguồn. Chỗ bọn họ có tới tận hai mươi mấy thanh niên tri thức về sản xuất, mà trên thượng nguồn này thì độc chỉ có hai thằng đực rựa bọn tôi. Bởi vì thôn chúng tôi ở không lớn lắm, gọi là “Liệp Thôn” (Trans: Thôn chuyên về săn bắn), tổng cộng ước chừng có mười hộ dân sinh sống, rất ít nhà làm ruộng, từ xưa lấy nghề săn bắn hươu nai làm nghiệp mưu sinh, bên trong thôn hơn phân nửa là cánh thợ săn Ngạc Luân Xuân. Trước kia có rất nhiều phương thức săn thú, có thể dùng chim ưng để săn, hoặc thả chó truy đuổi, cũng có một cách săn đặc biệt nữa là dùng thòng lọng chôn dưới đất để làm thành cái bẫy kẹp nhưng sẽ không tổn hại đến bộ da của thú, gọi là “kẹp da”, ngoài ra còn có chính là toàn bộ thợ săn trong thôn đồng loạt kéo nhau lên núi tạo thành lưới người, những khi tập hợp nhiều quân số như vậy chủ yếu là để săn mấy con thú lớn như heo rừng, hổ báo, gấu chó,..

Sau cuộc giải phóng toàn quốc năm 1949, Hắc Thuỷ Giang mới bắt đầu có người đến làm ruộng. Trên núi đất đai các thứ lung tung, phía Đông một mảnh phía Tây một mảnh, nhưng được cái vùng này chất đất khá phì nhiêu màu mỡ, chỉ cần gieo xuống vài hạt giống, chẳng cần tốn công chăm sóc gì nhiều, tự nó vẫn có thể nảy mầm và sinh trưởng, việc duy nhất phải làm là nửa đêm ra chòi để trông chừng hoa màu, ngăn ngừa dã thú trên núi xuống gặm phá. Những con khác thì dễ nói, chồn, nhím, sóc, mấy loài này gặm phá cũng chẳng được bao nhiêu, không gây tổn hại mấy, huống hồ thỉnh thoảng gặp may lại tóm được một, hai con, lột da chồn, lấy đuôi sóc đổi lấy chút tiền, so với làm ruộng còn sướng hơn. Phải đề phòng cảnh giác nhất chính là đám heo rừng, nó ủi đất từ đầu này đến đầu kia, chỉ một chuyến viếng thăm thôi là toàn bộ hoa màu đang đẹp đẽ đều hỏng hết, đất đai bị xới tung bung bét. Tôi cùng Tuyền béo đi đến thượng nguồn Hắc Thuỷ Giang, trú lại ở một nhà thợ săn, chủ nhà này thường được mọi người trong thôn gọi là cha Trăn Tử, ngoài lão ra trong nhà còn có hai người con gái nữa. Cha Trăn Tử mặc dù ở trong thôn cũng có một mảnh đất dùng để trồng ngô, nhưng vẫn duy trì truyền thống săn bắn lâu đời của dân tộc Ngạc Luân Xuân, bình thường hay dẫn theo con gái cùng chó săn, tiến vào rừng sâu núi thẳm săn gà tìm hồ ly, tôi và Tuyền béo nhờ thế cũng được hưởng sái không ít thịt rừng rau rừng dân dã, thật đúng phải gọi là mỹ vị trần gian. Nhất gia tử đối với hai thằng thanh niên tri thức chúng tôi chiếu cố có thừa, việc trong thôn cũng không muốn chúng tôi phải nhúng tay vào làm gì cho vất vả cả, mảnh đất trồng ngô chỉ to bằng cái bàn tay, thu hoạch được nhiều hay ít đều phải hoàn toàn trông chờ vào sắc mặt của lão thiên trên cao, không phải cứ có người trông coi cẩn thận là nó sẽ mọc dài thêm một đoạn, nhiều hơn một hạt. May cái là khẩu phần lương thực của thanh niên tri thức không phải từ trong thôn mà ra, hai người chúng tôi chỉ có một nhiệm vụ duy nhất, chính là thay phiên nhau ngồi trong chòi ngó ra trông chừng đám hoa màu ở bên ngoài, trừ việc này ra, không bắt chúng tôi làm gì hết, chỉ cần chúng tôi ở trong thôn không quậy phá, gây tai hoạ, đừng làm náo loạn đến nỗi gà bay chó sủa, là cha Trăn Tử đã cảm tạ trời đất lắm rồi.

Thoáng một cái trời đã chuyển xuân qua năm mới, cha Trăn Tử dẫn theo cô con gái lớn vào núi tham gia đội vây núi săn thú đầu năm, vây núi săn thú đầu năm chú trọng một số nguyên tắc như săn con đực chứ không săn con cái, còn phải tranh thủ trước mùa nước lên, để tránh gặp phải cơn lũ nào đó bất ngờ từ trên núi đổ xuống. Đại đa số thợ săn trong thôn đều đi, chỉ để lại nhị cô nương tên là “Trăn Tử” ở lại để nấu cơm cho chúng tôi. Tầm này đang là lúc giáp hạt (Trans: Thời điểm trái cây hay hạt lúa đều hãy còn xanh, chưa chín vàng, rất dễ xảy ra nạn đói), có mời heo rừng tới chơi cho vui nó cũng đếch thèm tới, có cái mẹ gì đâu, hai thằng cả ngày thẳng từ sáng sớm tới tận đêm khuya cũng chẳng có việc quái gì để làm, rảnh rỗi đến mụ mị cả người, ở trong núi lớn như này, thật là muốn tìm một nơi để quậy phá cho vui cũng chẳng bới đâu ra, nhưng không thể không làm việc được, thực ra cái gọi là làm việc kia, bất quá cũng chỉ là ngồi trong chòi mà giương mắt nhìn, mà nhìn gì thì cũng không biết nữa, chán quá rồi!

Rồi đến một ngày nọ, chúng tôi mỗi thằng cầm theo một chùm quả phỉ mang đến “Mao Hạp Nhi”, cùng nhau ngồi tán phét, khoác loác hết chuyện trên trời rồi lại dưới biển chán chê mê mải suốt cả buổi. Tiện thể nói qua một chút, cái gì gọi là mao hạp nhi? Đây là một phương ngôn thổ ngữ của vùng Đông Bắc, chính là quả dưa mà chúng ta thường hay nói, tên khoa học là quy hoa tử hoặc chuyển liên tử. Bởi vì ngày xưa có người giải thích như thế này, hạt dưa là do Liên Xô Lão đại ca truyền tới (Trans: Ngày xưa, Liên Xô là anh cả của các nước trong khối xã hội chủ nghĩa, thời kì này quan hệ Xô - Trung đang căng thẳng, nên tác giả gọi là lão đại ca với ý châm biếm), thổ ngữ vùng Đông Bắc gọi người Nga lúc bấy giờ là “lão mao tử”, lão mao tử thường bổ đôi thứ đồ chơi này rồi ăn cái ruột ở trong, cho nên mới kêu thành “mao hạp nhi”! (Trans: Lão mao tử là chỉ dân Nga lắm lông, lại cắn gặm thứ quả kì lạ không biết tên kia nên gọi là mao hạp nhi, hạp là chỉ hành động cắn, gặm, ý toàn bộ là — thứ quả mà bọn lắm lông hay gặm!)

Chúng tôi đến Hắc Thủy Giang này sinh sống và tham gia sản xuất, cũng đành nhập gia tùy tục gọi theo như vậy. Hai thằng vừa chia nhau mỗi đứa một nửa quả dưa cứ thế ngồi gặm, vừa to mồm khoác lác nói chuyện, than phiền việc cha của Trăn Tử không cho chúng tôi đi vây rừng đầu xuân cùng hắn, chỉ đổ thừa tại tài thiện xạ của hai anh em ta quá là tốt, một khi để hai thằng vào trong núi, phát cho mỗi đứa một cây súng, trên núi này liền không còn con thú nào có thể chạy thoát được, dù sao cũng phải lưu lại cho đám thợ săn một hai con thỏ, chứ săn hết thì tuyệt chủng mất, sau này họ lấy đâu ra thỏ hoang gà rừng để săn mà kiếm sống nữa? Hai thằng đương ngồi ba hoa chích chòe, khua tay múa chân, nước miếng văng liểng xiểng, thì thấy Trăn Tử tới đưa cơm cho chúng tôi, vẫn là một ngày hai bữa cơm, một niêu sành đựng cháo ngô, ngoài ra còn mang thêm mấy cái bánh nướng nữa, đấy chính là bữa trưa của chúng tôi. Trăn Tử cùng chị nàng rất giống nhau, đều là những thợ săn xuất sắc trong thôn, tính cách sảng khoái thoải mái, nói chuyện không câu nệ kiêng dè gì cả, bất quá cả hai từ nhỏ đã lớn lên trong núi, là cô nương sơn thôn chính hiệu, thành ra chưa từng thấy qua thế giới bên ngoài, rất thích ngồi nghe chúng tôi kể chuyện.

Tôi và Tuyền béo suốt cả ngày chỉ có mỗi việc ngồi bốc phét với nhau, hai thằng sớm đã thuộc mẹ hết mấy cái truyện dùng để tán gái của nhau, thậm chí còn chưa kịp há miệng đã biết thằng kia định nói gì rồi, ấy thế mà Trăn Tử lại rất chăm chú lắng nghe. Điểm mấu chốt của việc ba hoa bốc phét là phải có người nghe, dù chỉ có một người thôi cũng được, như vật mới khiến cho tài nghệ của người kể được phát huy, chứ tự kể một mình thì chẳng hóa thằng dở hơi? Huống chi những người này đều tin những lời được kể là thật, nguyện ý nghe chúng ta khoác lác không sót một chữ nào. Hai thằng phồng mồm trợn má húp lấy húp để niêu cháo ngô, rút ra mấy điếu thuốc lá phơi khô đặc sản của nơi này, rít một hơi thuốc lại nhả một hơi khói sặc sụa, chuẩn bị tiếp tục đại hội bốc phét cho Trăn Tử nghe. Loại thuốc lá được phơi khô này gọi là hoàng yên, lá thuốc màu vàng kim, toàn bộ đều to cỡ lòng bàn tay, vừa dày vừa thô, chỉ cần vê một chút lá, cuốn lại là thành ngay một điếu thuốc lá thơm, châm lửa đưa lên miệng hút, để cho khói thuốc xộc vào phổi rồi quẩn quanh trong cổ họng một hồi, sau đó chậm rãi đẩy khói qua hai lỗ mũi nhả ra ngoài, mùi thuốc vô cùng đặc biệt, thơm một cách nhẹ nhàng thuần khiết, thật không hổ được xưng là đặc sản vùng này. Trăn Tử thấy chúng tôi lấy thuốc lá cuốn ra hút, nàng liền hỏi: “Các ngươi sao lại lấy trộm thuốc lá của cha ta?”

Tuyền béo đáp: “Nhị muội tử, nàng nói vậy nghĩa là sao? Sao lại coi chúng tôi như bọn trộm gà trộm chó thế? Mấy điếu thuốc lá này là do hai ngày trước cậu Tư đưa cho chúng tôi về hút thử!”

Tôi đứng ở bên cạnh lên tiến giảng hòa: “Hai ngày trước chúng tôi học theo tinh thần của đồng chí Lôi Phong vĩ đại, giúp cậu Tư dựng chuồng để nuôi mấy con heo, cậu Tư thấy hai đứa làm việc khổ cực quá cho nên mới đưa cho mấy điếu thuốc lá coi như lời cảm ơn.”

Tuyền béo gật đầu lia lịa, nói thêm vào: “Đúng đúng đúng! Cậu Tư còn khen chúng tôi là những đứa cháu ngoan của Mao chủ tịch, là mầm non tương lai của đất nước đấy!”

Trăn Tử quả nhiên là người thông minh, không dễ dàng bị lừa như vậy: “Các người giúp cậu Tư dựng lại cái chuồng heo? Sao ta chưa nghe nói đến chuyện ý vậy? À đúng rồi, ta mới chỉ nghe được mỗi chuyện là hai ngày trước cậu Tư bị mất một con heo nhỏ vừa mới nuôi được vài bữa thôi!”

Tuyền béo cố làm ra vẻ bất ngờ, giật mình đánh thót: “Thật quá đáng! Tôi đã từng thấy qua con heo nhỏ đó của cậu Tư, tròn tròn xinh xinh, ủn ỉn ủn ỉn uống nước, lúc ăn cám thì lại kêu eng éc, ôi thật là đáng yêu làm sao! Nhưng sao lại bị trộm mất rồi? Kẻ nào đã làm chuyện này chứ? Hừ!”

Tôi gãi đầu một cái, nói: “Đúng vậy đó, con heo nhỏ đó đâu có trêu ai chọc ai đâu, sao lại bị người ta bắt đi mất? Có lẽ là bị chó sói tha đi mất ý chứ!”

Trăn Tử liếc mắt: “Vậy chứ không phải là do hai con sói đội lốt người nào đó bắt đi sao?”

Tôi và Tuyền béo vội vàng kêu lên hai tiếng oan uổng, chỉ tay lên trời, hướng Mao chủ tịch mà thề — chúng tôi tuyệt đối chưa ăn con heo đó!

Mong rằng lời này ngài có thể nghe hiểu, chúng tôi chỉ hướng lên ngài bảo đảm rằng chưa ăn con heo đó thôi, chứ chưa có nói là trộm hay không trộm nó. Bởi vì đám thợ săn đi vây thú đầu xuân hãy còn chưa về, trong thôn cũng chẳng nhà nào có tí dầu tí mắm cả, suốt ngày chỉ có húp cháo ngô với gặm bánh bột đậu đến phát ngán không nuốt nổi nữa rồi. Nhất thời hai thằng chúng tôi không nhịn được, tiện tay bắt lấy con heo nhỏ mà cậu Tư nuôi, chẳng ai ăn thịt heo sống được cả, cho nên hai thằng mới tiếp tục rủ nhau chạy ra chỗ nung gạch của lò gạch phía đằng sau núi, mở cửa lò ra, ném thẳng con heo nhỏ vào. Cứ tưởng rằng sẽ có một bữa thịt heo sữa nướng vàng ươm ngon lành, không nghĩ tới lửa bên trong lò quá lớn, cháy phừng phừng, đến khi mở cửa lò lần nữa để lôi con heo ra chén thì nó đã cháy đen thui thành than từ lúc mẹ nào rồi, cho nên mới nói là nào có ăn nó đâu! Tôi sợ Trăn Tử sẽ tiếp tục truy hỏi, vội vàng nghĩ cách đánh trống lảng: “Nhà hay chòi trong thôn này đều dùng đất bùn trộn với rơm khô rồi đắp lên, tại sao cậu Tư lại chú trọng cái chuồng heo thế nhỉ, dùng toàn gạch xanh rất xịn, bên trên còn khắc hoa văn, ở thượng nguồn lẫn hạ nguồn Hắc Thuỷ Giang này kiếm đâu ra loại gạch như vậy?”

Trăn Tử đáp: “Gạch xây chuồng heo? Hahaa không phải đâu, lò gạch của chúng ta ở đây không thể sản xuất ra được loại gạch tốt như thế, chỗ gạch kia đều là gạch lấy trong cổ mộ đấy!”

Nghe cô nàng nói vậy, tôi mới bừng tình hiểu ra, mấy năm trước từng có phong trào loại bỏ Tứ hủ tục, trong đó có hoạt động đập bỏ mộ phần của giai cấp phong kiến trước kia, trong núi đào ra không ít cổ mộ, nhiều đồ vật chôn theo trong mộ bị phá huỷ, chẳng qua có mỗi gạch mộ là không bị đập, bởi do lò gạch địa phương không thể nào nung được số gạch khổng lồ lại bền chắc như đống gạch mộ kia. Cổ mộ trong núi này, lớn có nhỏ có, có cái từ thời nhà Liêu, có cái lại thời nhà Kim, mà còn có cái được xây dựng từ sớm hơn nữa. Gạch mộ bên trong có loại vuông vắn gọn gàng chừng một mét, tuy rằng đã chôn dưới đất gần trăm nghìn năm mà khi lấy ra vẫn còn sáng bóng như mới, bên trên khắc hoa văn; cũng có một số loại nhỏ hơn, trên gạch có vẽ hoa vẽ lá, gọi là gạch bích hoạ, mang ra khỏi lòng đất rồi mà sắc thái vẫn cứ rực rỡ như lúc ban đầu, ngày nay cũng không thể nào tạo ra được loại gạch chất lượng cực phẩm như thế. Bất quá gạch trong cổ mộ là dùng cho người chết, người sống vĩnh viễn sao có khả năng dùng được, mang xây nhà sợ rằng chẳng có ai dám ở, chỉ có thể đem đi làm chuồng heo mà thôi, cho nên ở đây chuồng heo còn có giá trị hơn cả một cái nhà. Dần dà mãi rồi thành quen, mọi người đối với chuyện này đều nhắm mắt làm ngơ, không có người hỏi tới thì cũng chẳng ai rảnh đi nói làm gì. Nói đi nói lại mãi đến đây, tôi chợt nhớ đến toà cổ mộ thời Liêu ở Hắc Sơn Đầu, lúc chúng tôi còn ở trong mộ không hề thấy thi thể chủ nhân lẫn đồ bồi táng đâu cả, có thể thấy trước kia đã có tên chuột đất nào đó vào khoắng sạch đi rồi cũng nên, bất quá bức bích hoạ cửu vỹ yêu hồ khổng lồ trên tường mộ khiến tôi mãi mãi không thể nào quên được. Chung quy tới giờ vẫn không hề biết thân phận thực sự của chủ nhân ngôi mộ đó là gì, chỉ thấy kích thước to lớn của bức bích hạ, xem ra lai lịch của vị kia chắc cũng không hề nhỏ.

Tôi nhờ câu chuyện này mà quay qua hỏi Trăn Tử xem đã từng thấy qua ngôi mộ nào mà trên mặt gạch có vẽ cửu vỹ yêu hồ chưa? Trăn Quả đáp từ bé tới giờ chưa hề thấy loại gạch nào như vậy, nhưng ở trong rừng sâu núi thẳm của vùng Đại Hưng An Lĩnh này lại truyền tai nhau không ít truyền thuyết về cửu vỹ hồ ly, nàng hồi bé đã được nghe kể không ít. Người miền núi có một tập tục, nửa đêm tắt lửa tối đèn, già trẻ lớn bé chui hết vào trong chăn ấm, rồi kể từ cố sự để răn dạy bọn nhỏ cho đến truyện ma doạ người, càng kể càng thấy mơ hồ.

Hai thằng rảnh rỗi quá sớm đã phát bực, chỉ mong có câu chuyện gì đó để hóng hớt cho đỡ buồn, liền năn nỉ Trăn Tử kể một chút cho chúng tôi nghe. Cuối cùng Trăn Tử cũng đành mở lời, theo lời cô nàng kể, từ rất lâu rồi đã có một truyền thuyết như thế này: cuối thời kì nhà Mãn Thanh dân quốc, trong núi lớn có một con sông tên là “Hắc Thuỷ Giang” chảy qua, bên bờ Hắc Thuỷ Giang có một túp lều làm từ da thú, bên trên có ba người anh em, đều bị chết yểu, không thể lớn lên nổi. Những năm tháng ấy, chết một đứa trẻ chẳng có gì lạ thường cả, nhưng đằng này lại chết liền thằng thứ hai rồi đến thằng thứ ba, đến khi người con thứ tư được sinh ra, người trong nhà thương đứa con đứa cháu duy nhất này vô cùng, chiều chuộng hết mức, miếu Đông vừa mới thắp nhang, miếu Tây hương hãy còn chưa tắt. Theo như tập quán từ xưa, mặc dù phía trên chẳng còn ai nữa, nhưng vẫn phải dựa theo thứ tự cấp bậc trong nhà mà đứng a, cho nên đứa nhỏ này sinh ra liền đứng hàng cuối cùng, vai vế bé nhất nhà, theo như thổ ngữ địa phương gọi là “lão mụn”. Đến khi lão mụn chừng ba mươi tuổi, hắn đã là một người tại kỳ. Như thế nào gọi là tại kỳ? Các vị chắc đều biết thời nhà Thanh có Mãn, Mông, Hán bát kỳ a. Đây là một loại hình thức tổ chức xã hội của người Mãn Châu. Tổ tiên của lão mụn này, ban đầu là một trong tám kỳ binh, sau gia nhập kim giáp sỹ, trước kia cùng Thanh Thái tổ Nỗ Nhĩ Cáp Xích thẳng một đường Nam chinh Bắc chiến, Đông thủ Tây sát, lại quăng lão đuôi rồng Hàn Vương ra quan ải, đánh chiếm thiên hạ, cũng gọi là có tí công phò trợ Thiên tử. Bởi vì Sấm vương Lý Tự Thành vượt sông Sa Hà, xuyên thủng được thành Bắc Kinh, Sùng Trinh hoàng đế phải bỏ chạy lên núi Môi Sơn mà tự vẫn. Ngô Tam Quế quay về cứu viện, nghe tin vua Minh đã chết, định đầu hàng Lý Tự Thành. Nhưng khi hay ái thiếp của mình bị Tự Thành chiếm đoạt, cha thì bị giết, liền tức giận đổi ý, dẫn quân quy thuận Mãn Thanh. Đại Thanh khi đó dựa vào mười ba cánh quân được trang bị khôi giáp dũng mãnh mà khởi binh, trước khi xuất quân bố cáo hịch văn Thất Đại Hận Phạt Minh, một đường đánh thẳng đến Long Đình ở Bắc Kinh, giang sơn từ ấy đổi chủ, toàn bộ Trung Nguyên quy về một mối. Ở nơi này, ấy thế anhmà tổ tiên nhà lão mụn cũng có một chút công lao, gọi là “tòng long chi công”. Sau khi cuộc chiến đã kết thúc, giang sơn Đại Thanh dần dần ổn định vững chắc, tổ tiên của lão mụn không muốn ở lại kinh thành làm quan, lúc này mới trở lại quan ngoại, nguyện cho con cháu đời đời bảo vệ long mạch chi địa Đại Thanh ngàn năm hưng thịnh. Dĩ nhiên, ngươi dốc sức vì quân vương mà chinh chiến gian khổ, lập được đại công, không thể để người tay không mà rời đi a! Cho dù không phong được cho ngươi một chức Vương chức tướng, ít nhất vẫn có thể để cho hậu nhân của ngươi được hưởng lộc vua mấy đời, phải nói là ăn sung mặc sướng không cần lo nghĩ. Hàng tháng đều đặn được hoàng gia cấp tiền cho, muốn ăn gì thì ăn, thích chơi gì thì chơi, cho nên đám hậu nhân bọn họ, cuộc sống mỗi ngày trôi qua đều rất thoải mái. Cả ngày trừ việc cưỡi ngựa bắn tên, không phải động tay động chân làm gì cả, cũng chẳng cần bận tâm thứ gì hết.

Nói tóm lại, mười mấy đời hậu nhân của vị khai quốc công thần kia, suốt hơn hai trăm năm mỗi ngày sống rất tiêu diêu tự tại, thoải mái. Đến đời của lão mụn sau này, thì dần lụi bại. Tại sao ư? Triều đình sụp đổ, Hoàng thượng không còn, đám con cháu bát kỳ năm xưa đều sống nhờ vào lúa gạo lụa là của hoàng gia ban cho, giờ thì chẳng khác nào mất đi chỗ dựa. Ngày trước ăn bao nhiêu bộc lộ của triều đình, tiêu xài hoang phí chẳng chịu tích cóp, thì đến đời của lão mụn đã sớm chẳng còn lại cái gì nữa cả. Các bạn thử suy nghĩ một chút mà xem: Hắn từ nhỏ sống trong áo gấm nhung lụa, ăn sung mặc sướng, cả ngày chỉ uống rượu rồi lại đi chơi gái, cũng gọi là biết hưởng phúc, nào có biết đến cái gì gọi là gian khổ cơ chứ? Chẳng chịu kiếm lấy một nghề mà sinh sống, tổ tiên trước kia một thân bản lĩnh anh hùng, thiện chiến dũng mãnh, cưỡi ngựa bắn cung tài giỏi thế nhưng hắn cũng không thừa kế được một chút nào cái phẩm chất ấy, ngay cả bắn thỏ còn chẳng biết. Cha mẹ tuổi đã cao, liền lần lượt nối gót nhau mà qua đời, lão mụn chỉ còn cách bán đồ trong nhà mà lấy tiền mua thức ăn, lúc đấy còn đỡ, sau dần dà đồ đạc trong nhà cũng hết, chẳng còn thứ gì đáng tiền để bán, hắn một thân một mình, trên đầu không một mảnh ngói che thân, dưới đất không một miếng đất cắm dùi, bằng hữu thân thích trước giờ cũng không thèm qua lại nữa. Có một câu nói như này: “Người nghèo dù ở Thập Tự Nhai chẳng ai dám nhận là người thân thích, ruột thịt. Kẻ giàu nơi hoang sơn dã lĩnh bạn bè khắp nơi có đuổi đi cũng không hết!”

Nghèo thì vẫn phải ăn cơm thì mới sống được qua ngày a! Phải làm gì đây? Hắn không còn cách nào khác đành dựa vào bộ bẫy kẹp da mà kiếm miếng ăn nuôi sống mấy người trong gia đình. Người vùng quan ngoại vẫn hay nói cái bẫy kẹp da này chính là chi hạ sáo nhi, thiết giáp tử, chuyên dùng để bắt hồ ly, chồn vàng,... Ở quan ngoại, những loài động vật này đều được gọi chung là bì thú, bởi vì thịt của chúng vừa dai vừa hôi không hề dễ ăn, được cái bộ lông thì lại vô cùng đáng tiền. Hơn nữa lại nói, khi đi săn bì thú không thể dùng cung tên, súng bắn chim hay là chó săn được, bởi vì một khi bộ lông bị tổn hại, coi như vứt đi, không đáng giá lấy một đồng nữa, hoàn toàn là vật vô giá trị, cho nên yêu cầu quan trọng nhất là phải bắt sống được chúng. Lão mụn kia lúc này rơi vào tuyệt lộ, đành dùng bộ bẫy kẹp da để săn thú kiếm chút tiền mà mua cái ăn sống tạm qua ngày. Làm cái nghề này, nếu thật sự có bản lĩnh lớn, lại cộng thêm vận khí tốt, không chỉ đủ sống mà còn có khả năng phát tài nữa kìa. Hắn thấy người ta bắt chồn, bẫy hồ ly mà phát tài lớn, nên cũng học theo mà mò tới nơi này. Nhưng săn thú nào phải chuyện chơi, đây cũng là một môn thủ nghệ đấy! Kiến thức học vấn chứa đựng bên trong chẳng phải là ít, quan trọng nhất chính là tìm kiếm tung tích dấu vết, từ đó phân biệt được loại thú gì, hành tung ra sao, ngoài ra còn phải quan sát vết cỏ, lần theo động tĩnh, ở đâu hạ kẹp, nơi nào đặt bẫy, lúc nào thì hạ, khí trời như nào thì đặt, tất cả đều phải dựa vào kinh nghiệm tích luỹ qua nhiều năm, hơn nữa còn phải ăn sương uống nắng, hết sức khổ cực. Đám bì thú càng đến mùa đông, trời lạnh lẽo giá rét, đất đá đóng băng, thì da lông chúng càng mọc dày để giữ ấm, lúc ấy mới là lúc mà bộ lông của chúng đạt giá trị cao nhất, có thể bán được rất nhiều tiền, thậm chí đến ngày tam cửu cực hàn chí thượng, phải ở lại trong núi mấy ngày liền cũng là chuyện quá bình thường (Trans: Tam cửu, như đã giải thích ở chương trước, là ngày lạnh nhất trong năm theo quan niệm của người Trung Quốc). Vấn đề là hắn vốn đã ham ăn lại thêm biếng làm, phàm là kẻ lông bông cầu bơ cầu bất thì nào nguyện ý chui rừng sâu vào núi thẳm cơ chứ, quá nhiều khổ cực, quá nhiều mệt mỏi a thân này sao chịu nổi! Cuối cùng lão mụn trở nên nghèo rớt mồng tơi, quần cũng sắp không có mà mặc rồi!

Cho đến một ngày nọ, lão mụn lại lâm vào cảnh trong nhà chẳng còn gì để ăn nữa, gạo trong chum không có lấy một hột, đến chuột cũng chê nghèo quá đếch thèm mò đến trộm cho nhọc công. Đành vác mặt sang hàng xóm vay nhờ tí lương thực, nói sau sẽ trả, ai trong thôn mà chẳng biết rõ cái tính du thủ du thực, ăn không ngồi rồi của hắn, có cho mượn cũng không trả nổi. Có một câu nói rất hay, đó là “cứu cấp chứ không cứu nghèo”, thử xem cái dạng người như lão, nhà ai suốt ngày mà quản được chuyện ăn chuyện uống cho lão, lại cũng chẳng phải là họ hàng thân thích quái gì cả, cho nên mọi người cũng không thèm quan tâm đến hắn nhiều. Rốt cuộc hắn cũng đã bắt đầu cảm thấy bế tắc, đành xách theo cái bẫy kẹp da kia lên núi. Phải nói là hắn quá là xui xẻo, liên tiếp mấy ngày trời chẳng bẫy chẳng bắt được bất cứ cái gì hết, đến một con thú cũng chưa thấy qua, cứ như đang cố tình rủ nhau tránh mặt hắn vậy. Hắn trên người lại không mang theo lương khô, thực ra không phải là chủ quan không muốn mang, mà là trong nhà còn cái mẹ gì nữa đâu, lấy gì làm lương khô để mang đi chứ, đến lúc đói quá đành bắt tôm càng đất ăn tạm. Tôm càng đất là một loài côn trùng nhỏ sống trong đất, tên khoa học là dế nhũi, cũng có nơi gọi nó là “chó đất”. Lão bách tính vẫn thường hay nói: “Nghe tiếng tôm đất kêu, còn không mau mau dậy làm ruộng?” Cái thứ đồ chơi này liệu được mấy phần thịt cơ chứ? Bụng đói cồn cào, hai mắt long sòng sọc vằn vện tơ máu, hai chân run rẩy lập bập, luôn miệng than thở rên rỉ, tự trách mình mạng khổ!

Đi mãi đi mãi, vừa hay đi đến một thung lũng. Bên trong thung lũng này lão mụn chợt phát hiện ra một lều ngô nhỏ, cái gì gọi là ngô lều chứ? Chính là một loại chỗ ở đơn sơ tạm thời mà đám thợ săn thường dùng mỗi khi đi săn, học theo túp lều của những người nghèo ở Đông Bắc địa khu, trông như thế nào? Chặt lấy mấy cây gỗ, vót bỏ cành thừa, rồi dựng lên thành một cái khung hình tam giác, dùng cỏ khô với vài mảnh vải rách, vài miếng nỉ thừa linh tinh đem phủ lên hai bên cạnh lều. Liền thành một chỗ có thể chui ra rúc vào, cũng gọi là có chút tác dụng che nắng che mưa. Dĩ nhiên, gặp hôm nào trở trời, mưa hơi to một tí, nắng hơi to một chút thì thôi xác định đỡ không nổi, nhưng mà dù sao thì có còn hơn không. Bởi vì hình dáng giống như cái bánh ngô hấp (Trans: Các bạn có thể xem qua hình ảnh bánh ngô hấp ở đây để dễ hình dung: https://en.m.wikipedia.org/wiki/Wotou), cho nên mọi người liền thuận mồm gọi luôn là “lều ngô”. Giữa rừng sâu núi thẳm vùng Đông Bắc này, tự nhiên bắt gặp một, hai cái lều ngô cũng chẳng điều gì kỳ quái cả, cũng không phải sở hữu của mỗi mình ai, toàn là do những tay thợ săn thường xuyên phải lên núi đặt bẫy bắt thú, nên tiện tay dựng lên cái lều để có chỗ nghỉ chân, rất đơn sơ. Đến lúc rời đi vẫn để nguyên đấy không dỡ bỏ, bởi vì bên trong đồ đạc cái gì cũng không có, thành ra đếch cần phải nhọc công phí sức phá đi làm gì, cứ để đấy coi như tạo phúc cho những người đi rừng bị lỡ buổi chẳng hạn. Một khi trời tối, nghỉ chân tạm ở trong lều ngô, không dám nói là thoải mái hay không thoải mái, chỉ biết so với nửa đêm nằm ngoài trời để cho chó sói tha đi còn tốt hơn nhiều lần.

Lão mụn nhìn thấy trong thung lũng có một cái lều ngô, liền nghĩ trong đầu: Hay là mình cứ vào đấy dừng chân nghỉ ngơi tạm vậy, nằm một chút cho nó lại sức tí còn đi tiếp! Vừa nghĩ xong, lão mụn đang định nhấc chân bước vào trong lều, bất ngờ từ bên trong có một người đi ra, vừa vặn hai người mặt đối mặt với nhau, đem lão mụn doạ cho hết cả hồn — hắn nào có nghĩ tới trong lều này lại có người ở từ trước rồi, đến khi bình tĩnh nhìn lại, mới thấy rõ người này thì ra là một lão thái thái, trên người mặc một chiếc áo choàng đỏ thẫm, màu sắc đặc biệt gai mắt. Vóc dáng nhỏ bé không cao, nhưng xem ra ý tứ này thì chắc tuổi tác cũng không hề nhỏ, da thịt tứ chi đều nhăn nhúm, co rúm lại chỉ còn da bọc xương. Khuôn mặt của lão thái thái này thì quá là doạ người, ba phần không giống người, bảy phần tựa như quỷ, da trên mặt xệ xuống, sô lại với nhau thành những vết nhăn dài, tuổi tác quả thật đã quá cao rồi, khắp mặt loang loang lổ lổ vết ban vết bớt do bị nấm da, nhưng đôi mắt lại loé ra tinh quang rất sáng. Đối với người bình thường mà nói, một khi tuổi cao sức yếu, nhãn cầu sẽ trở nên mờ đục thiếu sức sống, nhưng lão thái thái này hai mắt lại tựa như phóng ra một luồng quang mang rực rỡ, khiến cho người ta nhìn vào không khỏi giật mình kinh hãi. Tóc trên đầu nói hoa không hoa, nói trắng không trắng, cũng đã sớm rụng mất không ít, chỉ thấy bà ta đem chỗ tóc còn lại túm chung một chỗ, dùng lược quấn lại thành búi, bên trên còn cắm thêm một bông hoa, đã khô quắt khô queo từ bao giờ, trông rất xấu xí khó coi. Lão thái thái trong tay chống một cây gậy đen nhẻm bằng gỗ mun, đi lò dò từng bước từng bước một, đang từ trong lều đi ra ngoài. Lão mụn nghĩ thầm trong đầu: Lão thái thái này là ai vậy nhỉ? Nhìn cách ăn mặc này, trông không giống như một lão thái thái thật sự, bà ta tại sao lại một mình ở trong rừng sâu núi thẳm như này chứ?

Các bạn phải biết rằng, thời điểm lúc ấy rơi vào những năm cuối cùng của nhà Thanh, bắt đầu bước vào thời kì dân chủ hậu phong kiến, các lão thái thái bấy giờ chân ai cũng bị bó từ nhỏ, bé quặp lại, đi bộ trên đất bằng còn rất tốn sức, run run rẩy rẩy bước đi vô cùng chậm chạp, thường phải có một, hai đứa a hoàn đi theo đỡ, nói gì đến đường rừng đường núi như này, hơn nữa trang phục mà lão thái thái kia mặc trên người trông cũng quá là kì dị đi, lối ăn mặc này từa tựa như một sư bà vậy. Ở thời kì ấy mà nói, phụ nữ trong xã hội thường được gọi là tam cô lục bà. Đàn bà con gái lúc bấy giờ, rất chú trọng việc danh tiết, không hề bước ra khỏi đại môn nửa bước, ngách nhỏ cũng không đi, một khi cô nương chưa xuất giá, liền không thể tuỳ tiện xuất đầu lộ diện, để người khác thấy mặt. Gả cho người, quan trọng nhất là giúp chồng, dạy con, tam tòng tứ đức, cơ hồ sẽ không mấy khi ra khỏi cửa làm việc. Cho nên nói tam bà lục cô này, không phải để chỉ những người phụ nữ như vậy, mà là để gọi những người đàn bà chuyên làm mấy loại nghề nghiệp đặc thù (Trans: Chỉ những người phụ nữ làm nghề bất chính, lừa đảo. Ba cô trong đó có đạo cô, cô đồng. Sáu bà gồm bà mối, bà lang, mẹ mìn, chủ nhà chứa…).

Ví dụ như khi nói đến tam cô, không phải muốn nói tới đại cô, nhị cô hay tam cô của một nhà nào đó, mà để chỉ ba loại cô: “ni cô”, “đạo cô”, còn có cả “quẻ cô”. Ni cô cùng đạo cô thì dễ hiểu rồi, tăng đạo của hai môn phái Phật giáo và Đạo giáo trước giờ có không ít phụ nhân xuất gia. Còn mỗi quẻ cô thì nghe hơi lạ tai một chút. Nói trắng ra thì là mấy con mụ hầu đồng hầu cốt, bói chân gà, xem quẻ thăm, đây thực chất cũng là một loại hình kinh doanh, hành tẩu giang hồ hoàn toàn dựa vào cái miệng ăn nói, nói hay nói tốt thì có cơm ăn, không thì nhịn. Lục bà chia ra thành: “bà mai”, “bà lang”, “bà mụ”, “mẹ mìn”, “tú bà” và “sư bà”. Trong đó sư bà là loại người đáng sợ nhất, có ngón nghề vẽ bùa nguyền thi, thỉnh thần hỏi vận mạng vô cùng tà dị, nghe đâu còn có thể câu thông với thần tiên trên trời cao, ác quỷ dưới địa phủ.

Lão mụn vừa nhìn thấy người bước từ trong lều ra liền nhận ra ngay đấy là một sư bà, hắn thế nhưng không dám sơ suất thất lễ. Nói rõ hơn một chút cho các bạn hiểu, thời kì này con người ta rất chú trọng đến phép tắc lễ nghĩa, cho dù ngươi nghèo đến rớt mồng tơi, là loại khố rách áo ôm mạt hạng, nhưng chút lễ nghi này không thể nào thiếu được! Lão mụn vội vàng bước tới thỉnh an sư bà, nói: “Con là thợ săn lên núi đặt bẫy kiếm chút cơm ăn, đi tới thung lũng này chợt thấy có cái lều nhỏ, chân tay đã sớm mệt mỏi rã rời nên mới định bước vào nằm một chút, vốn tưởng rằng trong lều không có người, không nghĩ tới thì ra lão nhân gia ngài đang ở đây nghỉ ngơi, thật là làm phiền ngài rồi, con người trần mắt thịt, không thấy núi Thái Sơn, xin ngài chớ quở trách!” Nói xong hắn định bụng hỏi xin sư bà một miếng nước, nếu có thể liền xin thêm chút lương khô nữa, như vậy thì còn gì bằng. Sư bà hướng ánh mắt lên người lão mụn, quan sát một lượt từ trên xuống dưới, rồi lại nhìn trái nhìn phải, cứ như hoả nhãn kim tinh của Tôn Ngộ Không đang soi yêu quái vậy. Một lúc lâu sau, sư bà vẫn im bặt không nói một lời, chỉ ngoắc tay với hắn, rồi xoay người bước trở lại lều. Lão mụn trong lòng tự nhủ: Lão thái thái đây phải chăng ý bảo mình đi theo? Haha thật không uổng công nãy giờ tốn bao nước bọt nói lời hay ý đẹp, không chừng lại được một bữa ăn no! Hắn không thèm nghĩ nhiều nữa, lập tức nhấc chân đi theo vào bên trong lều.
Vừa mới bước vào lều, lão mụn liền chau mày, không gian bên trong vừa bẩn lại vừa tồi tàn, thật không còn gì để nói, đâu đây thoảng thoảng một mùi hương hết sức ghê người nữa, chợt thấy vị lão thái thái không biết từ đâu bưng ra theo một chén cháo loãng đưa cho lão mụn uống. Lão mụn đã rất lâu rồi không có cái gì bỏ vào bụng, nhìn cái chén mà lão thái thái đưa tới tuy chỉ toàn là cháo loãng, lõng bõng một vài hạt gạo, nhưng có còn hơn không a! Lập tức lang thôn hổ yết, đem chén cháo này uống một hơi hết sạch, còn tiếc nuối liếm liếm chút cháo thừa dính ở đáy bát. Sư bà nãy giờ vẫn một mực ở bên cạnh hắn, lúc này mới thở dài, nói: “Nhìn ngươi hãy còn trẻ, lại cũng có chút hiểu biết lễ phép, không giống như đám nông dân bần hàn, tại sao lại để bị đói thành ra như vậy?”

Lão mụn vội vàng buông bỏ chén cháo xuống, đặt sang một bên, lấy tay áo lau qua miệng, rồi một mực cung kính thưa: “Lão nhân gia à, chén cháo này của ngài đã cứu lấy mạng nhỏ này của con! Ngài hỏi con thì con xin thành thật trả lời, không dám dối ngài….” Hắn vừa húp xong một chén cháo, cũng gọi là hồi được chút sức, liền đem hết nỗi khổ tâm, ấm ức cất giấu trong lòng bấy lâu nay ra hồi tưởng lại, trước tiên là màn sụt sùi kể khổ, hắn kể cho lão thái thái chuyện tổ tiên hắn hồi trước là khai quốc công thần, con cháu nhiều đời được hưởng lộc vua, mỗi tội đến đời hắn thì không còn được nữa, cha mẹ song thân thì vừa qua đời, bằng hữu thân thích đều bỏ hắn mà đi, hàng xóm xa lánh ghẻ lạnh, rồi đến chuyện hắn phải chịu nhiều khổ cực như nào, đã thế vận số còn đen đủi ra sao, phải dựa vào cái bẫy kẹp da tổ tiên để lại này mà lên núi sâu xuống nước độc kiếm sống, nhưng cũng chỉ được bữa nay lo bữa mai mà thôi. Ngài nói xem, người ta đều là do cha mẹ sinh ra phụ mẫu nuôi dưỡng, đều cao thấp dài ngắn giống nhau, chẳng ai hơn ai cái gì cả, vậy cớ sao có người sinh ra đã được hưởng lạc vui thú, chẳng phải lo chuyện ăn chuyện uống, sống an nhàn cả đời? Trong khi đó có người thì lại phải cả ngày phải bôn ba vất vả, có khi còn chết đường chết chợ vì đói, vì rét? Lão mụn càng nói càng ủy khuất, mắt còn rưng rưng như thật, nhưng tuyệt không đả động gì đến việc hắn vốn là kẻ ham ăn lười làm.

Đợi hắn đem mấy cái văn ôn nghèo kể khổ đã cũ rích ấy nói xong một lượt, sư bà mới kỳ kỳ quái quái mở lời: “Ngươi nha, cũng không cần phải oán trách như thế làm gì, sinh tử có số, phú quý do trời, một người hoặc giàu hoặc nghèo, đều đã sớm được quyết định từ khi còn là bào thai. Nếu mệnh ngươi định trước đã là mệnh nghèo hèn bất phú, thì cho dù có gặp cơ duyên xảo hợp để ngươi thoát nghèo trở nên giàu sang, cũng sẽ phải hao tốn không ít tuổi thọ, ngươi nói xem, liệu có đáng không?”

Đừng nhìn lão mụn tuy giờ đã rơi xuống tầng lớp nghèo mạt hạng đáy cùng của xã hội, hắn thực ra không hề ngốc, cũng đã nghe ra ít nhiều hàm ý chứa trong lời nói của sư bà kia, vội nói: “Sư bà có chỗ không biết, giống như con đây vốn sinh ra số mạng đã định sẵn trở thành một người khổ cực, bữa nay còn chưa lo được nói gì đến bữa mai, hôm nay suýt nữa thì chết đói, tự nhiên gặp được ngài ban cho một chén cháo, tức là lão thiên đã mở một mắt tha cho cái mạng này chưa phải xuống địa phủ trình tên. Bây giờ rời khỏi đây, con cũng không biết đi đâu mà kiếm bữa tiếp? Nói không chừng ngày mai cái thân này đã nằm gọn trong bụng thú hoang sói dữ, vậy còn phải nghĩ nhiều làm chi cho nhọc thân. Ngài đừng nói muốn phát tài phải chịu hao tuổi thọ, con xin nói thực lòng một câu, giờ chỉ cần ngài cho con được ăn một miếng sủi cảo nhân thịt lợn cải trắng, rồi muốn làm gì cái mạng nhỏ này con cũng xin nguyện ý!” Nói xong những lời này, hắn e dè liếc mắt quan sát sư bà. Chỉ thấy khóe miệng sư bà khẽ khẽ động, thật giống như muốn nói gì đó, nhưng lại thở dài một hơi rồi khoát khoát tay: “Ngươi tuổi còn trẻ tuổi nông nổi bồng bột, không biết sự đời nông sâu ra sao, ngẩng đầu ba tấc có thần linh soi xét, chớ có đem mạng sống ra nói linh tinh!”

Lão mụn càng nghe càng thấy trong lời sư bà này có ẩn ý gì đó, nói thế khác quái gì đang câu dẫn thằng này? Cho nên lại cố nói: “Sư bà ngài có phải là không tin lời con nói phải không? Con nói thật với ngài lần nữa, đừng xem con nghèo hèn như này, thế nhưng lời nói ra lại rất có trách nhiệm, lão mụn này xin chỉ thiên hướng địa mà lập lời thề! Trời xanh trên cao, hoàng thổ dưới đất, trước sau hai vị Thần tài Phú quý, trái phải hai vị Hộ pháp Long Vương, nếu như có một ngày, ờ gì ý nhỉ, à đúng rồi, có một ngày để cho lão mụn tôi được hưởng cảm giác vinh hoa phú quý, tiền bạc đầy túi thì có muốn lấy đi bao nhiêu tuổi thọ, tôi cũng xin cam tâm tình nguyện!”

Sư bà nhìn chằm chằm lão mụn một hồi lâu, rồi mới chậm rãi mở miệng nói: “Xem ra thiên ý sớm đã sắp xếp như thế rồi, để ngươi hôm nay gặp được ta ở đây, đã như vậy thì, lão thân này đành nghe theo ý trời mà thành toàn cho ngươi, mau lại đây xem thứ này!” Nói xong bà ta liền thò tay ra phía sau lưng, lấy ra một cái túi nhỏ rồi đưa lên trước mặt để xuống.

Thứ mà lão bà vừa lấy ra từ sau lưng, nhìn qua chỉ thấy giống một cái túi vải thông thường, lão mụn đưa lên trước mắt ngắm nghĩa mãi cũng chẳng nhận ra cái thứ đồ chơi này có điểm gì đặc biệt hay hiếm lạ cả, liền đặt lại xuống bàn, chợt nghe bên trong túi vang lên tiếng “rào”, cảm giác nặng trĩu như chứa rất nhiều thứ gì đó. Lão mụn lại cẩn thận cầm lên nhìn thêm một lần nữa, oái! Cái túi không còn trống rỗng như lúc đầu nữa, mà bắt đầu căng phồng lên, bên trong không biết là đựng đồ vật gì nữa!

Sư bà thấy lão mụn ngạc nhiên, liền giải thích cho hắn nghe: “Ta có một cái túi này, bên trong chứa chút tiền lẻ, thấy người đáng thương như thế, thì đành mủi lòng thành toàn cho người. Nói là chút tiền lẻ nhưng cũng không hề ít đâu, ngươi muốn lấy bao nhiêu thì lấy, đừng ngại!”

Lão mụn không dám tin vào tai mình, không ngờ tới thì ra lão thái thái này lại là một vị thần tài gia a! Mà không đúng, không phải là thần tài gia, mà là thần tài nương nương! Thì ra ngài là thần tiên hạ phàm xuống dựng lấy một căn lều giữa rừng, chờ người hữu duyên tới để tặng tiền giúp họ đổi đời, thật là tốt quá đi? Đang suy nghĩ linh tinh, chợt lão mụn lại nghe sư bà kia nhắc nhở: “Bất quá, ta phải nói trước cho ngươi biết, tiền cũng không phải là lá đa, chớ có tham lam lấy hết sạch, ngươi nên nhớ rằng, càng lấy ra nhiều thì tuổi thọ phải đánh đổi càng nhiều, hãy suy nghĩ cho cẩn thận đi đã!” Nửa câu sau này, liệu lão mụn có nghe thấy không? Nghe, tất nhiên là nghe thấy rồi, mỗi tội chỉ ngấm có ba từ: lấy tiền, không lấy hết, giảm tuổi thọ! Hừ, có thể giảm được bao nhiêu cơ chứ? Chủ yếu lấy được bao nhiêu ý chứ, quan tâm đếch gì dăm ba tuổi mất đi a? Hắn không thèm để ý nhiều nữa, lúc này hai mắt đã mở căng ra nhìn chằm chặp vào cái túi tiền như một con thú đói đang nhìn miếng mồi ngon lành trước mặt vậy, trong lòng vẩn vơ suy nghĩ trong cái túi căng phồng kia có thật là chứa tiền không nhỉ? Là bạch ngân, hay ngân phiếu, hay thậm chí vàng thỏi? Thật trên đời lại có chuyện tốt từ trên trời rơi xuống như vậy sao?

Hắn nhìn nhìn sư ba một chút, trong đầu nghĩ dù sao thì cũng nghèo bỏ mẹ rồi, bảo ta lấy thì ta cứ lấy sợ quái gì! Hắn liền thò bàn tay vào trong cái túi sờ soạng, con mẹ nó chứ, tiền, đích thị là tiền rồi! Cuống quýt lôi ra xem, trời ạ, là một khối bạch ngân, bạch ngân thượng hạng a! Hàng thật giá thật luôn, đi đến địa phương nào moi ra vài cục như này cũng sẽ khiến người ta phải há hốc mồm. Mà bên trong cái túi kia lại đầy ắp từng khối từng khối một. Hắn lấy ra thêm một khối bạch ngân nữa, mân mê trong tay, như nhớ ra điều gì đó, liền đưa lên miệng cắn thử một cái, bốn dấu răng hiện lên mờ mờ, hắn lại thổi thổi vài cái, rồi thả xuống bàn kiểm tra độ vang, không sai, đây tuyệt đối chính là bạch ngân nguyên chất! Lão mụn quay sang hỏi sư bà: “Liệu con có thể lấy thêm vài khối nữa được không?” Sư bà nói: “Ta vừa nói rồi đấy, lấy bao nhiêu tuỳ ngươi, sau nay tiêu hết, lại có thể tới đây tìm ta!”

Lão mụn vỗ đùi cái đét, hí hửng: “Được luôn! Con cũng không khách khí với ngài nữa, trước xin phép lấy một ít đã!” Ngay sau đó liền vơ lấy một vốc đầy, nhét chật hai ống tay áo, rồi nắm chặt lại kẻo rơi thì uổng lắm, lúc này chỉ thấy hai tay áo hắn căng phồng. Xong xuôi, lão mụn bèn quỳ xuống trước mặt sư bà, ầm ầm ầm ầm, dập liền mười mấy cái váng cả đầu.

Sư bà nhìn hắn, nói: “Không cần dập đầu làm gì cả, vẫn là câu nói cũ, hai chúng ta, coi như hữu duyên với nhau, túi tiền kia là của ngươi, khi nào cần, cứ tự nhiên tới lấy!”

Lão mụn đáp lại một tiếng, rồi vội vàng bước ra khỏi lều, ngẩng đầu lên nhìn thấy sắc trời hãy còn chưa tối, bây giờ vẫn là ban ngày, chắc không phải là mơ đây à nha, nếu đã không phải là mơ, vậy quả là ông trời quả thật có mắt xót thương chúng dân nghèo?

Lão mụn ôm đống tiền vừa lấy được, lò dò bước xuống núi. Hành trình trở về phải nói là rất khó khăn, té lên té xuống mấy lần, chân tay mặt mũi sứt sẹo hết cả, thế nhưng hắn lại chẳng cảm thấy đau đớn gì hết. Vất vả lắm mới lết đến được chân núi, hắn tìm một tảng đá ngồi nghỉ chân, như chưa tin vào những gì vừa xảy ra, bèn tự mình véo thật mạnh vào má, ái ui đau quá a! Đau đến nỗi nhe cả răng, một bên xuýt xoa mặt, còn một bên hí hửng mãi không thôi. Thật không phải là nằm mơ gì hết! Vừa nghĩ đến đây, trong bụng hắn lại sôi sùng sục vì đói, bao lâu nay chưa được một bữa no nào tử tế ra hồn, một chén cháo loãng còn chẳng đủ để lót dạ, phải tìm xem có quán ăn nào gần đây không vào đánh chén một bữa đã, bằng không để lão bụng lão ý mà đói lên lão ý làm phản thì chết! Lập tức nắm cẩn thận lại tay áo, sải bước đi nhanh tìm quán ăn.

Các quán ăn ở vùng quan ngoại này đều dùng cờ xí để thay cho biển hiệu. Nếu thấy chỉ treo một cái cờ thì đó là quán ăn nhỏ, bán đủ loại nào là bánh bao, sủi cảo, mì sợ các thứ, nhưng chung quy chỉ toàn là đồ ăn bán cho tầng lớp dân chúng thấp hèn trong xã hội, thứ nhất là để giải quyết khâu đói, thứ hai là phải vừa nhanh vừa tiện, chỉ cần một hai miếng liền có thể chén xong luôn, lão bách tính ăn xong rồi còn phải đi làm nữa thời gian đâu mà ngồi rềnh ngồi rang. Quán ăn bên ngoài treo hai lá cờ, vậy bên trong liền thực đơn có rau có canh, có thức ăn nóng nguội tùy ý, còn có cả rượu gạo đun trên bếp lửa nữa chứ. Treo bốn lá cờ, thì thôi, gọi luôn là đại tửu lâu đi, cái gì mà thú vật trong núi, yến nhạn trên trời, đầu khỉ tổ yến vây cá mập, tay gấu sò khô sừng hươu tươi, con mẹ nó chứ, sơn hào mỹ vị, không gì là không có, chỉ sợ ngươi nghĩ không ra thôi! Ngày trước, có thể bước vào quán cơm nhỏ mà gọi một tô mì không người lái (Trans: Tức tô mì không chẳng có gì ngoài sợi mì với nước lã), đối với lão mụn mà nói, chẳng khác gì là ăn tết cả. Còn quán cơm treo hai lá cờ hiệu ngoài cửa, ngay cả nhìn thôi mà hắn cũng không dám. Hôm nay thì mọi chuyện đã khác rồi, trong tay hắn giờ cầm thật nhiều là bạch ngân a, hai cái thứ quán cơm rẻ tiền kia, hắn đếch thèm quan tâm nữa luôn, trực tiếp khệnh khạng bước vào một đại tửu lâu, quả thật là đúng với câu: người là anh hùng, tiền là ruột gan! Lão mụn cũng thừa biết bọn hầu bàn tiểu nhị ở mấy đại tửu lâu đều là mấy thằng ôn con chuyên nịnh hót xun xoe, nhìn người mà tiếp đón, thấy người khố rách áo ôm chẳng có tư thái đại gia gì mà đi vào trong tửu lâu, còn chưa đợi ngươi ngồi ấm mông, bọn chúng liền một cước đạp bay ngươi ra khỏi cửa. Cho nên lão mụn vừa mới ngồi xuống, việc đầu tiên là lấy ra vài khối bạch ngân đập xuống bàn để ra hiệu đã. Tiểu nhị chợt phát hiện có kẻ ăn mày to gan dám bước chân vào đây, vội chạy tới định đuổi đi, bỗng thấy vị “đại gia ăn mày” kia móc từ trong ống tay áo ra mấy khối bạch ngân vỗ vỗ, hai từ “Cút ngay” còn chưa kịp bay ra khỏi miệng liền bị nuốt lại, tí thì nghẹn, vẻ mặt ngay tức khắc thay đổi, cười toe toét trông rất đáng yêu: “Ai u, lão tổ tông của tôi ơi, ngài mới tới a!”

Lão mụn lúc này mới nói muốn uống rượu với chút thức nhắm, lâu ngày trong bụng hắn đã chẳng có tí dầu tí muối nào rồi, toàn phải nhặt quả rừng rau dại nhai tạm. Trước hãy cứ đưa tới nửa cân rượu trắng, một đĩa đậu phộng rang muối đã, xong lại gọi thêm bốn món nóng: chân giò sốt mật ong, súp cá hầm bào ngư, tôm hấp chanh xả, canh gà tần thuốc bắc. Các bạn chớ quên, tổ tiên hắn trước kia đã từng ăn không ít lộc của vua, thưởng thức qua không ít mỹ vị, cho nên lão mụn cũng gọi là biết món nào ngon, món nào dở a! Lại nhìn cái dáng ăn của hắn, hai tay liên tục gắp, miệng nhai nhồm nhoàm, răng dính đầy thịt đầy mỡ, trông cứ như thuồng luồng hà bá vậy, đến nỗi mà cúc áo trước cúc quần sau cứ lần lượt tung ra từng cái một, ăn xong hãy còn liếm sạch cả đĩa, vét bóng cả bát. Tiểu nhị đứng ở một bên phục vụ, nhìn thấy cảnh này, chỉ biết lắc đầu ngao ngán, vị tổ tông này kiếp trước liệu có phải là quỷ đói vừa mới được đầu thai hay không, cái bộ dạng này là kiểu cả nghìn năm chưa được ăn cái gì rồi a!

Sau khi đánh chén một bữa no say xong, lão mụn thoả mãn lau lau cái miệng đầy mỡ rồi nghênh ngang đi ra ngoài. Tiếp theo hắn sẽ đi tìm một cái nhà tắm a, lâu ngày lăn lộn núi rừng, chân tay mặt mũi đều dính đầy đất cát bẩn thỉu, phải kì cọ một hồi cho thật thống khoái mới được! Tắm rửa sạch sẽ xong xuôi, tiện thể cạo luôn đống râu ria lởm chởm, hắn tiếp tục đi vào trong thành, đến một cửa hàng bán y phục khá nổi tiếng, trực tiếp mua lấy một thân trang phục lộng lẫy, từ đầu đến đít thay đổi hoàn toàn khiến cho không một ai có thể nhận ra lão mụn nghèo đói ngày xưa nữa, thật đúng là người đẹp vì lụa ngựa đẹp vì dây cương, vốn nhẽ lão mụn chính là xuất thân từ một trong những gia tộc tại kì, nhưng do hoàn cảnh xã hội mà xuống dốc không phanh, mãi tới tận bây giờ mới lại được mặc gấm mặc lụa lên người, khiến cho luồng thần khí tinh quang của tổ tiên dường như đã trở lại trên người hắn một lần nữa. Đám hồ bằng cẩu hữu năm nào còn xa lánh hắn, thế mà giờ thấy lão mụn phất lên, ra tay lần nào là hào phóng rộng rãi lần ấy, đều lục tục tới tìm hắn ôn lại chuyện xưa nối lại giao tình, thật là một lũ cơ hội, giả tạo! Liền mấy ngày trời khắp các tửu lâu vang lên tiếng cụng ly nâng đũa của bọn chúng, không cần biết có mấy người ăn, cứ đến là gọi ra một bàn yến tiệc với đủ món trên trời dưới đất, ăn uống no đủ rồi thì kéo nhau tới sòng bài đốt tiền tiếp, hoặc chui vào kỹ viện thưởng hoa ngắm nguyệt, ngày nào cũng thế từ sáng tới tối, tiền trong túi cũng đã sắp cạn sạch.

Lão mụn bắt đầu cảm thấy hối hận, tự trách mình tại sao ngày ấy không lấy nhiều thêm vài khối bạch ngân nữa chứ, số tiền lần này mang về ăn vài bữa thì còn tạm được chứ để ăn cả đời chắc chắn là không đủ, hôm qua ăn thì hôm nay cũng phải ăn sao có thể nhịn được bữa nào. Hắn nghĩ mãi, giờ chỉ còn mỗi cách là phải lần nữa vác xác lên núi, tìm lại được căn lều ngô dựng giữa thung lung nọ, rồi vào trong dập đầu với sư bà thì mới mong có tiền tiêu xài tiếp. Nhưng trong đầu hắn chợt hiện ra một đống câu hỏi, nếu giờ lại tới lấy tiền trong cái túi vải thần kỳ kia thì liệu có thể xảy ra hậu hoạ như nào nhỉ? Nói là sẽ hao tổn tuổi thọ, nhưng không biết hao tổn kiểu quái gì nhỉ? Lần này cầm tiền trong tay, tuy rằng mới vài ngày đã tiêu sạch bách, nhưng được cái cuộc sống so với thần tiên liền tiêu diêu tự tại, sung sướng thoải mái hơn là cái chắc rồi, thường nói cầm tiền đổi mạng, thì ra ý tứ chính là như này, cho dù phải sống ít đi một hai ngày, ta đây cũng không tính là chịu thiệt gì cả. Thà nói ăn bữa nay kệ mẹ bữa sau còn hơn bữa nay có, bữa sau cũng có, nhưng có toàn cơm hẩm cháo hiu, việc quái gì phải khổ sở như thế cho nhọc thân, cứ sống ung dung thoải mái được nhiêu năm thì hay bấy nhiêu. Hãy nhìn ta xem, sau khi có tiền cuộc sống liền quá là thoải mái, vinh hoa phú quý giờ nắm gọn trong lòng bàn tay, không nói đến mỗi ngày đều được ăn ngon mặc đẹp, mà quan trọng nhất là ánh mắt của bọn người kia nhìn ta bây giờ so với lúc trước đã không còn giống nhau nữa, cả mấy em gái trong hương phiêu kỹ viện, thấy ta là liền xúm vào nịnh nọt xoắn xít, oanh oanh yên yến vây quanh, phục vụ còn chu đáo hơn cả đối với tân nương sắp về nhà chồng vậy, cuộc sống như thế mới đáng gọi là sống, đáng để trải qua chứ!

Lão mụn lúc ở nhà thì quyết khi đến nơi phải hỏi sư bà cho rõ, nhưng vừa mới lên đường liền quên sạch luôn, trong đầu giờ chỉ toàn nghĩ xem sau khi có tiền rồi thì sẽ ăn cái gì, chơi đùa với cô nương nào mà thôi! Vất vả mấy ngày cuối cùng cũng tới được căn lều kia, vừa bước vào trong, trông thấy túi tiền thần kỳ của sư bà vẫn đặt trên bàn như lần trước, hai mắt hắn lập tức sáng rực, chẳng thèm nghĩ ngợi gì nữa, trực tiếp thò tay vào lấy bạch ngân. Sau khi tiền đã nhét đầy cả người, lão mụn vội vàng rời núi để còn đi tiêu tiền ngay cho nóng, vã quá rồi. Thật phải nó là tiền kiếm càng dễ thì càng tiêu nhanh, chẳng mấy chốc đã lại hết sạch tựa như nước chảy mây trôi, có bao nhiêu bạch ngân đi chăng nữa cũng chẳng đủ cho hắn phung phí hoang xài, bất đắc dĩ lại phải mò tới căn lều ngô kia để bổ sung thêm tiền vậy. Thịt thà ăn suốt ngày, rượu chè tu suốt tháng, quán ăn nào hắn cũng đã từng thử qua, cao lương mỹ vị nhai nhiều đến phát ngán thì chuyển qua ăn màn thầu, sủi cảo, mì sợi cho nó thanh đạm. Bước chân ra khỏi cửa là một thân y phục lộng lẫy, chỉnh tề, cứ hai ngày ba bữa lại đổi bộ khác đắt tiền hơn. Nếu chỉ tiêu vào ăn vào mặc thì còn đỡ, đằng này hắn còn bao nguyên cả kỹ viện, chơi gái đánh đĩ suốt ngày, chán chán thì đi đánh bài cửu, hút thuốc phiện, thậm chí còn muốn mua nhà tậu đất nữa kìa! Đừng nhìn vị đại gia này mặc dù bản lĩnh tự mình kiếm tiền không có, nhưng thủ đoạn tiêu tiền thì cứ phải gọi là rất cao minh, cho dù có đặt trước mặt hắn cả một núi vàng lớn thì chắc chắn chẳng mấy cũng sẽ không còn một tí nào!

Lão mụn từ ngày ấy vào núi như đi chợ, hết lần này đến lần khác, có tháng hắn còn vào núi năm sáu lần lận, chỉ với một mục đích duy nhất là moi tiền trong túi của sư bà về để tiếp tục công cuộc ăn chơi nhảy múa. Không hiểu sao tiền trong túi cứ như tự sinh ra vậy, lấy bao nhiêu đi chăng nữa cũng không hết được. Lão mụn mới đầu còn để ý đến chút lễ phép, lần nào lấy xong cũng dập đầu chắp tay trước sư bà tỏ ý cảm ơn, sau này thì cứ lấy đủ tiền xong là té thẳng luôn, chẳng thèm dập đầu chi nữa, ngay cả mở miệng thưa gửi một câu cũng không, chắc hẳn còn đang vội về với em nào trong kỹ viện rồi. Sư bà thấy thế nhưng cũng không ý kiến gì, chỉ đứng một bên nhìn hắn mà cười nhạt.

Rồi mãi cho đến một ngày nọ, lão mụn sau khi đã cơm no rượu say chán chê rồi liền quen chân mò tới sòng bạc đốt tiền như mọi ngày, thường hay nói: “Cờ bạc lừa đảo nuôi ta lớn, bờ đê vẫy gọi đón ta về!”, sòng bạc là nơi như thế nào chứ? Kỳ thực bên dưới tay mỗi người đứng cái đều có lắp một cơ quan bí mật, khi ngươi lần đầu tới chơi hắn sẽ để ngươi thắng thông mấy ván, khiến ngươi cảm thấy kiếm tiền thật dễ dàng, càng chơi càng nghiện, mạnh dạn đặt nhiều tiền hơn, chỉ cần như thế, nhà cái liền lật mặt, khiến người thua dúi dụi, chính gọi là “nhất bảo nhị bảo, tam tứ bảo, thập tự loa ti chuyển tâm bảo”, mặc ngươi có bao nhiêu vàng bạc châu báu đi chăng nữa, chỉ với một cái bảo hộp với ba con xúc xắc xinh xinh, cũng đủ làm cho ngươi phải táng gia bại sản. Lão mụn ở trong sòng bạc thua lên thua xuống, đến cái quần duy nhất để mặc cũng cầm cố hết cả rồi, hắn trong đầu lại nghĩ đến việc vào núi tìm lều ngô để lấy tiền về gỡ gạc lại số đã mất. Sắc trời cũng không còn sớm nữa, lão mụn vội vàng cắm đầu cắm cổ mà đi, không hiểu sao hắn cứ cảm thấy đoạn đường núi vốn đã đi quen nhiều lần mà sao hôm nay lại khó đi như vậy, mới đi có được một lúc mà đã thấy đầu óc choáng váng, mặt mày xây xẩm, hai mắt lờ đờ, trong miệng khô khốc, mồ hôi vã ra như tắm, hít vào thở ra rất khó nhọc, không thông, lão mụn tự trấn an bản thân: Hầy dà, chắc là do đợt này đi đánh bạc nhiều quá, mấy hôm rồi chưa được ngủ lấy một giấc, đâm ra cơ thể trở nên suy nhược a. Mới đi chưa được bao xa mà sao giờ đã không thể nổi ra hơi rồi nè. Lần này lấy được tiền, phải về ăn uống tẩm bổ thêm mới được, nghe nói nhân sâm ướp đường đỏ đang là thứ thần dược bán chạy nhất hiện nay, nhờ người tìm mua lấy chục cân về để uống dần mới được. Lão mụn vừa đi vừa suy nghĩ linh tinh nhiều thứ, không để ý đến phía trước đang có người đi tới gần, liền trực tiếp đụng phải một cái thật mạnh. Hắn lập tức nổi đoá, tức giận đi lên túm lấy vai người kia, cậy mình là người có tiền nên liền lớn tiếng: “Ai? Đi đứng kiểu mẹ gì thế? Mù à hay mắt mọc đằng đít rồi? Đường rộng như vậy mà còn cố tình đi va phải ông mày! Ngươi có ý gì hả?”

Lão mụn vốn chỉ định nói thế rồi đi tiếp, không ngờ người kia cũng dừng bước, nhìn chằm chằm vào hắn, hỏi ngược lại: “Ngươi đang định đi đâu đấy?”

Lão mụn đang vội đi lấy tiền, bị hỏi vậy thì nổi nóng: “Ngươi đụng phải bổn đại gia đây, không thèm xin lỗi lấy một câu, lại còn dám hỏi đại gia đi nơi nào ư? Con mẹ nó chứ, ta đi đâu thì liên quan đếch gì tới nhà ngươi?” Nói xong, hắn giơ tay lên gạt người kia sang một bên, định tiếp tục đi tiếp kẻo muộn.

Vị kia liền lấy trong tay ra một món đồ, rồi đột nhiên vung tay một cái, gõ lên đỉnh đầu lão mụn mấy tiếng kêu “ba ba”. Còn chưa gõ xong bỗng hô to: “Chớ có đi! Ta thấy ấn đường của ngươi đang dần chuyển thành đen, cái chết đang ở ngay trước mắt!”

Lão mụn vốn là kẻ sợ thần sợ quỷ, mê tín dị đoan cực độ, không biết người đối diện có ý gì với mình, chỉ thấy bất thình lình bị vật gì đó gõ lên đỉnh đầu mấy phát, lại nghe hắn nói như vậy, toàn thân bất giác đổ mồ hôi lạnh, cảm giác hoa mắt chóng mặt lúc trước liền biến mất, hai mắt đã tinh tường trở lại, hít thở cũng được dễ dàng, thoải mái hơn trước rất nhiều! Lão mụn bèn ngẩng đầu lên để nhìn cho rõ người đang đứng đối diện, liền bị doạ cho sợ nhảy dựng cả lên, người kia trên dưới năm mươi tuổi, trên người mặc xiêm y loè loẹt nhức mắt, nói tím không phải tím, mà đen cũng không phải đen, bộ áo rộng hắn mặc rộng thùng thà thùng thình, được thêu lên bằng rất nhiều hình thú vật. Lão mụn dụi mắt liên hồi, cẩn thận nhìn kĩ lại, hình thêu trên đấy toàn là hình nhím, hình chuột, còn có cả hình của loài chồn nữa! Lại nhìn xuống phía dưới, quần chẳng ra quần mà váy chẳng ra váy, trong tay cầm theo một cây cán ngô, mới vừa rồi chính cây cán ngô này đã gõ gõ vào đầu lão mụn. Mặc dù bị gõ thẳng lên đỉnh đầu, tiếng gõ cũng không nhỏ, ấy thế mà ngược lại chẳng thấy đau một chút nào cả. Lão mụn lập tức nhận ra, người hắn đụng phải làm một vị Ban Can Tử. Ở vùng Đông Bắc có một loại người được gọi là như vậy, hoặc là lập đàn làm phép, hoặc là dựng đài đón tiên, thường xưng là Thần Côn Hoạt, bởi vì những người làm cái nghề này đa số đều sử dụng khí cụ là một cây cán ngô, cho nên cũng được gọi bằng tên khác là Ban Can Tử. Vị Ban Can Tử này sau khi bất ngờ gõ cán ngô lên đầu lão mụn, liền hỏi tiếp: “Ngươi đi vào núi làm gì? Ta nhìn ấn đường của ngươi đang dần đen lại, ánh mắt vô thần, môi nẻ răng khô, nguyên thần tan rã, nhất định là đã trêu chọc phải thứ không nên trêu rồi. Chỉ sợ là không sống qua được mấy ngày nữa đâu!”

Lão mụn vừa nghe thấy đối phương nói như vậy, lúc này hai chân đã mềm oặt, không dám giấu diếm gì hết, đem chuyện hắn lên núi để đặt bẫy kẹp da như nào, tại sao lại gặp được sư bà ở trong một căn lều ngô giữa thung lũng hoang vắng, ngay cả việc hắn cứ hai ba ngày lại tới lấy tiền một lần cũng kể ra, không nói dối nửa lời, kể rõ đầu đuôi ngọn ngành mọi chuyện cho vị Ban Can Tử kia nghe.

Ban Can Tử nghe xong sắc mặt trầm xuống: “Không tốt rồi! Ngươi đây chính là bị cửu vỹ hồ ly làm cho mê hoặc mà thành ra như này!”
Lão mụn nghe thấy bốn chữ “cữu vỹ hồ ly”, xém tí nữa sợ đái cả ra quần. Trước kia luôn mồm nói cần tiền chứ không cần mạng, kỳ thực đều là do lúc ấy ta nghèo quá, chẳng còn quái gì để mất nữa, thành ra mới dám mạnh miệng to mồm nói những lời như vậy, lão thiên kia, ngươi lại tưởng là thật nên định để ta chết sao, ta hãy còn luyến tiếc trần gian lắm aaaa! Tục ngữ nói như nào ý nhỉ? Chết tử tế còn không bằng sống lay lắt! Hắn bỗng “phịch” một tiếng, quỳ xuống trước mặt Ban Can Tử, cầu cứu: “Vị Đại tiên này, tôi van xin ngài, cái này không thể trách tôi được, đều do tôi bị con mụ kia che mắt nên mới tin vào chuyện hoang đường do nó dựng lên! Tôi vừa nhìn đã thấy, ngài là một người rất có bản lĩnh a! Ngài cũng không thể thấy chết mà không cứu chứ huhu.” Vừa nói hắn vừa ôm chặt lấy hai chân vị “đại tiên” kia, khóc lóc mếu máo trông rất đáng thương.

Ban Can Tử nhận thấy lão mụn là bị hồ ly mê hoặc, đồng thời hắn trong lòng cũng biết, thứ mà lão mụn gặp phải có đạo hạnh không nhỏ, đã có thể hoá được thành hình người, vậy chính là cửu vỹ hồ ly rồi! Lúc trước chúng ta đã cùng nói qua, hồ ly mỗi khi tu luyện được một trăm năm, liền sẽ mọc ra thêm một cái đuôi nữa, tu được đến tận chín cái, coi như đã gần thành chính quả, mà chín cái đuôi này được gọi là cửu cung chi linh. Cửu cung là gì? Chính là chín phương vị trong phong thuỷ, một cung Khảm, hai cung Khôn, ba cung Chấn, bốn cung Tốn, năm cung Trung, sáu cung Càn, bảy cung Đoài, tám cung Cấn, chín cung Ly, linh khí tu luyện được hội tụ thành chín phương vị trong thiên địa, mỗi phương vị phải mất một trăm năm tu hành, xem ra cũng không hề dễ dàng chút nào. Hơn nữa sau khi đạo hạnh tích luỹ đã khá đủ rồi, nó cũng không thể nói biến là liền có thể biến ra được luôn, mà còn phải trải qua một công đoạn khác nữa, nếu như nói muốn thành phụ nhân, vậy phải đi tìm một bộ hài cốt phụ nhân đã chết rồi gỡ lấy cái đầu lâu, đợi đến đêm trăng rằm, đem cái đầu lâu đó đội lên trên đầu mình, hướng về phía ánh trăng mà quỳ lạy hạ bái. Nếu đạo hạnh không đủ, vậy sẽ không thể nào biến hoá được, đầu lâu đội trên đầu sẽ rơi xuống ngay, còn nếu như chân chính lạy được bảy bảy bốn mươi chín lần mà đầu lâu vẫn không rơi, thì lập tức biến ra được thành hình người. Bắt đầu từ đấy, gặp tăng thì giả làm phật, gặp đạo thì tự xưng là tiên, lừa người ta quỳ bái cung phụng nó. Bất quá cửu vỹ hồ ly, còn phải trải qua một đại kiếp tai ương, đại kiếp là gì? Thiên địa vạn vật số mệnh đều đã được định đoạt sẵn từ trước, nên được sinh ra thì sẽ sinh ra, nên bị chết đi thì sẽ chết đi, nếu như cố tình muốn thoát khỏi số mệnh định trước, lúc phải chết lại không chịu chết, vậy sẽ thành yêu ma tác quái, khiến cho thiên địa bất dung, cho nên mấy loại quỷ hồ này, thường thường đều không tránh khỏi lôi phạt thiên kiếp, tan thành mây khói. Con cửu vỹ hồ ly này tìm cách mê hoặc lão mụn, để cho lão đổi tuổi thọ lấy tiền trong túi, coi như là bắt người đổi mạng tiêu tai trừ kiếp cho nó. Vì đạo hạnh của nó quá lớn, Ban Can Tử mặc dù có thể nhìn thấu, nhưng cũng không dám trực tiếp ra mặt. Hắn nói cho lão mụn một chủ ý, ngươi nha, cứ làm theo như này, nói theo như vậy, may ra mới mong cứu lấy được cái mạng trở về.

Lão mụn hết thảy đều không biết phải làm sao, không thể làm gì khác hơn là nghe theo lời của Ban Can Tử đã dặn. Vẫn như mọi lần, vào núi tìm được căn lều ngô kia đầy quái quỷ kia. Sư bà vừa thấy hắn tới, liền cầm cái túi ra rồi chỉ tay vào nói: “Ngươi muốn lấy bao nhiêu, cứ thoải mái mà lấy đi!” Lão mụn hôm nay vừa mới bước vào lều, lập tức cảm thấy “vụt” một cái, toàn thân từ xương cụt cho đến đỉnh đầu đột nhiên tê dại đi, hèn chi trước giờ cứ ngửi thấy trong lều này có mùi gì đó rất kì quái, thì ra chính là mùi khai thối của con hồ ly này gây ra! Hắn lần này không dám thò tay vào lấy tiền như mọi lần nữa, trong lòng lúc này rất rõ ràng, mạng sống còn quan trọng hơn tiền, quỳ sụp xuống đất đánh “ầm”, dập đầu liên tục cứ như giã tỏi: “Sư bà tha mạng, sư bà tha mạng a!”

Sư bà hừ lạnh một tiếng, nói: “Ngươi đã biết rồi sao? Nhưng ngay từ đầu lão thân đã nói rõ với ngươi rồi, ngươi lấy đi bao nhiêu tiền, thì phải để lại bấy nhiêu tuổi thọ. Mọi lần ngươi đều tới lấy tiền thoăn thoắt chẳng thèm suy nghĩ, tại sao hôm nay lại nói không muốn chết nữa?”

Lão mụn nước mắt ngắn nước mắt dài, sụt sịt van lơn: “Bẩm sư bà, có một câu này người ta thường hay nói a! Đến con kiến hôi còn muốn sống, huống chi là con người? Con biết cái mạng nhỏ này của con đối với ngài chẳng đáng gì cả, xin ngài nương tay a!”

Sư bà hắc hắc cười: “Này chàng trai trẻ, thứ nhất là ta không có ép cậu, thứ hai là cũng không đánh ngươi, lúc trước ta đã sớm nói xong hết cả rồi, lúc này nhà ngươi rượu cũng đã uống, thịt cũng đã ăn, kỹ viện cũng được dạo qua nốt rồi, tiêu xài của ta chán chê giờ lại muốn đổi ý, sợ rằng là còn khó hơn lên trời đấy!”

Lão mụn vội làm theo lời Ban Can Tử đã dặn hắn lúc trước, nói với sư bà: “Xin ngài hãy để cho con một con đường sống, con cũng sẽ không dám ăn không của ngài. Ngày hôm trước, con có mua lấy một đứa về làm vợ, năm nay vừa tròn mười tám tuổi, chỉ cần ngài tha cho con tội chết, cái mạng này của vợ con xin dâng cho ngài, tuỳ ngài định đoạt. Chúng ta một mạng già đổi một mạng trẻ, ngài thấy thế nào a?”

Sư bà suy nghĩ một chút, số tiền mà hắn lấy vẫn còn chưa đủ, ít nhất hôm nay vẫn chưa thể lấy mạng của hắn được, mà tiểu tử này giờ đã biết hết mọi chuyện rồi, có bảo hắn lấy nữa hắn cũng không dám. Nếu như lời hắn nói là thật, vậy cũng không phải là không thể đổi mạng cho hắn, liền hỏi: “Vợ ngươi đang ở đâu?”

Lão mụn vội đáp lời: “Đang ở trong nhà con, nếu ngài không tin để con dẫn ngài tới xem nàng.”

Sư bà tin là thật, bảo lão mụn đi trước dẫn đường về nhà hắn, một trước một sau dắt nhau ra khỏi núi, đi tới dưới chân núi, liền thấy một căn nhà bằng gỗ nho nhỏ. Lão mụn giơ tay lên chỉ, nói: “Thưa sư bà, đây chính là nhà của con. Vợ con nàng đang ở ngay trong gian đầu ngồi may vá.”

Sư bà nói: “Vậy ngươi vào gọi nàng ra cho ta xem mặt một chút coi.”

Lão mụn vội xua tay: “Úi cô dâu vừa về nhà chồng, để cho nàng bước ra ngoài có vẻ không tiện lắm, hay là ngài cứ tự mình vào trong nhà gặp rồi nói chuyện qua với nàng xem!” Dứt lời liền đi tới đẩy cánh cửa gỗ, xoay người lại nói: “Sư bà, con xin đem nàng dâng cho ngài!”

Sư bà tin lời của lão mụn, nhấc chân bước vào trong nhà, chân trước chân sau vừa mới đặt xuống, lão mụn từ bên ngoài lập tức đóng sập cửa lại. “Xoạc xoạch rắc”, một cái khoá đồng to oạch khoá chặt cánh cửa lại, không để một sợi tóc lọt qua. Lúc này, Ban Can Tử nãy giờ vẫn nấp ở trong rừng liền chạy vội tới, rút cây cán ngô kia ra, chặn lại trước cửa nhà. Tiếp theo hai người bọn hắn đem từng bó từng bó cỏ khô đã chuẩn bị sẵn từ trước đến, rải khắp xung quanh bên ngoài ngôi nhà. Hai người sớm cũng đã bố bên trong, trên tường dưới đất thoa đầy máu chó mực. Sư bà vừa bước vào trong nhà liền biết ngay đã mắc bẫy, cả phòng tràn ngập máu chó mực như này, mặc cho nó đạo hạnh có cao thâm hơn đi chăng nữa nhất thời cũng không thể thi triển ra được thuật pháp gì cả, cửa phòng thì lại bị khoá chặt, còn có thêm cây cán ngô chặn ngang, kết quả là bị giam cầm trong lửa, thiêu sống luôn cùng ngôi nhà, thịt cháy bốc mùi hôi thối vô cùng, truyền đi xa khắp mười dặm tám phương! Lão mụn nhặt được cái mạng rách trở về, thế nhưng từ đấy về sau nghèo lại hoàn nghèo, chừng ba mươi tuổi thì bị một trận bệnh nặng rồi bỏ mạng, giấc mộng hoàng kim một đời này của hắn cuối cùng cũng không thành được sự thực!

Ở vùng Đại Hưng An Lĩnh này, truyền thuyết tương tự như thế có nhiều vô cùng, kể liền ba ngày ba đêm chắc cũng không hết, câu chuyện của Trăn Tử chỉ là một trong số đó. Tôi sớm đã đọc qua “Cánh đồng tuyết bao la”, ma nay nghe kể đến một đoạn thần quỷ yêu hồ trong truyền thuyết dân gian, thật cảm thấy vẫn chưa đủ sáng tỏ, còn muốn bảo Trăn Tử kể tiếp đoạn nữa xem sao. Không nghĩ tới Trăn Tử bỗng đột nhiên hỏi chúng tôi một câu như này: “Bức bích hoạ cửu vỹ hồ ly mà hai người các anh thấy ở trong cổ mộ Hắc Sơn Đầu, rốt cuộc trông như thế nào?” Tôi và Tuyền béo nghe những lời Trăn Tử vừa thốt ra, đồng loạt ngây người, bốn mắt nhìn nhau, anh lườm tôi, tôi lười anh, từ lúc chúng tôi thoát được ra khỏi cổ mộ ở Hắc Sơn Đầu, chưa hề hé ra nửa câu nói với người ngoài, Trăn Tử sao lại biết chứ? Không cần phải hỏi, giữa tôi và Tuyền béo, nhất định có một thằng là phản đồ!

Tôi tức lắm, hai lỗ mũi thở phì phò, bao nhiêu thế hệ chiến sĩ cách mạng đi trước đã hy sinh đều là do bị bọn phản đồ bán đứng, mật báo thông tin cho địch nhân! Ở trong cái thôn thượng nguồn Hắc Thuỷ Giang này chỉ có mỗi hai thằng chúng tôi, tôi dĩ nhiên sẽ không bao giờ đem chuyện trước kia vì tránh bão tránh sói mà rơi vào một toà cổ mộ thời Liêu ở Hắc Sơn Đầu kể cho ai nghe cả, nghĩ tới nghĩ lui không phải tôi thì chỉ còn một người, con mẹ nó, chính là thằng Tuyền béo kia! Đã giao ước với nhau là sẽ bảo vệ bí mật này, từng câu từng chữ ngày ấy vẫn còn vang vọng bên tai, cớ sao nghiêng đầu phát liền quên? Tính kỷ luật tính tổ chức biến mẹ đâu mất rồi? Có mỗi cái việc giữ bí mật đơn giản như vậy mà còn không tuân thủ, một khi trong tương lai phát sinh Đại chiến Thế giới lần thứ 3, ta làm sao có thể tin tưởng để cho ngươi đi theo xông pha chiến trận diệt Liên Xô, trả thù Đế quốc Mỹ đực cơ chứ? Việc chúng tôi quyết định sẽ không nói chuyện này ra bởi vì có hai điều khiến mọi người lo lắng, thứ nhất là sợ có người đem vấn đề hết sức đơn giản này phức tạp hoá lên, vào những năm tháng ấy, người có thể làm việc này có rất nhiều, tuỳ tiện đội cho chúng tôi một cái mũ lên đầu cũng sẽ khiến cả lũ khó mà sống nổi; thứ hai là con hồ ly kia đối với chúng tôi có ân, ít nhất cho đến lúc cuối, nhờ có nó dẫn theo chúng tôi chạy vào trong cổ mộ, chúng tôi mới tránh được không bị bão tuyết vùi lấp hay sói hoang ăn thịt. Trước khi chết, nơi mà nó chọn làm nơi chôn thây vùi xác chính là trong ngôi cổ mộ thời Liêu đó ở Hắc Sơn Đầu, tuy rằng ngôi mộ ấy đã sớm bị sụp lở không ít, minh khí bồi táng bên trong cũng đã bị khoắng sạch, nhưng một khi để lộ thông tin ra, nói không chừng sẽ có rất nhiều kẻ chạy tới để tìm kiếm hoàng kim linh chi, như vậy há chẳng phải là quá có lỗi với nó? Tuyền béo trước giờ không biết giữ mồm giữ miệng, suốt ngày ba hoa khoác lác, chuyện nên nói hay không nên nói đều bô bô kể hết.

Tôi đang muốn phê bình hắn, mà Tuyền béo cũng là thằng chuyên dựa vào mồm to mà doạ người, nhất định sẽ cho là tôi đã nói ra, nhưng miệng nói mà lại không có bằng chứng, giờ có lẽ tốt nhất không nên đổ bừa cho ai cả. Tôi cho rằng thà cứ hỏi thẳng Trăn Tử còn hơn là nghi nghi ngờ ngờ lẫn nhau, liền hỏi nàng: “Nhị muội tử, ngươi nghe ai nói hai chúng ta gặp được một bức bích hoạ cửu vỹ hồ ly trong cổ mộ vậy?”

Trăn Tử đáp: “Đây còn không phải do hai người các anh tự nói ra sao?”

Tôi và Tuyền béo đều nghệt cái mặt ra: “Cái quái gì vậy? Thế tại sao hai thằng này lại không nhớ là đã từng qua với ngươi? Chúng ta nói lúc nào hả?”

Trăn Từ nói: “Lúc trước hai người không phải là đã đánh chết được một con cáo chuyên trộm trứng gà sao? Khiến cho cậu Tư hết sức cao hứng, nhớ chứ? Xong chẳng phải có bao nhiêu rượu ngô trong nhà cậu đều mang ra mời hai người uống? Hai người các anh bú lấy bú để còn gì nữa, toàn chê chén nhỏ, trực tiếp dùng hẳn bát lớn uống cho thống khoái. Không phải lúc đó liền nói ra hết à?”

Hai người chúng tôi nghe thấy thế, lập tức cảm thấy choáng váng, thật đúng là rượu vào thì lời ra — ai cũng đừng nghĩ nói ai nữa. Lại cẩn thận hỏi qua Trăn Tử một chút, thì ra chuyện chúng tôi lúc trước được hồ ly dẫn vào trong cổ mộ, tránh được trận bão tuyết kinh khủng cùng bầy sói hung dữ, còn phát hiện ra một gốc hoàng kim linh chi, ở Hắc Thuỷ Giang này không ai là không biết, không ai là không rõ, có mỗi chúng tôi là không biết gì hết cả, bí mật này sớm đã không còn là bí mật nữa rồi.

Bất quá người dân sống ở vùng Hắc Thuỷ Giang này, đời đời kiếp kiếp ở trong rừng sâu núi thẳm săn cáo bắt hươu để sống, linh chi, vân chi thấy qua không hề ít, nhưng chưa từng nghe thấy trên đời này lại có loại nào gọi là hoàng kim linh chi, dân bản xứ lại vô cùng mê tín, cảm thấy đó là đồ vật sinh trưởng ở trong mộ huyệt, người sống không thể nào ăn được, vì vậy không ai dám đi hái cả. Nhưng tai vách mạch rừng, người trong nhà nói còn chưa thông thì người ngoài vách đã nghe tỏ, trên đại lộ chuyện này đã sớm trở thành câu chuyện bàn trà mỗi sáng, người nói thì vô tâm, người nghe lại hữu ý, thành ra cứ thế truyền đi rộng rãi.

Mấy ngày sau, trong thôn bỗng nhiên xuất hiện hai người thợ săn lạ mặt. Họ nói rằng mình là hai anh em ruột, lão đại tên là Đại Hổ, còn lão nhị tên là Nhị Hổ, không phải người ở vùng Hắc Thuỷ Giang này, nghe nói là từ Trường Bạch Sơn xa xôi lặn lội đi tới, còn đặc biệt tới tìm tôi và Tuyền béo nói chuyện. Tôi đầu óc mơ hồ, không biết vì sao hai người thợ săn này lại tìm tới làm chi, trước mời bọn họ vào trong chòi ngồi nghỉ, rồi bảo Trăn Tử pha hộ một ấm trà nóng.

Tôi âm thầm đánh giá hai người này, từ đầu đến chân một thân trang phục thợ săn, sau lưng mỗi người đeo một khẩu súng chim. Đại Hổ tuổi tầm trên dưới ba mươi, khí lực khôi ngô, trên mặt râu quai nón mọc dày, hai con mắt đặc biệt tinh anh, phải gọi là hổ cứ lang cố. Hổ cứ là để chỉ thân hình tư thế của người này, dáng vẻ khi đứng lên ngồi xuống tựa như loài hổ. Còn lang cố thì giờ không thấy nhiều, đó là dạng người mắt la mày lét, luôn nhìn trái ngó phải rình mò, rất giống với bọn sói gian xảo. Người này lúc nhìn ngang nhìn dọc, cần cổ không hề xoay một chút nào, bả vai cũng không nhúc nhích. Tôi đã từng nghe tổ phụ tôi nói qua về tướng người hổ cứ lang cố này, nhưng trước đây chưa được thấy qua bao giờ.

Lại nhìn người huynh đệ tên là Nhị Hổ của hắn, tên này giống như người mắc bệnh hủi vậy, trên đầu quấn một tấm khăn kín mít thành một bó to, hai bên mặt dán mấy miếng cao thuốc da chó (Trans: Thuốc cao vốn để dán lên da chó, nhưng giờ lại dán lên người, cho thấy sự hủ bại và mê muội lúc bấy giờ), cơ hồ không nhìn rõ dáng dấp hắn ra sao, “chi chi ô ô” rất ít khi mở miệng lên tiếng, người khác nói với hắn mười câu, chưa chắc hắn đã đáp lại được nửa lời. Ngược lại với hắn, Đại Hổ thế nhưng lại rất biết ăn nói, hắn rút trong áo choàng ra một cái túi da, một bên vừa nói vừa cười cười nhìn chúng tôi bảo là có thứ đồ này hay lắm tặng cho hai vị tiểu ca đây nhai chơi, một bên thì bảo Nhị Hổ lấy từ trong cái túi đấy ra một bọc đường lớn. Hai người chúng tôi lẫn Trăn Tử đều trố mắt ra nhìn, ở trong vùng rừng sâu núi thẳm này, có được một bọc đường to như này thật là quá khó đi, như này là có ý gì đây? Vô công bất thụ lộc, đời nào lại cho không chúng tôi chứ? Chưa dừng lại ở đó, Nhị Hổ sau khi lấy ra bóc đường, lại thò tay vào túi lôi ra một bó lớn gì đấy màu đỏ, trời ạ, ngoài ra có thêm bốn bao thuốc lá hiệu “Chiến đấu” loại đặc biệt, bày ra trước mặt chúng tôi, còn cố ý đẩy sát lại. Tổng cộng là bốn bao thuốc là, cùng một bọc đường và mấy bó gì đấy chúng tôi không biết gọi tên là gì. Đại Hổ bụng dạ vô cùng thẳng thắn, hắn nói: “Hai người các cậu không cần phải lo lắng hay khó hiểu gì cả, hai anh đây chuyến này đi tới, cũng là vô sự không lên điện tam bảo, có việc cần nhờ nên mới mạo muội mò đến. Có chuyện cầu cạnh người mà lại đi tay không tới thì xem ra không được hay ho cho lắm. Khổ nỗi giờ mới là đầu xuân, chẳng kiếm được bộ da nào tốt tốt cả, chỉ săn được vài con thú nhỏ, đều mang lên trấn đổi hết lấy mấy thứ đồ này, toàn bộ coi như là quà gặp mặt, ngàn vạn lần xin chớ chê cười.”

Sau đó liền nói rõ ý đồ của mình cho chúng tôi biết, thì ra Đại Hổ và Nhị Hổ hai người bọn hắn có tổ tiên là làm Đả Quan Vi ở Trường Bạch Sơn, như nào gọi là Đả Quan Vi? Nói trắng ra chính là những người chuyên săn bắt thú cho Hoàng thượng, đến đời anh em hắn hôm nay vẫn còn ăn bát cơm này, bất quá giờ là làm thợ săn cho thủ trưởng chứ không phải Hoàng thượng, không chỉ đơn thuần là săn bắt thú, trong rừng sâu núi thẳm có thứ đồ vật gì hiếm lạ, bọn bắn đều đi lấy. Mấy năm trước trong một lần lên núi bẫy chồn, lúc ấy tuy trời nổi bão tuyết giá rét, nhưng lại là thời điểm da lông thú vật phát triển tốt nhất cho nên họ vẫn cắn răng mà đi, ai ngờ Nhị Hổ không để ý bước hụt chân rơi vào một cái hang động, làm kinh động đến một con gấu đen đang vùi mình trong động ngủ đông, cũng may mạng lớn nên thoát chết, nhưng vẫn không tránh khỏi bị móng vuốt gấu đen phạt mất nửa khuôn mặt, từ đấy phải đội theo một cái khăn to, dán kín mấy miếng cao da chó thì mới dám bước chân ra ngoài, nếu không sẽ doạ chết người ta mất. Bọn họ nghe nói ở nông trường số 17 có mấy thanh niên tri thức về sản xuất, rồi bị bầy số cùng bão tuyết vây công, lại được một con hồ ly dẫn theo vào trong một ngôi mộ cổ, tránh được cả hai kiếp nạn một lúc, mà ở trong ngôi mộ kia còn sinh trưởng ra một gốc hoàng kim linh chi! Tổ tiên hai người làm Đả Quan Vi cho triều đình, kinh nghiệm cùng lịch duyệt không hề tầm thường, theo như truyền thuyết tổ tiên truyền lại cho con cháu đời sau, hoàng kim linh chi chỉ có thể sinh ra ở trên long mạch, đặc biệt hiếm có khó tìm, vô cùng trân quý, chính là “Tiên Chi”, hơn nữa có thể giải được trăm độc, có tác dụng cải tử hồi sinh rất vi diệu. Năm đó Hoàng đế Lão gia tử toạ ủng tứ hải, thứ gì tốt mà chưa từng thấy qua chứ, nhưng cả đời chưa chắc đã được thưởng qua hoàng kim linh chi bao giờ. Đại Hổ cùng Nhị Hổ không quản đường xa từ Trường Bạch Sơn tìm tới Hắc Thuỷ Giang này, chính là muốn chúng tôi làm người dẫn đường cho hai huynh đệ hắn tới ngôi cổ mộ thời Liêu kia ở Hắc Sơn Đầu để hái hoàng kim linh chi. Nhưng bên đấy toàn bộ đều bị rừng già nguyên thuỷ rậm rạp cùng núi non trùng điệp che phủ, nếu như không có người quen thuộc đường đi lối lại chỉ đường, bất luận làm thế nào cũng sẽ không tìm được cửa vào cổ mộ.

Đại Hổ hứa hẹn chỉ cần chúng tôi dẫn theo bọn họ tìm được cổ mộ, thuốc lá muốn bao nhiêu liền có bấy nhiêu, còn có thể lập công trọng thưởng, bởi vì đây là một “nhiệm vụ”. Lời đã nói đến như vậy, hắn cứ tự cho là mình văn hay chữ tốt, nhất định sẽ khiến chúng tôi gật đầu đáp ứng. Không nghĩ tới tôi và Tuyền béo lại là hai thằng cứng đầu cứng cổ, đẩy ngược mấy thứ đồ kia trả lại hắn mặc cho đồ này toàn là đồ tốt thượng hạng, tôi thật ra cũng rất muốn nhận lấy, nhất là mấy bao thuốc hiệu “Chiến đấu” kia. Đây chính là loại thuốc lá xịn nhất lúc bấy giờ, trên vỏ bao so với mấy nhãn hiệu thuốc lá phổ thông khác nhiều một hàng chữ “Theo sát lãnh tụ vĩ đại cùng vượt qua sóng to gió lớn tiến bước về phía trước!”, không chỉ mùi hương đặc biệt mà vỏ thuốc còn dùng loại giấy cuốn tốt nhất. Ở thời kỳ ấy mà nói, trên người mà mang theo một bao thuốc lá như vậy, sẽ khiến ngươi cảm thấy mình so với người khác ưu việt, thời thượng hơn, lộ ra khí chất phi phàm. Nhưng hai người thợ săn này lai lịch không rõ ràng, nói gì mà săn thú với chẳng tìm đồ cho thủ trưởng, tôi cho tới giờ chưa từng nghe qua thứ gì như vậy, thế nào mà càng nhìn lại càng giống mấy tay săn hổ ở trên núi mới xuống!

Mời các bạn đón đọc chương tiếp theo “Hoàng Kim Linh Chu” đăng tại page Hội những người nghiện truyện của Thiên Hạ Bá Xướng
 

Lười Biếng Vô Tận

Thanh Phong 37
Tham gia
5/4/19
Bài viết
21
Điểm cảm xúc
67
Điểm
13
Dịch: Đặng Nam

Tôi cùng Tuyền béo nhìn ra ngay, hai tên thợ săn này ngoài miệng thì ba hoa chích chòe sáo sậu như vậy, nhưng ngay cả đến một phong thư giới thiệu cũng không có, còn giả mạo nói gì mà mình là “Đả Quan Vi” này nọ, đơn giản chỉ là muốn lấy được hoàng kim linh chi trong ngôi cổ mộ kia mà thôi! Tương truyền trong cổ thư có nhắc đến rằng “Hùng cứ lang cố đích thị là ác tướng”, tuy nói đó chỉ là những lời mê tín của cổ nhân, nhưng tôi không hiểu sao nhìn thế quái nào cũng thấy hai tên này đếch phải là người tốt. Cho dù bọn chúng có nói thật đi chăng nữa, hứa sẽ cho chúng tôi những chỗ tốt kia, tỉ như lập công luận thưởng, cho là chúng tôi sẽ vì thế mà nguyện ý nghe theo, vậy há chẳng phải là coi thường anh em chúng tôi quá, tuy rằng hai thằng cũng thòm thèm đống thuốc lá siêu cấp hiệu “Chiến Đấu” kia lắm nhưng mà không thể để người ta coi mình là hạng tiểu nhân mới thấy tí lợi mà đã mù hai con mắt được. Càng muốn đẩy cho chúng tôi, thì chúng tôi càng cố chấp, cứ như vậy mà làm cao!

Cuối cùng tôi đành dứt khoát cho hai vị đây một câu trả lời: “Không biết là hai vị Đả Vi Quan đây là từ nơi nào nghe được tin tức này, hoặc là hai vị đã nghe nhầm, hoặc là đã tìm lộn người mất rồi, ban đầu quả thật chúng tôi ở nông trường số 17 đã từng gặp phải bão tuyết lớn cùng với đàn sói hoang từ Siberia kéo đến, chuyện đó không hề bịa đặt, sau đó mấy người trên đường bỏ chạy có chui lạc vào một cái động hồ ly, nhờ thế mới nhặt được cái mạng rách trở về, chỗ đấy nào có phải là cổ mộ thời Liêu gì đâu chứ! Hoặc giả như này nhé, cứ cho là chúng tôi có chui vào được một ngôi cổ mộ như mọi người nói đi, rồi cũng từng nhìn thấy trong mộ có một gốc hoàng kim linh chi, chúng tôi lại chẳng phải là kẻ ngu gì đúng không, làm sao lại không nhận ra giá trị của nó chứ? Lúc ấy tại sao không hái xuống mang theo ra ngoài luôn? Nghe có hài hước không?” Bọn họ tin cũng được, không tin cũng được, có hỏi đi hỏi lại tôi cũng vẫn sẽ chỉ nói như vậy thôi.

Thật vất vả mãi mới đuổi được hai tên thợ săn này đi, tôi cùng Tuyền bèo liền nhỏ giọng thầm thì, thống nhất đường lối đối ngoại, từ nay về sau nếu còn có ai tới hỏi mấy chuyện này nữa, thì đáp quách là ngày ấy do hai thằng uống nhiều đâm ra say quá nên nói linh tinh, chớ có tin là thật. Cứ tưởng rằng như vậy sẽ đối phó xong với mấy người sau tìm tới, chúng tôi sẽ không bị làm phiền nữa, ai ngờ mới chỉ có hai ngày thôi, Lục Quân vốn đang tham gia sản xuất ở hạ nguồn Hắc Thủy Giang lại đột nhiên chạy tới, hắn đã thế lại còn mang theo một đống tin tức ngoài ý muốn! Cái này là từ lúc vẫn còn trong biên chế của binh đoàn nông khẩn và phòng thủ nông trường số 17, Lục Quân cùng Tiêm Quả hai ngươi bị phân về hạ nguồn Hắc Thủy Giang để làm việc: Thanh niên trí thức về Đại Hưng An Linh tham gia sản xuất so với khi ở binh đoàn khai hoang thoải mái hơn rất nhiều lần, bởi vì toàn là mấy người chân yếu tay mềm, chả có mấy sức để mà làm việc, những lúc bình thường, ngươi trong thôn chỉ an bài cho đám thanh niên độc có hai nhiệm vụ, lúc ấy có câu “Nhất đẳng hán tử khán thanh, nhị đẳng hán tử bộ thử”. Nói trắng ra, tôi cùng Tuyền béo ở thượng nguồn Hắc Thủy Giang trông coi hoa màu, cái này chính là “khán thanh”, nhiệm vụ này là đơn giản và thoải mái nhất, cả ngày chỉ có ngồi trong chòi mà căng mắt ra trông chừng mấy luống rau, chẳng phải động tay động chân mấy, chán thì lại thay ca đi ngủ hoặc ngồi bốc phét. Ở chỗ khác á, nếu mà không phải là “hoàng thân quốc thích” hay “con ông cháu cha” thì cũng đừng hòng mà có được cuộc sống an nhàn như hai thằng tôi. Còn nhiệm vụ thứ hai là chính là đi diệt chuột, bởi vì năm 1910, Mãn Châu bị dịch chuột hoành hành, tình hình bệnh dịch như nước lũ vỡ đê cuốn qua khắp toàn bộ vùng Đông Bắc, thậm chí còn ảnh hưởng đến tận Hà Bắc lẫn Sơn Đông, người chết đếm không xuể, sau đó Ngụy Mãn Châu cũng bị hai lần dịch chuột tấn công, vẫn như trước, xác chất đầy đồng, thây phơi thành đống, lòng người bàng hoàng hoang mang, cho nên thẳng đến thời điểm năm 1969 khi chúng tôi bị điều đi sản xuất, diệt chuột vẫn là một nhiệm vụ trọng yếu hàng đầu. Tuy nói là trọng yếu nhưng không có nghĩa quá khó khăn, chỉ có mỗi việc bỏ thuốc kết hợp với đặt bẫy, hết!

Chuột ở vùng hạ nguồn Hắc Thủy Giang tương đối nhiều, Lục Quân bọn họ phần lớn đều bị phái đi diệt chuột. Đến lúc này cuộc sống của bầy chuột liền trở nên xui xẻo, thanh niên tri thức tất cả đều là mấy ông thần trẻ trâu mới mười bảy, mười tám tuổi, người nào người nấy sức dài vai rộng, cả ngày chỉ tìm cách sao cho bẫy được nhiều chuột nhất, thề phải đem cái bọn phản động “trộm lương thực của xã hội chủ nghĩa” này quét sạch không còn một mống. Mà thợ săn ở mấy thôn quanh dòng Hắc Thủy Giang, đối với sự xuất hiện của bầy chuột thì lại không để ý mấy, bởi vì theo tập tục mê tín ở vùng Đông Bắc này, chuột cũng là một vị “đại tiên gia” a, đứng hàng thứ tám trong Bát tiên thượng địa, cho nên còn được gọi là lão Bát. Nửa đêm mà nghe thấy tiếng chuột gõ gõ trên trần nhà, thì liền dập đầu mà khấn, vì lúc ấy “Đại tiên gia đang kiếm tiền”, chớ kinh động ngài phát tài. Còn có người thấy ở cạnh sông có con chuột đangcưỡi trên lưng một con cóc to, liền nói đó là sủng vật tọa kỹ của đại tiên gia, sau khi thấy thường thường sẽ quỳ rạp người xuống dập đầu mà lạy, cẩu khẩn đại tiên gia phù hộ độ trì, vì đối với họ, đại tiên gia mà cưỡi được cóc, vậy tức là đạo hạnh quá sâu đi, bét nhất cũng phải hai trượng a! Thế nhưng đấy lại hoàn toàn không phải là chuyện bịa đặt, đám người Lục Quân bọn họ ban đầu cũng chỉ cho là truyền thuyết dân gian xạo quần mà thôi, nhưng về sau lại thấy tận mắt, hơn nữa còn thấy mấy lần liền!

Lục Quân ngày thường hay xem nhàn thư, chẳng mấy khi lại nguyện ý dùng đầu óc mà suy nghĩ như bây giờ, hắn phát hiện ở hạ nguồn Hắc Thủy Giang có rất nhiều cua, cóc nhái cũng nhiều, khu vực này chuột núi chuột đất thường xuyên ăn cóc. Ngoài ra trong nước còn có không ít ruồi muỗi, côn trùng kể không hết tên, thành ra cóc nhái thức ăn dồi dào, con nào con nấy to vật vã. Bọn chuột thường thừa dịp cóc chưa chuẩn bị, liền nhào tới nhảy lên lưng, từ phía sau cắn vào cổ cóc, con cóc bị răng chuột cắm vào da thịt đau quá nhưng không làm gì được, lúc này mới vác chuột trên lưng mà nhảy loi cha loi choi, người không biết gì thấy cảnh tượng này liền bị dọa sợ, thật ra thì căn bản không phải gì mà đại tiên gia với chẳng đạo hạnh nông sâu. Lục Quân dẫn đầu đám thanh niên tri thức tổ chức tuyên truyền, đập tan những truyền thuyết mê tín dị đoan gây ảnh hưởng đến quần chúng nhân dân. Ở Hắc Thủy Giang này, có nuôi rất nhiều chó săn, vì đa số người trong thôn đều là thợ săn, cho nên nhà nào cũng phải có ít nhất năm, sáu con, đến mùa săn thì sẽ dẫn theo lên núi, còn đâu thì để trông nhà, những lúc như vậy Lục Quân lại lôi chúng ra dạy cho mấy chiêu đào hang bắt chuột. Dưới sự hướng dẫn của hắn, toàn bộ thanh niên tri thức lẫn chó săn trong thôn cùng nhau phát động đợt tổng tiến công diệt chuột quy mô chưa từng thấy, xem chừng dăm bữa nửa tháng nữa bọn chuột cũng chưa dám quay lại phá phách.

Đám người thanh niên ấy cảm thấy lăn qua lăn lại chưa đủ, sức trâu sức bò của tuổi đôi mươi chẳng có chỗ nào để phát tiết thành ra tay chân ngứa ngáy khó chịu, lần này lại có việc để làm nên ai cũng rất hứng khởi, cứ thấy hang chuột là lao đến đổ nước sôi, hun khói cay, nhưng bọn họ lại quên mất không phải cái hang nào trên núi cũng là hang chuột! Buổi trưa hôm nay, mấy người ở trên núi tìm được một cửa hang, đang định đổ nước vào ngập bên trong để lùa chuột ra như mọi lần, không ngờ tới trong hang đột nhiên lại chui ra hẳn một con đại xà to lớn! Trên đỉnh đầu mọc ra một cái mào thịt đỏ hỏn, thân nó phải dài hơn 1 mét, bộ vảy óng ánh đủ màu sắc rực rỡ, cái miệng há to thè ra chiếc lưỡi dài, phun ra một làn khói sương dày đặc nồng đậm, ba người đứng phía trước nó lập tức hít phải, bị làn khói ấy làm cho chân tay mềm nhũn, đồng loạt ngã oạch ra đất. Thật may lúc ấy vừa vặn có một tay thợ săn trong thôn đi qua, thấy tình hình của đám thanh niên trí thức, vội vàng giương súng bắn chim nhắm thẳng vào con quái xà, bắn chết! Mà ba người kia sau khi hít đầy một hơi khí độc, tính mạng bây giờ xem ra rất nguy kịch, miệng mũi máu đen chảy ra ròng ròng không ngừng. Ba người trúng độc ấy có hai gái một nam, trong đó có Tiêm Quả!

Tay thợ săn kia nói cho mọi người biết, đó là một con ngũ bộ xà, độc tính vô cùng mãnh liệt, nếu như bị nó trực tiếp cắn phải, đi được chưa đầy 5 bước chân liền sẽ chết luôn! Ba người Tiêm Quả mặc dù chỉ bị nó phun khí độc vào người, nhưng cũng lành ít dữ nhiều, hơn nữa còn không thể mang xuống núi được vì như thế sẽ khiến mấy người họ mất máu nhanh hơn. Tôi và Tuyền béo vừa nghe xong liền bật dậy ngay tức khắc, Tiêm Quả là chiến hữu cách mạng thân thiết của chúng tôi, đã từng đồng sinh cộng tử vượt qua khó khăn ở nông trường số 17, trở nên thân thiết như huynh đệ tỷ muội một nhà, hừ, nếu không phải do thằng ôn con Lục Quân này ăn no dửng mỡ, lại sợ thiên hạ không loạn, đem mấy người bọn họ lên núi diệt chuột, thì làm sao Tiêm Quả có thể xảy ra chuyện không may cơ chứ! Hai thằng tôi lúc ấy hận không thể trực tiếp chạy tới hạ nguồn Hắc Thuỷ Giang để xem xem tình hình của Tiêm Quả ra sao rồi, nhưng rồi chợt nghĩ lại, chúng tôi giờ có chạy đến thì cũng chưa chắc đã làm được gì. Chuyện đã tới nước này, ba người tôi, Tuyền béo và Lục Quân đều không hẹn mà gặp, cùng nghĩ tới gốc hoàng kim linh chi sinh trưởng ở trong ngôi cổ mộ sâu trong núi kia, nghe Đại Hổ và Nhị Hổ nói, đó chính là chí bảo có thể giúp người ta cải tử hoàn sinh, tiễu trừ bách độc, không biết chừng lại có thể cứu mạng được Tiêm Quả cùng hai người kia!

Ba người chúng tôi suy nghĩ một hồi, con hồ ly dẫn chúng ta vào trong cổ mộ bây giờ đã chết rồi, người chết thì như đèn tắt, hồ ly há chẳng phải cũng là thế sao? Trước mắt việc cứu người vẫn là quan trọng hơn, cùng lắm thì mang mấy con gà giấy vào đốt cho con hồ ly cho lòng đỡ phải vướng bận. Ba người sau khi đã quyết định chủ ý xong, vội vã thu thập đồ dùng các thứ cần thiết, chuẩn bị tiến vào núi tìm cổ mộ, lấy hoàng kim linh chi. Trăn Tử không chỉ là người lớn gan lớn mật, mà còn rất tò mò hiếu kỳ, cô nàng cứ đòi nằng nặc đi theo đến ngôi mộ trong Hắc Sơn Đầu kia, muốn nhìn qua một chút bức bích hoạ cửu vỹ hồ ly cùng gốc hoàng kim linh chi kì lạ xem hình dạng ra sao. Trăn Tử vốn là một thợ săn, nắm rõ khu vực Đại Hưng An Lĩnh này trong tay, từ Hắc Thuỷ Giang xuất phát tiến về phía trước tìm đến ngôi mộ nhà Liêu phải trèo qua ba núi bốn đèo, đường đi lọt thỏm trong rừng rậm, ngẩng đầu lên cũng không thấy ánh mặt trời đâu, nếu không có Trăn Tử dẫn đường thì chúng tôi xem chừng sẽ không dễ dàng vượt qua được. Hơn nữa từ nhỏ đã theo cha vào sâu trong rừng già săn thú bẫy chim, thân thủ hết sức bén nhạy, vạn nhất gặp phải nguy hiểm gì, Trăn Tử cũng có thể tự mình phòng vệ không thành vấn đề, thế là tôi bèn đồng ý cho cô nàng được gia nhập đội chúng tôi. Bởi vì hầu như mọi người trong thôn đều đã lên núi tham gia đợt săn thú đầu năm, chó săn cùng súng chim cơ hồ đều bị mang đi hết sạch, trong rừng sâu núi thẳm có nhiều độc trùng mãnh thú thường xuyên qua lại, vạn nhất mà gặp phải gấu đen gấu chó sẽ không dễ gì mà đối phó, cho nên ít nhiều vẫn phải dắt theo vài món đồ để mà phòng thân.

Thời kỳ quân Nhật còn chiếm đóng Trung Quốc, bọn chúng liền cho xây dựng một doanh trại đóng quân cùng một phi trường nhỏ sâu trong núi. Sau này nhân lúc hồng quân Liên Xô kéo sang càn quét, đánh tan phát xít Nhật cút trở về nước, lão hương nơi đây bèn thừa dịp hỗn loạn mà cướp lấy kha khá đồ của đám quân Nhật, coi như bảo bối đem giấu kỹ vào trong hầm trú ần. Trăn Tử chẳng tiếc gì cả, chui vào trong hầm đào lên một chiếc rương đã cũ của cha nàng, tìm được cho chúng tôi mấy bộ quân tư trang cùng vài món đồ cần thiết. Mỗi người đầu đội một chiếc mũ quân dụng làm từ da chống va đập của quân đội chính quy Quan Đông, chân đi một đôi giày lính lót bông to sụ, bốn người vũ trang đầy đủ lên người, lại đeo thêm một chiếc thắt lưng da, trước ngực không quên mang huy hiệu “Thanh niên tri thức”, trên lưng khoác theo một chiếc balo cùng với bi-đông đựng nước, tuy hơi chắp vá lung tung một tí, nhưng xem chừng cũng khá oai phong lẫm liệt đấy chứ! Trăn Tử mang theo cùng tên để phòng thân, tôi cùng Lục Quân mỗi người vác theo một cây đinh ba. Hiện tại trong thôn bây giờ ngay cả một cái cán súng bắn chim cũng chẳng có, chúng tôi đứa nào cũng lo lắng sẽ đụng phải gấu đen, giờ mà tay không tiến vào trong núi, cứ cảm thấy ghê ghê. Cuối cùng dưới sự xúi giục và năn nỉ của tôi và Tuyền béo, Trăn Tử đành phải đến nhà cậu Tư mượn lấy khẩu súng săn cũ cậu vẫn cất kỹ dưới đáy rương, cây súng chỉ có một nòng, bắn phát một, con mẹ nó chứ, thứ đồ chơi cổ lỗ sĩ này đáng ra nên vứt vào trong bảo tàng rồi mới phải! Đây là dạng súng được sửa đổi từ súng trường 22 thời kỳ chiến tranh Nga-Nhật, đã bị phủ bụi nhiều năm chưa từng lấy ra sử dụng lại, đạn dược chỉ còn đủ chừng cho mười phát bắn, phương ngôn vùng này gọi nó là “đồng pháo”. Nói cho cùng, có còn hơn không! Súng săn được giao cho Tuyền béo giữ, ngoài ra còn có một thanh chiến đao của quân Đông Quan thì tôi đeo ở trên lưng. Tôi lại đua cho Tuyền chiếc ngọc khuyết lấy được từ trên người cái xác khô trong cổ mộ đeo lên làm hộ thân vật.

Toà cổ mộ thời Liêu kia dù sao cũng đã sớm bị khoắng sạch, ngay cả một cái quan tài cũng chẳng thấy đâu, Tuyền bèo cảm thấy không cần đem theo Âm Dương ô, đinh đóng quan hay bát mực chu sa làm gì cho nó lỉnh kỉnh, có khẩu súng săn này trong tay cộng thêm chiếc xẻng công binh đã là quá đủ để phòng thân rồi, chỉ đem chiếc ngọc khuyết tôi đưa cất vào trong ngực. Bốn người đem balo chia nhau ra mang mấy món “lương khô, mồi lửa, dây thừng, đèn bão, xẻng công binh”, mỗi người còn quấn theo một bộ áo da hươu bên ngoài, chỉ có duy nhất một chiếc đèn pin cũng mang theo nốt, từ Hắc Thuỷ Giang bắt đầu xuất phát tiến vào dãy Đại Hưng An Lĩnh trập trùng rừng núi rậm rạp, đi tìm hoàng kim linh chi bên trong toà cổ mộ bị quên lãng.

Trong rừng sâu núi thẳm, thứ nhất là không có lấy một bóng người, thứ hai là ngay cả một con đường để đi cũng không thấy, trên mặt đất rụng đầy thành từng đống từng đống lá tùng già, thảm thực vật nơi đây phân bố rải rác theo từng tầng từng lớp khác nhau so với độ cao của mực nước biển, hoa dại cỏ bụi giăng đầy khắp núi, thứ duy nhất có thể bắt gặp chính là chim muông cùng thú vật. Đứng giữa cánh rừng rậm rạp này, dễ làm cho người ta sinh ra cảm giác mình là một con kiến nhỏ bé, đang lạc trong một không gian bao la bát ngát đại ngàn. Khắp nơi tùy ý đều có thể trông thấy những cây gỗ to khổng lồ đã mục nát cùng những ngọn cây xiêu vẹo đổ ập chắn ngang mặt đất, ngoài ra còn có tầng tầng lớp lớp cỏ cây cành lá héo úa đã được tích lũy qua không biết bao nhiêu năm tháng, thậm chí nhiều chỗ đã sớm bị mục rữa hoàn toàn, chỉ cần vô tình dẫm phải sẽ lập tức bị sa lầy, chỉ có cách là đi vòng qua mà thôi, một đường cứ phải lượn hết bên này lại tránh sang bên nọ, đừng nói là không có bản đồ nên đường đi mới khó khăn như thế, con mẹ nó chứ, kể cả có nó ở đây cũng đếch thể nào dùng được, hoàn toàn dựa vào Trăn Tử dẫn đường. Dọc đường ngoài việc phải đề phòng mãnh thú hung dữ lao ra tấn công, còn phải coi chừng các loài độc trùng cùng rắn rết, cái thứ đồ chơi chết tiệt ấy không phải càng lớn càng nguy hiểm giống mãnh thú, mà ngược lại. Truyền thuyết có kể lại rằng, trong cánh rừng rậm nguyên sinh này, có một loài rắn nhỏ dài còn chưa tới 1 tấc (Trans: 1 tấc u003d 10 cm), độc tính rất yếu, cũng không có răng nanh như các loài rắn khác, nhưng cái đáng sợ của nó chính là việc nó sẽ thừa dịp lúc con người ngủ say mà dùng lưỡi đưa vào hai lỗ mũi, hút lấy dịch não, trong nước bọt của nó có chứa một loại hoạt chất có thể gây tê liệt thần kinh trung ương, kể cả có bị hút sạch não cũng không biết gì, vĩnh viễn không tỉnh dậy được nữa, vì thế khi đi rừng cần phải thay phiên nhau nghỉ ngơi, tránh lơ là mất cảnh giác. Đoàn người chúng tôi vượt núi băng đèo, xuyên qua biển rừng mênh mông, đói thì hái trái cây rừng ăn, khát thì vục nước suối uống, hai ngày sau, cuối cùng cũng đã tới được Hắc Sơn Đầu.

Mấy người chúng tôi trèo lên một đỉnh núi cao, ngó nghiêng quan sát khắp bốn phía, vừa nhìn liền thấy một bên là cánh đồng hoang vu vô tận, một bên là quần sơn nguy nga tráng lệ, núi non cây cối trùng trùng điệp điệp tựa như sóng biển bồng bềnh. Tuyền béo và Lục Quân đều há hốc miệng vì sững sờ, chỉ nhớ là tòa cổ mộ kia nằm đâu đó trong một khe núi dưới kia, lúc từ trong mộ chui ra được bên ngoài chỉ thấy biển rừng hoàn toàn bị băng tuyết trắng xóa bao phủ, khác xa với hình ảnh trước mắt, lối vào chỉ là một cái đạo động được chuột đất đào ra. Chu vi của Hắc Sơn Đầu ít nhất cũng phải chừng vài chăm dặm, có biết bao khe núi rãnh đèo, mà cái nào cái nấy cứ na ná nhau rất khó để phân biệt, với tình hình này mà muốn tìm được lối vào cổ mộ thì thật chẳng khác gì mò kim đáy bể. Trăn Tử tuy là một tay thợ săn lành nghề lớn lên ở vùng Đại Hưng An Lĩnh này, chỉ có thể giúp chúng tôi đi tới Hắc Sơn Đầu, còn việc tìm vị trí cổ mộ các thứ thì hoàn toàn mù tịt, hai tên ăn hại kia cũng thế, đều thúc thủ vô sách (Trans: Bó tay, không có cách nào cả)!
Tôi không chỉ một hai lần hồi tưởng lại những gì mà chúng tôi đã trải qua ở ngôi cổ mộ ấy, thứ nhất là vì ngôi mộ này có rất nhiều điểm đáng nghi khó lý giải, thứ hai là tổ phụ tôi ngày trước cũng đã từng làm chuột đất, ngài còn bắt tôi phải ghi nhớ thật kỹ “Lượng Kim Thước”, đặc biệt là thuật tầm long trong đó, thuật ấy tóm gọn không ngoài tám chữ “Ngoại quan hình thế, nội phân âm dương”. Tầng lớp quyền quý thời cổ đại khi tiến hành mai táng chôn cất đều rất để ý, chú trọng đến hình thế âm dương, nói trắng ra chính là muốn tìm lấy một phong thủy bảo địa để mà hạ táng, phong thủy bảo địa phần lớn đều là ở trên long mạch. Bí thư “Lượng Kim Thước” có nói: “Thiên lý vi thế, bách lý vi hình, thế lai hình chỉ, tự thành âm dương”. Cái gọi là âm dương khí, chính là sinh khí tồn tại trong đất, cũng được gọi với tên khác là long khí, khí mà thăng thì sẽ thành mây, khí mà hàng thì sẽ làm mưa, cho nên mới có câu nói “Táng giả thừa sinh khí” (Trans: Chôn người phải lựa theo long khí, nơi khí phát thì đời sau giàu sang phú quý, nơi khí suy thì bần hàn nghèo túng). Tôi liền nhớ tới khẩu quyết của bí thuật phân kim định huyệt: “Tung đại khán tiểu, do cao đáo đê, tiên kiến thiên địa, tái vọng long mạch” (Trans: Quan sát từ cái lớn tới nhỏ nhỏ, từ cao đến thấp, trước quan sát trời đất, sau mới tìm long mạch), không thể chỉ nhìn chằm chằm vào một ngọn núi này được, thế là tôi bèn hướng mắt ra xa quan sát xung quanh, chỉ thấy trời đất mênh mông rộng lớn, từng đạo long khí kéo dài từ phía Đông tới, đó là chín dãy núi non trập trùng nối tiếp nhau, vây lấy ngọn Hắc Sơn Đầu này, tựa như đang quy tụ về phía Tây. Hình thế của Hắc Sơn Đầu vừa khoáng đạt lại vừa kín kẽ chính trực, khắp nơi bốn phía đều được che chở bảo hộ, giống như một cố bảo liên ngự xa của Hoàng Đế, trong âm dương phong thủy được xưng là “Cửu long đài ngọc liên” (Trans: Chín con rồng nâng ngọc liên, liên ở đây là chỉ một loại xe chuyên dụng dành cho vua), thậm chí còn được coi là tôn vương bảo địa.

Tôi mặc dù sớm đã thuộc làu làu bí thư “Lượng Kim Xích”, từng câu từng chữ trong đó nắm rõ như lòng bàn tay, nhưng cảm thấy chúng cũng chẳng có ích lợi gì lắm, cùng lắm trong giấc mơ có suy nghĩ một chút về chúng, mà nay nhìn ra hình thế “Cửu long đài ngọc liên” trước mắt, mới nhận ra thuật phân kim định huyệt nào phải chuyện đùa hay trò tà đạo, thật sự có thể thông qua những khẩu quyết trong đó đem từng ngọn núi lớn nhỏ ra nhìn thấu! Nếu đã nhìn thấu được hình thế thì việc tìm ra cổ mộ bị chôn sâu trong núi không còn là vấn đề gì to tát! Tôi chỉ vào một khe núi hình móng ngựa ở phía Bắc đang ngoảnh mặt về hướng Nam, nói với ba người kia: “Cửa vào tòa Liêu mộ kia chính là ở chỗ này!” Mấy người họ cứ tưởng trí nhớ của tôi quá tốt, nhớ được cả vị trí của đạo động, rối rít khen ngợi, tôi cũng kệ không giải thích gì cả, tránh cho sau này rượu vào lời ra người ta lại cho là tôi mê tín dị đoan, việc trước mắt vẫn nên là mau mau tiến vào cổ mộ hái lấy gốc hoàng kim linh chi kia!

Một nhóm bốn người chúng tôi trèo từ trên núi xuống, vạch đường tìm lối vượt qua từng tầng lá cây cỏ dại chặn trước mặt, quả nhiên thấy được đạo động. Trong đầu tôi lại chợt nhớ lại những gì đã xảy ra trước kia trong ngôi cổ mộ này, kẻ gian trộm mộ phơi thây trên đất, bích họa khổng lồ cửu vỹ hồ ly, mộ gạch tinh xảo cùng hoa văn trang trí bảo tương hoa, gốc hoàng kim linh chi sinh trưởng bên trong cổ mộ, cảnh con bái đáng sợ nhặt lấy điếu thuốc hút lấy hút để, tất cả hãy còn rành rành ngay trước mắt, nhưng lại thoáng như đã xa cách cả một đời người.

Theo như kế hoạch chúng tôi đã định ra lúc trước, chỉ cần không xảy ra chuyện gì ngoài ý muốn, một khi tìm được tòa Liêu mộ bên trong Hắc Sơn Đầu, sẽ lấy dây thừng thả vào, sau đó một, hai người sẽ bám dây mà leo xuống dưới, gỡ lấy gốc hoàng kim linh chi mọc ở trên tường, rồi lập tức quay trở lại Hắc Thủy Giang cứu mấy người kia. Khi tới được gần đạo động, thời gian không còn sớm. Tôi quyết định cắt cử Tuyền béo ở lại cửa hang để canh giữ, còn tôi sẽ mang Lục Quân cùng Trăn Tử leo xuống. Trăn Tử bèn hỏi làm sao lần trước chúng tôi lại có thể trèo lên trên thoát ra ngoài được vậy? Nhân lúc Lục Quân và Tuyền béo đi chuẩn bị dây để thả xuống, tôi miêu tả qua một lần cho Trăn Tử nghe về kết cấu của ngôi mộ, nắng đã sắp tắt, sắc trời tối dần, tôi liền mở đèn pin lên, mượn ánh sáng lôi ra quyển sổ, vẽ lên phương vị.

Ngôi mộ thời Liêu này tọa ở hướng Bắc nhưng lại ngoảnh mặt về hướng Nam, phân thành ba gian trước, giữa và sau, tương đương với tiền thất, trung thất và hậu thất, phía Nam thành tiền thất, phía Bắc làm hậu thất, giữa các gian của mộ đều có cửa động thông nhau, minh khí tùy táng được cất rải rác ở sáu phòng nhĩ thất, dựa hoàn toàn theo cách cục “một thông hai, hai thông ba”, đỉnh mộ cách mặt đất ước chừng 30 thước. Lúc ấy chúng tôi từ nông trường số 17 chui qua một khe hở trong địa câu, vượt qua động hồ ly, từ hướng Tây Nam tiến được vào trong trung thất của ngôi mộ này, thấy một xác chuột đất chết từ tận mấy chục năm trước nằm phủ bụi trên đất, lại nhìn xung quanh, trước sau trái phải mỗi bên có một đạo môn hình vòng cung, chia ra thành hai lối dẫn đến hai gian nhĩ thất, cùng lối trước lối sau của ngôi mộ.

Trong mộ thất lúc bấy giờ tối mò mò như hũ nút, chúng tôi chẳng thể nào phân biệt được đâu là Đông Tây Nam Bắc cả, chẳng còn cách nào nữa, đành đi theo dấu máu của hồ ly lưu lại trên cửa chui vào hậu thất. Hậu thất chính là mộ chính, ở trên bức tường phía cuối gian phòng là một bức bích họa cửu vỹ hồ ly khổng lồ, hai bên cũng có hai gian nhĩ thất, gốc hoàng kim linh chi mọc ngay ở phía trên bích họa kia. Chúng tôi vừa mới thấy nó, còn đang mải ngắm nghía thì đột nhiên phát hiện ra con bái trong bầy sói hoang kia chẳng biết đã đi theo vào từ lúc nào, hai bên liều mạng với nhau ngay trong mộ. Con bái đó bị chúng tôi lột mất một mảng da thịt lớn, vội vã quay đầu bỏ chạy vào trong đạo môn thông với trung thất, không nghĩ tới đạo môn lại bất ngờ sụp đổ, chôn sống nó ở dưới, đồng thời cũng chặn luôn lối dẫn tới gian phòng cũ. Mấy người bèn tìm kiếm thì thấy phía trên nhĩ thất ở hướng Tây có một đạo động mà tên chuột đất kia đã đào ra để chui xuống, nhờ có nó mà mọi người thoát được ra ngoài. Thủ đoạn đào đạo động của hắn hết sức cao minh, kỹ thuật nện đất cũng rất lợi hại, trải qua hàng mấy chục năm mà vẫn vững chắc chỉnh tề như cũ, không hề thấy có điểm nào xuống cấp cả. Vị trí đào vào nhằm ngay hướng chính Tây, đâm nghiêng hơi xiên chéo, thế đi không nhanh không chậm, như thế mới có thể bò ra bò vào dễ dàng không gặp trở ngại. Đạo động này không đào xuyên thẳng vào mộ chính, bởi vì hắn đã nhìn ra ngôi cổ mộ này bị đất đá chôn vùi, kết cấu không còn bền vững nữa, chỉ có đào như kia mới là phương án thích hợp nhất. Người này trên cổ có đeo một miếng ngọc khuyết, lại có bí thuật phân kim định huyệt trong tay, cho nên mới dám một mình tiến vào ngôi mộ này, tới hôm nay chưa chắc đã có ai có thể đạt tới được bản lĩnh của hắn.

Tôi đem mọi chuyện đã trải qua lần lượt kể ngắn gọn cho Trăn Tử nghe, dặn cô ấy khi vào bên trong chớ có đi lung tung bậy bạ, coi chừng ngôi mộ này sẽ sụp xuống chôn sống cả lũ. Huống chi bản thân ngôi mộ này có rất nhiều điều kỳ quái khó lý giải, cũng không biết lai lịch của chủ mộ ra sao. Năm đó tên chuột đất kia đào đạo động chui vào rõ ràng là từ phía Tây, nhưng lại chết ở trung thất, nguyên nhân cái chết xem ra cũng quá là kỳ quặc đi. Tôi đoán rằng hắn sau khi chui được vào trong này, thấy gốc hoàng kim linh chi quý giá kia thì lòng tham nổi lên, nhất định phải đem được ra ngoài, ai ngờ lại bị hồ ly mê hoặc, thành ra mới chết một cách oan uổng. Chúng tôi không cách nào có thể khẳng định chắc chắn xem liệu có còn con hồ ly nào ở trong này hay không, đầu tiên là chúng tôi không muốn đối địch với chúng, sau là quả thật hồ ly rất khó đối phó, giống như con hồ ly ngày trước đã dẫn chúng tôi vào đây vậy, mặc dù không giống trong truyền thuyết gì mà thành tinh thành ma, nhưng mà nó lại có thể nghĩ ra việc trộm củi để khiến chúng tôi chết rét, từ đó có thể thấy được trình độ giảo hoạt của chúng đã sớm vượt qua phạm vi hiểu biết của con người. Nghe tôi nhắc đến hồ ly, Trăn Tử từ trong túi móc ra một hòn đá hình tròn, màu xanh xám đưa cho tôi. Tôi cầm trong tay, vân vê quan sát, bên trên hòn đá khắc đầy mật văn, có chút sáng bóng, bèn hỏi cô ấy đây là thứ gì vậy? Trăn Tử đáp lúc còn ở trong thôn, có chạy qua tìm cậu Tư hỏi xin một cái “cẩu bảo”. Cẩu bảo chính là hòn sỏi sinh ra trong ruột của chó, đường kính phải gần một phân, hơn nữa hình dáng lại bất quy tắc, không cụ thể, viên cẩu bảo mà Trăn Tử đem tới tròn lẳn như quả trứng vịt, lại còn sáng bóng, hết sức hiếm thấy. Cẩu bảo cùng hoàng ngưu, ngọ bảo được gọi là “tam bảo”, có thể hàng phong, khai úc, giải độc, theo như truyền thuyết mê tín trong dân gian, vật này còn có thể hàng phục hồ yêu, cho dù có là hồ ly đã tu hành ngàn năm đi chăng nữa, thấy viên cẩu bảo này cũng phải thối lui ra ngoài trăm dặm!

Vừa nói xong, hai người kia cũng đã chuẩn bị ổn thoả chuyện dây rợ, một đầu dây được buộc chặt vào gốc cây to vững chắc, đầu còn lại thì ném vào trong đạo động. Tuyền béo tay cầm theo ngọn đuốc, súng săn đeo ở trên người, hùng dũng oai vệ, khí thế bừng bừng, đi tới hỏi tôi: “Mọi lần chẳng phải đều là để tôi xung phong đứng mũi chịu sào, đánh trận mở đầu sao? Hôm nay thế quái nào lại bắt ông đây canh cửa như chó vậy?”

Tôi nói với hắn: “Tôi đây là đang lo chuyện hoàng kim linh chi xuất hiện trong cổ mộ vừa mới bị truyền ra ngoài không lâu, sẽ có nhiều người đánh chủ ý tới nó. Từ lúc chúng ta vào trong núi tới giờ, tôi vẫn luôn có cảm giác như kiểu có người đang bám theo ở phía sau vậy, haiz, chỉ mong đều là do tôi suy nghĩ nhiều nên thế, bất quá không sợ vạn nhất chỉ sợ nhất vạn, chả nhẽ trong vạn dặm xung quanh này không có ít nhất một kẻ nào đó có ý đồ xấu sao? Vạn nhất có người triệt hạ đường lui của chúng ta, vậy phải làm thế nào? Tôi thấy trong mấy người, chỉ có cậu mới có khả năng một mình phụ trách được nhiệm vụ này, cho nên mới đặc biệt bố trí cậu ở ngoài canh cửa, bọn chúng tôi vào trong có như thế mới yên tâm hơn.”

Tuyền béo nghe tôi nói thế, lập tức trở nên hăng hái phấn khởi, nói: “Cậu Nhất đây quả là có mắt nhìn người đấy, Tuyền gia tôi mà đã ra tay thì các cô các cậu không phải lo gì hết! Cứ yên tâm mà vào trong mộ, nhớ cẩn thận tránh để hồ ly mê hoặc!” Mọi thứ đã sẵn sàng, tôi cầm ngọn đuốc cháy phừng phừng, đi trước mở đường, Trăn Tử và Lục Quân theo sát ngay phía sau, từng người lần lượt bám dây tụt xuống dưới mộ thất.

Lối vào đạo động được đào ngay trên nóc Tây nhĩ thất, từ trong động rơi xuống đất bùn cùng lá khô, đã sớm xếp thành hẳn một toà núi nhỏ. Chúng tôi lúc trước có ở trong mộ tránh bão mấy ngày, địa hình ngóc ngách nơi này đều nắm rõ như lòng bàn tay, chẳng qua là vừa qua tiết Kinh Trập, phải đề phòng trong mộ có rắn. Tôi xuống trước, rồi quay qua đỡ hai người kia, không gian trong mộ vẫn âm u lạnh lẽo như ngày nào. Tuy nói rằng thợ săn trong núi gan to mật lớn, thường xuyên đánh nhau với hổ, báo, thậm chí cả gấu đen, bất quá với tình hình hiện tại cũng phải nói lại, toà Liêu mộ này là chỗ để chôn cất người chết, người miền núi thì lại mê tín thôi rồi. Trăn Tử lòng hiếu kỳ tuy nặng nhưng cũng không át được nỗi sợ khi bước đi trong cổ mộ, cứ bám theo thật sát sau lưng tôi, cũng không dám thở mạnh, cứ rón ra rón rén. Căn nhĩ thất phía Tây chỉ toàn gạch đá với đất bùn vụn vỡ, cành khô lá khô rải thành đống, từng cỗ chướng khí ngai ngái mùi mục rữa bốc lên từng đợt, xộc thẳng vào lỗ mũi khiến đầu óc cứ ong hết cả lên. Ba người dè dặt bước từng bước về phía trước lục lọi, xuyên đạo môn hình vòng cung để tiến vào mộ chính. Chúng tôi khuơ khuơ ngọn đuốc trong tay soi khắp xung quanh, mộ chính từ lúc chúng tôi rời đi cho đến bây giờ vẫn giữ nguyên trạng như vậy, chỉ có bộ hài cốt hồ ly là bị đất đá sụp xuống che kín thôi, tôi trong lòng không khỏi có chút cảm thán. Lại ngẩng đầu nhìn một cái, phía trên bức bích hoạ cửu vỹ hồ ly phía cuối mộ thất, một gốc linh chi to như cái bát tô đang cắm rễ ở đấy, được ngọn đuốc chiếu vào liền toả ra kim quang rực rỡ, tựa hồ còn bắt mắt hơn cả lúc trước! Trăn Tử tròn mắt ngây ngô: “Thật sự trên đời có hoàng kim linh chi a! Các anh nói xem mấy đời thợ săn chúng tôi, trong cánh rừng này có mọc cây gì hay sống con gì đều đã từng thấy qua hết! Thật không ngờ trên bức bích hoạ này lại có thể mọc ra vàng, vàng lại còn có thể sinh trưởng ra được một gốc hoàng kim linh chi nữa chứ, không hiểu sao lại như vậy được?”

Tôi lắc đầu: “Đừng nói cô không biết, đến tôi còn chịu nữa là, hoàng kim linh chi đáng ra phải sinh trưởng ở nơi nào đó có điều kiện đặc biệt hơn chứ, sao có thể mọc được ở đây?” Hiểu biết của Trăn Tử đối với hình dáng kích thước của các loại linh chi trên núi rất rõ ràng, linh chi được phân chia theo sáu màu sắc, theo thứ tự lần lượt là đỏ, đen, xanh, trắng, vàng và cuối cùng là tím. Linh chi màu tím thường mọc trên các thân cây đã mục nát; linh chi màu đen thì hay mọc ở khe đá dựng đứng, vách nham thạch cheo leo; linh chi trắng còn được gọi là ngọc linh chi, là loại linh chi dễ bắt gặp thấy nhất; linh chi màu vàng tục xưng là kim linh chi, tuy nhiên đó chỉ là một cách gọi đơn thuần, nhìn qua thật sự chúng không phải màu vàng kim, mà là vàng đất; linh chi màu xanh trong dân gian gọi là long chi, mọc lên thành từng cụm sau mỗi đợt mưa bão; còn linh chi màu đỏ thì hay kêu huyết chi, đa số sinh trưởng trong các hang động cùng cốc. Trong ngôi mộ cổ thời Liêu này xuất hiện một gốc linh chi, lại có kim quang rực rỡ, thật khiến người ta phải ngoạc miệng khó tin!
Tôi đồng dạng cũng cảm thấy khó hiểu, nghe mấy lời của hai tên thợ săn đến từ Trường Bạch Sơn kia nói, tổ tiên bọn hắn trước làm Đả Quan Vi cho Hoàng Thượng, đã gặp qua không ít thứ tốt, căn cứ theo một số tài liệu ghi lại, hoàng kim linh chi thuộc vào hàng thiên địa chí bảo, chỉ sinh trưởng trên long mạch bảo địa, có thể cải tử hoàn sinh vô cùng kì dị, là tiên chi nghìn năm may ra mới gặp một lần. Tôi nghĩ nếu như đây là thật, thì cũng không thể nào mọc trên bức bích hoạ được, bích hoạ chỉ được làm từ bùn đất trộn thạch cao, làm sao có thể sinh trưởng ra được một gốc hoàng kim linh chi lớn như vậy? Bất quá mắt thấy là thật, không muốn tin thì cũng phải tin, nếu nói nghìn năm mới gặp một lần, hồ ly đến chết đều không nỡ ăn, mấy người thợ săn Ngạc Luân Xuân bản địa chưa từng thấy qua, vậy cũng không có gì là kỳ quái.

Lục Quân một mực lo cho an nguy của Tiêm Quả, thúc giục chúng tôi mau mau ra tay nhanh lẹ để còn trở về. Tôi đi nhìn thử xung quanh, trong mộ không có gì bất thường cả, lúc này đã bước tới phía dưới bức bích hoạ, ngẩng đầu lên, gốc hoàng kim mọc ngay phía bên trên, mỗi tội lại cao quá tầm với của tôi, cố nhảy lên cũng chưa chắc đã chạm tới được. Mộ cổ hai bên có trường minh đăng nhưng sớm đã tắt ngấm từ bao giờ, tôi bèn đem cây đuốc giao cho Trăn Tử, bảo cô ấy đi châm lại trường minh đăng lấy chút ánh sáng. Sau đó vẫy vẫy Lục Quân tới gần, tôi định giẫm lên vai hắn thì may ra mới vừa đủ cao để có thể lấy được gốc hoàng kim linh chi kia, Lục Quân vội vàng giãy nảy lên, xua xua tay bảo không được, hắn thể trạng gầy yếu, không chịu được sức nặng của tôi đâu, huống chi chân tôi còn đang đeo đôi “vó sắt Nhật quân” - danh xưng đạp thảo nguyên, vượt trường sơn lừng lẫy. Hắn đã nói như vậy, tôi không thể làm gì khác hơn đành bảo hắn đạp lên vai tôi. Không cần nhiều lời, Lục Quân thấy tôi chịu xuống nước, lập tức hiểu ý, đưa tay bám lên bức bích họa, hai chân giẫm lên hai đầu vai. Tôi từ từ nâng người lên, nâng hắn lên cao. Đào linh chi nhất định phải đào lấy cả gốc, phiến linh chi mặc dù mọc hướng lên trên, nhưng phần gốc vừa to vừa dài lại mọc uốn ra từ giữa khe đất trên đỉnh mộ. Lục Quân bảo Trăn Tử đưa cho cậu ta cây đinh ba, rồi ngẩng đầu lên, lấy đinh ba ra sức định đục nóc lấy gốc linh chi ra. Ai ngờ đỉnh mộ đã sớm xuống cấp nặng nề, kết cấu vô cùng yếu ớt, hắn càng đâm, vết nứt càng lớn, sâu trong vách đá vang lên tiếng “rào rào” vang dội, đất bùn cùng gạch mộ không ngừng rơi xuống ào ào. Tôi sợ Liêu mộ không chống được bao lâu, chẳng mấy sẽ sập xuống, đang định hô Lục Quân dừng tay thì hoàng kim linh chi đã rơi xuống theo cùng gạch đá. Tục truyền rằng không thể để linh chi chạm vào mặt đất, vì khi chạm phải tục khí sẽ làm nó bị ô uế, tổn hại đến giá trị. Lục Quân thấy thế vội vàng ném bỏ đinh ba, hai tay với ra, rốt cuộc cũng tóm gọn được gốc hoàng kim linh chi. Tôi kêu lên: “Hay lắm!” Ngay sau đó lùi về phía sau, đỡ Lục Quân xuống đất. Tôi và Trăn Tử bước đến, muốn nhìn gần một chút xem gốc hoàng kim linh chi này có gì đặc biệt, vừa đưa mắt lập tức lòng trắng trợn lên, đỉnh đầu “oanh” một tiếng, con mẹ nó chứ, trong tay Lục Quân làm quái có thứ gì!

Lục Quân rõ ràng đã đem được hoàng kim linh chi nắm gọn trong tay, nhưng khi hắn từ trên vai tôi nhảy xuống, nhìn vào tay mình, vẻ mặt cũng đầy hoảng sợ, chỉ trong nháy mắt thôi gốc linh chi vừa rơi vào tay hắn giờ đã hoá thành bụi đất, đồng thời toả ra một mùi tanh hôi nồng nặc. Dưới ánh đuốc lập loè cùng ánh nến lúc tôi lúc sáng, sắc mặt Lục Quân bỗng trắng bệch như tờ, trong nháy mắt lại từ trắng chuyển sang xanh, rồi lại từ xanh biến thành đen, hai tay cũng y hệt như vậy, ngay cả móng tay cũng trở nên đen bầm lại. Toàn thân hắn phát run, mồm miệng méo xệch không rõ là đang khóc hay đang cười nữa, thất khiếu chảy ra từng dòng máu đen. Tôi chứng kiến cảnh tượng như vậy, liền bị kinh hãi, định bước lên xem tình hình của hắn ra sao, bất ngờ Trăn Tử từ phía sau lôi ngược tôi lại, nhắc nhở: “Cẩn thận có độc đó!”

Tôi như bừng tỉnh sau cơn mê, cuối cùng đã hiểu ra, thứ đồ mọc trên bích hoạ kia, căn bản vốn không phải là hoàng kim linh chi gì hết, mấy chục năm trước tay chuột đất kia đào ra một cái đạo động hướng xuống Tây nhĩ thất, chính là đã đụng phải vào vật này, rồi mới chết ở gian trung thất phía Nam, chứ không phải là bị hồ ly mê hoặc đến chết. Còn con hồ ly đã dẫn chúng tôi vào trong này, trước khi chết không hề đụng tới gốc linh chi này, lại còn ngăn cản ý định hái xuống của chúng tôi, tất cả đều bởi vì nó biết vật này không thể ăn được! Tôi còn chưa kịp nghĩ xong, toàn thân Lục Quân đã đen bầm lại, trên mặt đầm đìa máu với máu, hắn dùng toàn bộ khí lực còn lại, hung hãn lao ngừoi thật mạnh vào bức bích hoạ. Cậu ta vốn là người nhát gan sợ chết, nhưng bây giờ thà tự tử, đâm uỳnh một cái rồi ngỏm luôn còn sung sướng hơn phải chịu đựng nỗi thống khổ như bây giờ. Nhưng vừa đâm vào tường, dùng sức tuy cũng mạnh, nhưng nhất lời lại không chết ngay, hắn lại ra sức dùng lực hơn nữa, đập đầu ầm ầm đến nỗi máu thịt cũng trở nên mơ hồ, miệng há to nhưng không thốt ra nổi một tiếng nào cả. Trong cổ mộ hết sức tĩnh lặng, chỉ có Lục Quân đang liên tục đập đầu vào tường, phát ra từng tiếng vang nặng nề và đầy quái dị.

Tôi và Lục Quân nghe được tiếng đập đầu hết lượt này đến lượt khác của hắn, rõ ràng còn kèm theo cả tiếng hộp sọ vỡ nát, hai người đều sợ hết hồn hết vía. Không đợi chúng tôi kịp phản ứng, Lục Quân đã tự dập đầu vào bức bích họa gần chục lần, một phát cuối liền ngã nhào ra đất, sau đó nằm im thin thít không nhúc nhích động đậy, không gian trong mộ lại trở về một mảnh tĩnh mịch vốn có. Trống ngực tôi đập “bình bịch” một cách điên cuồng, quay sang nhìn Trăn Tử, cô ấy hai mắt cũng đang mở to nhìn lại tôi, trong ánh mắt cũng chứa đầy sự kinh hoàng như tôi. Hết thảy mọi chuyện đều phát sinh quá nhanh, bây giờ tôi mới ý thức được điều gì vừa diễn ra —— Lục Quân đã chết! Cậu ta mặc dù vốn là người nhát gan yếu đuối, tố chất thân thể cũng chẳng có gì nổi trội, thế nhưng hồi còn ở nông trường số 17, gặp phải bão tuyết trăm năm mới gặp lớn như vậy, lại thêm bầy sói hoang dã hung dữ, cậu ta đều có thể kiên trì vượt qua, vậy mà giờ lại phải chết một cách không minh bạch như này. Đối với chúng tôi, cậu ấy không chỉ là chiến hữu, mà còn là anh em vào sinh ra tử cùng nhau, tôi chỉ biết trơ mắt nhìn cậu ấy cứ thế ra đi, chẳng thể giúp gì, giờ có muốn ra tay cũng không kịp nữa rồi. Nếu vừa rồi người đi lên hái hoàng kim linh chi là tôi, thì mọi chuyện sẽ ra sao? Vốn người đi lên phải là tôi, ai ngờ Lục Quân lại thay tôi nạp mạng! Mà gốc hoàng kim linh chi kia hóa ra lại là thứ không hề tồn tại, không chỉ có Lục Quân bỏ mạng oan uổng, mà sợ rằng mạng sống của Tiêm Quả cũng chẳng cứu vãn được nữa rồi! Tôi nhất thời không tài nào tiếp nhận được sự thật hiện tại, đồng thời cũng thầm thấy mình quá là may mắn, cảm thấy đáng ra Lục Quân không thể chết một cách lãng xẹt như vậy, vừa mới nãy còn cười cười nói nói, sờ sờ là một người sống, ấy thế mà chớp mắt một cái, đã thành người thiên cổ! Tôi theo bản năng tiến về phía trước hai bước, nhìn thấy trên bức bích họa bây giờ be bét toàn máu tươi với não tương, xác Lục Quân nằm bẹp trên đất, đầu nát toang.

Trăn Tử ở sau lưng tôi, giọng run run hỏi: “Anh ta… Anh ta thế nào… Thế nào…!” Tôi đang muốn lắc đầu bảo cậu ấy chết rồi, nào ngờ liền phát hiện cái xác Lục Quân khẽ động một chút! Tôi bị dọa suýt thì hồn phi phách tán, mặc dù trong thâm tâm vẫn mong hắn chưa chết, còn có thể cứu chữa, nhưng đầu hắn đã vỡ toang thế kia, não tương văng tung tóe trên tường, đã thành bộ dạng như này rồi sao sống lại được nữa chứ, nếu thế thì trên đời làm gì còn người chết nữa! Tôi cho rằng mình nhìn lầm, bèn quan sát kỹ hơn, liền thấy trên người Lục Quân rơi ra một bao thuốc lá. Lúc hắn ngã xuống đất, rơi ra một bao thuốc lá, vậy cũng không có gì là kỳ lạ lắm, nhưng đằng này bao thuốc kia lại là một bao “Chiến Đấu” loại đặc biệt, hộp vuông vỏ cứng, trên bao còn có hàng chữ nho nhỏ in “Theo sát lãnh tụ vĩ đại cùng vượt qua sóng to gió lớn tiến bước về phía trước!” Tôi liền cảm thấy kinh ngạc, phải biết rằng thời điểm lúc bấy giờ, một bộ da sói nguyên vẹn mới đổi được một bao thuốc lá hiệu Chiến Đấu, mấy thằng thanh niên tri thức lên thôn xuống ruộng tham gia sản xuất như chúng tôi ở Đại Hưng An Lĩnh, đào đâu ra được thuốc lá xịn như vậy cơ chứ. Thuốc lá hiệu Chiến Đấu cũng chia ra làm ba loại, một loại bọc giấy xanh, đầu tút trắng, trên thân điếu có hai chữ “Chiến Đấu”, thuộc hàng thuốc lá phổ thông, chúng tôi ngay cả loại này cũng không có khả năng với tới. Còn loại nữa thì giấy trắng, tút xanh, chỉ chuyên dành để cung cấp cho quân nhân trong các binh đoàn sử dụng, mỗi tháng lại xếp hàng một lần, mỗi người được một bao, không được phép phân phối ra bên ngoài. Còn một loại khác, chính là loại vừa rơi ra từ trên người Lục Quân, ngoài vỏ xanh tút trắng ra, trên thân còn có dòng chữ “Thuốc lá Chiến Đấu”, vỏ bao được làm đặc biệt, vuông vức cứng rắn, in khẩu hiệu “Theo sát lãnh tụ vĩ đại cùng vượt qua sóng to gió lớn tiến bước về phía trước!”, được xếp vào hàng thuốc lá đặc cấp, rất nhiều người quen miệng gọi đây là “Đặc cung thuốc lá”, trên thực tế không phải vậy, tuy nhiên muốn sở hữu thì cũng phải thông qua một số mối quan hệ cùng chút phí tổn thì mới được, tại sao trên người Lục Quân lại có nửa bao thuốc loại này cơ chứ?

Tôi cùng Tuyền béo, Lục Quân, ba người thời điểm còn ở binh đoàn cho tới tận bây giờ đều là đồng cam cộng khổ, dù chỉ là một điếu thuốc thôi, không phân tốt xấu, nhất định phải cả ba cùng chụm đầu hút, mỗi người hưởng sái một tí. Mọi người một đường thẳng tiến đi vào trong núi, trên người tên tiểu tử Lục Quân này lại mang theo một bao thuốc xịn như thế, tại sao một mực chỉ giữ khư khư không móc ra cho chúng tôi hút cùng? Là không nỡ chia cho hai thằng bọn tôi, hay là còn có nguyên nhân sâu xa nào khác? Tôi không khỏi nghĩ tới hai anh em Đại Hổ, Nhị Hổ, bọn chúng từng mang ra vô số đồ vật mê người để dụ chúng tôi nhận lời dẫn đường vào núi tìm hoàng kim linh chi, tôi cùng Tuyền bèo đều lắc đầu không đáp ứng. Nhưng mà chuyện xảy ra ở trong Liêu mộ này, nhân vật chính không chỉ có hai thằng tôi, mà còn có Lục Quân và Tiêm Quả, lẽ nào hai tên thợ săn ấy đã đi tìm Lục Quân bàn chuyện? Lục Quân thế mà lại đồng ý với lời dụ hoặc của chúng sao? Trong đầu vừa hiện lên ý nghĩ như vậy, tôi bèn nhặt bao thuốc lá lên nhìn một chút, trong lòng cảm xúc cứ lẫn lộn, đang lúc thất thần, chợt thấy âm phong ào ào, đèn đuốc trong mộ lập tức bị thổi tắt, mọi thứ trở nên tối mịt. Cái xác Lục Quân nằm trước bức bích hoạ cửu vỹ hồ ly, đột nhiên, ngồi dậy!

Lục Quân nằm trước bích hoạ bất ngờ tá thi hoàn hồn, cùng lúc đó, phía trên bức bích hoạ truyền đến từng đợt tiếng vang lạo xạo dày đặc, người nghe mà da đầu cứ tê hết cả đi. Tôi cùng Trăn Tử phát giác tình huống có gì đó không ổn, lập tức ngẩng đầu lên trên nhìn, chỉ thấy từ vết nứt toác trên đỉnh mộ bò ra một con rết khổng lồ dài phải hơn 6 thước, đầu vàng thân xanh, không biết đã ẩn núp ở chỗ đó từ bao giờ, trên lưng mọc ra chi chít vảy nấm lớn vảy nấm nhỏ, toàn thân óng ánh màu sắc, trong miệng chảy xuống từng giọt kim quang lấp lánh, ra chiều thèm muốn, nhắm thẳng đến xác Lục Quân hút lấy hút để. Tôi đứng ngay sát bức bích hoạ, chứng kiến rõ ràng mọi chuyện, lông mao liền dựng đứng. Thì ra toà Liêu mộ này nằm trên long mạch bảo địa, không chỉ có hồ ly ở Hắc Sơn Đầu chọn chỗ này làm nơi táng thân, mà còn có hẳn một con rết khổng lồ ẩn nấp ở đỉnh mộ, cũng muốn đem ngôi mộ trở thành hang ổ của mình, chỉ bất quá vết nứt quá hẹp, nó không thể nào chui lọt mình vào. Gốc hoàng kim linh chi mọc ra từ trên bức bích hoạ cửu vỹ hồ ly, lại chính là do cái đầu ánh vàng của con rết kết thành. Trong dân gian thường có nhắc tới năm loại kịch độc, lần lượt là: “Rết, bò cạp, rắn, cóc, thằn lằn”, rết được xếp vào hàng đầu tiên, từ đó có thể thấy độc tính của nó mạnh tới nhường nào. Lần trước chúng tôi vào trong cổ mộ để tránh bão tuyết bên ngoài, chính là lúc trời cực lạnh, nước đều đóng cứng thành băng, con rết này nằm ở trên đỉnh mộ bất động, cho nên chúng tôi mới không có phát giác ra điều gì bất thường. Mà vừa nãy Lục Quân trèo lên cầm đinh ba đâm đâm mấy cái, vừa vặn khiến cho vết nứt kia lan to ra, con rết kia ẩn nấp đã khá lâu, sớm đã đói mờ cả mắt, liền há mồm lao tới hút sạch não tương của hắn. Nước dãi của nó vừa nhỏ xuống, xương cốt da thịt lập tức phát ra từng tiếng xì xì, bốc lên khói trắng, trong nháy mắt biến thành một vũng máu tươi, cũng bị con rết kia hút sạch vào trong miệng. Tôi vừa giận vừa sợ, nhặt lên cây đinh ba dùng sức đâm thẳng vào cái đầu ánh vàng của nó. Con rết khổng lồ há miệng cắn lấy đinh ba, hai bên giằng co chưa được bao lâu, một cỗ quái lực nhấc bổng tôi dậy, toàn bộ thân thể bị ném thẳng ra sau, lưng tôi đụng trúng phải vách đá tường mộ, hai mắt nổ đom đóm, khí huyết sôi trào chỉ trực nôn oẹ ra ngoài.

Con rết kia đã bị bỏ đói khá lâu, bây giờ trông thấy người sống, liền quay đầu vẫy đuôi đuổi về phía tôi. Tôi vừa mới bị dính một kích trí mạng, toàn thân ê ẩm, nhất thời không đứng dậy nổi, đành thuận thế lăn hơn chục vòng ra đất. Nhưng con rết kia lại bò ở trên vách đá, thế tới quá nhanh, mắt thấy không thể tránh thoát, tôi thầm than một tiếng: “Thôi bỏ mẹ rồi! Không ngờ Hồ Bát Nhất ta một đời lừng lẫy, cuối cùng lại bỏ mạng ở chỗ này!” Đang lúc ngàn cân treo sợi tóc, Trăn Tử liền tháo xuống chiếc cung tên đeo trên lưng, xuất thủ nhanh như gió, một mũi tên găm thẳng vào đầu con rết. Thợ săn trong núi này thường mê tín chỉ sợ quỷ hồ ma quái, chứ độc trùng mãnh thú lại không hề kiêng kỵ. Khu vực Đại Hưng An Lĩnh này rắn rết trùng độc cũng ít khi thấy, bởi vì thời tiết khí hậu trên núi không phù hợp với chúng, nhưng nói thế cũng không phải ý bảo hoàn toàn không có, ở mấy khe núi sơn động ẩm ướt vẫn có thể bắt gặp. Tương truyền loài rết có ba điều đại kỵ, thứ nhất kỵ gà mái, nếu như có người nào bị rết cắn, chỉ cần đem một con gà mái tới, đặt mông nó lên miệng vết cắn, một giờ sau liền hết bệnh; thứ hai là kỵ cây ngải, thật ra không chỉ có mỗi rết, mà cả năm loài kịch độc đều kỵ ngải hết; thứ ba là kỵ cái đế giày, đếch cần phải nói nhiều, lấy đề giày đạp một cú thật mạnh, di di vài phát, đảm bảo nát bét! Trăn Tử đối với xà trùng mãnh thú trong rừng rất quen thuộc, ngày xưa người ta không hoàn toàn gọi là rết, mà phân ra gọi tên tuỳ theo kích thước lớn nhỏ, nhỏ thì kêu là “rết”, còn lớn hơn thì gọi là “kim đầu” hoặc “bách thối” (Trans: Tức là “đầu vàng” và “trăm chân”), loại này có tới hơn trăm cặp chân lận, rất khó để đối phó. Cô ấy thấy con “kim đầu” này dài không dưới 6 thước, miệng nhỏ từng đợt dãi ánh vàng thèm thuồng, liền biết ngay một khi bị nước dãi của nó rơi trúng người, hoặc là bị nó cắn cho một cái, liền sẽ bỏ mạng tại chỗ, chết không toàn thây, cho nên vừa nãy rút ra một mũi tên, liền ngắm thẳng vào đầu nó mà buông dây bắn phập tới. Thân thủ Trăn Tử nhạy bén linh hoạt, kỹ thuật bắn cung thượng thừa, liền sau mũi đầu tiên đã có ngay hai mũi nữa bay tới, một mũi ghim thẳng vào đầu con rết đang hối hả bò trên vách đá, còn lại hai mũi tên găm gọn vào lưng nó. Con rết “kim đầu” kia bị bắn trúng cả ba mũi tên vào người, liền nổi điên, bò loạn khắp nơi, chỉ chớp mắt một cái đã vòng qua được sau lưng Trăn Tử, nhe răng cắn tới!

Tôi vừa mới từ dưới đất gắng gượng bò dậy, thấy Trăn Tử không kịp xoay người, lập tức liều mình xông lên phía trước, nhưng cây đinh ba trong tay đã rơi từ nãy, giờ chỉ có tay không làm sao đối đầu với con rết khổng lồ kia được đây? Lúc này tới mới sực nhớ ra, sau lưng tôi có một cây trường đao do Trăn Tử mượn của cậu Tứ, đây là bảo đao mà cậu Tứ vẫn luôn giấu kỹ dưới đáy rương, bình thường đều không nỡ đem ra cho người khác nhìn thử, thật đúng là cậu coi trọng chúng tôi quá, lo lắng mấy đứa vào núi gặp phải nguy hiểm nên mới chịu cho mượn mang theo để phòng thân. Thật ra đây chẳng phải là bảo đao gì cả, trường đao của quân Quan Đông cơ bản chia làm hai loại, một loại là làm cho quân lính bình thường, một loại khác thì đặc biệt làm cho sỹ quan kỵ binh, cây trường đao này của cậu Tứ, chính là loại sau, theo như nhận xét khách quan mà nói, lưỡi dao hãy còn sắc bén lắm. Tôi rút cây trường đao ra khỏi vỏ, hai tay cầm chặt lấy cán đao, hướng thẳng đầu rết mà đâm tới, không ngờ lại bị nó ngoảnh đầu lại, ngoạc mồm ra cắn chặt lấy lưỡi đao, muốn đâm tới cũng không được, mà rút ra cũng chẳng xong. Nhưng như thế cũng đủ làm con rết bị phân tâm lộ ra sơ hở, Trăn Tử đã nhanh tay rút ra ba mũi tên khác, lắp cùng lúc cả ba mũi, trong khoảnh khắc đồng loạt ba mũi thần tiễn lao ra khỏi dây cung tựa như vũ bão, cắm “phập phập phập” ba tiếng đanh gọn vào đầu con rết. Nó bị liên tiếp ba mũi tên nữa ghim vào đầu, không tránh khỏi đau đớn, co rúm người lại. Tôi lúc này liền rút cây đao ra khỏi miệng nó, nhân cơ hội chém tới tấp mấy chục nhát đao lên thân nó. Cây trường đao này rất thích hợp để đâm chém, hai tay ra sức vung lên vung xuống, con rết kia không kịp tránh né, tức thì bị phân thành hai nửa, đoạn thân dưới bò lung tung loạn xạ, đâm phải ngọn trường minh đăng đã tắt đổ cái uỳnh, càng bò càng chậm, rồi nằm im bất động. Mà nửa đoạn đầu trên bị dính mấy mũi tên, ấy thế mà vẫn chưa chết, nhe ra cặp răng sắc nhọn, phun ra một đạo kim quang thẳng về phía chúng tôi!

Con rết khổng lồ dài hơn 6 thước này, trên người mọc rất nhiều vảy nấm loang lổ sặc sỡ, nước dãi mà nó phun ra vừa rơi xuống đất lập tức đông lại như mỡ nến. Lục Quân và tên chuột đất ngoài kia, đều là đụng phải sắc nọc độc này mà bỏ mạng. Truyền thuyết nói rằng đây chính là rết độc cương thi sâu trong nơi rừng thiêng nước độc, người bị độc nấm của nó dính phải, nửa người sẽ hoá thành thực vật, không đem chặt bỏ đầu xuống thì dù có làm thế nào cũng sẽ không chết. Tôi thấy nó há miệng nhe răng phun ra một đạo kim quang, sợ không ngăn được độc tính của nó, nhưng lại không dám tránh, Trăn Tử hãy còn ở sau lưng tôi, giờ tôi mà trốn đi thì cô ấy sẽ bị đẩy lên hàng đầu. Trong lúc nguy cấp vừa hay mò được viên đá lúc trước Trăn Tử đưa cho tôi để phòng hồ ly, không còn thời gian mà nghĩ nữa rồi, có còn hơn không, thế là liền vung tay lên hướng về phía đầu con rết ra sức ném tới, không lệch một phân nào, rơi thẳng vào trong miệng nó. Cẩu bảo là do dương khí kết tinh, mà con rết cương thi kia lại là vật chí âm, nó vừa há miệng vừa vặn nuốt trọn lấy viên đá, lập tức đem đạo kim quang kia nuốt ngược trở lại. Con rết lăn lộn mất vòng, lại định bò lên tường, nhưng chưa được mấy đã lăn đùng ra co giật giãy giụa trên mặt đất, tôi không thể làm gì khác hơn là kéo Trăn Tử chạy ra ngoài, hai người tổng cộng là bốn cái chân, làm sao có thể chạy nhanh hơn trăm cái chân của con rết kia chứ, chớ nên chậm trễ!

Mời các bạn đón đọc chương tiếp theo “Sư Tử Hiến Bảo” đăng tại page Hội những người nghiện truyện của Thiên Hạ Bá Xướng
 

Lười Biếng Vô Tận

Thanh Phong 37
Tham gia
5/4/19
Bài viết
21
Điểm cảm xúc
67
Điểm
13
Dịch: Đặng Nam

Ngay lúc ấy, hai người chúng tôi dường như đã dần mất hết hi vọng, chợt nghe tiếng súng từ đâu nổ “đoàng” đầy bất ngờ, trong mộ, bốn vách tường đồng loạt rung lên. Thì ra là Tuyền béo ngồi chờ ở bên trên đạo động lâu quá đâm ra có chút không yên tâm, đợi cả nửa ngày trời mà không thấy ai leo lên, lại nhìn tình hình xung quanh không có gì khác thường, nên bèn ngó đầu xuống xem chúng tôi ở bên trong mộ có gì nguy hiểm không, đúng lúc ấy thì phát hiện thấy con rết khổng lồ kia đang bò trên vách đá. Cây súng trên tay hắn đã khá cũ kỹ, chẳng phải loại xịn sò như bây giờ, là loại súng trường kiểu 56 được quân Quan Đông sử dụng, sau rơi vào tay người dân vùng Đông Bắc cải tiến lại thành súng đi săn, chỉ có thể bắn một phát rồi lại nạp đạn mới bắn được tiếp, nhưng uy lực đã được tăng cường đáng kể so với kiểu cũ, một phát súng vừa được bắn ra, lập tức ghim thẳng vào đầu con rết, để lại một cái lỗ máu thịt bầy hầy. Ai ngờ một phát súng đấy còn chưa đủ để giết chết nó, chỉ khiến con rết rơi xuống phía dưới bức bích họa cửu vỹ hồ ly. Đỉnh mộ sụp đổ cũng khiến cho trên bích họa xuất hiện chằng chịt những vết nứt rạn, con rết cương thi vội vàng bám vào bích họa bò lên đỉnh mộ, dưới những cái móng chân sắc nhọn của nó, một cái đạo động được đào ra, từng miếng từng miếng thạch cao bụi mù trắng xóa bị cạo tung, rơi rào rào xuống đất, một thứ âm thanh quái dị từ trong tường truyền ra, theo sau đó là một làn hỏa cầu lớn bất ngờ phun tới, đem con rết này bọc ở chính giữa, chúng tôi thấy từ trong bích họa phun ra một đoàn quỷ hỏa thì vội vàng cúi gập người sát mặt đất, không dám ngẩng đầu. Ngọn lửa rực rỡ tỏa ra một thứ ánh sáng xanh u ám làm cho người ta không mở nổi mắt, không chỉ không cảm giác thấy hơi nóng của lửa, mà ngược lại là cảm giác lạnh lẽo rùng mình, con rết cương thi kia chỉ trong nháy mắt đã bị đốt thành tro thành bụi. Quỷ hỏa phun ra từ trong bích họa đến cũng nhanh mà đi cũng nhanh, đảo mắt đã không thấy đâu nữa rồi. Trong lòng chúng tôi vừa run rẩy vừa sợ hãi, lồm cồm bò dậy từ dưới đất, mới vừa rồi may mà nhanh nhẹn tránh kịp, không thì giờ cả ba đứa chắc đã bị thiêu chết cùng con rết kia mất rồi. Đống ban nấm trên người con rết bị lửa nướng chín, tỏa ra một mùi hôi tanh ngập tràn khắp không khí. Ba người chúng tôi ngửi được mùi hôi thối này, đều thi nhau ho sặc sụa, nôn khan mấy lần, hai mắt cay xè dính chặt lại, nước mắt dàn dụa, cuối cùng không nhịn được nữa, đồng loạt há miệng nôn mửa một trận, xong xuôi đâu đấy mới từ từ dựa lưng vào tường ngồi xuống, mãi lúc sau mới nói được nên lời.

Tuyền béo quay qua hỏi tôi cùng Trăn Tử: “Sao lại có một con rết khổng lồ bò vào trong mộ thế này? Hai người không làm sao đấy chứ? Đã lấy được gốc hoàng kim linh chi kia chưa vậy? Tên tiểu tử Lục Quân chạy đi đâu mất rồi?” Hắn hỏi một hơi cả đống câu hỏi, khiến cho tôi không kịp trả lời, mà quả thật bây giờ tôi cũng không biết mở miệng trả lời hắn thế nào đây? Trăn Tử mau mồm mau miệng, liền nói cho Tuyền béo nghe qua một lượt những gì hai đứa tôi vừa mới trải qua. Tuyền béo nghe xong cũng cảm thấy đầu óc choáng váng, chuyện này phát sinh quá bất ngờ, hắn vẫn chưa thể nào tin được là Lục Quân đã chết, hơn nữa ngay cả một mẩu xương cũng không để lại.

Tôi móc ra nửa bao thuốc lá hiệu “Chiến Đấu” rơi ra từ trên người Lục Quân, đưa qua cho Tuyền béo nhìn. Vừa thấy, cậu ta liền ngẩn người ra: “Thuốc lá Chiến Đấu loại đặc biệt? Cậu lấy ở đâu đấy?” Tôi liền nói cho cậu ta biết nửa bao thuốc này lúc đầu được Lục Quân giấu ở trong người, sau lúc hắn ngã xuống thì liền bị rơi ra, e rằng nửa bao thuốc này… có vấn đề không nhỏ a!

Tuyền béo dĩ nhiên biết lời này của tôi là có ý gì, thuốc lá hiệu Chiến Đấu, lại còn là loại đặc cấp, không phải là thứ mà một bọn thanh niên tri thức bọn này có thể hút nổi, nhất định là do hai tên thợ săn kia đưa cho Lục Quân. Lục Quân từng là bạn học thân thiết của chúng tôi, chiến hữu cùng kề vai sát cánh bên nhau, bằng vào những hiểu biết của tôi và Tuyền béo về hắn, đừng xem tiểu tử này tuy lá gan không được lớn lắm, toàn đưa ra chủ ý vớ vẩn, nhưng lại sống vô cùng nghĩa khí, tuyệt không phải là loại ăn cây táo rào cây sung, có lẽ nhất thời muốn tham chút tiện nghi nhỏ, mới để cho hai tên thợ săn không rõ lai lịch kia dùng làm phát súng mở đường. Chỉ dựa vào một mình bản thân Lục Quân, bất luận thế nào cũng sẽ không thể tìm được lối vào tòa cổ mộ bị chôn sâu trong Hắc Sơn Đầu này, cho nên nghe theo lời xúi giục của bọn chúng, lần mò chạy tới thượng nguồn Hắc Thủy Giang kiếm tôi cùng Tuyền béo. Nói như vậy, Tiêm Quả có hay không bị rắn độc trên núi cắn? Nếu không đi thử một chuyến xuống hạ nguồn e rằng sẽ không biết được tình hình thực sự ra sao, nhưng ít nhiều thì cũng còn có chút hi vọng. Nếu như Lục Quân thật bị hai tên thợ săn đem ra làm phát súng mở đường, bọn chúng nhất định là đang bám theo ngay phía sau lưng chúng tôi. Tuyền béo nổi nóng nói: “Hai thằng thợ săn bỏ mẹ kia rõ ràng là đang trêu đùa chúng ta mà, còn khiến cho Lục Quân phải bỏ mạng oan uổng. Con mẹ nó chứ, bọn chúng mà không đến tìm tôi, thì tôi cũng phải đi tìm bọn chúng mà tính sổ! Cậu sợ thì sợ chứ Tuyền gia đây đếch thèm sợ mấy thằng ếch nhái tép riu đấy. Lão tử sẽ đái một bãi dìm chết con cụ bọn nó!”

Tôi vỗ vỗ vai Tuyền béo ý bảo chớ có nóng vội: “Hãy bình tĩnh đã, lại nghe tôi nói đây này. Tôi cảm thấy Đại Hổ và Nhị Hổ, bọn chúng căn bản không phải là nhắm tới gốc hoàng kim linh chi kia, nếu không thì lúc chúng ta vừa mới tìm được cửa mộ, bọn chúng đã sớm xông ra hạ thủ, cậu thấy đúng không?.”

Tuyền béo ngó nghiêng quan sát khắp một lượt: “Trong mộ mọi thứ vẫn thế mà có quái gì nữa đâu nhỉ? Bọn chúng còn muốn thứ gì chứ?”

Trong đầu tôi chợt xẹt ngang một dòng suy nghĩ, bèn hỏi cả hai người kia: “Hai người nói xem, tại sao hồ ly trên Hắc Sơn Đầu trước khi chết đều chạy tới nơi này? Con rết trên đỉnh mộ tại sao cũng cố tìm cách chui vào?”

Tuyền béo cùng Trăn Tử đầu óc mơ hồ, hỏi ngược lại tôi: “Lúc trước chẳng phải chính cậu nói ngôi mộ này được xây trên long mạch sao? Cái gì mà phong thủy với chẳng bảo địa ý?”

Tôi đáp: “Âm dương phong thủy bí thuật, mười phần trong đấy thì hơn chín phần là cố làm ra vẻ huyền bí, huống chi long mạch các thứ đều là do con người nghĩ ra rồi tự nói với nhau, chẳng lẽ hồ ly cũng có thể nhìn ra được âm dương phong thủy sao? Tôi phỏng chừng trong ngôi mộ này có cất giấu một thứ đồ vật được liệt vào hàng chí bảo, thứ này được đưa tới từ tít trong vùng rừng sâu núi thẳm.”

Trăn Tử tò mò: “Vậy rốt cuộc nó là thứ gì vậy?”

Tôi trầm ngâm nói: “Rất khó có thể nói rõ đấy là thứ đồ vật gì, tôi chẳng qua chỉ là phỏng đoán lung tung dựa trên trực giác mà thôi…”

Tuyền béo chen vào: “Vừa nãy mới chẳng phải có một đoàn quỷ hỏa phun ra từ trong bức bích họa sao? Bên trong liệu có phải có thứ đồ chơi gì hay ho không nhỉ?”

Tuyền béo vừa nói vừa bước tới gần, lấy tay cào bớt gạch bụi ra khỏi khe nứt trên bích họa, ghé mắt nhìn thử vào bên trong, thì ra bức bích họa trong tòa Liêu mộ này là được vẽ trên một dãy tường gạch, phía sau bức tường gạch lại có một dãy tường khác được nối liền với đỉnh mộ, cùng bức tường bích họa cách nhau ba thước, bên trong tràn ngập một thứ mùi rất khó chịu. Tuyền béo thấy bên trong không có đoàn quỷ hỏa lúc trước, lập tức giơ đen pin lên chiếu sáng, súng săn khoác ở trên lưng chui vào nhìn rốt cuộc trong đấy có thứ gì. Tôi và Trăn Tử đến bên đống tro còn sót lại sau khi bị thiêu rụi của con rết khổng lồ kia, tìm nhặt lấy lại viên đá cẩu bảo, rồi vội vàng đi vào theo sau Tuyền béo.

Ba người chúng tôi tự sốc lại tinh thần của bản thân, nói không chừng phía sau bức bích họa lại có thứ đồ vật gì đó đáng giá thì sao, tuyệt không thể để rơi vào tay hai tên thợ săn bất minh kia. Chúng ta trước cứ tới nhìn qua xem đấy là thứ đồ chơi gì, mà cũng đếch cần quản đấy là cái quái gì, chung quy đều là sản phẩm của bọn giai cấp phong kiến thống trị bóc lột từ xương từ máu của nhân dân, không bằng cứ móc ra, rồi chia cho lão hương thôn dân mỗi người một phần. Tôi cùng Tuyền béo đến Hắc Thủy Giang này tham gia sản xuất, được bà con trong thôn chăm sóc chiếu cố không ít, đang buồn rầu vì không có gì để báo đáp họ, giờ vừa vặn lại xuất hiện cơ hội hiếm có như này, nhất định phải nắm lấy. Nhưng ba người chúng tôi phồng mồm trợn má cả nửa ngày ở phía sau bức bích họa cửa vỹ hồ ly mà cũng chẳng phát hiện thấy thứ gì khác lạ, cùng lắm là chỉ thấy nơi này có rất nhiều cát mà thôi. Tôi đưa tay ra sờ tới sờ lui khối gạch mộ trên bức tường hình đỉnh tháp phía đối diện,đó là một khối gạch dài một xích rất vuông vắn chỉnh tề,vững chắc vô cùng,kể cả có dùng xẻng công binh mà ra sức chém lên cùng lắm cũng chỉ lưu lại được vài vết xước mờ mờ,hơn nữa khe hở giữa khối gạch khác nhau còn được bịt kín bằng một lớp đồng nung chảy, đến nước cũng không thể thấm qua nổi,rõ ràng đây chính là một toà “Phân Thuỷ Kim Cương Tháp”! Đa số cổ mộ có quy mô lớn ngày xưa vì để phòng ngừa mộ tặc cùng ẩm mốc xâm nhập, ở trước lối vào mộ đạo đều lấy rất nhiều gạch lớn mà dựng thành tháp tường kiên cố, đồng thời đổ nước đồng đã được nung nóng chảy bịt vào các khe hở,trên hẹp dưới rộng,phía đỉnh tháp vuốt thành chóp nhọn,chính gọi là “phân thuỷ kim cương tháp”,tựa như một tôn Bất Động Kim Cương thật sự vậy, có thể đem kẻ gian có ý định trộm mộ ngăn ở bên ngoài. Phía sau bức bích hoạ có giấu quỷ hoả, nếu như kẻ gian định đục xuyên qua đấy để đi vòng qua kim cương tháp, liền sẽ bị thiêu thành tro!

Nghĩ đến đây, đầu óc tôi liền quay mòng mòng, bình thường mọi ngày đều có Lục Quân đứng ra làm quân sư nghĩ kế cho tôi, tuy chỉ là loại quân sư đầu chó nhưng ít ra cũng giúp đầu óc tôi được thảnh thơi ít nhiều. Bất quá kể cả giờ hắn có còn sống đi chăng nữa, thì thủ đoạn thủ thuật cùng kiến thức về các loại cơ quan trong cổ mộ hắn cũng có biết cái quái gì đâu, thành ra bây giờ chỉ có thể tự mình dựa vào mình mà thôi. Tôi bảo Trăn Tử cùng Tuyền béo trước đừng lên tiếng gì hết, cứ để mặc tôi một mình cẩn thận suy nghĩ một chút xem sao. Theo nguyên tắc, “phân thủy kim cương tháp” đáng ra phải được thiết kế ở ngay cửa vào mộ đạo, tại sao trong ngôi Liêu mộ này nó lại ẩn phía sau bức bích họa? Có lẽ nào kích thước của ngôi mộ này còn lớn hơn so với tôi nghĩ rất nhiều lần? Ba đạo môn chôn ở các khe núi kia, đơn giản chỉ là lối dẫn vào mộ giả, cho nên bên trong mới không có bất kỳ quan quách hay đồ bồi táng nào cả. Chẳng lẽ tòa đại mộ thời Liêu này lại học theo quy cách của nhà Đường, xẻ núi làm lăng, phía sau kim cương tháp kia mới là mộ đạo thật sự? Huyền cung nằm tít trong chỗ sâu nơi bụng núi, thứ đồ mà hai tên thợ săn kia muốn đoạt được, có phải hay không cũng đang ở ngay phía sau kim cương tháp kia?

Tôi đem ý nghĩ này nói qua với Tuyền béo và Trăn Tử, hai người họ nghe xong cũng cho rằng khả năng đó là rất cao, đồng thời càng cảm thấy tò mò hơn, rốt cuộc lai lịch của vị chủ mộ này là như thế nào? Liệu thật có phải là một con cửu vỹ hồ ly không? Không biết có thứ kỳ trân dị bảo gì sẽ được chôn theo trong địa cung đây? Bao nhiêu câu hỏi cứ lởn vởn trong đầu mà không có lời giải đáp khiến ai cũng cảm thấy khó chịu, tuy rằng chúng tôi rất muốn đi tìm kiếm kết quả cuối cùng, nhưng mà kim cương tháp phía trước mặt lại cứ như một tôn Bất Động Kim Cương vậy, tuy chỉ có một tầng gạch lớn bên ngoài thôi, nhưng kể cả có cho nổ thuốc cũng sẽ không mảy may lay chuyển, nếu thật là đại mộ kiểu như lăng tẩm của Hoàng Đế lão gia tử, kích thước nhất định phải lớn đến kinh người, kim cương tháp tuyệt không chỉ được dựng bằng một tầng mộ gạch như này đâu, mà ít nhất phải cỡ bảy, tám tầng, thậm chí nhiều hơn nữa lên đến cả con số chín. Ba người chúng tôi tổng cộng chỉ có một cái bồ cào, một cây súng săn kiểu cũ, một thanh quân đao, cùng với một chiếc xẻng công binh mẻ, làm sao có thể lay chuyển được kim cương tháp cơ chứ?

Kim cương tháp trong tòa Liêu mộ này là do hàng trăm, hàng nghìn khối gạch vuông vức chắc chắn chồng lên nhau mà thành, khe hở giữa các khối lại được đổ một lớp thép nung nóng chảy để gắn kết lại, nếu nói đây là một tòa núi vô cùng kiên cố cũng chẳng có gì quá đáng cả. Kim cương tháp đem đạo môn dẫn vào mộ chính ngăn lại một cách kín kẽ, đến con kiến cũng không chui lọt, chỉ dựa vào ba người chúng tôi muốn phá hủy được nó, thật chẳng khác nào châu chấu đá xe cả. Mặc dù bản thân biết rõ là ngay phía sau bức tường kia thôi, chính là quan quách đặt thi thể của chủ nhân ngôi mộ này, kỳ trân dị bảo chắc chắn sẽ phải chất đống như núi, nhưng địa cung nơi ấy lại hoàn toàn bị kim cương tháp ngăn trở, không có cách nào để có thể đi vào bên trong tìm kiếm câu trả lời được, thật cảm thấy bất lực.

Ba người đối mặt với tòa kim cương tháp vừa dày vừa nặng, lại vô cùng kiên cố vững chắc này, hoàn toàn là bó tay chịu chết. Thế nhưng Tuyền béo và Trăn Tử vẫn khư khư cái ý niệm muốn được nhìn xem bên trong địa cung có chôn theo thứ đồ gì hay ho đáng giá hay không, liền châm đèn bão giơ lên soi kỹ đến từng ngóc ngách xó xỉnh, dù sao trên kim cương tháp này không thể nào đến một khe hở cũng không có được. Nhưng chiếu đi chiếu lại mấy lần kim cương tháp, hết giơ lên lại hạ xuống, cuối cùng cũng chẳng tìm thấy một chỗ nào có thể lợi dụng được cả. Ánh mắt tôi nãy giờ vẫn một mực bám theo ngọn đèn bão trong tay Tuyền béo, lướt qua lướt lại từng viên gạch của kim cương tháp, trong bụng đang thầm nghĩ: Kim cương tháp bình thường được dựng lên ngay phía sau cửa mộ, dùng để phong bế lối vào đạo môn, dựa theo quy cách về mộ táng thời cổ đại mà nói, quan quách của chủ mộ sẽ thông qua mộ đạo mà được an trí ở trong địa cung, kim cương tháp cùng cửa mộ không thể nào bị bịt kín trước khi hạ táng, mà là sau khi quan quách được đưa vào địa cung thì mới lập tức khép lại, để tránh cho long khí trong mộ bị tản mất ra ngoài. Vì vậy kim cương tháp có thể sẽ lưu lại một lối đạo môn khác, đến khi quan quách đã được đặt yên vị trong địa cung, lúc này sẽ tiến hành rót nước đồng nóng chảy vào các khe hở giữa các khối gạch của kim cương tháp, dấu vết này có thể nhận ra một cách rõ ràng. Mà bức bích họa phía sau kim cương tháp lại là một khối thống nhất, kim cương tháp vừa dày vừa chắc tuyệt không thể nào có thể được hoàn thành trong một sớm một chiều được cả…. Tuyền béo thấy tôi ngẩn người, mới mở miệng khuyên nhủ: “Cậu sớm bỏ cái suy nghĩ vớ vẩn ý đi, đầu cậu có cứng hơn đi nữa thì cũng đếch húc đổ được cái tường bỏ mẹ này đâu, tôi cùng Trăn Tử không nỡ lòng nào thấy cậu lấy trứng chọi đá mà chết thảm!”

Tôi đáp: “Cậu thì biết cái mẹ gì, tôi đây là đang nghĩ nhiều khả năng hãy còn tồn tại một mật đạo nữa có thể dẫn tới địa cung nơi hạ táng quan quách.”
Tuyền béo nói: “Mới vừa rồi cậu còn nói kim cương tháp này là dùng để phong bế lối vào mộ đạo, quan quách không phải đều là từ mộ đạo mà đưa vào trong địa cung sao? Tại sao lại có một cái mật đạo quái gì ở đây?”

Tôi đành nói rõ cho cậu ta hiểu: “Người cổ đại rất là mê tín, hạ táng cũng tốt, khép kín mộ đạo cũng được, địa cung nhiều lắm chỉ được mở ra một khoảng thời gian mà thôi, không thể chờ đưa quan quách vào trong địa cung rồi mới xây dựng kim cương tháp được, nhất định trên kim cương tháp sẽ lưu lại một một đạo môn để có thể mang quan quách đi vào. Nếu như là từ nơi này tiến thẳng vào địa cung để hạ táng, trên kim cương tháp dùng để chặn đạo môn sẽ không có dấu vết được bị lại, cho nên rất có thể là còn có ít nhất một cái mật đạo.”

Trăn Tử chưa tin lắm, hỏi: “Ở trong núi lớn đào ra được một cái mộ đạo như vậy, cũng tốn không ít công sức tiền bạc, tại sao lại còn phải làm ra tận mấy cái nữa làm chi?”

Tôi đáp: “Đó là do chủ mộ lo sợ sau này sẽ bị bọn mộ tặc ghé thăm, đem bảo vật trong địa cung cướp đi sạch sẽ. Càng chôn theo nhiều trân bảo tùy táng, thì càng sợ có người chui vào trộm đi, trải qua nhiều thời đại, đạo lý này vẫn luôn tồn tại!”

Tuyền béo ủ rũ cúi đầu, chán nản nói: “Nhưng biết tìm ở đâu bây giờ? Có lẽ quan quách vốn căn bản không phải là từ trong gian mộ thất có bức bích họa kia mang vào!”

Tôi liền gạt phắt suy nghĩ này của Tuyền béo, quan quách chứa thi thể của chủ nhân ngôi mộ này nhất định là từ gian mộ thất kia mang vào trong địa cung. Tôi khẳng định như vậy tất nhiên là có lý do rồi, chính là xuất phát từ đống gỗ mục ở trong gian mộ thất bích họa hồ ly, bên trên những thân gỗ ấy có mọc ra rất nhiều gốc mộc nhĩ, năm 1968, chúng tôi vì trốn tránh sự tấn công của bầy sói cũng như bão tuyết mà phải trốn vào trong tòa Liêu mộ này, nhờ có những gốc mộc nhĩ ấy mới giúp chúng tôi có thể cầm cự được qua mấy ngày liền, nhặt được một cái mạng này trở về. Tại sao trong đấy lại có rất nhiều gỗ mục? Đổi lại là người ngoài chắc hẳn sẽ không thể nào nhìn ra được điều gì từ chúng cả, nhưng với tôi thì lại khác, tổ phụ của tôi trước kia trong xã hộ cũ vốn được xưng là âm dương tiên sinh, chuyên xem phong thủy, âm dương mộ trạch cho người ta, đồng thời cũng đã từng có thời gian làm mộ tặc chui qua chui lại không ít hầm mộ, nhiều lúc rảnh rỗi, người thường giảng cho tôi nghe qua một hai kiến thức về các loại đạo môn, cách cục bố trí bên trong cổ mộ,... Với kích thước và quy mô như này của tòa Liêu mộ Hắc Sơn Đầu, có thể khẳng định chắc chắn mộ chủ được khâm liệm vô cùng cầu kỳ, quan quách không hề nhỏ. Đối với quan quách lớn như vậy, không thể nào trực tiếp mang vào mộ đạo, còn nếu như để xuống dưới đất rồi đẩy vào trong, thứ nhất là rất dễ làm quan quách bị hư tổn, thứ hai là sẽ để lại dấu vết trên tầng mộ gạch, cho nên ở dưới tình huống bình thường, trong mộ sẽ sử dụng rất nhiều cây gỗ được vát tròn, sau đó đặt quan quách lên rồi mới từ từ dời xuống địa cung. Đống gỗ mục đặt ở trước bức bích họa cửu vỹ hồ ly, chính là được để lại sau khi quan quách đã được đưa vào trong địa cung thành công, như vậy thì lối vào mộ đạo thật sự nhất định là ở xung quanh đây! Tuyền béo nói: “Bảo sao trong gian mộ thất đó lại có nhiều gỗ mục như vậy, trước tôi còn tưởng thằng bỏ mẹ nào dở hơi đi mang mấy cái cọc gỗ này làm đồ tùy táng chôn theo, hóa ra chúng lại có công dụng như vậy. Tôi xem chừng cái đứa được chôn cất ở đây, cho dù có thật là một con cửu vỹ hồ ly đắc đạo thành tinh đi chăng nữa, thì cũng đếch có giảo hoạt được bằng cái loại tiểu tử nhà cậu!”

Có thể tưởng tượng được, quan quách của mộ chủ hết sức to lớn, cửa vào mộ đạo cũng sẽ không hề nhỏ, nghĩ tới nghĩ lui, chẳng có nơi nào thích hợp cả, chỉ có mỗi cách là đi qua kim cương tháp, nhưng vậy há chẳng phải rất kì quái sao, quan quách như thế nào mới có thể xuyên qua được kim cương tháp vững chắc như này chứ? Ba người chúng tôi chẳng biết phải làm gì tiếp theo cả, vô thức bước tới phía trước kim cương tháp. Bỗng nhiên, tôi cảm thấy hình như đôi giày lính khi dẫm lên trên lớp cát có phát ra một thứ tiếng vang gì đó, liền lập tức gập người cúi xuống, bốc lên một nắm cát, vân vê trong tay một hồi, rồi lại cúi xuống cắm thẳng tay vào trong tầng cát, chỉ thấy tầng cát dưới chân sâu không thấy đáy. Hai người kia cũng cảm thấy kỳ quái, Hắc Sơn Đầu đáng ra không thể có nhiều cát đến như vậy. Chúng tôi thay nhau dùng xẻng công binh đào xuống phía dưới chân kim cương tháp, rất nhanh liền đào ra được một cái sa động. Có thể thấy rằng trong mộ đạo vốn từ đầu đã có một tòa sa chướng, kim cương tháp được xây dựng phía trên sa chướng, trước khi tiến hành hạ táng đã cho người từ trong sa chướng đào ra một cái động, sau khi quan quách của chủ mộ đã được đưa vào trong địa cung, lúc này mới mở ra hai cái sa động, khiến cho lưu sa chảy đầy vào trong hai sa động này, kim cương tháp ngay sau đó liền được hạ xuống, ngăn kín lối vào mộ đạo. Kim cương tháp cùng sa chướng kết hợp với nhau, có thể nói là một cương một nhu, tất nhiên là không thể chê vào đâu được, nhưng mà bách mật nhất sơ (Trans: Có kín kẽ đến đâu đi chăng nữa, cũng sẽ có một số kẽ hở, sai lầm không ngờ tới), không để ý tới lúc kim cương tháp đang hạ xuống sẽ khiến cho lưu sa khó mà hoàn toàn có thể chảy kín vào trong sa động, bên dưới hãy còn hố cát sâu hơn một thước chưa được lấp đầy, nhưng lại bị kim cương tháp chặn lại, khiến cho lưu sa không thể chảy xuống được nữa. Tuyền béo trước giờ vẫn luôn là kẻ cậy mình lớn gan thích làm bậy, cậu ta thấy sau khi đã đào ra được cửa động vừa vặn có thể chui vào, liền lấy đèn bão treo lên trước đầu súng săn, xung phong đi trước mở đường. Tôi cùng Trăn Tử cũng theo sát ngay phía sau, chỉ thấy tòa kim cương tháp này có tận bảy lớp gạch dày kiên cố chứ không phải một lớp như bọn tôi vẫn tưởng, bên kia chính là một đoạn đường hầm, phía dưới dùng loại gạch có hoa văn bảo tương hoa lát thành lối đi, vách tường có những vết tích giống như đã từng bị đục đẽo qua, xem ra địa cung tòa Liêu mộ này chính là được tạc thẳng từ trong lòng núi mà thành. Tầm chiếu sáng của đèn bão chỉ có hạn, trong địa cung tuyền một màu đen nhánh, không gian tràn ngập một loại khí tức tử vong, vừa âm u lại vừa ngột ngạt, không khỏi khiến cho người ta rợn hết cả tóc gáy.

Tuyền béo lè lưỡi nói: “Tòa cổ mộ lớn như thế này, nhất định là dùng để chôn nắm xương khô của tên Hoàng Đế nào đấy!”

Tôi thì lại không cho rằng mộ chủ là một lão Hoàng Đế, hình thế âm dương nơi này chính là ứng với “Cửu long đài ngọc liên”, tuy là dùng để an táng bậc cửu ngũ chí tôn, thế nhưng trên mộ gạch lại dùng hoa văn bảo tương hoa để trang trí, theo như suy luận của tôi, nơi này là để an táng một vị nữ tử nào đó mới đúng!

Trăn Tử hỏi: “Nữ nhân cũng có thể trở thành Hoàng Đế sao?”

Tuyết béo liền vênh mặt giảng đạo: “Đương nhiên là có chứ, tỷ như lão nương Từ Hy Thái Hậu của chúng ta đó thôi!”

Tôi quay qua nói với Tuyền béo: “Từ Hy đâu có làm Hoàng Đế hả tên ngốc này? Được cái tuy bà ta không phải là Hoàng Đế, nhưng cấp bậc cùng quyền lực tuyệt đối không hề thấp hơn!”

Tuyền béo vẫn cố nói: “Nữ nhân mà có thể ngồi ngang hàng cùng với Hoàng Đế, thì chỉ có thể là vợ của Hoàng Đế thôi chứ, gọi là nương nương hay gì gì đó.”

Tôi nói cho cậu ta hay: “Thôi cậu đừng có đoán mò linh tinh nữa, tôi phỏng chừng tòa Liêu mộ này chính là dùng để chôn cất một vị Thái Hậu!” Lời kia vừa mới thốt ra khỏi miệng, Trăn Tử liền gật đầu liên tục tỏ ý đồng tình, quả thật trong núi trước giờ có rất nhiều truyền thuyết kể về một ngôi mộ Thái Hậu bí ẩn. Ví dụ như có một chuyện nói như này, thời Liêu có một vị Thái Hậu bị kẻ gian hãm hại, sau đó bị Hoàng Đế khoét mất cặp mắt, nhưng thế nào lại may mắn chạy thoát ra được khỏi thâm cung, cơ duyên xảo hợp liền được một con “Thần Hồ” cứu giúp, sau đó xây dựng lực lượng quay trở lại diệt trừ gian thần, đoạt lấy quyền binh, để cho con trai mình thừa kế ngôi vị Hoàng Đế. Lại có người nói rằng, Thái Hậu thật đã sớm bỏ mạng ở trong thâm cung, còn vị Thái Hậu xuất hiện sau này chính là do một con cửu vỹ hồ ly hóa thân thành, chẳng lẽ chúng ta thực sự đã chui vào đại mộ mai táng vị Thái Hậu nhà Liêu kia.

Trăn Tử từ bé đã từng nghe qua nhiều truyền thuyết mê tín quỷ dị về ngôi mộ Thái Hậu trong núi, quay sang hỏi tôi cùng Tuyền béo hay là trước tiên cứ quay trở lại thôn đã, sau đó gọi thêm người tới giúp một tay? Tuyền béo nói: “Ba người chúng ta đi một chuyến lại về một chuyến, rồi còn thêm người này người nọ, vậy phải trì hoãn đợi đến lúc nào đây? Đến lúc đấy rồi sợ rằng kỳ trân dị bảo trong mộ đã sớm bị những tên chuột đất khác vác đi sạch từ đời nào, đâu đến lượt chúng ta nữa? Chớ nên tự mình làm lỡ cơ hội!”

Tôi cũng đồng tình với ý này của Tuyền béo, Lục Quân bỏ mạng một cách bất ngờ không rõ ràng ở trong tòa Liêu mộ này, tôi và Tuyệt béo tuyệt sẽ không bỏ qua dễ dàng như thế, huống chi chúng ta chân trước chân sau vừa rời khỏi đây, lập tức sẽ có kẻ khác nhảy vào. Sao không đánh liều một lần tiến vào trong địa cung, thăm dò xem rốt cuộc tình hình trong đó là như thế nào? Tuyền béo là loại chuyên thích cầm đèn chạy trước ô tô, thấy tôi cũng có ý tán đồng với cậu ta, liền co cẳng vội vã đi về phía trước. Tôi lập tức gọi ngược cậu ta trở lại, chưa vào đến mộ chính mà đã gặp phải lưu sa, phục hỏa, rết cương thi khổng lồ, thì có quỷ mới biết bên trong địa cung còn có cạm bẫy đáng sợ như nào nữa? Tôi chỉ là dựa vào chút kiến thức học được từ “Lượng Kim Thước” cũng như các sự tích mà tổ phụ truyền lại, từ phương diện âm dương phong thủy mới nhìn được ra rằng tòa Liêu mộ này là một tòa đại mộ để chôn một vị Thái Hậu nào đó, còn các kiến thức khác thì tôi hoàn toàn không biết, nếu như không muốn bỏ mạng oan uổng ở đây thì chỉ có một cách duy nhất, đó là cẩn thận gấp đôi! Tôi để cho Tuyền béo đi sau cùng bọc hậu, còn mình thì đi ở phía trước mở đường, Trăn Tử kẹp giữa hai thằng tôi.

Tuyền béo lo rằng trong mộ đạo này không khéo vẫn còn con rết khổng lồ nào đó sót lại, liền nói với tôi và Trăn Tử: “Viên cẩu bảo kia quả là thứ đồ tốt đó nha, tác dụng trên cả tuyệt vời, nếu mà gặp phải con rết bỏ mẹ nào nữa á, cứ trực tiếp đút tọt vào mồm nó!” Quả thật tôi tới tận bây giờ trong lòng vẫn còn sợ hãi vì cuộc đối đầu với con rết kia, thật sự lúc ý tôi quá may mắn khi vô tình ném ra viên cẩu bảo hàng phục được nó, mặc dù tôi vẫn biết rằng vạn vật trên đời này đều là tương sinh tương khắc, bất kỳ vật nào cũng sẽ có một vật khác khắc chế được nó, nhưng lúc ấy lại không nghĩ rằng viên cẩu bảo này chính là khắc tinh của loài rết này!

Ba người chỉnh cường độ chiếu sáng của đèn bão lên mức cao nhất, dè dặt đi vào trong đường hầm dẫn tới địa cung. Tôi vừa bước từng bước cẩn thận về phía trước, vừa hồi tưởng lại những tin đồn truyền miệng, truyền thuyết mê tín đề cập đến vấn đề mộ phần, trộm mộ, đoạt bảo vật trong mộ mà trước kia tổ phụ đã từng kể qua. Nghe nói ở Đại Hưng An Lĩnh cũng như mấy vùng thảo nguyên phía Tây, có rải rác rất nhiều lăng tẩm đế vương thời kỳ nhà Liêu, nhưng phần lớn đã bị phá hủy nặng nề. Căn cứ theo sử sách ghi lại, năm đó quân Kim hạ gục, đánh chiếm được Đông Kinh Biện Lương, Tống Khâm Tông cùng Tống Huy Tống bị bắt làm tù binh, Tống Khâm Tông trong lúc bị đày đi lưu vong, từng thấy quân Kim tiến hành quật mả hoàng lăng nhà Liêu. Hắn chỉ dám lặng lẳng đứng từ phía xa mà quan sát, trông thấy một đám người ăn mặc giống hệt nhau, tuyền một bộ đồng phục quần tím áo tím từ đầu tới chân, đó chính là đám trộm mộ xuất thân Phát Khâu phái, bọn chúng từ trong lăng khiêng ra một chiếc quan tài lớn, đồng thời lấy sạch những thứ tùy táng chôn theo trong mộ. Bởi vì lúc ấy Tống Khâm Tông chỉ dám đứng quan sát từ một khoảng cách khá xa, cho nên cũng không thấy rõ bên trong mộ kia có thứ kỳ trân dị bảo gì hay không, thứ duy nhất có thể nhận ra là một chiếc bảo kính, tiên quang phát sáng chiếu xuyên thiên địa. Trong truyền thuyết từng có nhắc đến một thứ bảo kính như thế này, nghe nói nó có thể khiến cho phong vân biến sắc, dù sắc trời có quang đãng thế nào đi chăng nữa, chỉ cần bảo kính vừa ra, soi ngược lên thiên khung, lấy tay bắt quyết niệm chú, trong khoảng khắc mây đen sẽ ùn ùn kéo đến, thiên địa sa sầm, tiếp đó một trận mưa to như trút nước sẽ ập xuống. Thứ đồ tuỳ táng chôn theo trong toà Liêu mộ này, có khi nào cũng là một cái thiên địa bảo kính như kia?

Ngoài ra, xung quanh khu vực Hắc Thủy Giang từ trước đến nay cũng có không ít truyền thuyết liên quan tới mộ cổ thời Liêu, chúng tôi từng nghe các tay thợ săn già đời trong thôn kể rằng, nằm sâu trong những cánh rừng bạt ngàn kia có một ngôi cổ mộ, rộng hơn mười dặm, cao tự như núi. Năm đó có một đám thổ phỉ hồ tử không biết làm như nào lại tìm ra được vị trí của cửa mộ, chuẩn bị đi vào trong mò khoắng bảo vật, nào ngờ lại bị một bầy ong rừng bất ngờ tấn công, mười mấy người liền lập tức bỏ mạng ngay tại chỗ, đám người còn lại liền không còn gan nào mà vào nữa. Tương truyền rằng ngôi mộ này là nơi dùng để an táng một vị Thái Hậu nào đó nhà Liêu, bên trong giăng đầy cơ quan cạm bẫy, nguy hiểm luôn trực chờ sẵn. Những tin đồn kiểu như này nhiều vô kể, chuyên được mấy con mụ đồng cốt giả thần giả quỷ truyền ra. Ví dụ như trên núi có một người hái thuốc vô cùng nghèo khổ, ở nhà cùng bà sống nương tựa lẫn nhau qua ngày. Người này là một người cháu có hiếu, chẳng quản khó khăn nhọc nhằn, thà chịu đói chịu khát vẫn cố gắng băng núi vượt rừng, đổ biết bao mồ hôi nước mắt chỉ để lên núi hái thuốc đổi lấy chút tiền, tất cả đều đem biếu bà ăn quà, không giữ lấy một đồng. Có một lần nọ, trong lúc vô tình thế nào lại sẩy chân rơi xuống một cái sơn động, chỉ thấy trong lòng núi khắp nơi đều là lầu các đền đài nguy nga tráng lệ, người đi đường tấp nập qua lại, nhưng đều chỉ một mực cắm mặt xuống đất không nói lời nào, dáng vẻ vội vã gấp gáp, trang phục mặc trên người cũng đều là kiểu cách, hoa văn của thời kỳ trước, thì ra bọn họ tất cả đều là người chết năm xưa bị chôn sống trong mộ làm đồ bồi táng theo vị Thái Hậu kia. Sau khi rơi vào sơn động, người này bèn đi tới đi lui khắp nơi dò xét thử, cho đến khi mò được đến trước một toàn đại điện, ngẩng đầu lên liền thấy một lão thái thái mặt mũi xấu xí khó coi đang ngồi trên Phượng Liên, đầu đội Phượng Quan, bên cạnh lượn lờ lượn lờ từng làn châu quang bảo khí, mấy chục cung nữ nô nức trước sau hầu hạ, thật sự là uy phong quá đi! Hắn cứ ngỡ rằng mình đang gặp được thần linh, vội vàng quỳ xuống dập đầu bái lạy, thập phần cung kính, lão thái thái thấy hắn cũng là kẻ biết điều, hành động lại thành kính như vậy, liền hỏi xem hắn có tâm nguyện gì không, hắn thật thà đáp rằng mình chỉ có một tâm nguyện duy nhất bây giờ là nhanh chóng tìm được đường rời khỏi núi để còn về nhà chăm sóc người bà đã già của mình. Lão thái thái ấy vừa nghe thấy hắn nói thế thì biết ngay là một hiếu tử, thưởng cho hắn rất nhiều kim nguyên bảo, rồi bảo một cung nữ bên người trước dẫn đường cho hắn ra khỏi sơn động, sau hãy đi theo hầu hạ hắn. Sau khi trở về nhà, hắn liền cưới cung nữ này làm vợ, lại đem số kim nguyên bảo được thưởng kia mang ra mua bán này nọ, lập tức phát tài.

Cái loại truyền thuyết với nội dung na ná nhau kiểu một tên nghèo nào đấy rùa rùa thế nào trải qua một phen kỳ ngộ, vừa cưới được vợ xinh, vừa một chốc phát tài như này đến bây giờ thực sự là vẫn còn tồn tại khá nhiều. Nhưng không có lửa thì làm sao có khói? Có lẽ chính là bởi vì ở trong núi thật sự có một tòa cổ mộ mai táng một vị Thái Hậu như vậy, thế nên mới sinh ra nhiều loại truyền thuyết nhân quả báo ứng, thần linh hồ tiên như vậy. Trên thực tế, vạn biến không rời kỳ tông (Trans: Mọi thứ đều có nguyên tắc, quy cách nhất định), tòa Liêu mộ kia là bắt chước theo kiểu cách xây dựng lăng tẩm của nhà Đường, huyền cung được tạc thẳng trong lòng núi, bố trí không ngoài ba kiểu, trong “Lượng Kim Thước” chia ba kiểu bố trí mộ cung này tương ứng với ba chữ, thứ nhất là chữ “Giáp”, hai là chữ “Trung”, ba là chữ “Thập”. Nói đơn giản như này, chữ “Giáp” dùng kết cấu đơn mộ đạo, chữ “Trung” dùng kết cấu Nam Bắc song đối mộ đạo, còn chữ “Thập” thì dùng kết cấu bốn mộ đạo Đông Tây Nam Bắc kết hợp, tuy kết cấu khác nhau nhưng mộ đạo chính đều lấy Nam Bắc làm chủ hướng.
Vừa rồi chúng tôi từ phía dưới chân tường Kim Cương Tháp chui vào một cái mộ đạo gọi là “Khoáng đạo”, nằm đối diện với cửa vào huyền cung. Mộ đạo hơi nghiêng, chếch xuống phía dưới, ba người cẩn thận mò mẫm từng bước một về phía trước, ước chừng mới đi được hơn trăm bước, lần lượt vượt qua hai đoạn “Qua Động", mỗi một đoạn Qua Động đều có một đôi điện thờ được tạc từ đá, trái phải mỗi bên sừng sững một toà, trấn giữ bốn phương vị Đông Nam, Tây Nam, Đông Bắc, Tây Bắc. Điện thờ cao chừng hơn một trượng, đỉnh điện được làm phỏng theo thiết kế trong hoàng cung, phía bên ngoài lợp một lớp ngói úp kết hợp với nhau tạo thành các rãnh thoát nước, mặt phía trong thì dùng gạch đá xây thành khung lô đỉnh, bên trong đặt tượng thờ của bốn vị Thiên Vương, ngoài ra còn bố trí thêm khá nhiều cây nến Trường Minh Đăng. Bốn vị Thiên Vương bên trong bốn toà điện thờ toàn thân mặc một kiện Long Lân Y, Đông điện phía Nam thờ Tây phương Quảng Mục Thiên Vương tay nắm xà kích, Đông điện phía Bắc thờ Bắc phương Đa Văn Thiên Vương tay cầm lọng báu, Tây điện phía Nam thờ Nam phương Tăng Trưởng Thiên Vương tay giữ bảo kiếm, cuối cùng là Tây điện phía Bắc thờ Đông phương Trì Quốc Thiên Vương tay gảy tỳ bà. Tuyền bèo và Trăn Tử cùng trợn to cả hai mắt, cả hai người họ đều tỏ ra vô cùng lạ lẫm với những thứ trước mắt, cứ liên tục nhìn nghiêng ngó phải rồi hỏi tôi đây là cái gì, kia là thứ chi. Tôi chỉ biết rằng những thứ đồ xuất hiện trong mộ cổ này đều có một giá trị nhất định, tỷ như bốn loại pháp khí “Tỳ bà, xà kích, bảo kiếm, lọng báu" trong tay Tứ Đại Thiên Vương kia là để tượng trưng cho “Phong, Điệu, Vũ, Thuận", còn giải thích rõ ra như thế nào thì tôi cũng chịu thôi.

Ba người đi qua hai đoạn qua động, thấy ở giữa mộ đạo chỉ có duy nhất một toà khuyết môn, trên hai cánh cửa đá đều có khắc đồ hình “Hải Thú", trong miệng hải thú có ngậm vòng khoen cửa. Hải thú trong truyền thuyết thật ra chính là một trong chín đứa con của rồng, đứng hàng thứ Năm, tên thường gọi là Nghê, dũng mãnh vô địch, hổ báo cũng chỉ có nước làm thức ăn cho nó mà thôi, tuy thế nhưng nó lại là thú cưỡi của Văn Thù Bồ Tát. Ngoài ra xung quanh khuyết môn còn khắc rất nhiều đồ hình khác như “tỳ bà, bảo kính, trái cây, hương thắp, thiên y” tượng trưng cho năm loại ham muốn của nhân thế là “sắc, thanh, hương, vị, xúc", ý là “Vượt qua ham muốn, ắt đắc thành chính quả". Tất cả đồ hình được bao bởi một vòng phù điêu tròn trịa, lại dùng hai mươi tư cánh hoa trong Tam Đại Phật Hoa trang trí hết sức hoa lệ cầu kỳ. Chỉ riêng những phù điêu bên trên cánh cửa đá bên ngoài địa cung này đã đủ khiến chúng tôi xuýt xoa, thán phục mãi không thôi, ba người đều không kiềm chế được lòng hiếu kỳ, trợn mắt bặm môi dùng hết sức bình sinh đi tới phía trước đẩy mạnh cánh cửa đá, lập tức cánh cửa vang lên một thứ âm thanh trầm đục nặng nề, chầm chậm mở ra.

Cánh cửa đá này dày cỡ một gang tay, ba người chúng tôi cố gắng lắm mới miễn cưỡng đẩy ra được một khe hở đủ để lách người qua. Tôi cho rằng bên trong chắc chắn phải là chính điện địa cung nơi đặt quan tài của chủ mộ, liền sốc lại tinh thần, mạnh dạn từ cửa đá khẽ lách vào, nhưng nào ngờ trước mắt vẫn chỉ là một đạo động được tạc thẳng từ trong lòng núi, trải dài theo hướng Nam Bắc, nhưng Đông Tây thì lại hẹp, hai bên cũng có điện thờ như trong qua động, cung phụng Tứ Đại Bồ Tát, lần lượt là Cái Chướng Bồ Tát, Hư Không Tàng Bồ Tát, Tự Tại Thiên Bồ Tát và Ma La Già Bồ Tát. Mà ở giữa hai điện thờ lại có một toà động môn hình vòm cung, phàm là trong cổ mộ hễ là động môn có hình vòm cung thì sẽ được gọi là “Khoán Động”. Tôi chiếu theo những gì ghi trong “Lượng Kim Thước” động não suy nghĩ một chút, xem ra huyền cung của toà Liêu mộ này là do tiền điện, trung điện, hậu điện, cùng với năm toà điện trái phải phối hợp với nhau tạo thành. Đạo động có điện thờ Tứ Đại Thiên Vương phía sau kim cương tháp làm tiền điện, đạo động phía sau cánh cửa đá có đồ hình hải thú thờ Tứ Đại Bồ Tát thì là trung điện, tiền điện cùng với trung điện đều có thế đi thẳng hướng Nam Bắc, trung điện hướng Tây Bắc hai bên trái phải thiết lập các phối điện. Phối điện chỉ có khoán động, không có cửa đá ngăn cách, phía cuối trung điện lại tách ra thành một đạo khuyết môn, bên trên điêu khắc đồ hình một cặp dị thú đang cõng bảo vật, rất dễ để nhận thấy lối đi này sẽ thông đến hậu điện, cũng chính là địa cung chính điện chúng tôi đang tìm kiếm, theo như người xưa gọi là “Trường Sinh Điện”.

Tuyền béo lầm bầm nói: “Mẹ cổ mộ kiểu quái gì mà hết cái hang này lại đến cái hang khác thế? Biết đến bao giờ mới đến đích đây?”

Để cậu ta khỏi sốt ruột nữa, tôi bèn bảo: “Một cái đạo động tương đương với một toà điện đường, chỗ chúng ta đang đứng đây đã là trung điện rồi, tiếp theo sẽ là hậu điện, quan tài của chủ mộ nhất định phải được đặt ở trong hậu điện kia.”

Tuyền béo chỉ vào cánh cửa đá trước mặt: “Các cậu nhìn hai con chó lông xù trông nhà cho chủ mộ kia, trên người chúng đang cõng cái quái gì thế?”

Trăn Tử vốn xuất thân là thợ săn, bất luận là chó săn trên núi hay là chó chăn dê trên thảo nguyên nàng đều đã thấy qua rất nhiều, tuy nhiên lại chưa thấy giống chó nào trông như thế này, đây liệu có phải là chó thật không? Tôi nói: “Cái con thú lông xoăn tít xù xì cõng bảo vật kia hình như là sư tử, tôi cũng là lần đầu tiên trông thấy, phía trước địa cung Trường Sinh Điện mà lại có đồ hình hai con sư tử cõng bảo vật này, có thể sáng tỏ một điều rằng: đồ vật chôn theo bên người mộ chủ chắc chắn phải có giá trị liên thành!”

Tuyền béo nói: “Hai cái con súc sinh chó chẳng ra chó, sư tử chẳng ra sư tử kia rốt cuộc là gì đều không quan trọng, tôi muốn bảo hai người nhìn kĩ cái vật mà nó đang cõng kia kìa, thứ đó có giá trị liên thành sao? Thế quái nào Tuyền gia đây càng nhìn lại càng thấy giống một con ngươi nhỉ?”

Vừa nghe cậu ta nói thế, tôi và Trăn Tử đồng loạt ngẩng đầu lên quan sát thật kĩ một lần nữa đồ hình kia, cả hai đều cảm thấy quả thật là giống một con ngươi như lời Tuyền béo. Hai con sư tử được chạm trổ trên cửa vào địa cung, một trái một phải, trên lưng mỗi con cõng theo một món bảo vật, hình dáng tựa bảo châu, là một vòng xoáy hình tròn, xung quanh vật này còn có cả lông mi, không phải là con ngươi thì còn là cái gì được nữa? À mà cũng không hẳn, còn một khả năng nữa, rất có thể những vòng tròn xoáy xung quanh kia chính là những đạo bảo quang. Tôi liền nhớ lại truyền thuyết về một chiếc bảo kính được chôn theo trong mộ cổ thời Liêu, nhưng mà thấy thế nào cũng không giống bảo kính lắm, chẳng nhẽ thứ kỳ trân dị bảo hiếm có chôn theo mộ chủ lại thật sự là một con ngươi? Hơn nữa lại còn là con ngươi của người nào chứ?”

Tôi cùng Tuyền béo xắn tay áo lên, tiến lên đẩy cánh cửa đá dẫn vào địa cung. Trăn Tử ở một bên, nói: “Hai bên còn có hai cái động khẩu, sao không đi vào trước xem thử như nào?”

Tuyền béo đáp: “Mọi thứ rõ rành rành như thế rồi còn phải nghĩ ngợi nhiều làm gì? Để tôi lấy một ví dụ cho cô em đây dễ mường tượng nhé, giả sử tôi mang lên ba món ăn đặt trên bàn, chính giữa mâm là một tô thịt thơm phức nóng hổi, còn bên cạnh là hai đĩa cải trắng muối chua, vậy cô sẽ chọc đũa vào cái nào trước?”

Tôi cũng nói: “Cái ví dụ này của cậu rất là khá! Chúng ta trước cứ đi vào chính điện nhìn qua chút đã!”

Trăn Tử không phải là không biết trước tiên phải chọc đũa vào tô thịt thơm ngon, mà là cô nàng lo sợ vị Thái Hậu nhà Liêu nằm trong địa cung kia, vạn nhất mà ả ta quả thật là do cửu vỹ hồ ly thành tinh hoá thành, vậy thì biết đối phó ra sao? Tuyền béo không hiểu vậy thì có cái gì mà đáng sợ, bĩu môi nói: “Cho dù cái con mụ già Thái Hậu kia là do yêu tinh quỷ quái gì đấy đắc đạo hoá thành, gặp phải Tuyền gia đây thì cũng tắt điện hết mà thôi! Không nhìn xem bây giờ là thời đại nào rồi cơ chứ, nó mà dám xuất đầu lộ diện thì chẳng khác gì thiêu thân tự lao đầu vào lửa, một đám muỗi đốt inox mà thôi, hehehe…”

Tuyền béo đang hăng say ba hoa chích choè thì chợt nghe thấy mộ đạo phía sau lưng truyền đến một loạt tiếng bước chân. Năm đó lúc hạ táng dời quan, phía dưới nền đất địa cung có lưu lại khá nhiều gỗ mục, chỉ cần bước lên đạp nhẹ một cái, liền sẽ phát ra tiếng “kẽo kẹt, kẽo kẹt" rất là đặc trưng, tiếng vang tuy nhỏ nhưng giữa không gian âm u vắng lặng bên trong mộ đạo này thì lại đặc biệt trở nên chói tai. Song phương cách nhau chỉ mấy chục bước chân, nhưng khoảng không phía trong địa cung lại tối như hũ nút, dù có đứng trước mặt nhau cũng chưa chắc đã nhìn thấy gì cả, hiềm nỗi địa hình nơi này lại vừa dài vừa hẹp, tiếng vang có thể truyền thẳng đến điểm cuối của Trường Sinh Điện. Tôi sau khi nghe thấy những âm thanh này, lập tức nhận ra ngay hai tên thợ săn kia đã bám theo tới nơi. Lúc trước tôi cũng đã nghĩ tới việc này, chẳng qua là không ngờ tới việc bọn chúng lại đến nhanh như vậy, xem ra đối phương đang rất nôn nóng, dần mất hết kiên nhẫn, lo sợ chúng tôi sẽ mở được địa cung trước, tìm được trân bảo chôn theo trong mộ rồi cao chạy xa bay! Tôi không biết đối phương còn dẫn theo bao nhiêu người tới nữa, chỉ có mỗi mình hai bọn chúng, hay còn thêm kẻ nào?

Tôi vội vàng tắt ngọn đèn bão, nhưng tiếng bước chân thì lại càng ngày càng gần, chỉ còn cách nhau khoảng hai mươi bước nữa thôi, hiện giờ đã có thể thấy hai ngọn đuốc lập loè ở phía sau. Tôi xem chừng đối phương không dẫn theo nhiều người, lúc này mới lôi đèn pin trong túi ra, bật lên chiếu thẳng về hướng bọn chúng, chỉ thấy hai tên thợ săn Đại Hổ, Nhị Hổ kia, trên người đeo súng chim cùng với xẻng lưỡi vịt, tay cầm cây đuốc, một trước một sau đang đi vào bên trong lục lọi. Hai người bọn chúng vừa thấy bên này có ánh đèn pin chiếu vụt qua, vội vàng nhảy sang một bên né tránh, cùng lúc đó, súng chim trong tay Tuyền béo cũng đã được khai hoả. Bên trong Trường Sinh Điện là một mảnh tối đen, cách nhau tận mười mấy bước chân thành ra rất khó để xác định được đúng mục tiêu, phát súng này của cậu ta liền bắn trúng vào nóc điện thờ Hư Không Tàng Bồ Tát, hoành phi bằng đá vỡ vụn.

Hai tên kia bị phát súng này làm cho đâm hoảng, liền lắc mình chui vào một bên khoán động. Tuyền béo thấy cừu nhân không đội trời chung thì liền tức giận, hai mắt long sòng sọc, hơn nữa bên trong Trường Sinh Điện chật hẹp này, không thể để cho đối phương có được cơ hội trả đũa nên liền tức tốc đuổi về phía trước. Tôi cùng Trăn Tử lo sợ cậu ta hành động sơ xuất, cũng lập tức mở hết đèn pin lên theo sát ngay đằng sau. Hai tên thợ săn trốn vào một cái động môn, bên trong động môn là một đoạn thông đạo dài được lát gạch nung, thông với phối điện phía Tây. Trong thông đạo tối mò mò, khắp nơi đều là mạng nhện cùng bụi bặm tích trữ suốt mấy trăm năm, khiến cho người ta sặc lên sặc xuống không thở nổi, ánh sáng đèn pin cơ hồ có cũng như không, chúng tôi cũng sợ đối phương sẽ dùng súng chim bắn ngược trở lại, cho nên không dám đuổi quá nhanh. Thông đạo được lát gạch, cao hơn hai trượng, đi sâu chừng ba mươi bước, phía cuối nối với phối điện bên trái, chỗ giao nhau cũng là một cái khoán động, không hề thấy có cửa đá, chỉ dùng mộ gạch bịt kín lại. Chúng tôi nghe thấy phía trước vang lên tiếng hai tên kia đang cố đẩy sập bức tường, đi tới gần lấy đèn pin chiếu một cái, chỉ thấy dưới đất vương vãi đầy gạch mộ, có một tên đang xoay lưng về phía chúng tôi, ngồi bệt dưới đất ngay phía trước phối điện phía Tây không nhúc nhích, tựa hồ hắn đã trông thấy một thứ gì đó rất đáng sợ, thành ra ngây người như vậy, tôi cũng thử hướng mắt nhìn theo nhưng chỉ thấy bên trong là một khoảng không âm u tối đen. Nhờ ánh sáng từ đèn pin soi tỏ liền có thể nhận ra ngay, hắn chính là Đại Hổ.

Hai anh em bọn chúng thân hình tương tự nhau, đều đeo trên lưng một cây súng chim, trên đầu đội chiếc mũ sành, điểm khác biệt giữa hai người là một cái khăn quàng lớn, cùng một cái túi to, đi đến nơi nào cũng mang theo. Ba người chúng tôi không biết tay Đại Hổ này đang định giở trò quỷ gì, tại sao hắn lại đột nhiên dừng lại? Thằng em Nhị Hổ của hắn trốn đi đằng nào mất rồi? Chúng tôi không hẹn mà cùng bước chậm lại, từ đống gạch đổ vỡ cẩn thận bước vào, đi sang hai bên nhìn thử, tất cả tối đen như mực, không hề thấy có người nào cả, đang lúc trong lòng cảm thấy kỳ quái, chợt nghe sau lưng có tiếng bước chân mạnh mẽ lao tới, tôi lúc này mới ý thức được rằng đây là một cái bẫy! Hai tên mộ tặc giả dạng thợ săn này, một tên dẫn dụ chúng tôi chạy đến đây, còn một tên thì núp sẵn ở trong thông đạo từ trước. Tuyền béo phản ứng lại cũng khá nhanh, cậu ta xoay người giương súng định bắn, nhưng bất ngờ phía trên thông đạo lát gạch điên cuồng ập xuống một dòng lưu sa, trong khoảnh khắc bịt kín cả thông đạo lại.

Thì ra thời điểm mà toà Liêu mộ này được xây dựng, đào ra được bao nhiêu đất đá trong núi, liền từ Đại Mạc vận chuyển đến tới bấy nhiêu cát vàng, bố trí thành thật nhiều cạm bẫy bằng cát phía trên đỉnh mộ. Hai tên Nhị Hổ này cũng là hai tay mộ tặc lão luyện, nhìn ra được cách cục bố trí địa cung bên trong Liêu mộ, ở trong thông đạo khởi động được cơ quan lưu sa, đem phối điện lấp kín. Cát chảy không thể so với gạch đá hay đất bùn, muốn đào cũng không có cách nào mà đào được, đào được bao nhiêu cát lại chảy xuống lấp đầy bấy nhiêu. Thời xưa, loại phương pháp phòng chống trộm này được sử dụng không ít, đừng nói là hoàng cung đại nội, ngay cả đại hộ nhà người ta sân tường biệt viện đều là hai lớp kép, ở giữa nhét đầy gạch khối đá vụn để phòng ngừa trộm cướp, chủ yếu là ngăn chặn đám đạo tặc đục tường khoét vách, còn đám phi tặc thì có được bao nhiêu tên mà phải phòng bị? Đại đa số nếu muốn đột nhập vào thâm trạch đại viện thì thường thường đều là ở trên tường viện khoét ra một lỗ hổng, trước kia từng có câu cách ngôn như này “Làm kẻ gian khoan lỗ thủng”, còn theo tiếng lóng của dân trong nghề thì gọi là “Khai đào viên". Bọn họ có một loại đoản đao đặc chế riêng biệt, chỉ có một chút ở phần đầu đao mới được làm từ thép, còn lại thân đao làm hoàn toàn từ nhuyễn thiết, để đến lúc khoét vách không còn bị gãy ngang chừng nữa. Còn có thể loại đạo tặc không những bản lĩnh cao mà đạo đức cũng rất tốt, bọn chúng xách đao đến khoét tường đục ngói chui vào trong nhà trộm lấy bảo vật, xong xuôi đâu đấy đến lúc chui ra còn giúp người xếp lại tường gạch chỉnh tề, ngay cả kẽ hở giữa các viên gạch cũng được trát vữa cẩn thận. Người trong nhà có tiền vì để đề phòng kẻ gian lẻn vào lấy đi thường thường dùng đá vụn xây thành tường kép. Ở các nhà ngục bên trong doanh trại còn dùng thật nhiều cát vàng đổ vào giữa hai bức vách, được gọi là hổ tường, không nghĩ tới bên trong địa cung này cũng có thiết lập hệ thống lưu sa như vậy. Trong lòng cả ba người đều cảm thấy trào lên một cảm giác tuyệt vọng: “Tên mộ tặc kia thật là độc ác, vì muốn chúng ta bị chôn sống ở chỗ này mà hi sinh cả đại ca hắn! Nghe nói cái bọn mộ tặc này thấy tài liền vong nghĩa, vì chuyện xích mích chia chác báu vật mà sẵn sàng hạ đạo giết người diệt khẩu, kể cả là huynh đệ ruột thịt!”

Chúng tôi thấy tên thợ săn Đại Hổ kia vẫn ngồi bất động ở chỗ đó không nói một tiếng nào, đối diện với hắn chỉ có vách đá trống rỗng, không hề thấy thứ gì có thể khiến hắn sợ ngây người ra như thế được cả, tôi thầm tặc lưỡi: tên này bản lĩnh chính trị quả là kiên định! Phải chăng hắn muốn lấy tĩnh chế động để đối phó với chúng tôi? Tuyền béo từ nãy đến giờ vẫn không nuốt trôi được cục tức, sớm đối với hai tên này hận đến cắn răng nghiến lợi, chỉ muốn lia cho tên Đại Hổ kia một băng súng mới hả được cơn giận. Tôi vội bảo cậu ta trước chớ nên động thủ, vòng tay ra sau rút lấy thanh quân đao, rồi tiến lên phía trước nắm chặt một cái vào vai Đại Hổ, muốn xoay hắn lại để hỏi cho ra nhẽ, nào ngờ tay tôi vừa mới đưa tới thì hắn đã ngã ngửa ra đất. Ba người lấy làm kinh hãi, vội giơ đèn pin lên soi thẳng vào mặt hắn, chỉ thấy trên khuôn mặt trắng loá một mảnh, tôi lập tức cảm thấy khó hiểu: hắn thế nào lại để cho mặt mình dính đầy bùn đất thạch cao thế này, cho đến khí nhìn kĩ lại một lần nữa, mới nhận ra trên mặt hắn tất cả đều là hoạt thư (Trans: Ấu trùng ruồi nhặng, dòi,..”)!

Mời các bạn đón đọc chương tiếp theo “Cương Thi Thợ Săn” đăng tại page Hội những người nghiện truyện của Thiên Hạ Bá Xướng
 
Trạng thái
Không mở trả lời sau này.
Top