Lượt xem của khách bị giới hạn

[Ngôn tình] [Truyện Hoàn] Cô phương bất tự thưởng - Phong Lộng

Trạng thái
Không mở trả lời sau này.
[Ngôn tình] [Truyện Hoàn] Cô phương bất tự thưởng - Phong Lộng

Hoa Tử

Sưu tầm
Tham gia
24/9/19
Bài viết
10,570
Điểm cảm xúc
1,484
Điểm
113
Chương 27:
Đám binh sĩ dàn trận sẵn sàn nghênh địch, các thị nữ nín thở chờ đợi. Biệt viện ẩn cư to rộng là thế, vậy mà chỉ trong một ngày đã trở nên lặng lẽ, thiếu cả tiếng kêu quen thuộc của bồ câu đưa thư, yên tĩnh đến chết chóc.

Không ai dám ho to, không ai dám lớn tiếng, bước chân đi cũng thật khẽ khàng. Họ sợ rằng chỉ một tiếng động thôi cũng khiến quân địch đang bao vây tứ phía ập vào tấn công.

Lần đầu tiên Sính Đình ngồi trong thư phòng của Sở Bắc Tiệp.

Khẽ lật xem chồng công văn trên bàn, bên trên có lời phúc đáp của Sở Bắc Tiệp. Những công văn về việc quân chậm trễ, trì hoãn… lời phê lạnh lùng đến sởn gai ốc. Các công văn liên quan tới quốc kế dân sinh, lời phúc đáp hồn hậu chất phác.

Thỉnh thoảng lại có một, hai trang riêng biệt, hình như là bài thơ Sở Bắc Tiệp viết từ trước, nét chữ quen thuộc, vững vàng mà phóng khoáng như chính con người chàng.

Dưới cùng chồng công văn là một góc trắng tinh, không biết thứ gì đã bị chủ nhân cẩn thận che đi. Sính Đình rút ra, nhìn kỹ, hóa ra là bức họa được vẽ vô cùng tinh tế.

Bức họa sống động như thật, nét vẽ đậm nhạt cực kỳ vừa mắt.

Có cây, có hồ, có tuyết, có đàn, và cả một người đang đánh đàn mặc chiếc váy màu xanh nhạt, gió thổi lòa xòa vài sợi tóc đen, nụ cười tươi như hoa.

Nụ cười thật đẹp, đến nỗi Sính Đình cũng phải nao lòng.

Nàng ngây ra ngắm bức vẽ, hồi lâu mới có thể rời mắt.

“Bạch cô nương, trên bàn đều là công văn từ trước và một số thứ khác của Vương gia. Bản đồ cùng tấu báo gần đây nhất mà cô nương cần, Mạc Nhiên đã mang hết tới.”

Nghe giọng Mạc Nhiên, tâm hồn đang phiêu dạt khắp bốn biển của Sính Đình bỗng như sực tỉnh. Định đặt bức vẽ về chỗ cũ, nhưng lại thôi, nàng cắn răng, cất vào lòng mình.

Nàng ngẩng lên, Mạc Nhiên đang ôm đống đồ bước vào.

“Đây là bức thư Đại vương lệnh cho Vương gia trở về thành đô.” Mạc Nhiên trải bức mật tín đính tua vàng lên mặt bàn.

Sính Đình đọc kỹ từng chữ một, vừa đọc vừa nói: “Vân Thường và Bắc Mạc liên quân? Tắc Doãn đã quy ẩn, thống soái Bắc Mạc chắc chỉ có hai người Nhược Hàn, Thân Vinh. Theo ta, cơ hội của Nhược Hàn lớn hơn một chút. Còn Vân Thường…”. Cái tên quen thuộc đập vào mắt, nàng bỗng thấy hoa mắt chóng mặt, vội vàng chớp mắt rồi định thần lại, nhìn kỹ, vẫn cái tên quen thuộc đâm vào tim nàng, rõ ràng in trên tấm lụa.

Cơn đau dữ dội như có vật gì đâm thẳng vào tim.

Sắc mặt trắng bệch, Sính Đình chậm rãi ngồi xuống ghế, vẻ không thể tin: “Hà Hiệp đang bị Quy Lạc vương truy lùng, sao có thể thống lĩnh binh mã Vân Thường đến uy hiếp biên cương Đông Lâm?”.

Mạc Nhiên bối rối giải thích: “Hà Hiệp đã lấy công chúa Diệu Thiên, trở thành phò mã, nắm giữ binh quyền của Vân Thường. Tin ấy khắp thiên hạ đều biết, chỉ nơi biệt viện này… Vương gia nói, Bạch cô nương và Hà Hiệp đã chẳng còn liên quan, nên cô nương không nhất thiết phải biết”.

Mạc Nhiên nhìn Sính Đình, sắc mặt nàng trắng tựa tuyết.

Hóa ra là vậy.

Hà Hiệp đã thành thân.

Thê tử của Hà Hiệp chính là Vân Thường công chúa.

Hà Hiệp đã lợi dụng hôn sự của mình để mưu cầu món vốn liếng hùng hậu.

Hóa ra, Hà Hiệp vẫn chẳng chịu buông tha nàng.

Hoặc, không chịu buông tha Sở Bắc Tiệp.

Tất thảy đã bị vạch trần cùng niềm đau và sự ưu tư sâu sắc, dù thông minh đến mấy cũng không thể tháo gỡ khúc mắc này.

Sính Đình im lặng cuộn bức thư của Đông Lâm vương lại, đặt sang một bên, khẽ bảo: “Trận chiến nơi biên cương sẽ không xảy ra đâu”.

Mạc Nhiên kinh ngạc: “Cô nương sao biết được?”.

Sính Đình khẽ lắc đầu: “Bởi Hà Hiệp đã đến đây rồi. Chủ soái không có ở sa trường, chiến trận sao có thể xảy ra?”.

Mạc Nhiên biến sắc, trầm giọng: “Đây là vùng đất của Đông Lâm, Hà Hiệp tới tận nơi này, há chẳng phải Đông Lâm đại bại hay sao?”

“Làm gì có chuyện thắng bại. Chẳng qua chỉ là một giao dịch thuận mua vừa bán. Không được sự cho phép của Đông Lâm vương, Hà Hiệp sao dám đem quân bao vây biệt viện?”, Sính Đình cười chua chát, lảo đảo đứng dậy.

Đối thủ chính là Hà Hiệp.

Danh tướng đương thời ngang sức ngang tài với Sở Bắc Tiệp. Khi trước vì có Hà Hiệp, Đông Lâm mới không dám dồn dập tấn công Quy Lạc, Sở Bắc Tiệp mới phải hao tâm tổn sức dùng kế ly gián vương phủ Kính An và Quy Lạc vương, ép Hà Hiệp rời khỏi Quy Lạc.

Vốn là người suy tính tỉ mỉ, chắc chắn Hà Hiệp đã giăng kín thiên la địa võng trước khi động thủ, đến lúc kẻ thù rơi vào vòng vây mà vẫn chẳng hay biết, mới phát động trận tấn công cuối cùng, không cho đối thủ bất cứ cơ may chạy thoát nào.

Thủ đoạn ấy, nay lại sử dụng với Bạch Sính Đình.

Sính Đình thấy lòng đắng nghét, hận rằng không thể khóc to một trận, khóe môi thoáng nụ cười lạnh lùng: “Mạc Nhiên hãy mang hết bản đồ và những thứ này đi, không cần xem nữa. Nếu thế lực ngang bằng, chúng ta vẫn còn có cơ sống sót. Nhưng, tình hình này, chúng ta đã chẳng thể giành phần thắng”.

Đôi mắt trong trẻo mà lạnh lùng nhìn Mạc Nhiên, giọng trấn tĩnh: “Tuy không giành phần thắng, nhưng chưa chắc sẽ thua”.

Mặc kệ Mạc Nhiên vẫn đang mơ hồ, Sính Đình bước ra khỏi thư phòng, đi xuống bậc thềm.

Nàng bước nhanh về phía cổng lớn của biệt viện, được nửa đường bỗng thấy chậm dần, suy nghĩ giây lát, dường như đã thay đổi ý định, lại quay về tiểu viện của mình.

Đang lo lắng chờ đợi, thấy Sính Đình đi tới, Túy Cúc và Hồng Tường vội vàng ra đón, nhưng không biết phải nói gì.

Sính Đình nhìn họ, biết dù hai người không hề nói ra, song trong lòng vô cùng lo lắng. Cũng chẳng có thời gian an ủi, nàng hỏi: “Ở đây ai có váy màu đỏ thẫm?”.

“Nô tỳ có một cái”, Hồng Tường đáp.

“Mau mang ra đây.” Sính Đình vào phòng, tìm lược, thả tóc, chải thật kỹ, cho tới khi mái tóc thẳng dài đổ xuống như thác nước màu đen.

“Để Túy Cúc giúp.” Thấy nàng chải tóc, Túy Cúc bước tới định cầm lấy lược.

Sính Đình lắc đầu: “Cứ để ta”.

Nàng soi gương, chia tóc thành hai phần, cuộn vào ngón tay thành từng vòng rồi quấn lên, chẳng mấy chốc đã kết thành đóa hoa tóc.

Ngắm kỹ hai bên trong gương, Sính Đình lắc đầu không hài lòng, lại buông tay, cho tóc xõa xuống.

Hồng Tường tìm thấy cái váy màu đỏ thẫm, mang đến đưa cho Sính Đình, hỏi: “Có mỗi cái này, váy mùa hè, mỏng lắm”.

“Chính là màu này”, Sính Đình cầm lấy, khẽ sờ vào chất vải, đúng là rất mỏng, “Giúp ta thay váy”.

“Trời lạnh như thế, mặc cái váy này đâu có được?”, Túy Cúc chau mày, “Túy Cúc có một chiếc váy màu hồng tím, tuy màu sắc không giống lắm, nhưng ấm hơn”.

Sính Đình nói giọng chắc chắn: “Nhất định phải là màu này”.

Đôi mày của nàng nhướng lên, khiến hai người kia không dám trái lời, đành giúp chủ nhân thay váy. Tuyết vẫn rơi, tuy ở trong phòng, nhưng khi cởi chiếc áo trên người, Sính Đình vẫn thấy rùng mình. Túy Cúc vội vàng lấy áo choàng khoác lên người nàng.

Sính Đình cảm kích nhìn Túy Cúc, hạ giọng: “Ta còn phải chải đầu”.

Không cần đến sự giúp đỡ của Hồng Tường và Túy Cúc, Sính Đình loay hoay trước gương hồi lâu. Túy Cúc lặng nhìn vẻ mặt chăm chú của nàng, mười ngón tay nhanh nhẹn lấy bên trái chọn bên phải trên mái tóc, rồi khéo léo cuộn thành đóa hoa màu đen tinh tế, phần tóc hai bên buông xuống tự nhiên, dịu dàng trên cổ, tôn lên làn da trắng ngần lay động lòng người.

Hồng Tường đứng bên cạnh, chăm chú quan sát, bỗng thở dài: “Đẹp thì đẹp, nhưng phức tạp quá, may mà cô nương khéo tay, nếu là nô tỳ, chẳng biết phải chải bao lâu”.

Túy Cúc cũng thốt lên: “Đẹp quá, rất hợp với khuôn mặt, đôi mắt và cả khí chất, cốt cách của cô nương, cứ như đây là kiểu tóc dành riêng cho cô nương vậy”.

Nghe họ khen, sắc mặt càng thêm ưu phiền, nàng vừa soi gương vừa nói, giọng lạnh nhạt: “Không đẹp lắm, đây là lần đầu tiên ta tự chải kiểu tóc này”. Nàng đứng lên, nghĩ đến thời tiết lạnh giá ngoài kia, bèn đưa tay cuộn chặt chiếc áo choàng, giấu người vào bên trong, nhìn quanh rồi đứng thẳng lưng, vén rèm bước ra cửa.

Đứng ở cổng tiểu viện, thấy Sính Đình bước tới, ánh mắt Mạc Nhiên dừng nơi chiếc áo choàng của nàng. Tuy đã khoác áo choàng, nhưng dáng hình mảnh mai của Sính Đình vẫn thật rõ ràng.

Sính Đình giấu hai tay trong áo choàng, ngẩng lên nhìn Mạc Nhiên, vẫn chẳng dừng bước, đến lúc ngang qua, bèn hạ giọng: “Đi theo ta”.

Như đã hạ quyết tâm, bước chân của nàng không hề do dự, tiến thẳng qua mấy lớp cửa.

Lòng quân lúc này đang vô cùng lo sợ, nhìn bóng cây ngọn cỏ cũng tưởng quân địch đã kề bên. Cổng lớn được đám thị vệ canh chừng cẩn mật, người người cầm chắc tay kiếm, giương đôi mắt to như chuông đồng, tăng cường cảnh giác, nghe ngóng động tĩnh bên ngoài. Bỗng thấy dáng hình mảnh mai đẹp tựa hoa lê của Sính Đình lẫm liệt xuất hiện, theo sau là Mạc Nhiên, tất cả đều kinh ngạc ngóng nhìn.

Sính Đình dừng trước cổng lớn, lặng lẽ nhìn cánh cổng gỗ chắc chắn được chống bằng cột thép.

Tuy cánh cửa vẫn còn nguyên, nhưng chắc chắn không đỡ nổi một đòn công kích của Hà Hiệp. Nơi này chẳng phải pháo đài biên thành, sao đủ sức chống chọi với muôn vàn vũ khí công thành sắc bén tung hoành chốn sa trường?

Nàng khẽ nắm chặt tay, che đi bờ vai đang run rẩy, hít thật sâu bầu không khí lạnh giá, rồi nhắm mắt. Khi mở ra, ánh mắt nàng đã đầy vẻ kiên quyết.

“Mở cổng lớn.”

Các thị vệ kinh hãi, lặng lẽ nhìn nhau.

Mạc Nhiên lao như bay đến bên nàng, cố nén giọng lo lắng gọi: “Bạch cô nương…”.

“Mạc Nhiên cũng là lão tướng trên sa trường, chẳng lẽ không hiểu chỉ một lệnh của Hà Hiệp, chỗ này của chúng ta sẽ không chịu nổi một đòn tấn công? Cứ chờ Hà Hiệp ra tay, chi bằng mời hắn vào.” Từng tiếng rõ ràng chắc chắn như những giọt mưa long lanh lần lượt nhỏ xuống trái tim các thị vệ. Đáng kinh ngạc là, những giọt mưa ấy đã gột sạch mọi trái tim lo lắng. Họ không còn suy tính thiệt hơn, mà khôi phục vẻ điềm tĩnh như khi Sở Bắc Tiệp đứng ngay phía trước.

“Mở cổng lớn”, thêm một lần lạnh nhạt.

Khoảnh khắc ấy, mọi người đều khắc ghi dáng hình sừng sững hiên ngang của nàng.

Chiếc then ngang nặng trịch được rút ra, cánh cổng lớn kêu cót két, từ từ mở rộng. Bãi đất trống ngoài biệt viện và rừng cây rậm rạp phía không xa chìm trong sắc tuyết, dần dần hiện ra trước mắt.

Sính Đình đứng giữa cổng, hiên ngang trong gió. Đôi mắt sáng lấp lánh, nàng nhìn chăm chăm vào tận sâu thẳm trong rừng núi, biểu cảm phức tạp khó nói thành lời.

Chuyện xưa ở vương phủ Kính An như xa vời vợi, lại như ở ngay trước mắt.

Như dòng chảy ấm nóng quanh co dưới lớp đất, chỉ cần khẽ hất lớp đất ấy lên, dòng chảy sẽ tuôn trào, làm ướt sũng tóc nàng, môi nàng, và cả người nàng, thấm vào từng lỗ chân lông, chảy vào huyết mạch, chui vào lục phủ ngũ tạng, khiến nàng vừa ấm vừa đau.

Ánh mắt nàng phiêu dạt về phía chân trời, có ai còn nhớ phương trời Quy Lạc? Có ai còn nhớ mái ngói lầu son của vương phủ Kính An?

Vương phi ơi, binh mã của thiếu gia đang ở ngay rừng núi âm u phủ tuyết trắng ngoài kia, chỉ một tiếng hạ lệnh, nơi này sẽ chìm trong biển máu, tình nghĩa đoạn tuyệt từ đây.

Gió lạnh rì rào, Sính Đình thu lại tầm mắt, nhìn về phía Mạc Nhiên. Nàng khẽ cắn răng, không do dự: “Treo cờ trắng trên nóc cổng”.

Giống như Sở Bắc Tiệp, khi đã ra quyết định, chẳng ai ngăn nổi nàng. Mạc Nhiên nặng nề gật đầu.

Những người ở đó đều biết, nếu không có chi viện, sớm muộn gì biệt viện cũng bị công phá.

Tấn công hay đầu hàng đều chung một kết quả.

Sắc trắng tang thương của lá cờ hàng từ từ đưa lên đỉnh cổng, bay phần phật như tiếng khóc không cam lòng trong gió Bắc.

Sính Đình cởi áo choàng, để lộ chiếc váy dài màu đỏ thẫm.

Da trắng, váy đỏ, nàng đứng trong gió tuyết, mái tóc bay bay, đẹp đến rung động lòng người.

Không chỉ Mạc Nhiên, ngay cả Sở Bắc Tiệp cũng chưa từng thấy vẻ đẹp say lòng người của Sính Đình lúc này.

Nàng chỉ im lặng đứng đó, nhưng vẫn chiếm hết linh khí non nước, phong lưu giữa đất trời.

Ánh mắt nàng trĩu nặng nỗi bi ai, lưu luyến, trĩu nặng niềm nhớ thương, đau đớn không nói hết bằng lời, và cả chút dịu dàng động lòng người cất giấu nơi tận cùng sâu thẳm.

Ánh mắt nàng dừng ở một nơi, phía rừng núi đối diện.

Lớp tuyết dài như choàng cho núi rừng chiếc áo bạc, sáng đến nhức mắt, càng khiến không khí thêm đè nén và bức bối. Ẩn nơi đó là bao quân địch đang nắm chắc cây thương, sẵn sàng đợi lệnh!

Trống trận nổi lên, có thể thiên quân vạn mã dũng mãnh sẽ lao ra, cũng có thể là hàng ngàn hàng vạn mũi tên bay xuống.

Nhưng, khuôn mặt Sính Đình vẫn cực kỳ dịu dàng, ánh mắt chăm chú không sợ hãi và phẫn nộ. Ở đó có người vô cùng thân thuộc với nàng, thanh mai trúc mã, sớm tối kề cận, cùng nàng đọc sách, cùng nàng thưởng tuyết, cùng nàng gảy đàn múa kiếm, uy danh hiển hách lẫy lừng.

Ánh mắt mọi người đều bị cuốn theo ma lực của nàng, nhìn theo hướng nhìn của nàng, dính chặt về phía rừng núi đối diện.

Từ phía xa, lặng lẽ xuất hiện hơn mười tướng sĩ khỏe mạnh trên nền tuyết trắng, rồi lại tản ra, một dáng hình khoáng đạt thẳng tắp tiến tới.

Lông mày lưỡi mác, mắt sáng như sao.

Môi mỏng câm nín, lại như thoáng nét cười.

Khuôn mặt tuấn tú, không góc cạnh như Sở Bắc Tiệp mà dịu dàng phong lưu.

Cánh tay cầm kiếm vô cùng vững chãi.

Từ khoảnh khắc đầu tiên khi Hà Hiệp xuất hiện, ánh mắt Sính Đình không hề rời nửa phân. Cũng như ánh mắt Hà Hiệp chỉ dừng nơi Sính Đình.

Hà Hiệp nhẹ nhàng cất bước, tiến về phía Sính Đình, để lại những dấu chân in hằn trên tuyết.

Mạc Nhiên cầm chắc tay kiếm, ánh mắt như chim ưng của các thị vệ dõi theo Hà Hiệp. Tất cả khom lưng, sẵn sàng lao đến với tốc độ nhanh nhất, mạnh nhất.

Theo sau hộ vệ hai bên Hà Hiệp là những binh tinh mặc thường phục. Mỗi khi Hà Hiệp cất bước, hai hàng cung tiễn cùng tiến theo, tay giương cung, mũi tên nhắm thẳng về phía nhóm người Sính Đình, sẵn sàng chờ lệnh.

Khi quân sĩ hai bên sắp giao tranh, Hà Hiệp dừng bước. Hắn đã ở ngay trước mặt Sính Đình, gần đến nỗi nàng có thể nhìn thấy sóng mắt hỗn loạn mà Hà Hiệp đang cố nén lại.

Gió lạnh như đóng băng không khí, đóng băng khoảng cách giữa hai người, chỉ cách một bước chân mà không thể tiến tới, cũng chẳng thể lùi lại.

Ngay cả Hà Hiệp cũng không ngờ rằng, gặp Sính Đình lại ngổn ngang trăm mối, lại đau đớn vì ánh mắt của nàng đến thế.

“Thiếu gia nhìn xem.” Cuối cùng vẫn là Sính Đình phá vỡ sự im lặng. Nàng nở nụ cười, ngón tay ngọc chỉ vào mình, “Có đẹp không?”.

Y phục đỏ thẫm, nổi bật trên nền tuyết. Màu trắng tinh khôi kéo Hà Hiệp trở về vương phủ Kính An yên tĩnh thanh bình…

Tiểu nha đầu Sính Đình chạy trên con đường tuyết, y phục đỏ thẫm dài quét đất, làu bàu với Hà Hiệp đang đọc sách trong trung đình: “Thiếu gia gạt người, màu này may váy xấu chết đi được, muội không mặc nữa đâu”, nói xong liền quay đi.

“Đừng đi! Đẹp lắm, đẹp lắm, ta không lừa muội đâu! Sính Đình, Sính Đình, đừng đi, để ta vẽ cho muội một bức.” Hà Hiệp chạy ra khỏi trung đình, vội ngăn nàng, cười vui vẻ, “Chỉ một bức thôi, ta vẽ cho muội xem, muội sẽ biết ta không nói sai”.

Tuyết vẫn trắng.

Vương phủ Kính An giờ đã thành đống tro tàn.

Hà Hiệp hít một hơi sâu: “Muội ghét nhất màu đỏ thẫm”.

“Nhưng thiếu gia lại thích nhất muội mặc màu này.” Sính Đình lặng lẽ nhìn xuống gấu váy, khẽ nói, “Thiếu gia còn nhớ lần muội mặc y phục đỏ thẫm đi trong tuyết trắng không?”, giọng nàng như tia sáng, dội về quá khứ xa xôi.

“Nhớ”, Hà Hiệp cảm khái, thở dài một tiếng, “Ta cũng biết, lúc này, muội đang vì ta mà mặc nó”.

Hà Hiệp khẽ thở than, cởi áo choàng lông chồn dày trên vai, tiến lên phía trước.

Khoảnh khắc ấy, gần như tất cả tướng sĩ hai bên đều thót tim, mũi tên sắp bay ra khỏi cung.

Nhẹ nhàng khoác áo choàng lên vai Sính Đình, cũng giống như trước kia, Hà Hiệp sưởi ấm hai gò má nàng bằng lòng bàn tay ấm nóng.

“Nhìn xem, lạnh cóng rồi này”, nụ cười trên môi Hà Hiệp cũng như xưa.

Sính Đình ngoan ngoãn đứng đó để Hà Hiệp mặc áo cho, để bàn tay ấm nóng của Hà Hiệp sưởi ấm gò má ửng đỏ của nàng, nghe Hà Hiệp dịu dàng: “Muội hà tất phải thế? Chẳng lẽ muội mặc màu khác, ta sẽ không ra gặp muội? Chẳng lẽ ta là kẻ không có trái tim, quên sạch tình nghĩa mười lăm năm qua?”.

Hà Hiệp nhìn nàng thương xót, khẽ đưa tay tháo những lọn tóc trên đầu nàng để mái tóc đổ dài: “Muội chưa bao giờ tự chải kiểu này, tuy giống, nhưng khi trước ta chải cho muội không phải như vậy”.

Ánh mắt của tất cả mọi người nhìn chằm chằm vào họ.

Một người là phò mã Vân Thường, một người là nữ nhân của Đông Lâm Trấn Bắc vương.

Nhưng tất cả đều thấy cảnh tượng trước mắt vừa đẹp vừa thuần khiết, giống như đoạn ký ức đẹp nhất cất giấu tận đáy lòng mỗi con người, chỉ e một tiếng động khẽ cũng phá tan mộng cảnh, quay về hiện thực phũ phàng.

Quá khứ của vương phủ Kính An dần trở lại…

Dường như Sính Đình vẫn là thị nữ của Hà Hiệp, hai người vẫn cùng nhau rong ruổi, bên nhau sớm tối, thỏa sức vui đùa. Hình dáng ấm áp ấy, đôi mắt trong veo lấp lánh ấy, dù chỉ cái nhíu mày hay nét cười của nàng cũng khiến người ta vui mắt…

Bất cứ lúc nào, chỉ cần nhớ ra, Hà Hiệp lại gọi, Sính Đình! Sính Đình! Hắn tìm nàng khắp vương phủ, gặp ai cũng hỏi. Đang ở một góc nào đó trong vương phủ, nghe tiếng thiếu gia gọi, Sính Đình vội vã chạy ra, ngẩng lên, hai ánh mắt trong veo và thẳng thắn chạm nhau, nàng cất tiếng hỏi: “Lại gì thế? Muội đang bận, không rảnh làm cột người cho thiếu gia vẽ đâu”.

Sở Bắc Tiệp, Sở Bắc Tiệp thì có đáng gì?

Dựa vào cái gì mà Sở Bắc Tiệp dám cướp đoạt hồn phách, trái tim nàng? Dựa vào đâu mà mười lăm năm thân thuộc của họ lại không sánh được với vẻn vẹn mấy ngày bị Sở Bắc Tiệp cưỡng đoạt?

“Sính Đình, ta nhớ muội.”

“Ba mươi vạn binh mã đe dọa biên cương, ép Đông Lâm vương dụ Sở Bắc Tiệp, đều là vì muội.”

“Sở Bắc Tiệp đối với muội thế nào? Nhận được vương lệnh là lập tức bỏ mặc muội.”

“Hắn đối với muội không tốt, muội hà tất phải khổ sở bạc đãi bản thân? Chúng ta lại như xưa, há chẳng phải vui sao?”

Hà Hiệp quay người, chỉ về phía binh sĩ đang đứng đầy đằng sau: “Ta dẫn theo tinh binh trèo núi lội sông đến đây, vẫn nhẫn nại không bắn một mũi tên. Sính Đình, chẳng lẽ muội vẫn chưa hiểu ý của ta? Trước giờ ta chưa từng khiến muội tổn thương”.

“Ý thiếu gia là muốn Sính Đình đi theo thiếu gia, đúng không?”, ánh mắt nàng xa xăm, giọng nói cũng xa xăm.

“Muội không đồng ý sao?”

“Làm gì có chuyện đó?” Ánh mắt Sính Đình nhìn về phía lá cờ trắng treo trên cao, chắc chắn đây là lần đầu tiên sắc trắng ấy được kéo lên ở nơi thuộc về Sở Bắc Tiệp, “Cờ trắng đã treo lên, Sính Đình sao có thể nói không?”. Nàng mỉm cười, rồi quay đầu nhìn Hà Hiệp, “Thiếu gia muốn đưa người đi, hay đưa cả trái tim?”.

Thoáng chút bi thương, Hà Hiệp trầm giọng: “Ta cần cả hai”.

Khóe môi xinh thoáng nụ cười bi ai, Sính Đình than thở: “Thiếu gia làm thế này, mấy phần vì Sính Đình? Thiếu gia không dùng vũ lực với muội, chẳng phải vì muốn giáng cho Sở Bắc Tiệp một đòn nặng nề hơn sao? Nếu Sở Bắc Tiệp biết muội tình nguyện theo thiếu gia, đòn này còn đau hơn cả khi thua trận trên chiến trường”. Lặng lẽ thở dài, giọng nàng dần trở nên kiên định, “Cũng đành, chỉ cần thiếu gia đáp ứng một việc, muội sẽ cam tâm tình nguyện theo thiếu gia”.

Hiểu ngay ra ý tứ của nàng, Hà Hiệp lập tức hỏi: “Muội muốn ta đợi bao lâu?”.

“Mồng Sáu.”

“Sính Đình, Sở Bắc Tiệp sẽ không về.”

“Vậy thì, qua mồng Sáu muội sẽ đi theo thiếu gia.” Nàng đưa ngón tay lên môi, cắn mạnh, từng giọt máu đỏ tươi nhuộm trên nền tuyết trắng, như áng mai đỏ bất ngờ nở rộ.

“Bạch Sính Đình xin thề với Trời, nếu qua mồng Sáu, Trấn Bắc vương không về, ta sẽ cam tâm tình nguyện đi theo Phò mã Vân Thường, không chút hối hận. Nếu phản bội lời thề, ta sẽ chết mà không có đất chôn.”

Những tướng sĩ có mặt ở đó nghe thấy lời thề khí phách của nàng đều hết sức kinh ngạc.

Chiến trường hiểm ác, Hà Hiệp thân phận cao quý, bí mật tới tận đây, có thể rời khỏi nơi này sớm chừng nào tốt chừng đó. Nay mạnh yếu đã phân, tướng sĩ của Sở Bắc Tiệp đã treo cờ trắng xin hàng, bắt sống Bạch Sính Đình là xong, hà tất phải mạo hiểm chờ hai ngày?

Có ai lại đáp ứng điều kiện của nàng?

Nhưng, Hà Hiệp bất ngờ gật đầu, hào sảng: “Được, sau mồng Sáu, ta sẽ đến đón muội”.

Mạc Nhiên kinh ngạc nhìn Hà Hiệp quay người rời đi không chút do dự. Đám hộ vệ theo sau xếp hình cánh quạt thoái lui, mũi tên vẫn hướng thẳng về phía biệt viện.

Thấy họ lùi vào rừng, không một dấu tích, Mạc Nhiên mới cảm thấy lòng bàn tay cầm kiếm đã ướt đẫm mồ hôi.

Tuyết trắng mênh mang, trống trải đến cô quạnh.

Sính Đình đứng yên ở đó, nhìn Hà Hiệp rời đi.

“Bạch cô nương?”, Mạc Nhiên tiến lại gần, hạ giọng gọi.

Sính Đình quay lại, ánh mắt trong veo, môi nở nụ cười chua xót: “Mười lăm năm tình nghĩa đổi lấy thời gian hai ngày”. Nàng vẫn đứng đó, ngây dại nhìn về hướng Đông, khẽ hỏi, “Nghe giọng Hà Hiệp, chắc Vương gia không thể về trước mồng Sáu, Mạc Nhiên thấy thế nào?”.

Mạc Nhiên do dự: “Hà Hiệp chắc chắn như vậy có lẽ đã được sự giúp đỡ của Đại vương ở thành đô. Tình hình này e là…”.

“Vương gia là nhân vật thế nào, nếu Vương gia muốn trở về, liệu có ai ngăn nổi?” Sính Đình nói giọng chắc chắn, “Nếu trong lòng có ta, nhất định Vương gia sẽ về trước mồng Sáu”.

Nhất định sẽ về.

Mỹ nhân, rượu ngon, cường quyền, lợi lộc đều không thể ngăn bước chân chàng.

Chỉ cần nhớ lời hẹn, chàng sẽ về trước mồng Sáu, vội vã trở về để gặp nàng.

Túy Cúc cùng Hồng Tường vẫn đang lo lắng chờ trong sân. Thấy lá cờ trắng từ từ được kéo lên ở đại môn, Túy Cúc khẽ ôm lấy Hồng Tường sắc mặt đã trắng bệch vì sợ hãi, cảnh giác nghe ngóng động tĩnh xung quanh.

Vẫn không một tiếng binh đao.

Dường như cả gió cũng ngừng thổi, không còn tiếng gào thét.

Đợi đến mức gân mạch sắp đứt rời, hai người mới thấy Mạc Nhiên đưa Sính Đình về. Sắc mặt Sính Đình trắng gần như trong suốt, mệt mỏi rã rời. Nàng không còn khoác chiếc áo choàng trắng lúc trước, mà đổi sang áo choàng lông chồn màu sẫm thượng hạng.

Họ lặng lẽ bước theo vào trong. Thấy Sính Đình không nói lời nào, Túy Cúc cũng chẳng hỏi nhiều, lặng lẽ bưng tách trà nóng lên cho Sính Đình, để nàng ngủ một giấc thoải mái, rồi mới quay sang ra hiệu cho Mạc Nhiên đang im tiếng nãy giờ, sau đó vén rèm bước ra ngoài.

“Xảy ra chuyện gì thế? Ta nhìn thấy lá cờ trắng đang bay.” Túy Cúc thân phận đặc biệt, lại có giao tình với Mạc Nhiên, nên không ngần ngại, hỏi thẳng.

Mạc Nhiên chau mày, thuật lại rõ sự việc.

Sự tình tiến triển khiến người ta trở tay không kịp, vào lúc không thể nhất, Sính Đình đã thêm được hai ngày quý giá.

Nghe đến đoạn Hà Hiệp đồng ý ngay, hai mắt sáng ngời, Túy Cúc khẽ thở dài, giọng buồn bã: “Chẳng trách người ta nói, tiểu Kính An vương của Quy Lạc là nhân vật đương thời duy nhất có thể so sánh với Vương gia chúng ta. Trí tuệ ấy, khí phách ấy, chẳng trách khiến công chúa Vân Thường thần hồn điên đảo, dâng hết cả binh quyền Vân Thường”.

Kế này chỉ mình Bạch Sính Đình mới có thể dùng. Giao hẹn này cũng chỉ mình Hà Hiệp mới có thể đáp ứng.

Ngoài hai người họ, đổi lại bất cứ ai trên thế gian này cũng không thể xảy ra cục diện ngoài sức tưởng tượng ấy.

Mạc Nhiên vẫn lo lắng, chau mày: “Bạch cô nương vô cùng chắc chắn, nói Vương gia sẽ về kịp. Nhưng nhỡ chăng Vương gia bị người trong cung kéo dài thời gian thì sao? Với lợi thế trong tay Hà Hiệp, dù chúng ta có liều chết, cũng chẳng thể đưa Bạch cô nương ra ngoài”.

Im lặng hồi lâu, Túy Cúc nói: “Dù có thể liều chết để đưa Bạch cô nương ra ngoài, cô nương cũng không theo chúng ta. Hà Hiệp mạo hiểm tác thành cho tâm nguyện của cô nương, cô nương sao có thể vi phạm lời thề? Hơn nữa…”. Nàng mím chặt môi, nhìn chăm chăm xuống đôi giày thêu hoa của mình, nói tiếp, “Nếu thực sư Vương gia coi nhẹ Sính Đình, không kịp về, hà tất Bạch cô nương phải lưu lại nơi này?”.

Hai người cùng thở dài.

Bạch Sính Đình phong lưu tao nhã, thông minh lanh lợi, quyết không phải người thường.

Nàng có thể chịu trăm ngàn lần khổ, nhưng không để lòng chịu chút thương tâm.
 

Hoa Tử

Sưu tầm
Tham gia
24/9/19
Bài viết
10,570
Điểm cảm xúc
1,484
Điểm
113
Chương 28:
Mạc Nhiên đáp: “Tuy Hà Hiệp hứa trước mồng Sáu sẽ không xuất binh, nhưng chúng ta không thể lơ là. Ta phải bố trí lại phòng ngự của biệt viện cho hợp lý”.

Túy Cúc gật đầu, nhìn theo bóng Mạc Nhiên dần xa, bỗng nghĩ đến một việc, định gọi nhưng lại thôi.

Túy Cúc trở về phòng, Hồng Tường đang ngồi ngủ gật trên chiếc ghế nhỏ. Hồng Tường là người đơn giản, lúc trước vô cùng sợ hãi, giờ nhìn thấy Sính Đình và Mạc Nhiên bình an quay lại, cứ ngỡ nguy cơ đã qua. Nghe tiếng rèm cửa, Hồng Tường mở choàng mắt, ra hiệu im lặng.

“Xuỵt!” Ngón tay lại chỉ vào trong phòng, Hồng Tường nhắm mắt, hai tay để bên má, khẽ nghiêng đầu, làm ra tư thế một người đang ngủ.

Túy Cúc ra hiệu đã hiểu, rồi vội vàng bước về phía phòng trong, ngó đầu vào.

Sính Đình đang nằm trên giường, mắt nhắm lại, giống như đang ngủ, mái tóc xõa dài, vài lọn dịu dàng rũ xuống, người đắp chăn dày, nhưng cửa sổ vẫn mở, mặc gió lạnh ùa vào.

Túy Cúc lẩm bẩm: “Vẫn không chịu sửa thói quen xấu này”. Nói rồi, nàng nhẹ nhàng đến bên giường, khẽ khàng giơ tay ra, còn chưa chạm vào cửa sổ, bỗng nghe thấy giọng Sính Đình.

“Đừng đóng, gió thổi đầu sẽ nhẹ hơn.”

Túy Cúc vội cúi xuống, Sính Đình đã mở to đôi mắt trong, sáng lấp lánh, không chút buồn ngủ nào.

“Đóng vào thôi, nhỡ lạnh không hay đâu.” Túy Cúc kiên quyết đóng cửa, rồi quay lại ngồi bên giường, thò tay vào chăn, nắm lấy cổ tay thon nhỏ của Sính Đình, giơ hai ngón tay bắt mạch, tĩnh tâm nghe ngóng một hồi, cười bảo, “Không sao”.

Túy Cúc thu tay về, hạ giọng: “Túy Cúc đã nghe Mạc Nhiên kể. Thật chẳng biết nên nói sao”.

Sính Đình nở nụ cười dịu dàng hỏi lại: “Lẽ nào cả ngươi cũng lo Vương gia không về kịp?”.

Túy Cúc lặng lẽ nhìn Sính Đình.

Vốn theo sư phụ trị bệnh cứu người, gặp không ít quý nhân quan lại, có giao tình với những thiên kim tiểu thư danh gia vọng tộc ở Đông Lâm, cả những nương nương, phi tần ở trong cung, nhưng Túy Cúc chưa từng gặp người nào như Bạch Sính Đình. Một người thông tuệ, khoáng đạt, kiêu ngạo từ trong cốt cách. Vương phủ Kính An là nơi thế nào mà sinh ra một Hà Hiệp phong lưu lỗi lạc, vác kiếm tiêu dao, nuôi dưỡng ra một nhân vật như Bạch Sính Đình?

Thấy Túy Cúc im lặng không đáp, Sính Đình cũng lặng lẽ nhìn nàng ấy.

Hai đôi mắt sáng lặng lẽ nhìn đối phương, như đang dò tâm xét ý, lại như có điều gì suy nghĩ.

Hồng Tường bất chợt bước vào, thấy hai người ngây ra nhìn nhau, bèn ngạc nhiên: “Hóa ra cô nương vẫn chưa ngủ, hại nô tỳ không dám làm ra tiếng động, sợ cô nương giật mình. Hai người nhìn nhau gì thế, lẽ nào mặt hai người đều nở hoa?”.

Túy Cúc thu lại ánh mắt, quay sang Hồng Tường, cười mắng: “Chỉ tại ngươi ồn ào, người ta đang suy tính, lại bị ngươi quấy rối”.

Sính Đình cũng nhìn Hồng Tường, hỏi: “Ngươi vào đây làm gì?”.

“Nhìn sắc trời xem…”, Hồng Tường chỉ ra ngoài, “Lúc nãy thấy Bạch cô nương ngủ nên nô tỳ không dám hỏi. Chẳng lẽ hai người không thấy đói?”.

Túy Cúc nhìn ra ngoài: “Ừ nhỉ, chẳng trách ta lại cảm thấy đói. Lo lắng cả ngày, quên ăn uống”.

“Cơm canh đã chuẩn bị xong rồi, để nô tỳ bưng lên”, Hồng Tường đi vội ra ngoài.

Tuy lo lắng cả một ngày, nhưng tay nghề của các đại nương trong nhà bếp vẫn rất tốt.

Hộp đồ ăn nhiều tầng nhanh chóng được mang lên, vẫn hai món mặn, bốn món rau, thêm mấy đĩa đồ ăn kèm.

Vốn ăn rất ít, hôm nay lại hao tâm tổn sức, Sính Đình càng nuốt không trôi, chỉ cầm đũa cho có lệ. Túy Cúc thấy nàng sắp buông đũa, vội bảo: “Ít nhất cô nương cũng phải ăn hết chỗ cơm trong bát và thêm chút canh nóng chứ”.

Túy Cúc gắp thêm vào bát nàng ít thức ăn mặn, nhìn nàng với vẻ ép buộc.

Sính Đình không muốn ăn, nhưng nhìn ánh mắt dọa nạt của Túy Cúc, đành khẽ khàng xoa bụng, rồi cố nuốt hết phần cơm và thức ăn trong bát.

Túy Cúc cười vừa ý.

Dùng bữa xong, Túy Cúc và Hồng Tường nhanh chóng dọn chỗ thức ăn.

Túy Cúc nói: “Đưa ta”, rồi để lại Hồng Tường bầu bạn với Sính Đình. Túy Cúc vừa xách hộp cơm nặng trịch ra ngoài sân, thì gặp ngay đại nương của nhà bếp lên lấy.”

“Túy Cúc cô nương, trời lạnh, cô nương không phải mang xuống đâu, để lão nương ta lên lấy”, nhìn thấy Túy Cúc, đại nương dừng bước.

Túy Cúc đưa hộp cơm cho đại nương, rồi lấy trong tay áo ra một thứ: “Đây là thực đơn của ngày mai, cứ làm theo phương thức này, bỏ thêm vài loại dược liệu, nhớ phải chọn loại thượng hạng. Tuyệt đối không được sai liều lượng”.

Người trong Trấn Bắc vương phủ đều biết đôi ba chữ, đại nương đọc qua thực đơn dưới ánh trăng, xuýt xoa: “Túy Cúc cô nương cẩn thận quá. Cô nương vất vả rồi, một bữa cơm mà cũng tốn bao tâm sức, chẳng trách gần đây sắc mặt Bạch cô nương khá lên trông thấy, chỉ là…”. Đại nương bỗng dừng lời, khuôn mặt có chút khó xử, “Mấy hôm trước hầm táo đỏ cho Bạch cô nương đã dùng hết đương quy rồi, cánh thược dược cũng chẳng còn, chỉ còn một ít tử sâm trên núi thôi”.

Túy Cúc nói: “Việc này không thể chậm trễ, ta cũng chẳng thể nói hết mọi chuyện với đại nương. Đại nương mau đi mua những thứ ấy rồi làm theo thực đơn này”.

“Trời ơi, cô nương hồ đồ rồi, tình thế này, liệu có ai được ra khỏi biệt viện? Giờ các thị vệ trông coi cổng lớn còn nghiêm ngặt hơn cả cổng thành của thành đô.”

Lúc này Túy Cúc mới nhớ ra việc đội quân đang bao vây ngoài kia, bèn vỗ trán: “Ta thật hồ đồ. Nhắc đến mới nhớ, lương thực trong nhà bếp có thể cầm cự đến mồng Sáu không?”.

“Gạo vẫn dự trữ quanh năm, không sợ đói. Thức ăn không đủ, đằng sau có vườn rau, nuôi gà vịt, nhưng cô nương nghĩ coi, biệt viện chúng ta có bao nhiêu người, nữ nhân ăn ít, không tính. Song, đám thị vệ sức dài vai rộng thế kia, không có thức ăn sao chịu nổi? Theo lão nương, thức ăn mặn giỏi lắm chỉ đủ cho một ngày nữa.” Đại nương nhìn quanh, rồi lại gần Túy Cúc, hạ giọng. “Thịt lợn ba ngày đưa tới một lần, hai hôm trước đưa đến, ăn nốt bữa hôm nay, ngày mai là hết sạch. Cũng không có cá tươi, chỉ còn cách ăn tạm gà vịt. Sở tướng quân nói đây là việc nhỏ, không được để Bạch cô nương biết càng thêm phiền lòng. Lão nương nói với cô nương, cô nương đừng nói ra ngoài”.

Túy Cúc gật đầu, bảo: “Ta và đại nương cùng xuống bếp tìm xem còn những gì, rồi tùy tình hình mà viết một thực đơn khác. Đại nương nhớ dặn kỹ họ làm theo thực đơn của ta, dù binh sĩ hùng hậu đang bao vây ngoài kia, ta cũng chỉ lo làm sao cho sức khỏe của Bạch cô nương thật tốt”.

“Đương nhiên rồi, chỉ cần có đồ, nhà bếp sẽ làm theo thực đơn của cô nương, không sai một ly.”

Bước chân lép bép giẫm trên nền tuyết, tiến về phía nhà bếp. Trăng đã lên nhưng không sáng bằng mấy hôm trước, ánh vàng nhạt phủ khắp mặt đất màu trắng.

Vừa đến cửa nhà bếp, họ bỗng nghe có tiếng động.

“Gì thế?” Túy Cúc kinh hoàng kêu lên một tiếng, ngoài cổng lớn của biệt viện đỏ rực ánh lửa, như bao bó đuốc đang cháy sáng.

Âm thanh két két của cánh cổng lớn nặng trịch mở ra giữa đêm khuya, tuy đơn điệu nhưng ẩn chứa bao nỗi nguy hiểm.

Đại nương ngẩng đầu, nhìn lửa sáng rực trời, lắp bắp: “Ông Trời ơi, không phải họ đánh đến đây rồi chứ?”.

Túy Cúc vẫn im lặng, bạo gan vòng qua sân bếp, men theo con đường nhỏ dẫn đến cổng lớn của biệt viện. Nàng khẽ khàng tới gần, trốn sau bức tường, nhìn ra bên ngoài thấy một hàng người đang cầm những bó đuốc. Giờ này, không ai khác ngoài người của Hà Hiệp có thể đến đây.

Một lúc sau, cổng lớn từ từ khép lại, ngăn ánh lửa của những bó đuốc bên ngoài.

Thấy Mạc Nhiên dẫn theo hai thị vệ đang đẩy chiếc xe được che chắn cẩn thận ngang qua, Túy Cúc vội vã chạy ra.

“Ai?”, Mạc Nhiên hô khẽ, hai thị vệ bên cạnh lập tức rút kiếm.

“Là ta.”

Mạc Nhiên thở phào nhẹ nhõm, trách: “Đêm hôm khuya khoắt, cô nương không ở cạnh Bạch cô nương còn chạy ra đây làm gì? Chỗ này chưa đủ loạn hay sao?”.

Thấy rõ là Túy Cúc, hai thị vệ lại tra kiếm vào bao.

“Ta vốn định sang nhà bếp, nghe có tiếng động nên qua đây. Những người đó đến làm gì?”

“Tặng đồ.”

“Tặng đồ?”

“Thịt cá tươi, các loại quả khô. Ta đã kiểm nghiệm qua rồi, bên trong chỉ toàn đồ ăn, không có người hay binh khí.” Mạc Nhiên cười khổ, chỉ vào chiếc xe chất đầy đồ phía sau, “Cô nương đến đúng lúc lắm, sau khi đưa đồ vào nhà bếp, cô nương hãy dùng kim kiểm tra kỹ từng thứ một, xem có gì khác lạ không?”.

Túy Cúc nhìn qua chiếc xe chất đầy đồ, không nén được tiếng thở dài: “Hà Hiệp đích xác là nhân vật nổi danh, chắc sẽ không dùng thủ đoạn hèn hạ như vậy, nhưng, kiểm nghiệm kỹ vẫn hơn”.

Hai thị vệ giúp Túy Cúc đẩy xe vào bếp, rồi dỡ hết đồ xuống. Ngoài thịt lợn, thịt bò, cá tươi và những đồ ăn bình thường khác, còn không ít đồ quý hiếm.

Mấy món dân dã của Quy Lạc do đầu bếp chính thống Quy Lạc chế biến, cá khô hảo hạng, đặc sản dành cho bậc đế vương Bắc Mạc, và cả đĩa điểm tâm trong mềm ngoài giòn.

Các đại nương nhà bếp đứng cạnh nhìn Túy Cúc kiểm nghiệm từng món. Thấy đĩa điểm tâm vô cùng bắt mắt, bày khéo léo, ai nấy đều xuýt xoa: “Ai cũng bảo đồ điểm tâm Quy Lạc ngon nhất, chỉ nhìn đã thấy không đơn giản rồi”.

Ngoài ra còn có một hộp mạ vàng được bọc đến mấy lớp tơ lụa, đặt sâu dưới thùng xe. Túy Cúc giở từng lớp lụa ra, bên trong không phải là đồ ăn mà đựng toàn những thứ lặt vặt của nữ nhân.

Một hộp nhỏ, trong là cao dưỡng da tay loại thượng hạng. Một chiếc gương đồng có cán. Một cái lược làm bằng ngọc phỉ thúy. Dưới ba vật trên là mười mấy viên sỏi muôn vàn màu sắc dàn thành lớp mỏng. Túy Cúc không sao rời được ánh mắt, xuýt xoa thở dài.

Kiểm nghiệm xong mọi thứ, trời cũng gần sáng, Túy Cúc mệt mỏi, nói với mấy đại nương trong bếp: “Những thứ này đều là đồ thượng hạng, cứ dùng thoải mái. Hà Hiệp thật tinh tế, còn tặng cả đương quy bổ dưỡng chuyên dùng cho nữ nhân. Thực đơn vẫn giữ nguyên, làm theo cách ta đưa tối qua”.

“Nhưng vẫn không có cánh hoa thược dược.”

“Không có thì thôi, bỏ đi. Thiếu mỗi cánh thược dược cũng chẳng sao, đương quy quan trọng nhất.” Túy Cúc mệt mỏi xoa bóp hai vai, rồi ôm hộp mạ vàng quay về tiểu viện.

Hồng Tường đã ngủ dậy, đang đứng vươn vai trên sân tuyết, thấy Túy Cúc, liền hỏi: “Người đi đâu cả buổi tối thế? Trước khi ngủ, Bạch cô nương còn hỏi Túy Cúc sang nhà bếp sao mãi chưa về”.

“Bạch cô nương đâu?”

“Còn đang ngủ.” Hồng Tường hất cằm về phía cửa phòng, “Tối qua ta ngủ trong phòng cùng Bạch cô nương, thấy cô nương trằn trọc cả đêm, chắc không ngủ được. Nghe đám thị vệ nói, ngoài kia vẫn bị bao vây? Hôm qua Bạch cô nương và Sở tướng quân ra ngoài, chẳng phải họ đã lui rồi ư? Sao lại có cái hẹn mồng Sáu, nếu mồng Sáu vương gia không về thì phải làm thế nào?”.

Túy Cúc trầm giọng: “Ngươi muốn lo lắng cũng chẳng được, tốt nhất đừng hỏi”.

Cứ ngỡ đám thị vệ thường ngày vẫn hay đùa chỉ dọa mình thế thôi, lúc này mới biết nguy hiểm vẫn chưa qua, sắc mặc Hồng Tường lại trắng bệch vì sợ hãi.

Biết tình hình thực tế còn tồi tệ hơn những điều Hồng Tường nghe ngóng được, Túy Cúc cũng chẳng muốn nói nhiều, chỉ vỗ vai nha đầu ấy, rồi bước lên bậc thềm, vào trong phòng.

Đã dậy từ lâu, Sính Đình bỏ chăn qua một bên, trên người khoác chiếc áo bông màu tím nhạt. Nàng ngồi nghiêng đầu trên giường, năm ngón tay khẽ chải mái tóc dài đang rủ xuống. Thấy Túy Cúc bước vào với chiếc hộp mạ vàng, nàng ngó qua hỏi: “Gì thế?”.

Túy Cúc biết lòng Sính Đình bất an, muốn chọc cho nàng nói chuyện, bèn đặt cái hộp mạ vàng xuống đầu giường, trêu đùa: “Cô nương đoán xem. Cô nương mà đoán được thì Túy Cúc phục thật đấy”.

Sính Đình lạnh nhạt nhìn cái hộp: “Là những thứ khiến người ta phiền lòng…”. Nàng thở dài, rồi mặc kệ Túy Cúc, tự mình mở hộp.

Nhìn thật kỹ ba thứ trong hộp, Sính Đình lặng lẽ cầm cái lược lên, hồn vía như đã bay đến tận đâu, giọng xa xăm: “Đây là chiếc lược ta vẫn dùng khi ở vương phủ Kính An”.

Nói rồi, nàng đặt lược xuống, chẳng động gì đến hai thứ kia, mà cầm những viên sỏi lên đếm, rồi lại nhẹ nhàng đặt về chỗ cũ, cho đến khi bàn tay trống rỗng. Sính Đình cười chua chát: “Ta mang tình nghĩa mười lăm năm ra gạt Hà Hiệp, Hà Hiệp lấy tình nghĩa mười lăm năm để dụ ta”. Nàng đóng hộp lại, xuống giường.

Sính Đình rửa mặt bằng nước nóng xong, Túy Cúc lại chải đầu cho nàng. Túy Cúc nâng mái tóc mềm mượt trong lòng bàn tay, tỉ mỉ búi kiểu mẫu đơn đoan trang, nhìn khuôn mặt Sính Đình không buồn không vui, như bị lớp sương mù bao phủ, chẳng biết trong lòng đang nghĩ gì.

“Cô nương… sao không nói gì?”

Im lặng hồi lâu, Sính Đình mới trả lời: “Ta rất mệt”.

Túy Cúc nói: “Cảm thấy mệt thì ngủ thêm một lúc, đằng nào cũng chẳng có việc gì. Túy Cúc đã bảo nhà bếp nấu món cháo đậu đỏ, khi nào cô nương dậy, họ sẽ đưa qua”.

Sính Đình lắc đầu.

Túy Cúc vừa đặt lược xuống, Sính Đình ngắm mình trong gương, rồi đứng dậy, vén rèm đi ra cửa. Túy Cúc vội vã chạy theo. Sính Đình vào phòng bên, một lúc sau bê vò hoa mai hôm qua ra.

“Để Túy Cúc bưng.”

Sính Đình nghiêng người tránh hai tay Túy Cúc, lặng lẽ bê vò mai xuống bậc thềm, ra chỗ Hồng Tường đã quét sạch tuyết hôm qua. Sau một đêm, mặt đất đã phủ thêm lớp tuyết mỏng.

Sính Đình đặt vò xuống, cầm chổi quét thêm một lần, rồi đi lấy xẻng.

Nhìn dáng điệu lặng lẽ của nàng, Túy Cúc bỗng thấy sợ mà chẳng dám lên tiếng, chỉ đứng bên cạnh, thỉnh thoảng nhắc: “Cẩn thận một chút”.

Sính Đình không dùng sức, chỉ đảo từng xẻng nhỏ. Lớp đất trên cùng rất cứng, nhưng đào qua lớp đất ấy, phần bên dưới mềm xốp, dễ đào hơn nhiều.

Lúc lâu sau, một hố nhỏ mới thành hình, trán Sính Đình lấm tấm mồ hôi, hai má đỏ hồng.

Cũng không vội, nàng đặt xẻng xuống, nghỉ một lát cho lại sức, rồi bê chiếc vò bên cạnh, đặt ngay ngắn ở chính giữa, ngắm nghĩa hồi lâu mới thấy hài lòng. Sính Đình chẳng ngại bẩn, tự tay bốc bùn, chôn vò xuống đất.

Làm xong, Sính Đình khẽ thở ra, ngẩng đầu, cười tươi tắn với Túy Cúc đang đứng bên cạnh: “Còn thiếu mỗi việc đốt lửa bên trên thôi”.

Đôi mắt nàng sáng rõ, nét cười trong đó dập dờn như sóng nước, dịu dàng vô cùng.

Chẳng hiểu tại sao, Túy Cúc bỗng thấy lòng mình chùng xuống, sống mũi cay cay, suýt chút nữa thì bật khóc, vội vàng quay đi lau mắt, lấy lại tinh thần, trả lời: “Để Túy Cúc đi lấy củi”.

Túy Cúc lấy củi khô trong bếp, rồi gọi thêm Hồng Tường, chất thành một đống trên mặt đất vừa lấp bằng, nhóm lửa. Một lúc sau, tiếng củi cháy lách tách, lửa bốc thành ngọn, bùng lên trên nền tuyết trắng. Ánh lửa ấm áp nhuộm đỏ ba khuôn mặt.

Sính Đình toát mồ hôi, tinh thần khá hơn chút ít, nàng dịu dàng nhìn ánh lửa, bỗng lên tiếng: “Đằng nào cũng nhóm lửa rồi, không thể cứ đứng thế này. Qua nhà bếp lấy thịt và muối ra đây, chúng ta nướng ăn”.

Đang vô cùng lo lắng về việc ngoài kia vẫn đang bị bao vây, cũng hiểu rõ đạo lý tự tìm niềm vui trong đau khổ, Hồng Tường nhận lời ngay: “Nô tỳ đi ngay”.

Một lúc sau, Hồng Tường khệ nệ bê cái giỏ rất nặng, đạp tuyết quay lại.

“Sườn lợn, cánh gà, đùi vịt rửa sạch, hai con cá đã bỏ ruột và đầu. Không biết cô nương thích nướng món gì, để nô tỳ đi bảo các đại nương bên nhà bếp chuẩn bị. “Hồng Tường đặt giỏ xuống, trải chiếc khăn màu xanh xuống nền tuyết, rồi đặt từng thứ ra. “Có cả muối và ngũ vị hương, các đại nương còn nói, ăn đồ nướng sẽ bị khô, nhà bếp sắp hầm xong canh, lát nữa sẽ mang sang cho chúng ta.”

Sính Đình vỗ tay reo lên: “Hồng Tường chu đáo đấy, nếu ta là tướng quân, thế nào cũng phong ngươi là quan hậu cần”. Nàng ngồi trên ghế, vai khoác thêm chiếc áo choàng dày. Sợ nàng lạnh, nên nhân lúc Hồng Tường sang nhà bếp, Túy Cúc đã về phòng mang áo ra.

Nhìn Sính Đình cười rạng rỡ, Hồng Tường cũng thấy lòng nhẹ đi vài phần, cười nói: “Không chỉ có thể. Các đại nương còn bảo, nướng thịt không thể nướng bằng tay, phải có cái gì xâu lại, nên nô tỳ đã kịp mang mấy cái que nhỏ sang đây”. Hồng Tường cúi xuống tìm, quả nhiên lôi ra mấy cái que nhỏ sạch sẽ, một đầu quấn vải.

Mọi thứ đều đầy đủ, ba người ngồi quanh đống lửa thưởng thức bữa nướng ngày đông.

Họ tay cầm que xiên thịt hoặc cá, đặt trên đống lửa, nhìn ngọn lửa đỏ từ từ nướng chín miếng thịt, cảm giác tươi ngon và thích thú, càng nướng càng thấy ham.

“Cha nô tỳ là thợ săn, hồi nhỏ, nô tỳ hay theo cha lên núi, cũng được nướng thịt kiểu này vài lần.” Rất có kinh nghiệm, Hồng Tường xoay xoay cái que trong tay, thở dài: “Sau khi vào Trấn Bắc vương phủ, nô tỳ không còn được thế này nữa”.

“Sao ngươi lại vào Trấn Bắc vương phủ? Vương gia mua ngươi à?”

Hồng Tường vội vã lắc đầu: “Trần Bắc vương phủ cần gì phải mua ai. Không lo ăn mặc, ít bị chửi mắng, chủ nhân lại là Vương gia, bao người xếp hàng chờ vào vương phủ mà không được. Nếu nô tỳ vẫn theo cha, hôm nào săn bắt được còn có chút vào bụng, hôm nào không bắt được gì chỉ có nước chịu đói, cuộc sống khổ sở hơn nhiều. Nô tỳ cũng được gọi là tốt số, nên mới được vào đây, thỉnh thoảng còn có chút gì gửi về cho cha”.

Lần đầu nghe Hồng Tường kể chuyện này, Túy Cúc hỏi: “Đến chỗ hẻo lánh thế này, ngươi không nhớ cha sao?”.

“Sao lại không? Nhưng mà, có nhớ cũng chẳng làm thế nào, cha ta không có phúc, ta vào vương phủ được ba năm, cha ta đã ốm mà qua đời. Khi rời khỏi thành đô, Vương gia quyết định cho tôi tớ hồi hương, thấy ta đáng thương chẳng có nơi nào để đi, nên đã cho ta ở lại.”

Giờ Túy Cúc mới hiểu, sao biệt viện này rất ít thị nữ trung niên, mà đa phần là các đại nương, xem ra họ đều là người già trong vương phủ, có đi cũng chẳng biết phải đi đâu.

Túy Cúc nướng đùi vịt, thịt dày, khó chín, nên đành nhẫn nại xoay đi xoay lại, ánh mắt nhìn về phía Sính Đình, nhắc nhở: “Lửa cháy hoa cả mắt, ăn đồ nướng sẽ bị nóng, không tốt cho sức khỏe”.

Đúng lúc con cá trong tay Sính Đình vừa chín tới. Vốn là người cẩn thận, tuy lần đầu tiên tự tay làm thứ này, nhưng nàng cũng nướng được vàng ruộm, thơm lừng. Nghe Túy Cúc nói thế, Sính Đình gỡ con cá khỏi que, cẩn thận đặt lên đĩa, đẩy qua: “Nếu thế ta không ăn nữa, hai người ăn đi”.

Đang muốn ăn cá nướng, thấy thế Hồng Tường reo lên, đưa cái que trong tay cho Túy Cúc: “Cầm hộ ta!”, rồi bê đĩa cá nướng thơm phức.

Thấy Sính Đình lo lắng cho hài nhi trong bụng, Túy Cúc mỉm cười khích lệ: “Cô nương không ăn thứ này vẫn có những thứ khác ngon hơn. Túy Cúc đã dặn các đại nương chuẩn bị món móng giò hầm đương quy táo đỏ rồi”.

Vừa nói xong, họ đã thấy đại nương tay xách giỏ đi vào tiểu viện. nhìn ba người đang hứng thú vui vẻ, đại nương cười nói: “Cẩn thận bị que chọc vào tay, lão nương đã mấy lần bị thế rồi”. Đại nương lấy trong giỏ ra hộp thức ăn, bưng cho mỗi người một bát canh. Phần của Túy Cúc và Hồng Tường là món canh sườn hầm măng nóng hổi, của Sính Đình là bát canh móng giò hầm đương quy táo đỏ.

Sính Đình cầm thìa, nhìn hai người kia ăn đồ nướng, khẽ mỉm cười, chậm rãi ăn hết phần trong bát của mình.

Sau nửa canh giờ ăn uống no nê, củi cũng sắp cháy hết, ba người đứng lên, lấy nước dập lửa.

Hồng Tường hỏi: “Có lấy vò ra không?”.

“Không, ủ trong đất, hương vị sẽ càng ngon, đợi khi nào Vương gia về sẽ lấy ra.”

Cứ như thế, một buổi sáng đã trôi qua, thời gian tiếp theo cũng dễ chịu hơn nhiều. Ngồi nói chuyện trong phòng với Túy Cúc, Hồng Tường thêm lúc nữa, Sính Đình mới nghỉ trưa. Nàng ngủ một giấc gần ba canh giờ, đến khi tỉnh dậy, trời đã sẩm tối.

Mơ hồ thức giấc, nàng mở cửa sổ, gió không lớn lắm, mây dày đặc, chẳng thấy rõ trăng đang trốn nơi nào.

“Túy Cúc? Túy Cúc?”, nàng vội vã gọi liền hai tiếng.

Túy Cúc từ ngoài đi vào: “Cô nương dậy rồi à?”.

“Giờ gì rồi? Trăng đã lên đến đỉnh chưa? Đã mồng Sáu chưa?”

Túy Cúc giật mình, chậm rãi bước qua, ngồi xuống bên giường, trả lời: “Bạch cô nương, trời vừa tối, hôm nay vẫn là mồng Năm”.

Nghe Túy Cúc nói vậy, khuôn mặt Sính Đình cũng bớt phần lo lắng, khẽ “ừ” một tiếng, như thể trút được gánh nặng. Nàng lại ngả người ra sau, nằm xuống.

Túy Cúc hỏi: “Nhà bếp đã mang đến tối qua, Túy Cúc thấy cô nương ngủ say nên bảo Hồng Tường đừng gọi. Cơm vẫn đang hâm nóng trên lò nhỏ phòng bên. Cô nương dậy rồi thì ăn một chút nhé”.

Hồng Tường bê cơm canh nóng hổi vào.

Sính Đình miễn cương ăn được nửa bát, cau mày: “Ta không ăn nổi nữa”, rồi buông đũa.

Thấy vẻ Sính Đình không thể nuốt nổi, biết cố khuyên cũng chẳng ích gì, Túy Cúc dịu dàng bảo: “Không ăn thì thôi vậy”.

Hồng Tường nhanh chóng thu dọn cơm canh, cùng với Túy Cúc ra khỏi phòng. Hai người dừng ở cửa, Hồng Tường hỏi: “Buổi sáng vẫn không sao, nói cười bình thường, cứ như quên hết mọi chuyện rồi. Sao ngủ một giấc dậy lại thành như thế? Xem ra quá thông minh cũng chẳng phải hay, tính tình kỳ lạ cổ quái”.

Túy Cúc vội ra hiệu ra cho Hồng Tường yên lặng, rồi hạ giọng trách mắng: “Ngươi thì hiểu cái gì? Nếu người là Bạch cô nương, e là đã phát điên từ lâu rồi”.

Hồng Tường le lưỡi, đi vào phòng bên.

Túy Cúc đứng một mình bên cửa, nhìn sắc tuyết ảm đạm trước sân. Gió lạnh ùa vào, lúc này nàng bỗng có cảm giác như Sính Đình từng nói, sảng khoái hơn nhiều.

Đâu chỉ mình Sính Đình rầu lòng, bản thân nàng cũng thấy trái tim đau như bị mèo cào.

Điều đáng hận nhất là còn cả một vực sâu nguy hiểm đang chắn trước mắt nàng.

Tứ quốc phân tranh ngày càng ác liệt, mấy năm trước đại quân Đông Lâm xâm phạm Quy Lạc, Bắc Mạc, giờ đến lượt Vân Thường và Bắc Mạc liên quân xâm chiếm Đông Lâm.

Đánh đánh giết giết, chưa từng ngơi nghỉ.

Những kẻ nắm rõ thời cuộc, kể cả đám người giàu sang phú quý ngu dốt đều có cảm giác được bữa sớm lo bữa tối.

Sư phụ Hoắc Vũ Nam của nàng xuất thân từ tầng lớp quý tộc, có quan hệ chặt chẽ với giới quý tộc Đông Lâm, nên nàng càng cảm nhận rõ vấn đề này.

Chẳng ai dám đảm bảo quốc gia mình không bị quân địch nhòm ngó bờ cõi, cửa nhà không bị thiêu thành tro tàn.

Quốc chính là gia. Có gia mới có quốc.

Ai mà không thế?

Túy Cúc lặng lẽ thở dài, cảm giác bức bối đến phát đau. Nàng cắn răng, cởi bớt vạt áo bên ngoài, để gió lạnh ùa vào người, cho đến khi dòng huyết trong ngực nguội lạnh. Khẽ rùng mình, nàng cài vạt áo, mang trà nóng sang cho Sính Đình, rồi an ủi Sính Đình ngủ tiếp.

Đêm đến, Túy Cúc vẫn ngủ trên chiếc giường khác trong phòng Sính Đình.

Bỗng thấy có tiếng động, Túy Cúc vội ngồi dậy dụi mắt. Sính Đình đã tỉnh giấc ngồi trên giường.

“Bạch cô nương, sao cô nương đã dậy?”, Túy Cúc xuống giường, đến bên Sính Đình, khẽ hỏi.

Sính Đình lặng lẽ ngồi nhìn ra cửa sổ, đáp: “Trăng lên rồi”.

Túy Cúc nhìn theo ánh mắt Sính Đình, trăng đã lên, nhưng rất mờ nhạt, ẩn giữa những tầng mây.

Quan sát kỹ, trăng đã chếch sang bên.

Đã tới mồng Sáu…

Túy Cúc thấy lòng mình chùng xuống, dịu dàng: “Còn một ngày nữa, Vương gia đang trên đường về”.

Giọng Sính Đình vô cùng bình thản: “Chắc chàng đang trên lưng ngựa, mệt mỏi vô cùng, cổ họng vừa rát vừa khát, cả người bám đầy bụi đất, trên vai bao nhiêu là tuyết”.

Giọng Sính Đình như vọng lại từ phương xa nào tới, tựa tiếng đàn cất lên nơi u cốc, khiến muôn hoa trên cây cũng phải rơi xuống. Túy Cúc chăm chú nhìn thần sắc Sính Đình, nhưng không thể đoán nổi nàng đang nghĩ gì.

Túy Cúc khẽ đắp chăn cho Sính Đình, cùng Sính Đình ngồi ngắm trăng bên cửa sổ. Hơn một canh giờ sau, Túy Cúc dịu giọng khuyên: “Ngủ đi”.

Sính Đình ngoan ngoãn nằm xuống, nhắm mắt. Túy Cúc cũng bớt lo, bước xuống, đi về phía giường của mình, như cảm thấy đôi mắt người sau lưng mở to, bất giác quay lại nhìn.

“Cô nương sao thế?”

Sính Đình nhìn Túy Cúc, bật cười: “Không sao cả”, rồi lại ngoan ngoãn nhắm mắt.

Đêm đó ở Hoa phủ, Sở Bắc Tiệp tưởng nàng là thị nữ câm của Hoa tiểu thư, thấy nàng bệnh, hình như chàng cũng nói câu “Ngủ đi” này.

Người ấy muốn gì làm nấy, chẳng để tâm đến tục lệ thế gian. Khi hai bên còn chưa quen biết, chàng đã ôm eo, bế nàng về căn phòng nhỏ, đặt nàng lên giường, còn vụng về đắp chăn cho nàng.

Câu nói cứng nhắc “Ngủ đi!” như lời của bậc tướng quân ra lệnh cho binh sĩ, nay nghĩ đến, thật khiến ngươi ta nhòa lệ.

Chàng sẽ về, nhất định sẽ về.

Mười ngón tay ngọc nắm chặt kiên cường.

Nếu tình yêu sâu đậm chỉ có bấy nhiêu, dù dịu dàng như nước, tôi luyện thành lưỡng kiếm Ly hồn và Thần uy, cũng có tác dụng gì?

Trăng đã chếch sang bên, ngày mồng Sáu đã tới.

Sở Bắc Tiệp lao đi như bay.

Gió Bắc tê buốt, thét gào bên tai.

Đã bao lần chàng phi ngựa như tên bắn trong gió, tuấn mã tung bốn vó, đường trường rong ruổi, gió thổi bạt áo chàng, bay phần phật, để dòng sông thuần phục dưới chân, để dãy núi cao ngạo phải cúi đầu.

Ngựa phi như bay, oanh liệt mà sảng khoái.

Lúc này đây, chàng không còn cảm nhận được chút gì sảng khoái.

Gió thét gào rát mặt, nhưng cảm giác đau như dao cứa ấy chẳng thể sánh được với nỗi đau trong tim chàng. Trái tim như bị lửa đốt của chàng đang treo lơ lửng giữa tầng không.

Biệt viện ẩn cư yên tĩnh cách xa tầm mắt, nhưng hương mai thoang thoảng cứ quẩn quanh trái tim nóng rẫy của chàng.

Vốn hiểu rõ tính tình vương huynh, nay thấy ca ca dốc hết tâm huyết, không từ thủ đoạn giữ mình lại thành đô, Sở Bắc Tiệp cũng đoán được cách đối phó nơi biệt viện ẩn cư sẽ kinh khủng nhường nào.

Mười ngón tay ngọc chỉ biết gảy đàn của Sính Đình sao có thể đối phó với sự khiêu chiến của Đông Lâm vương?

Liệu có phải thân hình mảnh mai ấy giờ đang đứng trước gươm đao sáng loáng?

Dáng hình yếu mềm của nàng, chàng có ôm bao nhiêu lần nữa cũng không thấy đủ…

Khuôn mặt nhỏ nhắn, thanh tú của nàng, chàng có ngắm bao nhiêu lần nữa cũng không thấy đủ…

Tiếng đàn uyển chuyển của nàng, chàng có nghe bao nhiêu lần cũng vẫn như lần đầu…

Nữ nhân khiến người ta yêu thương ấy, sao không thể giơ cao đánh khẽ mà bỏ qua cho nàng?

Nàng đã quy ẩn.

Nàng đã không màng đến chuyện thế gian.

Nàng đã phải chịu bao đau đớn, bao tổn thương, chỉ mong quên hết chuyện cũ, bằng lòng làm một nữ nhân.

Nữ nhân của Sở Bắc Tiệp.

“Sính Đình không hề tham lam, chỉ mong trước khi dẫn quân ra chiến trường, chàng trở về gặp Sính Đình. Vào sinh thần của Vương gia, Sính Đình sẽ nói với chàng một việc rất quan trọng.”

Tâm nguyện thật đơn giản biết bao!

Tâm nguyện mà một nam nhân bình thường cũng có thể đáp ứng.

Nhưng chàng không phải nam nhân bình thường. Chàng là Sở Bắc Tiệp, là Trấn Bắc vương của Đông Lâm.

Sở Bắc Tiệp vung roi, quất mạnh lên lưng ngựa, đôi mắt vằn đỏ. Gió thổi tung vạt áo, nhưng vẫn chẳng thể thổi tắt ngọn lửa đang thiêu đốt tâm can chàng.

Hai bên tuyết trộn lẫn bùn, con đường ở giữa vươn dài thẳng tắp, như không có điểm dừng.

Đường về nhà chưa bao giờ dài đến thế.

Ánh mắt Sở Bắc Tiệp nhìn thẳng về phía trước.

Ánh mắt xuyên qua thăm thẳm vạn tầng mây, Sính Đình liệu có an toàn?

Không thấy dung nhan kiều diễm của Sính Đình, lọt vào tầm mắt Sở Bắc Tiệp là lá cờ thấp thoáng đằng xa. Đội quân phía trước đang thúc ngựa tiến tới. Sở Bắc Tiệp căng hết tầm mắt nhìn lá cờ tung bay trong gió, hiện rõ chữ “Mâu” quen thuộc.

Lòng như trĩu nặng, chàng vung roi thúc tuấn mã đã mệt đến sùi bọt mép, xông đến đội quân phía trước, ghìm cương, hét lớn: “Thần Mâu ở đâu?”, giọng khản đặc đến khó nghe bởi lâu không uống nước.

Thấy Sở Bắc Tiệp, Thần Mâu vội vã xuất hiện, nhảy xuống ngựa, hành lễ: “Vương gia, Thần Mâu có mặt!”.

“Ngươi quản lý doanh trại Long Hổ, sao dám tự ý rời bỏ vị trí?”

Thần Mâu đáp: “Mạt tướng nhận được điều lệnh của Đại vương, năm ngày trước đến Lạc Minh bẩm báo với Phú Lang vương, giờ về thành đô bái kiến Đại vương”.

“Doanh trại Long Hổ giờ do ai tiếp quản?”

“Phụng vương lệnh, do thuộc hạ của Phú Lang vương là Phong Mân tạm thời tiếp quản.”

Phong Mân tướng quân đã nhận lệnh của Phú Lang vương tiếp quản doanh trại. Dù có Thần uy bảo kiếm trong tay, nhưng với thân phận hiện nay, Sính Đình không thể điều động được đại quân Long Hổ.

Đông Lâm vương đối phó với đệ đệ mình chẳng chút sơ hở.

Sở Bắc Tiệp tức giận đến đau lòng, trời đất như chao đảo.

Sính Đình không nơi cầu cứu, chỉ mình chàng là hy vọng duy nhất.

Với trí tuệ của Sính Đình và cái hẹn mồng Sáu, nhất định nàng sẽ cố nghĩ cách để trì hoãn quân địch, cho đến lúc chàng trở về biệt viện.

Đợi ta, nàng hãy đợi ta!

Hai bàn tay rộp máu, nhưng Sở Bắc Tiệp không hề đau. Chàng nắm chặt dây cương, ngồi thẳng trên lưng ngựa.

Theo Sở Bắc Tiệp chinh chiến trên sa trường nhiều năm, thấy bộ dạng Vương gia lúc này, Thần Mâu biết chàng đã cưỡi ngựa nhiều canh giờ, hai tay cung kính dâng lên túi nước của mình: “Vương gia uống ngụm nước. Vương gia đang vội ra chiến trường sao? Khẩn cấp thế này, e là binh sĩ và tuấn mã không chịu nổi”.

Sở Bắc Tiệp nhận lấy túi nước, ngửa cổ tu ừng ực hết sạch, rồi quay lại nhìn ba ngàn quân tinh nhuệ đã theo mình suốt một ngày hai đêm.

Ra khỏi thành đô, suốt chặng đường họ chỉ biết vung roi, không hề ngừng nghỉ, ai cũng sức cùng lực kiệt, bàn tay cầm dây cương rướm máu, dọc đường đã có mấy chục binh sĩ không chịu được mà ngã lăn ra đất.

Cầm quân đã nhiều năm, chưa bao giờ chàng không biết thương xót quân sĩ đến thế.

Lòng trĩu nặng, Sở Bắc Tiệp quay lại hỏi Thần Mâu: “Ngươi dẫn theo bao nhiêu quân?”.

“Không nhiều, một ngàn bảy trăm người, đều là quân tinh nhuệ trong tay mạt tướng.”

“Giao cả cho ta.” Sở Bắc Tiệp rút binh phù, giơ lên không trung, hét lớn, “Bản vương thống lĩnh binh mã toàn quốc, các tướng sĩ nghe lệnh! Ba ngàn kỵ binh tinh nhuệ của quân cấm thành nếu đã kiệt sức, hãy theo Thần Mâu trở về. Một ngàn bảy trăm người dưới quyền Thần Mâu sẽ thuộc quyền chỉ huy của bản vương, lập tức theo bản vương. Đi!”. Chàng nhảy xuống ngựa, chuyển sang tuấn mã khỏe mạnh tươi tỉnh của Thần Mâu, trầm giọng, “Cho ta mượn ngựa của ngươi”.

“Vương gia vội vã đi đâu thế?”

“Mồng Sáu, bản vương nhất định phải trở về biệt viện ẩn cư trước khi trăng lên đỉnh.”

Thần Mâu ngạc nhiên: “Giờ đã là mồng Sáu, còn mười canh giờ nữa, làm sao về kịp?”.

Như không nghe thấy gì, Sở Bắc Tiệp kéo căng dây cương, tuấn mã hí vang, lao về phía trước.

Thần Mâu không biết cụ thể đã xảy ra chuyện gì, nhưng cũng biết tình thế cấp bách. Thấy bóng Sở Bắc Tiệp thoắt cái đã mờ xa, hắn cắn răng chặn phó tướng lại.

“Ta đi theo Vương gia, ngươi dẫn đội binh lính kia về thành đô trước. Đổi ngựa cho ta.”

Thần Mâu nhanh chóng lên ngựa, rút roi, đuổi theo đoàn kỵ binh đang cuồn cuộn tiến về phía trước.

Con đường đất vàng bụi bay mù mịt.

Mồng Sáu.

Sính Đình.

Đã đến sinh thần của ta.

Không khí trầm lặng khiến người ta ngạt thở bao trùm khắp biệt viện.

Rừng núi bên ngoài vẫn chìm trong tuyết trắng, mặt trăng đã lui đi, mặt trời lấp ló những tia nắng đầu tiên sau tầng mây nhạt.

Tuyết lại bắt đầu rơi.

Muôn vàn bông tuyết nhỏ chao nghiêng trong gió.

Tiếng đàn véo von ngân nga trong mênh mang tuyết trắng, vượt qua tường cao, như vệt sáng xoẹt qua nền trời xanh thẳm.

Sính Đình gảy đàn.

Đã sang mồng Sáu, liệu cánh tay cầm kiếm của những binh sĩ đang bao vây ngoài kia có chắc thêm vài phần?

Mồng Sáu, người mang dáng hình vững chãi như bóng núi, giọng cười hào sảng vô cùng đã sinh ra vào ngày tuyết rơi.

Chàng nhận được sự sủng ái của ông Trời.

Ông Trời cho chàng thân thế hiển hách, cơ thể tráng kiện, sống mũi cao thẳng, ánh mắt đen sáng ngời, sự tự tin và uy nghiêm bẩm sinh.

Ông Trời đã tạo ra một Sở Bắc Tiệp anh hùng cái thế để nàng không sao cầm lòng mà hồn xiêu phách lạc, cung thuận phục tùng.

Mồng Sáu chính là hôm nay.

Ngón tay Sính Đình chạm lên dây đàn.

Nàng có duyên với đàn, đàn là thanh, là âm của nàng.

Mỗi khi đặt tay lên mấy dây đàn, nàng mới có thể vứt bỏ phía sau mọi lo lắng khiến nàng ngạt thở. Nhắm mắt lại, Sính Đình vô ưu vô lo chìm vào hồi ức.

Chuyện xưa lần lượt hiện ra trước mắt, nàng vẫn nhớ rõ.

Hôm đó nhìn chàng qua tấm rèm, trái tim nàng giờ vẫn loạn nhịp.

Dường như chàng đang quay lại con đường ruột dê, hình bóng Sở Bắc Tiệp ung dung trong vội vã, tiếng ngựa gõ móng tới gần, chàng túm lấy eo nàng, ôm chặt vào lòng. Lồng ngực nhiệt huyết của chàng, nhịp tim vững chãi của chàng như vẫn ngay đây.

Dường như chàng chưa từng rời đi, vẫn bưng bát canh, vụng về đút cho nàng, dỗ nàng vào giấc ngủ, cùng nàng thưởng nguyệt ngắm sao, không hề ngần ngại.

n ân oán oán, ngọt ngào đến thế, nhưng trái tim cũng tan thành trăm mảnh.

Chàng sao có thể không yêu nàng?

Chàng sao có thể không giữ lời hứa, quên hẹn ước với nàng?

Chàng sao có thể vì dòng máu anh hùng không ngừng chảy trong huyết quản, vì chuyện quốc gia đại sự mà nhẫn tâm bỏ mặc nàng?

Bắc Tiệp, nếu Sính Đình là người quan trọng nhất trong lòng chàng, vậy thì thiên hạ rộng lớn này, liệu điều gì ngăn nổi bước chân chàng trở về bên thiếp?

Thiếp đã chôn vò Tố hương bán vận, đợi chàng nơi đây.

Túy Cúc đứng lặng một bên, chăm chú nhìn Sính Đình đang say với cây đàn. Dáng hình gầy yếu, nhưng sống lưng thẳng tắp, như được chống đỡ bằng khung xương thép vững chãi.

Túy Cúc lắng tai nghe.

Tiếng đàn như khóc, như than, như lời kể về câu chuyện đã qua, khiến người ta đau đớn khôn cùng, dẫu chưa từng trải qua.

Chỉ là loạn thế đau thương, hà tất phải dệt nên âm sắc trong trẻo nhường ấy.

Quốc trọng, hay tình trọng?

Phải bảo vệ tình yêu hiếm có trong đời, hay nên bảo toàn tổ quốc thân yêu?

Tâm sự vẫn cất giấu tận sâu trong đáy lòng, không dám chạm tới, cây kim vẫn lơ lửng chốn không trung bấy lâu giờ đang châm thẳng vào lục phủ ngũ tạng, khiến Túy Cúc đau đến tột cùng.

Con người đâu phải cỏ cây, sao có thể vô tình?

Dây đàn mỏng manh bỗng trở thành vũ khí sắc bén cứa rách con tim, giày vò Sính Đình ướt đẫm mồ hôi, đầu ngón tay nhỏ máu.

Không sao chịu đựng thêm tiếng đàn đang thâm nhập vào mọi ngóc ngách không gian, Túy Cúc tiến lên một bước, cố nén tình cảm trào dâng, khẽ giọng: “Cô nương, dừng lại đi. Bữa trưa đã mang tới lúc lâu rồi”.

Sính Đình giữ dây đàn, tiếng đàn ngưng bặt. Nàng ngẩng lên, hai mắt long lanh nhìn Túy Cúc.

“Dù thế nào cũng phải cố ăn một chút.” Tránh ánh mắt Sính Đình, Túy Cúc đỡ nàng dậy.

Hồng Tường nhanh nhẹn dọn cơm canh.

Ánh mắt Sính Đình dừng lại, trên bàn bày đĩa đồ ăn Quy Lạc khác hẳn ngày thường. Nàng chậm rãi ngồi xuống, cầm đũa gắp một miếng, đưa lên nhìn, rồi lại đặt xuống.

“Đây là món ăn Quy Lạc do Hà Hiệp tự tay làm.” Sính Đình im lặng giây lát, rồi nói tiếp, “Có thể thấy Hà Hiệp quyết tâm đến mức nào”.

Cảm giác nguy hiểm rình rập, đè nặng trái tim.

Bỗng thấy ngộp thở vì không khí im lặng nơi đây, Hồng Tường bạo gan lên tiếng: “Tuy dẫn binh bao vây biệt viện, nhưng rõ ràng tiểu Kính An vương vẫn nhớ tới tình cảm với cô nương trước đây. Cho dù…”. Thấy Túy Cúc kéo vạt áo mình, Hồng Tường giật mình, im bặt.

Sính Đình không trách Hồng Tường, khóe môi cố nở nụ cười: “Có được mấy phần là thật sự nhớ đến tình cảm trước đây?”.

Bạch Sính Đình thuộc về bất cứ ai, Hà Hiệp đều có thể chấp nhận.

Chỉ trừ một người, Sở Bắc Tiệp.

Trong thiên hạ, khiến Hà Hiệp kiêng dè chỉ có mình Sở Bắc Tiệp.

Trong thiên hạ, khiến Hà Hiệp đố kỵ chỉ có mình Sở Bắc Tiệp.

Nơi nào cũng có thể là chiến trường, cuộc đọ sức của hai kẻ thù đâu chỉ giới hạn trên sa trường gươm đao sáng loáng?

Bên ngoài, tuyết bay lất phất, vài bông tuyết lạc vào phòng ấm áp qua kẽ hở khi rèm cửa dao động, cam tâm tình nguyện hóa thành giọt lệ mùa đông.

Mặt trời đã chếch về đông.

Mồng Sáu đã qua một nửa.

Mười hai canh giờ, chỉ còn một nửa.
 

Hoa Tử

Sưu tầm
Tham gia
24/9/19
Bài viết
10,570
Điểm cảm xúc
1,484
Điểm
113
Chương 29:
Hà Hiệp đứng trên đỉnh núi cao, chắp tay sau lưng nhìn về phía tây.

Sính Đình đang ở trong biệt viện yên tĩnh đến chết chóc dưới kia, giữa gió tuyết mịt mù.

Nàng là thị nữ, là tri âm của Hà Hiệp mười lăm năm, cùng Hà Hiệp chơi đùa, đọc sách, nhìn hắn luyện kiếm và vỗ tay khen ngợi.

Mười lăm năm, ai dễ dàng vứt bỏ? Từ một cô nhi bé bỏng yếu ớt, Sính Đình trở thành tiểu thư khuê các, thanh tú mềm mại, một trong lưỡng cầm đất Quy Lạc, Bạch Sính Đình của vương phủ Kính An tựa như nụ hoa đang chờ ngày hé nở u cốc.

Bao kẻ ngoái nhìn, bao người tán thưởng.

Hà Hiệp cứ lặng lẽ giữ nàng, yêu thương nàng, cùng nàng du ngoạn bốn phương, thậm chí ra sa trường vật lộn với chiến tranh hiểm ác, bão tuyết cát vùi.

Nàng vốn là của hắn, cả về tình về lý đều là của hắn.

Nhưng hắn chưa từng tìm cách cố giữ nàng.

Sính Đình của hắn là con chim phượng hoàng với đôi cánh đủ sắc màu đang chờ nam nhân đầu đội trời chân đạp đất đến nắm lấy bàn tay nàng. Và rồi, phu xướng phụ tùy, tiêu dao nơi chân trời góc bể theo tâm nguyện của nàng.

Hơn ai hết, Hà Hiệp hiểu rõ trái tim Bạch Sính Đình treo trên vách cao muôn trượng.

Nhưng, kẻ dễ dàng lấy được trái tim nàng lại là Sở Bắc Tiệp.

Có thể bất cứ ai, nhưng không thể là Sở Bắc Tiệp, kẻ thù định mệnh của đời hắn.

Hà Hiệp phải tưởng tượng thế nào khi Sính Đình của mình lại dựa vào lòng Sở Bắc Tiệp, cùng kẻ địch muôn kiếp ngắm sao thưởng nguyệt, nói chuyện trên trời dưới đất, đàn hát cho Sở Bắc Tiệp nghe?

Hà Hiệp phải tiếp nhận thế nào khi hắn đã vì sự dịu dàng cất giấu tận đáy lòng mà chịu đựng biệt ly, từ bỏ Sính Đình, để rồi dâng nàng cho Sở Bắc Tiệp?

Hoa tuyết bay đầy trong gió.

Trời đã sắp tối, hôm nay là mồng Sáu.

“Thiếu gia?” Đông Chước bước lên chỗ cao, đứng sau Hà Hiệp một trượng, thõng tay, dừng bước.

“Đông Chước, giọng của ngươi vừa bi vừa trầm”, Hà Hiệp trầm giọng, “Ngươi nghĩ Sở Bắc Tiệp có thể về sao?”.

“Không.”

“Ngươi đang sầu não vì Sở Bắc Tiệp không kịp trở về?”

Đông Chước lắc đầu, muốn nói gì lại thôi, một lúc sau bỗng ngẩng lên bảo: “Thiếu gia hãy hạ lệnh tấn công. Biệt viện quá ít người bảo vệ, với bản lĩnh của thiếu gia, muốn bắt sống Sính Đình, bắt Sính Đình theo chúng ta, là một việc vô cùng dễ dàng. Đến khi trở về, chúng ta sẽ từ từ khuyên giải Sính Đình hồi tâm chuyển ý”.

Hà Hiệp không đáp, bóng hình trong nắng chiều lạnh lùng cứng rắn.

“Thiếu gia, hai người cùng lớn lên từ nhỏ, chẳng lẽ thiếu gia không hề xót thương Sính Đình?”

Đông Chước nhìn chăm chăm vào Hà Hiệp, trong lòng trào dâng nỗi đau không thể đè nén. Hắn bỗng quỳ sụp xuống, ngẩng đầu, nước mắt chợt rơi, khẩn cầu: “Thiếu gia biết rõ Sở Bắc Tiệp không kịp trở về, hà tất còn cố bóp nát trái tim Sính Đình?”.

Đôi mắt đen của Hà Hiệp bỗng trở nên âm trầm, giấu nỗi đau đang giày vò, chỉ còn vẻ vô tình và quyết liệt.

“Ta không chỉ muốn bóp nát trái tim Sính Đình…” Đáy mắt in hằn hai đốm lửa nơi biệt viện xa xa trong bóng tối, Hà Hiệp nghiến răng, “Ta còn muốn Sính Đình nản lòng với Sở Bắc Tiệp”.

Màn đêm buông xuống, biệt viện càng tĩnh lặng.

Bãi nghĩa địa nơi ngoại thành cũng không tĩnh lặng đến thế. Hoa tuyết bay trong không trung, chẳng một tiếng động. Cảm giác trước mắt chỉ là hư ảo, Sính Đình đưa tay khẽ chạm, mộng cảnh lập tức vỡ tan, hiện thực trống rỗng vô cùng.

Nàng nhìn chăm chăm về hướng đông.

Thời gian vô tình rơi qua các kẽ tay.

Nàng cứ nhìn chằm chằm như thế hồi lâu không chớp mắt, dường như từ khi sinh ra, chưa bao giờ có chuyện gì trọng đại như vậy đến với nàng.

Phương đông là đường về của Sở Bắc Tiệp. Nàng không nhìn thấy con đường thẳng tắp tiến về đông, nơi ấy đã bị ngăn cách bởi núi rừng, bởi binh mã của Hà Hiệp. Nhưng Sính Đình biết, những thứ đó không ngăn nổi bước chân chàng.

Hôm nay là mồng Sáu.

Trăng đã lên rồi. Sở Bắc Tiệp, chàng đang ở chốn nào?

Lặng lẽ vén rèm cửa, Túy Cúc cũng đã đợi bên ngoài từ rất lâu, lâu đến nỗi đêm mồng Sáu như đang ngưng tụ trong lồng ngực.

Túy Cúc lại gần Sính Đình, liếc trộm khuôn mặt nghiêng nghiêng của nàng, khuôn mặt đoan trang thanh tú dưới ánh trăng. Cảm giác run rẩy, Túy Cúc gần như không thể đứng vững.

“Bạch cô nương…”

Sính Đình quay lại, dịu dàng cười với Túy Cúc. Lúc này đây, nụ cười ung dung ấy còn khiến người ta đau hơn cả tiếng khóc thê lương.

Nhưng việc đã đến lúc không thể không nói.

Nhìn Sính Đình, Túy Cúc không cho phép ánh mắt mình có một tia do dự, cảm giác gió Bắc căm căm thổi tung lồng ngực, lạnh đến mức có thể bình tĩnh mà rành rọt buông lời cần nói: “Sau khi hai vương tử qua đời, Đại vương đã không còn vương tử. Nếu có vị nương nương nào sinh cho Đại vương một vương tử thì tốt. Còn không, sau này Vương gia sẽ trở thành chủ nhân của Đông Lâm”.

Ngắn gọn mấy câu mà lồng ngực Túy Cúc phập phồng, cảm giác như sợ ý chí của mình không đủ kiên định. Túy Cúc không dám rời mắt đi nơi khác, cứ nhìn chằm chằm vào Sính Đình.

“Nói tiếp đi”, Sính Đình lạnh nhạt.

“Nếu hài nhi trong bụng cô nương là trai, đó sẽ là trưởng tử của Vương gia.”

“Túy Cúc…”, ánh mắt Sính Đình chăm chú nhìn người đối diện, “Ngươi muốn nói gì?”.

Túy Cúc ngừng lại, cúi đầu suy nghĩ giây lát, rồi cắn chặt môi dưới, vị tanh nồng lan khắp miệng, giọng trầm xuống: “Trong lòng cô nương cũng hiểu rõ, thân phận của hài nhi quan trọng với Đông Lâm đến mức nào. Hà Hiệp là kẻ thủ đoạn, nên cô nương không thể mang theo cốt nhục của Vương gia mà rơi vào tay Hà Hiệp”. Lời nói chém đinh chặt sắt, không chút nể tình. Túy Cúc quay đi, bưng bát thuốc vẫn còn ấm trên bàn đến trước mặt Sính Đình.

Ánh mắt chạm phải bát thuốc đen ngòm, Sính Đình bất giác giật lùi về sau.

“Cô nương, thai nhi còn nhỏ, Vương gia cũng chưa biết. Cô nương và Vương gia đều còn trẻ.” Vừa nói, Túy Cúc vừa bê bát thuốc tiến gần Sính Đình thêm một bước,

Sính Đình bỗng thấy trước mắt tối sầm, khẽ ôm bụng, liên tiếp lùi về sau, cho đến khi sống lưng áp sát vào bức tường lạnh cóng. Nàng bình tĩnh lại, đứng cho vững, nhìn bát thuốc, trầm giọng: “Chưa hết mồng Sáu, Vương gia nhất định sẽ về”.

“Nếu Vương gia không kịp về thì sao?”

Sính Đình cắn răng, gằn từng tiếng: “Nhất định Vương gia sẽ về”.

Bầu không khí nặng nề đến ngạt thở bao trùm cả căn phòng.

Sính Đình nhìn chằm chằm Túy Cúc.

Móng tay nàng cắm chặt vào lòng bàn tay, nhưng vẫn không có cảm giác đau.

Ánh mắt Sính Đình chẳng còn bồng bềnh sóng nước dịu dàng, mà như hồ nước chết, đóng thành băng đen, lấp lánh tia sáng kiên cường mà quyết đoán.

“Nếu chàng không về thật…”, Sính Đình ngẩng cao đầu kiêu hãnh, “Trăng chếch sang bên, ta sẽ uống”.

Túy Cúc nhìn Sính Đình, hít sâu một hơi.

Túy Cúc đặt bát thuốc xuống bàn, rồi quỳ xụp xuống, dập đầu ba cái trước Sính Đình, không nói một lời, đứng dậy vén rèm bước ra cửa, lảo đảo chạy vào phòng bên, gục đầu xuống gối, khóc thảm thiết.

Sở Bắc Tiệp vẫn đang phóng như bay trong đêm đen. Những ngọn núi trong đêm bỗng biến thành thảm cảnh nơi biệt viện.

Chàng không dám tưởng tượng khi mình về đến nơi, thảm cảnh sẽ thế nào?

Mai có còn nở?

Tiếng đàn có còn du dương trong gió?

Khói bếp có còn cuộn bay?

Sau lưng chàng, trừ một ngàn quân tinh nhuệ vì quá mệt mỏi đã quay về thành đô, còn lại hai ngàn quân tinh nhuệ và một ngàn bảy trăm quân của Thần Mâu, tổng cộng ba ngàn bảy trăm binh sĩ.

Tiếng vó ngựa rền vang như sấm, kỵ binh cuồn cuộn đạp núi băng sông.

Dây cương đã mài nát những vết chai sần trong lòng bàn tay Sở Bắc Tiệp, nhuộm màu máu đỏ.

Vốn cưỡi ngựa từ thuở còn thơ, lúc này chàng thi triển hết mọi khả năng, thúc ngựa phi như bay. Nhưng, vẫn có người còn nhanh hơn chàng, người đó thúc ngựa chen vào đoàn quân, sóng vai bên chàng, át đi tiếng gầm của gió mà thét hỏi: “Có phải Trấn Bắc vương Sở Bắc Tiệp?”.

Sở Bắc Tiệp không đáp, cứ cắn răng phi như bay về phía trước.

Chàng biết, con ngựa mới đổi này cũng quá mệt rồi. Ngựa vẫn chạy, nhưng tốc độ đã chậm hơn nhiều.

Dù vung roi đến mức nào đi nữa, ngựa vẫn chạy chậm lại, chàng cảm thấy như có lửa đốt trong lòng.

“Sở vương gia, xin dừng bước, ta từ Mạc Bắc tới, Thượng tướng quân Tắc Doãn có gửi cho Vương gia một bức thư…”

“Cút đi!”, Sở Bắc Tiệp gầm lên.

Chàng đang nóng lòng đuổi theo thời gian, sao có thể lãng phí dù chỉ là thời gian rút kiếm.

Người đó đang cưỡi một con ngựa tốt, hình như đã tìm Sở Bắc Tiệp nhiều ngày nay, nên không chịu rời đi, mà vẫn hiên ngang đón gió, cứ há miệng định nói lại bị gió ngăn cản, chỉ còn cách vừa thúc ngựa, vừa hét lớn: “Thượng tướng quân Tắc Doãn có thư khẩn gửi Vương gia. Vì không biết có thể trao đến tay Vương gia trước khi Vương gia rời khỏi thành đô hay không, nên đã viết hai bức. Một bức sai người bí mật đưa đến vương cung Đông Lâm, bức khác giao cho ta, lệnh cho ta chờ Vương gia trên đường thẳng tới biên cương”.

“Cút!”, Sở Bắc Tiệp giận dữ nhìn người lạ mặt, ánh mắt dừng trên con ngựa tốt.

“Vương gia!” Người này đã đến tận đất Đông Lâm tìm Sở Bắc Tiệp thì sợ gì cái chết, nên chẳng chịu từ bỏ mục đích, cố hét lên, “Chỉ mong Vương gia đọc thư của Thượng tướng quân Tắc Doãn, việc có liên quan đến Bạch Sính Đình cô nương…”.

Lời chưa nói hết, hắn bỗng thấy người bên cạnh chuyển động, Sở Bắc Tiệp đổi sang ngựa của mình. Chàng nắm lấy cổ áo người kia, trầm giọng: “Ta mượn ngựa của ngươi”.

Người này vốn là tướng tài đắc lực nhất dưới trướng Tắc Doãn, thân thủ không tệ, tuy bị Sở Bắc Tiệp túm lấy cổ áo, nhưng vẫn kịp nhảy vọt lên không trung, tránh bị đẩy xuống ngựa. Một tay thò vào trong người lấy ra bức thư Tắc Doãn đích thân viết, hắn nói nhanh: “Người hiến kế đầu độc hai vương tử chính là Hà Hiệp, không phải Bạch Sính Đình. Bức thư này do chính Thượng tướng quân nhà ta viết, những mong rửa sạch nỗi oan cho Bạch cô nương”.

Sắc mặt vẫn không thay đổi, Sở Bắc Tiệp nhận lấy bức thư, cũng chẳng thèm nhìn, ném luôn ra phía sau.

“A!” Người đưa thư kinh ngạc kêu lên một tiếng. Tận mắt thấy bức thư qúy giá mình phải tốn bao công sức đưa tới đã mất hút trong màn đêm dưới bước chân cuồn cuộn của đám kỵ binh, hắn trừng mắt, “Ngươi!”.

“Trong sạch hay không đã chẳng còn quan trọng nữa.” Ánh mắt kiên quyết, Sở Bắc Tiệp trầm giọng, “Dù phạm cả mười trọng tội, nàng vẫn là Bạch Sính Đình của ta”.

Một đòn giơ ra, ép người kia nhảy xuống ngựa, xoay người tránh sang bên đường.

Có được ngựa mới, Sở Bắc Tiệp dốc hết sức lực, tốc độ càng nhanh hơn, bỏ lại đội quân ở phía sau.

Nỗi nhớ nhung đến cồn cào, sự lo lắng khắc cốt ghi tâm, và cả cảm giác như bị thiêu đốt trong địa ngục, sẽ chỉ mất đi khi chàng được ôm dáng hình gầy gò mảnh mai trong vòng tay.

Sính Đình, Sính Đình, Sở Bắc Tiệp biết sai rồi.

Bạch Sính Đình thông minh, Bạch Sính Đình ngốc nghếch, Bạch Sính Đình lương thiện, Bạch Sính Đình độc ác, đều là Bạch Sính Đình mà Sở Bắc Tiệp yêu tha thiết.

Cả đời này không bao giờ thay đổi.

Trăng đã lên.

Trong ký ức của Sính Đình, ánh trăng chưa bao giờ khiến trái tim nàng tan nát đến mức này.

Ánh trăng hiền hòa chiếu rọi nhân gian, soi tỏ mọi nỗi ai oán khổ đau trong cuộc đời, lạnh lùng khiến người ta tê tái.

“Chúng ta thề với ánh trăng, không bao giờ phụ bạc.”

Cũng dưới ánh trăng này, nàng đau khổ đáng thương, chàng dịu dàng như nước.

“Đúng thế, từ nay trở đi, nàng là vương phi của ta, ta là phu quân của nàng.”

“Không được đâu…”

“Tại sao?”

“Thiếp là cầm kỹ.”

“Ta thích tiếng đàn của nàng.”

“Thiếp không xứng với Vương gia.”

“Ta xứng với nàng.”

“Thiếp… thiếp không đủ đẹp.”

“Cho một mình ta ngắm, thế là đủ.”

Lời nói như vẫn vang bên tai.

Trăng ơi, trăng còn ghi nhớ? Trên đỉnh ngọn Điển Thanh, Bạch Sính Đình giơ tay ra, từng tấc, từng tấc, rụt rè xuyên qua quốc hận cao như núi, vượt mọi khói lửa chiến tranh, vứt bỏ mười lăm năm công ơn dưỡng dục chưa biết ai đã phụ ai.

Nàng chỉ biết mình đã vượt qua khói lửa của trận chiến, vượt qua mười lăm mùa xuân, hạ, thu, đông ở vương phủ Kính An. Nàng chỉ biết mình đã giơ tay ra, xuyên thủng quốc hận cao như núi.

Kẻ si tình gặp chuyện quốc gia, chẳng lẽ không có chốn an thân?

Sính Đình ngẩng đầu, nhìn trăng treo nơi chân trời.

Trăng lạnh lùng lên cao, lặng lẽ leo qua cành cây, lên đến tận ngọn.

Phương Đông, vẫn bặt vô âm tín.

Bầu trời nặng nề, bốn phía im lặng chết chóc, cũng giống như từng người đang nín thở chờ đợi.

Sau lưng nàng, bát thuốc đen ngòm nguội ngắt.

Trăng sáng vô tình, thời gian vô tình. Nàng ngẩng đầu, nhìn mặt nguyệt vẫn đang trôi dần lên ngọn cây.

Môi nàng hằn những vết răng, bàn tay cũng rõ bao vết sẹo.

Mắt nàng cay cay, nóng rát, nhưng lệ vẫn chẳng rơi dù chỉ một giọt. Nàng sợ rằng khi tiếng khóc vang lên, ác mộng sẽ thành sự thật.

Sính Đình đứng bên cửa sổ, lưng thẳng tắp, sống lưng chẳng khác nào một thanh bảo kiếm. Nàng chỉ có thể đứng thật kiên cường, bởi chỉ cần khẽ cử động, nàng sẽ không thể trụ vững, mà vỡ thành ngọc nát, rồi bị gió cuốn đi, chẳng lưu lại dù là một vết tích.

“Từ hôm nay, nàng không được để mình đói, không được để mình lạnh, không được làm tổn thương bản thân.”

Nàng không sao quên được từng lời nói cũng như ánh mắt thâm trầm, lồng ngực ấm áp của Sở Bắc Tiệp.

Nếu đã thực sự yêu, sao còn lo quốc hận thù dày?

Nếu đã yêu chân thành tha thiết, yêu không từ bỏ, mặc con tạo xoay vần, vẫn chẳng thay đổi ý nguyện thuở ban đầu.

Có gì quan trọng hơn là trở về bên người yêu mình ngày đêm mong ngóng?

Thời gian cứ thế trôi đi.

Trăng sáng, xin đừng phụ ta!

Mười ngón tay ngọc của nàng túm chặt vạt áo trước ngực.

Trăng sáng không có tai, nhưng có lẽ nghe được tiếng lòng của Sính Đình, vậy mà vẫn tàn nhẫn bỏ mặc nàng.

Phương đông vẫn bặt vô âm tín.

Màu tuyệt vọng phủ đầy đôi mắt trong của nàng.

Trăng đã chếch sang bên.

Sính Đình ngẩn ngơ nhìn ánh trăng đã lên đến ngọn cây, ánh trăng vô tình, u ám, lạnh lùng.

Khoảnh khắc này, nàng đã quên ngày mồng Sáu, quên hết đội quân hùng mạnh đang bao vây ngoài kia, quên cả Túy Cúc, Hà Hiệp, quên lời thề của mình.

Nàng đã quên tất cả.

Cảm giác trống rỗng, tay chân cũng như tê dại.

Chỉ có tiếng trái tim vỡ thành trăm mảnh, chậm rãi mà đau nhói, từng mảnh, từng mảnh một.

Giống như hoa sen bằng thủy tinh đang gãy dần từng cánh.

Vỡ rồi.

Vương vãi khắp mặt đất.

“Cô nương…”

Sính Đình từ từ quay lại, nhìn về phía Túy Cúc mặt mũi bi thương đang đứng phía sau, rồi chuyển ánh mắt sang bát thuốc đen ngòm trên bàn.

Túy Cúc nước mắt ròng ròng nhìn Sính Đình bước về phía mình, hai tay bưng bát thuốc lên.

Bát thuốc nặng tựa ngàn cân, bàn tay Sính Đình run rẩy, khiến thuốc sánh ra ngoài, tiếng giọt thuốc rơi trên bàn làm căn phòng trầm mặc càng thêm ngạt thở.

Sính Đình mở to đôi mắt, như muốn nhìn thật rõ bát thuốc đen ngòm trước mặt, để rồi khắc ghi trong tim từng gợn sóng lăn tăn trên đó.

Đã hết dịu dàng.

Đã hết phong lưu.

Trong mắt nàng chỉ còn nỗi đau cùng sự tuyệt vọng đang giày vò, như thể phải mở to mắt nhìn người ta từ từ móc hết lục phủ ngũ tạng của mình ra ngoài.

Túy Cúc biết, mình sẽ không thể quên ánh mắt lúc này của Sính Đình.

Sính Đình bưng bát thuốc đưa lên miệng, dừng lại một chút, như thể đã hết sức lực. Môi chạm vào bát thuốc lạnh, cảm giác thê lương như mất sinh khí, nàng khẽ rùng mình, hai tay buông thõng.

Choang!

Bát thuốc vỡ tan, nước thuốc đen lênh láng dưới sàn.

Nước mắt vốn đã nuốt vào trong giờ tuôn trào như chuỗi trân châu bị đứt, lăn dài trên gò má.

Sính Đình khuỵu chân, ngồi phịch xuống đất, run rẩy trong đau khổ, hai tay ôm vai. Tiếng khóc xé gan xé ruột, vô cùng thê thảm bật ra từ đôi môi nhợt nhạt của nàng.

“Bạch cô nương…”

Túy Cúc thương xót vuốt tóc nàng. Sính Đình giật mình, ngẩng đầu lên, khuôn mặt đẫm nước mắt, cầu khẩn: “Túy Cúc, đừng ép ta. Ta xin người, đừng ép ta!”.

Cảm giác như bị rắn cắn, Túy Cúc rụt vội tay về.

Đây có phải là Bạch Sính Đình phong lưu khoáng đạt?

Có phải Bạch Sính Đình sau mấy ngày không ăn không uống, vẫn nằm nghiêng trên giường đọc sách, thoải mái hỏi: “Ngươi có ngửi thấy hương thơm của tuyết ngoài kia không?”

Có phải Bạch Sính Đình gảy đàn trong tuyết, cất tiếng ca trong gió, hào hứng hái nụ mai?

Không phải.

Nữ nhi phong lưu như tiên giáng trần đã không còn nữa.

Nàng đã bị hủy hoại trong tay Hà Hiệp, trong tay Đông Lâm vương, trong tay Sở Bắc Tiệp, và trong chính tay Túy Cúc.

Giang sơn tanh mùi máu, không có chỗ cho một Bạch Sính Đình kiêu ngạo, cố chấp.

Sính Đình ở ngay trước mắt mà như cách xa vạn dặm, chỉ cần Túy Cúc khẽ giơ tay chạm vào, nàng sẽ hóa thành sương khói, tan biến vào hư vô.

Bát thuốc do chính tay Túy Cúc sắc đang đổ loang trên mặt đất sao giống vết máu đen thế.

Túy Cúc nhìn Sính Đình khóc nấc mà đứt từng khúc ruột. Nàng không biết mình lại có thể tàn nhẫn đến nhường này.

Bóng Mạc Nhiên bỗng xuất hiện ngoài cửa phòng, “Xe ngựa Hà Hiệp sai người đưa tới đang chờ ngoài đại môn biệt viện”.

Tảng đá lớn đè lên trái tim mệt mỏi đầy thương tích của nàng.

Sính Đình bám vào tướng, từ từ đứng dậy gạt nước mắt, khuôn mặt dưới trăng trắng bệch hơn xác người, trầm giọng: “Biết rồi”.

Đã lập lời thề thì phải thực hiện.

Khuôn mặt kiên nghị, Mạc Nhiên lấy từ sau lưng ra một sợi dây thừng, ném về phía Túy Cúc cũng đang giàn giụa nước mắt, nói: “Trói Bạch cô nương lại”.

Mệnh lệnh khác thường phát ra với giọng vô cùng kiên quyết.

“Mạc Nhiên?”

“Bạch cô nương, không phải cô nương không giữ lời hứa, mà chỉ là vạn bất đắc dĩ…”, Mạc Nhiên giữ chặt thanh kiếm bên hông, “Nhưng, Mạc Nhiên đã hứa với Vương gia, còn ta thì còn cô nương!”.

Sở Bắc Tiệp bỏ lại đoàn quân phía sau nửa dặm.

Trăng vẫn trôi, như có lưỡi đao khắc một đường hằn lên tim chàng. Trăng càng lên cao, lòng chàng càng trĩu nặng. Lưỡi đao ấn mạnh vào tim, máu tươi nhỏ xuống ròng ròng.

Trăng đã chếch sang bên.

Chàng ngẩng đầu, nhìn về phía núi xa xa, trong tầm mắt chỉ có sắc tuyết, lạnh như tay chân gan ruột chàng.

Sính Đình, đợi ta!

Ta nguyện hai tay dâng lên nàng tất cả phúc phận phú quý đời này của mình.

Hãy đợi ta thêm lúc nữa.

Thêm một lúc.

Từ nay, ta sẽ không rời xa nàng nửa bước.

Từ nay, những chuyện quốc gia đại sự cũng không thể ngăn cách đôi ta.

Từ nay, khắp thiên hạ này, trong mắt Sở Bắc Tiệp chỉ có mình Bạch Sính Đình là đáng quý nhất.

Sính Đình, Sính Đình!

Mong nàng đợi ta thêm một lúc.

Sở Bắc Tiệp dốc hết sức lực xông vào rừng, tuấn mã hí vang, trong đêm đen đạp bằng bao cành khô, bóng cây chưa kịp in dấu chân chàng đã bị bỏ lại phía sau.

Qua hết cánh rừng này chính là biệt viện ẩn cư.

Vó ngựa đạp tung nền tuyết, phi đi trong bóng đem.

Rừng núi âm u, ánh trăng không thể xuyên qua lớp cành lá phủ đầy tuyết. Chàng không ngửi thấy mùi thơm của tuyết, mà cảm nhận được mùi thuốc súng quẩn quanh.

Ta trở về rồi!

Sính Đình, hãy để khi ngước lên, ta được thấy hình bóng nàng.

Muộn hai canh giờ này, ta sẽ bù đắp bằng cả cuộc đời mình.

Đôi mắt đen sâu ánh lên sự quyết đoán, Sở Bắc Tiệp rút kiếm, kẹp chặt lưng ngựa.

Tuấn mã lao đi như tên bắn, bay ra khỏi bạt ngàn rừng núi.

Biệt viện ẩn cư đã trong tầm nhìn, Sở Bắc Tiệp trợn trừng đôi mắt vằn những tia máu, hốc mắt như muốn nứt ra.

Ánh lửa đầy trời.

Mùi máu tanh nồng khắp không trung, lòng người lạnh hơn băng tuyết.

Tay chân cứng đờ, tim như ngừng đập.

Giá rét tàn nhẫn thẩm thấu vào trăm mạch.

Chút sức lực cuối cùng trào dâng giúp chàng đến được nơi biệt viện đang ngổn ngang thi thể, toàn những bóng hình quen thuộc, những thị vệ thân thiết trẻ tuổi của chàng.

Họ sớm tối cùng chàng luyện võ, can đảm chẳng sợ chết.

Tứ chi bị chặt đứt, không còn biết hướng đi, máu đã lạnh.

Khuôn mặt họ không chút khiếp sợ, bên cạnh những cái xác ấy là thi thể kẻ thù còn thảm thiết hơn.

Sở Bắc Tiệp bước đi trong máu. Đã gặp nhiều cảnh còn khủng khiếp hơn trên sa trường, nhưng giờ chàng mới biết, màu máu lại khiến lòng người đau đớn đến vậy.

Sính Đình, Sính Đình, nàng ở đâu?

Khẽ gọi nàng trong tim, chỉ sợ khi phát ra thành tiếng, chàng sẽ dọa cho cơ hội sống mong manh hoảng sợ mà chạy đi.

Khóe mắt bừng sáng, chàng phát hiện ra Mạc Nhiên.

Mạc Nhiên người đầy máu cùng vết thương, một mũi tên xuyên qua vai phải, ghim chặt xuống đất, thi thể tên tướng địch đang đè lên bụng hắn.

Mạc Nhiên còn đang thở.

“Mạc Nhiên? Mạc Nhiên!”, Sở Bắc Tiệp quỳ xuống, lo lắng gọi.

Như đã đợi tiếng gọi này từ lâu, Mạc Nhiên cố mở mắt, nhưng con ngươi đờ ra, chỉ đến khi thấy rõ khuôn mặt Sở Bắc Tiệp, con ngươi mới thu lại, vô cùng kích động: “Vương gia… Người về rồi…”.

“Đã xảy ra chuyện gì? Sính Đình đâu?”, Sở Bắc Tiệp trầm giọng, “Sính Đình đâu?”.

Chàng nhìn Mạc Nhiên chằm chằm, đôi mắt sắc nhọn cũng run rẩy vì khiếp đảm, như thể chỉ cần Mạc Nhiên mấp máy môi, nói ra một tiếng không hay, cũng có thể khiến trời long đất lở.

“Hà Hiệp đưa đi rồi”, Mạc Nhiên thở gấp, nhắm mắt cố dành dụm chút sức lực cuối cùng mở to hai mắt, thở ra ba chữ, “Mau đuổi theo!”.

Sở Bắc Tiệp đứng phắt dậy, quay người ra cổng.

Đúng lúc gặp Thẩm Mâu và mấy thuộc hạ vừa đến nơi, Sở Bắc Tiệp dừng chân, trầm giọng hạ lệnh: “Để lại quân y và hai trăm người trị liệu cho những binh sĩ bị thương! Còn lại theo ta!”. Trong nháy mắt, Sở Bắc Tiệp đã nhảy lên lưng ngựa.

Như cảm nhận được sự tin tưởng trước nay chưa từng có của Sở Bắc Tiệp, tuấn mã hí vang một tiếng, cả người đứng thẳng, rồi tiếp tục gõ móng trên nền tuyết.

Hà Hiệp, Phò mã Hà Hiệp của Vân Thường.

Ánh mắt sáng ngời xuất thần của Sở Bắc Tiệp nhìn về hướng Vân Thường.

Sính Đình đang ở đó.

Nàng bị dẫn đi Vân Thường, ít nhất trong một ngày rưỡi, nàng mới bị đưa ra khỏi biên giới Đông Lâm.

Chỉ cần Sính Đình còn sống, dù nàng ở chân trời góc bể cũng gần trong gang tấc.

“Vương gia!”, Thần Mâu vội vàng chạy từ trong biệt viện ra, bẩm báo, “Kẻ địch có tên chưa chết. Mạt tướng vừa hỏi một tên có chức danh, hắn nói chúng men theo núi Hoành Đoạn, vượt qua biên giới mà đến đây, chắc sẽ về theo đường cũ. Chúng rất đông quân, tám ngàn binh mã”.

Đứng trước nguy nan, Sở Bắc Tiệp càng bình tĩnh. Chàng đã nhanh chóng khôi phục lại sự trầm tĩnh khi lâm trận trên sa trường: “Hà Hiệp không biết ta đã về đến biệt viện. Nếu lúc đến hắn chia thành các đoàn nhỏ để đi, thì về cũng sẽ như thế, binh mã tập hợp ở biên giới Vân Thường”.

Tiếng vó ngựa rầm rập vang dội đất trời đã đến, cả những binh sĩ bị rơi lại phía sau cũng đuổi theo tới nơi.

Không đợi họ xuống ngựa, Sở Bắc Tiệp đã rút kiếm chỉ thẳng lên trời, cao giọng: “Các huynh đệ Đông Lâm, Vân Thường cướp đi Trấn Bắc vương phi, các huynh đệ còn sức đuổi theo không?”.

Trấn Bắc vương phi?

Kẻ nào lại dám cướp đi nữ nhân Trấn Bắc vương thương yêu?

Sau khoảnh khắc im lặng, tiếng trả lời rền vang chấn động núi rừng: “Còn!”

“Bọn chúng có tám nghìn binh mã, chúng ta chỉ hơn ba ngàn quân mệt mỏi chạy liên tục trong đêm.” Sở Bắc Tiệp chậm rãi đảo mắt qua những nam nhi trẻ tuổi của Đông Lâm, để tiếng nói trầm lắng của mình vang vọng bên tai họ, “Tìm không được nàng, sinh tử với ta chẳng còn quan trọng. Các ngươi có thể lựa chọn, đuổi theo hoặc ở lại”.

“Đuổi theo.”

Tiếng hô không chút do dự, rền vang như sấm, vọng khắp núi rừng, rung động cả cành cây đầy tuyết.

Đã phân công xong công việc khắc phục hậu quả ngổn ngang nơi biệt viện, Thần Mâu lên ngựa phóng theo Sở Bắc Tiệp, giọng kiên quyết: “Chỉ cần đi theo Vương gia, ai cũng sẵn lòng. Xin Vương gia hạ lệnh”.

Sở Bắc Tiệp hạ giọng: “Thả bồ câu đưa thư mang bên người của ngươi ra, yêu cầu quân Đông Lâm dọc biên giới bên sườn tây vùng núi Hoành Đoạn chặn quân địch Vân Thường. Hà Hiệp dám mạo hiểm vào sâu trong biên giới Đông Lâm, ngoài tám ngàn binh mã mang theo, chắc chắn sẽ có quân mai phục dọc biên giới Vân Thường, dặn các tướng quân nơi biên cương cẩn trọng kẻo rơi vào cảnh trước sau đều có địch.

Quân lệnh ban ra, Sở Bắc Tiệp tuốt gươm đón gió, chỉ thẳng lên trời: “Chúng ta đuổi theo!”.

“Đuổi theo!”

Ba ngàn thanh kiếm đồng loạt rút ra khỏi bao, đao quang sáng lóa.

Tiếng hô vang dội đất trời.

Tiếng vó ngựa xé toang nền tuyết, rền vang.

Gió lạnh cắt da cắt thịt, lại vô tình cứa lên vết thương trên mặt Sở Bắc Tiệp, ánh mắt đầy quyết tâm.

Sính Đình, dù nơi chân trời góc bể, nếu có nàng, cũng sẽ gần trong gang tấc.

Chỉ cần nàng vẫn ở đó.
 

Hoa Tử

Sưu tầm
Tham gia
24/9/19
Bài viết
10,570
Điểm cảm xúc
1,484
Điểm
113
Chương 30:
Trong xe ngựa của Vân Thường, ấm áp thoải mái.

Biệt viện ẩn cư chìm trong biển máu đã lùi xa chẳng còn dấu tích.

Sính Đình thu mình trong góc xe, chẳng còn lòng dạ nào mà ngắm trăng trên trời.

Sau hôm nay, mặt trăng thân yêu đã không còn dịu dàng như thuở ban đầu, mà lặng lẽ soi rọi những cõi lòng tan nát, những thị vệ chết không nhắm mắt trong tiếng đuổi giết rền vang.

Hà Hiệp đẩy từng cánh cửa, nhẹ nhàng tháo dây thừng cho nàng, đưa nàng cùng chiếc hộp mạ vàng ra ngoài.

Nàng giẫm lên máu của các nam tử hán, đi ra cổng lớn.

Đôi giày lụa trắng muốt nhuộm đỏ như ánh chiều tà, in hằn trên nền tuyết trắng.

Lòng đau như cắt.

Khắp mặt đất này, không chỉ có máu của những người khác, mà vương cả máu trào ra từ tim nàng, thấm xuống tuyết, nhưng chẳng tan được tia băng lạnh.

Rèm xe trắng tinh, bệ cửa chạm khắc tinh xảo, thật là một chiếc lồng tinh tế.

Chẳng biết từ đâu lao đến, móng tay và ống tay áo nhuộm đỏ máu, Túy Cúc nhào xuống chân Sính Đình: “Cô nương, cô nương! Hãy để Túy Cúc đi theo chăm sóc cô nương!”.

Những thị vệ bên cạnh Hà Hiệp tuốt gươm sáng loáng.

Sính Đình quay lại, nhìn Hà Hiệp: “Đây là thị nữ của muội”.

Nhìn Túy Cúc đang nằm bò dưới đất, Hà Hiệp dịu giọng: “Lên xe đi”.

Trong xe, thêm một người bầu bạn, nàng vẫn nguyên cô độc, vẫn nguyên lạnh lùng.

Túy Cúc, hà tất phải khổ vậy?

Sính Đình lắng nghe tiếng vó ngựa gấp gáp bên ngoài. Bánh xe quay thật nhanh, đưa nàng rời xa khỏi nơi của Sở Bắc Tiệp.

Nàng không thấy đau, cũng chẳng muốn khóc.

Nàng quyết định quên hết đau khổ và nước mắt, cũng như phải vĩnh viễn quên giọng nói, điệu cười của con người ấy.

Cuối cùng, nàng hiểu rằng, chân tình không hề quan trọng như mình tưởng tượng.

Quốc ân như biển, quốc hận như núi.

Nàng sao có thể sâu hơn biển, cao hơn núi?

Giọng hát dưới trăng, tiếng đàn trong tuyết, sao sánh được đại nghĩa quốc gia?

Tình yêu chân thành và thuần khiết nhất thế gian không phải là sức mạnh vô song, không đấu lại được với danh lợi quyền thế, với thế sự vô thường, với tình thân ruột thịt, và với một tội danh vu vơ.

“Là thị nữ bên cạnh Hà Hiệp, chẳng lẽ nàng không biết Hà Hiệp là một danh tướng đương thời?”

“Thế nào là danh tướng? Chính là biết phân rõ cái nào trọng cái nào yếu, có thể gạt bỏ tình riêng, cắt đứt tư lợi.”

Lời nói như vẫn bên tai, Bạch Sính Đình cười thầm.

Con người ấy chẳng phải cũng là danh tướng?

Lẽ nào chàng lại không biết phân rõ trọng yếu, gạt bỏ tình riêng, cắt đứt tư lợi?

Chàng đã lựa chọn rất đúng, chọn rất phải.

Đã là danh tướng thì phải dứt khoát đập vỡ trái tim không chốn quay về, hủy hoại linh hồn chẳng nơi dung thân.

Nụ cười khoáng đạt bỏ lại lời thề non hẹn biển.

Đã là danh tướng, phải không oán hận.

Bánh xe vẫn lăn, chạy như bay trên đường.

Hà Hiệp nóng lòng trở về nhà mới. Có được Sính Đình, hắn cưỡi ngựa tiên phong, chẳng màng gió tuyết.

Vân Thường, nơi cung điện huy hoàng sâu thẳm bên kia tầng mây của ái thê Diệu Thiên công chúa, liệu có phải quê mới của Hà Hiệp?

Ngoài Vân Thường, Hà Hiệp còn chỗ nào để đi?

Sao tìm lại được vương phủ Kính An xưa?

Hà Hiệp và cả Sính Đình đều không thể quay về.

Gió lạnh thê lương, ánh trăng bàng bạc, xuyên qua tim, quấn lấy xương cốt, Hà Hiệp quay lại, nhìn chiếc xe đang lăn bánh phía sau.

Sính Đình đã trở về, dẫu đứt hết ruột gan, dẫu mất sạch hồn phách, cũng vẫn còn chút đoạn ký ức còn sót lại ở vương phủ Kính An.

Còn nàng, ngày xưa còn đó.

Nàng còn, một Hà Hiệp chính trực, quang minh lỗi lạc, tiếu ngạo tứ quốc cũng vẫn tồn tại.

“Thiếu gia!”, tiếng gọi của Đông Chước khiến Hà Hiệp cảnh giác. Đông Chước từ đội quân dẫn đầu phi ngựa quay lại, ghìm cương trước Hà Hiệp: “Thiếu gia, phía trước có người cản đường, nói muốn gặp thiếu gia”.

Ánh mắt sáng quắc, Hà Hiệp trầm tư rồi giơ tay ra hiệu cho đội quân phía sau dừng lại.

Cả đoàn quân dừng bước.

“Dẫn qua đây.”

Một lúc sau, nam nhân bị trói hai tay được đẩy đến trước ngựa của Hà Hiệp.

“Ngươi muốn gặp ta?”, Hà Hiệp từ trên cao nhìn xuống, đánh giá nam nhân trước mặt.

Người này ăn vận thư sinh, thân hình gầy gò, nhưng cử chỉ chắc chắn, chẳng chút hoảng sợ trước hai hàng thị vệ hung dữ của Hà Hiệp. Người ấy ngẩng đầu lên nói: “Tiểu tướng Phi Chiếu Hành ngày đêm không ngủ đi vội mấy ngày liền, ở đây chờ tiểu Kính An vương đã ba canh giờ, chỉ mong gặp tiểu Kính An vương, đưa lên một tin quý giá”.

Hà Hiệp im lặng nhìn người trước ngựa, không hỏi là tin gì, mà sa sầm nét mặt, hừ một tiếng lạnh lùng: “Sao ngươi biết bản phò mã sẽ qua đất này?”.

Hai hàng thị vệ đồng loạt rút kiếm, chĩa thẳng vào người lạ mặt. Chỉ cần đáp sai một tiếng, những ánh kiếm kia sẽ nhất tề lao xuống người hắn.

Không hề sợ sệt, Phi Chiếu Hành cười nói: “Tứ quốc đều có tai mắt của mình, chẳng dám giấu tiểu Kính An vương, ngay cả chủ nhân của tiểu tướng cũng không dám chắc tiểu Kính An vương có ngang qua đây vào giờ này không. Chủ nhân chỉ sai tiểu tướng đến chờ thử chút vận may. Hơn nữa, nếu tiểu Kính An vương không đi qua đây giờ này, thì tin tức tiểu tướng muốn đưa đến hoàn toàn chẳng có giá trị với tiểu Kính An vương”.

Đôi mắt nhìn thấu lòng người dừng trên khuôn mặt Phi Chiếu Hành, không tìm thấy một tia giả dối. Giọng chậm lại, Hà Hiệp hỏi: “Chủ nhân ngươi là ai? Rốt cuộc có tin gì?”.

“Chủ nhân tiểu tướng là…”, Phi Chiếu Hành tiến lên phía trước một bước, hạ giọng, “Vương hậu nương nương của Quy Lạc quốc”.

Sở Bắc Tiệp dẫn đầu đoàn kỵ binh, rầm rập tiến về phía tây.

Binh mã mệt mỏi nhưng không ai bị tụt lại

Đến lúc mặt trăng phải khiếp vía, lặng lẽ lẩn vào chốn không người, mặt trời cũng chưa dám ló dạng.

Sắp đến bình minh, sắc trời càng tối.

“Đi!” Sở Bắc Tiệp vẫn phi như bay trong gió.

Tay chân chàng gần như đã tê cứng, chỉ có thanh kiếm trên hông vẫn nóng rẫy, cháy bỏng khát vọng trả thù.

Máu tươi, thi thể, cát vàng.

Nỗi lo lắng cùng lòng căm phẫn chất chứa trong lồng ngực, chàng khao khát được vung kiếm, được cảm nhận hào khí khi quân địch đầu rơi máu chảy, được giẫm lên thi thể kẻ địch rồi quỳ gối trước Sính Đình thành tâm nhận lỗi, và được say đắm với hương thơm nơi gấu váy nàng.

Ngọn Hoành Đoạn đã ở ngay trước mắt, Sở Bắc Tiệp xông lên đỉnh núi, nhìn về bốn phía tối om. Một khắc trước bình minh của ngày đông, vạn vật chìm trong màu đen tối. Đôi mắt vằn đỏ sáng ngời của chàng nhìn quanh. Động tĩnh thoáng qua trên con đường núi khiến đôi đồng tử chàng co lại.

Ngựa hí vang!

Trong đêm đen, thấp thoáng những bóng người.

Sở Bắc Tiệp nín thở.

Chàng rút kiếm, khát vọng cháy bỏng nhảy múa trong ánh mắt.

Thần Mâu từ phía sau lên đến, nhìn theo ánh mắt của Sở Bắc Tiệp, hắn cũng nhận ra những bóng người trong đêm. Đã làm tướng nhiều năm, Thần Mâu hiểu ngay tình thế, hạ giọng: “Xem ra, lượng người không đông, chắc binh mã Hà Hiệp để lại”.

Thấy tung tích quân địch, ngay lập tức Sở Bắc Tiệp quay về với vẻ ung dung tự tin trên sa trường, hạ giọng: “Hà Hiệp phải để binh mã chặn đường ở đây, chứng tỏ quân chủ lực của hắn vẫn ở trong núi Hoành Đoạn”.

Nếu đại quân của Hà Hiệp đã an toàn qua núi Hoành Đoạn, tiểu đội binh mã này cũng sẽ lập tức khởi hành, đuổi theo tập hợp với đoàn quân kia.

“Đuổi giết ngay lập tức, để lại một tên có cấp bậc, để tra hỏi hướng đi của đại quân.”

“Rõ!”

Thanh kiếm nóng đến bỏng tay, nhưng trái tim chàng còn nóng hơn.

Sở Bắc Tiệp nắm chắc dây cương, nhìn chăm chăm về phía đỉnh núi Hoành Đoạn quen thuộc trước mắt.

Sính Đình, nàng có đang ở trong dãy núi kia không?

Xin nàng hãy quay lại, dù chỉ là một thoáng.

Mảnh đất già nua này xin được yên lặng vì nàng.

Ba ngàn bảy trăm thanh gươm này cũng xin được chói sáng vì nàng.

Sở Bắc Tiệp ngu dốt nhất, không biết trân trọng nhất thiên hạ đã đến đây vì nàng.

Chỉ cần được thấy nụ cười rạng rỡ của nàng, nhiệt huyết sâu kín nhất của kẻ nam nhi này từ nay xin dành trọn cho nàng.

Lòng bàn tay cầm kiếm lần đầu tiên toát mồ hôi lạnh.

Dáng hình Sở Bắc Tiệp vững như núi, chậm rãi giơ kiếm, như muốn xuyên qua bóng tối vô tận, hô vang một tiếng khản đặc: “Giết!”.

“Giết! Giết! Giết!”

Mặt đất rung chuyển.

Ánh kiếm nhất loạt vung ra, tiếng đuổi giết vang khắp bốn phía.

Thiên quân vạn mã xông xuống dốc núi, giẫm nát bình minh yên tĩnh.

Ba ngàn bảy trăm kỵ binh giận dữ, tiến thẳng vào trận địa mai phục của kẻ thù.

Những hầm hố, đá hộc, nỏ căng, tên nhọn quân địch dụng công sắp xếp, không ngờ lại gặp phải nộ khí ngút trời.

Tướng không sợ chết, quân chẳng sợ thương, khí thế như thủy triều dâng.

Lạnh hơn cả bóng kiếm là ánh sáng nơi đáy mắt vị tướng quân. Sở Bắc Tiệp cưỡi ngựa tiên phong, thanh kiếm trong tay uống cạn máu kẻ thù. Tuấn mã hí vang, chàng mặc kệ tướng sĩ đằng sau có theo kịp hay không.

“A!”

Những tiếng kêu thảm thiết vây quanh Sở Bắc Tiệp. Máu đỏ như hoa mai nở rộ dưới vó ngựa, dệt nên một bức tranh oanh liệt.

Không ai có thể chống lại Sở Bắc Tiệp trong cơn giận dữ, quân địch nhanh chóng tan tác chỉ vẻn vẹn trong một khắc.

Hai quân giao tranh, ba ngàn bảy trăm kỵ sĩ gào thét vang dội từ đông sang tây, quét sạch bóng quân thù. Khi chiến mã của Sở Bắc Tiệp lao qua trận địa địch, cuộc chiến đã đến hồi kết thúc.

Lấy giận dữ áp chế quân thù.

Đây là cuộc tiến công không có sách lược, nhưng dũng mãnh nhất.

Mùi máu tanh nồng khắp rừng.

Đây không phải chiến tranh, mà là tàn sát. Quân địch chưa đến một ngàn người đều đã phơi thây tại chỗ.

Sau trận cuồng sát, sự yên tĩnh chết chóc đã thay thế vó ngựa cuồn cuộn.

Máu đỏ chạy dọc lưỡi kiếm.

Thần Mâu giải tên tù binh còn sống, hất mạnh xuống chân ngựa của Sở Bắc Tiệp. Tên này khắp người bị thương, tuy mặc trang phục binh lính, nhưng khí thế tướng quân nổi bật, khác hẳn người thường, sao có thể thoát khỏi con mắt của kẻ lão luyện trên sa trường?

“Đại quân của Hà Hiệp hiện đang ở đâu?”, Sở Bắc Tiệp hỏi.

Giọng không hề uy hiếp, song ánh mắt chàng hoàn toàn áp đảo.

Tướng địch sững sờ, ngẩng đầu nhìn Sở Bắc Tiệp. Thấy người trên ngựa khí thế ép người, nhưng trong bóng tối nhìn không rõ mặt, hắn vội hỏi: “Tướng quân là người nào?”.

“Sở Bắc Tiệp.”

“Đông Lâm Trấn Bắc vương?”, tướng địch kinh ngạc kêu lên: “Chính là Trấn Bắc vương?”, khuôn mặt đầy nghi ngờ không hiểu.

Thấy có chút không ổn, Sở Bắc Tiệp trầm giọng: “Ngươi không phải người của Hà Hiệp?”.

“Đương nhiên không phải.”

“Nói rõ xem!”

Tướng địch bỗng im lặng, suy nghĩ giây lát, rồi cắn răng, chắp tay nói: “Binh lực của tiểu tướng bị tổn thất, không thể hoàn thành nhiệm vụ, dù sống quay về cũng chỉ một con đường chết. Nếu đã như vậy, chi bằng ta trao đổi với nhau. Tiểu tướng sẽ nói hết những gì mình biết, chỉ mong Trấn Bắc vương buông tha cho những thuộc hạ còn đang thoi thóp”.

Sở Bắc Tiệp biết đã đoán sai tung tích địch, trong lòng rối như tơ vò, ngoài mặt lại càng bình tĩnh, giọng lạnh lùng: “Ngươi nói đi”.

Tướng địch nghe vậy, biết thỏa thuận đã thành công. Một lời của Trấn Bắc vương nặng tựa ngàn vàng, tướng địch không hề do dự, lập tức lên tiếng: “Tiểu tướng là Triệu Văn, tướng của Quy Lạc. Đại vương nhận được mật báo, Hà Hiệp rất có khả năng sẽ bí mật xâm phạm Đông Lâm cướp Bạch Sính Đình. Đây là cơ hội ngàn năm có một, vì thế Đại vương lệnh cho tiểu tướng lập tức dẫn quân ngầm tiến vào vùng núi Hoành Đoạn, chặn đường Hà Hiệp, tìm cơ hội đưa Bạch Sính Đình về Quy Lạc”.

“Quy Lạc vương Hà Túc?”, Sở Bắc Tiệp chau mày: “Sao Quy Lạc vương lại biết Hà Hiệp sẽ đi qua núi Hoành Đoạn?”.

Quả nhiên, Triệu Văn dốc hết sự tình: “Theo mật thám báo về, gần đây biên giới Vân Thường đoạn giáp núi Hoành Đoạn thường xuất hiện binh sĩ. Chắc vì Hà Hiệp chọn vùng núi này làm đường về, nên mới sắp xếp đội quân tiếp ứng”.

Thần Mâu xen vào, hỏi: “Ngươi dẫn theo bao nhiêu binh mã?”.

“Chín trăm?”

Thần Mâu lộ vẻ nghi ngờ, cười nhạt: “Ngươi chỉ có chín trăm binh mã, lại dám vào Đông Lâm chặn đường Hà Hiệp?”.

“Binh mã quá đông, sẽ khiến quân Đông Lâm phát hiện. Đây là đội quân sở trường mai phục của Quy Lạc, có thể yên ổn vào được Đông Lâm đã là may lắm rồi. Hơn chín trăm tinh binh, thừa sức mai phục Hà Hiệp, nào ngờ lại gặp phải hơn ba ngàn binh mã của Trấn Bắc vương…”

Thấy người này lời lẽ thẳng thắn, chẳng chút dối trá, Thần Mâu lại hỏi: “Ngươi có biết Hà Hiệp dẫn theo bao nhiêu binh sĩ không?”.

“Chẳng lẽ lại hơn một ngàn?”, Triệu Văn hỏi thay lời đáp.

“Đúng tám ngàn.”

Triệu Văn không tin, lắc đầu: “Không thể nào, Hà Hiệp vào Đông Lâm còn sâu hơn chúng ta, nếu có tám ngàn binh mã, chắc chắn sẽ bị quân Đông Lâm phát giác”.

Thần Mâu gặp Sở Bắc Tiệp khi trở về thành đô, cả đường vội vã đuổi theo cho kịp, cũng chưa có thời gian suy tính trước sau, nay nghe Triệu Văn nhắc đến chuyện này, lại nghĩ đến việc mình bị điều khỏi doanh trại Long Hổ, trong lòng bỗng chùng xuống, nhìn trộm Sở Bắc Tiệp.

Sắc mặt Sở Bắc Tiệp sa sầm, ánh mắt đau đớn bi thương.

Tám ngàn quân địch, dù có bản lĩnh ẩn giấu hành tung, qua mặt được quân bảo vệ biên cương, nhưng bao vây biệt viện ẩn cư, sao có thể không kinh động đến doanh trại Long Hổ gần đó?

Sự giải thích duy nhất chính là Đông Lâm vương đã cố tình sắp đặt, mở cửa biên giới cho quân địch vào cướp Bạch Sính Đình, nữ nhân trong lòng của Sở Bắc Tiệp.

Thời gian cấp bách, Sở Bắc Tiệp không muốn nói đến việc này, nên hỏi thẳng vấn đề quan trọng nhất: “Ngươi vẫn mai phục ở đây, chắc Hà Hiệp chưa đi qua. Nhưng chúng ta đuổi theo ngay sau hắn. Rốt cuộc, binh mã của Hà Hiệp đang ở đâu?”.

Triệu Văn lắc đầu: “Đây là đường vào duy nhất của vùng núi Hoành Đoạn, tiểu tướng có thể đảm bảo Hà Hiệp chưa hề đi qua”.

Thần Mâu thở dài: “Cách giải thích duy nhất là giữa đường Hà Hiệp đổi sang hướng khác”.

Triệu Văn nói giọng thất vọng: “Nếu mật chỉ của Đại vương chúng ta không sai, đội quân tiếp ứng của Vân Thường chỉ đóng ngay gần núi Hoành Đoạn, Hà Hiệp vội vã đổi đường về sẽ khiến hành trình càng nguy hiểm. Trừ phi hắn biết ở đây có mai phục”.

“Biết cũng chẳng có gì lạ. Quy Lạc có tai mắt, lẽ nào Vân Thường lại không có mật thám?”, Thần Mâu nói.

Sở Bắc Tiệp trong lòng buồn bã, chẳng còn bụng dạ nào truy cứu việc tại sao Hà Hiệp lại sáng suốt đổi hướng, chỉ lặng lẽ tra kiếm vào vỏ, dặn dò: “Mai táng cho những huynh đệ tử nạn, toàn quân dừng cách chiến trường ba dặm nghỉ ngơi. Mọi người cắm trại nấu cơm, ngủ một giấc, trưa mai lại xuất phát”.

Thần Mâu kinh ngạc: “Chúng ta không đuổi tiếp sao?”.

“Có đuổi kịp không?”, Sở Bắc Tiệp hạ giọng hỏi lại một câu. Lòng đau như cắt, chàng siết chặt dây cương, vết thương trong lòng bàn tay càng thêm đau rát, trầm giọng: “Chúng ta đuổi sai đường, giờ quay lại cũng muộn rồi”.

Dù chàng có cưỡi thiên lý mã, có đuổi đến nơi, Hà Hiệp cũng đã về đất Vân Thường.

Đến lúc đó, ở phương trời của Hà Hiệp, không chỉ đơn giản là tám ngàn quân nữa.

Chưa vào đến biên giới Vân Thường, ba ngàn quân đấu với tám ngàn quân, chín phần chết một phần sống, chỉ còn một tia hy vọng.

Vào đến biên giới Vân Thường, hai bên càng thêm chênh lệch. Ba ngàn quân đấu lại hàng vạn quân, sao có thể phá vỡ đội quân nòng cốt của Hà Hiệp? Dù giết đến một binh tốt cuối cùng, chàng cũng chẳng còn cơ hội nhìn thấy khuôn mặt xinh đẹp thanh tú trước khi nhắm mắt.

Nếu chưa từng tấn công đã tử trận, tiếng đàn từ nay hoang vắng, giai nhân tù túng xứ người.

Không cam tâm!

Sao có thể cam tâm?

“Vương gia… Vương gia định thế nào?”, Thần Mâu thực hiện lời hứa thả đám tàn binh của Triệu Văn, rồi quay lại, đối diện với vẻ mặt cố nén đau thương của Sở Bắc Tiệp.

“Đến biên cương, tập kết đại quân.” Bình minh tới trong mùi tanh của gió, ánh mắt thâm trầm nhìn về phía Vân Thường xa xôi, khóe môi chàng nhếch lên vẻ lạnh lẽo quyết không hối hận, “Bản vương sẽ dẫn theo binh lực của toàn Đông Lâm, cắt dần từng tấc đất của Vân Thường, cho tới khi Hà Hiệp chịu hai tay dâng trả Sính Đình”.

Anh hùng, hồng nhan; ánh kiếm, tiếng đàn.

Sính Đình, nụ cười của nàng, cái nhíu mày của nàng, đẹp như giấc mộng, khiến ta đau lòng biết bao.

Xin nàng hãy quay về tặng ta, dù chỉ một nụ cười.

Ta sẽ đem binh lực của toàn Đông Lâm và những oan nghiệt đời đời kiếp kiếp không trả hết, phụ họa cho sự kiều diễm ẩn sâu nơi lúm đồng tiền của nàng.

Đông đã sắp qua mà hơi lạnh vẫn chưa tan.

Cục diện tứ quốc thay đổi, theo hiệp định đồng minh lúc trước, Bắc Mạc vương đã lấy lại được địa giới vùng biên bị quân Đông Lâm chiếm cứ, Bắc Mạc rút quân ngay lập tức.

Hà Hiệp nhanh chóng đạt được mục đích. Ba mươi vạn liên quân hùng dũng đe dọa biên cương Đông Lâm chưa xảy ra một trận chiến đã yên ổn rút quân.

Bách tính chỉ nghĩ ông Trời từ bi, mà không biết nguyên do kinh hồn bạt vía bên trong, nỗi đau đứt ruột muốn khóc mà chẳng còn nước mắt.

Lòng người vừa yên, tình thế lại thay đổi bất ngờ.

Nhận được tin quân địch đã rút, cả đám người ăn ngủ không yên trong vương cung Đông Lâm thở phào nhẹ nhõm. Tiệc mừng long trọng thịnh soạn của cung đình còn chưa kết thúc, một tin khác đã đến như sét đánh giữa trời quang.

Trấn Bắc vương Sở Bắc Tiệp dùng binh phù tập kết và thống lĩnh binh mã toàn quốc tiến thẳng đến biên cương Vân Thường!

Cung điện to lớn nhường ấy, tiếng ca hát bỗng dưng im bặt, các đại thần nhìn nhau, không biết nên làm thế nào.

Vân Thường không giống Quy Lạc và Bắc Mạc. Vân Thường nghỉ ngơi dưỡng sức đã lâu, giờ lại có danh tướng đương thời Hà Hiệp nắm giữ binh quyền.

Dốc hết sức lực xâm phạm Vân Thường, chắc chắn tử thương sẽ trầm trọng. Đông Lâm lấy đâu ra binh mã để phòng ngự Quy Lạc, Bắc Mạc nhân lúc loạn lạc mà giậu đổ bìm leo?

Trấn Bắc vương xưa nay vốn thận trọng, sao bỗng chốc trở nên hồ đồ, làm một việc chẳng khác nào tự sát?

“Có thật vậy không?”, bàn tay bưng ly rượu của Đông Lâm vương dừng giữa không trung, nhìn chằm chằm sứ giả truyền lệnh đang mệt mỏi, người đầy bụi bặm quỳ dưới đại điện.

Tiếng đàn hát đã ngừng bặt, đám ca kỹ lúc nãy còn tưng bừng vui ca đã cảm nhận được không khí nguy hiểm bất ngờ vừa xuất hiện, cũng run rẩy quỳ mọp một bên, đầu cúi gằm.

Đã cấp tốc đi mấy ngày đường, giọng sứ giả khản đặc, lớn tiếng bẩm báo: “Bẩm đại vương, lệnh soái của Trấn Bắc vương đã hạ sáu ngày trước. Giờ các tướng ở biên cảnh cùng tướng quân của tứ đại quân trại Đông Lâm đã phụng mệnh khởi hành, vội vã ra biên ải hợp nhất với Sở Bắc Tiệp”.

Đông Lâm vương không nói một lời, quay lại nhìn Vương hậu sắc mặt đã trắng bệch, rồi chậm rãi đặt chiếc cốc vàng trong tay xuống, ánh mắt đảo qua một lượt khắp đại điện: “Các ngươi thấy thế nào?”.

Trấn Bắc vương ẩn cư rồi quay lại thành đô, cả nước vui mừng, nhưng mấy ngày sau, Trấn Bắc vương vội vã ra đi một cách khác thường. Việc của Đông Lâm vương và Bạch Sính Đình, các vị quan chức vụ thấp không biết rõ nội tình nên không dám nói bừa, người chức tước cao càng im hơi lặng tiếng.

Không khí yên ắng đến ngạt thở bỗng chốc bao trùm đại điện.

Lão Thừa tướng Sở Tại Nhiên đang suy nghĩ đến vấn đề khác, bèn lên tiếng hỏi sứ giả: “Vương gia điều động quân trấn giữ biên ải và tứ đại doanh trại thường trú của Đông Lâm như thế, tuyến phòng vệ biên ải tiếp giáp với Bắc Mạc và Quy Lạc sắp xếp như thế nào?”.

“Để lại một phần mười quân trấn giữ đóng tại các trạm kiểm soát.”

Chỉ để lại một phần mười quân trấn giữ.

Quân thần lao xao.

Nếu như vậy, các trạm kiểm soát thật chẳng khác nào bù nhìn, nhỡ chăng hai nước còn lại đột nhiên khiêu chiến, há chẳng phải có thể chọc thẳng vào bụng Đông Lâm?

Mọi ánh mắt đổ dồn về phía Đông Lâm vương.

Sắc mặt Đông Lâm vương vô cùng khó coi, đôi mắt không ngừng chớp. Ông cầm cốc rượu, chậm rãi uống cạn, trầm giọng: “Quả nhân muốn yên tĩnh một lát, lui hết cả ra”.

Quần thần hoảng sợ đứng dậy, nháo nhác rời khỏi những chiếc bàn đầy cao lương mỹ vị như ong vỡ tổ, nhất loạt cúi đầu: “Thần cáo lui!”.

Đám ca kỹ đang quỳ một bên và đội nhạc công cũng lặng lẽ nối đuôi nhau lui ra.

Vẻ im lặng thật sự bắt đầu khi quần thần đã rời đi. Trải khắp đại điện là đống bề bộn sau yến tiệc, vẻ hoang vắng sau cuộc náo nhiệt.

Đại quân tập hợp ở biên cương, khiêu chiến với Hà Hiệp.

Vì quốc gia này, Đông Lâm vương không tiếc dùng kế với đệ đệ của mình, hy sinh Bạch Sính Đình.

Nay Sở Bắc Tiệp vì Bạch Sính Đình mà không tiếc vứt bỏ thân huynh, hy sinh Đông Lâm.

Ai là nhân, ai là quả?

Đông Lâm vương ngồi trên vương vị, từ trên cao nhìn xuống đại điện, lặng lẽ uống thêm cốc nữa.

Cánh tay trắng nõn bỗng đưa ra, giữ chiếc cốc trong tay Đông Lâm vương.

“Đại vương…”, Vương hậu đứng một bên, hạ giọng khuyên, “Đại vương mau nghĩ cách ban vương lệnh thu hồi binh phù của Trấn Bắc vương”.

Đông Lâm vương quay lại nhìn ái thê đang lo lắng, cười khổ: “Chẳng lẽ không có binh phù, vương đệ không thể huy động binh mã nơi biên ải?”.

Năm đó, chỉ cần một lệnh của Sở Bắc Tiệp, tất cả binh mã tinh nhuệ của Đông Lâm đã không hề do dự mà tấn công thành đô, bao vây vương cung.

Có những người bẩm sinh đã mang ma lực hiệu triệu vạn quân.

“Nhưng cũng không thể khoanh tay đứng nhìn, Đại vương”, Vương hậu đau lòng, “Vì một Bạch Sính Đình mà vứt bỏ sự an nguy của cả quốc gia. Hành động này của Trấn Bắc vương khác gì hành động của kẻ điên? Vì tình riêng mà vứt bỏ vương tộc, sao Trấn Bắc vương có thể làm vậy?”.

Ánh mắt thâm trầm của Đông Lâm vương nhìn ra ngoài điện: “Đều đã làm rồi”.

Mặc kệ sinh tử, mặc kệ vương tộc, mặc kệ quốc gia.

Lần đầu tiên, Sở Bắc Tiệp vứt bỏ trách nhiệm đã được dạy dỗ từ khi chào đời, hăng hái tiến lên.

Chỉ vì một nữ nhân.

Một Bạch Sính Đình.

“Bắc Tiệp, Bắc Tiệp, đệ có còn là vương đệ vì Đông Lâm mà sẵn sàng hy sinh tất cả?” Đông Lâm vương chậm rãi đứng dậy, ngẩng lên nhìn trời xanh vô tận, cổ bỗng thấy ngứa, ho một tiếng, máu tươi nhuộm đỏ cả mấy chiếc bàn trước mặt.

“Đại vương!”, Vương hậu thất kinh, giọng gấp gáp, “Người đâu! Người đâu!”.

Thị vệ vội vã có mặt, thấy tình cảnh trước mắt đều vô cùng kinh hãi.

“Đại vương!”

“Đại vương bảo trọng!”

“Ngự y… Mau truyền ngự y!”



Mưa to gió lớn, sầm sập như lốc cuốn.

Vương cung cổ kính hùng vĩ của Đông Lâm vang lên những tiếng kêu khóc bi ai.

Trước vương vị là chiếc bàn đầy máu tươi. Đỏ như máu những thị vệ đã đổ nơi biệt viện ẩn cư, như máu nhỏ dưới lưỡi kiếm trên sa trường.

Quốc cùng gia, gia cùng nhân, ân oán chất chồng, cao như núi, dày như đất.

Bạch Sính Đình, ngươi có tài có đức gì?
 

Hoa Tử

Sưu tầm
Tham gia
24/9/19
Bài viết
10,570
Điểm cảm xúc
1,484
Điểm
113
Chương 31:
Vân Thường.

Hà Hiệp đứng sững bên bàn, thong thả đặt tập quân báo vừa đưa tới xuống, quay sang nhìn ái thê.

“Công chúa không cần lo lắng. Đông Lâm chinh chiến liên miên, hao tổn rất nhiều binh lực. Trong khi đó, binh mã của Vân Thường ta đã được nghỉ ngơi dưỡng sức bấy lâu”, Hà Hiệp cười nhạt, giọng chắc chắn.

Diệu Thiên công chúa ung dung ngồi trên ghế, chăm chú nhìn phu quân đã xa cách lâu ngày, khuôn mặt vẫn anh tuấn, khí chất vẫn ung dung, chỉ thêm chút thỏa mãn khó phát hiện nơi đầu lông mày.

“Phải khai chiến thật sao? Khi yêu cầu quân Vân Thường – Bắc Mạc, chàng từng nói, đây là chiêu ép địch khuất phục, tạo thế có lợi cho Vân Thường ta. Trận chiến sẽ dừng lại đúng lúc, không xảy ra cảnh binh đao máu lửa.”

Hà Hiệp quan sát sắc mặt của Diệu Thiên, dịu dàng hỏi: “Công chúa sợ sao?”.

Diệu Thiên khẽ thở dài: “Sở Bắc Tiệp là tướng lĩnh có tiếng, binh lực Đông Lâm hùng mạnh, nay chỉ trong mấy ngày đại quân Đông Lâm đã tập kết tại biên cương Vân Thường, quân địch thế như thủy triều dâng, thiếp sao có thể không sợ? Còn một điểm nữa không thể không lo, Bắc Mạc vương tuy là liên minh, nhưng nếu ông ta không giữ tín nghĩa, nhân lúc chúng ta đối phó với Đông Lâm lơ là biên giới phía nam mà xuất binh tấn công ta”.

“Khiến công chúa lo lắng là lỗi của Hà Hiệp.” Hà Hiệp tiến lên trước, từ trên cao nhìn xuống, ánh mắt cực kỳ yêu thương vuốt ve khuôn mặt ái thê, rồi nói bằng giọng cực kỳ dịu dàng, “Công chúa hãy giao hết ưu phiền cho bản phò mã này. Hà Hiệp đảm bảo sẽ không để Công chúa phải chịu chút uất ức nào”.

Mũ phượng nặng trĩu ngay ngắn trên đầu che mất tầm nhìn lên của Diệu Thiên. Nàng nghển cổ, nhìn sâu vào đáy mắt Hà Hiệp, đôi mắt sáng trong, nụ cười ngọt ngào: “Đã có Phò mã, thiếp còn lo lắng điều gì?”. Nàng chậm rãi cúi đầu, lại bị bàn tay Hà Hiệp nâng cằm lên. Diệu Thiên hơi ngẩng đầu trong lòng bàn tay ấm, bỗng thấy bờ môi nóng hổi, hơi thở mạnh mẽ mà dịu dàng của Hà Hiệp lan tỏa giữa môi răng mình.

Cái chạm môi dần mạnh mẽ.

Diệu Thiên thở gấp, mặt đỏ bừng. Một lúc sau Hà Hiệp mới chịu buông ra, tim nàng vẫn đập thình thịch như muốn nhảy ra khỏi lồng ngực. Nàng vuốt lại những sợi tóc rối, liếc nhìn mình trong tấm gương xa xa, thấy rõ cả vành tai đỏ lựng thì vừa nũng nịu vừa giận dỗi lườm Hà Hiệp một cái, khẽ khàng: “Phò mã cũng thật là, đây là vương cung, đâu phải phủ phò mã. Nếu bọn thị nữ nhìn thấy, Phò mã bảo thiếp phải làm sao?”.

Hà Hiệp cười vang: “Công chúa thứ tội. Hà Hiệp xa Vân Thường đã nhiều ngày, trong lòng lúc nào cũng nhớ nhung Công chúa nên thật khó kiềm lòng”, Hà Hiệp hạ giọng: “Tối nay Công chúa phụng giá đến phủ phò mã được không? Quân Đông Lâm đang tập kết, mấy ngày nữa bản phò mã phải ra vùng biên cảnh ứng phó với Sở Bắc Tiệp. Trận này không biết sẽ kéo dài bao lâu, cũng chẳng biết bao lâu nữa mới gặp lại Công chúa”.

Bị hơi nóng của Hà Hiệp thiêu đốt vành tai, trái tim loạn nhịp, Diệu Thiên khẽ nói: “Phò mã không mệt sao? Đêm qua vừa về thành đô, sáng sớm nay đã phải vào cung, chắc vẫn chưa ngủ đủ giấc”.

Không khí dịu dàng trong gian phòng đang đến hồi nồng thắm, ngoài rèm bỗng có tiếng bước chân.

Bóng người ngoài rèm càng lúc càng lại gần, rồi dừng hẳn, giọng Lục Y cung kính vang lên: “Khởi bẩm Công chúa, Thừa tướng đại nhân cầu kiến”.

“Mời Thừa tướng vào.” Diệu Thiên lên tiếng, rồi quay sang Hà Hiệp, nụ cười ngọt ngào, hàng mày được chăm sóc kỹ càng hân hoan như hoa nở, giọng trách cứ, “Đều tại Phò mã, khiến mặt mũi thiếp đỏ thế này, lát nữa gặp Thừa tướng thì biết làm thế nào?”.

“Cứ để ông ấy nhìn thấy. Thừa tướng cũng là người từng trải, chẳng lẽ không biết chuyện phu thê ân ái?”, Hà Hiệp nở nụ cười ấm áp, ghé sát nàng, giọng rất khẽ: “Công chúa vẫn chưa trả lời bản phò mã, đêm nay có đến phủ phò mã không?”.

“Chàng thật là…”

“Ai thấy chăng nỗi khổ tương tư?”

Một nam nhân khoáng đạt đến lúc phóng túng càng khiến nữ nhân khó xử.

Diệu Thiên vừa giận vừa buồn cười, mím môi đáp: “Phò mã vừa về, thiếp đã vội vã đến phủ phò mã, quần thần biết được sẽ nghĩ thế nào? Diệu Thiên là phận nữ nhi, xem ra… phải sớm tìm giúp phò mã hai thị nữ xinh đẹp mới được”, ánh mắt giảo hoạt liếc qua Hà Hiệp.

Hà Hiệp vẫn bình thản, cười hỏi: “Đêm nay, ta sẽ chuẩn bị rượu và điểm tâm ở hậu viện phủ phò mã, thế nào?”.

Diệu Thiên cố nhịn cười, lườm Hà Hiệp một cái, rồi giơ tay ngọc khẽ đẩy vai chàng, giục: “Các tướng quân đang đợi bẩm báo việc quân, Phò mã mau đi đi. Cẩn thận gặp Thừa tướng, ông ấy lại góp lời”.

Hà Hiệp phong tình véo nhẹ má Diệu Thiên, rồi lùi lại một bước, nghiêm giọng hành lễ: “Công chúa kim an!”.

Dứt lời, Hà Hiệp vén tấm rèm châu, đúng lúc Quý Thường Thanh rẽ vào hành lang.

“Phò mã.”

“Thừa tướng đại nhân.”

Gật đầu đúng phép, hai người đi qua nhau. Quý Thường Thanh quay người, chăm chăm nhìn theo dáng hình Hà Hiệp tràn đầy tự tin và khí thế, im lặng hồi lâu, mới quay vào phòng, vấn an Diệu Thiên.

“Không cần đa lễ, mời Thừa tướng ngồi.”

Lục Y nhanh chóng dâng loại trà đậm chuẩn bị riêng cho Quý Thường Thanh. Thừa tướng nhận lấy, nhấp một ngụm, ngẩng đầu lên đánh giá vẻ hân hoan ngọt ngào không thể giấu trên khuôn mặt Diệu Thiên, cười nói: “Chẳng trách quần thần đều nói, chỉ cần nhìn tinh thần khí sắc Công chúa cũng biết Phò mã có ở thành đô hay không”.

Quý Thường Thanh làm tướng nhiều năm, chứng kiến Diệu Thiên công chúa trưởng thành, tình cảm hai người như cha con. Bị Thừa tướng chọc cười, Diệu Thiên giận dỗi: “Cả Thừa tướng cũng chê cười Diệu Thiên sao?”.

Quý Thường Thanh nhìn nàng đầy yêu thương, rồi đổi sang vẻ mặt hoàn toàn nghiêm túc, trầm giọng hỏi: “Công chúa đã nói với Phò mã chưa?”.

Vừa nghe đến lời này, ý cười trên khuôn mặt Công chúa bỗng chốc biến mất.

“Hỏi rồi,” nàng thở dài, chau mày, “Phò mã hoàn toàn không để ý đến việc đội quân hùng mạnh của Đông Lâm đang uy hiếp biên giới, cũng chẳng hề có ý định giao ra Bạch Sính Đình để ngăn chặn cuộc chiến này”.

“Công chúa, nếu xảy ra giao tranh với Đông Lâm, đối thủ lại là Sở Bắc Tiệp, thì dù Phò mã đích thân dẫn binh, cũng là cục diện thảm bại của hai bên, không có lợi gì với Vân Thường ta.”

“Ta có thể có cách gì?”, Diệu Thiên chau mày, “Lúc nãy nói về quân của Đông Lâm, Phò mã không nhắc một tiếng nào đến cái tên Bạch Sính Đình, có thể thấy Phò mã chẳng có ý giảng hòa với Sở Bắc Tiệp”.

Quý Thường Thanh không nói gì, lặng lẽ mở nắp và gạt mặt nước trà, rồi nhìn chăm chăm những gợn sóng trong đó, mặc kệ ánh mắt Công chúa đang hướng về mình. Một lúc lâu, hai tay mới đặt chén trà ngay ngắn xuống bàn, ngữ điệu chân thành: “Công chúa dùng kế của Phò mã, phái cả đại quân mạo hiểm tiến đến biên giới Đông Lâm, là để Sở Bắc Tiệp vì Bạch Sính Đình mà đoạn tuyệt với vương thất Đông Lâm”. Quý Thường Thanh ngừng một chút, mắt nhìn Diệu Thiên công chúa.

Diệu Thiên bảo: “Thừa tướng nói tiếp đi”.

“Qua hành vi không màng đại cục, mạo hiểm tập hợp quân sĩ tấn công Vân Thường của Sở Bắc Tiệp, có thể thấy Sở Bắc Tiệp và vương tộc Đông Lâm sẽ không còn đồng tâm hợp sức nữa. Chúng ta đã đạt được mục đích của mình, Bạch Sính Đình không còn giá trị. Phò mã giữ Bạch Sính Đình có hại mà chẳng có lợi”.

“Ý của Thừa tướng là…”

“Công chúa không những phải lo xa, mà phải phòng cả họa gần.” Ánh mắt cương trực của Quý Thường Thanh nhìn về phía Công chúa Diệu Thiên, trầm giọng: “Hiện Phò mã sắp xếp Bạch Sính Đình ở trong phủ phò mã. Thần nghe nói, Phò mã đã dặn, ngoài việc không cho ra ngoài một mình, Bạch Sính Đình còn được đối đãi chẳng khác gì chủ mẫu của phủ đệ”.

Hàng rèm châu trên mũ phượng khẽ động, Diệu Thiên tránh ánh nhìn của Quý Thường Thanh, trầm ngâm không đáp.

Hồi lâu, Diệu Thiên mới thờ ơ: “Ta biết rồi”.

Quý Thường Thanh lui ra, Lục Y bẩm báo: “Ngọ thiện[1] đã chuẩn bị xong”.

[1] Bữa ăn trưa của vua chúa.

“Ta không đói, bảo họ mang đi.”

Lại đuổi hết Lục Y và đám thị nữ ra ngoài, Diệu Thiên ngồi yên lặng trong phòng, cúi đầu suy nghĩ. Gió thổi hàng rèm châu, những viên đá quý sáng lấp lánh thỉnh thoảng va vào nhau phát ra tiếng leng keng.

Diệu Thiên bỏ mũ phượng trên đầu xuống, ngắm nghía hồi lâu rồi mới đặt lên bàn. Nàng lần lượt tháo nốt những thứ còn lại, mái tóc đen xõa dài, đổ trên vai. Diệu Thiên ngắm mình trong gương, khuôn mặt thon hơn một chút, càng thêm phần diễm lệ.

Nàng soi gương, nhẫn nại nhếch môi, đổi mấy nụ cười, đều vô cùng xinh đẹp. Đột nhiên, Diệu Thiên thu lại nụ cười, tiện tay úp mặt gương xuống bàn, gọi, “Lục Y!”.

Lục Y từ hành lang bước vội vào: “Có nô tỳ, Công chúa có gì dặn dò”.

“Ta muốn tắm gội.”

“Vâng, nô tỳ sẽ bảo người chuẩn bị ngay.”

Giọng ôn hòa vô cùng chắc chắn của Diệu Thiên vọng ra từ trong rèm: “Nhớ rắc thêm cánh hoa thất hương[2] hái trên núi tuyết vào nước tắm”.

[2] Một loài hoa thuộc họ Cửu lý hương hay họ Vân hương.

“Vâng”, Lục Y đáp.

Như chợt nghĩ ra việc gì, Diệu Thiên hỏi: “Loại phấn son mà tháng trước viên quan Hậu Thành dâng lên dịp sinh thần của ta, gọi là gì?”.

“Bẩm Công chúa, gọi là Phương Nhưỡng. Loại phấn son này được chế từ cánh loài hoa vô cùng quý hiếm, thoa lên mặt vừa mịn vừa đều, quan Hậu Thành nói, thoa thứ ấy, da dẻ sẽ mềm mại tựa hài nhi.”

Diệu Thiên chăm chú nghe, khẽ “ừ” một tiếng, rồi dặn: “Tắm gội xong, mang Phương Nhưỡng qua đây cho ta thử”.

“Vâng, thưa Công chúa.”

Nói xong, Lục Y đi chuẩn bị các việc.

Diệu Thiên đứng dậy, cúi nhìn chiếc váy công chúa muôn hồng ngàn tía trên người. Đây là chiếc váy do thợ may giỏi nhất Vân Thường làm, hoa cỏ muông thú trên đó cũng do mấy chục thợ thêu giỏi nhất trong cung bận rộn cả tháng trời tạo nên.

Tay rộng vạt dài, những chùm tua rua màu tím bạc rủ xuống chân, phong thái ung dung, quý phái vô cùng.

Đôi mắt đen láy của Diệu Thiên bỗng ánh lên tia chờ đợi và kiêu ngạo.

Hai vị danh tướng đương thời, tiểu Kính An vương và Trấn Bắc vương luôn bị người đời đem ra so sánh.

Nàng đường đường là Công chúa Vân Thường, là thê tử của Hà Hiệp.

Vậy hình dáng của Bạch Sính Đình đã cướp đi trái tim Sở Bắc Tiệp sẽ như thế nào?

Bộ dạng lúc này của Bạch Sính Đình, Túy Cúc là người biết rõ nhất.

Hai người tay không đến đây, chỉ với hai bộ quần áo, chặng đường dài vất vả, vừa bẩn vừa mệt. Khi họ tới đây, mọi thứ trong phủ phò mã đều đã được chuẩn bị sẵn. Những đồ dùng hàng ngày nằm ngay ngắn ở nơi dễ lấy, không cần phải hỏi tới.

Trên bàn đặt chiếc gương đồng và lược ngọc Sính Đình vẫn dùng ở vương phủ Kính An. Trong tủ là những chồng y phục ngay ngắn, toàn những màu Sính Đình yêu thích, kích thước vừa vặn với nàng.

Trên chiếc bàn trong phòng đặt cây đàn cổ ngàn vàng khó kiếm, bên cạnh là lọ mã não đựng đầy những viên sỏi nhỏ đủ màu, tựa như một lọ đá quý.

Mùi hương ấm nồng đượm mà không hề ngột ngạt tỏa khắp gian phòng.

Bình hoa bên cửa sổ nghiêng nghiêng cành mai trắng mới cắt, vài nụ hoa e ấp điểm xuyết bên cạnh những đóa hoa nở rộ.

Tất cả hoàn mỹ đến độ khiến lòng người se lạnh.

Như thể Sính Đình đã ở đây từ rất lâu, một suy đoán khác khiến lòng người băng giá, rằng Sính Đình sẽ ở đây, ở đây mãi mãi.

Từ sáng sớm Hà Hiệp đã vào cung, để lại hai con chim nhốt trong lồng đang dần làm quen với môi trường mới.

Sính Đình ở hậu viện, khuôn mặt nàng đã không còn nỗi đau cùng cực của đêm mồng Sáu khi trăng sắp ẩn sau tầng mây. Thay vào đó là sự thản nhiên đến mơ hồ, như ngọn núi chìm trong sương mù, người ngoài chỉ nhìn thấy một khoảng xanh nặng nề, mà chẳng nhận ra đường nét bên trong.

Sự thản nhiên cổ quái đó khiến Túy Cúc không dám lại gần, chỉ lặng lẽ đứng bên lan can gỗ cách một dãy hành lang, dõi theo bóng dáng nàng.

Biết ruột gan Sính Đình đã đứt thành từng khúc, mà sao lưng vẫn thẳng thế kia, Túy Cúc khẽ thở dài.

Túy Cúc không thể hiểu được, ngoài bản thân Bạch Sính Đình ra, liệu còn ai có thể hiểu được nàng?

Túy Cúc lại thở dài. Gần nhau là thế, có thể nhìn rõ khuôn mặt, mà chẳng thể thấy rõ trái tim Sính Đình.

Cách một dãy hành lang, Túy Cúc thở dài đến rớt nước mắt, bất giác giơ tay lên lau. Đúng lúc ấy, Sính Đình quay lại, khẩn thiết vẫy tay với Túy Cúc.

Túy Cúc sững người. Từ lúc đổ bát thuốc, gục xuống đất khóc, Sính Đình như đã biến thành một linh hồn, hoặc một pho tượng gỗ, ánh mắt vô cùng mơ hồ, sâu xa khó hiểu chẳng nói một lời. Suốt chặng đường đến đây, Túy Cúc vẫn chưa thấy hành động nào của Sính Đình có sinh khí như lúc này.

Tuy chỉ là một cái vẫy tay, nhưng nó cũng khiến người ta quá đỗi vui mừng.

Túy Cúc vội vàng vòng qua hành lang, đến bên Sính Đình: “Bạch cô nương sao thế? Cô nương muốn ăn gì không?”.

Sính Đình lắc đầu, cảnh giác nhìn xung quanh, thấy không có ai, bèn hạ giọng: “Đang đạp ta đây này”, khuôn mặt nhợt nhạt ánh lên nét cười dịu dàng.

Sau bao ngày tuyệt vọng bi thương, đây là nụ cười đẹp nhất của Sính Đình mà Túy Cúc từng thấy.

“Nhanh thế sao?”, Túy Cúc chau mày, “Chắc cô nương nhầm rồi, mới được bao lâu chứ, tháng này thai chưa thể máy được đâu”.

“Ta không nhầm”, Sính Đình cắn môi, “Rõ ràng đang cử động mà”. Biểu cảm tinh tế trong thoáng chốc khiến Túy Cúc nhớ về giai nhân thanh tú từng vô cớ gây sự trong lòng Sở Bắc Tiệp.

Hồi ức không hẹn mà đến. Sau một đêm tuyệt vọng đó, đây là lần đầu tiên ký ức trở lại không nhuốm màu đau khổ…

Biệt viện ẩn cư thoang thoảng hương mai. Hồng Tường cứ hay chạy tít đi đâu. Thị vệ trông coi khắp nơi, hễ gặp nhau là họ thường chào hỏi mấy câu. Mạc Nhiên lúc nào cũng lạnh nhạt, nhưng bụng dạ rất tốt, còn tỉ mỉ dịu dàng. Các đại nương bên nhà bếp mỗi lúc đưa cơm qua, lại thân thiết hàn huyên đôi ba lời. Mỗi khi Bạch Sính Đình ăn được chút gì, bước chân trở về bếp của họ cũng vui vẻ nhẹ nhàng hơn.

Hình bóng Sở Bắc Tiệp ở đâu, trái tim Bạch Sính Đình ở đó. Nàng gảy đàn, chàng đứng lặng một bên, khi nàng ngẩng lên, ánh mắt hai người chạm nhau, ngọt ngào đến mức không thể chia xa.

Sắc tuyết đẹp tựa trong tranh.

Giờ hồi tưởng lại, Túy Cúc mới biết những ngày tháng trong biệt viện ẩn cư thật đáng quý biết chừng nào…

Bàn tay ngọc khẽ huơ trước mặt, Túy Cúc mới sực tỉnh: “À… Cô nương…”.

“Ta không thể ở lại chỗ này”, giọng nói nhẹ nhàng của Sính Đình ẩn chứa quyết tâm sắt đá.

Không thể để Hà Hiệp biết đến sự tồn tại của hài nhi.

Nhưng giờ hai người đang bị giam giữ ở đây, bụng Sính Đình cũng ngày một lớn, chắc chắn Hà Hiệp sẽ phát hiện ra.

“Cô nương, chắc chắn Vương gia sẽ đến cứu cô nương sớm thôi”, lời vừa dứt, Túy Cúc đã hối hận.

Biểu cảm của Sính Đình như tầng băng mỏng kết trên mặt sông vào ngày đông, đột nhiên bị người ta giẫm mạnh, nát tan trong phút chốc.

Sính Đình quay lại, ngồi xuống chiếc ghế đá trong hậu biện. Nàng cúi đầu khiến Túy Cúc không nhìn rõ sắc mặt, hồi lâu mới lên tiếng, giọng xa xăm: “Túy Cúc, cầu xin ngươi một việc…”.

Túy Cúc rất hối hận vì đã lỡ miệng nên vội hạ giọng: “Túy Cúc sai rồi, sau này Túy Cúc sẽ không nhắc đến nam nhân đó trước mặt cô nương nữa”.

Lúc này, Sính Đình mới ngẩng lên nhìn Túy Cúc, hồi lâu, nàng chậm rãi đưa tay về phía Túy Cúc.

Túy Cúc nắm chặt tay Sính Đình, quỳ xuống, ngẩng đầu bảo: “Cô nương không cần nói gì cả, Túy Cúc hiểu rồi”.

Hai bàn tay mềm yếu trắng nõn nắm lấy nhau, càng nắm càng chặt.

Tuyết bay bay, hoa rơi lệ.

Càng sợ đau lòng, lại càng bị người khác làm cho đau lòng.

Cây đàn cổ Phượng Đồng đã không còn nữa, bàn tay ấm áp vuốt mái tóc đen đến nay đã chẳng còn ấm áp.

Chàng vẫn là bảo đao, cung khỏe, chí ôm toàn thiên hạ, thiếp đã không còn là thân bồ liễu hồng nhan mơ với gió trăng.

Trăng đã chếch, đã nghiền nỗi tương tư khắc cốt ghi tâm tan thành tro bụi.

“Sẽ có một ngày, nàng biết thế nào là nỗi đau xuyên tim.”

Nàng đã biết rồi.

Chỉ cần đau một lần, nàng đã biết.

Đau nhưng chẳng phải hoàn toàn không có kết quả, ít nhất trong bụng nàng giờ đã có thêm một sinh linh bé nhỏ. Trong hình dáng mỏng manh của nàng, một trái tim đã vỡ lại có một trái tim khác hình thành.

Trái tim đó tuy nhỏ, cũng có thể vẫn chưa hình thành toàn vẹn, nhưng nhịp tim khỏe mạnh nhường ấy, sẽ không ai ngăn nổi sức sống mãnh liệt này.

“Dù thế nào cũng phải bảo vệ hài nhi”, Túy Cúc khẽ nói, “Cô nương đi cả chặng đường xóc, lại đau lòng sầu muộn, trước hết phải vứt bỏ muộn phiền, ăn ngủ cho tốt. Để Túy Cúc đi làm chút canh dưỡng thai cho cô nương”.

“Tuyệt đối không được”, Sính Đình phản đối, “Hà Hiệp tinh thông y thuật, nếu biết ngươi nấu loại canh này, chắc chắn sẽ hiểu ra mọi chuyện. Việc quan trọng trước mắt là phải tìm cách trốn đi”.

Mắt Túy Cúc sáng lên: “Cô nương đã nghĩ ra cách rồi?”.

Sính Đình chau mày, khẽ lắc đầu: “Hà Hiệp không phải nhân vật tầm thường, muốn ra tay ngay tại nơi của Hà Hiệp, thực rất khó…”.

“Vậy…”

“Nhất định phải nghĩ cách”, ánh mắt Sính Đình khẽ chuyển, dừng bên chiếc bàn đá.

Trên viền chiếc bàn đá có khắc ba chữ thể Triện nho nhỏ, “Phủ phò mã”.

Phủ phò mã. Phò mã Vân Thường.

Binh quyền của Hà Hiệp ở Vân Thường đều nằm ở hai chữ “phò mã” này.

Nhìn chăm chăm vào ba chữ ấy, hàng lông mày đang chau từ từ giãn ra, Sính Đình thở phào một hơi, lẩm bẩm: “Không biết Công chúa Vân Thường là người như thế nào…”.

Nghe nói, Công chúa của Vân Thường khuê danh là Diệu Thiên.

Xán lạn tựa hoa xuân, đoan trang kiều diễm.

Năm xưa khi còn nhỏ, Sính Đình được đọc sách cùng thiếu gia, thỉnh thoảng thầy giáo có việc ra ngoài, họ cũng tìm đủ mọi cách để được đi chơi. Họ thường sang phủ vương tử của Hà Túc, gặp gỡ, tám chuyện cùng đám con cái các vị trong vương tộc. Thỉnh thoảng họ cũng nhắc đến những chuyện phong lưu của vương tộc Vân Thường, cuối cùng luôn kết thúc bằng hai tiếng: “Đáng thương”.

Nghe nói số mỹ nhân trong vương cung Vân Thường luôn ít hơn so với vương cung bốn nước. Đại vương và Vương hậu không được tùy ý thân mật. Vương cung rộng lớn như vậy, nhưng nơi duy nhất họ có thể ân ái cùng nhau lại là cung điện riêng của Vương hậu. Ra khỏi cái tổ ấm cỏn con này, dù có thân mật đến cỡ nào họ cũng phải ngồi đoan trang, tách thành hai phía.

“Thật đáng thương, chẳng trách Vân Thường vương chỉ có một công chúa.”

“Kìm nén như thế, có được một nàng công chúa đã là tốt lắm rồi.”

Đám con cháu quý tộc vừa hiểu chút chuyện đời nên nói năng chẳng hề kiêng dè, xuýt xoa cảm thán. Nghĩ mình sống trên đất Quy Lạc phong tục phóng khoáng, tình chàng ý thiếp, nước đến thành dòng, thì cảm thấy may mắn.

“Công chúa cũng là mệnh khổ. Quy Lạc chúng ta, Công chúa xuất giá đều ở trong phủ phò mã, phu thê sớm hôm cận kề, muốn làm gì thì làm. Vân Thường không thế, sau khi xuất giá, Công chúa sẽ vẫn ở trong vương cung, chỉ khi nào muốn làm cái chuyện phong hoa tuyết nguyệt kia mới thông báo cho phò mã, nói rõ đêm nào sẽ qua.”

“Ha ha! Vậy một tháng mấy lần, chẳng phải đều bị người ngoài biết hết sao? Chỉ cần đếm số lần xe ngựa của Công chúa đến phủ phò mã là đủ biết.”

Sính Đình đứng sau thiếu gia, nghe bọn họ cợt nhả bỗng vô cùng xấu hổ. Nàng kéo Dương Phượng ra sân tìm nơi liễu rủ xanh biếc, chọn tảng đá lớn ngồi xuống, tâm sự chuyện nữ nhi.

Chuyện xưa đã không còn. Quay đầu nhìn lại, cảnh vẫn đây mà người chốn nao.

Giờ Sính Đình chỉ có thể nhìn về phía trước. Thiếu gia khi xưa còn cười đùa tán chuyện Công chúa Vân Thường đáng thương, nay đã trở thành chủ nhân của phủ phò mã Vân Thường.

Có điều, phò mã đến từ Quy Lạc và Vân Thường công chúa chốn vương cung kia, rốt cuộc ân nghĩa phu thê thế nào?

Dẫn binh ra tận biên cương, xâm phạm Đông Lâm, bao vây biệt viện ẩn cư, đưa chiến lợi phẩm quay về… Tính ra, Hà Hiệp đã xa Công chúa nhiều ngày rồi.

Phu thê xa nhau, còn hơn cả tân hôn.

Liệu có tương tư?

Nếu là người đó, xa một ngày trở về, giống như cả đời chưa được gặp nhau, phóng khoáng chiếm đoạt, khiến nàng cả đêm không thể ngủ yên, xin tha mà vẫn bị chìm trong ân ái.

Người đó…

Tim nàng bỗng quặn thắt, tựa như hàng ngàn mũi tên móc sẵn vào tim, giờ bị người ta sơ ý giật mạnh một cái. Sính Đình kinh hoàng, bấm chặt móng tay vào lòng bàn tay.

Không được nghĩ.

Không được nghĩ.

Không nghĩ tới nữa!

Thở sâu, nàng ép dòng suy nghĩ quay trở về ba chữ “Phủ phò mã”.

Nắm binh quyền chưa lâu, để củng cố địa vị của mình, chắc chắn Hà Hiệp sẽ phải dỗ dành ái thê. Tiểu Kính An vương đã mất đi gia quyến trong trận đấu chính trị ở Quy Lạc, chịu đủ mọi nỗi khổ, chắc chắn hắn hiểu rõ sự ủng hộ của Vân Thường công chúa quan trọng đến nhường nào.

Hà Hiệp sẽ trổ hết chiêu thức và tài năng để Công chúa điện hạ cúi đầu xưng thần.

Trở về thành đô, đêm đầu tiên tinh thần thoải mái, chẳng phải chính là lúc thích hợp cho tình cảm ngọt ngào, để buông màn đầu giường sao?

Trầm tư hồi lâu, Sính Đình quay sang nhìn Túy Cúc: “Sáng sớm nay, Hà Hiệp đã ra ngoài, chắc vào cung gặp Công chúa đúng không?”.

“Tắm gội xong, Hà Hiệp ăn vận chỉnh tề rồi đi, chắc tới gặp Công chúa”, Túy Cúc nghĩ một lát, “Chắc chắn phải vội rồi, nói gì thì Công chúa cũng là chủ nhân của Vân Thường mà”.

Thấy Sính Đình có vẻ suy nghĩ, ánh mắt chắc chắn vài phần, lại như có chuyện gì nghĩ mãi không ra, hàng mày thanh tú chau lại, Túy Cúc dò la: “Có phải cô nương đã nghĩ ra cách gì không? Liên quan đến Vân Thường công chúa?”.

Rõ ràng đang gặp phải chuyện nghĩ không ra, Sính Đình khẽ lắc đầu, rồi lại nhìn Túy Cúc chằm chằm, im lặng hồi lâu mới hỏi: “Ngươi có phương thuốc nào có thể tạm thời đổi mạch của ta, để khi Hà Hiệp bắt mạch vẫn không phát hiện ra chân tướng? Một đêm cũng được”.

Bản thân vốn tinh thông dược lý, Sính Đình cũng biết rõ việc này vô cùng khó khăn.

Phương thuốc ấy phải vừa hữu hiệu vừa không làm ảnh hưởng đến thai nhi. Hơn nữa, trong lúc bị giam lỏng thế này, những phương thuốc Túy Cúc cần đều phải thông qua người phủ phò mã, phải làm thế nào Hà Hiệp mới không nghi ngờ?

Túy Cúc đáp: “Cô nương đang kiểm tra y thuật của Túy Cúc sao? Phương thuốc này, đừng nói là Túy Cúc, ngay cả sư phụ của Túy Cúc cũng chẳng thể chế ra”.

Sính Đình cũng biết không có quá nhiều hy vọng, sắc mặt ảm đạm, khẽ nói: “Đây là điểm mấu chốt mà chúng ta không được lơ là, nếu không tính kỹ bước này, chúng ta chẳng thể manh động”.

Túy Cúc bỗng nhếch môi, nở nụ cười khoái trá: “Không có phương thuốc cũng chưa phải là không có cách khác. Túy Cúc chỉ cần bảy cây kim bạc, đảm bảo trong đêm nay, Hà Hiệp không thể phát hiện ra mạch thai của cô nương”.

“Châm cứu?”, ánh mắt Sính Đình quá đỗi vui mừng.

Tuyệt chiêu của thần y Hoắc Vũ Nam chính là châm cứu.

“Có điều, việc này chỉ có thể dùng một lần, dùng nhiều sẽ không tốt cho thai nhi”, Túy Cúc thành thật, “Hơn nữa, sau khi châm cứu, mạch tượng của cô nương không được bình ổn như thường, mà hơi hỗn loạn”.

“Thế càng tốt!”, Sính Đình khẽ đập tay lên bàn đá, đôi mắt đen rõ thấp thoáng mấy phần ánh sáng của trước kia, giọng rất khẽ, “Ta đang muốn Hà Hiệp nghĩ ta bị bệnh”.

“Nhưng còn kim bạc…”

“Kim bạc thì có khó gì? Hà Hiệp đã dặn, người trong phủ phò mã phải đối xử với ta như chủ mẫu.” Ánh mắt nàng nhìn về phía hai thị nữ đang thập thò bên đầm nhỏ đối diện, “Bảo họ đi lấy, họ lại không dám đi sao?”.
 

Hoa Tử

Sưu tầm
Tham gia
24/9/19
Bài viết
10,570
Điểm cảm xúc
1,484
Điểm
113
Chương 32:
Khi tuyết ngừng rơi, Hà Hiệp trở về phủ phò mã.

Đêm qua vừa về đến nơi, sáng nay đã dậy sớm, vào cung gặp Công chúa, rồi vì việc của Đông Lâm mà bị các tướng quân vây lại ở phòng nghị sự luận đàm chiến sự, dù thân thể làm bằng sắt, Hà Hiệp cũng cảm thấy mệt mỏi.

Những ngày trước đây, trong mắt Hà Hiệp, phủ phò mã dù rực rỡ huy hoàng, vẫn thiếu chút sinh khí. Nay trên đường từ cung về nhà, hắn bỗng cảm thấy phủ phò mã thêm phần thân thiết, cũng thêm phần sợ hãi không dám đối mặt.

Hai cảm giác ấy đều vì một người.

Nơi Sính Đình ở luôn nhuộm trong màu sắc giống ánh mắt nàng, vang vọng những giai điệu tựa hơi thở của nàng.

Nàng cứ âm thầm len vào hơi thở của người khác, dẫn dắt trái tim người khác, mà bản thân nàng chẳng hề hay biết. Nhưng, đã từng có Hà Hiệp là ngoại lệ.

Mười lăm năm bầu bạn sớm hôm, Hà Hiệp đã từng len vào hơi thở Sính Đình, dẫn dắt trái tim nàng. Vẻ mặt Hà Hiệp không vui, sức khỏe không tốt, trong người hơi khó chịu… đều khiến Sính Đình lưu tâm. Đôi mắt thông tuệ khẽ chuyển, nàng có thể đoán được tâm tư của Hà Hiệp. Nàng đi dạo trong vườn, đánh đàn, nói cười hay làm bất cứ việc gì… chỉ mong hóa giải mọi nỗi niềm bất an của thiếu gia.

Có lúc Sính Đình khuyên một Hà Hiệp u sầu cầm kiếm, múa Kính An kiếm pháp. Nàng thay sang bộ y phục có ống tay rộng, hòa theo ánh kiếm của Hà Hiệp múa điệu Cửu thiên nhẹ nhàng uyển chuyển.

Thấu hiểu lòng nhau, Hà Hiệp rất đỗi thương yêu đóa hoa bên cạnh luôn làm dịu lòng mình.

Nam nhân trong thiên hạ, mấy người có được phúc phận này.

Phúc phận ấy đã từng thuộc về Hà Hiệp.

Thấy ánh mắt Sính Đình nhìn về phía mình, Hà Hiệp kinh ngạc phát hiện ra rằng, có được sự quan tâm của nàng thật quý giá, thực hài lòng biết chừng nào.

Hóa ra sự quý giá ấy không phải ở tiếng đàn, giọng hát, không phải bởi điệu múa lay động lòng người, hay vì nụ cười hấp dẫn, mà bởi cảm giác an tâm khi ở bên nàng.

Hóa ra phúc phận trời cho đến một ngày cũng sẽ biến mất như đã định sẵn.

Phúc phận đã từng của Hà Hiệp chẳng lẽ đời này kiếp này đã an bài thuộc về Sở Bắc Tiệp, vương gia của địch quốc, Trấn Bắc vương đã dùng kế tháo lui, khiêu khích Hà Túc động thủ với vương phủ Kính An, kẻ để lại Ly hồn bảo kiếm khiến Sính Đình lìa hồn?

Bước chân lên bậc thềm có chút trì hoãn.

Bậc cổng trước mắt quá cao, đó là bậc cổng phủ phò mã của Hà Hiệp. Dường như chỉ cần cao thêm chút nữa, nó có thể chắn trước cổng, khiến bên trong trở thành chốn lao tù vững chãi.

Hà Hiệp tự nguyện bước vào, nhưng không đồng nghĩa với việc bằng lòng ở đó cả đời.

Hà Hiệp cúi đầu nhìn những vết chai do kiếm mài mòn nơi lòng bàn tay. Bàn tay ấy có cả sức mạnh và sự linh hoạt, biết cách khéo léo luồn lách, giành thắng lợi cho bản thân.

Tứ quốc đã loạn.

Loạn thế chính là lạc viên của anh hùng.

Vốn là tướng tài bẩm sinh, lại xuất thân từ vương phủ Kính An, Hà Hiệp càng thêm vốn liếng để từ trên cao nhìn xuống quan sát thời cuộc. Trời sinh ra Hà Hiệp đã đứng nơi cao nhất trong chúng sinh nhốn nháo này.

Nhưng, một người khác cũng có vốn liếng hùng hậu như thế, Sở Bắc Tiệp xuất thân cao quý, văn võ song toàn, có tài trị quốc, dũng tướng mưu lược trên sa trường. Quan trọng hơn cả, Sở Bắc Tiệp cũng có khí thế và phong độ khiến người khác thần phục.

Hà Hiệp và Sở Bắc Tiệp, cũng giống như lưỡng cầm Quy Lạc, Dương Phượng và Bạch Sính Đình, cả đời này luôn được đặt cạnh nhau.

Dương Phượng và Sính Đình từ nhỏ đã là hảo hữu.

Hà Hiệp và Sở Bắc Tiệp sinh ra đã là kẻ thù.

Sính Đình đã trở về, Sở Bắc Tiệp không có được nàng, cũng giống như chẳng bao giờ có được thiên hạ.

Ánh mắt toát ra sự kiên quyết, Hà Hiệp ngẩng cao đầu cất bước, qua bậc cổng cao của phủ phò mã.

Vội vã tiến đến tiền sảnh, vòng qua hành lang gấp khúc bên đầm nhỏ, bước chân bỗng khựng lại sau bức bình phong bằng đá, Hà Hiệp chăm chú nhìn bóng dáng trong tiểu đình.

Trên bàn đá trong đình đặt chiếc đàn cổ, khói hương vương vất.

Sính Đình ngồi trước cây đàn, lặng lẽ xoa đầu đàn, như muốn lau sạch vết bẩn nơi đó.

Thấy cảnh này, Hà Hiệp bỗng nhớ ra, đã rất lâu rồi mình chưa được nghe tiếng đàn của Sính Đình.

Hà Hiệp luôn là người ngồi gần Sính Đình nhất, ngắm nhìn mười ngón tay đẹp như tạc bằng ngọc đặt trên đàn cổ, nghe dây đàn run rẩy xướng lên những âm thanh đẹp đẽ, vút bay lên trời, khiến mây lững lờ trôi cũng phải dừng lại lắng tai.

Lâu lắm rồi không được nghe tiếng đàn quen thuộc, Hà Hiệp không dám kinh động Sính Đình, lặng lẽ đứng sau bình phong, chờ tiếng đàn cất lên. Tiếng đàn biết an ủi trái tim mệt mỏi của hắn, dẫn hắn về quê hương phương xa.

Hình như không có tâm tư chơi đàn, Sính Đình chỉ cúi đầu, khẽ xoa cây đàn, ánh mắt thẫn thờ dừng trên những dây đàn thanh mảnh.

Hương vẫn đang cháy, đốm đỏ dần thấp xuống, cố sáng hồi cuối, rồi tắt lịm.

“Sao không đàn?”, Hà Hiệp bước ra sau bình phong, giẫm lên con đường rải đá xanh quanh co dưới tuyết, dừng trước đình.

Như không nghe thấy gì, Sính Đình vẫn thẫn thờ ngồi nhìn cây đàn.

“Đàn nay do ta sai người mua từ Quy Lạc về, muội thích không?”

Có lựa lời thăm hỏi thế nào, Hà Hiệp cũng không thấy câu trả lời. Từ khi lên ngựa, Sính Đình chẳng hề nói lời nào với hắn.

Nàng đã trở về đây, nhưng trái tim thì để lại Đông Lâm.

Một lúc sau, Hà Hiệp thở dài: “Bữa tối muội muốn ăn gì, cứ bảo nhà bếp làm. Trong phủ có hai đầu bếp Quy Lạc, giỏi nhất món chân giò hương tỏi và các loại dưa món”. Nói xong định quay về phòng nghỉ ngơi, nhưng đi được vài bước, Hà Hiệp lại quay đầu, hạ giọng nói thêm một câu, “Lâu lắm không được nghe tiếng đàn của muội”, sau đó bước đi.

“Muội cũng… lâu lắm không được xem thiếu gia múa kiếm trong tuyết.”

Thanh âm nhẹ nhàng như gió thoảng, vang lên sau lưng, Hà Hiệp kinh ngạc quay người, mắt lấp lánh niềm vui, hạ giọng: “Muội muốn xem không?”.

Sính Đình quay đi, lặng lẽ thở dài: “Thiếu gia không mệt sao? Đêm qua mới trở về, sáng nay đã phải ra ngoài”.

Hà Hiệp xúc động nhìn nàng, nở nụ cười dỗ dành: “Có muội xem, mệt sao được?”.

Kiếm sắc rút ra khỏi bao, thân hình Hà Hiệp nhanh như chớp.

Như giao long gặp nước, thoải mái vẫy vùng, lại như dây mây cuốn vào thân cây, biến ảo khôn lường.

Đường kiếm như nước chảy mây trôi, khí thế ngút trời.

Sính Đình dựa vào đình, lặng lẽ ngắm nhìn.

Ánh mắt nàng dịu dàng như khói nước, khiến mọi nỗi mệt mỏi của Hà Hiệp tiêu tan.

Hà Hiệp cầm kiếm bay vút lên cao, khi quay lại, ánh mắt nhìn thẳng vào mắt Sính Đình.

Trong thoáng chốc, vương phủ Kính An yên vui như đang ở ngay đây.

Tất cả vẫn như chưa hề thay đổi. Phụ mẫu vẫn còn, cửa nhà vẫn nguyên, những điều kiện hắn vẫn cố giữ gìn và tự hào, vẫn nguyên vẹn.

Năm tháng kiêu ngạo, phong hoa tuyết nguyệt chưa từng mất đi.

Hà Hiệp múa một đường kiếm nghiêng, trổ hết chiêu thức của bản thân, như muốn lưu lại những ngày tháng xưa kia in dấu sâu đậm trong lòng.

Gió Bắc lạnh buốt không ngăn được hào khí trào dâng. Hết bài múa kiếm, Hà Hiệp mồ hôi đầm đìa, khoáng đạt giơ ống tay áo lau mồ hôi trán, cười nói: “Tiếp tục!”.

Mũi kiếm chếch xuống dưới bỗng dừng lại, thân hình thay đổi, tựa như rồng sắp bay lên trời, chuẩn bị bùng phát. Đây chính là Kính An kiếm pháp Sính Đình vẫn yêu thích.

Tằng…

Ánh kiếm tựa giao long du ngoạn bốn phương, tiếng đàn mãnh liệt không hẹn mà vang lên, thúc giục thế kiếm.

Hà Hiệp vô cùng phấn chấn, từng chiêu, từng thức không hề trì trệ, thế kiếm bỗng đổi, tiếng đàn càng vút cao, như tiếng rồng gầm thét.

Múa kiếm gảy đàn, phối hợp ăn ý, chẳng chút tì vết.

Hà Hiệp ung dung múa hết bộ Kính An kiếm pháp, khúc Cửu thiên cũng kết thúc dưới ngón tay Sính Đình.

Chiêu kiếm cuối cùng dừng lại, tiếng đàn theo đó ngưng bặt.

Hai đôi mắt thâm trầm gặp nhau giữa không trung, cảm giác quen thuộc mà phức tạp bỗng ào tới.

Sính Đình, muội cũng giống ta, chưa từng quên quá khứ.

Trong lòng muội vẫn có vương phủ Kính An, vẫn có tiểu Kính An vương!

Ngoài Sở Bắc Tiệp, vẫn còn có chỗ cho người khác trong lòng muội, đúng không?

Vẫn có!

Trời đất bỗng im ắng vô cùng.

Không biết bao lâu sau, ánh mắt gặp nhau giữa không trung mới từ từ tách ra. Sính Đình nhìn về một nơi nào đó phía sau Hà Hiệp.

Hà Hiệp như có cảm giác, thình lình quay đầu lại.

Một dáng hình tao nhã kiều diễm lọt vào tầm mắt Hà Hiệp.

Diệu Thiên công chúa nổi bật trong chiếc váy dài màu tím long trọng, trên vai khoác áo lông chồn trắng tinh, đầu đội mũ phượng trân châu cầu kỳ, cổ đeo chuỗi vòng đá quý sáng lấp lánh.

Đôi môi Diệu Thiên hồng đào, mắt sáng như sao.

Tám thị nữ phía sau Công chúa đều cúi đầu nhìn xuống, đứng một bên hầu hạ.

Thấy Hà Hiệp quay lại, Diệu Thiên khoan thai nở nụ cười, khen ngợi: “Lần đầu tiên thiếp được ngắm Phò mã múa kiếm trong tuyết”. Ánh mắt Công chúa chuyển đến phía sau Hà Hiệp, dịu dàng, “Song cầm Quy Lạc, quả nhiên danh bất hư truyền. Bạch cô nương, ngưỡng mộ từ lâu”.

“Công chúa điện hạ.” Ngón tay ngọc rời khỏi cây đàn, Sính Đình chậm rãi đứng dậy, cách một tiểu đình, hướng về phía Diệu Thiên công chúa hành lễ từ xa.

Sắc mặt Hà Hiệp bỗng thay đổi, thoáng sau đã mỉm cười: “Công chúa tới từ khi nào vậy?”. Hà Hiệp thu kiếm, đến bên và nắm tay Diệu Thiên, “Lạnh thế này, sao không gọi ta một tiếng, lại đứng trong tuyết thế kia?”.

“Tiếng đàn hòa điệu kiếm trong tuyết, cảnh đẹp khiến lòng người say mê, ai nỡ làm đứt đoạn?”, Diệu Thiên hiền thục để Hà Hiệp dắt tay.

Họ vào đại sảnh ngồi. Thị nữ nhanh chóng dâng trà nóng. Đều có tâm sự riêng, ba người cúi đầu thưởng trà, nhìn khói tỏa vẩn vơ, nhất thời im lặng.

Diệu Thiên công chúa thân phận tôn quý nhất, tất nhiên ngồi vào vị trí chính giữa. Nàng nghiêng đầu đánh giá Sính Đình ngồi bên cạnh, hồi lâu bỗng cười nói: “Khúc nhạc lúc nãy Bạch cô nương gảy thật dễ nghe, không biết tên là gì?”.

Sính Đình đặt chén trà xuống, không kiêu ngạo, không siểm nịnh mà đáp: “Tên là Cửu thiên”.

“Cửu thiên…” Diệu Thiên trầm ngâm nhắc lại cái tên, rồi gật đầu nói, “Điệu nhạc hay, tên cũng đẹp”.

“Công chúa quá khen.”

“Có thể đàn thêm một lần không?”

Hà Hiệp bất chợt đặt chén trà xuống, chưa đợi Sính Đình trả lời đã thân thiết hỏi: “Công chúa dùng bữa tối chưa? Biết Công chúa đến, ta đã dặn nhà bếp chuẩn bị mấy món điểm tâm của Quy Lạc. Lần trước nếm thử, Công chúa vẫn nói muốn dùng thêm mà?”.

Vỗ tay mấy tiếng, Hà Hiệp gọi một thị nữ đến, dặn: “Mau mang những món điểm tâm đã chuẩn bị lên đây, cả rượu ta đem về, cũng đưa cả lên”.

Một lúc sau, điểm tâm và rượu ngon đã được mang lên. Toàn những món điểm tâm do đầu bếp Quy Lạc làm, vẫn nóng hổi, bên trên còn khéo léo khắc hình cánh hoa lung linh nhiều màu sắc khiến người ta thích mắt. Mỗi chiếc đĩa nhỏ bày năm món điểm tâm màu sắc khác nhau, phần nhân bên trong cũng khác nhau.

Hà Hiệp bảo thị nữ lui ra, tự tay rót ly rượu, đưa lên môi Diệu Thiên. Diệu Thiên nhìn Hà Hiệp, ánh mắt khẽ dừng trên khuôn mặt không rõ biểu cảm của Sính Đình, ngoan ngoãn ngẩng đầu uống cạn ly rượu phu quân đưa lên, rồi thưởng thức hai món điểm tâm, không nói gì thêm, vẻ mặt bình tĩnh.

“Sính Đình, muội cũng nếm thử xem”, Hà Hiệp nhìn về phía Sính Đình.

Trên chiếc bàn bên cạnh Sính Đình cũng có ba, bốn chiếc đĩa nhỏ. Nàng cúi xuống nhìn, lắc đầu nói: “Sính Đình không ăn điểm tâm vị táo, thiếu gia quên rồi sao?”.

“Tất nhiên ta không quên”, Hà Hiệp đáp, “Muội không thấy trên món điểm tâm có sợi cà rốt ư? Điểm tâm vị táo đều đổi sang nhân cà rốt, còn thêm cả mật ong bên trong”.

Sính Đình khẽ lấy một cái, tách ra xem, bên trong đúng là nhân cà rốt, còn có cả mùi thơm thoang thoảng của mật ong. Sính Đình nhẹ nhàng nếm thử, ánh mắt sáng lên: “Vị còn ngon hơn trước kia, thiếu gia đã cho thêm thứ gì?”.

Hà Hiệp liếc nhìn Diệu Thiên, rồi trả lời cho có: “Cũng không có gì, chỉ là dùng loại mật ong tươi của mùa đông. Trên vùng núi tuyết gần thành đô Vân Thường có loại ong mật không sợ lạnh”.

Món điểm tâm hương vị quê hương ngon một cách lạ kỳ, Sính Đình nếm thử một chút, bỗng thấy thèm ăn, mấy món điểm tâm trong đĩa chỉ to bằng đầu ngón tay, nhìn thì đẹp nhưng thật chẳng thấm tháp vào đâu. Sính Đình nhã nhặn ăn hết năm phần điểm tâm, ánh mắt nhìn sang đĩa điểm tâm của Hà Hiệp.

“Chỉ đĩa của muội có vị cà rốt. Mấy đĩa này đều không phải. Sớm biết muội thích ăn như thế, ta đã bảo nhà bếp làm thêm một phần dự trữ rồi.” Ánh mắt Hà Hiệp lại nhìn về phía Diệu Thiên đang ngồi chính giữa, ân cần hỏi: “Lần trước Công chúa nói thích món điểm tâm nhà bếp làm, nên hôm nay ta chuẩn bị cho Công chúa mấy loại nhân đó. Công chúa có muốn nếm thử nhân cà rốt không?”.

Diệu Thiên cười lạnh nhạt: “Thiếp thích vị táo!”, rồi với tay lấy bình rượu trên bàn.

Hà Hiệp muốn giúp Diệu Thiên, nhưng đã chậm một bước.

Sính Đình cầm bình rượu, chậm rãi rót đầy chén của Diệu Thiên công chúa, nở nụ cười thân thiết, giọng dịu dàng: “Tuyết đã ngừng bay, trăng cũng sắp lên. Hay chúng ta mở cửa sổ đại sảnh, để ánh trăng ùa vào, Công chúa uống rượu, nghe Sính Đình gảy đàn, vừa giải sầu, lại tao nhã, được không?”.

“Nghe đã thấy dễ chịu rồi.” Diệu Thiên gật đầu, sai người mở cửa sổ đại sảnh. Trời đông ngày ngắn, từ tiểu đình trở vào đại sảnh chưa quá một canh giờ, mà màn đêm đã buông. Trăng sao rất sáng, chắc mai là một ngày nắng.

Trăng rải ánh vàng, chảy xuống đại sảnh cuồn cuộn như nước đổ.

Đám thị nữ chuyển chiếc bàn và đàn cổ Hà Hiệp chuẩn bị cho Sính Đình vào, đặt ngay ngắn lên bàn.

Sính Đình rửa tay, châm hương, khuôn mặt thanh tú thêm phần trang trọng. Nàng ngồi trước cây đàn, nín thở nhắm mắt, bàn tay lướt trên dây đàn, gảy khẽ.

Âm thanh run rẩy cực thấp vang lên, như tiếng nấc nghẹn của dây đàn.

Nghe tiếng đàn, Diệu Thiên thở dài một tiếng: “Đàn tốt, chẳng trách Phò mã không tiếc ngàn vàng mua về”. Nhìn sang Hà Hiệp, Công chúa lại tiếp tục tán tụng, “Cũng chỉ cây đàn tốt như vậy mới xứng với tài đánh đàn của Bạch Sính Đình”.

Hà Hiệp đáp lời Diệu Thiên bằng nụ cười yêu chiều, vẫn chẳng lên tiếng, chỉ dịu dàng vuốt ve ánh mắt Diệu Thiên.

Sính Đình thử âm, thấy tâm đã tĩnh, bèn ngẩng đầu lên hỏi: “Công chúa muốn nghe khúc gì?”.

“Việc quan trọng này phải giao cho người thân quen với người gảy đàn.” Ánh mắt Diệu Thiên dừng trên khuôn mặt Hà Hiệp, giọng lạnh nhạt: “Mời Phò mã thay thiếp chọn một khúc”.

Suy nghĩ giây lát, Hà Hiệp đáp: “Xuân cảnh, thế nào?”.

Sính Đình khẽ gật, nhắm mắt tĩnh tâm, dưỡng thần, khi mở mắt, ánh nhìn đã thêm vẻ tự tin và thần thái không dễ khinh thường.

Nàng giữ dây đàn, thuần thục gảy tay.

Tiếng đàn nhẹ nhàng hoàn toàn khác với âm thử khi nãy, ngoan cường cất tiếng.

Tiếng đàn vang đến đâu, sinh khí tràn đến đấy.

Đã không còn vẻ u ám lạnh lẽo của mùa đông, dường như lúc này thời gian đang trôi đi gấp gáp, khiến con người cũng cảm nhận được, đông qua xuân tới.

Điệu nhạc gấp gáp không hề khiến người nghe buồn chán, mà như đang thấy cả mưa xuân lất phất, bên mái hiên từng giọt mưa tí tách, dịu dàng trong trẻo.

Tiếng đàn càng lúc càng nhanh, rồi đến cao trào, sắc xuân rạng rỡ về khắp đất trời.

Vạn vật khoan khoái.

Chim chóc véo von xuyên qua những cánh rừng, cỏ non xanh rờn trên nền đất tuyết vừa tan, cây cổ thụ vươn mình đón gió, chuẩn bị thay áo mới.

Muông thú yên lặng cả một mùa đông đã thò đầu ra khỏi hang, trong phút chốc, chúng ùa hết ra ngoài, trêu đùa những nụ hoa còn đang e ấp.

Sắc xuân tuôn trào trong tiếng đàn, khiến cả không trung ngập đầy hương vị của mùa xuân.

Người trong sảnh nghe như mê như say, tưởng chừng nắng xuân tháng Ba đang bừng sáng, làm rạng rỡ lòng người.

Cuối cùng, tiếng đàn dần thấp, một ngày sắp tắt.

Chim chóc về tổ, muông thú kéo nhau đi tìm nguồn nước mát lành sau một ngày vui chơi mệt mỏi. Cỏ non như cũng cao hơn sau một ngày. Cây cổ thụ im lìm đứng đó, mỉm cười nhìn chú sóc cuộn mình ngủ trong cành lá.

Dư âm văng vẳng, hồi lâu không dứt.

Mãi một lúc sau, Diệu Thiên mới chợt tỉnh, thốt ra lời khen tự đáy lòng: “Trong thiên hạ có tiếng đàn hay đến nhường này. Phò mã bầu bạn với Bạch cô nương, quả là may mắn hơn ta không biết bao nhiêu lần”.

Sính Đình được khen mà không hề tự đắc, cung kính đáp: “Nay Sính Đình ở phủ phò mã, nếu Công chúa muốn nghe tiếng đàn, có thể gọi bất cứ lúc nào”.

Diệu Thiên vui mừng, gật đầu cười đáp: “Thế là tốt nhất. Có thể tiếp tục được không?”.

“Tất nhiên rồi. Công chúa muốn nghe khúc gì?”

Diệu Thiên nghĩ một lát, hỏi: “Đã có cảnh xuân, chắc hạ thu đông cũng có khúc của mình?”.

“Vâng. Xuân cảnh, Hạ sắc, Thu trùng, Đông ngữ.”

“Vậy thì…”, Diệu Thiên nhẹ nhàng cất tiếng, “Hãy đàn cho ta nghe đi”.

Sính Đình đáp một tiếng, ngồi thẳng lưng, hai vai hơi cao, đôi tay tiếp tục đặt trên dây đàn.

Tiếng đàn du dương uyển chuyển bay qua khung cửa sổ hoa lệ, vang vọng khắp phủ phò mã rộng lớn.

Xuân cảnh, hạ sắc, thu trùng, đông ngữ.

Cảnh xuân rạng rỡ, sắc hạ tươi tắn, trùng thu rả rích, tiếng đông tĩnh lặng.

Nơi tiểu đình cạnh đài hoa trong vương phủ Kính An khi xưa, đây là những khúc do Sính Đình phổ và Hà Hiệp cân nhắc tựa tên.

Hết khúc Xuân cảnh, lại đến Hạ sắc, thu đang xào xạc chậm rãi đến gần, lặng lẽ mà không vắng vẻ.

Tiếng đàn bay bổng khắp trong ngoài phủ như chốn thần tiên, chỉ đến khi tiếng đàn dừng lại, mọi người mới giật mình phát hiện ra, trong lúc dốc lòng say mê theo điệu nhạc, Thu trùng đã đến đoạn kết.

Gảy đàn vô cùng hại sức, Sính Đình miễn cưỡng chơi ba khúc liền vẻ mệt mỏi hiện rõ nơi đầu mày. Lúc này, hai tay nàng lại chạm vào dây đàn, chuẩn bị tiếp tục khúc Đông ngữ.

Hà Hiệp rất lo lắng, vội giơ tay ngăn lại, quay đầu nói với Diệu Thiên: “Công chúa, giờ là mùa đông, nghe Đông ngữ sẽ càng thêm buốt giá, còn xa mới bằng được Xuân cảnh, Hạ sắc và Thu trùng. Chi bằng không nghe Đông ngữ nữa, lưu lại chút dư âm, coi như là dư vị?”.

“Phò mã nói rất đúng”, Diệu Thiên gật đầu, nhưng vẻ như chưa thỏa mãn, chậm rãi bình luận, “Ba khúc ban nãy mỗi khúc đều có đặc sắc riêng, nhưng nếu luận về khí phách, ta vẫn thích khúc Cửu thiên nghe ngoài hậu viện nhất”.

Không để Hà Hiệp đáp gì, Sính Đình đã tiếp lời Diệu Thiên công chúa: “Không nghe Đông ngữ, Sính Đình sẽ đàn Cửu thiên cho Công chúa nghe”.

Hà Hiệp đoán Diệu Thiên cũng thấy vẻ mệt mỏi của Sính Đình, hy vọng sẽ từ chối, nào ngờ Công chúa gật đầu, cười đáp: “Được”.

Hà Hiệp trong lòng không vui, cũng chẳng tiện lên tiếng, ánh mắt u ám, nhưng vẻ mặt vẫn hoàn toàn bình thản, yên tĩnh ngồi nghe.

Sính Đình lại ngồi ngay ngắn, hai tay đặt lên dây đàn.

Dây đàn run rẩy vung lên, phát ra những thanh âm đẹp đẽ, nhưng hình như không được réo rắt như lúc đầu. Hà Hiệp thầm kêu khổ, miễn cưỡng ngồi nghe, âm cao như đang dựng đứng trước vực sâu, vô cùng chông chênh.

Hơi thở Sính Đình bỗng trở nên nặng nề, bờ vai run rẩy rồi ngã ra sau. Hà Hiệp kêu thầm trong lòng, vội vàng nhảy khỏi ghế, kịp đỡ Sính Đình đang suýt chút nữa nhào xuống đất vào lòng mình, lo lắng gọi: “Sính Đình! Sính Đình!”.

“Sao thế?”, Diệu Thiên cũng hoảng hốt, đứng dậy bước qua.

Chẳng có thời gian trả lời Diệu Thiên, Hà Hiệp vội nắm lấy bàn tay nhỏ nhắn nhìn rõ những khớp xương của Sính Đình, bắt mạch rồi ôm nàng vào lòng, vòng qua hành lang, cẩn thận đặt nàng lên chiếc giường trong phòng ngủ, sau đó mới trầm giọng nói với Diệu Thiên theo phía sau: “Mạch loạn. Cả đường vất vả, chắc Sính Đình mệt rồi”.

Diệu Thiên sững người, vẻ mặt áy náy: “Thiếp không nên lệnh cho Sính Đình đàn”.

Điều bất ngờ là, Hà Hiệp không an ủi nàng như thường ngày, mà quay sang nói chuyện khác: “Uống mấy thang thuốc, nghỉ ngơi vài ngày sẽ không sao”, rồi lấy giấy bút trên bàn sách trong phòng, tự tay kê đơn thuốc, sau đó dặn dò thị nữ đi chuẩn bị ngay.

Bận rộn một lúc, như sợ tiếng chân bên ngoài làm phiền Sính Đình, Hà Hiệp khẽ buông màn cho nàng, rồi quay đầu, thấy Diệu Thiên đứng phía sau, lặng im không nói.

Lúc này, tâm tư mới quay sang ái thê, giọng Hà Hiệp dịu dàng: “Công chúa mệt sao? Tẩm phòng của Công chúa đã được xức hương, mời Công chúa qua nghỉ trước một lúc, được không? Ta sẽ sang ngay”.

“Không cần đâu.” Trong lòng dạt dào tình cảm đến đây, giờ Diệu Thiên đã cạn hứng, cố cười đáp: “Thiếp chỉ đến thăm Phò mã, không dự định qua đêm”.

“Công chúa…”

“Chúng ta là phu thê, ngày tháng còn dài”, Diệu Thiên hạ giọng. “Phò mã vừa về, cũng nên yên tĩnh nghỉ ngơi một đêm”. Ánh mắt bình thản của Công chúa chuyển động về phía dáng hình kiều diễm đang nằm trong bức màn buông.

Hà Hiệp hạ giọng: “Sớm mai ta sẽ vào vương cung gặp Công chúa”.

Vẫn giọng nói cợt nhả đường mật như mọi khi, biểu cảm cũng vô cùng chân thành, nhưng nghe vào tai, Diệu Thiên lại thấy như Hà Hiệp đang thở phào.

“Thiếp đi đây.”

“Ta đưa Công chúa hồi cung.”

Trong lòng bực bội, nhưng ngại thân phận nên Diệu Thiên không thể để lộ, chỉ lắc đầu: “Không cần”.

Hai tiếng ấy thật gượng gạo, Hà Hiệp nhận ra ngay, bèn sững người, ánh mắt tinh nhanh sắc sảo nhìn chằm chằm Diệu Thiên.

Bị Hà Hiệp nhìn, Diệu Thiên lại thấy trong lòng bất an. Nàng rất coi trọng Hà Hiệp, biết rõ nếu để phu quân nghĩ mình là người đố kỵ, lòng dạ hẹp hòi, có thể sẽ mất đi sủng ái của Hà Hiệp. Diệu Thiên vội vã che giấu sự bất mãn do sơ suất để lộ ra ngoài vừa rồi, đổi sang giọng điệu ngượng ngùng, nói: “Dọc đường về biết bao người nhìn vào. Đã là phu thê, còn đưa tới đưa lui, khách sáo như người ngoài vậy…”.

Hà Hiệp cười dịu dàng: “Công chúa nghĩ ngợi nhiều rồi. Chúng ta là phu thê, mãi mãi không bao giờ là người ngoài. Đưa tới hoàng cung sợ mọi người cười chê, vậy hãy để bản phò mã đưa Công chúa đến đại môn, được không?”.

Diệu Thiên không nói gì, vẻ mặt vô cùng kiều diễm đầy chất nữ nhi, ngoan ngoãn để Hà Hiệp dắt tay.

Hai người thân mật ra đến đại môn, Hà Hiệp nói vô số lời ngọt ngào, tình cảm, khiến khuôn mặt gượng gạo của Diệu Thiên nở nụ cười tươi như hoa.

Bên cổng, thị vệ đã chuẩn bị sẵn xe ngựa, ánh đèn sáng lấp lánh soi rọi cả con phố sáng rực như ban ngày.

Hà Hiệp đích thân dìu Diệu Thiên lên xe, còn thò đầu vào trong dặn dò đôi ba câu rồi mới đứng sang một bên, nhìn theo đội xe vương cung rầm rập rời đi trong đêm yên tĩnh,

Đoàn xe đi được một quãng rất xa, chỉ còn là chấm nhỏ trong mắt, Hà Hiệp mới quay vào.

Đêm đã vào khuya, trời đất tĩnh lặng.

Giống như khúc nhạc của Sính Đình, tiếng đông tĩnh lặng.

Hà Hiệp không về phòng ngủ của mình, mà đi thẳng đến phòng Sính Đình. Thấy bước chân vào phòng, bóng người đứng bên giường kinh hãi. Nhìn rõ là Hà Hiệp, người ấy vội vàng cúi đầu hành lễ: “Phò mã”, ánh mắt thoáng tia bất bình.

Nhận ra là thị nữ của Sính Đình, ánh mắt Hà Hiệp chỉ nhìn qua một cái, rồi dừng trên khuôn mặt Sính Đình, vô cùng dịu dàng.

Túy Cúc đang đứng cạnh Sính Đình, biết rõ phòng của Hà Hiệp ở bên kia, không nghĩ Hà Hiệp lại đến đây vào lúc này, nhưng thấy Hà Hiệp đến bên giường, dù gì hắn cũng là chủ nhân chỗ này, Túy Cúc đành tránh sang một bên.

Chẳng quan tâm đến Túy Cúc, Hà Hiệp ngồi bên giường, nhìn thật kỹ rồi đưa tay khẽ chạm vào khuôn mặt nhợt nhạt của Sính Đình. Nàng gầy đi nhiều.

Túy Cúc thấy rõ mọi việc, hai tay nắm chặt buông thõng bên hông, tim đập thình thịch.

Đêm khuya thanh vắng, cô nam quả nữ ở trong phòng ngủ riêng tư này, thật là lúc trời không biết đất chẳng hay. Nếu Hà Hiệp nảy sinh tà ý với Sính Đình thì phải làm thế nào?

Hà Hiệp vẫn hoàn toàn không hay biết tâm trạng lo lắng của Túy Cúc, ngón tay vẫn vuốt ve lông mày, đôi mắt, làn môi hồng của Sính Đình, ánh mắt yêu thương nhìn nàng say ngủ.

Dõi theo nhất cử nhất động của Hà Hiệp, mỗi động tác Hà Hiệp chạm vào Sính Đình, Túy Cúc đều lo lắng không yên, chỉ mong ngón tay kia nhanh chóng rời khỏi khuôn mặt Sính Đình, lại lo bàn tay ấy sẽ chuyển đến nơi khiến người ta sợ hãi.

Vương gia, phải làm sao bây giờ?

Vương gia còn không đến, đại sự sẽ chẳng hay đâu!

Lần đầu tiên trong đời, Túy Cúc thấy oán hận Sở Bắc Tiệp.

Túy Cúc đang lo lắng đến gần như ngạt thở, bỗng nhiên bàn tay ấy rời khỏi khuôn mặt Sính Đình, Hà Hiệp đứng dậy.

Lúc này, Túy Cúc mới dám thở phào một hơi, cứ ngỡ Hà Hiệp đã nhìn đủ rồi, chỉ mong hắn mau mau rời đi. Không ngờ, Hà Hiệp đứng lên, quay người, tháo đai lưng, rõ ràng định cởi y phục.

Ánh mắt sắc bén của Hà Hiệp nhìn về khuôn mặt trắng bệch của Túy Cúc, chau mày: “Còn ngây ra đó làm gì? Không biết hầu hạ việc cởi áo sao?”. Hà Hiệp vẫn giống như khi ở vương phủ Kính An, đối xử với thị nữ vô cùng hiền hòa, mặc họ muốn làm gì thì làm, dung túng cả đám kẻ hầu người hạ không chút quy củ.

Cởi áo? Như có ai treo tim mình lên, Túy Cúc nhìn về phía Sính Đình đang nằm lẻ loi không hề phòng bị trên giường mà không khỏi cảm thấy ớn lạnh.

“Phò mã… định cởi áo ở đây?”

“Đúng thế.” Hà Hiệp trả lời, thấy Túy Cúc vẫn chẳng có ý tới hầu hạ, nghĩ lại, đây là thị nữ của Sính Đình, cũng không tiện trách mắng, thôi thì chẳng cần nha đầu ấy hầu hạ, tự mình cởi áo ngoài.

Thấy Hà Hiệp có vẻ như sắp ngủ ở đây, Túy Cúc cuống như kiến bò chảo lửa. Phủ phò mã rộng lớn, toàn người của Hà Hiệp, dù Túy Cúc kêu lên, cũng chẳng có ai để ý. Huống hồ chưa nói đến người khác, chỉ một mình Hà Hiệp, Túy Cúc và Sính Đình đã không ứng phó được rồi.

Vương gia, phải làm thế nào đây?

“Khuya rồi, ngươi cũng đi ngủ đi”, Hà Hiệp nói với Túy Cúc.

“Vâng…” Tuy nói vậy, nhưng bước chân Túy Cúc vẫn chẳng xê dịch. Nàng cắn môi, lo lắng nhìn quanh gian phòng, ánh mắt dừng bên bức tượng đá nhỏ nhắn trên bàn, thầm nghĩ, nếu Sính Đình gặp nguy hiểm, mình sẽ cầm thứ kia nện vào đầu hắn.

Hà Hiệp vốn là võ tướng, thân thủ nhanh nhẹn, đập thế chưa chắc đã có tác dụng, không biết chừng còn mất cả cái mạng này, nhưng, chỉ cần khiến hắn cụt hứng đã là tốt lắm rồi.

Nữ tử yếu mềm gặp nam nhân khỏe mạnh, dù có y thuật cải tử hoàn sinh cũng hoàn toàn vô dụng. Việc đến nước này còn có cách gì?

Nghĩ tới đây, Túy Cúc bất giác tiến thêm hai bước đến bên bức tượng đá.

Hà Hiệp ngồi xuống giường, buông nốt bên màn còn lại.

Đứng ngoài tấm màn mỏng, thấy Hà Hiệp nằm xuống cạnh Sính Đình, Túy Cúc nhanh chóng cầm bức tượng đá, giấu trong tay áo, rồi rón rén lại gần.

Hình như bị Hà Hiệp làm cho tỉnh giấc, Sính Đình mơ màng “ư” một tiếng, khẽ trở mình. Nín thở nghe ngóng, chỉ cần Sính Đình kêu lên một tiếng, Túy Cúc sẵn sàng vén màn, dùng hết sức đập một cái.

Trong yên lặng, tiếng Sính Đình mơ hồ hỏi: “Thiếu gia?”. Một lúc sau, lại thấy tiếng lẩm bẩm: “Sao thiếu gia qua đây?”.

“Ta ôm muội sẽ ấm hơn một chút.”

Trong màn có động tĩnh, hình như Hà Hiệp đã ôm Sính Đình. Thần kinh Túy Cúc căng ra, hai tai dựng đứng, Sính Đình vẫn không có phản ứng gì, có lẽ ngủ tiếp rồi.

Túy Cúc nắm chặt bức tượng đá trong ống tay áo, bàn tay toát mồ hôi lạnh. Đợi một lúc lâu, Túy Cúc thấy tiếng thở đều đều vang lên trong màn, hình như họ đã ngủ thật rồi.

Vẫn không yên tâm, Túy Cúc khẽ khàng xuyên ngón tay qua mép màn, nhìn trộm bên trong.

Sính Đình và Hà Hiệp nằm trên giường, đắp chung một chăn, ôm nhau ngủ. Hai người nằm yên, mặt kề sát mặt, không chút phòng bị, ngủ say như hai trẻ thơ.

Sững sờ nhìn hồi lâu, trái tim đang bị treo trên cao của Túy Cúc mới về lại vị trí. Lúc này, chỉ còn sự ngạc nhiên, Túy Cúc tự hỏi, chuyện này rốt cuộc là thế nào?

Túy Cúc nhẹ nhàng rút tay về, nhìn hai người qua tấm màn mỏng. Suy đi nghĩ lại, cuối cùng vẫn không dám mất cảnh giác, Túy Cúc cầm bức tượng đá, ngồi giữ bên giường. Cố được hai canh giờ, mệt mỏi và buồn ngủ, mí mắt nàng càng lúc càng trĩu nặng.
 

Hoa Tử

Sưu tầm
Tham gia
24/9/19
Bài viết
10,570
Điểm cảm xúc
1,484
Điểm
113
Chương 33:
Túy Cúc châm cho Sính Đình bảy cây kim, tạm thời thay đổi mạch tượng, nhưng cơ thể đã có chút không thích nghi. Đêm đến lại miễn cưỡng đàn vài khúc, tuy để dụ Công chúa Vân Thường, nhưng Sính Đình cũng hao tổn không ít sức lực. Nàng nằm trên giường, ngửi thấy mùi hương Quy Lạc quen thuộc, cứ ngỡ mình đang mơ giấc mộng được quay về vương phủ Kính An.

Mọi thứ vẫn thanh bình, yên ổn.

Nàng mặc sức vui đùa cùng Hà Hiệp, vô ưu vô lo.

Hình như lại đến mùa đông, hai người sợ lạnh, nhưng đêm vẫn thích ngắm sao, nên thường hay nằm chung chăn, ngắm sao đến tận đêm khuya. Mệt mỏi và buồn ngủ, nên họ chẳng kiêng dè mà ôm nhau ngủ thiếp đi.

Hai người cùng lớn lên từ nhỏ, sớm hôm thân thiết, mỗi người một tâm tính riêng, song chưa từng có ý nghĩ xấu xa, chưa từng ý thức nam nữ khác biệt.

Các bậc trưởng bối trong phủ đã sớm dự định sau này Sính Đình sẽ trở thành thứ phi, nên mắt nhắm mắt mở cho qua.

Mùi hương của Quy Lạc, đó là mùi hương thuộc về vương phủ Kính An.

Vương phi thích nhất mùi hương này, nói rằng để an thần. Phòng thiếu gia cũng thường dùng.

Nàng có phòng riêng, nhưng phòng thiếu gia cũng là phòng của nàng, muốn vào lúc nào cũng được, tha hồ tùy ý mà chạm tới những thứ đồ mình thấy hứng thú trong đó.

“Ôm muội sẽ ấm hơn một chút”, bé trai bảy, tám tuổi lúc nào cũng muốn bảo vệ nàng.

“Mở cửa sổ đi.”

“Mẫu thân biết sẽ lại mắng ta.” Tuy nói vậy, Hà Hiệp vẫn nhảy ra khỏi chăn, đẩy cánh cửa sổ cót két mở toang, rồi lại nhanh chóng chui vào trong, ôm Sính Đình trắng trẻo, mềm mại mà kêu lên, “Lạnh quá!”.

“Mùa đông phải lạnh một chút mới thích.”

“Còn nói à! Mấy hôm trước ai lạnh quá mà bị ốm?”

Lời con trẻ vẫn còn văng vẳng bên tai.

Mơ màng tỉnh giấc, khuôn mặt quen thuộc của Hà Hiệp ngay trong tầm mắt, Sính Đình vội vã lùi ra phía sau, định thần nhìn lại.

Không phải là mơ!

“Sao thế?”, Hà Hiệp mở mắt, mỉm cười hỏi.

Sính Đình ngồi dậy, hỏi: “Sao thiếu gia lại ngủ ở đây?”.

“Chúng ta ngày trước…”

“Ngày trước là ngày trước, hiện tại là hiện tại”, Sính Đình ngắt lời, giọng trách mắng, “Chúng ta đều đã lớn rồi!”.

Ít khi thấy Sính Đình nổi nóng, Hà Hiệp vô cùng ngạc nhiên, hồi lâu mới cười nhạt, nói: “Đúng thế, lớn rồi, trái tim cũng thay đổi rồi”. Dứt lời, hắn bước xuống giường, tự mình mặc áo.

Đêm qua, Túy Cúc ngủ ngay cạnh giường, mơ hồ nghe tiếng động bên tai, vội vàng dụi mắt, đứng trong góc, tay vẫn cầm bức tượng đá nhỏ chưa hề có tác dụng gì.

Hà Hiệp nhìn thấy, quay lại, trầm giọng nói với Sính Đình: “Muội không phải lo, thị nữ của muội tỉnh táo lắm, tay vẫn cầm hung khí đứng bên giường đến tận sáng. Trong phủ này, ta muốn làm gì, có ai ngăn nổi?”. Hà Hiệp xưa nay vô cùng phong độ, nhưng một đêm ấm áp không tà ý đã bị người ta cố ý phá hỏng, dù có bản lĩnh đến mấy, hắn cũng chẳng còn phong độ.

Sính Đình và Hà Hiệp sống bên nhau bao năm, thân mật vô cùng, không hề có ý niệm nam nữ khác biệt, dù nghe đến việc sau này Sính Đình sẽ trở thành thứ phi, họ cũng chẳng nghĩ ngợi gì. Nay nghe câu này của Hà Hiệp, trong lòng Sính Đình vừa sợ vừa giận, sắc mặt trắng bệch.

“Chúng ta từ nhỏ lớn lên bên nhau, ta đã bao giờ ép muội việc gì chưa?”, Hà Hiệp tức giận, nghiến răng, “Sở Bắc Tiệp mới là kẻ cần thân thể mà bỏ qua trái tim, muội đừng coi ta thành hắn”.

Sính Đình chỉ cảm thấy trái tim như bị người khác chọc một đao, cả người run rẩy, từ từ khuỵu xuống.

Túy Cúc kêu lên một tiếng: “Cô nương!”.

Hà Hiệp hoảng hốt, vội vàng đỡ nàng, xoa lưng cho nàng, dịu dàng nói: “Ta sai rồi, muội đừng như thế”. Từ nhỏ, mỗi khi chọc giận Sính Đình, Hà Hiệp vẫn hay dỗ dành nàng như vậy. Lời buột miệng cũng không thấy thẽ thọt khúm núm.

Túy Cúc mang nước nóng lên. Sính Đình uống một ngụm, rồi nhìn sang Hà Hiệp, nhận ra sự quan tâm trong mắt hắn là thật. Nghĩ đến việc mình trăm phương ngàn kế nghĩ cách chạy trốn con người quen thuộc này, trong lòng nàng bỗng cảm thấy thê lương, không biết nên hận hay nên giận, hồi lâu sau mới bình tĩnh hạ giọng: “Hôm nay thiếu gia có ra ngoài không?”.

“Sao thế?”

Thấy Hà Hiệp nắm cổ tay mình, Sính Đình sợ châm cứu đã hết hiệu nghiệm, có thể sẽ bị Hà Hiệp phát hiện ra, nên cứ tự nhiên giằng tay ra, giọng bình thản: “Cũng không có gì. Nếu thiếu gia không đi đâu, thì vẽ cho Sính Đình bức tranh. Sau này không nhìn thấy nữa, coi như để tưởng nhớ”.

Hà Hiệp phản bác: “Nói bậy nào, muội đang ở đây, sao có chuyện không nhìn thấy? Không thấy muội, ta sẽ lên trời xuống đất tìm cho bằng được muội về”.

“Cái gì mà lên trời xuống đất? Những lời này không thể tin là thật.” Sính Đình lạnh nhạt đáp một câu, trong lòng bỗng nhớ tới lời thề non hẹn biển với Sở Bắc Tiệp.

Lên trời xuống đất, chân trời góc bể, biển cạn đá mòn.

Đời này, và cả ba kiếp nữa, sống chết cũng không thay đổi.

“Theo ta lên ngựa, từ nay, nàng không mang họ Bạch, nàng mang họ Sở.”

Lời này không thể tin là thật, nhưng nàng đã từng tin.

Những lời ấy sao có thể tin là thật?

Như tỉnh giấc mộng, nỗi chua cay xộc lên mũi, nàng không sao kìm được muôn vàn giọt nước mắt lăn trên gò má.

Không biết tâm tư của nàng đã bị kéo đến tận nơi xa xăm, Hà Hiệp an ủi: “Những lời ta nói đều là thật. Đừng khóc, hôm nay ta sẽ không đi đâu hết, ở phủ vẽ tranh cho muội, vẽ xong rồi đóng khung, treo trong phòng này, được không?”.

Sính Đình vô cùng khổ sở. Nghe lời dịu dàng an ủi của Hà Hiệp, nàng càng thấy băn khoăn về chặng đường phía trước, lại càng hận Sở Bắc Tiệp hơn. Nàng lo lắng cho thai nhi trong bụng, lo mình thương tâm quá mà tổn thương đến hài nhi nên không dám khóc to, chỉ nấc nghẹn vài tiếng rồi dần nín khóc.

Hà Hiệp biết rõ Công chúa đang đợi trong cung, nhưng Công chúa dễ dụ, còn Sính Đình cơ mưu thông tuệ, rất khó khuyên nhủ. Hà Hiệp đã nghĩ kế khiến Sính Đình đau lòng vì bị bắt đi, nên rạn nứt giữa họ vô cùng khó gắn. Giờ nhân lúc Sính Đình yếu đuối, lại có ý giảng hòa, hắn càng không thể dễ dàng bỏ qua cơ hội này.

Hà Hiệp lập tức sai người đến vương cung, tìm một lý do cho sự vắng mặt ngày hôm nay của mình, sau đó lấy giấy mực, tỉ mỉ vẽ Sính Đình.

Đêm qua, Diệu Thiên công chúa ngủ còn kém hơn cả Túy Cúc.

Trở về vương cung, nhìn quanh cung điện tường vàng nguy nga, rèm châu long lanh, cung nữ thõng tay im lặng, Diệu Thiên càng thấy lạnh lẽo khó chịu, càng hận mình chỉ vì giận dỗi nhất thời mà trở về vương cung.

Nhưng vốn là người tự trọng, lúc này đây, công chúa không đời nào trở lại phủ phò mã nữa.

Sớm biết Bạch Sính Đình tướng mạo bình thường, chẳng qua chỉ là cầm kỹ xuất chúng, cứ tưởng Hà Hiệp coi trọng nàng ta thế nào, chẳng qua cũng là thân phận thị nữ thân cận, nhưng, đích thân qua phủ phò mã một chuyến, Diệu Thiên mới biết mình nhầm.

Hà Hiệp múa kiếm trong tuyết, Bạch Sính Đình phụ họa khúc tiêu dao vui vẻ, rung động lòng người đến tận tâm can, đó là điều cả đời này Diệu Thiên không thể mang tới cho Hà Hiệp.

Những lời nói, cử chỉ bình thường của họ lại là sự gắn kết từ gan ruột.

Có thể gọi là tình chàng ý thiếp, thấu hiểu lòng nhau.

Nghĩ tới đây, trong lòng bỗng trào dâng nỗi chua xót, Diệu Thiên trằn trọc trên giường, không sao ngủ yên, chưa sáng đã trở dậy.

Trái tim nam nhân vốn không dễ nắm bắt. Huống hồ, nam nhân nàng chọn lại là tiểu Kính An vương danh tiếng lẫy lừng.

Nghĩ đến những lời đường mật Hà Hiệp dặn dò đêm qua, Công chúa mới yên tâm phần nào. Nàng bèn sai Lục y từ chối các đại thần cầu kiến, sau khi trang điểm kỹ càng, toàn tâm toàn ý đợi Hà Hiệp vào cung.

Không ngờ, đợi bao lâu như thế, Hà Hiệp lại cử người đến nói muốn trù mưu hoạch địch công việc nơi tiền tuyến, nên hôm nay Phò mã tạm thời không vào cung. Tuy kẻ đến chuyển lời cố nói không ít lời lẽ hay ho theo căn dặn của Hà Hiệp, nhưng Diệu Thiên công chúa giờ đâu còn tâm trí để ý đến chuyện đó. Nàng lạnh lùng đuổi hắn ra ngoài, một mình ngồi trong phòng bực bội, hồi lâu mới gọi Lục Y: “Đi, mời Thừa tướng đến đây”.

Nghe xong lời triệu, Quý Thường Thanh bỏ hết công vụ, vội tới diện kiến Công chúa.

“Thừa tướng ngồi đi.” Sắc mặt vô cùng khó coi, Diệu Thiên nói một câu.

Trong lòng không yên, nhưng Quý Thường Thanh đến, Diệu Thiên lại chẳng biết bắt đầu từ đâu. Nàng ngồi ngay ngắn bên trên, nhìn Thừa tướng, hồi sau mới hỏi: “Đông Lâm đại quân đã tập kết xong, mấy hôm nữa Phò mã sẽ khởi hành ra biên cảnh, lương thảo dự bị chuẩn bị đến đâu rồi? Lương thảo là việc đại sự hàng đầu, Thừa tướng cắt cử người thỏa đáng chưa?”.

“Đều chuẩn bị xong rồi.”

Quý Thường Thanh làm việc lão luyện, tận tâm tận lực, nghe hết câu hỏi của Diệu Thiên, bèn trả lời tỉ mỉ từng câu, không chút thiếu sót. Nhưng, Diệu Thiên chỉ lơ đãng gật đầu, hỏi xong vẫn không bảo Quý Thường Thanh trở về.

Không ai hiểu tính tình Diệu Thiên công chúa hơn Quý Thường Thanh. Người trong cung đã sớm báo cho ông ta việc đêm qua Công chúa trở về từ phủ phò mã. Lúc này Quý Thường Thanh phần nào đã đoán được tâm sự của Diệu Thiên, liền chuyển hướng câu chuyện: “Thần sẽ dốc toàn lực, đảm bảo Phò mã ở biên ải không phải lo đến việc cung ứng lương thảo. Chỉ là… Không biết khi nào Phò mã khởi hành ra tiền tuyến?”.

Bực bội hồi lâu, Diệu Thiên mới thở dài: “Lời Thừa tướng nói hôm qua, Diệu Thiên đã suy nghĩ lại rất lâu, đúng là họa gần còn đáng sợ hơn lo xa”.

Quý Thường Thanh hỏi: “Công chúa gặp Bạch Sính Đình rồi?”.

“Đúng thế”.

“Rốt cuộc đó là người thế nào?” Vốn là người từng trải, nhưng Quý Thường Thanh không giấu nổi sự hiếu kỳ.

Thời thế loạn lạc vốn là thế giới của nam nhân. Tay nắm giữ thiên quân vạn mã, ném đầu người, xả máu nóng, hoàn thành nghiệp lớn.

Nữ nhân, nếu xuất thân hiển hách sẽ nhờ sợi dây liên kết hôn nhân để tạo ra các thế lực liên minh; nếu là tuyệt thế giai nhân cũng có thể trở thành truyền kỳ thoáng qua bên cạnh bậc kiêu hùng loạn thế.

Chỉ Bạch Sính Đình là ngoại lệ.

Bạch Sính Đình xuất thân thị nữ, tướng mạo bình thường, lại ba lần bảy lượt trở thành mấu chốt khiến thế cục tứ quốc biến động. Khế ước năm năm Quy Lạc – Đông Lâm, đại chiến Kham Bố ở Bắc Mạc, và cả cuộc chiến Đông Lâm - Vân Thường sắp tới, đều có liên quan tới nàng.

“Rốt cuộc là người thế nào…” Dường như ngay cả bản thân Diệu Thiên cũng chưa có câu trả lời chính xác. Nàng chau hàng mày được chăm sóc tinh tế, hồi tưởng buổi gặp gỡ Bạch Sính Đình hôm qua, trầm tư hồi lâu mới chậm rãi lên tiếng, “Cảm giác với Bạch Sính Đình nhất thời rất khó nói rõ. Có thể nói thế này, sau khi gặp Bạch Sính Đình, ta bỗng thấy tất cả truyền thuyết liên quan đến nàng ta, những đánh giá về nàng ta đều là thật. Giống như đại chiến Kham Bố vậy. Lúc trước nghĩ đến việc một nữ tử dẫn binh đối đầu với Sở Bắc Tiệp, một nữ tử được Bắc Mạc vương giao ra cả binh quyền, nhận được sự ủng hộ của tướng sĩ Bắc Mạc, và quan trọng hơn là có bản lĩnh thật sự đối phó với danh tướng Sở Bắc Tiệp trên sa trường, ta thấy thật quá sức tưởng tượng. Nhưng, gặp Bạch Sính Đình rồi mới biết, những việc siêu việt khác thường ấy hoàn toàn tự nhiên, như nước chảy mây trôi. Làm rồi, nàng ta đã làm rồi”.

Chú ý tới mọi biểu cảm trên mặt Diệu Thiên công chúa, Quý Thường Thanh trầm giọng: “Công chúa cảm thấy, một nữ nhân như Bạch Sính Đình, nếu bị tổn thương sâu sắc, liệu nàng ta có tha thứ cho nam nhân làm thương tổn trái tim mình không?”.

“Tổn thương?”, ánh mắt Diệu Thiên lộ vẻ nghi ngờ: “Tổn thương như thế nào?”.

“Vì việc khác mà lỡ hẹn, đến hẹn không trở về, khiến nàng ta bị bắt đến Vân Thường.”

“Sở Bắc Tiệp?”

“Đúng thế.”

Diệu Thiên ngạc nhiên: “Sao đột nhiên Thừa tướng lại nhắc đến việc này”.

“Thần đã hỏi rõ ngọn nguồn việc đưa Bạch Sính Đình về đây từ chính thuộc hạ của Phò mã. Theo thần, Bạch Sính Đình đã đoạn tuyệt với Sở Bắc Tiệp, chỉ cần một ngày nàng ta còn chưa tha thứ cho Sở Bắc Tiệp, hắn sẽ còn mang hận với vương tộc Đông Lâm.”

Diệu Thiên lạnh nhạt: “Ba mươi vạn đại quân, chẳng phải vì mục đích này sao?”.

Nhưng sau khi đạt được mục đích, một vấn đề nan giải khiến người ta đau đầu đã xuất hiện. Bạch Sính Đình ở lại bên Hà Hiệp, so với việc ở cạnh Sở Bắc Tiệp, cái nào đáng lo hơn?

Quý Thường Thanh mỉm cười hạ giọng: “Công chúa, Bạch Sính Đình đã chẳng còn tác dụng nữa”.

Nhìn thần sắc Quý Thường Thanh, Diệu Thiên vô cùng ngạc nhiên, lo lắng: “Ý Thừa tướng là…”, tay ngọc khẽ làm một động tác.

“Tuyệt đối không được”, Quý Thường Thanh lắc đầu, “Bạch Sính Đình mà chết, chắc chắn Sở Bắc Tiệp sẽ dẫn đại quân điên cuồng công phá Vân Thường. Đó sẽ là cuộc đại chiến không có hồi kết thúc. Hơn nữa… Công chúa có biết, đêm qua Phò mã ngủ ở đâu và giờ đang ở đâu không?”.

Vừa nghe, Diệu Thiên đã biết có chuyện chẳng hay, nhưng vẫn bình tĩnh hỏi: “Tối qua Phò mã không ngủ ở phủ phò mã sao?”.

“Người của thần ở phủ phò mã đến báo, đêm qua Phò mã ngủ trong phòng Bạch Sính Đình, hầu hạ bên cạnh là thị nữ Bạch Sính Đình mang tới từ Đông Lâm.”

Sắc mặt Diệu Thiên bỗng trở nên vô cùng khó coi, đứng bật dậy, quay ra phía cửa sổ hít một hơi thật sâu, hồi lâu mới bình tâm, hạ giọng: “Nói tiếp đi”.

“Hôm nay Phò mã không xử lý việc quân mà ở trong phủ vẽ Bạch Sính Đình.”

Trái tim Diệu Thiên như đang có ai bóp nghẹt, mười ngón tay bám chặt vào bệ cửa sổ, đến nỗi từng khớp xương cũng trắng bệch, bệ cửa sổ bằng gỗ chạm trổ tinh tế in hằn dấu móng tay.

Khẽ hít một hơi, nhấc tay lên, Diệu Thiên lặng nhìn những móng tay màu hồng nhạt được nuôi dưỡng kỳ công vừa bị đứt gãy, thở dài: “Bạch Sính Đình mà chết, không những Sở Bắc Tiệp phát cuồng mà Phò mã cũng phát điên mất”. Giọng nói bỗng trở nên lạnh lẽo: “Thừa tướng đã nghĩ được cách cho ta chưa? Đại quân Đông Lâm khí thế ầm ầm, Bạch Sính Đình lại ở phủ phò mã, chẳng lẽ muốn ta đoạn tuyệt với Phò mã sao?”.

“Thần có một cách rất đơn giản, giải quyết được tất cả mọi vấn đề.”

“Sao?”, Diệu Thiên quay sang, nhìn Quý Thường Thanh chờ đợi.

Quý Thường Thanh thận trọng mỉm cười, hắng giọng: “Thần xin nói một chút về tình thế trước mắt. Sở Bắc Tiệp bị sắc làm cho u mê mờ mắt, cướp đoạt thị nữ của Phò mã. Phò mã vốn yêu quý Bạch Sính Đình, không cam tâm để Bạch Sính Đình bị người ta lăng nhục, nên phải nghĩ cách đưa nàng ta về Vân Thường. Trong việc này, Vân Thường ta không hề sai, đúng không?”.

Suy nghĩ giây lát, Diệu Thiên cũng nghe ra ý tứ trong đó, bèn gật đầu đồng ý: “Bạch Sính Đình vốn là thị nữ của vương phủ Kính An, tiểu Kính An vương cứu Bạch Sính Đình khỏi tay Trấn Bắc vương, xét về tình thì có thể chấp nhận. Vân Thường ta không làm gì sai, Đông Lâm không có lý do xuất binh”.

Thầm khen Diệu Thiên thông minh, Quý Thường Thanh nhìn nàng đầy yêu thương, tiếp tục: “Công chúa sai rồi. Dù có lý do hay không, chỉ cần Bạch Sính Đình đang ở trong tay chúng ta, chắc chắn Sở Bắc Tiệp sẽ xuất quân”.

Ánh mắt Diệu Thiên có vẻ giác ngộ: “Ý thừa tướng là… phải làm thế nào để Bạch Sính Đình không còn trong tay chúng ta?”.

“Đúng thế. Phò mã đi là để cứu, chứ không phải để làm tổn thương Bạch Sính Đình. Nếu Bạch Sính Đình không ở Vân Thường, Sở Bắc Tiệp còn có lý do gì khai chiến?”

“Chúng ta có thể nhân lúc Phò mã rời đi mà thả Bạch Sính Đình?”, Diệu Thiên suy nghĩ một lát, lại lắc đầu, “Không được, để có Bạch Sính Đình, đại quân của ta đã phải uy hiếp biên cảnh Đông Lâm, huy động bao binh lực, nay sao có thể nói thả là thả? Hơn nữa, Phò mã biết được chắc sẽ vô cùng giận dữ”.

“Chỉ cần Bạch Sính Đình không về bên Sở Bắc Tiệp, thì bao nhiêu binh lực huy động cho liên quân Bắc Mạc – Vân Thường uy hiếp biên cảnh Đông Lâm đều đáng giá”, Quý Thường Thanh phân tích tỉ mỉ, “Phò mã rất yêu thương Bạch Sính Đình, đối đãi với nàng ta như muội muội, sao có thể trách khi Công chúa thấy Bạch Sính Đình đáng thương mà mềm lòng thả đi? Công chúa phải nhớ, lúc trước Phò mã thỉnh cầu xuất binh là để phá hoại quan hệ giữa Sở Bắc Tiệp và vương tộc Đông Lâm. Nay mục đích đã đạt, Phò mã không còn lý do để kiên trì với việc này. Chẳng lẽ Phò mã lại có tâm tư khác khi thỉnh cầu Công chúa xuất binh? Không lẽ Vân Thường ta dốc sức huy động đại quân để Phò mã và Sở Bắc Tiệp tranh giành một nữ nhân?”.

Mấy câu sau vô cùng cứng rắn, cũng đúng với tâm tư của Diệu Thiên. Diệu Thiên nghe mà sảng khoái, cười đáp: “Thừa tướng nói rất đúng, huy động đại quân Vân Thường là vì lợi ích quốc gia, chứ không phải vì Phò mã và Sở Bắc Tiệp tranh giành một nữ nhân. Nếu trách ta vì việc Bạch Sính Đình rời đi, Phò mã sao có thể ăn nói với quần tướng Vân Thường? Ta hiểu rồi”. Lòng đã quyết thì không còn lo trước tính sau, đôi mắt Công chúa lấp lánh vẻ kiên định của người trong vương tộc.

“Cuối cùng Công chúa cũng hiểu ra”, Quý Thường Thanh vui mừng cười nói, “Còn vài tiểu tiết cần hoạch định thật kỹ. Dù chúng ta thả Bạch Sính Đình đi, cũng phải làm cho Sở Bắc Tiệp chịu tin. Ngộ nhỡ Bạch Sính Đình đã rời khỏi đây, mà Sở Bắc Tiệp cứ ngỡ chúng ta bí mật hại người, thì chuyện càng không hay”.

“Trước khi thả đi, phải bắt Bạch Sính Đình để lại bằng chứng, nói rõ việc nàng ta tự động rời khỏi. Điều này không khó”, Diệu Thiên nói, “Chỉ là… thả người đi rồi, chúng ta không thể khống chế hành tung của Bạch Sính Đình, nhỡ chăng nàng ta về bên Sở Bắc Tiệp, thậm chí là trở về cạnh Phò mã, há chẳng phải chúng ta tốn công vô ích sao?”.

“Công chúa có thể yên tâm, Bạch Sính Đình hận Sở Bắc Tiệp như vậy, chắc chắn sẽ không về Đông Lâm.” Rõ ràng Quý Thường Thanh cũng tính đến vấn đề này, “Sở Bắc Tiệp và Phò mã đều rất coi trọng Bạch Sính Đình, với khí thế cao ngạo của nàng ta, có một cách đảm bảo nàng ta sẽ mãi mãi không bao giờ gặp lại hai nam nhân này nữa”.

“Cách gì?”

Quý Thường Thanh có vẻ khó cất lời, chần chừ một lát, cuối cùng hạ giọng: “Nay loạn tặc đầy đường, khắp nơi đều là bọn người coi thường vương pháp, Bạch Sính Đình thân gái dặm trường, chẳng may gặp phải tặc tử, bị…”, lược bớt mấy từ sau cùng, Thừa tướng lại nói, “Nếu vậy, Bạch Sính Đình còn mặt mũi nào gặp lại những người này? Bạch Sính Đình bị những tên loạn tặc không rõ tên tuổi trên đường hãm hại, lưu lạc nơi chân trời góc bể cũng được, xấu hổ tự sát cũng hay, đều chẳng liên quan gì đến Vân Thường. Dù có ngày Sở Bắc Tiệp tìm thấy, nàng ta cũng không dám quay lại. Món nợ này, Sở Bắc Tiệp sẽ phải tính với vương tộc Đông Lâm. Tất cả đều vì vương tộc Đông Lâm đồng ý giao dịch, hy sinh nữ nhân thân yêu của Sở Bắc Tiệp mà thành”.

Diệu Thiên cũng là phận nữ nhi, nghe được một nửa, sắc mặt đã đổi, đợi Quý Thường Thanh nói hết, mới lắc đầu bảo: “Việc này không ổn. Chẳng lẽ Thừa tướng không có cách nào khác sao?”.

“Không chết nhưng còn đau hơn chết, không có biện pháp nào hơn.”

“Nhưng mà…”

“Công chúa, Công chúa không thể do dự. Đại quân Đông Lâm ở ngay biên cảnh, tâm tư Phò mã ngày một khó đoán, không sớm giải quyết Bạch Sính Đình, cả nước và nhà đều khó giữ”, Quý Thường Thanh vô cùng thành thực, hạ giọng nói tiếp, “Sau khi Phò mã rời đi, Công chúa chỉ cần đến gặp Bạch Sính Đình, dịu giọng hàn huyên đôi ba câu, bảo nàng ta để lại thư từ biệt rồi thả người. Những việc còn lại, thần sẽ sắp xếp thỏa đáng, chẳng chút sơ hở”.

Ánh mắt trĩu nặng suy tư, một lúc sau Diệu Thiên vẫn lắc đầu.

“Công chúa! Hãy nghe lời gan ruột của thần…”

Quý Thường Thanh còn đang định nói tiếp, Diệu Thiên công chúa đã giơ tay ngăn lại, quay đi, nói: “Thừa tướng hãy lui ra trước, để ta suy nghĩ đã”.

Ngẩng lên nhìn hình dáng quật cường của Diệu Thiên, biết lúc này không thể khuyên nhủ, Quý Thường Thanh đành phải nghe theo, hành lễ: “Thần cáo lui”. Thở dài một tiếng, ông ta bước ra khỏi mành châu.

Diệu Thiên vẫn hoàn toàn bất động như pho tượng đá.

Lục Y bước tới, đứng ngoài rèm bẩm báo: “Công chúa, bên ngoài có…”.

“Lui!” Diệu Thiên giận dữ, quay phắt lại, hất tung những thứ trên bàn xuống. Hộp Phương Nhưỡng hôm qua vừa mang lên dùng và cả chiếc hộp phỉ thúy tinh xảo bay ra ngoài rèm, vỡ tung dưới chân Lục Y, vương vãi thành mảng đỏ nhức mắt.

Bạch Sính Đình, Bạch Sính Đình của vương phủ Kính An.

Ngươi thao túng sinh tử của Quy Lạc, của Bắc mạc, và của cả Đông Lâm, giờ ngươi lại đến gảy đàn, mỉm cười dịu dàng để thao túng sinh tử của Vân Thường ta?

Vân Thường đường đường là một nước lớn, Diệu Thiên ta đường đường là công chúa, đâu phải là dây đàn trong tay ngươi, muốn gảy là gảy?

Sao có thể để ngươi hủy hoại nước của ta, nhà của ta?

Diệu Thiên cắn môi, xé tan từng tấc lụa bên cửa sổ.

Nơi biên cảnh giao nhau giữa Đông Lâm và Vân Thường, tiếng trống trận dồn vang, hào hùng, vọng giữa đất trời, như từ chân trời xa xôi kéo đến, như sức mạnh vĩ đại đang tích tụ, lặng lẽ tiến gần.

Cờ soái che lấp cả mặt trăng, mặt trời. Đại quân Đông Lâm đã tập kết. Từ xa nhìn lại, những cánh trướng hình vuông liên tiếp, những ánh mắt trầm hùng, những lưỡi dao sáng lóa trải dài vô tận.

Trên bình nguyên, gió xào xạc.

Các giọt sương buổi ban mai đã tan biến giữa sát khí đằng đằng của bao nhiêu tướng sĩ.

“Vương gia, đội quân của Long Lang doanh trại đã đến.”

Sở Bắc Tiệp nghe tin, vội vén rèm cửa, bước ra ngoài trướng soái. Thân hình vững chãi như dãy núi, ánh mắt sáng ngời xuất thần cúi nhìn đội quân chỉnh tề bên dưới.

Đại quân đã tập kết.

Cờ quạt che kín một góc trời, những khuôn mặt trai tráng không chút sợ hãi. Đây là binh lực của cả Đông Lâm, là lực lượng bảo vệ quan trọng nhất Đông Lâm.

Sở Bắc Tiệp chăm chú quan sát quanh cảnh trước mắt.

“Tình hình thành đô thế nào?” Hồi lâu, Sở Bắc Tiệp mới hỏi Thần Mâu đang đứng sau lưng.

Thần Mâu thở dài: “Đại vương liên tục gửi đến mười sáu bức khẩn thư, lệnh Vương gia lập tức rút quân, lời lẽ nghiêm khắc trước nay chưa từng có. Vương gia định không đọc một bức nào sao?”.

Vẻ kiên quyết thoáng qua trong mắt, Sở Bắc Tiệp gằn giọng: “Đọc một bức của vương huynh, bản vương đã mất đi Sính Đình”.

Sứ giả đưa thư của Tắc Doãn đã mang đến chân tướng sự việc.

Bạch Sính Đình rốt cuộc có hại chết hai vương tử của Đông Lâm hay không đã chẳng còn quan trọng.

Dù Sính Đình thật sự hại chết hai vương tử, chàng quyết định vẫn yêu nàng.

Dù Sính Đình không hại chết hai vương tử, Đại vương và Vương hậu vẫn biến nàng thành quân bài giao dịch.

Thời thế loạn lạc, chân tướng còn tác dụng gì?

Sở Bắc Tiệp hận nhất vẫn là chính mình.

Một bức thư của vương huynh đã phá tan trăng tròn hoa thắm, phá tan giấc mộng yên vui chốn biệt viện ẩn cư.

Không tìm được bất cứ lý do gì, chàng từ bỏ vì chàng đã từ bỏ.

Từ khoảnh khắc biết đến sự tồn tại của hài tử trong bụng Lệ phi, huyết mạch của vương tộc đang bị uy hiếp, chính chàng đã quyết định, đã lựa chọn.

Sai lầm lớn nhất trong đời, hối hận lớn nhất trong đời chàng chính là quyết định ấy.

Sở Bắc Tiệp biết, vương huynh và Hà Hiệp đã dùng cách này để Sính Đình nhìn thấy vị trí của nàng trong lòng chàng, tàn nhẫn bắt Sính Đình hiểu rằng, dù họ có yêu nhau đến bao nhiêu đi nữa, đến khi phải lựa chọn, Sở Bắc Tiệp sẽ từ bỏ nàng.

Đối với tình yêu thuần khiết của Sính Đình, đó chính là một đòn trí mạng.

Từ khi hiểu ra điều này, nỗi đau xuyên tim không ngừng giày vò Sở Bắc Tiệp.

“Có Vương gia thương xót Sính Đình, dù hai tay này tàn phế, không thể đánh đàn cũng có hề gì?”

Lại nhớ đến khoảnh khắc nàng ngẩng lên nhìn chàng chan chứa tình yêu, nguyện dâng chàng tất cả, nàng hát khúc hàng ca trong lòng chàng, dịu dàng dốc hết tâm can.

Trái tim cao ngạo và lanh lợi của nàng đã dùng đủ mọi cách chỉ để chàng hiểu rằng, nàng quan tâm đến chàng biết bao, lo lắng cho chàng biết bao.

Mỗi câu nàng nói đều khiến Sở Bắc Tiệp đau đớn, mỗi ánh mắt của nàng đều khiến lòng chàng tan nát. Chàng chưa từng biết, nỗi nhớ thương có thể khiến người ta phát cuồng đến thế.

Đại quân đã tập kết. Sính Đình, ta sẽ tiến về Vân Thường.

Bỏ mặc tất cả để đòi lại vương phi của ta.

Ta sẽ tự nói với nàng rằng, mọi thứ trên thế gian đều không so được với nụ cười của nàng. Trong lòng Sở Bắc Tiệp, không gì có thể quan trọng hơn nàng.

Chúng ta lại tiếp tục dệt nên tình yêu kinh thiên động địa, chân thành, dù con tạo xoay vần vẫn không đổi ý nguyện ban đầu.

Tiếng vó ngựa gấp gáp khiến Sở Bắc Tiệp quay đầu. La Thượng mình đầy bụi bặm nhảy xuống ngựa, chạy như bay đến quỳ trước mặt Sở Bắc Tiệp: “Vương gia!”.

“Biệt viện ẩn cư thế nào? Vết thương của Mạc Nhiên ra sao?”

Trận chiến biệt viện ẩn cư, ta ít địch đông, đám cận vệ tử thương thê thảm. La Thượng bị thương nhẹ nhất, nhận lệnh ở lại thu dọn biệt viện, chăm sóc các huynh đệ bị thương.

La Thượng bẩm báo: “Biệt viện bị cháy một nửa, giờ đã dọn xong, người chết cũng đã mai táng. Các đại phu đang trị liệu cho huynh đệ sống sót. Mạc Nhiên cũng có biến chuyển, nhưng thương tích của Quân Điền… không thể chữa trị”.

Sắc mặt Sở Bắc Tiệp trầm xuống.

Những thị vệ đó đều do đích thân Sở Bắc Tiệp đề bạt, dạy dỗ, ai cũng sức dài vai rộng, nhiệt huyết hừng hực, nay thật khiến người ta đau lòng.

“Vương gia…” Rõ ràng vẫn còn việc quan trọng chưa kịp bẩm báo, sau khi thăm dò sắc mặt Sở Bắc Tiệp, La Thượng mới thận trọng mở lời, “Khi dọn dẹp chỗ ở của Bạch cô nương, trong căn phòng nhỏ Túy Cúc ở tạm, phát hiện thấy ấm thuốc sắc dở và cả mấy phương thuốc…”.

“Ấm thuốc?”, giọng Sở Bắc Tiệp trầm xuống, “Sau khi bản vương rời đi, Sính Đình bị bệnh sao?”.

“Thuộc hạ lệnh cho các đại phu tra chỗ bã thuốc còn lại, họ nói… nói…” La Thượng lo lắng không yên nhìn Sở Bắc Tiệp, rồi lập tức nhìn xuống, “Đại phu nói là thuốc dưỡng thai. Những đơn thuốc kia đều là phương thuốc dưỡng thai”.

Sự im lặng đột ngột bao trùm bốn phía.

Ánh mắt sắc bén, kinh hoàng của Sở Bắc Tiệp nhìn chằm chằm vào gáy La Thượng, như muốn xuyên thành một hố.

Sính Đình đã có thai…

Trong bụng nàng đã có cốt nhục của chàng!

Sính Đình lòng đau như cắt, mang theo cốt nhục của chàng mà bị bắt đi!

Mọi vết thương chàng từng hứng chịu trên sa trường cũng không đau bằng đòn này.

Con sóng kinh hãi lặng lẽ dâng đến, gào thét trong đầu chàng, nỗi đau trong tim khiến chàng ngừng thở.

Tảng đá đè nặng trong lòng bỗng như nặng gấp ngàn lần, ấn mạnh lên các huyết mạch của chàng.

Trái tim chàng chết lặng, thân hình cứng như hóa đá.

“Dấy binh”, Sở Bắc Tiệp bi ai ngẩng đầu, phát lệnh.

“Vương gia?”

Ánh mắt Sở Bắc Tiệp sáng như ngọn đuốc, bốc cháy rừng rực, gằn từng tiếng: “Truyền lệnh, nhổ trại lên đường, chính thức phát binh tiến vào Vân Thường!”.

Sính Đình, nàng và hài nhi hãy đợi ta.

Ta sẽ rất nhanh lao đến bên nàng.

Sở Bắc Tiệp xin thề với trời, mãi mãi yêu nàng, mãi mãi bảo vệ nàng, mãi mãi không cho bất cứ ai, bất cứ việc gì ngăn cách chúng ta.

Như nàng từng mong ước, dù xảy ra chuyện gì, mặc con tạo xoay vần, tình yêu của chúng ta vẫn như ý nguyện thuở ban đầu.
HẾT

 

Hoa Tử

Sưu tầm
Tham gia
24/9/19
Bài viết
10,570
Điểm cảm xúc
1,484
Điểm
113
Cô phương bất tự thưởng (Tập 2)

Tác giả: Phong Lộng
Dịch giả: Nguyễn Lê Hương
Giá bìa: 139.000 ₫
Công ty phát hành: Bách Việt
Nhà xuất bản: NXB Văn Học
Số trang: 600
Ngày xuất bản: 27 - 1 - 2014

Mở đầu
Chàng từng nói: “Ta ở Đông Lâm đợi nàng”.

Khi nhìn nhau cười, họ cứ ngỡ tương lai cũng giản đơn mà hạnh phúc như vậy.

Sau đó thì sao?

Và cả sau này nữa?



“Bắc Tiệp, Bắc Tiệp…” Nàng mở choàng mắt, nhìn bầu trời xám xịt càng lúc càng sà xuống gần mình, “Sở Bắc Tiệp, chàng đang ở đâu?”.

Sao chàng không ở cạnh thiếp?

Nếu lúc này chàng xuất hiện trước mặt thiếp, thiếp xin thề với trời, sẽ mãi mãi ở bên chàng, đánh đàn múa hát bên chàng.

Chỉ cần chàng nắm tay thiếp, nói một câu, “Sính Đình, ta đến tìm nàng”, thiếp sẽ quên đi tất thảy, quên hết chuyện trước đây, quên cả chiến tranh khói lửa, quên vầng trăng tàn nhẫn đêm mồng Sáu.

Thiếp sẽ nhặt từng mảnh tim vỡ, chỉ cần chàng xuất hiện.



Chàng đã nói yêu thiếp.

Chàng đã nói sẽ trở về. Thiếp đã dốc toàn sức lực đợi vầng trăng mồng Sáu lên đến đỉnh, nhưng chàng đã ở nơi đâu?

Thiếp muốn nhìn thấy chàng, dù chỉ là hình bóng.

Chàng có biết, thế gian này, không từ nào có thể lột tả hết nỗi tuyệt vọng trong thiếp?

Chàng từng nói chúng ta thề với ánh trăng, cả đời này không phụ bạc.

Có thể không phụ bạc chăng?

Có thật là không phụ bạc?

“Hận chàng…”

Bầu trời xám xịt dần trở nên tối đen, trong cơn đau đớn như đứt lìa thân xác, Sính Đình nghe thấy tiếng khóc kiệt sức đến khản đặc của bản thân: “Thiếp hận chàng! Thiếp hận chàng!”.

“Hận chàng! Hận chàng…”

Toàn bộ sức lực phát tiết, cho đến khi chìm vào màn đêm đen tối, nàng mới cảm nhận được rằng, hóa ra hận một người dễ hơn nhiều so với quên đi một người.

Nàng là thị nữ nổi danh của vương phủ Kính An ở Quy Lạc quốc. Vốn thông minh có tài dụng binh và sở hữu tiếng đàn, giọng hát say đắm lòng người, nàng luôn nhận được sự mến mộ, theo đuổi mạnh mẽ từ các bậc nam nhân. Thế nhưng, Sính Đình chỉ mưu cầu một tình yêu đích thực, không màng thế sự lợi danh hay vinh hoa phú quý...

Chàng là Trấn Bắc vương, đệ đệ của Đông Lâm vương, người ta nhắc đến chàng là nhắc đến một mãnh tướng hộ quốc đa mưu túc trí vang danh thiên hạ, mang trong mình chí lớn chinh phạt vùng đất mới, hợp nhất tứ quốc...

Số phận đưa họ tình cờ đến với nhau nhưng lại đặt ở hai đầu chiến tuyến, ngăn cách bởi quốc hận, tình thù.

"Vẫn còn đó cây đàn cổ trong vương phủ Trấn Bắc.

Đóa hoa cài lên tóc, đã héo tàn ở tận nơi đâu.

Thiếp là thân bồ liễu hồng nhan mơ với gió trăng, chàng là bảo đao cung khỏe chí ôm toàn thiên hạ, giữa chúng ta, quốc thù cao như núi.

Núi cao tới trời, chàng không nhìn thấy thiếp, thiếp ngước không thấy chàng.

Lòng đau như cắt, chưa bao giờ hết..."

Phải chọn lựa thế nào đây? Là nghĩa nặng hay tình sâu? Liệu họ có phá vỡ được bức tường cản bước tình yêu? Liệu lời thề dưới ánh trăng ngày đó có thành hiện thực?

Mời các bạn đón đọc "Cô phương bất tự thưởng" - bộ tiểu thuyết 2 tập của tác giả Phong Lộng đã khiến hàng ngàn trái tim phải thổn thức và đã cướp đi biết bao nước mắt của hàng trăm ngàn độc giả Trung Quốc. Một thiên tình ca bi tráng của đấng anh hùng và bậc tài nữ.

 

Hoa Tử

Sưu tầm
Tham gia
24/9/19
Bài viết
10,570
Điểm cảm xúc
1,484
Điểm
113
Chương 34:
Ngày đại quân Đông Lâm chính thức tiến về Vân Thường, cũng là lúc Hà Hiệp từ biệt Công chúa, từ biệt thành đô, vội vã ra biên cương.

Phần lớn binh lực của Vân Thường đều đã tập trung ở biên cương đợi lệnh, chờ vị chủ soái vang danh thiên hạ, có thể cổ vũ chí khí quân sĩ, gạt đi nỗi sợ hãi Đông Lâm Trấn Bắc vương của họ.

Bách tính Vân Thường và dân chúng trong thiên hạ đều tin rằng chỉ tiểu Kính An vương mới có thể lãnh đạo quân sĩ Vân Thường, quyết chiến một trận với Sở Bắc Tiệp trên sa trường.

Cũng cờ bay rợp trời, trống trận dồn vang, chỉ là bớt đi một phần bi thương, thêm một phần tráng khí.

Ánh mắt của trăm quan đổ dồn về phía Hà Hiệp trong bộ soái phục mới tinh, thần thái phấn chấn. Lúc này, có thể chống chọi với Sở Bắc Tiệp chỉ có mình Hà Hiệp.

Vận mệnh của Vân Thường phụ thuộc vào trận chiến này, sự thành bại của trận chiến này lại phụ thuộc vào Phò mã.

Dưới muôn sự chú ý, Hà Hiệp hào khí lẫm liệt uống cạn ly rượu tiễn biệt của Diệu Thiên công chúa, ánh mắt dừng trên khuôn mặt kiều diễm của nàng, khẽ nở nụ cười.

Không cần lời lẽ hào hùng, chỉ riêng nụ cười ấy, đối với nàng đã là quá đủ.

Diệu Thiên gom muôn lời ngàn ý thành cái nhìn thâm tình. Biết rằng dù không muốn cũng phải đến lúc tiễn biệt, nàng khẽ dặn: “Phò mã bảo trọng!”.

Hà Hiệp lặng lẽ nhìn Công chúa. Nghe lời này, khuôn mặt hắn bỗng hân hoan nụ cười xán lạn, nói với giọng vô cùng dễ nghe: “Có một câu mà trăm quan Vân Thường đều hỏi ta. Ta cứ ngỡ trong lúc tiễn biệt, Công chúa sẽ hỏi câu đó. Hóa ra ta đã đoán sai”.

“Hà tất phải hỏi?” Ánh mắt Diệu Thiên ngời sáng, đáp vô cùng tự tin, “Phò mã anh hùng cái thế, quyết không thua Sở Bắc Tiệp”.

Hà Hiệp cười sảng khoái, quay người lên ngựa.

Sau lưng, cờ bay phấp phới, Hà Hiệp nhìn quanh bá quan văn võ đến tiễn biệt một vòng, rồi dừng nơi Diệu Thiên trang điểm lộng lẫy sáng ngời.

Chủ nhân một nước dẫn theo văn võ bá quan đích thân đến tiễn biệt, đây không phải là lần đầu tiên Hà Hiệp được trải nghiệm sự tôn vinh tráng liệt này.

Đối thủ vẫn là Sở Bắc Tiệp.

Chỉ là hôm nay người đến tiễn biệt không phải là Quy Lạc vương Hà Túc, nơi xuất phát không phải thành đô Quy Lạc, quốc gia cần bảo vệ cũng chẳng còn là Quy Lạc.

Người như hình với bóng bên hắn cũng không phải là Bạch Sính Đình.

Nếu đem được thủ cấp của Sở Bắc Tiệp về đây bày trước mắt Sính Đình đang bị giam lỏng trong phủ phò mã, kết quả sẽ thế nào?

Ánh mắt quét qua những tướng sĩ trang phục chỉnh tề đang chờ lệnh, Hà Hiệp rút gươm đón gió.

“Xuất phát!”

Bánh xe, vó ngựa bắt đầu chuyển động, dường như cả đất trời đang say ngủ cũng giật mình tỉnh giấc, mơ hồ trong cơn chấn động.

Cát vàng cuộn bay.

Từ thời khắc này, mọi binh lực của Vân Thường đều thuộc về Hà Hiệp. Để đối phó với Đông Lâm, Diệu Thiên công chúa không thể tiếp tục nắm giữ binh quyền.

Cát vàng nơi biên cảnh sắp bị máu tươi tưới ướt, mùi tanh nồng sẽ bao trùm lên cả bình nguyên. Dù tử thương bao nhiêu mạng người, ân oán giữa Hà Hiệp và Sở Bắc Tiệp, mối thâm thù ông Trời đã an bài từ trước cũng phải kết thúc một lần cho hết.

Nhất định phải thắng.

Diệu Thiên lên bậc cao trên thành, dõi theo bóng hình Hà Hiệp dần khuất. Hà Hiệp ngồi trên lưng ngựa, kiêu hãnh, đầy tự tin, danh tướng đương thời, oai nghiêm hùng dũng.

Nơi cao, gió lớn, hàng rèm châu trên mũ phượng của Diệu Thiên liên tục lay động, giống như trái tim nàng đang chao đảo trong cơn cuồng phong.

“Phò mã nhất định sẽ thắng, nhất định sẽ đánh bại Sở Bắc Tiệp”, Diệu Thiên chắc chắn.

Các cận vệ đều đứng cách Công chúa một trượng, triều thần chỉ mình Quý Thường Thanh theo lên đài cao.

Ông ta đứng bên Công chúa, trong đôi mắt thâm thúy cũng in hình Hà Hiệp, lúc này chỉ là chấm nhỏ, dần khuất bóng nơi phương xa.

Quý Thường Thanh hạ giọng: “Làm sao thần có thể không tin tưởng Phò mã. Nhưng, chỉ vì một nữ nhân mà phải quyết trận chiến lớn thế này, thần nghĩ không thể là hành động sáng suốt. Muốn thắng đại quân của Sở Bắc Tiệp, phải hy sinh bao nhiêu nam nhi Vân Thường? Công chúa nhìn xem, những tinh binh Vân Thường xuất chinh cùng Phò mã hôm nay, không ít quý tộc trẻ tuổi tràn đầy nhiệt huyết. Nếu không kịp thời ngăn chặn trận chiến không cần thiết ấy, liệu trong số họ được mấy người còn sống mà quay lại thành đô?”. Dừng lại giây lát, Quý Thường Thanh quay sang, nhìn Diệu Thiên công chúa, “Thời gian không còn nhiều, Công chúa đã quyết định chưa?”.

Thế gió bỗng chuyển mạnh, cách đó không xa, cờ gấm của vương tộc Vân Thường tung bay như tiếng khóc than. Diệu Thiên ngẩng đầu hít một hơi sâu, trên khuôn mặt nghiêm túc có nét kiên quyết không thỏa hiệp: “Quyết định rồi”. Ánh mắt nàng nhìn về phía thành, dừng nơi phủ phò mã nguy nga sừng sững xa xa.

Bạch Sính Đình gây ảnh hưởng tới đại cục trong thiên hạ, đang bị giam lỏng ở đó.

Tiếng hô vang dội đất trời của đại quân khi xuất phát vọng tới phủ phò mã trong thành.

Túy Cúc lắng tai nghe, rồi cười hưng phấn: “Bạch cô nương, Hà Hiệp xuất phát rồi!”.

Bớt đi một nhân vật tinh anh như Hà Hiệp, với mưu trí của Sính Đình, muốn trốn khỏi phủ phò mã không còn là việc khó.

“Giờ chúng ta nên làm gì? Dùng kế, hay dùng dược?”, Túy Cúc lo lắng, suy nghĩ, “Hà Hiệp còn ở đây, chúng ta không dám làm bừa, giờ chẳng biết tình hình bên ngoài thế nào… Hay thế này, trước tiên chúng ta sẽ thăm dò việc bố trí phòng vệ trong phủ phò mã, đường đi bên ngoài… Haizzz, nếu có tấm bản đồ thành đô Vân Thường thì có phải hay không? Chẳng biết trong thư phòng của Hà Hiệp có bản đồ không, hay chúng ta…”.

“Không cần”, Sính Đình khẽ khàng buông ra hai tiếng.

Túy Cúc không hiểu: “Không cần?”.

“Không cần đến chúng ta hao tâm tổn sức.”

“Thời gian của chúng ta chẳng còn nhiều, nếu không nhân cơ hội này trốn đi, người…”, Túy Cúc cảnh giác nhìn xung quanh, hạ giọng, “Người ta sẽ thấy bụng cô nương đấy”.

Sính Đình cúi đầu, nhìn phần bụng vẫn phẳng của mình. Tình mẫu tử trỗi dậy, nàng nhẹ nhàng xoa bụng, nói với Túy Cúc: “Ngươi cảm thấy Công chúa Vân Thường đối với Hà Hiệp thế nào?”

Biết câu hỏi của Sính Đình không đơn giản, Túy Cúc nghiêm túc suy nghĩ một lúc rồi trả lời: “Lần trước khi Công chúa đến, Túy Cúc có nhìn trộm từ xa, nàng ta rất đẹp, đứng cạnh Hà Hiệp đúng là một cặp trai tài gái sắc. Nhìn bộ dạng hình như Công chúa cũng để ý đến Hà Hiệp”.

“Chính xác là rất để ý”, Sính Đình gật đầu, “Sau lần đó, chúng ta không gặp lại Công chúa nữa. Có lẽ Công chúa cũng quên mất sự tồn tại của chúng ta”.

Túy Cúc nghe ra chút ý tứ, vội hỏi: “Nếu hai bên không quan tâm đến nhau, sao đột nhiên lại nhắc tới Công chúa?”.

Sính Đình khoan thai nhìn lên bầu trời, cười tươi tắn: “Mũi tên nằm trên dây cung, căng mà chưa bắn, không phải vì không muốn bắn, mà bởi đang đợi thời cơ thích hợp. Công chúa càng tỏ vẻ không muốn để ý đến ta, tức là trong lòng càng để ý”.

“Thời cơ Công chúa cần là sau khi Hà Hiệp rời khỏi đây?”, Túy Cúc cúi đầu suy nghĩ, bỗng hét lên kinh hãi, “Không gì độc bằng lòng ghen của nữ nhân, nàng ta lại là công chúa, ngộ nhỡ nhân lúc Hà Hiệp đi vắng, Công chúa ra tay giết chúng ta thì sao?”.

Sính Đình lắc đầu vẻ chắc chắn: “Lòng ghen cũng phân biệt thông minh và ngốc nghếch. Thân là công chúa Vân Thường, giữa bao người cầu thân lại chọn Hà Hiệp tay trắng, chắc chắn nàng ta không phải nữ nhân ngốc nghếch. Công chúa hiểu rõ, Hà Hiệp mất bao tâm huyết để đưa ta về đây, lại đối đãi với ta như thế, nếu nông nổi giết ta, ân nghĩa phu thê giữa họ coi như cũng đoạn tuyệt từ đây. Còn nếu ta chết rồi, Hà Hiệp vì ngại thân phận công chúa của nàng ta mà nhẫn nhịn không truy cứu, Sở…”. Giật mình phát hiện suýt chút nữa nói ra tên người đó, thần sắc Sính Đình chợt đổi, ảo não nín thinh.

Nghe ra ý nàng, Túy Cúc nói nốt vế sau: “Vương gia cũng sẽ không tha cho nàng ta”. Lặng lẽ thở dài, Túy Cúc hạ giọng tiếp tục, “Lần này chắc chắn Vương gia đã chống lại lệnh của Đại vương, quyết tâm dẫn binh tấn công Vân Thường. Cũng coi như… cũng coi như… Vương gia đã bỏ mặc tất cả”.

“Đừng nói nữa”, Sính Đình đứng bật dậy, định phẩy tay áo đi, nhưng không biết tại sao lại thay đổi, đứng nguyên chỗ cũ, quay lưng về phía Túy Cúc, trầm giọng, “Việc giữa hai chúng ta thì liên quan gì đến những binh sĩ vô tội kia? Mỗi người mất đi trong đại chiến Vân Thường - Đông Lâm lần này đều là tội của ta và chàng”.

Túy Cúc thở dài, vừa lo lắng vừa thương cảm: “Rốt cuộc cô nương muốn Vương gia phải làm thế nào? Vương gia có thể làm gì đây?”.

Bóng lưng Sính Đình cứng đờ, hồi lâu mới chậm rãi nói tiếp: “Ta không muốn gì hết, chàng cũng không phải làm gì hết”.

“Cô nương…”

“Ai dám chắc sẽ ở bên ai suốt đời? Không lẽ Bạch Sính Đình chẳng thể rời xa vương phủ Kính An hay Sở Bắc Tiệp?”, Sính Đình cắt lời Túy Cúc, giọng dần kiên định, “Từ nhỏ ta đã được Vương gia và Vương phi dạy dỗ, phải trung quân, ái quốc, nắm đại nghĩa, bảo toàn đại cục. Nhưng nay có được kết cục tốt đẹp nào? Chẳng lẽ ta chỉ có thể lo cho đại nghĩa, đại cục, mà không thể một lần sống vì bản thân?”.

Sính Đình quay lại, nhìn Túy Cúc vẫn đang sững sờ, chậm rãi nói tiếp: “Các ngươi đều bảo ta thông minh. Người thông minh làm việc luôn hợp lý lẽ, có lý do, bị người ta hỏi hàng vạn câu hỏi tại sao, vẫn phải trả lời cho kín kẽ. Túy Cúc, ta không cần biết Vương gia nhà ngươi đã chịu bao uất ức, có lý do trọng đại đến mức nào mà chẳng thể trở về, nhưng ta không muốn nghe đến tên, không muốn thấy mặt người đó nữa. Ta chẳng phải quan văn, quan võ gì trong triều, nên mỗi quyết định đều không cần mạch lạc rõ ràng. Ta chỉ là một người đang sống, thích gì, hận gì, chẳng lẽ lại không thể tự quyết? Ta muốn một mình nuôi hài nhi, sống thật bình yên, chẳng lẽ không được sao?”.

Thanh âm trong trẻo tựa tiếng đàn tan biến, cả căn phòng chìm trong yên lặng.

Túy Cúc không nói được lời nào.

Trong thiên hạ, làm gì có chuyện vẹn cả đôi đường, Sở Bắc Tiệp đã chọn bảo toàn vương tộc, chọn làm tổn thương Sính Đình.

Vậy thì, cứ để Sở Bắc Tiệp tiếp tục bảo vệ vương tộc.

Vậy thì, cứ để Bạch Sính Đình rời đi.

Dù bất đắc dĩ thế nào, vẫn là lựa chọn, vẫn để lại tổn thương. Đã có tổn thương, sao có thể không đau lòng?

Ai chắc chắn sẽ ở bên ai suốt đời?

Bạch Sính Đình chẳng qua cũng chỉ là một nữ nhi, sao phải ép nàng nghĩ tới đại cục, nghĩ tới đại nghĩa, nghĩ đến bách tính trong thiên hạ?

Người không giữ đạo lý dù cả đời không nói chuyện đạo lý cũng chẳng bị ai trách mắng.

Người luôn giữ đạo lý nếu một lần làm theo ý mình thì lại bị trách cứ.

Thế sự vẫn luôn là vậy, vô lý hơn cả con người.

Thấy khuôn mặt đầm đìa nước mắt của Sính Đình, Túy Cúc bỗng hiểu ra tất cả.

Nàng vẫn yêu Sở Bắc Tiệp.

Càng yêu càng hận.

Hận chàng bội ước, hận số mệnh của hai người luôn bị giam hãm trong đại nghĩa, đại cục, để rồi phải chịu nỗi đau như cắt gân xẻ thịt, mà chẳng thể làm gì.

Muốn lưu giữ chút tình yêu thuần túy trước đại nghĩa, đại cục sao mà khó đến vậy.

Điều một nữ nhi yếu ớt mảnh mai muốn có, nàng phải đánh đổi bằng tất cả nhưng vẫn không sao có được.

Không có được, thì từ bỏ thôi.

Đã từ bỏ, phải trốn chạy.

Trốn khỏi Sở Bắc Tiệp, hất bỏ quốc hận thù nhà đã khắc cốt ghi tâm.

“Bạch cô nương, hãy làm những gì cô nương muốn.” Túy Cúc khẽ chớp hàng mi, giọt lệ lặng lẽ lăn dài, ngẩng lên nhìn Sính Đình nói, “Cuộc đời này, có thể làm chủ bản thân một lần thì tốt biết bao”.

Dường như, tầng băng sắp tan chảy đã bị chiếc búa cuối cùng đập tan.

Sắc mặt ảm đạm khẽ động, Sính Đình quỳ xuống, ôm lấy Túy Cúc. Túy Cúc cũng ôm chặt nàng, để mặc nước mắt tuôn rơi.

Làm đi, cứ làm đi.

Cuộc đời con người, phải yêu, phải hận, phải làm chủ, phải đấu tranh.

Phải đuổi theo cả những cơn gió không thể nắm bắt trên bầu trời.

“Đừng làm người thông minh nữa”, Túy Cúc nghẹn ngào bên tai Sính Đình.

Làm một nữ nhi, làm một người mẹ hạnh phúc, làm một nữ nhân không cần thấp thỏm lo âu vì đại nghĩa đại cục.

Mỗi người đều có quyền được hưởng hạnh phúc.

Mặc kệ khói lửa chiến tranh ở Đông Lâm, mặc kệ chiến sự ở Vân Thường, nàng phải trốn thật xa, không bao giờ quay đầu.

Nói với hài nhi chắc chắn sẽ xinh đẹp, khỏe mạnh, thông minh rằng: Con người, thực ra có thể làm chủ bản thân, có thể thoải mái khóc, thỏa sức cười; Con người, thực ra không những có thể có lý, mà còn có tình.

“Ai chắc chắn sẽ ở bên ai suốt đời… Cô nương nói rất đúng.”

“Tổn thương thì đã tổn thương, nói những chuyện đạo lý đường hoàng, liệu vết thương có lành không?”

“Không thể.”

Không thể nào.

Ngày đại quân Đông Lâm áp sát Vân Thường, ngày Hà Hiệp khởi hành rời khỏi thành đô Vân Thường, Bạch Sính Đình và Túy Cúc ôm chặt lấy nhau, khóc thật to.

Đầy là lần đầu tiên từ khi đến Vân Thường, hai người thỏa sức rơi lệ, khóc không giữ kẽ, mặc cho nước mắt trong tim cứ thế tuôn trào.

Ánh mặt trời mùa đông diễm lệ đẩy lui tầng mây, rọi nắng xuống hai nàng. Dường như mặt trời cũng hiểu, hai nữ nhi yếu đuối ấy đang cần thêm sức mạnh biết chừng nào.

“Chúng ta nhất định phải trốn đi.”

“Nhất định.”

Hai người kiên định gật đầu, ánh mắt kiên cường.

Sính Đình lau khô nước mắt trên mặt, thẳng lưng đứng dậy, kiên cường hơn vài phần. Dưới ánh dương, họ như pho tượng ngọc muôn vàn màu sắc.

Nàng có sức mạnh, sức mạnh ở ngay trong bụng nàng. Mang trên mình sinh mạng nhỏ bé này, Bạch Sính Đình không còn yếu ớt, không còn bất lực nữa.

Đúng lúc ấy, ngoài cổng vang lên tiếng hô của đám người hầu.

“Công chúa điện hạ giá đáo!”

Túy Cúc đứng phắt dậy, trao cho Sính Đình một ánh nhìn.

“Đến cũng nhanh thật đấy!”

Sính Đình mím môi không đáp, hồi lâu mới lạnh nhạt lên tiếng: “Sớm muộn gì cũng đến, không muốn đón cũng phải đón”.

Vừa ra khỏi cửa, hai người đã thấy Diệu Thiên đứng giữa các cung nữ như mặt trăng giữa các vì sao tiến lại gần. Họ dừng bước, cúi đầu hành lễ.

Diệu Thiên hạ quyết tâm, vừa vào phủ phò mã, đã hỏi Sính Đình đang ở đâu, rồi không nói một lời, vội vã đến đây. Qua hậu viên, đã thấy Sính Đình cúi đầy hành lễ, trong lòng Công chúa hơi chùng xuống, bước chân chậm lại, từ xa đánh giá kỹ dáng hình mảnh mai kia hồi lâu, sau đó yêu kiều bước đến, ung dung dừng trước mặt Sính Đình.

“Công chúa điện hạ”, Sính Đình khẽ nói.

Diệu Thiên từ trên cao nhìn xuống, chỉ thấy Bạch Sính Đình cúi đầu để lộ phần gáy trắng nõn.

Nữ tử này không đẹp, nhưng có những điểm khiến lòng người lay động.

Lặng lẽ nhìn một lúc, Diệu Thiên mới nói: “Miễn lễ. Trước khi đi, Phò mã dặn ta phải chăm sóc cho ngươi, nên ta đặc biệt đến đây thăm”. Vừa nói, Công chúa vừa bước vào trong phòng, đôi mắt đen nhìn quanh một vòng.

Gian phòng bài trí xa hoa, mọi thứ đều là những đồ tinh tế, thể hiện rõ vị thế tẩm phòng của bậc chủ mẫu trong phủ.

Diệu Thiên chọn cái ghế gần cửa sổ, ngồi xuống, bảo: “Ngươi cũng ngồi xuống đi”, rồi đón lấy chén trà Túy Cúc dâng lên, ánh mắt nhìn về phía chiếc đàn cổ sau rèm, nhấp một ngụm trà.

Biết đại sự đã cận kề, Sính Đình và Túy Cúc không tỏ thái độ gì, một mực cung kính ngoan ngoãn.

Ngắm thật chán chiếc đàn, Diệu Thiên nhìn sang phía Sính Đình, nở nụ cười dịu dàng: “Hôm đó ngươi bị bệnh, ta rời đi cũng vội vàng, nên chỉ mới nghe có mấy khúc nhạc, mà vẫn chưa nói được chuyện gì. Ngươi ở đây thế nào? Có thiếu gì không?”.

“Tốt ạ.”

“Thế…”, Diệu Thiên đánh giá sắc mặt Sính Đình, cười hỏi, “Nhớ nhà không?”.

Câu hỏi vô cùng kỳ lạ, giọng điệu cổ quái. Túy Cúc bỗng giật mình, kinh ngạc.

Trong lòng Sính Đình cũng vô cùng ngạc nhiên, Nàng chỉ nghĩ sau khi Hà Hiệp rời đi, Diệu Thiên sẽ tìm cớ chuyển nàng vào vương cung hoặc một nơi mà Hà Hiệp không thể tìm thấy. Chỉ cần nơi giam lỏng không phải là phủ phò mã, đám người canh giữ sẽ không biết sự lợi hại của nàng, chắc chắn sẽ lơ là cảnh giác, đến lúc đó việc trốn thoát sẽ không phải là quá khó khăn.

Nhưng, lời vừa rồi của Diệu Thiên hoàn toàn khác với suy nghĩ của nàng.

Phút chốc bao ý nghĩ thoáng qua đầu, nhưng vẻ ngoài Sính Đình hoàn toàn bình thản, khẽ đáp: “Sính Đình là cô nhi, làm gì có nhà?”.

Diệu Thiên vẫn cười: “Vậy hãy coi phủ phò mã như nhà của ngươi, chẳng phải rất tốt đó sao?”.

Càng suy nghĩ về ý tứ trong lời nói, Sính Đình càng cảm thấy kỳ dị lạ lùng. Trong lòng bỗng tìm được một giả thiết không thể nào tin, nàng ngẩng đầu, bạo gan nhìn thẳng vào ánh mắt ngập ý cười của Diệu Thiên. Đều là người nhanh trí, trong chớp mắt, hai người đã hiểu tâm ý của đối phương.

Diệu Thiên có ý thả nàng.

Sao lại như thế?

Nhưng lúc này nàng không cho phép mình nghĩ nhiều. Thời gian không chờ đợi, thời cơ chẳng quay lại, Sính Đình cắn răng, vội đứng lên khỏi ghế, quỳ phục xuống hành lễ với Diệu Thiên: “Xin Công chúa điện hạ làm chủ cho Sính Đình!”.

Diệu Thiên ngồi ngay trên ghế, ung dung hỏi: “Làm chủ thế nào? Phò mã đối với ngươi không tốt sao?”.

“Thiếu gia đối xử với Sính Đình rất tốt, chỉ là thiếu gia thương xót Sính Đình, nhưng không hiểu tâm ý Sính Đình.”

“Tâm ý của ngươi?”

“Sính Đình… luôn khao khát một cuộc sống tự do tự tại, không bị ràng buộc bởi thế tục”, Sính Đình ngẩng đầu, buồn rầu, “Phò mã vô cùng chu đáo, nhưng tường kín ngói xanh, áo lụa cẩm tú, với Sính Đình, lại chẳng khác nào lồng giam”.

Diệu Thiên cau mày: “Ngươi muốn rời khỏi đây?”.

“Vâng, xin Công chúa chấp thuận.”

“Ngươi là người Phò mã coi trọng, nếu để ngươi đi, đến khi Phò mã trở về, ta biết ăn nói thế nào?”

“Công chúa và Phò mã là người một nhà, phu thê ân ái, có gì khó nói?”, Sính Đình lanh lợi đáp, “Thiếu gia thương xót, muốn Sính Đình ở lại phủ phò mã. Công chúa cũng thương xót, mới để Sính Đình rời đi. Phu thê đồng tâm, Công chúa vì thiếu gia nên mới cho Sính Đình được toại nguyện, thiếu gia sao có thể oán trách Công chúa? Xin Công chúa đồng ý tâm nguyện của Sính Đình”. Nói xong, nàng lại quỳ sụp xuống.

Trên đầu vẫn im phăng phắc, Sính Đình có thể cảm giác thấy ánh mắt Diệu Thiên đang dán chặt vào sống lưng mình.

Trong căn phòng tĩnh lặng, từng làn khói hương Quy Lạc bay lượn, uốn vòng nhảy múa, khoe khoang hình dáng tuyệt mỹ.

Không biết bao lâu sau, Diệu Thiên mới cất giọng: “Đều là nữ nhân, ngươi cứ nói thực với ta, ta sẽ không làm khó ngươi. Ngươi còn nghĩ đến Sở Bắc Tiệp không? Rời khỏi nơi này, ngươi sẽ quay về bên cạnh nam nhân của mình, đúng không?”.

Sính Đình ngẩng phắt đầu, mở trừng hai mắt, nói: “Công chúa có biết tại sao Sính Đình đến Vân Thường không? Chẳng lẽ Sính Đình là nữ tử hạ tiện đến mức trong cảnh ngộ này mà vẫn muốn quay về tìm nam nhân đó?”.

Diệu Thiên cũng giật mình trước nộ khí của Sính Đình, bèn dịu giọng: “Ngươi đừng thế. Ta hỏi điều này không phải vì nghi ngờ ngươi, chỉ là có chuyện khác không tiện nói ra. Ngươi cứ đứng dậy rồi nói”. Công chúa cúi xuống đỡ Sính Đình, chậm rãi bảo, “Sở Bắc Tiệp tập kết đại quân, sắp tiến đến biên giới Vân Thường ta, chính là vì ngươi. Ngươi đi rồi, Sở Bắc Tiệp chịu tin? Ta chỉ sợ Sở Bắc Tiệp hiểu lầm, cho rằng chúng ta đã hại ngươi”.

“Công chúa không cần lo”, Sính Đình đáp, “Sính Đình sẽ để lại một bức thư, rồi nhờ người đưa cho Sở Bắc Tiệp, Sở Bắc Tiệp sẽ biết Sính Đình đã tự đi”.

“Như thế là tốt nhất.”

Không hề che đậy niềm vui trên khuôn mặt, Sính Đình kinh ngạc: “Công chúa đã đồng ý cho Sính Đình rời khỏi đây?”.

Diệu Thiên thở dài: “Còn cách nào khác? Ngươi sống tốt, Phò mã cũng vui. Hơn nữa… làm thế có thể hóa giải được trận đại chiến ngay trước mắt, liệu ta còn có sự lựa chọn nào khác? Ngươi dự định lúc nào xuất phát?”.

“Càng nhanh càng tốt!” Nghe đoạn đối thoại của hai người, Túy Cúc nhảy nhót như hạn hán trăm năm gặp trận mưa xuân mà không giấu nổi cảm xúc, hưng phấn chen vào một câu. Thấy ánh mắt hai người nhìn về phía mình, nàng ngoan ngoãn cúi đầu.

“Đây là thị nữ của Sính Đình, tên Túy Cúc.”

Diệu Thiện nhìn sang Túy Cúc: “Ngươi nói xem, sao lại càng nhanh càng tốt?”.

Trong lòng Sính Đình vô cùng lo lắng, nguyên nhân thật sự tuyệt đối không thể nói ra. Vốn là công chúa nhiếp chính, suốt ngày tiếp xúc với các quan đại thần, không dễ gì lừa được Diệu Thiên. Rõ ràng Diệu Thiên đang hỏi Túy Cúc, nếu nàng vội vàng đáp thay, Công chúa sẽ nghi ngờ, hy vọng vừa lóe lên sẽ tan thành mây khói.

Bất giác, nàng nhìn sang Túy Cúc vẻ lo lắng.

Bị Diệu Thiện hỏi, Túy Cúc ngạc nhiên, nhưng không hề do dự mà đáp ngay: “Đương nhiên là càng nhanh càng tốt. Phủ phò mã thật khiến người ta chán chết đi được, muốn mua chút son phấn cũng không tiện. Thị nữ ở phủ nào cũng có lúc ra ngoài, phố thị ngoài kia bao điều hứng thú, kẹo hồ lô, đường nhân, mỳ, xiếc khỉ… thế mà cứ phải trói chân ở đây. Trước kia, tiểu nữ còn nghe người ta nói ở Vân Thường có một quầy chuyên bán son phấn gia công ngay tại chỗ. Ông chủ bán phấn chỉ cần nhìn nước da của nữ tử, sau đó sẽ dùng các loại cánh hoa, bột thơm có sẵn để điều chế ra loại phấn thích hợp. Thật hứng thú, nhưng mà đến Vân Thường bao ngày rồi, tiểu nữ vẫn chưa được bước chân ra khỏi cổng lớn”.

Lời Túy Cúc vừa nói ra, tựa như những hạt thủy tinh leng keng rơi trong đĩa ngọc, sảng khoái dứt khoát, không lắp ba lắp bắp. Diệu Thiên bật cười, khen: “Thật là một nha đầu lanh lợi”.

Sính Đình và Túy Cúc thầm thở phào trong lòng.

Diệu Thiện lại hỏi Sính Đình: “Vậy ngươi muốn thế nào?”.

Sính Đình nói khẽ: “Xin Công chúa hãy làm chủ việc này”.

Nhìn ngó đánh giá Sính Đình, khuôn mặt ung dung đoan trang của Diệu Thiên thoáng tia do dự, một lúc sau mới chậm rãi nói: “Nếu đã như thế, không nên làm lỡ thời gian. Viết xong thư, ngươi hãy theo xe của ta, ta sẽ đưa các ngươi đến cổng thành”.

Túy Cúc vội vàng đưa lên nghiên mực.

Sính Đình bước tới trước tấm lụa gấm trải trên bàn, nhấc bút chấm mực, cánh tay đưa ngang không trung, bỗng dừng lại, vẻ mặt trống rỗng buồn thương, hồi lâu vẫn chưa hạ bút.

Túy Cúc hiểu ra tâm sự của nàng, nín thở chờ đợi, cuối cùng lên tiếng: “Cô nương?”.

Sính Đình buồn bã đáp một tiếng, rồi cắn môi hạ bút viết liền một mạch, đến khi dừng lại bức thư đã hoàn tất.

Ngay ngắn để hai chữ “Sính Đình” đẹp mắt, nàng mới gác bút.

Túy Cúc thu dọn bút nghiên, Sính Đình cầm bức thư lên, cẩn thận thổi khô, rồi gấp lại, bỏ vào phong thư, đóng ấn ký của mình, hai tay dâng lên Diệu Thiên công chúa.

Thư đã viết cũng coi như có một kết thúc với Sở Bắc Tiệp.

Từ ngày đầu bước chân vào phủ phò mã, Sính Đình và Túy Cúc đã tính đến việc chạy trốn, cũng nghĩ kỹ phải mang theo những gì. Chẳng mấy chốc, Túy Cúc đã thu dọn xong hai tay nải.

Đợi hai người thu xếp ổn thỏa, Diệu Thiên dắt Sính Đình ra cổng và gọi thị nữ đến dặn dò: “Chuẩn bị xe ngựa, ta phải trở về”. Túy Cúc cầm tay nải theo sau.

Chặng đường ra khỏi hậu viện, những hộ vệ ở trung đình thấy Sính Đình đi bên Diệu Thiên công chúa, ai cũng sững sờ. Hà Hiệp viễn chinh, mang theo phần lớn tâm phúc ở vương phủ Kính An, đám người còn lại đa phần là vệ sĩ trong vương cung Vân Thường được điều qua bảo vệ phủ phò mã. Họ nhìn Diệu Thiên, biết đây là công chúa địa vị cao quý của quốc gia, chặn lại không được, mà không chặn cũng chẳng xong. Vài kẻ bạo gan tiến lên trước một bước, nhưng gặp ánh mắt uy nghiêm không thể mạo phạm của Công chúa, họ sao dám mở lời?

Đám thị vệ trong phủ phò mã đờ đẫn nhìn Diệu Thiên dắt Sính Đình rời khỏi. Hai người gần bước ra cổng lớn, một giọng nam sau lưng vọng tới: “Công chúa xin dừng bước!”.

Đông Chước dẫn theo đội thị vệ từ trong vội vã chạy đến. Hành lễ với Diệu Thiên công chúa xong, hắn đứng thẳng lưng, liếc qua Sính Đình, rồi cung kính: “Chẳng hay Công chúa định đưa Sính Đình đi đâu?”.

“Cổng thành”.

“Sao lại ra cổng thành?”

Khuôn mặt Diệu Thiên chẳng hề biến sắc: “Sính Đình muốn ra ngoài chơi, ta đã đồng ý”.

“Phò mã có biết không?”

“Phò mã về, ta tự khắc sẽ nói lại”, Diệu Thiên đáp, “Tránh ra”. Diệu Thiên là công chúa nhiếp chính, uy thế hơn người, vừa lạnh lùng buông một tiếng, giá băng đã bao phủ khắp nơi.

“Xin Công chúa thứ tội! Đông Chước phụng lệnh Phò mã trông coi phủ. Bên ngoài nguy hiểm, Sính Đình không có phò mã bảo vệ, không thể ra ngoài.”

Diệu Thiên lập tức nạt nộ: “Ngươi muốn chống lại mệnh lệnh của ta?”.

Đông Chước hành lễ, nhưng giọng rất cứng rắn: “Công chúa muốn đưa Sính Đình đi, xin hãy giết Đông Chước trước”.

“Hỗn xược!”, Diệu Thiên tức giận, phất tay áo quở trách.

Trong phạm vi Vân Thường, ai dám bất kính với Diệu Thiên công chúa như vậy! Nàng vừa phất tay áo, quân hộ vệ vương cung đi theo hộ giá đồng loạt tuốt kiếm, lạnh lùng chĩa thẳng vào đám người Đông Chước.

Không khí bỗng chốc trở nên căng thẳng.

Đông Chước vẫn không chịu dịch bước. Hắn nhận lệnh của Hà Hiệp, ở lại trông coi phủ phò mã, có nói gì cũng không thể để Diệu Thiên dẫn Sính Đình đi. Đông Chước ngẩng đầu nhìn những mũi gươm sắp chạm vào mình, lặp lại rõ ràng câu: “Công chúa muốn đưa Sính Đình đi, xin hãy giết Đông Chước trước!”.

Diệu Thiên tức giận tột cùng, cắn chặt răng. Đông Chước là tâm phúc Hà Hiệp dẫn theo từ vương phủ Kính An, để đưa được Sính Đình ra ngoài, Công chúa đã mất bao công sức lựa lời, nếu phải động đao gươm để giết Đông Chước ngay tại phủ phò mã, khi Hà Hiệp về, phu thê sẽ chẳng còn những ngày yên vui. Hừ một tiếng lạnh lùng, Công chúa nói: “Ngay cả Phò mã cũng không dám coi thường ta như vậy, ngươi thực to gan”.

Đông Chước không sợ Diệu Thiên công chúa, đang định nói tiếp, bỗng nghe giọng nói quen thuộc của Sính Đình buồn bã vang lên: “Đông Chước, ngươi muốn ngăn ta thật sao?”. Giọng nói dịu dàng lại khiến Đông Chước vô cùng chấn động.

Trong lòng đã sẵn xấu hổ, từ lúc Sính Đình ở trong tay Hà Hiệp, Đông Chước cố gắng tìm mọi cách tránh mặt nàng.

“Sính Đình…”

“Ngươi thật sự nhẫn tâm thế sao?”, Sính Đình khẽ đáp, “Đông Chước, hãy nhìn ta”.

Đông Chước càng cúi gằm mặt.

Đông Chước là người của vương phủ Kính An, lại tận mắt chứng kiến Hà Hiệp ép Sính Đình vào bước đường cùng như thế nào, rồi dẫn nàng đi từ chỗ Sở Bắc Tiệp ra sao.

Hà Hiệp giam lỏng Sính Đình trong phủ phò mã, đối đãi nàng như chủ mẫu, càng khiến Đông Chước sợ hãi và lo lắng. Nếu Hà Hiệp vẫn đố kỵ với Sở Bắc Tiệp mà ép Sính Đình làm thiếp, với bản tính cao ngạo của nàng, chưa biết chừng sẽ dẫn đến kết quả ngọc nát đá mòn.

Vốn là hảo hữu thuở nhỏ, sao lại đến bước tương tàn thế này?

Từ khi Vương gia và Vương phi bị hại, càng ngày Đông Chước càng không thể hiểu vị thiếu gia cùng lớn lên từ nhỏ với mình.

“Đông Chước, hãy ngẩng lên nhìn ta.”

Đông Chước ngẩng đầu, ánh mắt Sính Đình như ngọn lửa rừng rực, thiêu đốt da thịt Đông Chước, đau khôn tả.

Thấy Đông Chước không đáp, Sính Đình bước tới, ngón tay nhẹ nhàng đẩy mũi kiếm ra, nắm lấy bàn tay Đông Chước.

Cảm giác tiếp xúc dịu dàng bất chợt khiến toàn thân Đông Chước chấn động.

“Còn nhớ đêm đó, ngươi đã tiễn ta không?”, Sính Đình hạ giọng.

Đông Chước cắn răng, hồi lâu mới buồn bã đáp: “Nhớ”.

Ngày đó, khi người của vương phủ Kính An bị Đại vương Quy Lạc Hà Túc truy đuổi, khó khăn lắm Sính Đình mới ép được Sở Bắc Tiệp lập lời thề năm năm không xâm phạm Quy Lạc, lập được đại công, nhưng lại khiến Hà Hiệp sinh nghi, nàng không thể không rời đi. Trong đêm đen, Đông Chước tiễn biệt hình dáng cô độc trên lưng ngược.

Sính Đình buồn bã thở dài: “Lúc không nên ở lại, thì ở lại làm gì?”. Nàng nắm chặt tay Đông Chước, dịu giọng, “Đệ đệ tốt, tiễn tỷ tỷ một lần nữa, được không?”.

Đông Chước thực sự sững sờ, không dám nhìn thẳng vào đôi mắt vô cùng cầu khẩn của nàng. Không khí trầm mặc như bị đóng băng, đè nặng lên trái tim mỗi người.

Trái tim bị đè nặng đang sôi sục nhiệt huyết và bao ký ức, gào thét đòi trào ra cho thỏa.

Bàn tay mềm mại nhỏ nhắn của nàng nắm chặt bàn tay Đông Chước, như đang tấu lên khúc nhạc thiên nhiên, lại bị cuốn vào vòng tranh đấu, nhuốm mùi huyết tanh, bất hạnh đến chừng nào.

Chạm phải đôi mắt sáng của Sính Đình, Đông Chước bất chợt hất tay nàng ra, giận dữ quay mặt đi, trầm giọng: “Đệ không thấy gì hết”.

Trong lòng Sính Đình buồn bã, ngây dại nhìn Đông Chước. Túy Cúc hớn hở nhìn ra ngoài, vội nắm cổ tay nàng kéo ra ngoài đại môn: “Nhanh lên!”.

Diệu Thiên không hề muốn xung đột với người của Hà Hiệp, trong lòng cũng mừng thầm, bèn nghiêm nghị dẫn theo đám đông ra khỏi phủ phò mã. Ai lên ngựa thì lên ngựa, ai vào xe thì vào xe, đoàn người rầm rập rời khỏi đây.

“Chỗ này có ít ngân lượng, ngươi mang theo dùng dọc đường.” Trên xe ngựa, Diệu Thiên chuẩn bị sẵn một tay nải đựng đầy lộ phí giao cho Túy Cúc, rồi thở dài một tiếng, nói với Sính Đình, “Số mệnh của nữ nhân đều không tốt, từ nay ngươi có thể vứt bỏ vấn vương, tiêu dao thiên hạ, thật còn hơn ta”.

Sính Đình miễn cưỡng cười đáp: “Công chúa có Phò mã, sao lại không bằng Sính Đình?”.

Không biết việc gì lay động tâm can, Diệu Thiên lại thở dài, chẳng nói gì thêm.

Ba người ngồi trong xe hoa lệ, lặng lẽ lắng nghe tiếng bánh xe lăn trên đường.

Một lúc sau, xe dừng lại, tiếng thị vệ bẩm báo bên ngoài: “Công chúa, đã đến cổng thành”.

Sính Đình và Túy Cúc giật mình, cùng nhìn Diệu Thiên, chỉ lo Công chúa lại thay đổi ý định.

Diệu Thiên lạnh nhạt: “Xuống xe đi”.

Sính Đình và Túy Cúc vội quỳ sụp xuống: “Đa tạ Công chúa”.

“Ta phải đa tạ bức thư của ngươi. Bức thư ấy có thể cứu tính mạng của hàng vạn con dân Vân Thường.” Dường như thật lòng quyến luyến, Diệu Thiên vẫy tay: “Đi đi, mong ngươi cả đường bình an, không chịu vất vả”.

Túy Cúc một tay xách tay nải, một tay đỡ Sính Đình xuống xe. Hai người đứng trước cổng thành, nhìn theo xe ngựa của Diệu Thiên dần khuất, lòng vẫn hoảng hốt, tựa như họ vừa nằm mơ một giấc mộng không thể tưởng tượng.

Túy Cúc ngẩng đầu nhìn vầng dương trên trời, rồi quay sang nhìn con đường đất vàng mờ mịt ngoài thành, giọng vẫn chẳng thể nào tin: “Công chúa đã thả chúng ta, còn đưa chúng ta đến tận cổng thành”.

“Bởi cổng thành đông người, sau này rất nhiều người sẽ làm chứng, rằng Bạch Sính Đình đã được thả tự do từ đây.”

Túy Cúc kinh ngạc: “Cô nương nói gì thế?”. Cũng là người nhanh nhạy, đầu Túy Cúc kịp đảo mấy vòng, lòng bỗng thắt lại, nhìn Sính Đình với ánh mắt dò hỏi.

Sính Đình như ngửi thấy mùi nguy hiểm, bỗng trở nên cảnh giác hơn, giọng lạnh nhạt: “Trời còn sớm, tạm thời không ra khỏi thành, ngươi muốn đi xem phố thị Vân Thường đúng không? Đi, chúng ta đi xem”.

Vì sinh mạng bé nhỏ trong bụng, Sính Đình sẽ cẩn trọng hơn bất cứ ai.
 

Hoa Tử

Sưu tầm
Tham gia
24/9/19
Bài viết
10,570
Điểm cảm xúc
1,484
Điểm
113
Chương 35:
Về đến vương cung, Diệu Thiên đã thấy Quý Thường Thanh đợi sẵn ở đó.

“Công chúa.” Thấy Diệu Thiên, Quý Thường Thanh cúi mình hành lễ.

Diệu Thiên khẽ đáp một tiếng, rồi mệt mỏi ngồi xuống ghế, hai tay day thái dương, hồi lâu mới nói: “Ta đã thăm dò Bạch Sính Đình, nàng ta quyết không về bên Sở Bắc Tiệp”.

“Vậy… ý Công chúa ra sao?”

Diệu Thiên cân nhắc trước sau, giọng do dự: “Chỉ là một nữ tử yếu ớt, nếu không uy hiếp gì đến ta, hà tất phải ra tay hãm hại? Ta vừa nhắc đến việc rời đi, nàng ta liền vô cùng vui mừng, có thể thấy nàng ta cũng chẳng muốn ở lại bên Phò mã”.

“Công chúa mềm lòng rồi”, Quý Thường Thanh thở dài.

“Thừa tướng…”, Diệu Thiên hạ giọng, “Chẳng lẽ Thừa tướng không hiểu chỗ khó của Diệu Thiên sao?”.

Quý Thường Thanh im lặng không đáp.

Vốn luôn kiên quyết không thỏa hiệp khi gặp vấn đề liên quan đến mệnh hệ của Vân Thường, vị lão thần đứng dậy, ánh mắt rời khỏi Diệu Thiên, nhìn về phía bậc cao trên thành lầu xa xôi, chậm rãi đáp: “Chỗ khó của Công chúa chẳng lẽ không phải chỗ khó của Vân Thường? Quyền thế trong tay Công chúa rất lớn, người cần Công chúa thương xót không chỉ mình Bạch Sính Đình. Đúng thế, bỏ qua cho Bạch Sính Đình không phải việc khó. Điều thần lo lắng là, nếu ngay một việc nhỏ như xử lý Bạch Sính Đình mà Công chúa cũng không thể ra tay, không chịu diệt trừ hậu họa, sau này đến lúc thực sự gian nguy, sao Công chúa có thể bảo toàn Vân Thường?”.

Diệu Thiên chẳng biết nói sao, che mặt không đáp.

Quý Thường Thanh tiếp tục: “Chiến tranh là tàn nhẫn, chân lý nhược nhục cường thực[1] không bao giờ thay đổi. Công chúa là người đứng đầu đất nước, nếu không ra tay quyết đoán, Công chúa sẽ bị kẻ khác thừa cơ lợi dụng. Nếu Công chúa không nhẫn tâm để kẻ khác nếm quả đắng thảm bại, chẳng lẽ đợi đến lượt mình?”.

[1] Trong thế giới động vật, con mạnh sẽ ăn con yếu, giống như “Cá lớn nuốt cá bé”.

Từng lời như thấm vào gan ruột, hồi lâu Diệu Thiên không lên tiếng.

“Diệu Thiên hiểu những gì Thừa tướng lo lắng.”

“Xin Công chúa định đoạt.”

Diệu Thiên sững lại hồi lâu, rồi thở dài: “Thừa tướng hãy hành sự đi”.

“Tuân lệnh!”

“Thừa tướng…”

“Công chúa cứ nói.”

“Việc này phải tuyệt đối bí mật, không được để đến tai Phò mã.”

“Thần sẽ cẩn trọng”, Quý Thường Thanh khom người lui ra.

Rèm châu khẽ động, những viên đá va vào nhau, phát ra những tia sáng băng lạnh.

Hà Hiệp đang trên đường ra biên cảnh, một thân phong trần. Nếu biết thị nữ mình yêu thương nhất sắp gặp bất trắc, Hà Hiệp sẽ phản ứng thế nào?

Diệu Thiên trăm bề lo lắng, ngổn ngang suy nghĩ.

Nàng yêu nam nhân ấy như vậy, và cũng hiểu rõ rằng, một khi Hà Hiệp biết việc làm của nàng, cả đời này phu quân sẽ không tha thứ cho nàng.

Số mệnh thật biết trêu người.

Sính Đình, nữ tử mang tên Sính Đình, thật thông tuệ mà cũng thật đơn thuần. Nàng khao khát tiêu dao khắp thiên hạ, khao khát không bị ràng buộc bởi thế tục, khao khát được tự do tự tại.

Nếu thực sự có thể như điều nàng mong mỏi, thì tốt biết chừng nào…

Bởi luôn theo quốc sách tự lực cánh sinh, không tham chiến, Vân Thường quả thật yên ổn hơn ba nước kia. Tuy rằng bóng đen chiến tranh đã che phủ lên quốc gia vốn yên bình này, nhưng phố thị ở thành đô chưa có biến động, vẫn tấp nập ngựa xe, người người hớn hở.

Khắp các con phố, người bán lạc, người giao sữa đậu nành, bánh chưng nếp, gánh xiếc dẫn theo con chó, con khỉ đi xin cơm, từng tốp thị nữ dạo phố, chọn lựa son phấn, có cả tiếng nhắc nhau đem một, hai thứ về cho tiểu thư, phu nhân không đi cùng.

Sính Đình và Túy Cúc chọn nơi đông đúc nhất để đi, rồi nhanh chóng chuyển sang con đường nhỏ, rẽ ngang quẹo dọc vòng vèo, bước chân vội vã, chẳng mấy chốc hai người đã tới con đường phồn hoa khác.

Túy Cúc theo bên cạnh Sính Đình, tay xách tay nải, gót chân không chạm đất, vừa đi vừa nói: “Công nương, chúng ta đi rất lâu rồi”.

“Ta đang cắt đuôi đám người bám theo.”

Túy Cúc kinh hãi: “Có người bám theo chúng ta?”.

“Ta chỉ đoán thôi, bao nhiêu người thế này, cũng không nhìn ra kẻ nào đang theo chúng ta.”

“Cô nương?”

Vẻ mặt bất lực, Sính Đình đáp: “Ta không biết thật mà”.

Trước nay nàng chỉ ở trong vương phủ, có Hà Hiệp hoặc Sở Bắc Tiệp bảo vệ, ra ngoài đã có thị vệ đi theo. Khi ra sa trường cũng chỉ ở trong trướng soái, chưa từng nếm trải cảm giác đánh giáp lá cà cùng quân địch.

Nếu là Hà Hiệp hay Sở Bắc Tiệp, họ sẽ ngay lập tức phát hiện ra kẻ đang gây bất lợi cho mình trong đám đông kia, nhưng Sính Đình lại chẳng có bản lĩnh này. Tính nhạy bén thiên phú giúp nàng cảm nhận được nguy hiểm, nên chỉ biết hết sức tránh né.

Bước chân hai người càng lúc càng nhanh. Một lát sau, Sính Đình dừng bước: “Ta khát rồi, mua bát sữa đậu nành uống đi”. Nàng kéo tay Túy Cúc vào quầy sữa đậu nành, đặt xuống hai đồng tiền, bảo, “ Đại gia, cho hai bát sữa đậu nành”.

Nhận lấy bát, bàn tay Sính Đình hơi run, khiến hơn nửa chỗ sữa sánh ra ngoài.

“Ôi!” Túy Cúc không kịp tránh, bị đổ vào người, Sính Đình cũng chẳng kịp tránh, ống tay áo ướt sạch.

“Ôi!”, Sính Đình vội vã đặt bát xuống, “Ta tay chân vụng về, làm thế nào bây giờ?”. Nàng nhìn quanh, thấy một đại nương mặt mũi hiền từ đang đứng ở cổng nhà ngóng sang bên này, bèn vội vã kéo Túy Cúc qua đó, nét mặt khổ sở đáng thương, “Đại nương, chúng con mượn chỗ sửa lại y phục, được không?”.

Hai người y phục đẹp đẽ, cử chỉ lễ độ, nhìn qua đã biết con nhà tử tế. Người dân Vân Thường bản tính chất phác, đại nương đồng ý ngay: “Có gì mà không được? Các cô nương mau vào đi, bộ dạng thế này, đi lại trên phố sao được?”.

Nói rồi, hai vị đại nương nhường đường, dẫn hai người vào trong nhà.

Nhìn bộ dạng ướt như gà mắc mưa của Túy Cúc, đại nương xuýt xoa: “Sữa đậu có đường, áo không cũng sẽ dính nhem nhép, cô nương cứ cởi ra, lão nương giặt giúp cho”.

Sính Đình vội nói: “Áo của con cũng bị bẩn, về nhà sẽ bị mẹ trách mắng. Đại nương cho con ít nước, để con tự giặt cũng được”.

“Ai ya, đừng tự giặt, đã vào nhà ta thì là khách của ta, lấy đâu ra cái lý bắt khách giặt đồ chứ?”

Đại nương tốt bụng, tìm ra hai bộ y phục cũ, “ Các cô nương thay vào đã, đây là y phục của con dâu lão nương, kích cỡ cũng trạc như nhau, tuy không được tốt như y phục của các cô nương, nhưng rất sạch sẽ”.

Sính Đình được đúng như ý nguyện, vội vã cảm tạ, rồi cùng Túy Cúc vào trong thay áo. Nàng hạ giọng nói với Túy Cúc: “Lấy cho ta thỏi bạc trong tay nải”.

Túy Cúc làm theo.

Hai người thay xong y phục bước ra, đại nương cầm y phục bẩn, bảo: “Lão nương đi giặt, một lát là xong ngay. Ôi, chất liệu này rất quý đấy, đều là lụa tốt cả”.

Thấy bóng đại nương khuất sau cổng, Sính Đình vội kéo Túy Cúc: “Chúng ta mau đi”. Nàng vừa nói vừa đặt thỏi bạc trên bàn. Đang định đi, Sính Đình lại chần chừ, cầm theo cái khăn trải bàn màu xanh sẫm, rồi kéo Túy Cúc rời khỏi.

Túy Cúc vội nói: “Cô nương, đó là hậu viện mà”.

“Không thể ra ngoài theo lối cổng trước. Nếu có người theo chúng ta, chắc chắn những người đó đang chờ sẵn ngoài kia.” Vì nhìn thấy không gian quanh nhà này rộng rãi nên Sính Đình mới cố tiếp cận vị đại nương ấy. Theo kiến trúc dân gian, nếu hậu viện rộng rãi, thường sẽ có thêm một cửa nhỏ.

“Nhìn kìa!”, giọng Sính Đình mừng rỡ, “Quả nhiên có cửa”.

Hai người rón rén ra khỏi cửa, bên ngoài là một hẻm nhỏ yên tĩnh. Sính Đình bất chợt tháo tung tóc Túy Cúc ra: “Mau bện thành hai bím”. Sau đó, nàng nhanh chóng thả tóc của mình, búi kiểu bình thường nhất. Một lúc sau, hai người đã có một vẻ ngoài khác hẳn.

Sính Đình giở khăn trải bàn vừa lấy trộm ra, bọc ngoài tay nải, “Giờ thì chúng cũng chẳng nhận ra tay nải của chúng ta”.

Hai người nhìn nhau cười, nắm tay nhau ra khỏi hẻm sau, bước chân chậm rãi như đôi tỷ muội hiếm khi được dạo chơi nơi phố thị.

“Giờ chúng ta sẽ ra khỏi thành chứ?”, Túy Cúc hạ giọng.

“Không.” Ánh mắt Sính Đình nhìn chằm chằm về phía tấm biển treo cao đằng xa, mỉm cười, “Đi tìm quán trọ”.

Túy Cúc hiểu ra ngay, thầm khen Sính Đình thông minh, gật đầu nói: “Vậy chúng ta đi tìm quán trọ”.

“Ngươi đi trước”, Sính Đình cười khẽ, “Ngươi đến trước, ta đến sau, mỗi người thuê một phòng đơn, chẳng ai liên quan đến ai. Lấy thêm cho ta ít bạc”.

Thấy Sính Đình vui vẻ như chim sổ lồng, Túy Cúc mỉm cười ngọt ngào, lấy trong tay nải ra mấy thỏi bạc đưa cho nàng, nói: “Túy Cúc hiểu rồi, chúng ta chẳng ai liên quan đến ai. Túy Cúc sẽ đi luôn, khi nào cô nương tới?”.

“Không được ở gần nhau quá, trời sẩm tối ta sẽ đến.”

Túy Cúc lo lắng: “Cô nương, hay cô nương đi trước, Túy Cúc sẽ đi dạo quanh quẩn một lát…”.

“Đừng tranh nữa”, Sính Đình mím môi, “Giờ thành đô này đã trở thành chiến trường, ta là chủ soái, ngươi chỉ là một tên lính nhỏ, không được phép kháng lệnh”. Nói rồi, nàng lại đẩy vai Túy Cúc, “Đi đi”.

Túy Cúc nghe theo sự phân công của Sính Đình, bước vào quán trọ hỏi thuê một phòng đơn.

Phòng tuy nhỏ, nhưng rất sạch sẽ. Kiểm tra kỹ trước sau, không phát hiện thấy điều gì bất thường, Túy Cúc mới yên tâm ngồi trong phòng chờ Sính Đình.

Sự yên ắng đến tĩnh mịch như đang thiêu đốt tâm can. Từ khi rời khỏi Đông Lâm, Túy Cúc chưa từng xa Sính Đình, nên vừa đợi một canh giờ đã thấy lòng như lửa đốt.

Sính Đình là mục tiêu của họ, cơ thể lại không thuận tiện, nhỡ chăng… Một mình trong yên lặng, Túy Cúc thành ra suy nghĩ lung tung.

Túy Cúc thầm hối hận, biết thế chẳng nghe lời Sính Đình vào quán trọ một mình thế này. Lòng như kiến đốt, Túy Cúc càng nghĩ càng sợ hãi, cuối cùng đứng bật dậy, xông ra ngoài cửa phòng, muốn lập tức đi tìm Sính Đình, nhưng lại chần chừ đứng yên.

Giờ ra ngoài, ngộ nhỡ Sính Đình tới, không tìm thấy mình thì làm thế nào? Suy đi tính lại, thế này không được, thế kia cũng không xong, Túy cúc chỉ còn cách cố dằn lòng tiếp tục chờ đợi.

Thời gian trôi đi rất chậm, sắc trời cũng không chiều lòng người, càng tối mà Sính Đình vẫn chưa tới. Túy Cúc lo lắng, cứ đi vòng vòng trong phòng.

Đáng chết, đáng chết, không nên nghe theo lời của Bạch Sính Đình.

Màn đêm từ từ buông xuống, Túy Cúc càng lúc càng lo.

Cốc cốc cốc…

Cuối cùng cũng vang lên tiếng gõ cửa, lòng Túy Cúc bỗng thắt lại, nắm chặt tay, cố trấn tĩnh mở cửa phòng.

“Ngươi tìm ai?”

Trước cửa là một nam nhân mang hành lý, vừa cao vừa gầy, đầu đội mũ rộng vành che hơn nửa khuôn mặt, chỉ để lộ mỗi cái cằm nhỏ đen sì.

“Ha ha…”, tiếng cười vang lên dưới vành mũ.

Sắc mặt chợt đổi, Túy Cúc vội kéo tay nam nhân lôi vào phòng, cẩn thật đóng cửa, nghiến răng kèn kẹt: “Cô nương làm Túy Cúc lo chết được! Đi những đâu thế? Sao giờ mới tới?”, rồi mới thở phào nhẹ nhõm.

“Nghe nhiều chuyện giấu kín hành tung của nam nhân, cũng xem như hôm nay được thử qua.” Sính Đình bỏ mũ xuống, khuôn mặt bôi đen càng làm nổi đôi mắt sáng rõ, trông như hai viên đá quý lấp lánh. Không biết nàng độn thứ gì trong y phục mà bờ vai rộng lên khá nhiều, dáng người vì thế mà càng gầy thêm.

Sính Đình tháo đôi giày độn đế ra, xoa hai bàn chân đau đến đỏ ửng, ngồi trên giường: “Thời gian không nhiều, chỉ có thể cải trang tạm thế này. Mệt quá, ta muốn nghỉ một lát”. Dứt lời, nàng dựa lưng vào giường nghỉ.

“Chẳng phải đã nói chẳng ai liên quan đến ai, mỗi người một phòng sao?”, Túy Cúc nhắc, “Cẩn thận người khác nghi ngờ”. Túy Cúc bỗng cau mày, hỏi tiếp: “Sao giọng cô nương lại khản thế? Bị lạnh à? Có cần uống thuốc không?”.

“Ta cố ý uống thuốc cho giọng khản đi, nếu không làm sao giả được nam nhân?”, Sính Đình bỗng nghĩ đến đoạn này, bật cười thành tiếng, “Ta đến quán trọ, tả với tiểu nhị hình dáng của ngươi, nói ngươi là thê tử của ta, vì cãi nhau nên giận dỗi bỏ nhà đi, tiểu nhị bảo ta lên đây tìm ngươi”.

Túy Cúc nói giọng bất mãn: “Thế thì đến ngày mai, người ta tha hồ chê cười sau lưng Túy Cúc”. Nói rồi, Túy Cúc cũng chẳng nhịn được cười, vừa mở cái túi to Sính Đình mang về, vừa hỏi: “Gì thế này? A!”, ngay tức khắc rụt tay lại.

“Cẩn thận! Đều rất sắc đó!”, Sính Đình vội vàng xuống giường lại gần, “Để ta xem, có bị đứt tay không?”.

“Không, may mà rụt tay kịp.” Túy Cúc giơ tay cho Sính Đình xem, trên ngón tay có vết đỏ, “Cô nương mua những thứ này làm gì?”.

“Mang theo phòng thân trên đường. Tối nay chúng ta sửa lại một chút, chỉ cần khéo léo lắp ráp sẽ dễ sử dụng hơn.” Sính Đình lần lượt lấy từ bên trong ra những kiếm sắc, dao găm và rất nhiều thứ đồ cổ quái mà Túy Cúc chưa từng biết tên, đặt trên bàn, “Vẫn còn vài thứ hay ho khác, các sư phụ ở xưởng đang làm cho kịp. Ta trả công gấp đôi, sáng sớm ngày kia có thể lấy”.

Nàng lại lấy bút nghiên, viết tên vài loại thảo dược, đưa cho Túy Cúc: “Mai ngươi tới hiệu thuốc mua những thứ này”.

Túy Cúc đọc qua, ngạc nhiên hỏi: “Mấy vị thuốc này có dược tính hoàn toàn trái ngược, không bao giờ dùng lẫn với nhau, cô nương muốn làm gì? Cô nương khó chịu ở đâu à?”.

“Yên tâm. Ta không uống thứ này đâu.”

Nghe thế, Túy Cúc mới chịu cầm lấy đơn thuốc, nói như tự dặn: “Túy Cúc biết cô nương cũng tinh thông dược lý, nhưng việc bồi bổ an thai vẫn nên làm theo cách của Túy Cúc thì hơn”.

“Ta biết rồi.”

Sính Đình đã mua ít bánh bao nóng trên phố, hai người không ra ngoài mà ăn luôn trong phòng rồi đi ngủ.

Giường ở quán trọ vừa lạnh vừa cứng, nhưng Sính Đình nằm xuống lại dễ chịu vô cùng, liền xuýt xoa: “Thật dễ chịu…”.

“Cô nương đắp thêm chăn đi, đừng để lạnh”, Túy Cúc khẽ nói: “Có chật không? Giường nhỏ quá”.

“Chật một chút càng ấm.” Sính Đình nắm bàn tay Túy Cúc trong chăn, giọng dịu dàng: “Thật may, hài nhi của ta không phải sinh ra ở cái nơi nhiều âm mưu quỷ kế đó. Ta muốn hài nhi chào đời giữa chốn núi rừng, chim ca suối chảy”.

“Dựng một căn nhà gỗ, phía sau trồng rau, rồi mua một cây đàn”, Túy Cúc nói tiếp.

Sính Đình cười, “Phải mua cả cái cuốc chứ”.

Ngây ngô nghĩ tới cuộc sống chốn núi rừng sau khi quy ẩn, hai người đắm chìm trong màn đêm tươi đẹp. Sính Đình lại hỏi: “Ngươi không định về chỗ sư phụ ư?”.

“Sao lại không? Xa sư phụ bao lâu như thế, Túy Cúc nhớ người lắm”, Túy Cúc buồn bã, “Gặp lại, chắc chắn sư phụ sẽ trách mắng Túy Cúc”.

“Túy Cúc, chúng ta hứa với nhau một việc nhé.”

“Hả?”, Túy Cúc quay lại, gặp ánh mắt nghiêm túc của Sính Đình, cảm nhận ngay được suy nghĩ của người nằm bên cạnh, bèn nói luôn: “Túy Cúc sẽ không nói tung tích của cô nương cho bất cứ ai, càng không bao giờ nói với Vương gia”. Nói xong, Túy Cúc thề độc theo phong tục Đông Lâm.

Sính Đình gật đầu, thở dài.

Hai người nằm cạnh nhau, chìm vào giấc ngủ.

Chung một vầng trăng sáng, nhưng Sở Bắc Tiệp không sao chợp mắt.

Bốn bề yên ắng, chỉ có tiếng gió lạnh trên bình nguyên rít qua tai. Sở Bắc Tiệp rút kiếm, múa những đường sắc lạnh.

Kiếm chính là sức mạnh.

Trên sa trường, chàng đã từng ba chiêu đánh bại đại tướng Bắc Mạc, khiến lòng quân Bắc Mạc hoang mang kinh hãi.

Anh hùng vung kiếm, ý chí bùng phát.

Chỉ cần có kiếm trên tay, chàng sẽ không còn khiếp sợ, hăng hái tiến lên.

Chàng biết, cánh tay cầm kiếm của mình tràn đầy sức mạnh, đó là sức mạnh uy vũ chấn động trời đất. Thế gian này có được bao nhiêu mãnh tướng dám đối diện với Sở Bắc Tiệp tay đang cầm kiếm?

Những đốm lửa quân doanh cháy sáng nơi đáy mắt, các binh sĩ đang chìm trong giấc ngủ, không bao giờ lo lắng chủ soái của mình sẽ bị lật đổ.

Vị chủ soái bất bại sẽ dẫn họ đi giành hết thắng lợi này đến thắng lợi khác.

Dưới trăng, Sở Bắc Tiệp múa bảo kiếm, thân hình tựa giao long bay lượn trong đêm đen của bình nguyên.

Thế kiếm thần tốc, nhưng lòng lại loạn.

Lòng chàng không chỉ loạn, mà còn đau, đau đến tận xương, đau đến cùng cực.

Lòng càng đau, càng phải chịu đựng, đường kiếm càng âm u lạnh lẽo.

Nơi tận cùng của sắc đêm, dường như đang hiển hiện thứ ánh sáng u ám quấn lấy bóng hình yêu kiều, dịu dàng mỉm cười trong mây mù bàng bạc.

Từng giờ, từng khắc, Sở Bắc Tiệp cảm nhận được nỗi đau khi Sính Đình rời xa. Chàng không thể nói ra mình đau đến mức nào, tuyệt vọng và bất lực đến mức nào.

Kiếm của chàng vô địch thế gian, vó ngựa của chàng tung hoành thiên hạ, nhưng nữ nhân trong sáng nhất, tình yêu trong sáng nhất của lòng chàng lại đang biến mất.

Những lời thề non hẹn biển trước hoa dưới trăng kia, giờ nghĩ lại mới biết khắc cốt ghi tâm, khến người ta đứt gan đứt ruột.

Sao đến tận lúc này chàng mới biết Sính Đình đã dụng tâm đến thế, thấp thỏm chẳng yên đến thế, mặc kệ tất cả mà phó thác bản thân cho mình?

“Chàng sống, thiếp cũng sống. Chàng chết, thiếp nguyện chết cùng chàng.”

“Hãy để Sính Đình theo Vương gia đến tận chân trời góc biển, từ nay vinh nhục, sinh tử đều do Vương gia.”

Lời thề còn đó, không từ nào giả dối.

Từng từ đều là gan ruột, là máu và nước mắt của nàng.

La Thượng đến báo đã đào được vò hoa mai ngâm rượu trong tiểu viện của Sính Đình ở biệt viện ẩn cư, mở nắp ra, hương thơm lan khắp.

Dường như chàng đang được tận mắt thấy nàng hái những nụ hoa mai. Khoảnh khắc ấy chẳng khác gì tiên cảnh.

Nàng đang mang cốt nhục của chàng.

Cốt nhục của Sở Bắc Tiệp và Bạch Sính Đình đang hòa vào làm một, tạo thành sinh linh nhỏ bé nằm ngoan trong bụng nàng.

Chàng muốn đặt tay lên bụng nàng, xoa thật nhẹ, muốn áp tai lên bụng nàng, lắng nghe động tĩnh.

Khát vọng ấy khiến lòng chàng quặn thắt, gào thét trong đau đớn. Sở Bắc Tiệp nắm chặt thanh bảo kiếm, giận dữ xé gió, chỉ mong có thể đem tất cả bi phẫn chất chứa trong lòng tuôn ra nơi mũi kiếm.

Chàng không biết rằng, người mình đang muốn cứu đã cất bước trên một chặng đường xa, chặng đường rất dài và nguy hiểm, kéo đến tận chân trời.

Ngày thứ ba, nương tử giận dữ bỏ nhà đi ở quán trọ cuối cùng đã hồi tâm chuyển ý, phu thê thanh toán rời đi. Xem ra, để lấy lòng nương tử, nam nhân cao gầy, suốt ngày đội mũ rộng vành kia đã đặc biệt mua về bao thứ, lúc đến chỉ có hai tay nải cỏn con, mà khi rời khỏi đã trở thành tay nải to đùng.

“Khách quan đi cẩn thận. Lần sau đến thành đô, nhớ ghé tiểu điếm của chúng tôi!” Tiểu nhị tiếp tục mời chào, tiễn phu thê nhà họ ra cửa.

Phu tử ít nói ít cười vẫn lặng im, chỉ có nương tử cứ toét miệng cười.

An toàn ra khỏi cổng thành, họ tiếp tục tiến về phía đông bắc.

“Phải mua con ngựa mới được”, Túy Cúc nói.

“Mua ở thành đô dễ gây chú ý.” Sính Đình lấy ra tấm bản đồ được đánh dấu đơn giản bí mật mua được của một thương nhân hay ngao du đây đó, nhìn kỹ một lúc, “Đi tiếp mười lăm dặm về phía trước sẽ có một trấn nhỏ. Chúng ta tới đó một đêm rồi mua ngựa cũng không muộn”.

Hai nữ tử yếu ớt mang theo tay nải cùng nhau hành tẩu, bước chân chầm chậm, nhìn màn đêm buông xuống. Cố gắng đi hết mười lăm dặm, hai người vẫn chưa đến trấn nhỏ đánh dấu trên bản đồ.

“Sao vẫn chưa đến nhỉ?”

Sính Đình cau mày: “Bản đồ vẽ tay của các thương nhân không chính xác như bản đồ quân sự chúng ta thường thấy, phương hướng và cự ly chỉ là tương đối. Theo ta, trấn đó chắc ở ngay phía trước, nhiều nhất là hai, ba dặm nữa”.

Gió lạnh gào thét thổi qua khe núi tạo thành vô số tiếng kêu quái dị đến rợn người. Những bóng cây lay động dần chìm trong bóng đêm như các u linh quái thú dữ tợn, không biết lúc nào sẽ bổ nhào vào họ. Túy Cúc rùng mình: “Cô nương, đường sá âm u thế này mà vẫn phải đi thêm hai, ba dặm nữa sao?”.

“Không đi thì thế nào, ngươi định qua đêm ở chốn đường núi âm u này ư?”

Hai người cắn răng tiến lên trước, thế núi càng lúc càng dốc, càng bước càng vất vả. Đi nửa canh giờ trên đường núi quanh co khúc khuỷu, hai người vừa đi vừa thở. Đêm đã về khuya, vầng trăng sáng khuất sau rặng cây cao, lúc ẩn lúc hiện, bóng đen của những lùm cây khiến không gian càng thêm u ám.

“Tối đến nỗi không nhìn thấy đường rồi”, Túy Cúc nói, “Châm đèn thôi”. Nàng nhanh chóng mở tay nải, lấy mồi lửa và chiếc đèn dầu nhỏ. Túy Cúc vừa cầm vào cán đèn, đang định châm lửa thì bị Sính Đình ngăn lại.

“Im lặng!”, giọng Sính Đình có chút lo lắng khi cảm nhận được nguy hiểm.

Túy Cúc ngừng lại, nhìn theo hướng chú ý của Sính Đình.

Ánh lửa yếu ớt lập lòe trong rừng cây phía đông nam không xa.

“Có người”, Túy Cúc đã nhìn thấy, vội vã cất đèn dầu và mồi lửa, “Không biết họ đang làm gì?”.

Đôi mắt sáng của Sính Đình nhìn chằm chằm về phía ánh lửa, hạ giọng: “Từ thành đó đến biên giới Bắc Mạc, buộc phải đi qua con đường này”.

Những người có mưu đồ với nàng chắc chắn biết rõ, Vân Thường, Đông Lâm và Quy Lạc đều không phải là chốn để nàng nương thân, nơi duy nhất Sính Đình quy ẩn được, chỉ có thể là Bắc Mạc.

Giả như bị mất dấu vết nàng ở thành đô, đương nhiên họ sẽ cử người mai phục trên con đường núi này…

“Đi thôi!”, Túy Cúc giục giã.

“Buộc phải qua con đường núi này”, Sính Đình chậm rãi lắc đầu, vẻ tự tin thoáng qua trên vành môi, “Theo ta”.

Hai người rón rén vào sâu trong rừng, lặng lẽ xuyên qua lớp lá dày, tiến lại phía bên kia, những đốm lửa đã rõ hơn rất nhiều.

“Mẹ kiếp, còn phải đợi mấy hôm nữa?”

Nghe tiếng người, Sính Đình và Túy Cúc cảnh giác cúi người, trốn trong đám cỏ.

Bên đống lửa, mấy nam nhân kẻ nằm người ngồi, hai, ba vò rượu và mấy thanh kiếm sắc ngổn ngang trên đất.

“Thổ phỉ?”, Túy Cúc nói khẽ vào tai Sính Đình.

Sính Đình cau hai hàng mày thanh tú: “Chưa chắc”.

Bàn chân giẫm lên cành cây, gây ra những tiếng động, hai người giật mình, không dám tiếp tục nói chuyện, chỉ nằm rạp xuống, nhìn trộm.

“Nói cũng phải, chúng ta ngày đêm nằm ở đoạn này, không biết còn phải ở đây đến bao giờ?”

Nam nhân đang ngửa cổ dốc rượu có vẻ như lão đại của đám người, trầm giọng: “Đừng nhiều lời, bảo ngươi đợi thì ngươi cứ đợi đi!”.

“Ngày nào cũng chờ đợi trên đường núi này, hai nữ tử đó biết bao giờ mới tới?” Một nam nhân mặt mày bặm trợn đang ngồi khều lửa lên tiếng.

Hai nữ tử đó? Sính Đình và Túy Cúc giật mình, trao cho nhau một ánh nhìn.

Nam nhân khác ngáp dài một cái, ngồi xuống: “Theo ta, từ thành đô đến đây chỉ một ngày đường. Chúng ta đợi đã ba ngày mà không thấy động tĩnh gì, chắc chúng không qua con đường này. Có đợi cũng vô ích”.

“Bảo các ngươi đừng nhiều lời. Đợi thế này, ta không sốt ruột ư?” Lão đại giận dữ vứt vò rượu không xuống đất, nghiến răng, “Mẹ kiếp, cái bọn theo đuôi thật sự vô tích sự, bám theo hai nữ tử ở thành đô cũng không xong. Giờ thì hay rồi, hại chúng ta cả ngày cả đêm ngồi đây hứng gió Bắc. Thừa tướng nói rồi, đây là con đường thông sang biên giới Bắc Mạc, việc này vô cùng trọng đại, không hoàn thành, cả đời chúng ta cứ đứng đây mà hứng gió Bắc”.

Nam nhân khều lửa than lên ai oán: “Người ta đều nói con tiện nhân họ Bạch ấy giảo hoạt, ai mà biết ả có đi đường này không? Nếu không đến Bắc Mạc, há chẳng phải chúng ta đang bị tiện nhân ấy hại chết hay sao?”.

Túy Cúc không dám cử động, nắm chặt tay Sính Đình trong bụi cỏ.

“Việc này không lo, sớm muộn gì ả cũng gặp phải người của chúng ta. Tất cả những con đường dẫn đến biên giới Đông Lâm, Quy Lạc đều sắp sẵn mai phục.”

“Khà khà…” Nam nhân mặt mày bặm trợn kia cười ré lên, vô cùng khó nghe, “Ta lại hy vọng hai ả đó đi qua con đường này. Nghe nói, Sở Bắc Tiệp mê con tiện nhân họ Bạch đến phát cuồng, cả Phò mã cũng coi ả như bảo bối, chắc chắn vì công phu trên giường hơn người, khiến nam nhân sướng đến phát điên”.

Đám nam nhân nghe thế, cười rộ lên.

“Đúng thế, ta cũng mong tiện nhân ấy qua đường này, để xem ả làm chúng ta sướng phát điên, hay chúng ta làm ả sướng phát điên?”

“Ha ha, chi bằng chúng ta bốc thăm chia lượt trước, tránh đến lúc vội vã lại mất hòa khí.”

Tên lão đại lạnh lùng cảnh cáo: “Muốn chơi thế nào thì tùy, nhưng không được làm tiện nhân đó chết. Ả mà chết, các ngươi hãy tự cắt đầu nộp cho Thừa tướng”.

Từ nhỏ đã được Vương gia và Vương phi yêu thương, đến khi lưu lạc nơi đất khách quê người, rồi bị giam lỏng, vẫn được đối đãi lễ độ, đâu phải nghe lời lẽ ô uế thế kia, Sính Đình giận đến phát run chân tay.

Biết Sính Đình đang giận giữ, Túy Cúc đưa mắt ra hiệu với nàng, ý chừng lui ra.

Nhưng Sính Đình chẳng hề cử động, hai mắt vẫn sáng ngời nhìn chằm chằm về phía đống lửa.

Đám người kia hào hứng tán chuyện một hồi, lửa củi đã tắt. Bỗng một kẻ đứng dậy bước về phía rừng, Sính Đình và Túy Cúc vội vã nằm rạp xuống, nghe tiếng bước chân giẫm lên cành cây cách chưa đầy một trượng, tim như sắp nhảy ra khỏi lồng ngực. Tuy đám cỏ đã khô vàng, nhưng vẫn dày đặc, trong rừng lại rất tối, cộng thêm màu sắc y phục và tay nải đều tối, nên hai người lẫn trong đêm đen, không bị phát hiện ra.

Người đó đi một vòng, tìm về đống củi khô, vứt từng cành vào đống lửa.

Tiếng củi cháy lách tách.

“Đến lúc thay ca rồi”, tên cầm đầu đứng dậy, thân hình cao lớn, chân đá vào mấy tên vẫn đang nằm, “Ba người các ngươi đi canh chừng cửa ngõ phía trước. Lão Thất, ngươi thay cho tên đang ở trên đài cao. Nam Phụng, hai người các ngươi đi kiểm tra chỗ đặt bẫy”.

“Ta đi ngay đây. Ha ha, chưa biết chừng tiện nhân đó rơi xuống bẫy rồi, đang chờ gặp gỡ chúng ta!”

Lại một tràng cười rộ lên.

Lão Thất đứng dậy đang định đi, bỗng quay lại bên đống lửa. Chỗ đó có miếng gì đỏ đỏ rất to, giống như thịt sống chưa nướng xong. Trời đông ở vùng đất lạnh, thịt sống có thể cất giữ nhiều ngày. Hắn lấy con dao sắc, cắt một miếng thịt đã đống băng nhét vào người: “Đi đổi ca thôi”.

Thầm nghĩ, bọn chúng sẽ đi qua đám cỏ này, rất dễ bị phát hiện, Sính Đình vội kéo tay Túy Cúc, yên lặng rời khỏi đó.

Hai người tìm được nơi không có ánh trăng, nấp sau tảng đá lớn. Túy Cúc nghĩ, nếu Sính Đình không cảnh giác, vừa rồi châm đèn, chắc chắn sẽ thu hút sự chú ý của chúng, hậu quả còn nhục nhã đau khổ gấp vạn lần cái chết. Túy Cúc vẫn chưa hết kinh hãi, nghiến răng nghiến lợi hạ giọng: “Thật không ngờ Diệu Thiên công chúa lại độc ác đến vậy. Cô nương, chúng ta phải làm sao?”.

Sính Đình hạ giọng: “Phía trước có canh gác, trên cao có theo dõi, trong rừng có cạm bẫy”. Suy nghĩ giây lát, nàng mở tay nải, lấy ra hộp nhỏ, “Bôi cái này lên tay chân, cả mặt nữa”.

Trong bóng tối không nhìn rõ thứ gì trong hộp, Túy Cúc đưa lên mũi ngửi mới nhận ra. Những dược liệu hôm ấy mua về, Sính Đình đã nghiền thành bột, sau đó trộn với loại dầu gì đó, tạo thành thứ cao có mùi quái dị, đựng trong chính chiếc hộp này.

Sính Đình bôi khắp mặt và tay chân, giải thích: “Cái này để phòng lũ chó săn”.

“Sao cô nương biết chúng có chó săn?”

“Nam nhân kia trước khi đi còn cắt theo miếng thịt sống, chắc chắn cho chó săn ăn.” Bôi xong, Sính Đình cất hộp, rồi lấy trong tay nải ra mấy thứ khác, lần lượt xếp trên đất.

Ánh trăng không chiếu tới chỗ hai người, trong bóng tối Túy Cúc chẳng biết nàng đang làm gì. Ở lại thành đô ba ngày, Sính Đình đã tiêu hết đến tám, chín phần lộ phí mà Diệu Thiên công chúa đưa cho, không biết mua ở đâu về những thứ Túy Cúc chưa từng thấy, hình thù kỳ quái, cũng chẳng biết sử dụng thế nào.

“Cô nương, chi bằng chúng ta dùng cách giống khi ở trong thành, từ từ kéo dài thời gian. Chúng ta theo đường cũ quay về, tìm một nơi để trốn, đợi họ rút đi, chúng ta lại tìm đường đi Bắc Mạc.”

“Sớm đến Bắc Mạc ngày nào an toàn ngày ấy. Đi đường vòng rất tốn thời gian, tới lúc đó, chưa biết chừng Hà Hiệp biết được mọi chuyện, sẽ thẳng tay bắt chúng ta lại.” Trong đêm tối, đôi mắt long lanh của Sính Đình lấp lánh tia kiêu kỳ, tựa hai viên đá quý màu đen phát ra ánh sáng. Nàng lạnh lùng: “Đám người kia vô lễ như thế, sao có thể bỏ qua?”.

Biết Sính Đình tức giận, Túy Cúc thầm than trong lòng.

Luận về hoạch định kế hoạch nơi màn trướng, Sính Đình có thể so tài cao thấp với Sở Bắc Tiệp và Hà Hiệp, nhưng đánh giáp lá cà hay dùng đến sức, e là nàng không thể chống lại cả một võ phu bình thường.

Làm sao mới có thể “không tha” cho bọn họ?

“Giờ không phải lúc đấu trí. Họ đều là nam nhân, lại có cả binh khí.”

Tiếng cười của Sính Đình khẽ khàng vang trong đêm đen: “Đừng sợ. Một bọn lỗ mãng, ta còn chẳng thèm nhìn bằng nửa con mắt. Cầm lấy cái này”. Nói xong, nàng đưa cho Túy Cúc mấy thứ đồ trên đất, còn mình khoác tay nải, nói nhỏ, “Theo ta”.

Hai người đi xuyên qua cánh rừng âm u, một lát sau, Sính Đình dừng lại, thỉnh thoảng lắng tai nghe ngóng, hoặc dùng khứu giác tìm phương hướng. Không lâu sau, họ đã thấy một con suối nhỏ. Hai người tiếp tục men theo tiếng suối chảy tìm đến miệng suối phun, nước chảy róc rách từ khe đá.

Trong đêm đen, Sính Đình cố gắng quan sát thế núi xung quanh, rồi phân tích với Túy Cúc: “Chỗ đốt lửa là doanh trại của chúng, có thể thấy đài quan sát và cửa khẩu đều cách đó không xa. Để đề phòng, chúng ta đi vòng qua đường núi, chắc chắn chúng sẽ đặt cạm bẫy trong rừng. Muốn qua chỗ này, chúng ta không thể không làm kinh động đến chúng”.

“Tuyệt đối không thể đánh động đến chúng. Bọn chúng người đông, nếu đuổi đánh đến đây, chúng ta chạy sao cho thoát?”

Sính Đình ngồi cạnh miệng suối phun, vốc dòng nước mát ung dung thoải mái: “Hoàn toàn ngược lại, chúng ta phải đánh động chúng”.

“Cô nương?”

Sính Đình bảo Túy Cúc để mấy thứ trên tay xuống, rồi nói tiếp: “Chúng ta có thể lợi dụng cây cối quanh đây”. Sau đó, Sính Đình nhanh chóng lắp mấy thứ đồ lại với nhau, chẳng mấy chốc, Túy Cúc đã nhìn ra đầu mối.

“Lắp ráp lại thành nỏ đúng không?”

“Là nỏ, nhưng không phải nỏ bình thường.” Sính Đình lấy dây da, khéo léo buộc liên hoàn nỏ lên trên cây, lại vòng dây da ra phía sau cây, kéo sang bờ miệng suối phun bên này, sắp xếp thành cái bẫy, “Giẫm lên cái này, nỏ mới có thể hoạt động”.

Bố trí xong cái thứ nhất, nàng tiếp tục chuẩn bị cái thứ hai, tất cả đều cột bằng dây da, sau đó khéo léo giấu trên những cành cây rậm rạp, cả dây da cũng được che rất cẩn thận.

Bận rộn hơn nửa canh giờ, họ đã lắp xong bảy cái nỏ liên hoàn. Túy Cúc quan sát kỹ, thấy Sính Đình lấy dây da buộc chúng lại cách nhau đoạn xa, hóa ra những cái nỏ này không phải bắn ra cùng một lúc.

“Bắn hết những mũi tên của cái nỏ đầu, mới tiếp tục mũi tên ở nỏ thứ hai, rồi nỏ thứ ba…” Bận rộn xong, Sính Đình cùng Túy Cúc đến cái bẫy đầu tiên. Đứng bên miệng suối phun, nàng giơ tay chỉ cho Túy cúc bảy cái nỏ ngầm càng lúc càng xa: “Trong rừng tối om, mũi tên chi chít bắn tới, chúng không thể phát hiện ra cung nỏ giấu trên cây, phải đến ngày mai, chúng mới hiểu đã xảy ra chuyện gì”.

Trong bóng đêm, cố gắng nhìn thật kỹ, Túy Cúc bỗng tỉnh ngộ: “Giẫm lên cái bẫy này, đợt tên thứ nhất bay đến, chúng sẽ tưởng chúng ta ở bên kia con suối. Sau khi hết đợt tên thứ nhất, đợt tên thứ hai sẽ từ nơi xa hơn bắn lại, chúng lại tưởng chúng ta đang chạy về phía xa, như thế có thể dụ chúng đi rất xa”.

Sính Đình nói: “Cung tên tuy nhiều, nhưng chỉ bắn bừa, sẽ không làm mấy tên ấy bị thương. Điểm mấu chốt là ở đây”. Sính Đình giơ tay chỉ.

“Miệng suối phun?”

“Đây là nguồn nước, nước từ đây chảy xuống con suối nhỏ. Chúng đuổi sang bên kia, chắc chắn phải lội qua suối, bọt nước sẽ bắn lên.”

“Ý cô nương là…” Thấy Sính Đình mở lòng bàn tay trắng như ngọc, bên trong là viên thuốc cứng như đá màu xanh thẫm, Túy Cúc lo lắng, “Hạ độc?”.

“Đúng thế. Thả xuống nguồn nước, độc dược từ từ tan ra, có thể duy trì được một ngày một đêm.”

Túy Cúc gật đầu xuýt xoa, bỗng nhiên nghĩ đến vấn đề quan trọng nhất: “Nhưng làm thế nào để chúng đến đây giẫm vào bẫy của chúng ta?”.

Sính Đình nở nụ cười thâm trầm khó đoán: “Chẳng phải chúng có chó săn sao?”.

Nhìn nụ cười của Sính Đình, Túy Cúc bỗng thấy thương hại cho mấy nam nhân miệng lưỡi đáng hận kia.

Bạch cô nương uy danh tứ quốc mấy ngày nay đã phải chịu bao uất ức, đêm nay lại nghe những lời sỉ nhục. Xem ra, mọi uất hận ấy sẽ dồn cả lên đám nam nhân lỗ mãng xui xẻo này.

Một Bạch Sính Đình mà ngay cả Sở Bắc Tiệp và Hà Hiệp cũng không dám coi thường, liệu có phải là kẻ dễ trêu chọc?
 
Trạng thái
Không mở trả lời sau này.
Top