Lượt xem của khách bị giới hạn

[Ngôn tình] [Truyện Hoàn] Cô phương bất tự thưởng - Phong Lộng

Trạng thái
Không mở trả lời sau này.
[Ngôn tình] [Truyện Hoàn] Cô phương bất tự thưởng - Phong Lộng

Hoa Tử

Sưu tầm
Tham gia
24/9/19
Bài viết
10,570
Điểm cảm xúc
1,484
Điểm
113
Chương 46:
Nhận được tin Bạch Sính Đình đã chết, Quý Thường Thanh cảm thấy như trút được tảng đá trong lòng, mừng rỡ ban thưởng cho công thần Phiên Lộc chức vị thủ thành, dặn dò hắn phải giữ kín bí mật này.

Không biết có phải là qua cơn Bĩ cực đến hồi Thái lai? Cứ ngỡ bóng ma chiến tranh đã đổ xuống, Vân Thường sẽ phải rơi vào cảnh sinh linh lầm than, nhưng rất nhiều chuyện bất ngờ xảy ra. Không những trận chiến không xảy ra mà Sở Bắc Tiệp còn không thể gượng dậy sau cái chết của Bạch Sính Đình, hiện không rõ tung tích. Vương thất Đông Lâm rối ren, không thể dòm ngó Vân Thường.

Vì không còn chiến sự nên hổ phù trong tay Phò mã đã quay về tay Công chúa điện hạ.

“Ha ha…”, Quý Thường Thanh cười cảm khái, “Xem ra nước cờ Bạch Sính Đình thực là chuẩn xác”.

Quý Thường Thanh không hy vọng người khác biết rằng cái chết của Bạch Sính Đình có liên quan đến Vân Thường nên đã giấu kín bao nhiêu ngày, đợi đến khi tin tức về cái chết của Bạch Sính Đình truyền khắp thiên hạ bởi các tướng sĩ Bắc Mạc công khai bái tế Bạch cô nương, ông ta mới vào cung gặp Diệu Thiên công chúa.

“Chết rồi?”, Diệu Thiên thất kinh, hạ giọng hỏi, “chẳng phải ta đã dặn Thừa tướng, đại chiến qua rồi, hãy để Bạch Sính Đình tự sinh tự diệt ư? Sao Thừa tướng còn không chịu buông tha cho nàng ta?”

“Công chúa hiểu lầm rồi. Công chúa đã dặn dò, thần sao dám không nghe? Bạch Sính Đình muốn vòng qua cửa khẩu biên giới Vân Thường, từ sơn mạch tiến vào Bắc Mạc, kết quả là tự cho mình thông minh nhưng lại sai lầm bởi chính thông minh ấy. Lúc ở trên núi, nàng ta đã gặp phải bầy sói dữ.”

Diệu Thiên bán tín bán nghi, im lặng hồi lâu, cau mày nói: “Phò mã có biết không?”.

“Tin tức đã truyền khắp thiên hạ, chắc Phò mã đã biết rồi.”

Diệu Thiên thở dài một tiếng.

Quý Thường Thanh ngạc nhiên: “Công chúa sao thế? Bạch Sính Đình chết vì gặp nạn, đối với Công chúa chẳng phải là việc tốt hay sao?”.

Diệu Thiên cười khổ: “Phò mã biết Bạch Sính Đình chết, trong lòng sẽ rất buồn. Phò mã buồn, ta vui được sao?”.

Quý Thường Thanh thấy Diệu Thiên nặng tình với Hà Hiệp như vậy, trong lòng thầm bất an, vội chuyển câu chuyện: “Lần trước Công chúa ra lệnh, muốn lập riêng một kho tiền lương trong quân. Vương lệnh này, thần tạm thời giữ lại”.

Diệu Thiên ngạc nhiên nhìn Quý Thường Thanh: “Việc quân khẩn cấp, giải quyết nhanh còn không kịp, sao Thừa tướng còn giữ lại?”.

“Thần cảm thấy làm thế có chút không ổn.”

“Hà Hiệp đường đường là Phò mã, quản một kho tiền lương có gì không ổn?”

“Công chúa, xin hãy nghe thần một lời.” Quý Thường Thanh đứng dậy, tiến lên hai bước, dịu giọng, “Hiện trong tay Phò mã có binh, có tướng, thứ duy nhất khống chế được Phò mã chính là tiền lương. Nếu Phò mã quản lý cả tiền lương thì trong tay Công chúa còn thứ gì để ràng buộc Phò mã?”

Diệu Thiên khẽ thở dài: “Ta cũng biết Thừa tướng lo nghĩ cho ta. Nhưng ta và Phò mã là phu thê, chàng dốc sức vì Vân Thường, chúng ta lại nghi ngờ, tìm mọi cách ngáng trở chàng. Thừa tướng, làm vậy có nên không? Thừa tướng đừng quên ta và Phò mã là một, tương lai hài tử của ta sẽ là người đứng đầu Vân Thường.”

Tự cổ, khó cắt bỏ nhất chính là tình nam nữ. Bao nhiêu người vướng chân vào, rồi không thể rút ra được.

Nếu Diệu Thiên chỉ là một nữ tử bình thường, nghĩ như thế hoàn toàn hợp lý, nhưng đằng này, nàng lại đại diện cho vương quyền của Vân Thường.

Biết là khó khuyên, nhưng không thể không khuyên, Quý Thường Thanh e hèm một tiếng, tiếp tục nhẹ nhàng: “Công chúa còn nhớ ngày xuất giá, Công chúa đã từng nói với thần câu gì không?”

“Ngày xuất giá?”, Diệu Thiên nhớ lại, mỉm cười, “Ta sao có thể quên? Hôm đó Diệu Thiên lo lắng không yên, nên đã mời riêng Thừa tướng vào phòng nói chuyện”.

“Công chúa bảo, phải làm thế nào để giữ được cả con người và trái tim Hà Hiệp, muốn thần sau này suy tính giúp Công chúa”, Quý Thường Thanh cúi người nói, “Lúc đó thần đã hứa với Công chúa là sẽ dốc sức vì việc này”.

Diệu Thiên nghe xong, ánh mắt nhìn về phía Thừa tướng, giọng buồn rầu: “Nhưng hiện giờ, sao ta thấy mọi hành động của Thừa tướng lại đang đẩy cả con người và trái tim Phò mã ngày càng rời xa ta?”

“Công chúa…”

“Thừa tướng không cần nói nữa”, Diệu Thiên lên tiếng cắt ngang lời Thừa tướng. Dừng một lát, thần sắc của nàng ánh lên vẻ uy nghiêm không thể thay đổi, “Ta đã hứa với Phò mã, lập một kho tiền lương riêng cho quân. Việc này ích nước lợi dân. Thừa tướng không cần nhiều lời, hãy mau chóng đi làm”.

Quý Thường Thanh định nói lại thôi, nhìn vẻ mặt Diệu Thiên, biết không thể cứu vãn, chỉ còn cách cúi đầu đáp: “Thần… tuân lệnh”, rồi thở dài một tiếng.

Quý Thường Thanh làm quan nhiều năm, hành sự cẩn trọng. Diệu Thiên từ nhỏ đã coi người này là trưởng bối, chưa từng trực tiếp phản bác ý kiến của ông ta nên trong lòng cũng cảm thấy buồn. Ngồi yên một lúc, nàng lại dịu giọng: “Thừa tướng còn việc gì khác cần nói với ta không?”

Đúng là Quý Thường Thanh đang có chuyện càn nói.

“Đúng là …”, Quý Thường Thanh đáp, “ Vẫn còn một việc”.

“…?”

“Thần muốn xin Công chúa tặng một người cho Phò mã.”

Diệu Thiên sững sờ, nhìn Quý Thường Thanh: “ Người nào?”

“Là dưỡng tử thần mới nhận, tên Phong m, tuy không thật đẹp nhưng tính tình hiền dịu, giỏi đàn, biết múa hát, lại vô cùng trung thành với vương thất Vân Thường.”

Diệu Thiên hiểu ra ngay, trong lòng cảm thấy không tự tại, giọng lạnh lùng: “Thừa tướng muốn ta tặng một nàng thiếp cho Phò mã?”

“Pháp lệnh Vân Thường đã ghi rõ, Phò mã và Công chúa không ở chung, trong phủ Phò mã ít nhất cũng phải có một người thiếp. Phò mã lần trước gần như đã lập Bạch Sính Đình làm thiếp. Nay nàng ta đã chết, lần này Công chúa hãy rộng lượng một chút, tặng cho Phò mã một người.”

Sắc mặt Diệu Thiên vô cùng khó coi: “Ai nói trong phủ Phò mã nhất định phải có thiếp? Ta là Công chúa, pháp lệnh có thể lập, cũng có thể bỏ”.

Quý Thường Thanh cười đáp: “Công chúa sai rồi. Pháp lệnh có thể đổi nhưng lòng người thì sao? Thay vì để Phò mã tự mình chọn lấy một người tranh sủng với mình, chi bằng Công chúa hãy đưa một người đến nhằm trông coi Phò mã. Có Phong m, Phò mã sẽ không dễ dàng lập một thiếp khác, hơn nữa, vạn nhất tâm tư của Phò mã bị ai lôi kéo, ít nhất Công chúa cũng có được một người báo tin”.

Lồng ngực phập phồng, Diệu Thiên dứt khoát lắc đầu: “Không được. Những việc khác đều có thể thương lượng, chỉ riêng chuyện này thì không thể.”

Biết lúc này không thể tiến bừa, Quý Thường Thanh đành lùi một bước, nói: “Nếu đã như vậy, thần xin cáo lui. Công chúa hãy suy nghĩ kỹ, rồi đưa ra quyết định, lúc đó vẫn chưa muộn”. Nói rồi ông ta khom người rời đi.

Diệu Thiên nhìn về phía tấm rèm lay động, trong phòng chỉ còn một mình nàng.

Tâm trạng đang tốt bỗng bị đề nghị của Quý Thường Thanh phá hỏng, Diệu Thiên không khỏi thầm hận ông ta.

Ngăn còn không được nay lại muốn đưa thêm người tới?

Nghĩ lại, pháp quy của Vân Thường cũng thật đáng ghét, nữ nhân xuất giá, đáng lẽ phải được sống cùng phu quân mới phải. Đằng này, Công chúa thực đáng thương, phải ở lại vương cung, phu thê như những ngôi sao ở hai bên dải ngân hà, một người chốn vương cung, một người nơi phủ phò mã, chỉ nhìn nhau mà khó chịu.

Chỉ là…

Hà Hiệp anh tuấn nhường ấy, uy danh chấn động thiên hạ, một anh hùng như thế, lại từng trải sự đời, nay đã trở thành Phò mã, trong tay đủ danh lợi quyền thế, không biết bao nhiêu tiểu thư khuê các nhìn thấy má đã ửng hồng, sao có thể đảm bảo Hà Hiệp không có lúc này lúc nọ?

Ngộ nhỡ Phò mã phải lòng ai đó, muốn lập người ấy làm thiếp, mà nàng lại là một Công chúa, chẳng lẽ lại bãi bỏ pháp lệnh, để người trong thiên hạ chê cười về lòng đố kỵ của nàng?

Diệu Thiên bất mãn nhìn vào trong gương, ánh mắt đố kị trong đó cũng khiến nàng giật mình, vội vã lấy khăn phủ lên trên.

Lúc này, Lục Y từ ngoài rèm nói vọng vào: “Công chúa, hoa khô mới tiến cống đã đưa tới.”

Đang tức giận, Diệu Thiên không muốn bị người khác làm phiền, bèn cao giọng: “Mang đi. Không có việc đại sự, không được bẩm báo”.

Nghe được nỗi tức giận trong giọng nói của Công chúa, Lục Y giật mình, hạ giọng: “Vâng”, rồi le lưỡi rụt cổ, không biết Thừa tướng và Công chúa đã nói với nhau những gì mà Công chúa lại thành ra như thế.

Lục Y đang định xách giỏ hoa khô đi ra, lại nghe thấy mệnh lệnh của Diệu Thiên: “Lục Y, ngươi đợi ngoài đó”.

Lục Y vội vã dừng chân, đáp: “Vâng”, rồi đứng bên ngoài chờ đợi.

Sao thân là công chúa thì phải sống trong vương cung? Thật chẳng hợp với lẽ thường…

Diệu Thiên nghĩ đến đề nghị của Quý Thường Thanh, cân nhắc thật kỹ, cũng không phải là không có lý.

Phong Âmđó “không thật đẹp”, cho dù Phò mã có ham của lạ, thì mươi bữa nửa tháng, hứng thú cũng phải cạn.

“Tính tình dịu dàng, giỏi đàn, biết múa hát”, những thứ đó cũng chỉ giúp Phò mã giải sầu.

Phong Âmlà người của Thừa tướng nên có thể hoàn toàn yên tâm về lòng trung thành. Một là rót nước dâng trà, cận kề bên gối, thông tỏ nhất cử nhất động của Phò mã; hai là ngộ nhỡ Phò mã bị nữ nhân khác dụ dỗ thật thì Phong Âmcũng có thể ra tay ứng phó, đóng lấy vai xấu mà nhận mọi sự lôi thôi ầm ĩ.

“Xem ra, cũng chẳng phải hoàn toàn vô lý”, Diệu Thiên lẩm bẩm, khẽ gật đầu. Nhưng, nghĩ đến chuyện bên cạnh Hà Hiệp có thêm tiểu thiếp, hai hàng mày của nàng vẫn cau, toàn thân khó chịu, bực bội không nói thành lời.

Lục Y đứng ngoài, nghe tiếng bước chân Diệu Thiên đi lòng vòng bên trong, nàng còn giận dữ túm cả tấm rèm đá quý bên cửa sổ, phát ra những tiếng leng keng, một lúc sau lại hoàn toàn im ắng.

Hồi lâu, Lục Y mới nghe thấy bên trong vọng ra tiếng gọi: “Lục Y”.

“Bẩm Công chúa, có Lục Y.”

“Ngươi sai người đi nói với Thừa tướng rằng…”, giọng Diệu Thiên ngập ngừng.

Lục Y dỏng tai nghe, đợi hồi lâu, bèn lo lắng ngẩng lên nhìn trộm vào.

Diệu Thiên đứng giữa phòng, lưng thẳng, cả người như một bức tượng.

“Công chúa?”, Lục Y thăm dò gọi một câu.

Diệu Thiên bất đắc dĩ thở dài một tiếng, sắc mặt xám xịt: “Ngươi nói là, Công chúa nghĩ thông rồi, Thừa tướng cứ làm đi. Vương lệnh sẽ được đưa đến phủ phò mã.”

Hà Hiệp bận rộn cả một ngày, vừa trở về phủ phò mã, còn chưa kịp uống ngụm nước, sứ giả vương cung đã mang vương lệnh tới.

Hắn nhận vương lệnh trong phòng, rồi sai người tiễn sứ giả ra ngoài. Thấy xung quanh không có ai, Đông Chước khẽ ai oán: “Dưới kia đã có bao tai mắt rồi, còn chưa thỏa mãn mà nhét thêm một người nằm bên cạnh. Theo thuộc hạ, đến tám phần lại là trò của Thừa tướng”.

Hà Hiệp cầm vương lệnh, sắc mặt tái xanh, không hề lên tiếng.

Chẳng bao lâu, thị vệ lại vào bẩm báo: “Bẩm Phò mã, ngoài phủ có đội ngựa xe đến, nói là Phong Âmcô nương do Công chúa tặng cho Phò mã.”

Ánh mắt Hà Hiệp đầy nộ khí, giọng lạnh nhạt: “Ta biết rồi, giờ ta sẽ đi đón”. Cả đoạn đường bước đi thật chậm, đến khi ra khỏi bục cổng, sắc mặt tái xanh của hắn đã nở nụ cười.

“Phong Âmcô nương, vất vả rồi”, Hà Hiệp đích thân tiến tới, tao nhã đỡ lấy nữ nhân đang ngồi trên xe ngựa xuống.

Phong Âmbước xuống, nhún gối hành lễ với Hà Hiệp: “Phò mã”, giọng nói yêu kiều rụt rè, lúc ngẩng lên nhìn Hà Hiệp, ánh mắt vô cùng khiếp sợ.

Họ cùng vào phủ, Hà Hiệp dẫn Phong Âmđến hậu viện, vừa đi vừa nói: “Vương lệnh vừa tới, nên vẫn chưa kịp bố trí chỗ ở cho cô nương. Chi bằng cô nương hãy vào sảnh uống trà, ăn tối, đợi thị nữ đi sắp xếp đã”.

Phong Âmcúi đầu, đáp: “Phong Âmphụng vương lệnh đến làm nô tỳ hầu hạ Phò mã, đâu cần phải sắp xếp phòng. Phò mã hãy ban cho Phong Âmmột gian phòng của thị nữ trước đây là được rồi”. Bước chân họ dừng lại, đúng ngay trước căn phòng Sính Đình đã từng ở.

Đông Chước mặt bỗng biến sắc, bước chân tiến lên phía trước, nhưng bị Hà Hiệp quét mắt cảnh cáo, đành nghiến răng lui ra.

Hà Hiệp dịu dàng: “Đã như thế, căn phòng này cũng đang trống, cô nương chịu khó vậy”.

“Đa tạ Phò mã”, Phong Âmcười dịu dàng, lại khẽ nhún gối với Hà Hiệp, “Phong Âmxin vào phòng sắp xếp đồ đạc, rồi sẽ ra hầu hạ Phò mã dùng bữa”.

“Đi đi”.

Nhìn Phong Âmđẩy cửa, bước vào bên trong, Hà Hiệp không nói tiếng nào, quay người rời đi. Đông Chước sắc mặt sa sầm, vòng qua hòn giả sơn, bỗng nghe thấy sau lưng vang lên tiếng đàn, rõ ràng Phong Âmđang thử cây đàn cổ trong phòng.

Đông Chước dừng bước, nghiến răng: “Quý Thường Thanh, lão già mãi không chịu chết này, ép người quá đáng! Thiếu gia, sao thiếu gia…” Đông Chước ngẩng lên, phát hiện thấy Hà Hiệp đã đi khỏi.

Tuyết trắng tan hết, mùa xuân đã đến.

Lại đến lúc hái hoa cài lên mái tóc.

So với năm ngoài, tình hình tứ quốc giờ đã chuyển sang cục diện khác hẳn.

Vương cung Quy Lạc, quan hệ giữa Đại vương và gia tộc của Vương hậu như dòng chảy ngầm dưới lớp băng mỏng manh, càng chảy càng mạnh.

Ở Bắc Mạc, Thượng tướng quân Tắc Doãn dẫn theo phu nhân và hài nhi rời khỏi nơi ở cũ, chính thức quy ẩn.

Đông Lâm Vương tạ thế trong nỗi thất vọng và bi phẫn. Trước bao nhiêu đại thần quỳ lạy, Đông Lâm vương hậu trang nghiêm bước lên ngai vàng cao nhất giữa đại điện.

Sau tin về cái chết của Bạch Sính Đình là tin Đông Lâm Trấn Bắc Vương Sở Bắc Tiệp mất tích.

Hai danh tướng đương thời, một không rõ tung tích, người còn lại là tiểu Kính An vương Hà Hiệp thì chưa hề có động tĩnh gì.

Muốn xưng hùng thiên hạ phải biết nằm gai nếm mật.

Nắm bảo kiếm trong tay, Phò mã Vân Thường vẫn hoàn toàn thản nhiên.

Ngoại thành Vân Thường.

Đêm khuya trăng sáng, tiếng côn trùng rả rích kêu.

Trong căn phòng nhỏ giữa rừng, một lão nhân tóc trắng đang ngồi xếp bằng trên chiếu, người học trò trẻ tuổi cung kính hỏi: “Đệ tử có một việc không hiểu, muốn thỉnh giáo sư phụ. Người đã dạy học ở Bắc Mạc nhiều năm, được mọi người kính mến. Sao sư phụ lại rời khỏi Bắc Mạc, tìm đến Vân Thường?”.

Lão nhân cười nói: “Người già thường hay sợ chết. Tứ quốc sắp đại loạn, không đến Vân Thường, nơi an toàn nhất, thì biết trốn đi đâu?”

Đệ tử ngạc nhiên: “Sao sư phụ biết Vân Thường là nơi an toàn nhất?”

“Ha ha, danh tướng trong thiên hạ, một là Sở Bắc Tiệp, một là Hà Hiệp. Bây giờ còn lại ai?”

“Sở Bắc Tiệp không rõ tung tích, Hà Hiệp hiện là Phò mã ở thành đô Vân Thường”

“Tiểu Kính An Vương đâu phải là người có thể cam tâm làm Phò mã?”, lão nhân thở dài, “Quy Lạc tự rước họa vào thân, hủy hoại lá chắn hộ quốc là vương phủ Kính An, Bắc Mạc không còn Tắc Doãn, Đông Lâm mất đi Sở Bắc Tiệp. Một khi Hà Hiệp dẫn theo đại quân Vân Thường xông tới, ba nước còn lại không còn đại tướng có khả năng đối kháng với Hà Hiệp. Muốn tránh họa chiến tranh, ngoài Vân Thường ra, còn có thể đi đâu?”.

“Sư phụ kết luận có sớm quá không?”

“Một tướng tài như Hà Hiệp, liệu còn ai có thể sánh vai?”

“Có”, đệ tử đáp, “Sở Bắc Tiệp”.

Lão nhân mỉm cười nhìn đệ tử, như nhìn một đứa trẻ chưa hiểu chuyện: “Sở Bắc Tiệp giờ đang ở đâu?”.

Cũng là người bướng bỉnh, đệ tử đáp: “Chỉ cần còn sống thì Sở Bắc Tiệp vẫn là danh tướng, vẫn là đối thủ của Hà Hiệp”.

“Người sống thì có tác dụng gì? Nếu chỉ là cái xác không hồn, dù có chạm mặt Hà Hiệp, Sở Bắc Tiệp chẳng qua chỉ là tặng không tính mạng cho người khác.”

“Có một người nhất định sẽ giúp Sở Bắc Tiệp phấn chấn trở lại”.

“Ai?”

“Bạch Sính Đình.”

Lão nhân cười hỏi: “Bạch Sính Đình giờ ở đâu?”.

Đệ tử sững người, cúi đầu đáp: “Đã chết rồi”.

“Đúng thế, đã chết rồi.” Lão nhân vuốt chòm râu bạc, khẽ thở dài.

Đệ tử vẫn không chịu từ bỏ, nói: “Sở Bắc Tiệp có thể hăng hái vì Bạch Sính Đình, biết đâu cũng sẽ hăng hái vì người khác?”.

Lão nhân dịu dàng nhìn học trò, đôi mắt già nua mờ đục, nhưng vẫn lấp lánh ánh sáng của trí tuệ.

“Trò đã bao giờ nghe thấy tiếng đàn của Bạch Sính Đình?”

“Đệ tử chưa từng.”

“Trò đã bao giờ gặp Bạch Sính Đình?”

“Đệ tử chưa từng.”

“Trò đã bao giờ được đọc lá thư của Bạch Sính Đình mà Công chúa Vân Thường gửi Sở Bắc Tiệp trên chiến trường?”

“Đệ tử chưa được đọc”, đệ tử cúi đầu trả lời, “Đệ tử chỉ nghe tên của Bạch Sính Đình, nghe kể những câu chuyện về Bạch Sính Đình”.

Bạch Sính Đình, Bạch Sính Đình của vương phủ Kính An.

Tên của nàng truyền khắp thiên hạ.

Câu chuyện của nàng vẫn chưa kết thúc.
 

Hoa Tử

Sưu tầm
Tham gia
24/9/19
Bài viết
10,570
Điểm cảm xúc
1,484
Điểm
113
Chương 47:
Sơn mạch Tùng Sâm là lá chắn thiên nhiên ngăn cách hai nước Bắc Mạc và Vân Thường.

Thôn trang nhỏ xíu ấy nằm dưới chân sơn mạch Tùng Sâm, luận về địa giới vẫn thuộc lãnh thổ Bắc Mạc, nhưng nơi hoang vắng này không có lợi ích quân sự, cách cửa khẩu cũng xa, người trong thôn chỉ lên núi hái thuốc, săn bắn, núi non hoang vắng, đâu quan tâm gì đến Vân Thường hay Bắc Mạc.

“Sơn mạch Tùng Sâm là của chúng ta”, A Hán vẫn thường cười ha ha mà rêu rao như vậy.

Xa xa, những dãy núi quanh năm tuyết phủ sáng lấp lánh dưới ánh mặt trời, tựa như một tấm gương chói chang. Đã trồng xong vụ xuân, trên thảo nguyên bao la phía đông, cỏ non vươn mầm mạnh mẽ.

Mùa xuân đã đến, nơi nơi vang lên khúc hát mùa xuân.

“Đàn dê kêu vui quá.” Mới sáng sớm, A Hán đã vui vẻ xách sang con gà, lớn tiếng từ ngoài cổng, “Cô nương, gà nhà chúng ta béo rồi, ta mang một con sang cho hài nhi ăn”.

Dương Phượng từ trong phòng chạy ra, giơ ngón tay lên miệng, lắc đầu, nói: “A Hán, lần nào cũng quên. Hài nhi đang ngủ ngon, cẩn thận không lại bị đánh thức bây giờ”.

A Hán bỗng nhớ ra, ngượng ngùng gãi đầu: “Ha ha, sao ta hay quên thế chứ? Tiểu A Hán cũng thường bị ta làm cho giật mình”.

Dương Phượng nhận lấy con gà từ tay A Hán, cười nói: “Cô nương ra ngoài rồi, vào trong ngồi đã”.

“A ca đâu?”

“A ca và Ngụy Đình lên núi rồi, nói là đi săn thú rừng về đổi gạo và dầu.”

Tắc Doãn và mọi người sống ở đây, chỉ lo việc chăn thả săn bắn, rất ít qua lại với người khác. Có A Hán vì quen biết với Sính Đình nên thường xuyên qua lại.

Vốn tính tình phóng khoáng, không câu nệ tiểu tiết, cũng may A Hán không nhiều chuyện hỏi han lai lịch của họ bao giờ. Thấy Tắc Doãn lớn tuổi hơn, A Hán liền gọi là a ca, và Dương Phượng tất nhiên trở thành a tẩu.

“Ta không ngồi đâu, ta còn phải đi xem đàn ngựa.”

“Từ từ hãy đi.” Dương Phượng gọi A Hán lại, quay vào trong, chẳng mấy chốc cầm ra một túi giấy, “A Hán tẩu bị lở ở tay đúng không? Đây là thảo dược, mang về sắc cho tẩu ấy uống”.

Nói đến vết lở trên tay thê tử, A Hán lại đau lòng cau mày: “Thảo dược cũng vô dụng thôi, uống bao nhiêu loại rồi, vẫn u lên một cục, buổi tối đau nhức vô cùng”.

“Thảo dược này khác, nói cho ngươi biết, đây là thảo dược do cô nương hái đấy.”

A Hán trợn tròn mắt: “Cô nương biết thăm bệnh à?”.

“Muội ấy còn biết nhiều hơn thế. Nói tới khám bệnh, tuy không phải là thần y, nhưng cũng còn hơn Lâu đại phu của các ngươi nhiều.” Dương Phượng đặt túi thuốc vào tay A Hán, nhắc nhở, “A Hán tẩu khỏi bệnh, tự mình biết là được rồi, đừng có đi khắp nơi rêu rao”.

“Ta biết rồi. Cô nương không biết đã nói bao nhiêu lần rồi, không được nói với người khác! A tẩu, ta xin nhận chỗ thảo dược này, nếu hữu hiệu, ta sẽ mang thêm một con gà sang.” A Hán xách thảo dược đi, bỗng dưng quay lại, vỗ đầu kêu lên, “A tẩu xem ta cũng thật hồ đồ. Ta quên mất việc nữ nhân của ta dặn rồi”.

A Hán lấy trong người ra một túi đồ: “Ở đây có hai cái áo, đều do nữ nhân của ta khâu, tuy thô một chút, nhưng chất liệu rất bền, một chiếc cho Khánh nhi của a ca, một chiếc cho hài nhi của cô nương”.

Dương Phượng nhận lấy hai cái áo, cầm chiếc nhỏ ra xem trước, bật cười: “Cái này nhỏ rồi, vai của Trường Tiếu rộng lắm”.

“Bé xíu như thế, vai có thể rộng đến chừng nào chứ?”, A Hán có chút thất vọng, “Thử xem đã, biết đâu vẫn vừa”.

Dương Phượng dẫn A Hán vào trong phòng, đến bên nôi nhỏ, rồi ướm thử chiếc áo lên người hài nhi. Đúng là hơi chật một chút, Dương Phượng nói: “Ngươi xem, vai bị chật này. Nhưng không sao, lát nữa ta sẽ tháo ra, nối thêm một mảnh vải là được”.

Hài nhi đang nằm trong nôi, khuôn mặt non nớt, sống mũi thẳng. Thông thường các hài nhi nằm ngủ vẫn cựa quậy lung tung, nhưng Trường Tiếu nằm rất ngay ngắn, có quy tắc.

A Hán nhìn Trường Tiếu trong nôi, xuýt xoa: “Hài nhi này có khuôn mặt đẹp quá, lớn lên không biết có bao nhiêu nữ nhân chạy theo. Trường Tiếu ngày nào cũng cười, lúc nào cũng cười… Ha ha, cô nương đặt tên hay thật đấy.”

Thấy Trường Tiếu ngủ ngon, A Hán đưa ngón tay cọ cọ trêu nó. Trường Tiếu đang trong giấc ngủ, cảm thấy có người chạm vào, khó chịu ngúc ngoắc cổ, nhưng mắt vẫn nhắm tịt, cánh tay mũm mỉm quơ qua quơ lại, túm chặt lấy ngón tay A Hán.

“Ha ha, cũng có sức thật đấy”, A Hán vui vẻ cười vang, “Sau này chắc chắn sẽ là một nam tử đầu đội trời chân đạp đất”.

“Tất nhiên rồi” Dương Phượng mỉm cười, dịu dàng cúi nhìn hài nhi trong nôi.

Trường Tiếu, Sở Trường Tiếu.

Phụ thân của đứa trẻ này chính là Trấn Bắc Vương nổi danh thiên hạ.

Phong Âmvào ở trong phủ Phò mã, chiếm phòng của Sính Đình, đánh đàn của Sính Đình. Những người trong phủ Phò mã đều biết Phong Âmlà người của Công chúa và Thừa tướng nên đâu dám đối đãi với nàng ta như một nô tỳ.

Ngay cả Hà Hiệp bình thường cũng dịu dàng nhã nhặn, chưa từng sai khiến nàng ta điều gì.

Nếu Diệu Thiên không giá lâm phủ Phò mã, Phong Âmchính là nữ chủ nhân nơi đây.

“Còn gì nữa không?”

“Còn có…”, Phong Âmcau mày suy nghĩ, “Hình như Phò mã thu nhận một người cùng đường, đến từ Quy Lạc”

“Đến từ Quy Lạc? Ai? Tên gì? Lai lịch thế nào?”

Phong Âmlắc đầu, nói: “Con loáng thoáng nghe họ nói qua một lần, chỉ biết người từ Quy Lạc đến, những thứ khác đều không rõ”.

Quý Thường Thanh nhìn Phong Âmvẻ thất vọng, thở dài: “Quyền thế Hà Hiệp càng lớn, ta càng cảm thấy bất an. Đáng tiếc, Công chúa không nghe theo lời khuyên của ta. Phong m, con phải dốc sức giúp nghĩa phụ đấy”.

Phong Âmgật đầu: “Nghĩa phụ yên tâm”.

“Hà Hiệp đối đãi với con như thế nào?”

“Hà Hiệp đối xử với con rất có lễ nghĩa, còn dặn người dưới hầu hạ con thật chu đáo.”

“Hắn có thích nghe con đàn không?”

“Phò mã chưa từng sai con đàn.”

“Sau khi trở về, ngày nào con cũng đàn cho ta. Tài đàn của con rất tốt, đừng nên uổng phí.”

Phong Âmmuốn nói gì lại thôi, bèn ngẩng lên nhìn trộm khuôn mặt sâu xa khó đoán của Quý Thường Thanh, cuối cùng vẫn hỏi một câu: “Tại sao phải như vậy? Mỗi lần con đàn trong phòng, hình như phò mã càng trở nên ít nói”.

Quý Thường Thanh hỏi: “Con có biết mình đang dùng đàn của ai không?”.

“Con biết, đàn này là của Bạch Sính Đình.”

Bạch Sính Đình, vẫn là Bạch Sính Đình.

Người đã đi rồi, sao cái tên vẫn ở lại?

Quý Thường Thanh lạnh nhạt trả lời: “Đó là một cây kim trong tim Hà Hiệp . Con phải thường xuyên chạm vào nó, để hắn mãi mãi ghi nhớ, đây là Vân Thường, chủ nhân của Vân Thường là Công chúa. Công chúa muốn ai sống, người ấy được sống; muốn ai chết, kẻ đó phải biến mất. Đây chính là vương quyền.”

Dưới sự đồng ý của Diệu Thiên, kho tiền lương dành riêng cho việc quân của Vân Thường đã chính thức thành lập, thế lực của Hà Hiệp dần dần được mở rộng.

Đông Lâm vương ốm nặng mà băng hà, Vương hậu tuân theo di lệnh nhiếp chính. Quân Đông Lâm mất đi Trấn Bắc Vương như người mất xương sống, không còn khí phách như trước.

Ẩn mình bao lâu nay, Hà Hiệp tất sẽ không bỏ qua một cơ hội tốt thế này. Đúng mùa cỏ non ngựa béo, lại nhân lúc quân quyền, tiền lương sẵn trong tay, cuối cùng Hà Hiệp cũng thỉnh cầu Diệu Thiên cho xuất binh.

“Như thế… có ổn không?”, Diệu Thiên cau mày, bàn tay đang cầm trái cây lại đặt xuống, nhìn sang Hà Hiệp.

Khuôn mặt tuấn tú tươi cười, Hà Hiệp nhìn Diệu Thiên: “Công chúa cảm thấy chỗ nào không ổn?”

Chưa đợi Diệu Thiên trả lời, Quý Thường Thanh ở bên cạnh đã cười đáp: “Vân Thường ta vẫn luôn coi trọng quốc sách an cư một phương, tự cung tự cấp, không tranh giành với nước khác. Chăm lo được cho bách tính, quốc gia mới có thể hưng thịnh”

Nghe thế, Diệu Thiên lộ vẻ tán đồng.

Hà Hiệp trầm ngâm một lát, bỗng thoải mái cất lời: “Việc lớn như thế này cũng không thể vội vã ra quyết định ngay. Chi bằng trong buổi chầu ngày mai, triệu tập quần thần bàn bạc rồi hãy định đoạt, Công chúa thấy sao?”

Diệu Thiên đang lo lắng Quý Thường Thanh và Hà Hiệp sẽ xung đột trực diện nên vội vã gật đầu, rồi nhìn sang Quý Thường Thanh: “Thừa tướng cảm thấy thế nào?”

Ở trong triều, ông ta có rất nhiều quan văn ủng hộ, Vân Thường trước nay vẫn luôn trọng văn khinh võ, dựa vào đám võ tướng trong tay Hà Hiệp, nói thế nào cũng không đấu lại được với thế lực của Quý Thường Thanh. “Phò mã nói rất đúng, việc lớn thế này, cũng nên đưa ra trước buổi chầu để quần thần bàn bạc, đến lúc đó Công chúa hãy định đoạt.”

Việc chinh chiến tạm thời gác qua một bên, Hà Hiệp và Quý Thường Thanh cùng bàn chuyện quốc sự với Diệu Thiên thêm một lúc, rồi lần lượt cáo từ vì còn có quốc sự cần xử lý.

Diệu Thiên nhìn theo bóng hai người rời đi, lòng thầm thở phào. Trong triều, phe phái của Thừa tường và Phò mã ngấm ngầm đối chọi nhau, như mũi tên đã đặt sẵn trên dây cung, chỉ cần chạm khẽ sẽ bật ra ngay. Cùng là người một nhà, thật khiến người ta khó xử.

Yên lặng một lát, bỗng có tiếng bước chân, nghe rất quen thuộc.

Diệu Thiên ngẩng đầu, ngạc nhiên: “Sao Phò mã quay lại?”.

Hà Hiệp mỉm cười, đến bên Công chúa, ánh mắt nhìn về phía xa xa ngoài cửa sổ, nói: “Ta vốn định quay về phủ Phò mã, nhưng đi được nửa đường chợt nhớ ra một câu, nên quay lại gặp Công chúa”

Diệu Thiên ngạc nhiên hỏi lại: “Phò mã nhớ ra câu gì quan trọng?”

“Trong lòng ta, đó thực sự là một câu rất quan trọng” Khóe môi Hà Hiệp thoáng nét cười, ánh mắt như chìm vào ký ức xa xăm, nói bằng giọng vô cùng cảm thán, “Chỉ tiếc là có thể Công chúa đã quên mất rồi”.

Diệu Thiên bất giác lại gần, dịu dàng hỏi: “Phò mã không nói, Diệu Thiên sao biết được là câu gì?”.

Hà Hiệp im lặng hồi lâu, từ tốn đáp: “Trong đêm tân hôn, ta đã hứa với Công chúa, rồi sẽ có ngày, ta tự tay đội mũ phượng Hoàng hậu tứ quốc lên đầu nàng”.

Trong lòng run rẩy, Diệu Thiên thất thanh: “Phò mã…”.

“Lời nói như vẫn bên tai, sao giờ lại thành ra như thế?”, Hà Hiệp cười chua xót nhìn về phía Diệu Thiên, “Nhưng nếu Công chúa chỉ cần một phò mã canh giữ một phương, ta nhất định cũng sẽ không làm nàng thất vọng”.

“Phò mã…”

Ánh mắt sáng như sao, Hà Hiệp ung dung đáp: “Ta quay lại chỉ để nói câu này, Công chúa là chủ nhân của một nước, những việc lớn của Vân Thường vẫn phải để Công chúa định đoạt”. Nói xong, hắn cung kính hành lễ với Công chúa rồi ung dung bước đi.

Đêm đó, Quý Thường Thanh đã viết liền hai mươi bảy bức thư, giao đến phủ đệ của các quan trong triều khắp thành đô, chuẩn bị đòn liên hoàn phản đối việc Hà Hiệp tùy tiện xuất quân.

Ai ngờ trong buổi chầu sáng hôm sau, Diệu Thiên vừa giá đáo, ngồi vào vương vị, từ nơi cao nhất ấy tuyên bố vương lệnh: “Đông Lâm là kẻ địch lớn của nước ta, nay kẻ địch đã suy yếu, chúng ta phải thừa cơ tấn công, không cho chúng có cơ hội nghỉ ngơi. Phò mã…”.

“Có”, Hà Hiệp cất giọng sang sảng, tiến lên một bước.

“Vì sự bình an sau này của Vân Thường, bản Công chúa lệnh cho Phò mã chinh phạt Đông Lâm. Bắt đầu từ hôm nay, giao hổ phù cho Phò mã thống soái bảy cánh quân của Vân Thường, trao cho Phò mã toàn quyền định đoạt”.

Vốn đã chuẩn bị sẵn một bụng lý do để phản đối chiến sự, không ngờ Diệu Thiên Công chúa vừa xuất hiện đã ban bố vương lệnh, các quan viên bỗng trở nên đờ đẫn, ngơ ngẩn nhìn Quý Thường Thanh.

Sắc mặt tái xanh, Quý Thường Thanh đang định đứng ra bẩm báo, lại nghe Công chúa lạnh lùng tiếp: “Ngày Đông Lâm Trấn Bắc vương dẫn quân xâm phạm Vân Thường ta cách đây chưa lâu, cầu an một phương chưa chắc có thể giữ được bình yên cho bách tính. Quần khanh chớ quên bài học của quá khứ”.

Lời nói chém đinh chặt sắt, tất cả những người có mặt đều hiểu sự quyết tâm của Diệu Thiên. Quý Thường Thanh bỗng thấy lạnh lòng, không thể tiến thêm một bước, đành nghiến răng nhìn Hà Hiệp lĩnh hổ phù, biết rằng việc đã được định đoạt, không thể cứu vãn.

Vừa tan buổi chầu, Hà Hiệp cùng đám võ tướng khao khát lập công liền hưng phấn rời khỏi đại điện. Đám quan văn quần tam tụ ngũ vây lấy Quý Thường Thanh, mặt mũi âu sầu.

“ Thừa tướng, việc này…”

“ Thừa tướng, xuất binh là việc lớn, phải cẩn trọng.”

“Thừa tướng có nên lập tức vào cung, gặp Công chúa điện hạ?”

Quý Thường Thanh lắc đầu, không nói lời nào, mặc kệ cả đám quan văn vây quanh, một mình lên xe ngựa. Trở về phủ thừa tướng, tiểu nhi tử Quý Viêm vội vã chạy ra cổng lớn, rồi theo phụ thân vào phòng, đóng cửa lại, hỏi: “Phụ thân, có thật là Công chúa điện hạ đã ban vương lệnh cho Phò mã dẫn quân chinh phạt Đông Lâm?”

Sắc mặt sa sầm, Quý Thường Thanh gật đầu, nhìn tiểu nhi tử: “ Hà Hiệp đã nhận hổ phù, có thể điều động tất thảy các đội quân của Vân Thường, bao gồm cả cánh quân Vĩnh Tiêu trong tay con và cánh quân Úy Bắc trong tay nhị thúc của con.”

Hai người im lặng, ngoài cửa vang lên tiếng bước chân rầm rập, rõ ràng là một người nóng vội.

Quý Thường Thanh nói: “Chắc chắn là nhị thúc của con đó.”

Chưa nói xong, cửa phòng đã bật mở, một dáng người cao lớn chắn ngay trước cửa. Quý Thường Ninh mặc trụ giáp, lên giọng hỏi: “Đại ca, nghe nói Công chúa điện hạ đã hạ lệnh cho Hà Hiệp dẫn quân chinh phạt Đông Lâm?”.

Quý Thường Thanh gật đầu, sắc mặt nặng nề.

Quý Thường Ninh lại phấn chấn, cười ha hả: “Thế là cũng được đánh Đông Lâm, thực sảng khoái. Đáng tiếc, đệ ra ngoài luyện binh vừa về đến thành đô, bỏ lỡ lúc Công chúa hạ vương lệnh.”

Nhà họ Quý đời đời là trọng thần của Vân Thường. Tính đến nay, Quý Thường Thanh là người chức cao vọng trọng nhất, theo sau là bao quan văn, nhưng quan võ chỉ có nhị đệ Quý Thường Ninh và tiểu nhi tử Quý Viêm. Biết tính cách của nhị đệ, Quý Thường Thanh quay sang lừ mắt, thở dài: “Đánh trận có gì hay? Hà Hiệp vốn đã oán hận nhà họ Quý chúng ta, ở trong triều còn có chút kiêng dè ta, nên không dám làm gì. Ta chỉ sợ có được hổ phù, đến lúc xuất chinh, hắn sẽ điều hai cánh quân của đệ và Quý Viêm ra tiền tuyến…”

“ Đệ chỉ sợ hắn không điều động đệ thôi. Bản tướng quân cũng đã xông pha nơi chiến trường giết giặc, sợ hắn chắc?”

Tuy là võ tướng, nhưng suy nghĩ có phần tường tận hơn nhị thúc, Quý Viêm trầm ngâm một lúc, nói: “Phụ thân sợ Hà Hiệp nắm đại quyền trong tay, nhị thúc ra tiền tuyến sẽ gặp rủi ro. Thế này đi, nếu Hà Hiệp có điều động quân Úy Bắc của nhị thúc ra tiền tuyến, hài nhi cũng sẽ xin điều động cánh quân Vĩnh Tiêu đi theo. Thúc điệt ta cùng là tướng lĩnh, lại nắm trong tay hai cánh quân, Hà Hiệp sẽ chẳng làm gì được chúng ta. Một cánh tay không đỡ nổi bốn nắm đấm, chẳng lẽ hắn dám điều động cánh quân khác bao vây chúng ta?”.

“Không được, thế quá nguy hiểm, ngộ nhỡ…”

Quý Thường Ninh ngáp một cái, xua tay: “Đại ca không phải lo. Đệ thấy nguy hiểm nhất là Hà Hiệp không chịu điều hai cánh quân của chúng ta. Hắn dẫn binh tiêu diệt Đông Lâm, khi trở về công lao một mình hắn hưởng, nhà họ Quý chúng ta phải đứng sang một bên.”

Vốn là người tùy tiện nhưng lời này của Quý Thường Ninh không phải là không có lý.

Quý Thường Thanh nhìn nhi tử, Quý Viêm khẽ gật đầu, rõ ràng cùng một nhận định với nhị thúc. Suy nghĩ hồi lâu, Quý Thường Thanh thở dài nói:”Nếu đã như vậy, chỉ có thể đi bước nào tính bước ấy. Nói thực là, Hà Hiệp dẫn quân xuất chinh, chúng ta không có đại tướng trong quân để thông báo tin tức cũng không được, có điều, nhị đệ…”, Quý Thường Thanh quay lại, nhìn Quý Thường Ninh, giọng nghiêm túc, “Đại ca nói trước một câu, lần xuất chinh này không giống trước kia, khi hành quân, đệ tuyệt đối không được…”

“Không được uống rượu.” Quý Thường Ninh cau hai hàng mày rậm, nghiến răng đáp, “Lần này xuất chinh, đệ sẽ không động đến một giọt rượu nào. Nếu không, đệ sẽ không còn là con cháu nhà họ Quý nữa!”

“Đệ phải nhớ rõ thật kĩ, đừng vì hứng chí nhất thời mà phạm phải tật cũ.”

Quý Thường Ninh vỗ ngực nói: “Đại ca yên tâm, việc nhỏ đệ có thể hồ đồ, nhưng việc lớn thì rất cẩn trọng.”

Quý Thường Thanh dặn dò nhị đệ xong, ánh mắt quay sang tiểu nhi tử. Quý Viêm đứng dậy, chắp tay vái cha một cái, chậm rãi thưa, “Phụ thân yên tâm, hài nhi sẽ cố không ra trận cùng nhị thúc, tránh Hà Hiệp tóm gọn một mẻ.”

Quý Thường Thanh luôn thương đứa con thông minh hoạt bát này của mình, nhưng hắn không chịu làm quan văn mà một mực muốn được dẫn binh. Ông ta dịu dàng nhìn con, thở dài: “Ra đến tiền tuyến, đừng cậy mạnh hiếu thắng, hơi một tí là xin ra trận.”

Văn quan và võ tướng không giống nhau. Các tướng lĩnh đều là những người từng qua binh đao khói lửa chiến trường, họ chỉ kính phục người có bản lĩnh mà không quan tâm tới gia thế tài lực. Đáng hận là võ công Hà Hiệp đều cao hơn người khác, nên chỉ trong thời gian ngắn hắn đã có được sự trung thành của đại bộ phận quân lính. Nếu không, với thế lực thâm căn cố đế của Quý gia ở Vân Thường, đâu cần phải lo lắng đến mức này?

Quý Thường Thanh buồn bã, đứng dậy mở cửa, gió thổi thốc vào mặt. Quý Thường Thanh gọi tên lính đang đứng cuối hàng lang đến, hỏi: “Công chúa có sai người đến triệu kiến ta không?”

Tên lính nhìn trộm chủ nhân một cái, cẩn trọng đáp: “Không có.”

Sắc mặt sa sầm, Quý Thường Thanh đứng đó một lúc, dặn dò: “Ngươi đi đi, nếu có tin từ vương cung, hãy báo ngay với ta.”

Chiến mã đã béo, trống trận sẵn sàng.

Hà Hiệp đã có binh quyền và hổ phù trong tay, cả tiền lương cũng được thoải mái chi dùng mà không chịu sự hạn chế của triều đình.

Công chúa, chẳng lẽ người định mang tương lai của Vân Thường ra để đánh cuộc một lần?

Có được hổ phù, ngày hôm sau Hà Hiệp lập tức điều động đại quân. Quân Đông Lâm tuy không còn Sở Bắc Tiệp, nhưng đại quân Đông Lâm do một tay Sở Bắc Tiệp dìu dắt vẫn thực sự đáng sợ. Hà Hiệp đã tỏ rõ khí phách muốn nhòm ngó thiên hạ, điều động toàn bộ cánh quân của Vân Thường. Cánh quân Úy Bắc của Quý Thường Ninh và Vĩnh Tiêu của Quý Viêm cũng nằm trong số đó.

Chọn được giờ tốt ngày lành, Diệu Thiên công chúa đích thân ra tận cổng thành tiễn biệt phò mã.

Dân chúng Vân Thường ào tới cổng thành nhìn Phò mã mặc giáp trụ màu bạc đứng trên thành lầu, chẳng khác nào một thiên tướng hạ phàm, khiến mọi người trầm trồ ngưỡng mộ.

“Phò mã của chúng ta thật uy phong!”

“Lần này Đông Lâm mới biết Vân Thường không dễ đùa. Họ không còn Trấn Bắc Vương, lại gặp phải phò mã của chúng ta, đảm bảo Đông Lâm sẽ bị xoay như chong chóng.”

“Đánh cho bọn chúng tan tác một trận, để khắp thiên hạ biết rằng Vân Thường ta đâu dễ bị bắt nạt!”

Dường như nỗi oán hận một năm trước bị đại quân Đông Lâm giận giữ xông đến chèn ép, không ngẩng đầu lên nổi, đến tận hôm nay mới được dịp bùng phát.

Ngay cả Diệu Thiên khăng khăng hạ lệnh xuất quân cũng không thể tưởng tượng được rằng dân chúng Vân Thường luôn sống trong yên bình lại ủng hộ việc này như vậy.

Diệu Thiên lấy rượu ngon mời Hà Hiệp, ánh mắt lướt qua đám người đông kín dưới thành lầu, nhẹ giọng: “Dân chúng đều biết Phò mã sẽ khải hoàn.”

Hà Hiệp cười hỏi: “ Thế còn Công chúa?”

Diệu Thiên nhìn Hà Hiệp: “Dù chiến sự thế nào, Phò mã cũng phải bình an trở về.”

Hà Hiệp nhìn Diệu Thiên, ánh mắt lấp lánh như sao sáng trong đêm đen, khiến người ta không dám nhìn vào. Hà Hiệp không trả lời, chỉ nhìn ái thê nở nụ cười tự tin, rồi quay người rút kiếm.

Xoẹt!

Bảo kiếm đã mài giũa bao lần được rút ra khỏi bao, sắc bén dưới vầng mặt trời. Ánh đao lóe sáng khiến đám người đang chăm chú ngẩng đầu nhìn bên dưới chói mắt. Trong mờ ảo, họ chỉ thấy hình bóng Hà Hiệp đứng giữa quầng sáng, ý chí bùng phát, không ai sánh kịp.

“Phò mã vạn tuế!” Sau hồi yên lặng, tiếng hét vang lên không biết từ nơi nào, trong chốc lát đã lan sang tất cả mọi người.

“Phò mã vạn tuế!Phò mã vạn tuế!”

“Phò mã vạn tuế!Phò mã vạn tuế!”

“Phò mã vạn tuế!”



Từ đội quân ngay hàng thẳng lối đến bách tính muôn hình muôn vẻ dưới thành lầu, ai cũng sục sôi nhiệt huyết thét gào.

Hà Hiệp cất tiếng cười vang, những đường nét tuấn tú càng thêm phần ngang ngạnh. Hắn tra kiếm vào vỏ, bước xuống thành lầu, nhảy lên lưng chiến mã, thúc ngựa chạy vài vòng trước ba quân, để tất cả đều được ngắm hình dáng hùng dũng của mình. Hắn bất chợt vung tay, mọi người im lặng.

Hà Hiệp đã không chỉ là một phò mã.

Hà Hiệp đã trở thành hy vọng lớn của Vân Thường, đại diện cho sức mạnh của vương quyền.

Ánh mắt Hà Hiệp chậm rãi quét qua đại quân sẽ theo mình chinh phạt thiên hạ, nở nụ cười vừa ý, thét lên: “ Xuất phát!”.

Một lời vừa dứt, mười vạn đại quân rầm rập lên đường.

Tiếng vó ngựa rền vang trên con đường bụi vàng mù mịt.

Diệu Thiên không rời mắt khỏi bóng dáng hiên ngang của Hà Hiệp đang dần xa, bỗng thấy lòng trống rỗng. Hai tay ôm ngực, nàng lặng người nhìn theo, cho đến khi bóng dáng ấy hoàn toàn biến mất.

Bỏ lại thành đô sau lưng, con đường đất vàng trải dài trước mặt, Hà Hiệp dẫn đầu toàn quân, phía sau là tiếng chân ngựa rầm rập. Đông Chước đuổi theo đến nơi, đi sát bên cạnh, hạ giọng bẩm báo: “Đã sắp xếp mọi thứ theo sự dặn dò của thiếu gia”.

Hà Hiệp không hề dừng ngựa, ánh mắt vẫn nhìn ra xa, khẽ gật đầu.

“Đông Chước, hãy cầm chắc thanh kiếm.” Hà Hiệp quay lại, nhìn đoàn quân khổng lồ phía sau, ánh mắt thoáng nét cười lạnh lẽo, “Lần này phải đổ máu thật rồi.”

Đông Chước cũng ngoái đầu lại theo, nhìn về hai lá cờ lớn với những chữ “Úy Bắc”, “Vĩnh Tiêu” phía sau, bàn tay cầm kiếm càng chặt hơn.

Đông Chước đã quen với thủ đoạn của thiếu gia, không ra tay thì thôi, đã ra tay tất sẽ là một đòn sấm sét, không chừa đường sống.

Đây mới là bản sắc của tiểu Kính An vương.
 

Hoa Tử

Sưu tầm
Tham gia
24/9/19
Bài viết
10,570
Điểm cảm xúc
1,484
Điểm
113
Chương 48:
Khi đàn ngựa béo, đàn dê cũng mập. Năm nay lượng mưa tốt, cỏ trên thảo nguyên lớn nhanh như thổi, ngựa dê bò thả sức mà ăn. Người chăn thả tha hồ lựa chọn một chỗ cho mình.

Xuất thân võ tướng, là người sức lực, lại không sợ vất vả, Tắc Doãn và Ngụy Đình vừa trồng trọt vừa chăn dê thả ngựa. Dương Phượng và Sính Đình dệt vải lúc rảnh rỗi, cuộc sống tự cung tự cấp, rất đỗi thoải mái.

“Trường Tiếu biết đi rồi”.

“Biết đi? Muội thấy chân nó vừa chạm đất đã muốn chạy rồi, cả ngày chạy đi chạy lại, tỷ không biết bắt được phải vất vả thế nào đâu.”

Sính Đình đặt tên cho con thật đúng, quả nhiên Trường Tiếu rất thích cười.

Vừa nhìn Trường Tiếu, Dương Phượng đã thấy vui: “Cả ngày lúc nào cũng vui vẻ, chẳng biết đang cười cái gì?”.

Sính Đình bế Trường Tiếu đang chập chững lên, chỉ vào mũi nhi tử, trách mắng: “Con ấy, đi còn chưa vững đã muốn chạy rồi? Phải ngã bao nhiêu lần nữa mới biết đau đây?”.

Tắc Khánh níu vạt áo Sính Đình, ngẩng lên nói: “Bế”

Dương Phượng vội vàng kéo Khánh nhi sang một bên, cố nhịn cười, lắc đầu bảo: “Con còn nhỏ, không bế Trường Tiếu được, nhỡ ngã thì sao?”, rồi nói với Sính Đình: “Ta thấy, muội để Trường Tiếu nhận Khánh nhi làm huynh đệ đi, Khánh nhi lúc nào cũng dính lấy Trường Tiếu”.

“Việc gì phải nhận? Hai đứa lúc nào cũng dính lấy nhau, người khác nhìn vào đều cho là huynh đệ ruột”.

“Sao giống huynh đệ ruột được? Khánh nhi trông ngốc nghếch thế kia, Trường Tiếu thì bẩm sinh đã có tướng, cứ nhìn đôi mắt và cái mũi nó xem, rõ ràng là một tiểu…”

Ba tiếng “Trấn Bắc vương” nghẹn lại trong cổ họng, Dương Phượng nói đến một nửa bỗng im bặt. Biết mình nói năng không cẩn thận, trong lòng bất an, Dương Phượng ngẩng lên nhìn Sính Đình.

Sính Đình đang đùa với nhi tử, vẻ mặt có chút gượng gạo, một lúc sau mới mỉm cười như mếu: “Đâu chỉ đôi mắt, cái mũi, mà cả ánh nhìn cũng y hệt”. Nàng khẽ chọc cái mũi của con, nói nhỏ, “Giống mẫu thân không tốt ư? Sao cứ phải giống người ấy?”.

Nhi tử, con có biết Trấn Bắc vương là ai không?

Tên của Trấn Bắc vương là Sở Bắc Tiệp.

Trấn Bắc vương có thể múa thanh kiếm rất nặng, có thể chặt đầu tướng địch giữa thiên quân vạn mã. Trấn Bắc vương uy thế thống trị thiên hạ, những kẻ khác đứng trước Trấn Bắc vương lòng đều thấy run rẩy.

Trấn Bắc vương thông minh, quyết đoán, dũng cảm, kiên cường, là danh tướng vô địch trên sa trường.

Chàng có đang ở vương cung Đông Lâm không? Thu qua, đông tới sẽ là tiệc tùng long trọng mừng sinh thần của chàng.

Mồng Sáu, thiếp vẫn nhớ.

Sinh thần của chàng là mồng Sáu.

Đại quân Vân Thường khí thế hừng hực tiến đến biên giới Đông Lâm. Vương tộc Đông Lâm bao nhiêu năm an hưởng thái bình bỗng choàng tỉnh giấc mộng, giờ mới biết mất đi Sở Bắc Tiệp, Đông Lâm phải đứng trước bao mối nguy hiểm như vậy. Đông Lâm vương hậu lập tức trao hổ phù, lệnh Thần Mâu thống soái đại quân Đông Lâm chống lại Hà Hiệp.

Nhưng kẻ cầm quân xâm phạm Đông Lâm là Hà Hiệp, thì dù Đông Lâm vương hậu hay bản thân Thần Mâu đều biết đây là trận chiến vô cùng mệt mỏi.

Đến biên giới Đông Lâm, Hà Hiệp lập tức triệu tập tất cả các đại tướng, giao phó nhiệm vụ đầu tiên.

“Mật thám hồi báo, tướng địch Thần Mâu đã lên đường, quân cứu viện của Đông Lâm sẽ nhanh chóng đến đây. Quân ta muốn ổn định đội hình, trước tiên phải chiếm được thành Nhạn Lâm. Các vị tướng quân, ai sẵn sàng dẫn binh lập công đầu?” Nói xong, Hà Hiệp tươi cười đưa mắt nhìn quần tướng quen thuộc của mình.

Võ tướng trước nay đều dựa vào thành tích chinh chiến để luận công nhận thưởng, ai cũng muốn lập công đầu, mấy vị tướng trẻ tuổi rất nóng lòng được thử sức. Quý Viêm vội đứng lên trước, cất tiếng: “Quý Viêm nguyện dốc sức lấy thành Nhạn Lâm về cho Phò mã”.

Như đoán trước rằng Quý Viêm sẽ lên tiếng, nghe xong Hà Hiệp gật đầu, ôn hòa hỏi: “Quý thiếu tướng quân có biết thành Nhạn Lâm hiện do ai trấn thủ không?”

“Bẩm có, là thuộc hạ của Sở Bắc Tiệp ngày trước, La Thượng”.

“Ừ” Hà Hiệp lại gật đầu, vẻ mặt sâu xa khó dò, “La Thượng là dũng tướng do Sở Bắc Tiệp một tay huấn luyện, vô cùng hùng dũng, trong tay lại có nhiều binh lính, chỉ sợ cánh quân Vĩnh Tiêu của Quý thiếu tướng quân không đủ sức tấn công, chi bằng cử thêm cánh quân Úy Bắc cùng đi, cũng để…”

“Không cần”, Quý Viêm cự tuyệt ngay, giọng cao ngạo, “Mạt tướng đã sai người do thám tình hình địch, cánh quân Vĩnh Tiêu đông hơn quân giữ thành Nhạn Lâm, ta thừa sức công thành. Mỗi một tên La Thượng, đâu phải Sở Bắc Tiệp, hà tất cần đến nhị thúc ra trận?”

Quý Thường Ninh cố ý “hừ” mấy tiếng, rồi thô lỗ xen vào: “Giết gà cần gì dao mổ trâu? Một cái thành bé xíu như thế mà phải cần đến hai cánh quân lớn của Vân Thường ra tay? Như vậy chẳng phải để quân Đông Lâm chê cười Phò mã hay sao?”.

Hà Hiệp nhìn thúc điệt nhà họ kẻ xướng người phụ họa mà không hề tức giận, thậm chí còn chấp thuận: “Được, bản phò mã đợi để mừng công Quý thiếu Tướng quân”.

Quý Viêm giành được cơ hội lập công, bỗng nhớ đến lời dặn của phụ thân, bất giác nảy thêm ý định, chắp tay nói: “Phò mã, mạt tướng dẫn quân công thành, muốn được đáp ứng một yêu cầu nhỏ”.

Hà Hiệp hỏi: “Yêu cầu gì?”

“Ngộ nhỡ có điều gì bất trắc, đại quân phải cử người cứu viện, xin Phò mã cho nhị thúc của mạt tướng được dẫn binh tiếp ứng”

Vốn tuổi trẻ hăng hái, Quý Viêm nói quá thẳng. Như thế rõ ràng hắn đang lo lắng, một chủ soái như Hà Hiệp sẽ hãm hại mình từ phía sau, và cũng không tin tưởng những đại tướng khác.

Quần tướng đã sớm khuất phục trước khí phách bậc danh tướng của Hà Hiệp, nên không hề có cảm tình với Quý gia vẫn tìm mọi cách chèn ép Phò mã. Nghe câu này, người người liếc mắt về phía Quý Viêm vốn chỉ dựa vào gia thế mà một bước lên đến chức thiếu tướng quân.

Sự khoan dung của Hà Hiệp thực sự nằm ngoài sức tưởng tượng của mọi người, họ chỉ nghe Phò mã nói một câu: “Đây là chuyện nhỏ, ta hứa với Quý thiếu tướng quân”.

Dễ dàng có được lời hứa của Hà Hiệp, Quý Viêm cũng cảm thấy lạ. Thảo luận xong về tình hình chiến sự, quần tướng ai về trướng người nấy. Quý Viêm và Quý Thường Ninh cũng trở về trướng của mình. Quý Thường Ninh vừa đi vừa xuýt xoa hiếu kỳ: “Thật không ngờ Hà Hiệp lại dễ nói như vậy. Có điều, cánh quân Vĩnh Tiêu dư sức đối phó với một thành bé như Nhạn Lâm, cần gì đến chi viện? Hắn chẳng qua cũng chỉ cho chúng ta một câu nói nể mặt. Viêm nhi, lần này phải thể hiện cho mọi người thấy, để Quý gia chúng ta nở mày nở mặt”.

“Tất nhiên rồi”. Quý Viêm cười, bỗng trầm tư một lúc, vẻ mặt vô cùng nghiêm túc, “Chỉ lo chẳng may xảy ra chuyện gì, nhị thúc, tiểu điệt dẫn quân công thành, nhị thúc ở hậu phương phải cẩn thận, tuyệt đối không được…”

“Không được uống rượu”, Quý Thường Ninh bất mãn lừ mắt nhìn điệt nhi, “Ta là người không biết chừng mực đến vậy sao? Nhị thúc đã nói với đại ca rồi, không uống rượu, không làm hỏng việc lớn. Điệt nhi cứ yên tâm!”

Hôm sau, trời còn chưa sáng, Quý Viêm đã dẫn theo một cánh quân Vĩnh Tiêu tiến về thành Nhạn Lâm.

Dù sao cũng là cốt nhục một nhà, Quý Thường Ninh không yên tâm, bèn đích thân tiễn điệt nhi ra khỏi quân doanh, hạ giọng dặn dò: “La Thượng được Sở Bắc Tiệp huấn luyện, nếu gặp điều gì bất thường, nhớ đừng cậy khỏe, hãy lập tức cử người về quân doanh báo tin cho nhị thúc”.

Quý Viêm gật đầu, khuôn mặt trẻ tuổi thoáng nét cười tự tin: “Nếu chiến thắng, tiểu điệt cũng sẽ lập tức sai người về báo với nhị thúc”.

Quý Thường Ninh cười ha ha: “Đi sớm về sớm, nhị thúc đợi tin tốt của điệt nhi.”

Trước lúc bình minh, sắc trời còn tối hơn đêm đen. Quý Thường Ninh nhìn theo bóng dáng Quý Viêm rời đi, rồi quay lại đại bản doanh.

Trong doanh trại, tướng lĩnh của mấy cánh quân còn lại vẫn đang nghỉ ngơi, đội lính gác tuần tiễu bên ngoài.

Quý Thường Ninh nghĩ bụng, hôm nay cũng chẳng có việc gì lớn, chỉ đợi tin thành Nhạn Lâm nên hắn dứt khoát quyết định quay về ngủ bù. Trên đường quay về, đi qua đám binh lính thân cận của mình, bước vào trướng soái, thuận tay vứt bộ giáp trụ nặng trịch lên giường, ngáp dài một cái.

Bất chợt, một cánh tay từ sau vung ra, bịt chặt miệng Quý Thường Ninh.

“Ưm ưm…”

Quý Thường Ninh trợn tròn hai mắt. Là bậc lão tướng trên sa trường, hắn cũng kịp đưa hai tay xuống hông, nhưng chưa kịp sờ vào thanh kiếm, đã nghe “bốp” một tiếng sau gáy, bị kẻ bịt mặt đánh mạnh một cái. Người đánh trộm sức to lực khỏe, Quý Thường Ninh giãy giụa một hồi, rồi đổ vật xuống đất, bất tỉnh.

Kẻ đứng sau lưng mình vận áo đen, khăn che mặt đen, chỉ để hở một đôi mắt sáng lấp lánh trong trướng tối om. Kẻ đánh trộm nhìn Quý Thường Ninh ngã dưới đất, ánh mắt cao ngạo khinh thường, cúi xuống kiểm tra hơi thở của Quý Thường Ninh, rồi lôi dưới gầm giường ra mấy bình rượu lâu năm, cho thêm gói thuốc mê vào đó, lắc bình, để thuốc mê tan đều.

“Bình rượu này kính đại ca của ngươi, Thừa tướng đại nhân của Vân Thường”. Kẻ đánh trộm nói một câu, âm sắc sang sảng đúng chủ soái Hà Hiệp, thân phận cao nhất trong đại bản doanh này.

Hà Hiệp đỡ Quý Thường Ninh ngã dưới đất dậy, đưa bình rượu lại gần, rồi cạy miệng hắn đổ vào. Vốn đã hận nhà họ Quý đến tận xương tủy, Hà Hiệp chẳng hề nương tay, đổ liền một lúc gần chục bình rượu, rồi đặt hắn trên giường, lặng lẽ rời đi.

“Cứu viện!”

Giữa trưa, ngoài doanh trại, một binh sĩ phi ngựa lao đến, mình mặc quân phục Vân Thường, người bê bết máu, vừa tới trước cổng đại bản doanh liền gân cổ gào lớn: “Cứu viện! Quý Viêm thiếu tướng quân cần cứu viện! Mau… mau báo…”.

Những người canh giữ trại quân đều nhận ra đây là thị vệ tâm phúc của Quý Viêm nên vô cùng ngạc nhiên, vội vã mở cổng doanh trại cho vào.

Quần tướng biết tin, nhanh chóng đến trướng soái.

“Cứu viện! Cứu viện!” Thị vệ lảo đảo chạy bổ vào báo tin, đến cửa đã quỳ sụp xuống, vừa thở vừa nói, “Phò mã, quân ta bị đại quân Đông Lâm trong thành Nhạn Lâm phục kích, tình thế nguy kịch, xin Phò mã lập tức cử đại quân cứu viện!”

Hà Hiệp đã sớm đoán được sự việc nhưng vẫn tỏ ra vô cùng kinh ngạc, vội tiến lên trước hai bước, đứng trước thị vệ kia thét hỏi: “Sao lại như thế?”.

“Mai phục! Quý Viêm thiếu tướng dẫn quân áp sát thành Nhạn Lâm, hai cánh quân Đông Lâm bất chợt xông tới, quân ta bị tấn công từ hai phía.”

“Mai phục? Quân của người nào?”

“Tướng dẫn quân mai phục là Sở Mạc Nhiên.”

“Hiện giờ tình hình chiến sự như thế nào?”

“Quân Đông Lâm có được địa lợi, lại đông hơn ta. Quân ta không kịp đề phòng, thương vong trầm trọng, Quý thiếu tướng dẫn theo các huynh đệ còn lại mở đường máu lùi vào sơn cốc Hoành Luyện, tử thủ ở cửa cốc. Thiếu tướng quân lệnh cho thuộc hạ vượt vòng vây về đây báo tin cho Phò mã, quân địch đang tấn công, các huynh đệ sẽ chẳng chống chọi được bao lâu nữa, xin Phò mã lập tức cử quân cứu viện!”

Trận tấn công Đông Lâm đầu tiên đã trúng mai phục, sắc mặt các tướng lĩnh Vân Thường vô cùng u ám.

“Lập tức cử cứu viện!”, Hà Hiệp hết sức quyết đoán, nhìn quanh một vòng, “Sao không thấy Quý Thường Ninh tướng quân đến?”

Ngay từ đầu, không ít tướng lĩnh chú ý đến sự vắng mặt của Quý Thường Ninh, thấy Hà Hiệp hỏi vậy, bèn gọi tên tiểu tốt bên ngoài vào, hỏi: “Sao không thấy Quý Thường Ninh tướng quân đến?”.

Tiểu tốt đó vừa từ chỗ Quý Thường Ninh trở về, vội đáp: “Quý tướng quân say rồi, gọi thế nào cũng không tỉnh”.

Quý Thường Ninh hám rượu nổi tiếng trong quân. Nghe tiểu tốt kia nói vậy, quần tướng đều cau mày.

“Chúng ta đi xem.”

Hà Hiệp dẫn theo các tướng lĩnh đến quân trướng của Quý Thường Ninh. Vừa vén rèm cửa, hơi rượu nồng nặc đã xông thẳng vào mũi quần tướng.

Trong trướng, bình rượu la liệt, tất cả đều còn mỗi vỏ.

Cả người Quý Thường Ninh nồng nặc mùi rượu, tứ chi thẳng đơ, nằm trên giường ngáy như sấm.

Cận vệ của hắn đang toát mồ hôi hột, lấy nước lau mặt, liên tục gọi: “Tướng quân, mau tỉnh dậy! Quý Viêm thiếu tướng quân xin cầu viện!”

Hà Hiệp hạ giọng: “Ta đã hứa với Quý Viêm thiếu tướng quân, nếu thiếu tướng quân xin cầu viện, chỉ cử Quý Thường Ninh tướng quân đi cứu. Giờ phải làm thế nào?” Đoạn Hà Hiệp quay sang cận vệ của Quý Thường Ninh ra lệnh, “Nhanh, lấy nước lạnh đổ vào mặt, mau nghĩ cách gọi Quý tướng quân dậy!”

Tên cận vệ cũng biết chiến sự khẩn cấp, nên vội vã bưng nước đến, hất ướt hết mặt Quý Thường Ninh. Nhưng, Quý Thường Ninh đã uống bao nhiêu rượu trộn thuốc mê, làm sao tỉnh được? Tiếng ngáy của hắn vẫn y như cũ.

Lính liều mạng quay về báo tin vốn là quân tâm phúc bên cạnh Quý Viêm, nghĩ đến Thiếu tướng quân nhà mình đang cận kề ranh giới sống chết, càng hận Quý Thường Ninh chẳng ra sao, rồi quỳ sụp xuống chân Hà Hiệp, khẩn cầu như sắp khóc: “Phò mã, không thể đợi thêm được nữa, xin Phò mã hãy cử một vị tướng quân khác đi”.

Khuôn mặt tuấn tú của Hà Hiệp cũng có chút lo lắng, nhưng vẫn lắc đầu: “Một lời bậc quân tử đáng giá ngàn vàng, huống hồ ta là chủ soái. Quý Viêm thiếu tướng quân tuổi trẻ tài cao, trước khi ra quân đã thỉnh cầu nếu có biến cố, chỉ muốn Quý Thường Ninh tướng quân đi cứu viện, chắc chắn vì có lý do. Ta đã đồng ý thì không thể làm khác được.”

Tên lính cuống đến nỗi sắp rơi nước mắt, đến bên giường, quên mất cả thân phận thấp kém của mình mà cho Quý Thường Ninh mấy cái bạt tai, hét lớn: “Tỉnh! Tỉnh! Ông Trời ơi, thế này chẳng phải cố tình lấy mạng thiếu tướng quân ư?”

Quý Thường Ninh bị mấy cái bạt tai, vẫn ngủ, nhưng tiếng ngáy đã ngừng.

Quần tướng vốn đã chẳng có cảm tình gì với kẻ lỗ mãng, chỉ dựa vào gia thế mà leo lên chức vị đại tướng quân như Quý Thường Ninh, giờ thấy bộ dạng hắn thế này thì càng thêm coi thường.

Thấy đã hết cách vơi Quý Thường Ninh, tên lính kia vô cùng tuyệt vọng, lại quỳ xuống chân Hà Hiệp, dập đầu bôm bốp: “Phò mã, Phò mã, tính mạng của Thiếu tướng quân đang ở trong tay Phò mã, xin Phò mã hãy cử quân đi cứu viện!”, sau đó tiếp tục quay sang các tướng khác: “Tướng quân, các vị tướng quân, cầu xin các vị! Nơi miệng cốc, quân Đông Lâm bắn tên như mưa, những người trong đó đều là con dân Vân Thường, cầu xin các vị hãy mở lòng từ bi, xin Phò mã nể tình…”

Về đến đây, toàn thân người này bê bết máu và bụi đất, giờ do dập đầu quá mạnh, máu tươi lại chảy ròng ròng, nhìn vào cũng thấy lạnh người.

Quần tướng đều là những đại hán trên sa trường, tuy coi thường Quý Thường Ninh, nhưng bất giác lại cảm thấy quý trọng tên lính trước mặt.

Thấy các tướng lĩnh nhìn về phía mình, biết ngày sau còn phải dựa vào họ mới có được thiên hạ, Hà Hiệp không thể quá tuyệt tình, đi ngược lại đám đông. Chẳng đợi có người lên tiếng, Hà Hiệp đã hạ giọng: “Vị tướng quân nào muốn đi cứu viện?”

Mọi người nhìn nhau, một lúc sau, Đại tướng quân Kỳ Điền của cánh quân Vĩnh Thái đứng ra: “Mạt tướng xin đi”.

“Được, Kỳ tướng quân hãy lập tức dẫn binh xuất phát, chi viện cho Quý Viêm thiếu tướng quân”.

Cứu người như cứu hỏa, vì Quý Thường Ninh say rượu không tỉnh nên đã tốn không ít thời gian, Kỳ Điền nhận lệnh, lập tức lên đường.

Khi đại quân Vĩnh Thái đi khỏi tầm mắt mọi người khoảng nửa canh giờ, một binh lính đến trước mặt trướng soái, bẩm báo: “Bẩm Phò mã, Quý Thường Ninh tướng quân đã tỉnh.”

Đang bàn việc quân cùng mấy vị đại tướng Vân Thường, nghe vậy Hà Hiệp lạnh lùng hừ một tiếng: “Trói hắn lên đây cho ta!”

Mấy cận vệ lập tức đến trướng quân của Quý Thường Ninh, tóm ngay lấy người vừa tỉnh dậy chưa kịp nhìn rõ mọi thứ kia, hung hăng trói hắn lại. Trước đó, họ đã được Hà Hiệp dặn dò, để tránh Quý Thường Ninh la lối cãi tội mà dao động lòng quân, nên phải bịt miệng hắn lại.

Đám thuộc hạ của Quý Thường Ninh đều biết đã xảy ra việc gì, biết Phò mã đã nổi cơn thịnh nộ nên không dám ngăn, cũng chẳng có mặt mũi nào mà can ngăn, chỉ còn cách mở mắt trừng trừng nhìn tướng quân mình bị trói lôi đi.

Buổi chiều, cánh quân đi cứu viện Kỳ Điền đã trở về.

Kỳ Điền mang theo thi thể đầy thương tích của Quý Viêm, báo với Hà Hiệp: “Mạt tướng đến chậm một nước, tới nơi, quân Đông Lâm đã rút hết, toàn bộ cánh quân bị tiêu diệt, Quý thiếu tướng quân chết ngay tại trận”.

Trên thi thể của Quý Viêm có cắm mười mấy mũi tên, khiến người ta chẳng dám nhìn vào. Dù không tận mắt chứng kiến trận chiến này, nhưng những người ở đó cũng có thể tưởng tượng chiến sự ác liệt chừng nào.

“Nếu nghe lời ta, hai cánh quân Vĩnh Tiêu và Úy Bắc cùng công thành, chắc kết cục không đến nỗi thế này…” Hà Hiệp đau lòng im lặng một lúc, rồi nổi cơn thịnh nộ, “Trận giao chiến thứ nhất, một trong bảy cánh quân của ta đã bị tiêu diệt, bảo ta phải ăn nói thế nào với Công chúa? Người đâu, đưa Quý Thường Ninh vào đây!”

Quý Thường Ninh bị trói giật cánh khuỷu quàng ra phía sau, vừa tỉnh dậy đã bị trói tay bịt miệng, hắn hoàn toàn không hiểu đã xảy ra chuyện gì nên mang theo một bụng tức giận, dự định gặp Hà Hiệp sẽ đòi lại công bằng. Ai ngờ vừa vào trướng soái, bỗng thấy như mây đen dày đặc, sắc mặt mọi người đều khó coi hơn bất cứ lúc nào. Trong không khí thoảng mùi tanh của máu, thi thể nằm trên đất mặc tướng phục Vân Thường đã nhuộm trong màu máu.

Nhìn thật kỹ, Quý Thường Ninh bỗng thấy trong đầu “ầm” một tiếng, hỏng rồi.

“Quý Thường Ninh, ngươi thân là đại tướng Vân Thường, nắm trong tay cả cánh quân Úy Bắc, lại dám coi thường quân lệnh, uống rượu say trong trướng, làm lỡ thời cơ cứu viện, khiến toàn bộ cánh quân Vĩnh Tiêu tử trận, ngươi còn lời nào để nói!”

Hà Hiệp ra hiệu, đám binh lính vội rút mảnh giẻ nhét trong miệng Quý Thường Ninh ra. Quý Thường Ninh nhìn điệt nhi cách đây không lâu còn hoạt bát vui vẻ mà giờ đã nhuộm màu máu, bỗng thấy trời đất như quay cuồng, sấm sét chằng chịt đánh xuống đầu, cứ giương mắt, lắp bắp: “Sao… sao lại…”.

Hà Hiệp thét hỏi: “Quý Thường Ninh, ngươi có nhận tội không?”.

Cả người run lẩy bẩy, Quý Thường Ninh ngẩng phắt đầu: “Không, ta không uống rượu, ta không uống rượu! Ta bị oan!”.

Các tướng lĩnh đã tận mắt chứng kiến Quý Thường Ninh sặc mùi rượu nằm thẳng trên giường ngáy o o, nay lại thấy hắn chối ngay tại chỗ thì cảm thấy xấu hổ thay, ánh mắt vô cùng khinh bỉ.

“Ngươi còn dám chối? Tội lớn như thế này, không giết ngươi, ta chẳng còn mặt mũi nào mà gặp Công chúa. Người đâu! Chém hắn cho ta!”

Thấy tình thế này, biết là không hay, Quý Thường Ninh càng hét: “Ta bị oan, ta không uống rượu! Họ Quý ta cả đời là trọng thần của Vân Thường, lập bao công lao hiển hách cho Vân Thường! Hà Hiệp, ngươi không thể giết ta! Ngươi phải cùng ta đến trước mặt Công chúa để đối chất!”

“Ta có hổ phù trong tay, thống lĩnh bảy quân, lại không thể giết ngươi?” Hà Hiệp cười gằn, hét lên: “Người đâu, lôi ra ngoài!”.

Binh lính đã có sự chuẩn bị từ trước, nhanh chóng bước tới lôi Quý Thường Ninh ra ngoài, chẳng mấy chốc, lại mang cái đầu với đôi mắt trợn trừng vào.

Có tướng lĩnh hỏi, “Trận chiến Nhạn Lâm đã thua ngay từ đầu, bảy cánh quân Vân Thường giờ đã mất một, xin hỏi tiếp sau đây, Phò mã định đối phó với quân Đông Lâm thế nào?”

“Chúng ta không đối phó với quân Đông Lâm nữa.”

“Ý Phò mã là…”

“Chúng ta về thành đô”.

Quần tướng đều vô cùng ngạc nhiên, chỉ có Đông Chước đã biết trước kế hoạch của Hà Hiệp, vẫn buông tay đứng bên cạnh, vẻ mặt hoàn toàn bình thường.

“Bảy cánh quân mất một không phải vì quân Đông Lâm mạnh, mà bởi vì đảng phái trong triều Vân Thường đấu đá lẫn nhau. Không diệt trừ được nội loạn, sao có thể đem quân đi đánh nước khác?”, Hà Hiệp nói, “Một nước Đông Lâm chẳng đáng trong mắt Hà Hiệp ta, các vị tướng quân đây đều là người có chí lớn, liệu các vị có nguyện cùng ta chỉnh đốn nội chính trước, rồi dẫn binh xuất chinh, tung hoành thiên hạ?”.

Quần tướng đều là người thông minh, bỗng chốc hiểu ra dự định của Hà Hiệp . thời gian làm Phò mã của Hà Hiệp không ngắn, bị nhà họ Quý tìm mọi cách gây khó dễ, tất cả họ đều nhìn rất rõ. Nay Hà Hiệp đã mạnh, muốn dẹp Quý gia là chuyện đương nhiên.

Trướng soái hoàn toàn yên lặng.

Hà Hiệp cười bảo: “Không sao, các vị muốn nói gì thì cứ nói ra”

Một kế của Hà Hiệp đủ để loại trừ thế lực nhà họ Quý trong quân, thanh thế gia tăng, thần sắc lạnh lùng kiêu ngạo, ánh mắt quét tới đâu, người người lo sợ tới đó.

“Chảy máu, chảy mồ hôi không quan trọng, tướng lĩnh chúng ta chỉ lo buồn đến mốc người thôi. Miễn sao không bị nhốt trong thành ăn không ngồi rồi, tất cả những việc khác đều do Phò mã quyết định”, Kỳ Điền cân nhắc một lúc, rồi cắn răng lên tiếng trước.

Tâm tư của Kỳ Điền không hẹn mà giống những tướng lĩnh khác.

Hà Hiệp muốn thanh trừ nhà họ Quý thì có liên quan gì tới họ? Các tướng quân sợ nhất là không được đánh trận, không được ngửi mùi tanh của máu, không có cơ hội thi triển năng lực, bị quan văn chèn ép mọi bề. Chính sách an phận của lão thần Quý Thường Thanh không hợp lòng quân, nếu đổi sang Phò mã danh tướng lẫy lừng chủ quản mọi việc, đối với họ, thực là một việc tốt.

Quần tướng trao nhau một ánh nhìn, ra quyết định, rồi quay về phía Hà Hiệp, chắp tay đồng thanh: “Chúng tướng nghe theo Phò mã!”

“Được”, Hà Hiệp thận trọng gật đầu, “Vậy mời các vị tướng quân nhổ trại, theo ta về thành đô”.

Thành Thả Nhu, Vân Thường.

Mùa liễu rủ.

Nhưng dường như không gian bên ngoài chẳng có chút tác động đến phòng giam này, từ đông sang hạ, nó vẫn chỉ bốn bức tường và một cánh cửa sổ.

Âm thanh mở khóa vang lên, tiếng người bước vào, Phiên Lộc xuất hiện.

“Sao không ăn?”

“Không muốn ăn”. Những món ăn trên bàn chưa hề được động đến, Túy Cúc ngồi bên giường, cúi đầu xếp y phục trên gối.

Dừng lại một lúc, Phiên Lộc khẽ bảo: “Không ăn thì thôi”.

Thấy hắn dễ dàng bỏ qua cho mình, Túy Cúc càng kinh ngạc. Nam nhân này coi nàng như một con lợn, ngày ngày nhốt trong chuồng, liên tục cho ăn, nếu nàng không ăn, hắn sẽ gây ra bao việc bắt nàng phải ăn cho hết. Sao hôm nay hắn lại đổi tính thế?

“Này…”

Phiên Lộc sững lại: “Sao thế?”

Túy Cúc bước tới, thăm dò nam nhân kia: “Xảy ra chuyện gì vậy?”

“Không liên quan đến ngươi.” Đây là câu Túy Cúc vẫn hay dùng để chọc giận Phiên Lộc, hôm nay lại bị hắn mang ra phản kích.

Túy Cúc ngẩn người, rồi hừ một tiếng: “Không hỏi thì không hỏi, có gì to tát sao?” Nàng quay về giường, vừa xếp y phục vừa nói, “Này, dù ngươi không chịu thả ta ra, thì cũng phải cho ta viết một bức thư cho sư phụ chứ. Coi như ta cầu xin ngươi, đừng quên ta từng cứu mạng ngươi”.

Bỗng nghe thấy tiếng khóa, Túy Cúc ngẩng đầu, Phiên Lộc không còn ở đó, cửa đã bị khóa. Nàng tức giận nghiến răng: “Tên xấu xa, rồi sẽ có ngày ngươi bị sói ăn thịt”.

Xếp xong y phục, Túy Cúc cất vào tủ.

Cũng chẳng thể nói là phong giam này không đổi. Màn rèm chăn gối thường xuyên được thay mới, đều do Phiên Lộc chọn màu, nhưng nhãn quang của hắn quả không tồi. Mấy tháng trước, Phiên Lộc chuyển đến một tủ y phục, tiếp theo là bàn trang điểm, hộp trang sức, phấn son,… dần dần mọi thứ đã đầy đủ, rèm cửa màu xanh, chăn tơ gối lụa, cộng thêm rèm rủ, chuông gió, gương đồng. Nếu không vì cửa sổ song sắt, cửa có khóa ngoài, rõ ràng đây chẳng khác nào khuê phòng của một tiểu thư.

Nam nhân này đến rồi đi, lần nào cũng để lại một thứ, nhưng chưa bao giờ đưa tận tay cho Túy Cúc, mà chỉ trêu chọc nàng vài câu, khiến nàng tức điên lên, đến khi bóng dáng hắn khuất sau cánh cửa, Túy Cúc mới phát hiện trên bàn có thêm cây trâm bạc hay một bức tượng nhỏ xinh.

Nàng bị nhốt bao lâu như thế, chán muốn chết, ngày nào cũng chỉ mong được gặp người, dù chỉ là tên Phiên Lộc xấu xa đó. Nhưng hai hôm nay, Phiên Lộc ra vào vội vã, đặt cơm canh xuống rồi đi ngay, không biết xảy ra achuyeenj gì, Túy Cúc không tránh khỏi cảm giác bất an.

Tiếng mở khóa lại vang lên.

Cửa đã mở.

Túy Cúc ngẩng lên.

Phiên Lộc bước vào, ngồi xuống ghế, không nói gì mà chỉ nhìn Túy Cúc.

Túy Cúc ngạc nhiên, hỏi: “Sao ngươi quay lại?”.

Như đang có tâm sự, Phiên Lộc ủ ê một lúc, mới lên tiếng: “Phò mã dẫn quân chinh phục Đông Lâm, nửa đường lại quay về thành đô. Nghe nói quân đội đã có chứng cứ xác thực về việc nhà họ Quý mưu đồ làm phản. Đại quân đã bao vây thành đô, lục tìm nghịch đảng khắp nơi. Thân tín của Quý gia, không một ai chạy thoát”.

Túy Cúc sững người. Nói thực là, nghe đến việc này, nàng không hề cảm thấy vui mừng, mãi một lúc sau mới đáp khẽ: “Việc này do các đảng phái ở thành đô đấu đá lẫn nhau, quan viên tiểu thành nơi quân ải có liên quan gì? Con người ngươi chỉ biết bắt nạt một nữ tử như ta, đến khi gặp việc lớn, sao lại thành lo bò trắng răng như vậy?”

“Thủ đoạn của Phò mã thực khiến người ta lạnh lòng”. Phiên Lộc không còn vẻ dọa dẫm thường ngày, im lặng giây lát, hạ giọng, “Hà Hiệp nói tuy Thừa tướng mưu phản, nhưng dù gì cũng là lão thần của Vân Thường nên không muốn dùng đến binh đao, chỉ hạ lệnh nhốt Thừa tướng trong phòng, cho nước, không cho ăn. Chịu đựng bốn ngày bốn đêm, sau khi điểm chỉ nhận tội mưu phản, Thừa tướng đã uống thuốc độc mà chết”

“A!”, Túy Cúc kêu lên kinh hãi, hỏi, “Thế Công chúa đâu? Sao Công chúa lại để Hà Hiệp làm vậy?”

“Trong tay Hà Hiệp có đại quân, các tướng lĩnh chỉ nghe lời hắn. Công chúa đã không còn cách nào khống chế cục diện. huống hồ, sao Công chúa lại không ủng hộ phu quân mình? Không lẽ Công chúa muốn Thừa tướng giết Hà Hiệp ?”

Thành đô Vân Thường chắc giờ đang chìm trong lo âu.

Vốn đã quen với bộ dạng đáng ghét của Phiên Lộc, hôm nay bỗng thấy hắn ngồi thẫn thờ trước mặt, Túy Cúc lại thấy không quen, bèn nói mấy câu không đầu không đuôi: “Ngươi lo gì chứ? Ngươi là mật thám lợi hại nhất, giỏi giang nhất Vân Thường. Nếu Hà Hiệp hạ lệnh bắt ngươi, ngươi trốn vào sơn mạch Tùng Sâm là xong, ở đó, cả khỉ cũng chẳng tóm được ngươi”.

Không ngờ Phiên Lộc lại hỏi: “Vậy ngươi làm thế nào?”

“Ta?”, Túy Cúc kinh ngạc, cúi xuống, nói, “May quá, ngươi thả ta ra, ta về Đông Lâm tìm sư phụ”.

“Không thả”, Phiên Lộc lập tức cự tuyệt.

Túy Cúc lo lắng, ngẩng lên, giận dữ hỏi: “Tại sao?”.

“Đường xa, một nữ nhân như ngươi, ta không yên tâm.”

“Ngươi… ngươi…”

“Ngươi làm sao?” Phiên Lộc đứng dậy bước ra cửa, ném lại một câu sau lưng, “Hôm nay tha cho ngươi, lần sau còn không ăn cơm, ta lột y phục ngươi, đánh ba trăm trượng. Một lời của thủ thành này nói ra, tứ mã nan truy. Ngươi nhớ kỹ cho ta”.

Lách cách mấy tiếng, cửa đã khóa lại, chỉ còn một mình Túy Cúc đang nghiến răng nghiến lợi: “Tên xấu xa, tên xấu xa! Ngươi bị Hà Hiệp giết đi cho rồi! Phiên Lộc, ngươi là đồ lưu manh!”.
 

Hoa Tử

Sưu tầm
Tham gia
24/9/19
Bài viết
10,570
Điểm cảm xúc
1,484
Điểm
113
Chương 49:
Trận chiến chống lại thế lực già nua trong triều đình nhanh chóng giành được thắng lợi. Mấy chục vạn quân bao vây thành đô, trong lúc luống cuống và hốt hoảng, Diệu Thiên còn bị phát hiện ra đã có mang, điều này giúp Hà Hiệp một việc lớn. Ngay lập tức, Công chúa điện hạ được “mời” vào thâm cung tĩnh dưỡng, không được hỏi tới những chuyện quốc sự phiền hà.

Chỉ trong mấy ngày, bản cung khai nhận tội mưu phản có điểm chỉ của Quý Thường Thanh đã được đưa đến trước mặt Diệu Thiên, đồng thời được dán ở cổng thành, cùng với bao cái đầu phản nghịch nhà họ Quý bị phơi ra cho toàn dân biết rõ.

“Thật không ngờ Thừa tướng… lại…”

“Quý gia là trọng thần bao đời của Vân Thường, sao lại thành nghịch tặc?”

“Lòng người khó đoán, khó đoán lắm…”

Chứng cứ liên tục xuất hiện, ngày nào cũng có người vạch trần tội ác của nhà họ Quý. Ngay bản thân Quý Thường Thanh cũng thừa nhận tội mưu phản, thì đám dân đen không có cơ hội tìm hiểu nội tình sao phân biệt nổi ai đúng ai sai?

Huống hồ lần chinh phạt Đông Lâm này ra quân bất lợi chính là hai vị tướng bất tài nhà họ Quý, một người cậy khỏe, một kẻ ham rượu, khiến cả một đội quân, tính mạng của hàng ngàn vạn con dân Vân Thường phải mất trong tay chúng.

Dường như nhà nào cũng có nam đinh trong quân, nên ai chẳng căm hận những tướng quân coi nhẹ sự sống cái chết của binh lính.

Điều khiến người ta vui mừng là, trong lúc quốc nạn, Phò mã đã thể hiện tài năng chính trị quân sự siêu việt của mình, nhanh chóng nhổ cỏ tận rễ bọn loạn đảng, chỉ trong thời gian ngắn đã kịp bổ nhiệm các viên quan mới. Chưa đến một tháng, thành đô đã tái diễn cảnh tượng từng khiến dân chúng Vân Thường sôi sục.

Cờ gấm rợp trời, chục vạn quân xuất phát.

Phò mã oai phong lẫm liệt dẫn đại quân xuất chinh.

“Thiên hạ rộng lớn này, không có chỗ nào ngăn nổi bước chân của quân sĩ Vân Thường ta!” Trên thành lâu, Hà Hiệp vung kiếm.

Lúc này, bên cạnh Hà Hiệp đã không còn bóng dáng đoan trang của Công chúa nữa. Nàng đang ở nơi thâm cung thai nghén đại vương tương lai của Vân Thường.

Binh lính hò reo vang dội, nhảy nhót không ngừng.

Họ hò reo vì Hà Hiệp, sục sôi vì Hà Hiệp .

Họ có một anh hùng.

Quy Lạc từng có Hà Hiệp, Đông Lâm từng có Sở Bắc Tiệp, Bắc Mạc ít nhất còn có Tắc Doãn. Nhưng giờ Sở Bắc Tiệp đã không rõ tung tích, Tắc Doãn đã quy ẩn.

Hà Hiệp lại thuộc về Vân Thường.

Có Hà Hiệp, đại quân Vân Thường sẽ tới được bất cứ nơi nào.

Càng khiến người ta không thể tưởng tượng là, đại quân rời khỏi thành đô Vân Thường khoảng năm mươi dặm, Hà Hiệp hạ lệnh cho toàn quân dựng trại, rồi triệu tập các tướng lĩnh đến trướng soái.

Quân tướng vừa có mặt, Hà Hiệp đã nói: “Toàn quân chuyển hướng, tập hợp ở biên giới Bắc Mạc”.

Các tướng lĩnh đã quen với lối suy nghĩ độc đáo của Hà Hiệp nên không hoàn toàn ngạc nhiên, chỉ hỏi: “ Không đi Đông Lâm thì chúng ta đi đâu?”.

“Từ giờ, tòan quân chia nhỏ, ngày nghỉ đêm đi, tập hợp tại biên cương Bắc Mạc.”

Các tướng lĩnh đã có vẻ hiểu, họ sắp ra tay với Bắc Mạc.

Chiếm Bắc Mạc trước cũng phải, tuy Đông Lâm không còn Sở Bắc Tiệp, nhưng quân tướng đều do một tay Sở Bắc Tiệp tôi rèn cũng chẳng dễ đối phó. Quân Bắc Mạc thực lực trước nay không mạnh, lại không có Tắc Doãn. Đánh trận cũng như ăn quả hồng, phải chọn quả mềm để ăn trước.

Kỳ Điền có kinh nghiệm chinh chiến phong phú, đắn đo một lát, liền nghĩ ngay đến vấn đề không thể bỏ qua, nên cung kính hỏi Hà Hiệp: “Phò mã muốn đánh Bắc Mạc, điều này đương nhiên đúng. Nhưng, Đông Lâm là kẻ địch lớn của chúng ta, Quy Lạc cũng luôn nhòm ngó ta. Nếu chúng ta đánh Bắc Mạc, há chẳng phải ba mặt đều là quân địch?”.

“Chẳng ai muốn bị tấn công từ ba phía, vì thế Bắc Mạc sẽ không bao giờ nghĩ đến việc chúng ta đường đột tấn công họ”, Hà Hiệp lạnh nhạt tiếp, “ Các vị tướng quân yên tâm, dám khai đao với Bắc Mạc, ta tất phải có cách thần tốc phá tan đại quân Bắc Mạc. Đông Lâm giờ là do vương hậu nắm quyền, nữ nhân luôn do dự với việc đánh trận, nên đến khi bà ta quyết định cử đại quân tiến đánh chúng ta, quân Bắc Mạc đã tan tác rồi.

Nhưng các tướng lĩnh đâu có được lá gan như Hà Hiệp: “Sau khi đánh tan Bắc Mạc, lại phải đối phó với Đông Lâm, quân ta còn đâu sức lực mà tiếp tục đối phó với Quy Lạc?”.

“Đây chính là điểm hứng thú nhất.” Hà Hiệp bỗng thêm phần khí phách, cao giọng gọi: “Chiếu Hành vào đây!”.

Ngay tức khắc rèm cửa được vén lên, một võ tướng gầy còm bước vào, chắp tay với các tướng lĩnh, rồi điềm tĩnh đứng bên Hà Hiệp .

Hà Hiệp giới thiệu: “ Phi Chiếu Hành từng là đệ nhất tâm phúc dưới trướng đại tướng quân Nhạc Chấn của Quy Lạc. Đây chính là nhân vật mấu chốt ngăn cản Quy Lạc vương xuất quân làm hỏng chuyện lớn của chúng ta”. Cánh tay vừa giơ lên, Phi Chiếu Hành đã gật đầu.

Phi Chiếu Hành hạ giọng, nói: “ Quy Lạc vương hậu từng lệnh cho tại hạ đưa mật báo tới Phò mã, rằng Quy Lạc vương đang phục kích đội xe của Phò mã. Chỉ cần tại hạ viết một bức thư, sai người gửi đến Quy Lạc vương tố cáo Quy Lạc vương hậu và Nhạc gia, ngay lập tức nội bộ Quy Lạc sẽ xảy ra đại loạn, không còn hơi sức chú ý đến chiến sự giữa Vân Thường và Bắc Mạc nữa”.

Trầm Cảnh của cánh quân Úy Mặc lên tiếng: “ Thế lực Nhạc gia của vương hậu ở Quy Lạc đang lên như diều gặp gió, sao phải mật báo cho Phò mã? Vương hậu sao lại phản bội Quy Lạc vương?”.

Phi Chiếu Hành đơn giản đáp: “Để ngăn Bạch Sính Đình bước vào hậu cung của Quy Lạc vương Hà Túc”.

Quần tướng đã hiểu ra.

Nghe đến tên Sính Đình, ánh mắt Hà Hiệp bất chợt tối sầm. Hà Hiệp im lặng, hồi lâu mới lấy lại tinh thần: “Mật tín của Phi Chiếu Hành đang trên đường đến Quy Lạc. Hiện giờ Bắc Mạc vương không hề nghi ngờ gì chúng ta, quân Đông Lâm thì vừa bị ta uy hiếp, nên sẽ không dám liều lĩnh xuất quân. Các vị, đây chính là thời cơ tốt nhất để giành lấy Bắc Mạc”.

Sự tính toán cặn kẽ của Hà Hiệp khiến các tướng sĩ ban đầu chưa tin tưởng bỗng trở nên hưng phấn, ai nấy hồ hởi, giọng sang sảng: “Mạt tướng xin chờ lệnh Phò mã!”.

Cứ như thế, đại quân Vân Thường đang trên đường chinh phạt Đông Lâm bỗng mai danh ẩn tích, không rõ phương hướng.

“Hu hu… hu hu…”

Sính Đình vội vã chạy vào phòng, thấy Dương Phượng đang đặt Tắc Khánh lên gối mình, hai tay phát bôm bốp vào cái mông trần của hài tử.

“Dương Phượng, tỷ đang làm gì thế?”

Rõ ràng Dương Phượng vẫn chưa hết giận, chỉ tay xuống đất nói: “Muội nhìn xem, nó lôi cái gì dưới gầm giường ra, còn rủ cả Trường Tiếu nghịch cùng, chẳng may Trường Tiếu bị thương thì làm thế nào?”.

Sính Đình nhìn xuống, thấy dưới đất có thanh bảo kiếm, cũng vô cùng ngạc nhiên: “Hai đứa trẻ này thật nghịch ngợm, Trường Tiếu, ta cũng phải đánh con mới được”. Sính Đình lôi luôn Trường Tiếu đang đứng cười bên cạnh ra mắng mỏ.

Trường Tiếu vẫn chưa biết nói, thân hình mũm mĩm, hai mắt trong veo rạng rỡ, thấy mẫu thân quay sang liền toét miệng cười.

“Dương Phượng, tỷ đừng đánh Tắc Khánh nữa, theo muội thì chắc chắn là trò của Trường Tiếu rồi. Tỷ đừng nghĩ nó nhỏ, giờ nó đã biết đi, biết chạy rồi, tỷ không biết nó nghịch đến thế nào nữa đâu”.

Cũng giống như Trường Tiếu, Tắc Khánh không hay khóc, cái mông nhỏ bị mẫu thân phát một trận bỗng chốc không thấy đau, cứ đòi xuống đất. Đánh hài nhi vài cái, trong lòng cũng thấy xót nên Dương Phượng lại thả nó xuống.

“Ha ha…Tiếu Tiếu… Tiếu Tiếu…” Tắc Khánh chân vừa chạm đất đã vụt khỏi lòng mẫu thân, chạy tới bên Trường Tiếu đang cười vui vẻ, tóm lấy tiểu đệ lôi ra ngoài: “ Trúc… trúc…”. Tắc Khánh chạy nhanh hơn Trường Tiếu rất nhiều, khiến Trường Tiếu cứ phải chập chững theo sau.

“Tắc Khánh, không được lắc cây trúc phơi y phục.” Dương Phượng chạy theo ra cổng, giáo huấn, “ Mau thả tay ra, cẩn thận Trường Tiếu ngã đấy”.

“Dương Phượng, mặc kệ chúng.” Sính Đình đi theo, đặt tay lên vai Dương Phượng, cười nói, “Nhìn tỷ lo lắng kìa. Tỷ không cần lo cho Trường Tiếu, cứ để chúng ngã, hài tử có ngã mới lớn được”. Nói rồi, Sính Đình quay lại, nhặt thanh kiếm trên đất.

Đúng là một thanh kiếm tốt, lưỡi kiếm mỏng như lớp băng, chỉ cần khẽ chạm vào, cảm giác lưỡi kiếm lạnh lẽo dưới ánh mặt trời như chạm đến tận xương cốt. Sính Đình lật thanh bảo kiếm, thấy bên trên khắc hai chữ “Thần uy” thì vô cùng ngạc nhiên.

Một lát sau, nàng mới buồn rầu hỏi: “Bảo kiếm Thần uy nổi danh thiên hạ sao lại ở nơi này? Thật đáng tiếc…”.

Dương Phượng quay lại, thấy Sính Đình thẫn thờ cầm thanh kiếm, bỗng giật mình. Hôm đó, Sở Bắc Tiệp lên núi tìm thê tử, biết tin Sính Đình không còn nữa thì thất thần bỏ đi. Dương Phượng chưa từng nói với Sính Đình việc này, cũng giấu cây bảo kiếm Thần uy của Sở Bắc Tiệp bỏ lại tận dưới gầm giường, ai ngờ thần xui quỷ khiến thế nào lại bị hai tiểu quỷ kia lôi ra.

Suy nghĩ giây lát, Dương Phượng hạ giọng: “Đây là cây kiếm Sở Bắc Tiệp bỏ lại. Sở Bắc Tiệp từng đến chỗ ẩn cư cũ của ta để tìm muội”.

Thấy Sính Đình im lặng chẳng nói gì, Dương Phượng không kìm được lại hỏi: “Sính Đình, muội vẫn nhớ nam nhân đó ư?”

Sính Đình không đáp, đứng trong phòng hồi lâu, rồi chậm rãi tra kiếm vào vỏ, treo lên, sau đó quay ra gọi: “Trường Tiếu, lại đây, ta hát cho con nghe một khúc rất hay”. Nụ cười thương yêu nở trên khuôn mặt nàng.

“Mẫu thân… mẫu thân…”, Trường Tiếu cười, nhào vào lòng Sính Đình.

“Khánh nhi cũng nghe!” Tắc Khánh chạy sau Trường Tiếu, kịp thời vượt lên trước chiếm chỗ ngồi cạnh Sính Đình.

Ánh mặt trời soi rọi, trước gian nhà nhỏ, mặt ao lăn tăn gợn sóng.

Nàng khẽ cất tiếng hát.

“Có loạn thế mới có anh hùng, có anh hùng mới có giai nhân. Hỗn loạn làm sao, hỗn loạn làm sao…”

Trường Tiếu, trong lòng mẫu thân có một câu chuyện.

Một câu chuyện có anh hùng và cả giai nhân.

Họ đã từng thề với ánh trăng, cả đời không phụ bạc.

Không bao giờ, không bao giờ phụ bạc…

Giọng ca ai oán bỗng trở nên dịu dàng, sưởi ấm lòng người. Hai đứa trẻ yên lặng ngồi trên bục cửa cạnh Sính Đình, tuy không hiểu ý tứ sâu xa trong đó nhưng cũng ngây ngất lắng nghe.

Sính Đình hát chưa hết một khúc, Tắc Doãn đã xuất hiện trước rào giậu. Hắn vội vã bước vào, sắc mặt nghiêm trọng.

Nhìn bộ dạng Tắc Doãn, Sính Đình dừng ngay khúc hát, đứng dậy hỏi: “Sao thế?”

Nét mặt sa sầm, Tắc Doãn khẽ lắc đầu. Ngụy Đình theo sát phía sau, sắc mặt vô cùng khó coi. Hai người không nói một lời nào, lặng lẽ bước vào phòng.

Tắc Doãn bảo vú nuôi đưa hai đưa trẻ đi chỗ khác, rồi khép cửa lại, hạ giọng: “ Đại vương băng hà rồi”.

Dương Phượng kinh ngạc: “ Đại vương trước nay khỏe mạnh, sao bỗng thành ra như thế?”.

“Là Hà Hiệp”, Tắc Doãn đau đớn đáp lời, “Hà Hiệp gửi thư đến mời Đại vương ra biên giới gặp mặt, cùng thưởng rượu. Vân Thường và Bắc Mạc đã từng là đồng minh nên Đại Vương không hề hoài nghi mà nhận lời ngay…”.

“Tên ác tặc Hà Hiệp đã hạ độc vào rượu, rồi cử sẵn mai phục bên ngoài nên cả Đại vương và các thần thân cận tùy tùng người đều bỏ mạng tại chỗ. Hiện tin tức đã lan rộng khắp Bắc Mạc, khiến dân chúng bàng hoàng. “Nghĩ đến tình nghĩa với Bắc Mạc vương, hai mắt của hổ tướng Tắc Doãn đỏ hoe.

Vẻ mặt không thể nào tin, Dương Phượng hỏi: “Hà Hiệp điên rồi sao? Đại vương bị hại, đại quân bảo vệ Bắc Mạc quanh đó nhất định sẽ hợp lực tấn công”.

“Chắc chắn đại quân Bắc Mạc sẽ không dám ra tay.” Phía sau vang lên giọng nói trong trẻo quyết đoán.

Ba người lập tức quay đầu, thấy Sính Đình đứng bên bàn, vẻ mặt nặng trĩu suy tư: “Hà Hiệp dám hạ độc giết Bắc Mạc vương, chắc chắn hắn đã có đủ binh lực ở biên cương để đối phó với sự tấn công của đại quân Bắc Mạc”.

Tắc Doãn nghiêm nghị: “Nếu Vân Thường dám điều động toàn quân tấn công Bắc Mạc, chắc chắn Đông Lâm và Quy Lạc sẽ không chịu ngồi nhìn. Hà Hiệp dám cả gan đứng trước nguy cơ bị tấn công từ ba phía?”.

“Thượng tướng quân đã bao giờ đấu với Hà Hiệp chưa?”. Sính Đình mím môi, không biết đang oán hận hay ca thán, nói rất khẽ, “Trên chiến trường, Hà hiệp chưa bao giờ làm việc gì không chắc chắn”.

“Có nên lập tức cử người thông báo cho Nhược Hàn phải cẩn thận?”

“…”

“Không kịp rồi…”

Một bức thư tố cáo của Phi Chiếu Hành đã khiến mâu thuẫn giữa Quy Lạc vương và Nhạc gia càng thêm gay gắt.

Vương hậu không thể nói rõ việc của Bạch Sính Đình, nên Quy Lạc vương đã tìm lý do đuổi ái thê vào lãnh cung.

Nhưng, thế lực của Nhạc gia ở Quy Lạc đã ăn sâu bén rễ, không dễ diệt trừ. Quốc trượng Nhạc Địch đã sớm có sự chuẩn bị, nên trước khi Đại vương ra tay, đã kịp bước một nước cờ thông minh nhất trong đời, chính là thăng cho nhi tử Nhạc Chấn thành đại tướng quân. Trước lúc Đại vương hỏi đến, ông ta đã điều Nhạc Chấn rời khỏi thành đô đi luyện binh bên ngoài.

Cứ như thế, Quy Lạc vương ở trong, Đại tướng quân Nhạc Chấn nắm giữ đội quân hùng hậu bên ngoài, hai phe đối đầu, thiếu chút nữa là đầu rơi máu chảy.

Khi tin tức Bắc Mạc vương bị hại truyền đến nơi, Quy Lạc đang chìm trong bóng đêm của nội loạn, chẳng ai còn thời gian quan tâm đến việc bành trướng của Hà Hiệp.

Đối với hành động của Hà Hiệp, quốc gia phải lo lắng nhất trong tứ quốc chính là Đông Lâm.

“Quần khanh nói gì đi.”

Trong vương cung Đông Lâm, Đông Lâm vương hậu ngồi trên ngai vàng lo lắng nhìn khắp lượt những đại thần đang im lặng: “Các khanh đã xem qua quân báo, chẳng lẽ đều không có lời nào? Thần đại tướng quân, khanh nói xem”.

Thần Mâu thở dài, miễn cưỡng đứng ra: “Nương nương, thần vẫn chỉ một câu, nếu Hà Hiệp đối phó với đại quân Bắc Mạc, thì ngay sau đó sẽ đến lượt chúng ta. Nhiệm vụ trước mắt là lập tức cử đại quân hợp sức với quân Bắc Mạc tấn công Vân Thường”.

“Tuyệt đối không được.” Giọng nói già nua của Sở Tại Nhiên vang lên.

Hai vương tử của Vương hậu đã chết dưới tay Bắc Mạc vương, trong lòng Vương hậu cũng không có ý định giúp Bắc Mạc qua cơn hoạn nạn. Nghe Sở Tại Nhiên cất giọng phản đối, Vương hậu vội tiếp lời: “Thừa tướng có đề nghị gì, mau nói ra”.

Sở Tại Nhiên run rẩy đứng ra, ngẩng lên bẩm báo: “Nương nương, Đông Lâm ta giờ không giống trước kia. Nếu có Trấn Bắc vương thì việc gì phải sợ Hà Hiệp? Nhưng nay, Trấn Bắc Vương đã bặt vô âm tín… Thần cho rằng, có thể không động đến Hà Hiệp thì đừng động đến.”

Thần Mâu vội nói: “Hà Hiệp dã tâm hừng hực, chúng ta không động đến hắn, hắn cũng sẽ tìm đến chúng ta. Vương gia không còn, chúng ta ở vào thế yếu nên càng phải chủ động xuất kích, phối hợp với Bắc Mạc nghênh chiến Hà Hiệp. Như thế mới có thể bảo vệ chính mình”.

“Chiến tranh đáng sợ, lúc này chỉ có thể tự bảo vệ mình.”

“Bây giờ xuất kích mới là tự bảo vệ mình.”

“Có gì từ từ nói. Thừa tướng…”

“Sau đại chiến với quân Bắc Mạc, Vân Thường cũng cần có thời gian nghỉ ngơi lấy sức. Chúng ta có thể nhân thời gian ấy để luyện binh…”

“Thần đại tướng quân đừng kích động, chúng ta phải bàn bạc kỹ lưỡng…”

“Còn bàn bạc gì nữa? Đến khi Hà Hiệp chiến thắng Bắc Mạc, Đông Lâm sẽ trở thành mục tiêu tiếp theo của hắn. E rằng trong lúc chúng ta còn đang luyện binh, quân địch đã đánh đến cửa rồi!”

“Đừng tranh luận nữa!” Thấy hai bên bàn cãi không dứt, ánh mắt Vương hậu chuyển từ đông sang tây, rồi lại từ tây sang đông, cuối cùng đành đập tay vào chỗ vịn, hét lên. Tiếng tranh luận giữa các đại thần bỗng chốc im bặt.

“Chiến tranh là việc đại sự, không thể vội vàng quyết định”, Đông Lâm vương hậu day day huyệt thái dương, thở dài, “Quần khanh hãy suy nghĩ cho kỹ việc này, ngày mai chúng ta tiếp tục bàn bạc”.

Thần Mâu cau hai hàng mày rậm, tiến lên một bước: “Vương hậu nương nương, không thể tiếp tục do dự. Thượng tướng quân Bắc Mạc Nhược Hàn đã tập hợp đại quân nghênh chiến, binh pháp của Hà Hiệp vô cùng lợi hại, chỉ e chưa đến mấy ngày, hắn sẽ đánh tan đại quân Bắc Mạc”.

Đông Lâm vương hậu giận dữ: “Đã nói cần bàn bạc cho kỹ, Thần đại tướng quân đừng nên nhiều lời”. Dứt câu, Vương hậu đứng dậy, vội vã vào sau rèm.

Phản ứng của Đông Lâm vương hậu hoàn toàn nằm trong dự liệu của Hà Hiệp. Không có sự uy hiếp của Quy Lạc và Đông Lâm, Hà Hiệp mới có thể dốc hết binh lực đối phó với Bắc Mạc.

Những chuyện xảy ra tiếp theo chấn động tứ quốc.

Dưới chân sơn mạch Tùng Sâm, ở một địa danh có tên Chu Tình, những tốp lính riêng lẻ của Vân Thường bỗng như từ dưới đất trồi lên, tập hợp thành đội quân hùng mạnh, đón đầu đội quân Bắc Mạc đang đau buồn vì cái chết của Đại vương mà hung hăng tiến đến. Dưới sự chỉ huy và trù tính kỹ càng của Hà Hiệp, trận quyết chiến quy mô lớn nhất từ trước tới nay này đã trở thành một trận tàn sát.

Đại quân Vân Thường hoàn toàn đánh bại đội ngũ của Nhược Hàn, quân Bắc Mạc tử thương vô khối, chỉ khoảng một phần mười số quân sống sót tháo chạy khắp nơi. Đó cũng chính là lực lượng quân sự quan trọng, lớn mạnh nhất Bắc Mạc.

Trận chiến Chu Tình một lần nữa chứng minh tài quân sự kiệt xuất của Hà Hiệp.

Sau đó, thế lực của Hà Hiệp lớn mạnh với tốc độ vượt qua sức tưởng tượng của mọi người. Đánh tan được đội quân của Nhược Hàn, Hà Hiệp tiếp tục tiêu diệt mấy đạo quân chi viện còn lại của Bắc Mạc với tốc độ nhanh như chớp, rồi quay sang mục tiêu Đông Lâm đã bỏ mất thời cơ.

Tướng sĩ Vân Thường chưa bao giờ nghĩ đánh chiếm một quốc gia lại dễ dàng đến thế, men say chiến thắng như loại rượu ngon mê hoặc tâm trí họ, ý chí chiến đấu càng sục sôi.

Mấy chục vạn thanh đao sắc đã chém đứt các cửa khẩu của Đông Lâm. Trong biển máu lênh láng, lá cờ của Hà Hiệp vẫn luôn bay phần phật nơi tiền phương.

Trong mắt những tướng sĩ đang theo sau, Hà Hiệp là một chiến thần.

Mùi máu tanh nồng lan khắp đất trời, bóng đen chiến tranh lấy Vân Thường làm trung tâm, tràn sang bốn phương tám hướng, đại quân Vân Thường từng bước, từng bước mở rộng lãnh thổ.

Quân Bắc Mạc đại bại, vương tộc Bắc Mạc chết không còn ai.

Quân Đông Lâm đại bại, Đại tướng quân Thần Mâu chết ngay tại chiến trường. Sở Mạc Nhiên dẫn theo tàn binh hộ vệ Đông Lâm vương hậu rời khỏi vương cung. Lão Thừa tướng Sở Tại Nhiên tóc bạc da mồi không muốn chịu nỗi nhục bị bắt sống, trước khi quân Vân Thường phá cửa xông vào, đã uống thuốc độc tự vẫn.

Chẳng ai ngờ rằng, chỉ trong thời gian ngắn, Hà Hiệp đã làm được tất cả những việc này.

“Quân Vân Thường đến rồi! Quân Vân Thường đến rồi!”

“Chạy thôi! Mau chạy…”

“Phụ thân ơi, người ở đâu?”

Hai bên con đường đất vàng, xương trắng chất đầy tàn binh thất bại, bách tính mất nhà mất quê trải dài thành dòng người bất tận, ai cũng muốn giành phần đi trước, dìu già đỡ trẻ mà chạy trốn.

Nhưng, liệu ai có thể nhanh hơn chiến mã của Hà Hiệp ?
 

Hoa Tử

Sưu tầm
Tham gia
24/9/19
Bài viết
10,570
Điểm cảm xúc
1,484
Điểm
113
Chương 50:
Khói lửa chiến tranh len lỏi vào cả những thôn làng xa xôi hẻo lánh của Bắc Mạc.

Nỗi đau mất nước còn chưa vơi, đám mây đen thống trị của Hà Hiệp đã lại bao trùm lên đầu bách tính vô tội.

“Tuyên đọc, Vân Thường Phò mã hạ lệnh, con dân trong thôn tính theo đầu người, mỗi khẩu giao nộp ba đảm[1] lương thực, ngày kia phải nộp đủ, không được chậm trễ.”

[1] Đảm là đơn vị đo lường Trung Quốc, 1 đảm tương đương với 50 ký.

Đám dân trong thôn bị tập trung lại bỗng lao xao.

“Mỗi khẩu ba đảm lương thực, chúng ta sao có thể qua được mùa đông?”

“Thật không cho người ta sống nữa!”

“Lão lý trưởng…” Có người túm lấy lý trưởng vừa đọc xong mệnh lệnh, giọng khẩn cầu, “Ông cũng biết cảnh nhà tôi, thê tử ốm đau, lương thực đã bán lấy tiền thuốc rồi. Đừng nói là ba đảm, đến một đảm nhà tôi cũng chẳng còn”.

Lý trưởng mặt mũi khổ sở, nói khẽ: “Ta có cách nào đâu, mấy đứa trẻ trong nhà cũng bị tính theo đầu người, ta đang rầu lòng vì chuyện lương thực đây. Lão La, không nộp là không được đâu, trưng thu lương thực để làm lương bổng và phụ cấp trong quân, chậm một chút là mất mạng ngay. Đám lính Vân Thường đó giết người không chớp mắt”.

Lão La mở mắt trân trân, khẽ gạt hàng lệ, giọng buồn bã: “Lúc Đại vương chúng ta còn, chưa một lần người bắt chúng ta giao nộp đến ba đảm lương thực. Hừ, Hà Hiệp, dựa vào cái gì mà hắn chiếm Bắc Mạc của chúng ta?”.

“Lão còn dám nhắc đến Đại vương sao, không muốn sống nữa ư?” Lý trưởng lo lắng nhìn quanh, rồi giật mạnh vạt áo rách của lão La, giọng cảnh cáo, “Lão cẩn thận đấy, ngay cả Nhược Hàn đại tướng quân còn không biết đã trốn tận nơi nào, lão hung hăng gì chứ?”

Đang nói, bên ngoài bỗng vang lên tiếng vó ngựa, khiến ai nấy mặt tái xanh. Họ ngẩng lên nhìn ra ngoài thôn thì thấy một đội binh mã Vân Thường xông tới.

“Sao thế nhỉ?”

“Có chuyện gì thế?”

Đám lính Vân Thường đến cổng thôn thì dừng lại. Dân chúng ngẩng đầu lên nhìn, những thanh đao sáng loáng dưới ánh mặt trời càng thêm chói mắt.

“Trong các ngươi, ai là quản sự?” Kẻ dẫn đầu trông có vẻ là đội trưởng, ngồi trên lưng ngựa, ngạo mạn hỏi.

Lý trưởng bị mọi người đẩy đến trước, run rẩy đáp: “Đại soái, tiểu nhân là Lý trưởng ở đây, không biết đại soái có gì dặn dò?”.

“Ngươi là lý trưởng?” Tên đội trưởng nhìn một lượt khắp người lý trưởng, “Ngươi đã biết lệnh trưng thu lương thực của Phò mã chưa?”.

“Vâng, vâng, tiểu nhân đã đọc rồi.”

“Có kẻ nào gây chuyện không?”

“Không có, không có, ở đây toàn là lương dân.”

“Hừ”, tên đội trưởng dài giọng “Lũ người Bắc Mạc các ngươi vốn đã bị đưa đi làm nô bộc cho quân Vân Thường, may nhờ Phò mã nhân từ, giữ các ngươi lại để cung ứng quân lương. Hãy ngoan ngoãn mà trồng cấy chăn thả cho lão tử, còn nữa, Phò mã đã ban bố lệnh phân giới, từ hôm nay trở đi, thôn nào phát hiện ra người ngoài phải báo ngay lập tức, nếu phát hiện thôn nào giấu giếm, không chịu báo, toàn thôn sẽ bị xử theo tội mưu phản. Các ngươi nghe rõ chưa?”.

Lý trưởng sợ hãi run lẩy bẩy, liên tục gật đầu, cố cười mà đáp: “Vâng, vâng, nghe rõ cả rồi. Ở đây toàn là lương dân”.

Tên đội trưởng thấy lý trưởng sợ đến run rẩy thì cười khinh bỉ, “Lương dân? Thôn Giao Khẩu phía trước năm mươi dặm cũng nói toàn lương dân, mà lại dám giúp cho mấy tên tàn binh Bắc Mạc, toàn thôn một trăm mười bảy khẩu đã bị chúng ta giết sạch. Hừ, theo ta thì phải treo lên mấy cái đầu còn đang chảy máu ròng ròng, các ngươi mới biết thế nào là lương dân thực sự. Các huynh đệ, chúng ta đi!”.

Tiếng hét vừa dứt, tiếng vó ngựa lại vang lên. Đám binh mã giương oai giễu võ khắp thôn, bụi tung mù mịt.

Đợi chúng đi khuất, dân trong thôn mới dám ngẩng đầu, nhìn sang bên cạnh, hạ giọng: “Một trăm mười bẩy khẩu… Mấy thanh đao đó hình như vẫn còn dính máu”.

Lão La bỗng quỳ sụp xuống, bịt miệng khóc.

“Lão La, lão khóc cái gì?”

“Đừng hỏi nữa”, người bên cạnh thở dài, “Muội muội của lão La được gả đến thôn Giao Khẩu”.

Mọi người lòng đều trĩu nặng.

Nước mất rồi.

Bách tính bị ức hiếp trăm bề, sinh tử không còn do mình quyết định.

A Hán tức giận bước nhanh qua bờ giậu, ngồi phịch xuống ghế đá trong vườn, nói với Tắc Doãn: “A ca, không được rồi, ta không chịu nổi nữa. Ta phải đi lính, đi đánh tên tặc tử Hà Hiệp! Thời nào không biết nữa? Lương thực? Lấy đâu ra nhiều lương thực thế? Nuôi quân, vậy còn nữ nhân và hài nhi của ta thì sao?”.

“A Hán, đừng rước họa vào thân”. Dương Phượng từ trong phòng bước ra, nhìn A Hán vẻ trách móc, khẽ nói, “Hà Hiệp đã hạ lệnh, tố cáo một kẻ phản nghịch được thưởng năm lượng vàng. Ngươi la lối như vậy, cẩn thận kẻo bị người ta tố cáo”.

“Lương thực thì bị cướp, nhà bị chúng lục soát, cả con gà vừa lớn cũng không còn, ta sợ cái gì chứ?”, A Hán tiếp tục, “Ta cũng chẳng sợ chết”.

“Còn thê tử, hài nhi của ngươi?”

“Ta…” Cổ họng bỗng nghẹn lại, cả người A Hán như không còn sức lực. “Muốn sống thì có tác dụng gì? Chúng căn bản đâu để người ta sống…”, giọng nói có phần yếu đi.

Trong vườn yên ắng khiến người ta nghẹt thở. Tắc Doãn không nói lời nào, lặng lẽ lau cán cuốc, tựa như đó là thanh bảo kiếm trên người Thượng tướng quân.

Ngụy Đình bước đến, hạ giọng: “Tiếp tục thế này, chúng ta cũng bị chèn ép đến chết, chi bằng…”

“Chi bằng thế nào? Quân Bắc Mạc đã bị đánh bại, ai có thể đánh lại đại quân của Hà Hiệp?”

“Không lẽ chúng ta phải làm nô lệ mất nước, để hậu bối của chúng ta phải chịu ức hiếp như thế này?” âm thanh gằn từng tiếng phát ra từ cổ họng Ngụy Đình, “Với danh tiếng của Thượng tướng quân, lúc này xuống núi, chắc chắn sẽ hiệu triệu được vô số người”.

Câu nói của Ngụy Đình như gọi lại hào tâm tráng chí khi xưa, hai mắt Tắc Doãn sáng lên, cả người run rẩy, khuôn mặt căng cứng, nhưng thần thái ấy chỉ thoáng qua như ánh sao băng, rồi dần dần u ám.

Giả dụ xuống núi, đúng là sẽ có bao con dân Bắc Mạc nhiệt huyết đi theo Tắc Doãn. Song, lực lượng tập hợp ấy dù có tăng gấp bội cũng không phải là đối thủ của Hà Hiệp .

Người mà Tắc Doãn phải đối mặt không phải ai khác mà chính là Hà Hiệp.

Tắc Doãn đã biết đến sự lợi hại của Sở Bắc Tiệp, còn với Hà Hiệp danh tiếng tương đương Sở Bắc Tiệp, Tắc Doãn cũng không nắm được bao nhiêu phần thắng.

Huống hồ binh lực hai bên cách nhau quá xa.

Tàn sát, điều mà Hà Hiệp mang đến cho con dân Bắc Mạc không cam chịu áp bức chỉ có tàn sát. Đó là trận tàn sát còn thê thảm hơn cả đại chiến Chu Tình.

“Thượng tướng quân…”

“Đừng nói nữa”, Tắc Doãn buông cây cuốc, “Mang theo nước và phần cơm Dương Phượng đã chuẩn bị, chúng ta xuống ruộng thôi”.

Tin tức từ phương xa như đám mây đen kéo đến, bao trùm lên làng quê hẻo lánh, lưu truyền trong những tiếng thì thầm vụng trộm và muôn vàn ánh mắt hốt hoảng sợ hãi.

Huynh đệ duy nhất của đại vương, Trung Đàm vương gia của Bắc Mạc hiệu triệu tàn binh, phản kháng Hà Hiệp. Chưa đầy mười ngày, Trung Đàm đã tập hợp được hơn ba vạn người. Nhưng nghĩa quân đã bị đại tướng dưới trướng Hà Hiệp đánh tan ở ngoại thành cách thành đô Bắc Mạc mười dặm, Trung Đàm vương gia bị bắt sống, xử cực hình lăng trì.

Còn quân Đông Lâm liên tục thất bại đã tập hợp tất cả binh lực, thêm một lần quyết chiến với đại quân Vân Thường, định nhân lúc ý chí còn hăng hái mà phản kháng Hà Hiệp . Nhưng Hà Hiệp chỉ cần dùng tiểu kế, sai binh mai phục ở sơn cốc, khiến quân Đông Lâm tổn thất nặng nề, thây chết đầy đống, máu nhuộm đỏ sông Phục Sạp.

Quy Lạc cũng vô cùng nguy cấp. Cuối cùng đại quân Vân Thường cũng tiến đến thành đô Quy Lạc. Quy Lạc vương muốn đưa thư hàng. Đại tướng quân Nhạc Chấn vẫn đang đối đầu với Quy Lạc vương thấy tình thế không ổn, lập tức dẫn quân tránh mũi nhọn tấn công của đại quân Vân Thường, trốn về phía biên giới Quy Lạc.

Hết tin tức này đến tin tức khác đều diễn tả sự thắng lợi của Hà Hiệp cũng như sự huy hoàng của đoàn quân Vân Thường. Dưới bao vầng hào quang là chúng dân mất nước bị vắt kiệt đến chỉ còn thoi thóp để tiếp tế cho đội quân.

Đầu tiên là lương thực, sau đó mỗi hộ phải nộp lên ba cân sắt để cung cấp nguyên liệu đúc rèn binh khí cho binh lính.

Chợ phiên tiêu điều, thiết điếm đóng chặt cửa.

Dân chúng buồn rầu lo âu.

“Ba cân sắt, chẳng lẽ phải nộp cả nồi nấu cơm trong nhà? Tôi không nộp!”

“Không nộp, ngươi lại muốn như lão La à?”

Lão La là hộ khốn cùng nhất trong thôn, nên không nộp đủ lương thực. Giờ cái đầu khô gầy của lão đang treo lủng lẳng ngoài cổng thôn. Ngày hôm sau, thê tử bệnh tật của lão cũng treo cổ tự vẫn trên xà nhà.

Tất cả im lặng, đều cảm thấy ngạt thở.

“Nộp nồi, lấy gì mà nấu cơm?”

“Thế ngươi muốn giữ cái mạng hay cái nồi?”

“Nộp nồi cũng không đủ mà”.

Đôi mắt vàng đục của lão lý trưởng nhìn những kẻ đã chung sống cùng mình bao năm nay, đôi môi khô nẻ khẽ động đậy: “Thế thì nộp luôn cả cuốc vậy…”

“Hà Hiệp … thật vô lý.”

“Trong tay hắn có đại quân.”

“Thế đại quân Bắc Mạc của chúng ta đâu?”

“Bại trận rồi. Không có ai đánh thắng được Hà Hiệp.”

“Thiên hạ rộng lớn này, chẳng lẽ không có người thắng nổi hắn sao? Thời thế gì không biết!”

“Tôi nghe nói có một người…” Trong đám người vọng ra một câu nói e dè.

Những đôi mắt tuyệt vọng lập tức mở to, tập trung về phía người vừa nói.

“Ai?”

Thôn dân kia chỉ nghe qua đôi, ba câu đồn thổi, bèn trầm tư suy nghĩ: “Hình như gọi là cái gì Bắc vương, cái gì mà Sở Sở ấy…”.

“Thế người đó ở đâu?”

“Điều này… thì tôi không biết…”

Họ lại thất vọng, những đôi mắt vừa lóe lên chút ánh sáng giờ ảm đạm trở lại. Họ ngồi hoặc đứng dựa vào góc tường, khuôn mặt đờ đẫn.

Hôm nay phải nộp ba cân sắt, ngày sau sẽ là gì?

Đập nồi, cộng thêm cán cuốc hay dùng, Tắc Doãn cũng đủ sắt nộp cho quan binh. Ánh nắng tươi đẹp kia hình như không phát hiện nỗi âu sầu u uất bên dưới, vẫn rạng rỡ soi tỏ chốn nhân gian.

Tắc Doãn mồ hôi đầm đìa múa cuốc dưới ruộng. Đây là cái cuốc cuối cùng còn lại trong nhà.

Đại vương mất, nước cũng mất rồi.

Quan binh đến rồi đi, mặc sức phi ngựa qua những cánh đồng mà họ đã vất vả cấy trồng. Tắc Doãn như bị một tảng đá đè nặng, khiến trái tim nát vụ, nhỏ máu.

Tắc Doãn từng là thượng tướng quân, từng nắm giữ quân quyền cao nhất Bắc Mạc, từng dẫn đầu đội quân ý chí hăm hở, tự hào chứng tỏ quân uy Bắc Mạc, từng thề sẽ bảo vệ đại vương và dân chúng Bắc Mạc.

Nhưng nay, đại vương đã chết, con dân Bắc Mạc đang bị giày xéo bởi vó ngựa của kẻ thù.

Nếu đối thủ không là Hà Hiệp, nếu lòng không vướng bận thê nhi, liệu Tắc Doãn có còn đứng đây lặng lẽ vung cán cuốc, để đám quan binh tàn bạo kia cướp đi thành quả lao động phải đánh đổi bằng bao vất vả của mình?

Tối nào Dương Phượng cũng lo lắng nhìn phu quân. Nàng biết, chỉ khi ngắm hai đứa trẻ vô âu vô lo Khánh nhi và Trường Tiếu, Tắc Doãn mới cảm thấy tảng đá trong lồng ngực nhẹ bớt phần nào.

Nhưng chỉ cần quay đi, tảng đá ấy lại đè xuống khiến người ta nghẹt thở.

“A ca! A ca!”

Nghe thấy tiếng gọi, Tắc Doãn ngẩng lên, những giọng mồ hôi to bằng hạt đậu lấm tấm trên khuôn mặt.

A Hán chạy tới, thở hổn hển: “A ca, không hay rồi! Ngụy lão đệ có chuyện với quan binh rồi!”

Tắc Doãn giật mình, vứt cuốc chạy ra khỏi ruộng: “Ở đâu?”

“Trên dốc núi bên ngoài thôn, cạnh bãi cỏ”.

Không đợi A Hán nói xong, Tắc Doãn đã chạy vội ra phía cổng thôn.

Ngụy Đình, Tắc Doãn rất hiểu Ngụy Đình.

Hán tử đó tính tình nóng nảy, trước kia ở trong quân cũng không buồn để ý đến thái độ của các tướng lĩnh trên mình, chỉ biết xung phong ra trận địa, hết lòng đánh trận, bản tính chết cũng không chịu thay đổi.

Tắc Doãn cố tình bảo Ngụy Đình sang bên bãi cỏ để tránh phải ở lại trong thôn mà liên tiếp nghe thấy những lệnh quân ép chết người của Hà Hiệp . Sao đã ra đến đây rồi, hắn còn đụng phải quân lính Vân Thường?

Tắc Doãn chạy như bay đến dốc núi, ánh mắt dừng lại nơi bãi cỏ nát bươm, không biết đã bao nhiêu người ngựa giày xéo. Vệt máu đỏ tươi kéo dài đến tận bên kia dốc núi.

“Ngụy Đình!”, Tắc Doãn kêu lên, vội chạy sang bên kia chân núi.

Ngụy Đình nằm dưới chân núi, như đã lăn xuống tận đây nên những vết máu còn nguyên trên cỏ. Tắc Doãn xông tới, quỳ xuống, khẽ khàng đỡ Ngụy Đình dậy: “Ngụy Đình, sao lại thế này?”

“Chúng… bọn chúng…” Cả đầu lẫn mặt Ngụy Đình sưng vù, những vết thương trên người vẫn đang chảy máu, không rõ là do đao hay do giẫm đạp, “Cướp hết ngựa… cả dê nữa… thuộc hạ…”,

“Đừng nói nữa, nằm im đi”, Tắc Doãn trầm giọng, “Ta biết rồi”,

Thấy Tắc Doãn bế Ngụy Đình về, Dương Phượng và Sính Đình thất kinh, vú nuôi vội vã đưa hai đứa trẻ sang phòng khác chơi, để họ băng bó vết thương cho Ngụy Đình.

“Ngựa và dê… đều…”.

“Đừng nói nữa.” Dương Phượng dịu dàng nói với Ngụy Đình đang gắng sức cất lời, rồi thở dài một tiếng, “Cướp của đã đành, sao còn đánh người ta ra nông nỗi này?”.

Tắc Doãn nói: “Ngụy Đình còn sống cũng là may lắm rồi”.

Ngụy Đình sống cùng với họ, tình cảm như người trong nhà, giờ lại thành ra thế này. Băng bó vết thương xong, họ để Ngụy Đình nằm trên giường nghỉ ngơi, rồi rời khỏi phòng, mỗi người mang một tâm tư. Lương thực sau khi giao nộp chẳng còn bao nhiêu, Dương Phượng nấu bát cháo cho Ngụy Đình, những người còn lại đều ăn khoai.

Bận rộn cả ngày, cuối cùng cũng đến lúc nghỉ ngơi. Nhưng nằm trên giường, Dương Phượng không sao ngủ nổi. Nàng nhìn sang Tắc Doãn đang ngủ say, rồi ngồi dậy, bước xuống giường.

Đầu thu, gió đêm dễ chịu, đi đến trước phòng, Dương Phượng bỗng gặp một bóng người đứng im lặng đón gió trong đêm.

“Sính Đình?”

Sính Đình chậm rãi quay lại.

Dưới ánh trăng, Dương Phượng nhận ra Sính Đình đang ve vuốt một thứ, đó chính là thanh bảo kiếm Thần uy vẫn treo trên tường, giờ nó im lìm trong lòng nàng.

Dương Phượng đến bên Sính Đình.

“Muội cũng không ngủ được sao?”

“Người đó có thật là đã bặt vô âm tín?”

Thời khắc như đang ngưng tụ thành một điểm, điểm sáng lại lung linh thành những vầng hào quang, ở giữa vẫn là một khuôn mặt.

Khí phách, cường tráng, ngang ngược, ngạo nghễ…

Tấn công Quy Lạc, chỉ một chiêu lùi mà tiến cũng đủ hủy hoại vương phủ Kính An đời đời hiển hách. Tấn công Bắc Mạc, dưới thành Kham Bố, chỉ ba chiêu đã lấy đầu tướng địch khiến tướng sĩ Bắc Mạc kinh hồn bạt vía, kể từ đó, mỗi lần nghe tên Trấn Bắc vương chẳng khác gì gặp cơn ác mộng. Tấn công Vân Thường, khiến cả nước Vân Thường chấn động, trên là Công chúa, dưới là bách tính, ai cũng hoảng hốt không yên.

Đó chính là Đông Lâm Trấn Bắc vương, Sở Bắc Tiệp.

Người thừa kế vương vị Đông Lâm, danh tướng sa trường mà thiên hạ đều kính sợ, nam nhân mà quân chủ cả nước đều e dè kính nể lại bặt vô âm tín vào đúng lúc quân Vân Thường tàn sát thiên hạ.

“Sính Đình, những việc này, muội hiểu hơn ta. Ta chỉ muốn biết, lẽ nào trong thiên hạ không còn ai ngăn nổi Hà Hiệp?”

“Thiếu gia… Hà Hiệp…”, Sính Đình thở dài, cười khổ, “Có thể ngăn được Hà Hiệp, trong thiên hạ này e là chỉ có một người, trong lòng tỷ cũng biết rõ là ai. Dương Phượng, liệu muội có nên…”

“Không!” Dương Phượng vội ngắt lời Sính Đình, vẻ mặt vô cùng kinh hoàng, liên tục lắc đầu, như đang rơi vào cơn ác mộng đã từng xảy ra. Một lúc sau mới trấn tĩnh lại, Dương Phượng cúi đầu, giọng buồn bã, “Muội đừng hỏi ta. Việc bây giờ và chuyện thành Kham Bố khi trước có gì khác nhau? Ta đã sai một lần, quyết không thể sai thêm lần nữa. Sính Đình, ta đã thề, dù xảy ra chuyện gì, ta cũng không cầu xin muội xuống núi. Huống hồ, người ấy đã mất tích bao lâu rồi, dù muội có đi, cũng biết tìm ở đâu?”.

Nghe thế, Sính Đình im lặng hồi lâu. Nàng cầm thanh Thần uy bảo kiếm đi vào phòng. Trường Tiếu đang say ngủ trong nôi, ánh trăng dịu dàng soi tỏ khuôn mặt nhỏ bé, từng đường nét đẹp đẽ sáng rạng, như được đúc theo khuôn mặt phụ thân.

Sính Đình mỉm cười nhìn nhi tử, nựng: “Trường Tiếu, con biết tại sao ta đặt tên con là Trường Tiếu không? Ta hy vọng khuôn mặt nhỏ bé này của con luôn mỉm cười, mỗi ngày đều có chuyện khiến con vui”

“Con ta, mong rằng sau này con không gặp một nữ nhân thông minh”.

“Nữ nhân quá thông minh lại luôn có chỗ ngốc nghếch, chính là không thể tự hóa giải khúc mắc của bản thân.”

“Nếu nữ nhân ấy không thích con, con sẽ buồn, nhưng nếu nàng ta thích con, cả hai con đều buồn.”

Thành Thả Nhu, Vân Thường.

“Ngươi lừa ta!”

“Ta lừa ngươi cái gì?”

“Ngươi nói sẽ giúp ta gửi thư cho sư phụ. Phiên Lộc, ngươi là tên lừa đảo!”

Phiên Lộc dễ dàng tóm lấy bàn tay ngọc ngà đang đập liên tiếp vào ngực mình, cau mày đáp: “Nói bao nhiêu lần rồi, ngươi còn không hiểu? Đông Lâm giờ loạn rồi, khắp nơi đều là tàn binh và dân chúng chạy loạn, ngay cả Đông Lâm vương hậu giờ cũng không biết đã trốn đến tận nơi nào. Kẻ đưa thư không tìm thấy sư phụ ngươi… Ngươi còn dám đánh à? Này, ta đánh trả đấy!”

Gần đây, Phiên Lộc gặp bao chuyện không vừa ý, sau khi Thừa tướng chết, đám quan lại bên phe Hà Hiệp luôn tìm mọi cách bới móc những quan lại bên ngoài do Thừa tướng đề bạt. Lúc thì vấn đề lương bổng, khi lại tấu báo không đầy đủ, rõ ràng muốn cho cái chức quan thủ thành hắn biết tay.

Bên này, Túy Cúc biết Đông Lâm chiến loạn thì càng thêm u uất, cả ngày gây chuyện không thôi.

“Đồ lừa đảo!”. Bị Phiên Lộc giữ chặt hai tay, Túy Cúc đành trợn trừng đôi mắt nhìn trả.

“Ta đã bao giờ lừa ngươi chưa?”, Phiên Lộc chán nản hỏi.

“Ngươi đã bao giờ nói thật với ta chưa?”

Phiên Lộc bất mãn, sắc mặt sa sầm: “Đương nhiên là ta đã từng nói thật với ngươi”.

Túy Cúc bị giữ chặt hai tay rất khó chịu, muốn giãy cũng không thoát, hai má đỏ bừng, ngẩng lên chất vấn: “Nói thật? Hừ, khi nào?”.

Phiên Lộc suy nghĩ, thật thà trả lời: “Ban đầu khi ta nói câu đó với ngươi, người ta đồn là ngươi không đẹp, nhưng ta thấy ngươi cũng không đến nỗi nào. Câu này tuyệt đối là thật”.

Túy Cúc sững người, khuôn mặt đỏ bừng vì tức giận càng ửng đỏ đến mang tai, nóng xuống tận cổ. Nàng im lặng, bỗng phát hiện mình gần như dựa hẳn vào lòng Phiên Lộc, liền cắn môi, xấu hổ: “Này, thả ta ra”.

“Ai là này?”

Túy Cúc giận dữ nhìn Phiên Lộc, thấy hắn hơi nhếch môi, biết hắn lại nghĩ ra trò gì hay nên có chút sợ hãi, đành nói một cách không cam tâm: “Thủ thành đại nhân, xin hãy buông tay ta ra”.

Phiên Lộc cười đắc ý, lúc này mới chịu buông tay. Túy Cúc vội vàng rụt tay lại, nhìn hai cổ tay với những vết hằn đỏ, tên nam nhân đó thực có sức lực. Nàng ai oán nhìn hắn, rồi ngồi xuống giường, nghĩ lúc này sư phụ đang lẫn trong đám người chạy loạn kia, Túy Cúc vừa lo lắng vừa đau lòng, hai mắt đỏ hoe.

Thấy nàng cúi đầu yên lặng, không còn vẻ đanh đá hoạt bát thường ngày, Phiên Lộc bỗng thấy mất hứng, ngồi xuống bên cạnh, nói: “Ta sẽ sai người tiếp tục đưa thư, hy vọng họ có thể tìm thấy sư phụ ngươi.”

Túy Cúc dịch người sang một bên: “Đừng ngồi gần ta như thế”, giọng khẽ như muỗi kêu.

“Ngươi nói gì?”, Phiên Lộc vừa lớn tiếng hỏi, vừa ngồi xích lại gần Túy Cúc, lần này còn ngồi sát hơn.

Túy Cúc đứng bật dậy, giậm chân, nói: “Con người ngươi… nam nữ thụ thụ bất thân, ngươi không biết à?”

“Ngươi thật là!” Phiên Lộc cũng đứng lên, cao hơn nàng hẳn một cái đầu, từ trên nhìn xuống, “Nữ nhân nói không là có, ngươi không biết à?”.

“Ai nói không là có?”

“Ngươi! Ta ngồi xích tới, trong lòng ngươi vui còn không hết, sao ngoài miệng lại nói không thích?”

“Ta… ta…” Túy Cúc giận đến phát khóc, liên tục giẫm chân, “Ta vui khi nào? Người ta đang lo sư phụ, ngươi còn bắt nạt ta… Sớm biết thế này, ta đã bỏ mặc ngươi chết ở sơn mạch Tùng Sâm, cho sói cắn bụng ngươi, ăn ruột gan ngươi…”

Nói được một nửa, đã thấy dáng hình to lớn đổ xuống trước mặt, Túy Cúc kinh hãi im bặt, lảo đảo lùi ra sau, không ngờ eo nàng bị người ta ôm gọn.

Đầu lưỡi Phiên Lộc nhẹ nhàng lướt qua môi, cảm giác nóng rẫy như bị thiêu đốt.

“A…” Khuôn mặt thất sắc, hai mắt trợn tròn hơn bất cứ lúc nào, Túy Cúc cứ nhìn trừng trừng vào gương mặt đáng ghét của Phiên Lộc.

Phiên Lộc buông tay, cười gian tà: “Đêm nay đừng nhớ sư phụ của ngươi nữa, nhớ ta đây này”. Bàn tay hắn khẽ huơ huơ trước đôi mắt vẫn mở trừng trừng của Túy Cúc, rồi quay đi xử lý công vụ.

Dương Phượng bước vào phòng, thấy giường trống không, Tắc Doãn đã đi đâu mất. Như chợt nghĩ đến điều gì, nàng khẽ khàng đi sang phòng bên cạnh, ngó đầu nhìn vào, thấy Tắc Doãn đang cúi xuống tìm kiếm thứ gì trong đống đồ đạc chất cao.

“Chàng tìm gì thế?”, nàng khẽ hỏi.

Tắc Doãn sững lại, một lúc sau mới chậm rãi đứng lên, quay người. Dưới ánh trăng, Dương Phượng nhìn rõ đôi mắt phu quân.

Đó là đôi mắt có thần, tràn đầy nhiệt huyết.

Đôi mắt ấy đang nói rõ rằng chủ nhân của nó chắc chắn đã ra một quyết định vô cùng quan trọng.

Một quyết định không thể thay đổi được.

Dương Phượng còn nhớ năm đó, khi Tắc Doãn là sứ giả của Bắc Mạc đến thăm Quy Lạc, ở trong phủ vương tử Hà Túc, nàng ngồi trong tấm rèm đàn một khúc, thời khắc ngón tay ngọc khẽ vén rèm che lên, nàng đã nhìn thấy đôi mắt có thần này.

Trái tim Dương Phượng như bị ai đó đập mạnh. Sau này, Tắc Doãn nói với nàng rằng, lúc đó, hắn đã quyết định, dù phải đắc tội với tất cả vương tộc Quy Lạc, cũng quyết phải có được nàng.

Tắc Doãn không tuấn tú, so với tiểu Kính An vương còn thiếu đến vài phần khôi ngô kiệt xuất, nhưng, đôi mắt đen sáng kia thì dường như chứa đựng mọi thứ, cả thiên hạ này không việc gì có thể khiến hắn do dự.

“Phu quân, chàng tìm gì thế?” Dương Phượng khẽ khàng hỏi thêm lần nữa, chút giả thiết xen lẫn nghi ngờ bỗng nảy sinh trong lòng, nàng cẩn trọng tiến lại gần, nhìn kỹ sắc mặt Tắc Doãn.

“Không tìm gì cả.” Ánh mắt kiên định của Tắc Doãn khi đứng trước cái nhìn trực diện của Dương Phượng lại có chút lẩn tránh.

Dưới ánh nhìn của Dương Phượng, bàn tay thô ráp của Tắc Doãn lặng lẽ cuộn thành nắm đấm.

Dương Phượng như nhìn thấu ruột gan, hiểu rõ mọi bí mật ẩn giấu trong lòng phu quân.

Họ đã là phu thê bao năm nay, từ lúc chạy trốn khỏi Quy Lạc vương đến Bắc Mạc, rồi quy ẩn, xuống núi, trận chiến Kham Bố, sau đó lại quy ẩn…

Cả chặng đường dài, giờ họ đã có Khánh nhi. Cứ ngỡ hai người có thể giữ được lời hứa, trọn đời quy ẩn bên nhau.

Một người là danh cầm Quy Lạc, một người là thượng tướng quân Bắc Mạc, vinh hoa khi trước đều bị cuốn vào những gian nan thời loạn.

Chỉ khi họ nhìn nhau dưới ánh trăng đêm nay, dường như bao nhiêu ngày qua đều ngưng đọng trong khoảnh khắc ngắn ngủi này, đủ để hiểu hết về nhau.

“Chiếc hòm bên trái”, Dương Phượng buồn rầu nói.

“Hử?”

“Kiếm của chàng trong chiếc hòm bên trái.”

Đôi mắt dịu dàng nhìn thê tử của Tắc Doãn bỗng chốc cay cay.

“Dương Phượng…”

Năm ngón tay ngọc khẽ bịt miệng phu quân, Dương Phượng ngắm nghía Tắc Doãn thật kỹ, dường như nhìn cả đời này cũng không đủ, như thể trước nay nàng chưa bao giờ ngắm kỹ dáng hình quen thuộc ấy.

“Thật may là Khánh nhi giống chàng. Phụ thân nó… là một anh hùng.” Dương Phượng dựa vào lồng ngực ấm áp, ra sức cảm nhận hơi thở của phu quân, cuối cùng cũng dằn lòng quay đi, “Thiếp sẽ đợi chàng ở đây”.

Dương Phượng cắn răng bước ra khỏi căn phòng nhỏ, đi về phòng ngồi xuống giường, hai chân không còn cảm giác. Nàng chẳng buồn ngủ nên cứ ngồi ngây ra như thế trong đêm đen, tựa hóa đá.

Nàng mơ hồ nghe thấy tiếng chân bên ngoài, âm thanh càng lúc càng xa, mỗi bước đi như giẫm lên trái tim lo lắng của nàng, cho đến khi xung quanh hoàn toàn yên ắng. Bao cảnh tượng ngày trước đua nhau kéo về, hiện rõ trong đầu, ánh nắng vàng cam soi tỏ khuôn mặt đẫm lệ của nàng.

“Dương Phượng, dậy đi thôi.” Sính Đình vén rèm cửa, thấy bóng lưng Dương Phượng bỗng sững lại, quay sang nhìn cái giường không, “Tắc Doãn đâu?”, giọng Sính Đình trầm hẳn xuống.

“Chàng đi rồi.”

“Đi rồi?”, Sính Đình lại gần, vẻ mặt Dương Phượng càng chứng tỏ cho suy đoán của Sính Đình.

“Trời ơi… Sao tỷ không ngăn lại? Chẳng phải chính tỷ đã bắt Tắc Doãn thề sẽ cùng mình ẩn cư sao? Chẳng phải tỷ muốn Tắc Doãn không lo đến những việc đó nữa sao?”.

Như người mất hồn, Dương Phượng quay đầu nhìn Sính Đình, một lúc lâu sau, hình như mới tỉnh ra, khẽ nở nụ cười: “Trước đây ta không muốn chàng đánh trận giết người, vì đó đều là tâm tư của người khác, đều vì quyền thế, để bảo vệ vương vị, Bắc Mạc vương coi chàng như công cụ giết người, như hình nhân biết cầm kiếm. Nhưng giờ đây, chàng cầm kiếm bởi chính bản thân chàng”.

Gió sớm mai lướt qua khuôn mặt Dương Phượng, vờn những sợi tóc mai dịu dàng tung bay trước trán.

“Đây là việc chàng muốn làm, không ai ép, không ai cầu xin, chàng cam tâm tình nguyện”.

Dương Phượng nói mơ hồ, nhưng Sính Đình lại hiểu rất rõ, bèn thở dài hỏi: “Vậy còn tỷ và Khánh nhi thì làm thế nào?”

“Ta và Khánh nhi sẽ sống thật tốt, giống như phụ thân nó, sống theo ý thích của bản thân mình.” Dương Phượng mỉm cười với Sính Đình, khoảnh khắc ấy đẹp đến rạng ngời.

Ngoài kia vọng đến tiếng cười đùa, hai đứa trẻ đã dậy, vú nuôi chạy tới, mỗi tay bế một đứa, cho chúng đi ăn cháo.

Sính Đình ở cạnh Dương Phượng nửa ngày rồi đứng dậy, lặng lẽ ra khỏi cửa. Dưới ánh mặt trời, Trường Tiếu và Tắc Khánh đang nô đùa bên đống rơm, tiếng cười vang vọng không dứt.

“Phụ thân… phụ thân…” Đến tối, Tắc Khánh chạy khắp nơi tìm hình bóng thân quen.

Dương Phượng ôm lấy nhi tử, dỗ dành: “Khánh nhi, phụ thân phải đi làm một việc mà phụ thân rất muốn làm. Con sẽ không được gặp phụ thân trong một thời gian.”

Tắc Khánh gật đầu như người lớn, nhưng thực ra nó đâu có hiểu gì, chẳng mấy chốc lại bắt đầu lùng sục khắp nơi, muốn tìm cho được phụ thân mình. Trường Tiếu không biết từ đâu xuất hiện, cũng dốc sức tìm kiếm.

Những quân lệnh hà khắc liên tục được ban ra. Chum gạo trong nhà đã dần thấy đáy, e là khoảng mươi hôm nữa, bọn trẻ sẽ chẳng có cháo mà ăn.

Ngụy Đình nằm trên giường không thể cử động, biết tin Tắc Doãn đi thì gật đầu, không nói gì thêm.

Cứ như thế được mấy ngày, hành động của đại quân Vân Thường bỗng trở nên khác thường, quan trên liên tục ban lệnh, nói là truy bắt tàn binh Bắc Mạc, người có công tố giác sẽ được trọng thưởng, cả gan che giấu sẽ bị liên lụy.

Quan binh vội vã đến, rồi lại vội vã đi, mỗi lần xuất hiện, gà bay chó chạy, lòng người hoảng hốt lo âu.

Bất giác, cả Dương Phượng và Sính Đình đều lo cho Tắc Doãn.
 

Hoa Tử

Sưu tầm
Tham gia
24/9/19
Bài viết
10,570
Điểm cảm xúc
1,484
Điểm
113
Chương 51:
Sau khi chiếm lĩnh được thành đô Đông Lâm, một mặt Hà Hiệp cử quân truy bắt những người còn lại trong vương tộc và các tướng lĩnh Đông Lâm, một mặt hạ lệnh thiêu hủy vương cung Đông Lâm.

Những ngọn đuốc của quân lính Vân Thường đã khiến cả thành đô Đông Lâm chìm trong khói lửa, lửa cháy nơi vương cung thiêu đỏ cả một vùng trời.

“Vương cung… vương cung!” Bách tính Đông Lâm còn ở lại thành đô rớt nước mắt nhìn ánh lửa cháy rừng rực và bóng đao sáng lóa.

Mệnh lệnh tàn bạo này của Hà Hiệp đâu chỉ để trút giận. Cả đội quân khổng lồ đã phải hao tâm tổn sức, muốn khống chế bất cứ quốc gia nào, muốn chiếm lĩnh lãnh thổ rộng lớn của họ, thì nhất định phải tốc chiến tốc thắng.

Tiêu hủy một vương quốc, đầu tiên phải phá vỡ lòng tin và hy vọng của dân chúng.

Khi vương cung Đông Lâm huy hoàng sừng sững hàng trăm năm nay bị một mồi lửa của quân Vân Thường đốt thành bãi đất bằng, chút hy vọng ít ỏi còn sót lại của dân chúng Đông Lâm cũng hoàn toàn cháy rụi.

Biểu tượng hàng trăm năm nay của vương tộc Đông Lâm dần biến mất trong biển lửa, tiếp tục giáng một đòn nặng nề xuống trái tim đã trĩu nặng của con dân Đông Lâm.

Trấn Bắc vương từng bảo vệ họ giờ không rõ tung tích. Hy vọng của họ biết gửi gắm cho ai?

Tin tức đau thương này như được chắp thêm đôi cánh bay tới mọi ngõ ngách của Đông Lâm, khiến những người dân khốn cùng càng thêm tuyệt vọng.

“Đại vương, thần thiếp phải làm sao đây?” Nghe xong tin tức từ phương xa, Đông Lâm vương hậu đuổi lui lính truyền tin, buồn rầu ngồi xuống.

Đất đai Đông Lâm đã mất hơn nửa, dân chúng lang thang chẳng chốn nương thân, vương cung hóa thành tro tàn.

Đông Lâm hiển hách một thời, sao lại rơi vào cảnh ngộ này?

Đại tướng quân Thần Mâu chết trên sa trường, Sở Mạc Nhiên và La Thượng liều mạng hộ vệ vương hậu rời khỏi thành đô. Sau lưng tiếng đuổi giết ngút trời, máu của các binh sĩ bắn tung tóe lên trang phục lộng lẫy trên người Vương hậu.

Đến lúc này, Vương hậu mới thực sự hiểu rằng, tại sao một danh tướng như Trấn Bắc vương lại được người trong thiên hạ coi là báu vật ngàn năm khó đổi, tại sao khi tướng sĩ Đông Lâm nhắc đến Trấn Bắc vương, khuôn mặt lại không giấu nổi niềm tự hào.

Không còn là quý phụ an cư chốn thâm cung, nay, Vương hậu phải mặc y phục thô ráp, gột sạch mọi xa hoa, được một số ít tướng sĩ Đông Lâm còn lại hộ vệ, giấu thân nơi đồng hoang hẻo lánh hay trong rừng sâu, chạy trốn sự truy bắt của quân Vân Thường.

Trong bóng đen nặng nề cùng sự lo lắng cho tương lai, Vương hậu thường hồi tưởng lại chuyện trước đây.

Đông Lâm lúc đó sao mà lớn mạnh, có đội quân thiện chiến nhất tứ quốc, có Đại vương, có Trấn Bắc vương.

Tất cả mọi bất hạnh rốt cuộc bắt nguồn từ đâu?

“Bạch Sính Đình…” Vương hậu chậm rãi buông ra cái tên mà bất cứ ai cũng thấy nặng nề.

Khi ấy, Bạch Sính Đình xen vào đại chiến giữa Đông Lâm và Bắc Mạc, để Hà Hiệp có thể lợi dụng thời cơ.

Tiểu Kính An vương nổi danh thiên hạ, sau này là Phò mã Vân Thường, khi bắt tay với Bắc Mạc vương mưu hại vương tử Đông Lâm, cũng chính là bước chuẩn bị để reo rắc bất hạnh cho Đông Lâm ngày hôm nay.

Cái chết của hai vương tử Đông Lâm khiến Sở Bắc Tiệp và Bạch Sính Đình nghi ngờ lẫn nhau, cũng khiến cho tình yêu giữa họ càng thêm sâu đậm.

Khi tình yêu của họ hết mức sau đậm, đại quân Vân Thường đã đến.

Vương hậu lạnh lòng, liên hoàn độc kế này đều do Phò mã Vân Thường, kẻ đang phá hoại Đông Lâm nghĩ ra…

Từng bước từng bước để Sở Bắc Tiệp mất đi Bạch Sính Đình, để Đông Lâm mất đi Sở Bắc Tiệp, cuối cùng, hắn xóa đi mọi dấu tích của Đông Lâm trên bản đồ…

“Nương nương! Nương nương!” Tiếng kêu kinh hãi theo bước chân gấp gáp vang lên, tấm rèm cửa đơn giản được kéo ra, xuất hiện khuôn mặt lo lắng của La Thượng, “Phía trước phát hiện thấy dấu tích của đại quân Vân Thường, hình như chúng đang đến đây. Nương nương, chúng ta phải lập tức đi thôi. Nhanh lên! Nhanh lên!”, La Thượng vừa thở vừa nói.

Lại đến rồi!

Cảm giác sức cùng lực kiệt bủa vây, nhưng vương hậu không thể bị bắt. Vương hậu là tượng trưng cho vương thất Đông Lâm ngày hôm nay.

Vương hậu cắn răng, từ từ đứng dậy.

“Ngựa đã chuẩn bị xong, mời nương nương lập tức lên ngựa, Mạc Nhiên đưa người đi ngăn bọn chúng, sau đó sẽ hợp nhất với chúng ta”

Vương hậu lên ngựa.

Đằng xa, khói lửa ngút trời, đoàn kỵ binh Vân Thường hung hăng đuổi tới.

La Thượng dẫn binh lính bảo vệ Vương hậu, cả đoàn người thúc ngựa quất roi, chạy trốn trong đêm.

Bạch Sính Đình, nếu ngươi ở trên trời có linh thì mở to mắt ra nhìn loạn thế.

Ta nguyện đem cả mười kiếp luân hồi của mình để hứng chịu tất cả những bất hạnh mà ngươi đã phải chịu.

Chỉ mong ngươi mở lòng từ bi, vì dân chúng vô tội mà trả Trấn Bắc Vương lại cho chúng ta.

Trấn Bắc Vương chính là hy vọng duy nhất trong thiên hạ lúc này.

Ngày hôm nay, thôn trang hẻo lánh vùng biên giới Bắc Mạc bỗng trở nên bí hiểm một cách lạ thường.

“Nghe chuyện không?”

“Nghe chuyện?”

“Trên con đường nhỏ… dưới dốc núi… ngoài thôn, có một thuyết thư tiên sinh mới đến.”

Mọi người khẽ thì thầm, rồi lại cẩn thận nhìn quanh, như sợ đám lính cầm kiếm Vân Thường bất ngờ từ dưới đất chui lên.

Thần sắc của mọi người đều vô cùng bí mật, họ cảm nhận được đây không phải là người kể chuyện mua vui bình thường, ai ai cũng vô cùng mong đợi, mạo hiểm đi nghe.

Loạn thế, người ta rất đỗi mong chờ, dù chỉ là một tia hy vọng.

Chập tối, dưới dốc núi đã xuất hiện bóng người, mới đầu còn đơn độc, từng người, từng người một cẩn thận thăm dò, dần dần có thêm hai, ba người đến.

Trên khuôn mặt của họ đều thoáng vẻ sợ sệt, sợ bị người khác phát hiện, nhưng khi bất chợt nhìn thấy người quen cùng đường, ánh mắt sáng lên kinh ngạc xen lẫn vui mừng, hai bên nhìn nhau khích lệ.

Họ tụ tập trên bãi cỏ tối om không có cả ánh trăng, ngoài những nam nhân trẻ tuổi, còn xuất hiện cả nữ nhân.

“Đừng chen nữa.”

“A Hán cũng đến à?” Giọng nói thật khẽ của một người cùng thôn.

Tiếng cười thuần hậu của A Hán vang lên trong đêm đen: “Đương nhiên rồi, cả nữ nhân của ta cũng đến.”

Có người xùy một tiếng: “Đừng ồn nữa, nghe chuyện đi…”

Xung quanh bất chợt yên ắng.

Đây là cảnh kể chuyện vô cùng đặc biệt. Thuyết thư tiên sinh ngồi trên bãi cỏ, tia sáng mờ ảo chỉ cho người ta thấy loáng thoáng những đường nét của người này trong bóng tối. Thuyết thư tiên sinh hồi hộp chờ đợi, nhưng vẫn chưa nói lời nào.

Người đó e hèm lấy giọng, tiếng nói chỉ đủ nghe, lên bổng xuống trầm, tuy không êm tai, nhưng mang một sức mạnh có thể cổ vũ lòng người.

“Các vị hương thân, hôm nay ta muốn kể với các vị một câu chuyện. Ta nói trước, câu chuyện này xảy ra không lâu trước đây, là câu chuyện có thật. Đám người Vân Thường hung hãn đó không muốn cho người trong thiên hạ biết chuyện này, nhưng những người kể chuyện Bắc Mạc lưu lạc khắp nơi vẫn nghe được và sắp xếp lại thành một câu chuyện, rồi đi kể cho mọi người. Ta biết những ngày này, lúc nào cũng có những thuyết thư tiên sinh bị giết, nhưng giết sao hết những người kể chuyện, một người kể cho mười người nghe, mười người lại kể cho trăm người nghe. Ta không sợ chết, cũng giống như những thuyết thư tiên sinh đã bị chặt đầu, chỉ muốn cho tất cả những người Bắc Mạc được biết câu chuyện này…”

Trong bóng tối, thuyết thư tiên sinh bỗng dừng lại, như để chỉnh lại dòng suy nghĩ.

Không biết tại sao, tất cả những người có mặt lúc này bất giác đều nín thở, như hiểu rằng tiếp theo đây sẽ được nghe một câu chuyện khiến người ta kinh hồn bạt vía.

“Những ngày khổ sở của chúng ta đều do một tên đại ma đầu gây ra. Tên đại ma đầu đó chính là Hà Hiệp, trước đây là tiểu Kính An vương của Quy Lạc, sau là Phò mã của Vân Thường. Hắn đã bày tiệc rượu hạ độc đại vương của chúng ta, ép chúng ta giao nộp lương thực, cướp ngựa bò dê của chúng ta, giết hại người thân của chúng ta. Nhược Hàn thượng tướng quân của chúng ta đã dẫn theo đại quân Bắc Mạc chặn đường hắn nhưng bại trận. Hà Hiệp đánh tan đại quân Bắc Mạc, cũng chính là bẻ gãy xương sống của người Bắc Mạc…”

Nói đến tình trạng bi thảm hiện nay, lòng người lại trĩu nặng buồn thương, vừa bi phẫn vừa căm hận, họ buồn bã cúi đầu.

Giọng nói đau thương, thuyết thư tiên sinh hơi dừng lại, rồi bỗng đổi sang giọng điệu vô cùng phấn chấn: “Nhưng mọi người có còn nhớ Tắc Doãn thượng tướng quân của chúng ta không? Khi Tắc Doãn thượng tướng quân ẩn cư lần đầu tiên, Đông Lâm Sở Bắc Tiệp tìm đến, Thượng tướng quân đã xuống núi, đánh đuổi Sở Bắc Tiệp. lần này, Tắc Doãn thượng tướng quân sao có thể khoanh tay ngồi nhìn Hà Hiệp xâm phạm Bắc Mạc ta? Các vị hương thân phụ lão, Thượng tướng quân Tắc Doãn lại xuống núi!”

Đám đông khẽ xôn xao, như thể từng người họ lại được nhìn thấy một tia hy vọng, bóng tối âm u trước mắt như sáng hơn đôi chút.

“Tắc Doãn thượng tướng quân, chúng ta vẫn còn Thượng tướng quân…”

“Thượng tướng quân đang ở đâu?”

“Đừng ồn, nghe ta nói hết đã” Thuyết thư tiên sinh vừa lên tiếng, xung quanh lại yên ắng, mọi người tập trung lắng nghe. “Tắc Doãn thượng tướng quân là vị tướng rất giỏi cầm quân, ông ấy biết với quân lực hiện nay của Bắc Mạc, chúng ta sẽ không đánh nổi Vân Thường, một trận chiến hai quân đối đầu nhau sẽ chỉ hại chết số chiến sĩ ít ỏi còn lại của chúng ta. Thượng tướng quân không thể làm vậy.”

“Thế là, Thượng tướng quân từ biệt gia quyến, rời khỏi nơi ẩn cư. Ông ấy biết, Hà Hiệp là chủ soái của Vân Thường, không có Hà Hiệp, quân Vân Thường sẽ tan rã. Thượng tướng quân đã suy nghĩ rất lâu, cuối cùng quyết định đơn thương độc mã gửi thư giao chiến với Hà Hiệp.”

Trong đoàn người bỗng vang lên tiếng “a” khe khẽ, hình như của một nữ nhân.

Mọi người hồi hộp lắng nghe, A Hán lo lắng, nói luôn: “Trong tay Hà Hiệp bao nhiêu binh lính như thế, nếu chúng xông lên, Thượng tướng quân của chúng ta sẽ gặp nguy hiểm.”

Thuyết thư tiên sinh đáp: “Không đâu. Hà Hiệp tuy là một tên ma đầu, nhưng cũng là bậc kiêu hùng hiếm có trong thiên hạ, là cao thủ kiếm thuật nổi danh. Khi Thượng tướng quân gửi thư giao chiến tới, ông ấy đã cố ý để lộ tin tức với các tướng lĩnh Vân Thường, nếu Hà Hiệp không dám nghênh chiến, hoặc giở thủ đoạn, hắn sẽ bị các tướng lĩnh coi thường. Thượng tướng quân đã ngắm trúng vào tính cách cao ngạo của Hà Hiệp.”

“Thượng tướng quân của chúng ta… có đánh được Hà Hiệp không?” Trong bóng tối, có người lo lắng hỏi.

Thuyết thư tiên sinh bỗng thở dài một tiếng, khiến trái tim của tất cả mọi người bỗng thắt lại.

“Không hề dễ dàng. Thượng tướng quân kiếm thuật cao siêu, nhưng kiếm pháp Hà Hiệp còn có phần hơn, nếu luận thắng bại, khả năng Hà Hiệp có phần cao hơn một chút.”

“Nếu… nếu đã không thể giành chiến thắng, sao Thượng tướng quân vẫn muốn khiêu chiến? Như thế khác nào tìm đến cái chết?”

“Đúng thế… đúng là tìm đến cái chết.” Thuyết thư tiên sinh lại thở dài một tiếng, trầm giọng, “Cũng có người từng hỏi tướng quân như thế. Lúc đó Thượng tướng quân trả lời: May mắn giết được Hà Hiệp, đó là cái phúc của Bắc Mạc, nhưng nếu không giết được Hà Hiệp mà phải mất mạng, thì đó cũng là cái chết có ý nghĩa. Haizzz, anh hùng, Bắc Mạc chúng ta có anh hùng…”.

Thuyết thư tiên sinh lắc đầu cảm thán một hồi, mọi người quan tâm đến sự sống chết của Tắc Doãn, trong lòng như lửa đốt “Tiên sinh kể nốt đi, trận chiến đó thế nào?”.

“Thua rồi.” Tiên sinh ấy buông ra hai tiếng, khiến mọi người như rơi xuống vực sâu.

Thuyết thư tiên sinh thở than: “Hôm đó, Thượng tướng quân một người một ngựa cầm kiếm xông tới. Hà Hiệp nghênh chiến xung quanh là tướng lĩnh và quân sĩ Vân Thường kêu gào trợ uy cho Hà Hiệp . Thượng tướng quân hiểu rằng, dù có giết được Hà Hiệp hôm nay cũng không thể sống mà đi khỏi đây. Hai người đều là cao thủ đương thời, bảo kiếm giao nhau tóe lửa, chiêu thức không hề khoan nhượng, giao đấu hơn trăm chiêu, cuối cùng kiếm thuật của Hà Hiệp cao hơn, nhân lúc Thượng tướng quân sơ hở, đã đâm thẳng một kiếm vào bụng Thượng tướng quân…”.

“A!”

“Trời ơi!”

Người người kinh hãi, ai cũng thấy nhát kiếm của Hà Hiệp như đâm thẳng vào bụng mình.

Mặc kệ đám đông đang sục sôi, thuyết thư tiên sinh tiếp tục chìm vào khúc ca bi tráng lưu truyền đến muôn đời sau: “Thượng tướng quân vốn dĩ có thể ngăn được nhát kiếm đó, nhưng khi kiếm của Hà Hiệp đưa tới, Thượng tướng quân đã không thể đưa kiếm chống trả mà liều chết vung lên, chém thẳng vào cổ họng Hà Hiệp. Hà Hiệp cũng lợi hại, vẫn kịp thời cúi tránh. Nhưng, nhát kiếm liều chết của Thượng tướng quân đâu dễ tránh đến thế, nó không thể lấy mạng Hà Hiệp, song đã chém cho vai phải của hắn bị thương.”

Thuyết thư tiên sinh lại ngừng một lúc, như đang hồi tưởng về cảnh tượng kinh hồn bạt vía ấy, rồi chầm chậm tiếp tục hạ giọng: “Thượng tướng quân trúng một kiếm vào bụng, ngã xuống ngựa. Hà Hiệp ngồi trên lưng ngựa, máu ở vai tuôn xối xả. Người Bắc Mạc chúng ta đáng lẽ đều phải được tận mắt nhìn thấy sắc mặt lúc đó của Hà Hiệp, đáng lẽ phải được nhìn thấy. Tướng lĩnh Vân Thường thấy chủ soái bị thương thì kinh hoàng thất sắc vội vã chạy tới định băng bó vết thương, nhưng Hà Hiệp xua tay ngăn lại, cúi xuống hỏi Thượng tướng quân: ‘Làm thế có đáng không?’ Mọi người có biết Thượng tướng quân trả lời thế nào không?.”.Thuyết thư tiên sinh dừng lại.

Đám đông im lặng, cảm giác như hơi thở không còn là của chính mình, họ như đang đứng tại nơi quyết đấu, chứng kiến cảnh Hà Hiệp cưỡi trên lưng ngựa, từ cao nhìn xuống, còn Thượng tướng quân Tắc Doãn của họ bị thương nặng nằm dưới đất, nhưng vẫn dũng mãnh kiên cường.

Một lúc sau cũng có người hỏi khẽ: “Tiên sinh, Thượng tướng quân trả lời Hà Hiệp ra sao?”.

Trong bóng tối, khuôn mặt của thuyết thư tiên sinh khẽ động, hình như đang mỉm cười, vừa như đang cảm thán lại như kính phục: “Thượng tướng quân ngẩng đầu, cười nói với Hà Hiệp: “Đáng chứ. Bởi vì từ bây giờ, tất cả người Bắc Mạc đều biết Hà Hiệp không hề đáng sợ, Hà Hiệp cũng có thể chảy máu, Hà Hiệp cũng có thể bị thương. Sẽ có một ngày, Hà Hiệp cũng có thể bị thất bại”.

Thuyết thư tiên sinh gằn từng tiếng rõ ràng, từng từ, từng từ ấm áp và chắc chắn thấm sâu vào tai, ăn sâu vào khối óc, hòa cùng nhiệt huyết với những người đang có mặt tại đây.

“Câu chuyện của ta rất ngắn, chỉ đến đây là kết thúc. Để ta uống ngụm nước, ta còn phải lên đường, đến thôn khác” Thuyết thư tiên sinh tìm bình nước dưới chân, đưa lên miệng uống một ngụm, rồi nói tiếp, “Câu chuyện này, ta nghe người khác kể lại, người khác cũng nghe người khác kể lại. Không biết làm thế nào mà câu chuyện được truyền ra ngoài, nhưng tất cả chúng ta đều biết, việc này hoàn toàn là sự thật. Chỉ cần những ai nghe được câu chuyện này hãy cố gắng khắc ghi trong lòng. Được như thế, là Thượng tướng quân đã đổ máu xứng đáng. Đừng quên, chúng ta còn có Nhược Hàn thượng tướng quân. Tuy bây giờ không biết thượng tướng quân đang ở đâu, song sớm muộn gì, Nhược Hàn thượng tướng quân cũng giống như Tắc Doãn thượng tướng quân, xuất hiện để đối kháng với Hà Hiệp ”. Thuyết thư tiên sinh khó khăn chống gậy đứng dậy.

“Tiên sinh…”, có người bỗng lên tiếng gọi, “Thế sau đó Tắc Doãn thượng tướng quân thế nào?” .

Thuyết thư tiên sinh lắc đầu: “Ai mà biết được, câu chuyện này người nọ truyền người kia, ta nghe được bao nhiêu, kể bấy nhiêu”, rồi tiếp tục bước về phía trước.

Trong bóng tối, những thôn dân nhìn theo dáng hình lảo đảo của lão nhân vừa kể chuyện, ánh mắt lấp lánh ngọn lửa nhỏ.

Từ bây giờ, người Bắc Mạc đều biết Hà Hiệp không đáng sợ.

Hà Hiệp cũng có thể bị đổ máu.

Hà Hiệp cũng có thể bị thương.

Sẽ có một ngày, Hà Hiệp có thể bại trận.

“Liệu Nhược Hàn thượng tướng quân có tiếp tục cầm quân?”.

“Chúng ta sao có thể đánh lại được Hà Hiệp ? Hắn là danh tướng lừng danh khắp thiên hạ”

“Không đánh được thì thế nào.”

Trong lòng mỗi người đều cất giữ một ngọn lửa, họ lặng lẽ tản đi, chỉ còn lại hai bóng hình mảnh mai, bất động đứng nguyên chỗ cũ.

“Dương Phượng…”

“Chàng còn sống.” Dương Phượng yên lặng đứng đó hồi lâu, rồi gằn từng tiếng, “Nhất định chàng vẫn còn sống, sống để nhìn Hà Hiệp đổ máu thêm lần nữa, sống để nhìn Hà Hiệp thất bại”. Mỗi lời nàng nói ra, nước mắt lại tuôn rơi.

Sính Đình nắm lấy bàn tay lạnh toát run rẩy của Dương Phượng, không nói gì.

Nàng chẳng còn sức để an ủi, và không có cách nào an ủi. Điều này cũng bởi, Dương Phượng còn kiên cường hơn nàng, hiểu Tắc Doãn hơn nàng, và biết cách yêu hơn nàng.

Thiên hạ có hai danh tướng, một thuộc về Vân Thường, một thuộc về Đông Lâm.

Nhưng, Bắc Mạc cũng có anh hùng, có hảo hán, có những nam nhi tràn đầy nhiệt huyết, không bao giờ khuất phục.

Không chỉ mình Tắc Doãn, mà còn có rất nhiều, rất nhiều người Bắc Mạc khác.

Ngày thứ hai, tin tức truyền về, trước thôn mười lăm dặm phát hiện thấy thuyết thư tiên sinh bị kiếm chém. Nát người, cái đầu với mái tóc bạc phơ bị quân Vân Thường treo lên cây, cảnh cáo tất cả những người Bắc Mạc dám truyền đi câu chuyện có thật này.

A Hán cùng mấy nam nhân trẻ tuổi trong thôn nhân lúc đêm khuya lấy trộm đầu lão nhân đó về, lặng lẽ an táng nơi dốc núi ngoài thôn.

Không có bia mộ, chỉ là một nấm đất vàng, nhưng không ít người đến đó thắp hương cho một thuyết thư tiên sinh vô danh.

Cả Sính Đình và Dương Phượng cũng đưa theo hai hài nhi đến đó.

Đây là một vụ bội thu, quả cây trĩu nặng, dê khỏe ngựa béo.

Nhưng, dân chúng trong thiên hạ vẫn bàng hoàng bất an, kẻ không may thì gặp cảnh chết chóc, bạo ngược, áp bức, người may mắn thì gặp được nhiệt huyết anh hùng.

Sau khi thắp hương trở về, Sính Đình không hề do dự bước vào phòng, lấy Thần uy bảo kiếm trên tường xuống.

“Ta không cần muội xuống núi vì ta.” Dương Phượng ngăn Sính Đình, hai mắt đỏ hoe nhưng vô cùng kiên định, “Sính Đình, đừng vì người khác mà ép bản thân làm những điều mình không muốn”.

“Muội không vì tỷ, mà vì chính bản thân muội.” Sính Đình ôm kiếm vào lòng, chậm rãi quay lại, ánh mắt sáng lấp lánh, nói rõ từng tiếng, “Muội phải vứt bỏ những oán hận ngu ngốc, để đi tìm nam nhân thân yêu của mình, phụ thân của Trường Tiếu. Muội muốn chàng yêu thương, bảo vệ muội, để mẫu tử muội không bao giờ chịu chèn ép và sỉ nhục như thế này, không bao giờ phải chứng kiến những thảm cảnh thế này”.

Làn môi xinh khẽ nhướng lên, nở nụ cười tự tin đẹp đến lạ thường.

“Dương Phượng, cũng giống như Tắc Doãn, việc này muội làm hoàn toàn là cam tâm tình nguyện, là tâm nguyện của muội.”

Nàng nói với A Hán đã gọi đến từ trước: “A Hán, chỗ huynh vẫn còn một con ngựa, đúng không? Cho ta mượn được không?”.

“Cô nương cần ngựa làm gì?”

Sính Đình ôm bảo kiếm, cười dịu dàng: “Ta phải đi tìm một người, nam nhân có thể đánh bại Hà Hiệp. Chặng đường này có thể rất dài, vì thế ta phải mượn ngựa của huynh. Còn nữa, nhờ huynh đỡ đần Dương Phượng, chăm sóc Trường Tiếu”.

Dương Phượng nhìn theo dáng hình tha thướt của hảo hữu, cố nén nỗi đau trong lòng mà gạt nước mắt, ra vẻ ung dung tự tại: “Thời thế loạn lạc, Trấn Bắc vương đã mất tích lâu như vậy, muội một thân một mình biết đi đâu tìm người?”.

“Tỷ đừng lo”. Ánh mắt Sính Đình sáng như sao, giọng nói vô cùng êm ái, lại có phần kiên định, “Chỉ cần chàng còn sống, nhất định muội sẽ tìm thấy chàng”.

Dân chúng thành đô Vân Thường chào đón Phò mã của họ vinh quang trở về với nghi thức long trọng nhất.

Hà Hiệp cưỡi trên lưng con chiến mã to lớn, đi giữa sự chào đón ca ngợi của mọi người. Phi Chiếu Hành cầm dây cương, thúc ngựa theo sau, không dám đi ngang hàng với Hà Hiệp, mà lùi xuống nửa thân ngựa, hạ giọng hỏi: “Phò mã, sau khi vào vương thành, chúng ta có đến vương cung trước không?”

Hà Hiệp lắc đầu, giọng lạnh lùng: “Sao phải đến vương cung trước? Đông Chước đang đợi chúng ta ở phủ phò mã.”

Về đến phủ Phò mã, đúng là Đông Chước đang đợi họ bên trong. Thế lực Hà Hiệp lên như diều gặp gió, khiến vị thế của Đông Chước cũng không ngừng tăng lên, hắn gần như quản lý toàn bộ sự vụ lớn nhỏ ở thành đô.

Ba người Hà Hiệp, Đông Chước, Phi Chiếu Hành vào thư phòng. Lần hội đàm này không có mặt bất cứ vị quan Vân Thường nào, nên họ nói năng cũng không phải kiêng dè.

Hà Hiệp hỏi: “Đám quan Vân Thường đó nói thế nào?”.

“Tạm thời không có vấn đề gì, nhưng họ vẫn rất thương xót vương tộc Vân Thường.” Đông Chước luôn ở lại thành đô giám sát mọi chuyện, nên hắn nắm rõ tình hình các quan Vân Thường như lòng bàn tay.

Phi Chiếu Hành nói: “Nếu để tiểu Kính An vương lên ngôi đại vương là làm trái với pháp luật Vân Thường. Bởi dù tiểu Kính An vương có lập được bao nhiêu công trạng cũng vẫn không phải huyết thống của vương tộc Vân Thường.”

Đông Chước lên tiếng: “Ta đã thăm dò vài vị đại thần đức cao vọng trọng trong thành đô, xem thái độ, họ đều không mấy tán thành việc lập tân quốc, suy tôn tân vương”.

Vẻ mặt không vui, Hà Hiệp cười gằn: “Kẻ thức thời mới là tuấn kiệt. Mấy chục vạn đại quân đang ở trong tay ta, họ dám gây khó dễ cho ta, không lẽ lại muốn đi theo vết xe đổ của Quý Thường Thanh?”.

“Các tướng lĩnh trong quân cũng từng nhận được trọng ân của vương thất Vân Thường, e là cũng sẽ không ủng hộ cách làm của tiểu Kính An vương”, Phi Chiếu Hành an ủi, “Việc này thực ra không khó, chỉ là một vài kẻ trung thành ngu xuẩn gây rối. Đến một ngày vương thất Vân Thường biến mất, họ chẳng còn chỗ dựa, chắc chắn sẽ chạy ngay đến bên tiểu Kính An vương. Tới lúc đó, sẽ chẳng còn ai phản đối tân vương lên ngôi, quốc danh, quốc hiệu có thể đặt lại”.

Nghe ý tứ của Phi Chiếu Hành, rõ ràng là muốn ra tay với Công chúa, Đông Chước cũng không có tình cảm gì với vương thất Vân Thường, nhưng Công chúa đối với Hà Hiệp trước nay không bạc, giết Công chúa thì thật bất nghĩa, sắc mặt hắn trầm hẳn xuống, hạ giọng: “Công chúa đã bị giam lỏng trong cung, sẽ không thể uy hiếp chúng ta, hà tất phải đuổi giết đến cùng? Hơn nữa, trong bụng Công chúa đang mang cốt nhục của thiếu gia.”

Đã phải chứng kiến cảnh đấu đá tranh giành lẫn nhau trong vương triều Quy Lạc, nên hiểu rõ nội tình, hơn nữa bản thân lại là nam nhân thực tế, Phi Chiếu Hành thẳng thắn nói: “Chỉ cần có nữ nhân thì lo gì không có người nối dõi? Bây giờ tiểu Kính An vương nhìn thì vẻ vang là thế nhưng thực chất nền tảng vẫn chưa vững chắc. Xác lập danh hiệu, chính thức lên ngôi sớm ngày nào…”

“Chiếu Hành…”, Hà Hiệp vẫn đứng chắp tay sau lưng bên cửa sổ bỗng lên tiếng, “Đừng tranh luận nữa. Ngươi vừa về, nghỉ ngơi trước đi đã”

Phi Chiếu Hành hơi sững lại, rồi nhìn sang Đông Chước mặt khó đăm đăm, giọng rất biết điều: “Chiếu Hành xin cáo lui.”

Đợi Phi Chiếu Hành ra khỏi thư phòng, Hà Hiệp mệt mỏi thở dài, nói: “Đông Chước, ngươi theo ta từ nhỏ, muốn nói gì cứ nói.”

Đại quân của Hà Hiệp chinh phạt nam bắc, Đông Chước tuy ở lại thành đô nhưng đều nghe và biết mọi hành tung của đội quân Vân Thường. vốn có bao chuyện muốn đợi Hà Hiệp về để nói cho bằng hết, song lúc này Hà Hiệp hỏi đến, Đông Chước chợt thấy lòng mình khựng lại.

Đông Chước từ nhỏ lớn lên trong vương phủ Kính An, chứng kiến thiếu gia từ một nhi tử được phụ mẫu hết lòng cưng chiều thành tội thần bị truy tìm khắp nơi, tận mắt nhìn thiếu gia giày công hoạch định để trở thành Phò mã Vân Thường, rồi bị thế lực ngoan cố trong triều đình Vân Thường chèn ép đến không thể ngẩng đầu, chịu mọi ai oán, lại chứng kiến thiếu gia xoay chuyển tình thế, quét sạch thù nhà.

Bao nhiêu thăng trầm, bao nhiêu vất vả, danh tướng được muôn dân ngưỡng mộ và sợ sệt đang đứng ở đây đã phải trải qua bao lận đận, Đông Chước là người rõ hơn ai hết.

Chắc đã phải chịu quá nhiều vất vả, mọi nỗi uất ức, nên sau khi nắm quyền, tính tình Hà Hiệp ngày càng bạo ngược, thủ đoạn ngày càng tàn độc, ngay cả Đông Chước cũng thấy lạnh lòng.

Đông Chước ngẩng lên nhìn Hà Hiệp .

Thiếu gia vẫn anh tuấn kiệt xuất, vẫn khoáng đạt như thuở ban đầu, nhưng sao càng nhìn càng thấy xa cách, mơ hồ, giống như giữa hai người bị chắn bởi một lớp sương mù, ngăn thêm khoảng cách.

“Thiếu gia…” Giong Đông Chước mang vẻ cầu khẩn, “Nếu tha được thì tha. Quý gia tội đáng phải chịu, nhưng Công chúa không giống thế. Lẽ nào trong lòng thiếu gia lại thật sự không có chút tình cảm nào dành cho Công chúa?”.

Hà Hiệp đứng đó, lặng lẽ nghe những lời của Đông Chước. Vẻ bạo ngược lúc bước vào dần biến mất, ánh mắt Hà Hiệp có thêm vài phần hiền hòa rất đỗi quen thuộc.

Khoảnh khắc đó, dường như Hà Hiệp lại quay về là vị thiếu gia phong lưu đa tình trong phủ Kính An.

“Liên quan đến chính sự và quyền lực, liệu còn chỗ nào cho tình nghĩa dung thân?” Bên cạnh chỉ có mỗi mình Đông Chước, danh tướng Hà Hiệp bất bại, Phò mã đắc chí bỗng nở nụ cười chua chát thoáng chút bất lực, “Đông Chước, ngươi theo ta mười mấy năm, trước đây ta có là một người vô tình vô nghĩa thế này không?”

Dưới một người và trên vạn người chỉ là một ảo ảnh xúc động lòng người.

Vương phủ Kính An nắm giữ quân quyền, gia thế hiển hách, nhưng chỉ một vương lệnh của Quy Lạc vương, trong phút chốc cả vương phủ đã hoàn toàn sụp đổ, người chết nhà tan.

Phò mã thì sao? Diệu Thiên là nữ tử yếu mềm không hiểu việc binh, có thể chẳng để ý đến những nỗ lực mà Hà Hiệp đã phải lao tâm khổ tứ, mà dễ dàng ngăn chặn đại chiến giữa Đông Lâm và Vân Thường tửng chừng như sẽ xảy ra trong thoáng chốc.

Còn Hà Hiệp đã mãi mãi mất đi nụ cười và tiếng đàn của Sính Đình. Khi trở về, hắn chỉ còn lại phòng không lầu trống, lá rụng đầy sân,

Bài học kinh nghiệm đã quá nhiều…

Hà Hiệp nhắm chặt hai mắt, giấu đi sự mệt mỏi và bất lực.
 

Hoa Tử

Sưu tầm
Tham gia
24/9/19
Bài viết
10,570
Điểm cảm xúc
1,484
Điểm
113
Chương 52:
Tiếng vó ngựa xé tan bầu trời tứ quốc, kẻ thắng giương oai giễu võ, mặc sức giết chóc, người bại thương tích đầy mình, chết không toàn thây.

Bạc vàng ban thưởng, rượu say thỏa thích, ca hát tưng bừng. Sau các trò hưởng lạc hoang phí cực độ là dân hoảng hốt không chỗ bấu víu trong thời thế loạn lạc và nghĩa quân các nước chạy trốn tìm nơi ẩn náu.

Tạm thời chưa bị khói lửa chiến tranh lan đến chỉ có nơi rừng rậm ken dày, hiểm trở đến nỗi chính quân Vân Thường cũng thấy chiếm được cũng chẳng làm gì. Rừng rậm Bách Lý nằm ở biên giới Bắc Mạc, kéo dài hàng trăm dặm, cây cối ken dày đến nỗi ánh mặt trời không thể chiếu đến tận cùng, bên trong ẩn giấu bao loài ác thú trùng độc.

Ngay cả những tiều phu, thợ săn quanh năm sinh sống ở đó cũng chỉ dám mưu sinh nơi bìa rừng, ít người dám vào sâu bên trong khu rừng thần bí này.

Có ai còn nhớ, trong cảnh rừng rậm ken dày ấy có một ngọn núi.

Đỉnh Điển Thanh.

Trên đỉnh núi sừng sững kiêu ngạo đó từng có một nữ tử thống soái ngàn quân, ngồi ở đầu nguồn dòng nước bên lưng chừng núi, khẽ vốc một vốc nước.

Nước suối trong như đôi mắt nàng, nước suối ngọt tựa tiếng ca của nàng.

Nàng có tài đàn lay động lòng người, những ngón tay thanh mảnh ấy đã bị ép phải nắm giữ quân quyền Bắc Mạn.

Lúc đó, dẫn đại quân đóng tại chân núi, sóng đôi với đội quân của nàng đó là danh tướng nức tiếng khắp thiên hạ, Trấn Bắc vương.

Hôm ấy, giết chóc, âm mưu, quỷ kế đã lần lượt diễn ra nơi đây, cuối cùng cũng chỉ để tác thành cho nàng…

...Và chàng.

Cảnh đời dâu bể còn chưa kết thúc, chuyện cũ lại không thể quay trở lại.

Liệu có ai hiểu được nỗi thê lương trong hình bóng yếu mềm sắp gieo mình xuống vực sâu muôn trượng, sự kiên nghị khi một lần nữa họ thề dưới ánh trăng, và cả cảm giác ngọt ngào khi họ áp tai kề má cùng cưỡi trên lưng ngựa? Còn nữa, lúc cầu treo Vân Nha bị đứt, hai người lơ lửng trên không trung, mặc kệ tất cả mà ôm chặt lấy nhau?

Không.

Không ai hiểu được.

“Tại sao Vương gia lại đến?”

“Vì nàng.”

Người khác không hiểu cũng chẳng có sao? Gió hiểu, mây hiểu, cành liễu rủ, quả chín rụng đầy đã nghe và đã thấy.

Cả vầng trăng trên trời làm chứng.

“Chúng ta thề với ánh trăng, cả đời không phụ bạc.”

Sao có thể?

Lại một mùa quả dại nơi sơn cốc, vẫn gốc cây Sính Đình ngồi dựa hôm nào.

Trấn Bắc vương vang danh một thuở, giờ mai danh ẩn tích ở chính nơi đây.

Chàng đã quên tất cả.

Quên Đông Lâm, Quy Lạc, Bắc Mạn hay Vân Thường, quên quân quyền, vương vị, quên cả tiếng reo hò ngưỡng mộ của muôn dân khi khải hoàn.

Chàng chỉ nhớ, chàng đã đánh mất điều gì đó.

“Ngươi hại chết Sính Đình, ngươi hận Sính Đình, đẩy muội ấy vào tay Hà Hiệp, khiến muội ấy phải cô độc chết nơi đất tuyết.”

Hoa phai lá nhạt, tiêu điều thê lương.

Hào tâm tráng chí như nước sông lặng lẽ chảy về đông.

Sở Bắc Tiệp không còn để ý đến việc bị người đời cười chê rằng nhụt chí, cũng chẳng còn để ý tới uy danh danh tướng thiên hạ của mình.

Bởi chàng đã mất đi Sính Đình.

Sính Đình, Bạch Sính Đình của vương phủ Kính An. Tên nàng đã được truyền khắp tứ quốc, câu chuyện của nàng đã trở thành niềm yêu thích của tất cả mọi người.

Nhưng chỉ có chàng mới thực sự hiểu được nàng là nữ nhân như thế nào mà lại khiến người ta hồn siêu phách lạc.

“Có mê binh quyền, mới được thành danh…”

“Đã thành danh, không ngại dối lừa…”

Chàng đã nghe được tiếng đàn giọng ca đẹp nhất thế gian.

“Dùng binh không sợ dối lừa…”

“Dùng binh không sợ dối lừa…”

Tiếng đàn êm tai như tiếng thác đổ, như suối chảy nơi khe núi, như chim bay giữa tầng không.

Thời gian lặng lẽ trôi qua, nhưng nỗi nhớ nhung thì chưa từng dừng lại.

Cho dù chàng đang hít thở làn gió núi từng lướt qua mái tóc Sính Đình.

Cho dù chàng đang ẩn mình tại sơn cốc chứa bao hồi ức.

Chàng vẫn đau khổ như ngày đầu tiên biết tin Sính Đình đã mãi mãi ra đi.

Sở Bắc Tiệp đờ đẫn ngồi dưới gốc cây, không biết mình đã qua bao nhiêu lần như vậy, cũng chẳng hiểu sẽ tiếp tục thế này bao lâu nữa. Quả dại trong sơn cốc bốn mùa kết trái, chàng không lo đói, thỉnh thoảng hái một quả cho vào miệng nhai, có những quả ngọt ngào, cũng có một, hai quả đắng nghét, tựa nỗi đau trong lòng, nhưng cũng mặc kệ mà nuốt trôi.

Gió núi thổi tới, mang thêm cái lạnh giá đến khu rừng.

Ánh tịch dương chìm xuống phía tây, chỉ còn lại vài áng mây đỏ ối trốn sau chân núi bên kia.

Sở Bắc Tiệp tuy hồn siêu phách lạc, nhưng xương cốt rắn chắc từ nhỏ, không sợ gió lạnh, cũng chẳng lo dã thú kiếm ăn đêm. Chàng ngồi dưới gốc cây đến tận lúc trăng lên, ngẩn ngơ nhớ Sính Đình, trái tim đau như lửa đốt.

Chàng đứng lên khỏi gốc cây, chậm rãi đi về phía căn nhà gỗ nhỏ bé thô kệch của mình.

Từng ngày cứ đơn giản trôi qua như thế, ngay cả Sở Bắc Tiệp cũng chưa từng nghĩ, mình lại có thể vì một nữ nhân mà mài mòn chí khí, cam chịu bó gối nơi rừng sâu.

Sở Bắc Tiệp ngẩng lên, căn nhà gỗ đắp sơ sài đã ở ngay trước mắt, lẻ loi trong sơn cốc, không chút sinh khí như chính chủ nhân của nó.

Lúc này nghĩ lại, chàng mới biết những ngày ở bên Sính Đình, những ngày được nghe tiếng đàn, được ngắm trăng, thưởng tuyết cùng nàng quý giá biết chừng nào.

Kẹt…

Cánh cửa gỗ không khóa từ từ mở ra, những bài trí đơn giản trong gian nhà vẫn y nguyên như mọi ngày dần xuất hiện.

Một vạt màu sắc ngoài ngoài sức tưởng tượng bất chợt lọt vào tầm nhìn của Sở Bắc Tiệp.

Sở Bắc Tiệp đứng trước cửa, chậm rãi ngước mắt lên. Vạt màu đẹp đẽ đó từ từ ngưng tụ lại, như bông hoa lửa, thắp sáng sự sắc nhọn ẩn sâu trong đôi mắt Trấn Bắc Vương, phá tan lớp bụi mờ che phủ bên ngoài.

Trong gian nhà gỗ có thêm bóng hình.

Mảnh mai, dịu dàng, thướt tha, giống như nguồn sáng vô tận đang rọi soi khắp không gian, khiến cho bộ bàn ghế đơn giản, cánh cửa to thô cũng lấp lánh trong luồng ánh sáng huyền ảo đó.

Khắp thiên hạ chỉ có một người, một hình bóng mới có thể tinh tế tấu lên giai điệu của đất trời.

Sở Bắc Tiệp đứng ngẩn ngơ ngoài cửa, ánh mắt lấp lánh tinh anh, chàng đang nhìn thấy kỳ tích.

Kỳ tích mà đời này kiếp này, chàng không dám mơ tới.

Sở Bắc Tiệp thề rằng đây chính là cảnh tượng đẹp nhất trong đời mình.

Sính Đình, nhất định là Sính Đình…

Ngoài Sính Đình, ai còn biết được chốn thâm cốc dưới cầu treo Vân Nha này, nơi họ đã từng trải qua đủ cả bi thương hoan hỷ?

Còn ai biết được mảnh rừng hoang này cất giấu bao chuyện đã qua?

Chỉ có Sính Đình, Sính Đình của chàng.

Sính Đình đã rơi cùng chàng xuống cầu treo Vân Nha, từng khóc, từng cười, từng ôm ấp chàng nơi thâm cốc đầy quả dại này.

Ông trời đoái thương linh hồn nàng vẫn còn ở đây.

Sính Đình, cuối cùng nàng cũng chịu đến gặp ta.

Sở Bắc Tiệp bỗng tiến về phía trước, rồi lại nín thở, đứng sững người.

Không, không được làm nàng sợ, chưa biết chừng cảnh đẹp trước mắt sẽ ngay lập tức tan thành khói, biến thành sương, cuốn theo chiều gió.

Khoảnh khắc ấy, Trấn Bắc vương tiếng tăm lẫy lừng ngày nào lại luống cuống đứng yên tại chỗ, tham lam đứng nhìn nữ tử mà mình yêu thương nhất, chỉ sợ một hơi thở mạnh cũng làm hỏng cảnh tượng này.

Sính Đình cuối cùng nàng cũng chịu gặp ta.

Ta phải nhận lỗi với nàng, vì những tổn thương mà mình đã gây ra cho nàng.

Ta phải đem tất cả sinh tử, vinh nhục của mình để bù đắp cho nàng.

Quên sống liều chết có hề gì, chỉ mong không mất nàng thêm lần nữa.

Đó là sự trừng phạt tàn nhẫn nhất trong thiên hạ.

Sở Bắc Tiệp không dám chớp mắt, những chuyện đã qua ồ ạt kéo đến như dời non lấp biển.

Đau khổ, hối hận, và cả tình yêu ngút trời đang trào dâng trong lòng, dần lan rộng, như muốn vỡ tung, thoát ra khỏi lồng ngực chàng. Vị tướng lĩnh dũng cảm nhất trên sa trường đã không còn khống chế nổi bản thân, bất giác thốt ra cái tên vẫn luôn giày vò chàng: “Sính Đình”.

Có phải là nàng?

Có phải nàng không?

Vầng trăng vẫn sáng vằng vặc trên bầu trời cao, có phải vì nàng vẫn nhớ lời thề của chúng ta, nên hồn đã bay ngàn dặm đến đây thăm ta?

Dáng hình trong gian nhà gỗ khẽ động, tư thế đẹp tựa thần tiên, như làn gió nhẹ mơn man thổi qua những mầm non đầu xuân, ung dung là thế, dịu dàng là thế.

Một giấc mộng mới chân thật làm sao!

Khuôn mặt mà chàng vẫn thường vấn vương thương nhớ từng nét, từng đường hiện ra trước mắt chàng: “Vương gia về rồi”.

Sính Đình, đúng là Sính Đình!

Nước mắt làm nhòe tầm nhìn, nhưng chàng vẫn thấy rõ nụ cười tươi như hoa.

Khuôn mặt tiều tụy mỉm cười, phong thái trác tuyệt vẫn là đây.

Nàng đã trở về.

Sau bao ngày khổ sở vì nỗi thương nhớ cào xé tâm can, cuối cùng nàng đã trở về.

Ý chí và sức mạnh bị mài mòn dường như đang từ dưới lòng đất thấm qua bàn chân lên đến cơ thể, lan sang các mạch máu, Sở Bắc Tiệp cơ hồ muốn quỳ xuống, cảm tạ rừng già Bách Lý.

Cánh rừng này đã cho chàng một kỳ tích, kỳ tích thuộc về đời này kiếp này.

Chàng đứng ngây người, chăm chú nhìn nữ tử thân yêu nhất trong lòng mình đang yêu kiều bước tới.

“Vương gia, Sính Đình đến thỉnh tội.”

Thanh âm tròn trong, mượt mà lay động lòng người, từng tiếng tựa hồ như từng hạt trân châu rơi xuống đĩa bạc, chàng tưởng rằng không bao giờ còn được nghe thêm lần nữa.

Muôn sông ngàn núi, thời gian như khói, biết tìm lau sậy phương nao?

Sính Đình đang ở ngay trước mắt sao mà chân thực, chẳng ai muốn tỉnh dậy khỏi giấc mộng đẹp này.

Trấn Bắc vương khiến quân địch kinh hồn bạt vía trên sa trường, giờ không đủ dũng khí khẽ chạm vào nàng, chỉ sợ rằng vừa chạm nhẹ, tất cả sẽ trở thành hư ảo.

Chàng chỉ dám nhìn nàng đăm đăm, xúc động không nói thành lời.

Tại sao phải thỉnh tội, người cầu xin tha thứ, chẳng lẽ không phải là ta?

“Sính Đình phạm một sai lầm mà tất cả nữ tử đều phạm phải”, Sính Đình nhìn chàng chăm chú, giọng dịu dàng, “Sính Đình đã khiến nam nhân yêu thương mình phải đau khổ”.

Nàng nhướng môi, cười khổ: “Nhưng, Sính Đình cũng rất đau khổ vì vương gia”.

Giai nhân gần ngay trước mắt.

Sính Đình mím môi, nụ cười làm mê hoặc lòng người.

Nụ cười của nàng thật đẹp, đến nỗi Sở Bắc Tiệp phải liều mình, giơ bàn tay ra, nắm lấy tay nàng.

Lòng bàn tay chàng cảm nhận được sự mềm ấm.

Sở Bắc Tiệp không thể nào tin, nhìn chằm chằm một Sính Đình không phải hồn phách đang ở ngay trước mắt. Chàng buông bàn tay ấy xuống, rồi nâng niu nắm lấy bàn tay ngọc của nàng.

Ấm.

Làn da mềm dịu, ấm áp, ấm đến nỗi những giọt nước mắt cố nén lại của Sở Bắc Tiệp phải lăn từng hạt.

Nàng vẫn sống.

Không phải hồn phách, mà là một Sính Đình bằng xương bằng thịt!

Niềm vui tìm lại được báu vật đã đến với Sở Bắc Tiệp.

“Sính Đình… Sính Đình, nàng còn sống?” Chàng dang rộng vòng tay, mặc kệ tất cả mà ôm chầm lấy nàng.

Sính Đình dịu dàng tựa vào lòng chàng, khẽ nói: “Sính Đình không mất mạng nơi miệng sói. Sính Đình đã khiến Vương gia lo lắng, Vương gia có giận không?”.

“Không, không.” Sở Bắc Tiệp xúc động lắc đầu.

Niềm vui lan rộng toàn thân.

Giận gì chứ? Sính Đình vẫn còn sống, nàng vẫn còn sống, vẫn còn sống!

Đó là niềm hạnh phúc nhất thế gian, sao phải giận?

Hạnh phúc đang ca hát nhảy múa quanh chàng.

Cảm tạ trời đất, cảm tạ sông núi, rừng già, các vị thần linh, Sính Đình vẫn còn sống!

Sở Bắc Tiệp lầm rầm thành kính cảm tạ ông Trời đã ban cho mình một kỳ tích.

Làn hương quen thuộc, làn hương chỉ thuộc về Sính Đình đang ùa vào mũi, chàng ôm lấy thân hình mảnh mai của nàng. Như đã đánh mất khả năng nói chuyện, chàng không biết dùng từ nào để biểu đạt niềm vui và nỗi xúc động trong lòng.

Sở Bắc Tiệp ra sức cảm nhận vòng tay có Sính Đình, cảm nhận thân thể dịu dàng ấm áp của nàng, từng nhịp đập của trái tim, và những cử động dù là nhỏ nhất.

Chàng run rẩy sợ hãi, cẩn trọng nâng niu, cố kìm lại đôi tay run rẩy để ôm chặt nữ nhân trong lòng mình.

Đời này kiếp này, chàng sẽ không bao giờ buông tay.

Thành đô Vân Thường, mặt trời vừa lên.

Sau một đêm dài dằng dặc, cuối cùng Phò mã cũng vào cung.

Vương cung có thêm bao bảo vật được cống tiến, càng thêm rực rỡ đẹp mắt. Trần, cột chạm khắc tinh xảo vẫn chưa từng thay đổi, nhưng thị vệ canh giữ trong ngoài vương cung đã đã hoàn toàn mới. Giờ đây, thị vệ đều là các dũng sĩ trăm người chọn một, chỉ tuân theo mệnh lệnh của Phò mã, thận trọng bảo vệ Diệu Thiên công chúa - chủ nhân trên danh nghĩa của Vân Thường.

“ Phò mã.”

“Tham kiến Phò mã…”

Bước qua mấy vòng thị vệ, cuối cùng Hà Hiệp cũng đến khoảng sân tinh tế nhất vương cung. Hà Hiệp ngẩng cao khuôn mặt tuấn tú khí phách của mình, nhìn lên.

Hà Hiệp đã thấy Diệu Thiên.

Trên lầu cao, thê tử hoài thai sáu tháng của Hà Hiệp đang ngồi bên cửa sổ. Diệu Thiên đã vứt bỏ phục sức công chúa rườm rà hoa lệ, thay bằng chiếc áo lụa một màu thanh thoát, mái tóc như thác đổ, dịu dàng xõa xuống vai.

Thấy Diệu Thiên, một cảm giác phức tạp khó gọi tên trào dâng trong lòng Hà Hiệp.

Nàng là ngọn nguồn quyền lực của Hà Hiệp, trong lúc hắn gặp hoạn nạn khốn khổ nhất, nàng đã đem đến cho hắn một tia hy vọng mới.

Nhưng, nàng cũng là chướng ngại ngăn cản Hà Hiệp nắm được quyền lực.

Một ngày vương tộc Vân Thường còn tồn tại, Hà Hiệp sẽ không thể có đội quân tận trung với mình để lập nên tân quốc.

Hà Hiệp sẽ không thể bước lên vương vị.

Dù có mở rộng thêm bao nhiêu lãnh thổ, hắn cũng là một vị Phò mã của Vân Thường, hoặc phụ thân của quân vương Vân Thường trong tương lai.

Hắn vẫn phải quỳ gối trước thê tử của mình, sau này vẫn phải hành lễ với nhi tử của mình.

Hà Hiệp tâm trạng nặng nề, chầm chậm bước lên bậc thềm.

“Công chúa.”

Diệu Thiên ngồi bên cửa sổ, nghe thấy giọng phu quân, hồi lâu mới từ từ quay lại, khuôn mặt đẹp nhợt nhạt, khẽ nói: “Cuối cùng Phò mã cũng chịu đến gặp thiếp”.

Hà Hiệp trịnh trọng hành lễ với nàng, rồi tiến lên mấy bước, ngồi đối diện Diệu Thiên: “Công chúa có khỏe không?”.

“Thiếp rất khỏe.” Diệu Thiên từ tốn đáp một câu, ánh mắt nhìn xuống vai Hà Hiệp, thần sắc thay đổi, rồi ngay lập tức lấy lại vẻ bình thản, hỏi, “Phò mã có khỏe không?”.

Hà Hiệp cúi đầu, nhìn xuống vai mình, lạnh nhạt: “Tắc Doãn gửi thư giao chiến, không hổ là thống lĩnh cao nhất của quân Bắc Mạc, cuối cùng cũng có thể đả thương ta. Công chúa có lo cho ta không?”.

Hà Hiệp nhìn thẳng vào mắt Diệu Thiên, thấy trong đó chứa đựng nỗi thất vọng, đau lòng không thể che giấu và cả sự hận thù như trong dự liệu của mình.

“Công chúa hận ta sao?”, Hà Hiệp thở dài.

“Nếu nói phải, Phò mã có giết thiếp không? Giống như đã giết Thừa Tướng và những người khác”.

Khuôn mặt anh tuấn thoáng nỗi thương tiếc, Hà Hiệp đứng dậy, đỡ Diệu Thiên đứng theo: “Công chúa hãy theo ta”.

Hà Hiệp dẫn theo Diệu Thiên đến hiên ngoài trên lầu cao, nhìn ra bốn phía.

“Công chúa xem, chiến mã của chúng ta đã đi khắp thiên hạ không còn cửa ải nào có thể ngăn nổi đại quân Vân Thường. Đất đai của tứ quốc đã thuộc về Vân Thường, lời hứa của Hà Hiệp với Công chúa sắp được thực hiện. Chúng ta là phu thê, chẳng lẽ Công chúa lại không vui mừng cho ta?”

Diệu Thiên nhìn xuống, hồi lâu môi hồng mới động: “ Phò mã, thiếp nên vui mừng vì Phò mã sắp có được thiên hạ, hay nên buồn thương cho vương tộc Vân Thường sắp đi hết đoạn đường?”.

“Công chúa?”

Diệu Thiên bỗng ngẩng đầu, nắm lấy bàn tay Hà Hiệp, dịu giọng khẩn cầu: “Nếu Phò mã vẫn còn chút tình cảm với Diệu Thiên, xin chàng hãy lập lời thề, quyết không lập tân quốc. Hãy hứa với Diệu Thiên, vương tộc Vân Thường sẽ không biến mất trong cuộc chinh chiến liên tiếp thắng lợi này”.

Nàng nhìn vào đôi mắt sáng như sao của Hà Hiệp. Diệu Thiên tuy bị giam lỏng, nhưng vẫn là người cao nhất của vương tộc Vân Thường, nắm giữ vương quyền được cả quốc gia công nhận. Hà Hiệp nhất thời không dám nhìn vào mắt Diệu Thiên, giằng ra khỏi tay nàng, quay lưng lại, thở dài: “Sao công chúa lại nghĩ thế? Chúng ta là phu thê, dù ta có là đại vương, Công chúa cũng sẽ trở thành vương hậu, thân phận vẫn tôn quý. Hơn nữa, công chúa đang mang trong mình cốt nhục của ta…”.

Nàng gằn từng tiếng: “Hài nhi trong bụng thiếp mới là đại vương tương lai”.

Nghe thấy giọng nói của Diệu Thiên đã trở nên lạnh lùng, Hà Hiệp quay lại, dịu dàng: “Công Chúa…”.

“Phò mã đừng nói nữa, hãy về đi”, Diệu Thiên kiên quyết ngắt lời Hà Hiệp.

Hà Hiệp sững lại.

Khuôn mặt bình tĩnh, Diệu Thiên đứng đó với vẻ tôn quý ung dung thiên bẩm và sự kiêu ngạo từ trong cốt cách. Khoảnh khắc ấy, Hà Hiệp cảm nhận sâu sắc, thê tử xinh đẹp dịu dàng, luôn xiêu lòng trước lời lẽ đường mật của phu quân thực ra từ đầu đến cuối, chỉ đại diện cho một vương tộc già nua.
 

Hoa Tử

Sưu tầm
Tham gia
24/9/19
Bài viết
10,570
Điểm cảm xúc
1,484
Điểm
113
Chương 53:
Rừng rậm Bách Lý.

Gian nhà gỗ giờ tràn đầy hân hoan và sức sống.

Tuy rất yên tĩnh, nhưng niềm vui trong đó thật khiến người ta không thể ngó lơ.

Hai con người hạnh phúc đang kề bên nhau trên chiếc giường gỗ, không sao đi vào giấc ngủ.

“Sao đêm nay sáng quá”. Sở Bắc Tiệp ôm lấy Sính Đình cứ ngỡ đã mất đi nay bỗng trở về.

Sính Đình bật cười.

“Có gì buồn cười thế?”

“Cuối cùng Vương gia cũng chịu lên tiếng.” Nàng cười dịu dàng, thấy Sở Bắc Tiệp nhìn mình chăm chăm thì xấu hổ hỏi: “ Vương gia nhìn gì?”.

Nhìn hồi lâu, Sở Bắc Tiệp mới cảm thán: “Sính Đình, nàng thật đẹp”.

Trong lòng vô cùng cảm động, Sính Đình khẽ nói: “Vương gia gầy đi nhiều. Đều tại Sính Đình không tốt”.

“Việc này không liên quan đến nàng, là ta cam tâm tình nguyện. Ta có tình cảm với Sính Đình, nên ta nguyện làm bất cứ việc gì cho Sính Đình, để mỗi ngày trôi qua đều là vì Sính Đình.”

Im lặng hồi lâu, Sính Đình chậm rãi nói; “Chẳng phải chàng là đại trượng phu có chí lớn ôm toàn thiên hạ sao?”.

“Có thể một lòng một dạ, không chùn bước trước khó khăn mới là chí lớn.” Sở Bắc Tiệp nhẹ nhàng vuốt mái tóc Sính Đình, khảng khái đáp, “Chí lớn của ta chính là khiến nàng trở thành nữ tử hạnh phúc nhất thế gian”.

Sính Đình ngẩng đầu, sóng mắt mênh mang, khẽ nói: “Vương gia nghĩ thế thật sao?”.

Sở Bắc Tiệp giơ hai ngón tay, vẻ mặt hoàn toàn nghiêm túc: “Sở Bắc Tiệp ta xin thề với trời, đời này kiếp này sẽ không bao giờ thay đổi những lời ta vừa nói”.

Sính Đình cảm động nhìn chàng, nước mắt rơi, nàng khẽ khép đôi mi: “Vậy… Vương gia có bằng lòng làm cho Sính Đình một việc?”.

Sở Bắc Tiệp dịu dàng, đáp: “Đừng nói là một việc, cả vạn việc cũng được. Chỉ cần là tâm nguyện của nàng, sẽ không có ai ngăn nổi Sở Bắc Tiệp làm điều đó vì nàng”.

Sính Đình ngẩng lên, nhìn chăm chăm nam nhân thân yêu trước mặt. Hàng mày khí phách vẫn đậm, sống mũi thẳng tắp, đôi môi mỏng, tất cả đều như trong giấc mơ, trong nỗi nhớ của nàng.

Hóa ra, nàng chưa từng quên, dù là điều nhỏ nhất của chàng.

Đây là nam nhân thân yêu nhất của nàng.

Trong ba kiếp, e là chỉ một kiếp mới có được tình yêu sâu đậm đến vậy.

Yêu sâu đậm, đau cũng sâu đậm, chịu bao vất vả mà vẫn như con thiêu thân lao đầu vào lửa.

Nàng với tay, lấy trong tay nải đặt đầu giường ra một vật.

“Vương gia đã từng để thanh kiếm này ở biệt viện ẩn cư, bảo đảm cho sự an nguy của Sính Đình.” Nay, liệu Vương gia có bằng lòng cầm lại thanh kiếm này dẹp yên thiên hạ, thống nhất tứ quốc, để Sính Đình được sống yên vui trong cảnh thái bình?”.

Hoàn toàn cách ly với thế giới bên ngoài, Sở Bắc Tiệp chưa từng nghe tới tin tức loạn lạc, bất giác sững người. Với tâm tính của Sính Đình, chưa đến lúc vạn bất đắc dĩ, chắc chắn nàng sẽ không đưa ra lời thỉnh cầu như thế.

“Vương gia không muốn sao?”, Sính Đình hạ giọng hỏi.

Vốn cả đời binh nghiệp, thứ Sở Bắc Tiệp không sợ nhất chính là sa trường, là chém giết. Huống hồ người đưa ra thỉnh cầu lại là Sính Đình. Sau giây phút sững lại, chàng cất giọng cười sang sảng: “Để thê tử của mình được sống yên vui trong thiên hạ thái bình là việc mà tất cả nam nhi nên làm”.

Sở Bắc Tiệp ngay lập tức nhận lấy bao kiếm, cảm giác quen thuộc ùa về trong lòng bàn tay. Thần uy bảo kiếm bị bỏ lại trên linh đường hôm đó nay đã về tay chủ nhân.

Thanh bảo kiếm nặng trịch, lạnh băng… Chàng vẫn nhớ rõ từng hoa văn khắc trên cán kiếm.

Thanh bảo kiếm đã từng chỉ huy cả thiên quân vạn mã, giết sạch kẻ địch.

Kiếm rút ra khỏi vỏ, thiên hạ chấn động.

Đây là kiếm của Trấn Bắc vương.

Đôi mắt Sở Bắc Tiệp lại lấp lánh ánh sáng ngạo mạn nhìn thiên hạ.

Nữ nhân thương yêu của chàng đã trở về, kiếm của chàng đã nắm trên tay.

Hào tâm tráng khí của chàng đã thức tỉnh.

Rừng rậm Bạch Lý ban tặng cho chàng một kỳ tích, chàng phải trả lại thế gian này một kỳ tích khác.

Chàng sẽ dùng thanh bảo kiếm trong tay để chinh phục thiên hạ, vì nữ nhân tuyệt vời nhất thế gian.

Tuy vương cung Đông Lâm đã bị huỷ diệt, nhưng một ngày còn vương tộc Đông Lâm, thì quốc gia đó vẫn chưa bị diệt vong hoàn toàn.

Từ khi xảy ra chiến loạn đến nay, tuấn mã của Hà Hiệp tung vó khắp nơi, chỉ huy các chiến dịch. Hà Hiệp trước nay đối phó với kẻ địch thủ đoạn nhanh gọn, chưa từng do dự, nhưng cứ nghĩ đến việc xử lý Diệu Thiên như thế nào, lại cảm thấy chần chừ.

Những ngày trở về thành đô Vân Thường, đã mấy lần Phi Chiếu Hành nhắc đến chuyện này, Hà Hiệp đều đẩy lui: “Trước mắt không vội, đợi đến khi chúng ta đối phó xong với vương tộc Đông Lâm và Quy Lạc, rồi tính tiếp”.

Phi Chiếu Hành liên tục khuyên nhủ: “ Phò mã, việc này không lớn cũng chẳng nhỏ. Không xử lý sớm, e là sau này sẽ thành tai hoạ”.

Hà Hiệp quá hiểu điều này.

Đại quân chinh chiến dưới trướng của Hà Hiệp, ngoài số ít hàng binh mới thu phục được và tàn binh mới thu nhận, quân chủ lực đều đến từ đội quân Vân Thường. Giả dụ tin Diệu Thiên bị giam lỏng trong cung truyền ra ngoài, hoặc Diệu Thiên dẫn đầu phủ nhận quyền thống soái của Hà Hiệp, thì chắc chắn sẽ làm dao động cục diện thắng lợi hiện nay.

Chẳng lẽ phải ra tay với thê tử của mình? Hà Hiệp vô cùng buồn phiền. Thân không ở trên sa trường, không ngửi thấy mùi máu tanh và mùi khói lửa quen thuộc, suốt ngày chỉ rượu ngon đàn hay càng khiến ruột gan Hà Hiệp nóng như lửa đốt. Thấy sắc mặt đáng sợ của hắn, các đại thần trong triều đều giật mình, chẳng biết mình có vô tình đắc tội với phò mã không, họ sợ rằng nỗi bi thảm của Quý gia sẽ xảy đến với bản thân mình.

May mà chưa được mấy hôm lại có quân báo.

“Đã phát hiện thấy nơi lẩn trốn của vương tộc Đông Lâm và đã bao vây lại.”

“Được!”, Hà Hiệp cười đáp, “Vương tộc Đông Lâm thoi thóp bao nhiêu ngày nay, lần này quyết không để bọn chúng tiếp tục chạy trốn. Truyền lệnh, bao vây chặt bọn chúng, nhưng chưa vội ra tay. Bản phò mã sẽ đích thân xử lý chúng”.

Đuổi lui lính truyền tin, Hà Hiệp lập tức điểm binh xuất phát. Vốn tính tình cẩn trọng, biết rõ ở thành đô Vân Thường vẫn có những đại thần chỉ vì sợ chết, chứ không thật lòng khuất phục, cần phải lưu ý, nên Hà Hiệp đã lệnh cho Phi Chiếu Hành cùng Đông Chước ở lại trông coi thành đô.

Không ngờ, chưa được ba ngày, đoàn quân vừa ra khỏi thành đô được hơn hai trăm dặm, Phi Chiếu Hành đã phi ngựa tới, ngăn đoàn quân của Hà Hiệp.

“Phò mã ở đâu?”

Hà Hiệp dừng ngựa, quay lại nhìn, thấy Phi Chiếu Hành mặt đầy bụi đường, bên cạnh chỉ dẫn theo vài cận vệ, biết là thành đô có chuyện chẳng hay, cất giọng gọi: “ Chiếu Hành, lại đây!”.

Đuổi hết những người xung quanh, dẫn Phi Chiếu Hành ra chỗ vắng vẻ, Hà Hiệp xuống ngựa, hỏi: “Thành đô đã xảy ra chuyện gì?”.

Sự việc khẩn cấp, Phi Chiếu Hành còn không kịp lau bụi trên mặt, vội vàng lấy trong người ra một bức thư đưa cho Hà Hiệp, vẻ mặt vô cùng nặng nề.

Hà Hiệp nhận lấy bức thư, mở ra, lướt qua hai dòng, sắc mặt đã trở nên khó coi cực độ, càng đọc, hai hàng mày càng cau lại, khuôn mặt như được phủ một lớp băng, trầm trọng: “Đây là vương lệnh. Là… nét chữ của Công chúa sao?”. Ánh mắt hắn tối sầm khiến người ta khiếp sợ.

“Vâng. Nét chữ đã tìm người đối chiếu, không phải ngụy tạo, chính xác là của Công chúa.”

“Ở đâu ra?”

Phi Chiếu Hành bẩm báo: “Phát hiện thấy trên người một cung nữ lén lút ra khỏi cung”.

Hà Hiệp gầm lên: “Chẳng phải đã nghiêm cấm những cung nữ bên cạnh rời khỏi Công chúa nửa bước sao? Bao nhiêu thị vệ canh giữ, sao lại để một cung nữ lọt được ra ngoài? Còn mang theo bức thư thế này?”.

“Phò mã bớt giận”, Phi Chiếu Hành bình tĩnh đáp, “Việc này đã điều tra rõ ràng, do thị vệ đó đã nhận hối lộ. Hiện thị vệ đó đang bị nhốt, vì lo rằng còn có ẩn tình bên trong, cần tiếp tục tra hỏi”.

“Phải điều tra kỹ.” Đáy mắt Hà Hiệp như kết thành một lớp băng, sắc mặt đã khôi phục vài phần ung dung: “Đã tra khảo cung nữ đó chưa? Khai báo những gì?”.

Phi Chiếu Hành đáp: “Cung nữ nhát gan, chưa cần dùng đại hình sợ quá mà khai hết. Bức thư này do Công chúa viết rồi giao cho cung nữ Lục Y, Lục Y giao cho cung nữ đó để đưa đến Chưởng ấn[1] đại nhân, Chưởng ấn đại nhân sẽ giao cho một số quan viên khác”.

[1] Chưởng ấn là người giữ con dấu, người nắm quyền chủ sự.

“Một số quan viên?”, Hà Hiệp cười gằn, “Rốt cuộc là những kẻ nào mà lại chán sống như thế! Danh sách đâu?”.

Phi Chiếu Hành khom người, đáp: “Chắc chắn trong tay Chưởng ấn đại nhân có danh sách. Trước khi rời khỏi thành đô, thuộc hạ đã cử người bí mật bắt giữ Chưởng ấn đại nhân, hiện đang dùng cực hình tra khảo. Việc nay vô cùng quan trọng, thuộc hạ đã ra nghiêm lệnh không được để lọt tin tức ra ngoài. Đông Chước ở lại trông coi thành đô, thuộc hạ đuổi theo bẩm báo với Phò mã”.

Phi Chiếu Hành làm việc gọn ghẽ, xử lý xác đáng, rất có tài ứng biến khiến Hà Hiệp phải nhìn bằng ánh mắt tán thưởng.

Bẩm báo xong, Phi Chiếu Hành ngừng một lát, rồi hạ giọng nói tiếp: “Phò mã, xin Phò mã hãy lập tức quay về thành đô. Việc quan trọng bây giờ không phải vương thất Đông Lâm, mà là thành đô Vân Thường. Công chúa đã ra tay, ngộ nhỡ trong ngoài đều biết tin, e là sự việc sẽ khó giải quyết. Đám quan văn gan nhỏ, không đáng sợ, nhưng trên danh nghĩa Công chúa vẫn là chủ nhân của Vân Thường, ngoài Phò mã, sẽ chẳng ai dám đối phó với Công chúa”.

“Công chúa lại dám tự tay viết vương lệnh, muốn các đại thần bí mật trù tính, liên kết với nhau, truất quyền dẫn binh của ta…” Hà Hiệp nhìn vương lệnh trong tay, nộ khí trào lên, năm ngón tay co lại, vò nát vương lệnh trong đó. Nghiến chặt răng, không hề lên tiếng, hồi lâu Hà Hiệp mới lấy lại bình tĩnh, hỏi, “Công chúa đã biết việc cung nữ kia bị chặn chưa?”.

“Chắc là không biết. Cung nữ đó bị bắt ngay trên đường đi đến phủ đệ của Chưởng ấn đại nhân. Công chúa ở tận trong cung có các thị vệ trông coi cẩn mật, không ai được nói chuyện với Công chúa và các thị nữ bên cạnh.”

Hà Hiệp gật đầu: “Ta và ngươi hãy lập tức quay về thành đô. Việc này không thể kéo dài, phải giải quyết một lần cho xong”.

Phi Chiếu Hành gật đầu, đáp: “Đúng thế”.

Việc không thể chậm trễ, ra quyết định xong, Hà Hiệp lập tức lệnh một nửa quân theo về thành đô, một nửa còn lại, thì chọn ra vị tướng quân thống lĩnh tiếp tục lên đường. Hà Hiệp hạ lệnh: “Đến Đông Lâm, truyền soái lệnh của bản Phò mã, lập tức đối phó với vương thất Đông Lâm đang bị bao vây. Bắt sống vương hậu đang nắm giữ đại quyền Đông Lâm cho ta, đó là chiến lợi phẩm của bản Phò mã. Những kẻ khác không cần giữ lại.”

Sau khi bố trí thỏa đáng, Hà Hiệp cùng Phi Chiếu Hành dẫn theo binh mã quay về thành đô.

Họ đi cả chặng đường ngày đêm không nghỉ, bí mật trở về thành đô. Đến cổng thành, Phi Hành Chiếu hạ giọng, hỏi: “Phò mã, có nên tới vương cung trước không?”

Hà Hiệp lắc đầu: “Về phủ Phò mã”.

Trong phủ Phò mã, Chưởng ấn đại nhân không chịu nổi đòn tra khảo nên đã giao nộp toàn bộ danh sách các quan bí mật liên hệ được cho Hà Hiệp . Hắn quét qua một lượt bản danh sách rồi gọi một phó tướng tin cẩn vào, hạ lệnh: “Lập tức truyền quân lệnh của ta, nói rằng phát hiện trong thành đô có thích khách Quy Lạc, toàn thành giới nghiêm, bất cứ ai cũng không được tùy tiện ra phố.”

Sau khi ra thiết quân luật, Hà Hiệp nói với Đông Chước: “Phần lớn các quan văn trong danh sách đều đang ở thành đô, hãy lấy lý do giới nghiêm, cử tướng sĩ đến trông coi các phủ đệ, cẩn thận không được để lộ tin tức ra ngoài”.

Đông Chước đáp một tiếng, rồi đích thân đi dặn dò, bố trí.

“Có một việc cần Chiếu Hành lập tức đi làm”, Hà Hiệp quay sang nhìn Phi Chiếu Hành, “Các tướng lĩnh trong cung đều nhận ân huệ của ta, tin phục ta. Nếu Vân Thường có biến lớn, sẽ rất nhiều người chọn ủng hộ ta, nhưng Đại tướng quân Thương Lộc lại không nằm trong số đó. Thương Lộc đời đời nhận trọng ân của vương thất Vân Thường, ngu muội hết mức, làm người cứng nhắc, không biết ứng biến. Nếu ta chính thức lên ngôi, chắc chắn hắn sẽ là người đầu tiên trong quân phản đối”.

Nói tới đây, Phi Chiếu Hành hiểu ngay: “Phò mã cứ giao phó”.

“Nay Thương Lộc đang đóng quân tại Bắc Mạc. Ta sẽ viết một đạo quân lệnh bảo hắn trong ngày hôm nay phải lập tức xuất phát đến Quy Lạc, tìm cơ hội quyết chiến với Đại tướng Quy Lạc Nhạc Chấn. Ngươi nhận lấy quân lệnh, tự mình đi một chuyến đến Bắc Mạc tuyên lệnh. Còn nữa, ta muốn ngươi dẫn theo cánh quân Úy Bắc cùng Thương Lộc tiêu diệt đại quân của Nhạc Chấn. Trận chiến này, Thương Lộc là phó tướng, ngươi là chủ tướng. Ngươi biết nên làm thế nào rồi chứ?”

Phi Chiếu Hành là người nhanh nhạy, nghe vậy liền gật đầu: “Tướng quân trăm trận chết, tráng sĩ mười năm về. Hai quân giao chiến, khó tránh được tử thương, Thương Lộc thân là đại tướng Vân Thường, hy sinh trên sa trường cũng là hợp tình hợp lý. Phò mã cứ yên tâm”.

Hà Hiệp lấy bút viết hai vương lệnh, một cho Thương Lộc, một giao cho Phi Chiếu Hành nắm giữ đại quyền chủ tướng trận chiến với Quy Lạc này. Viết xong, Hà Hiệp đặt bút xuống, cười nhạt: “Thương Lộc phải xử lý, Nhạc Chấn cũng không thể cho qua. Lần này huy động đến hai cánh quân là thừa binh lực. ta chỉ lo tình chủ tớ giữa ngươi và Nhạc Chấn ngày trước, sợ đến lúc lâm trận ngươi lại mềm lòng”

Phi Chiếu Hành cung kính nhận lấy quân lệnh, đáp: “Chiếu Hành vì Nhạc gia vào sinh ra tử, để đổi lấy kết cục “thố tử cẩu phanh, điểu tận cung tàn[2]”, còn đâu tình chủ tớ. Nhạc Chấn tài năng tầm thường, chỉ dựa vào công lao của tổ tông mà thành đại tướng quân, thuộc hạ nhất định phải đánh cho hắn tan tác”. Nói xong, Phi Chiếu Hành cẩn thận cất hai vương lệnh vào người, rồi hạ giọng, “Phò mã, vương cung…”

[2] “Thố tử cẩu phanh, điểu tận cung tàn” nghĩa là “thỏ chết thì chó săn bị đem nấu, chim chết thì cây cung bị cất đi”, ý chỉ kết cục nhận được là sự vong ân bội nghĩa.

Hà Hiệp cắt ngang: “Ta sẽ xử lý. Ngươi cứ đi đi”.

Hà Hiệp đuổi lui Phi Chiếu Hành, thư phòng hoa lệ bỗng trở nên yên tĩnh.

Hà Hiệp đứng đó hồi lâu, rồi lấy trong người ra bức thư do chính tay Công chúa viết. Hà Hiệp đặt bức thư đã vò nát mấy ngày trước trong lúc giận dữ lên bàn, chậm rãi vuốt thẳng ra, xem lại một lượt. Khuôn mặt tuấn tú bình tĩnh, đôi mắt sắc sảo sáng quắc, không biết ẩn chứa bao nhiêu suy nghĩ phức tạp.

Dặn dò xong, Đông Chước liền quay lại, vừa bước vào thư phòng, thấy bóng Hà Hiệp bỗng sững người, một bàn chân vẫn còn ở nguyên ngoài bậu cửa.

Hà Hiệp như đang chất chứa bao nỗi âu sầu, vóc dáng cao lớn nặng hơn núi, dù có dùng sức lực toàn thân e là Đông Chước cũng không thể dịch chuyển.

“Đông Chước à? Vào đi.”

Đông Chước đang đứng sững ngoài cửa, nghe Hà Hiệp gọi liền bước vào, chậm rãi tiến đến bên bàn, đứng cạnh thiếu gia, cúi xuống, nhìn vương lệnh do chính Công chúa Diệu Thiên viết đang đặt trên bàn. Đương nhiên là Đông Chước biết rõ trong đó viết những gì, bèn thở dài một tiếng, hạ giọng hỏi Hà Hiệp: “Thiếu gia định xử trí Công chúa thế nào?”

“Các ngươi đều hỏi ta cùng một câu hỏi khó.” Hà Hiệp cười chua chát rồi mím làn môi mỏng, khuôn mặt lạnh lẽo hơn thường ngày: “Nếu bức thư này đến được tay các quan, còn ta vẫn đang ở ngoài thành đô, một khi bọn họ khởi sự thành công, cứu được Công chúa, lòng quân Vân Thường sẽ dao động.”

“Thiếu gia…”

Hà Hiệp mặc kệ Đông Chước, tiếp tục trầm giọng: “Công chúa nắm giữ đại cục lại xuất hiện trước mặt thần dân, dù ta có bao nhiêu chiến công, đánh thắng bao nhiêu trận, đạt được bao nhiêu thắng lợi hiển hách, binh sĩ của đại quân Vân Thường cũng vẫn dần quay lưng lại với ta. Bởi đối thủ của ta là chủ nhân Vân Thường. Quân lính và chúng dân không biết lựa chọn một người có tài, mà chỉ biết đến sự trung thành ngu xuẩn, chỉ biết tận trung với vương thất”.

Từng tiếng Hà Hiệp nói ra đều như tạc bằng băng. Đông Chước nghe thấy mà rùng mình, khẽ mấp máy môi, định nói gì, nhưng bỗng thấy lưỡi như tê cứng, không nói được lời nào.

Sự thật là, giả dụ Diệu Thiên có cơ hội phế bỏ quyền lực của Hà Hiệp, Hà Hiệp sẽ thất bại thảm hại. Vương lệnh viết rõ ràng rằng: Phò mã mưu đồ thành lập tân quốc là tội danh mưu phản, sẽ bị xử cực hình.

Không khí trong thư phòng như đông kết, làn gió mát lành cũng không thể xua tan lớp băng âm u của tranh quyền đoạt thế.

“Ngươi nói xem, Công chúa có thật lòng với ta không?”, Hà Hiệp đột nhiên quay lại hỏi Đông Chước.

Đông Chước vẫn ủ ê hồi lâu, cũng miễn cưỡng khuyên nhủ: “Thiếu gia, Công chúa viết như thế cũng chỉ vì sự tồn vong của vương thất Vân Thường, vì tình thế bức bách. Trong lòng Công chúa…”

Hà Hiệp nhìn Đông Chước, bỗng nở nụ cười ôn hòa: “Trong lòng Công chúa thực ra không muốn giết ta, đúng không?”

Nhìn nụ cười của Hà Hiệp, Đông Chước bỗng cảm thấy toàn thân lạnh toát, vốn định gật đầu nói đúng, nhưng giằng co hồi lâu, cuối cùng phải thở dài một tiếng, buồn bã nói sự thật: “Thiếu gia nghĩ rất đúng, nếu Công chúa nắm được đại quyền, thì dù Công chúa không nỡ, cũng sẽ bị các đại thần gây áp lực xử thiếu gia tội chết”.

Đang rầu rĩ việc này, câu nói thật thà của Đông Chước như cái kim chọc vỡ u nhọt trong lòng Hà Hiệp. Đông Chước bất chấp hậu quả nói ra sự thật, cũng chẳng biết Hà Hiệp sẽ phản ứng thế nào, đành cụp mắt xuống, không dám nhìn thiếu gia.

Hồi lâu, Đông Chước mới nghe thấy tiếng thở dài.

Hà Hiệp nói: “Ta phải chuẩn bị một phần lễ vật, vào cung gặp Công chúa”

Bắc Mạc.

Cách thành Kham Bố về phía đông tám dặm là cổ thành Giang Linh.

Thành trì hoang phế, tường thành đã sụp đổ quá nửa.

Cát vàng phủ mặt đất.

“Thượng tướng quân, uống chút nước đi”.

Gáo nước binh sĩ dâng lên vàng và đục ngầu. Hoàn cảnh ở thành Giang Linh vô cùng khắc nghiệt. Nguồn nước, nguồn lương thực đều thiếu trầm trọng, nhưng nơi đây có địa hình hiểm trở, mật đạo trong thành lại thông đi khắp nơi, dù có bị đại quân Vân Thường chú ý tới, cũng có thể may mắn thoát chết.

Nhược Hàn nhận lấy gáo nước, uống một ngụm, rồi đưa cho các tướng sĩ bên cạnh: “Các ngươi cũng uống chút nước đi.”

Trận chiến Chu Tình, đội quân Bắc Mạc bị Hà Hiệp đánh cho tan tác. Nhược Hàn thoát chết, sau đó có mấy lần tổ chức tàn binh đứng lên phản kháng nhưng kẻ thù là danh tướng Hà Hiệp, nên lần nào cũng phải chạy trốn vào rừng.

Thực lực chênh nhau, binh lực, tướng tài của Bắc Mạc không thể so với đối phương, tính đến nay, Nhược Hàn có thể giữ được mạng sống và những tướng sĩ bên cạnh đã không phải là chuyện dễ dàng.

Tuy vậy, các tướng sĩ Bắc Mạc vẫn chưa từng có ý nghĩ đầu hàng Hà Hiệp .

Một binh lính bên cạnh ngẩng đầu nhìn mặt trời thiêu đốt, bỗng hỏi: “Thượng tướng quân đoán xem hôm nay Sâm Vinh tướng quân sẽ mang theo bao nhiêu binh mã trở về?”

“Sẽ không ít đâu”, Nhược Hàn trả lời, bất giác cũng thấy lòng mình nóng bừng.

Nhược Hàn nhớ đến vị tướng quân mà mình đi theo trước đây, thượng tướng quân thiện chiến, kiêu dũng nhất Bắc Mạc, Tắc Doãn.

Từ khi câu chuyện về Tắc Doãn thượng tướng quân công khai khiêu chiến với Hà Hiệp được truyền ra ngoài, dân chúng bí mật gia nhập nghĩa quân ngày càng đông.

Mọi người đều biết câu chuyện này là thật.

Hà Hiệp đã đổ máu, sẽ có một ngày, Hà Hiệp thất bại. Tắc Doãn thượng tướng quân đã nói như vậy.

Còn ý chí chiến đấu là còn hy vọng. Dù bị tiêu diệt cũng sẽ có những lớp người ngoan cường tiếp bước.

Thời xa xưa, vương quốc Bắc Mạc cũng được hun đúc từ những bầu nhiệt huyết.

Lần này, chắn chắc Sâm Vinh sẽ dẫn những nam nhi nhiệt huyết của Bắc Mạc về nhiều hơn.

“Thượng tướng quân, Sâm vinh tướng quân về rồi!” Lính gác thành huơ tay bẩm báo.

Nhược Hàn đứng bật dậy, nhìn ra ngoài thành, trong đám bụi cuốn xa xa quả nhiên xuất hiện mấy bóng người ngựa đang phi như bay về phía thành.

“Nhìn rõ chưa?”

“Bẩm rõ rồi, chắc chắn là tướng quân Sâm Vinh”. Lính gác tinh mắt trả lời chắc nịch, nhưng tiếp theo lại nghi ngờ, “Lạ thật, sao lần này lại ít thế?”.

Trong lòng Nhược Hàn cũng đang có câu hỏi tương tự.

Nhận được sự cổ vũ của Thượng tướng quân Tắc Doãn, số người bí mật gia nhập nghĩa quân ngày càng tăng, tại sao lần này Sâm Vinh chỉ dẫn về có mấy người? Không lẽ đã xảy ra điều gì bất trắc?

Sâm Vinh phi ngựa nhanh nhất, chẳng mấy chốc đã đến chân thành, vẫy tay với lính gác cổng thành. Lính giữ thành vội vàng để họ vào trong. Nhược Hàn bước nhanh tới hỏi luôn Sâm Vinh vừa xuống ngựa: “Thế này là thế nào? Sao chỉ có vài tân binh?”.

Sâm Vinh nhận lấy gáo nước thuộc hạ vừa đưa lên, mặc kệ màu nước đục, cúi xuống uống một ngụm to: “Rất đông tân binh, nhưng thuộc hạ tạm thời chưa đưa về”.

“Sao thế?”

“Ba quân dễ kiếm, một tướng khó cầu. Khà khà…” Trong lòng chắc chắn có chuyện vui, Sâm Vinh nét mặt vô cùng hứng khởi, miệng cười toe toét.

“Ngươi ra ngoài một chuyến, lẽ nào lại tìm được tướng tài trở về?”

“Không chỉ là tướng tài bình thường mà là thần tướng! Một danh tướng chắc chắn có thể đánh bại Hà Hiệp.”

Nhược Hàn cứ ngỡ Sâm Vinh đang một tấc đến trời, hai hàng mày càng chau.

Hà Hiệp được tôn xưng là danh tướng đương thời, thiên hạ này giờ lại có ai dám chắc chắn sẽ đánh bại được hắn?

Hiện giờ binh mệt lương thiếu, rừng núi hiểm trở, kỵ nhất chính là những việc khiến lòng quân dao động. Sâm Vinh trước nay tính tình vốn qua loa đại khái, sao hiểu được một lời của kẻ làm tướng nói ra mà không thể thực hiện sẽ chẳng khác gì giáng một đòn trí mạng vào lòng quân sĩ. Bất giác, Nhược Hàn hạ giọng: “Sâm Vinh, chớ có hồ đồ. Ngươi từng giao chiến với Hà Hiệp, chẳng lẽ không hiểu được bản lĩnh của hắn? Cái gì mà một danh tướng chắc chắn đánh bại được Hà Hiệp ? Điều này sao có thể xảy ra? Trừ phi…”. Ngay lập tức, Nhược Hàn thở dài một tiếng.

Nhược Hàn bỗng nhớ đến Sính Đình.

Nhược Hàn vẫn ghi nhớ trận chiến Kham Bố ngày trước, rõ ràng như đao khắc.

Chỉ có vẻ ung dung của Bạch cô nương khi tấu lên khúc nhạc đuổi lui vạn quân của Sở Bắc Tiệp mới có thể sánh được với thủ đoạn ma quỷ khó lường của Hà Hiệp trong đại chiến Chu Tình.

Đáng tiếc, giai nhân đã chẳng còn.

Nhược Hàn đã bao lần giả tưởng rằng, nếu Sính Đình trở thành chủ soái trong trận chiến Chu Tình, kết quả sẽ ra sao?

“Thượng tướng quân hà tất phải thở dài? Thượng tướng quân lại đây, thuộc hạ cho Thượng tướng quân xem một thứ.” Sâm Vinh cười, tiến lên phía trước một bước, tháo cái bọc trên lưng xuống rồi kéo Nhược Hàn sang một bên, vừa mở bọc vừa nhắc Nhược Hàn, “Thượng tướng quân cẩn thận, bảo vật này rất chói mắt, đừng để bị hoa mắt đấy”.

Nhược Hàn thấy Sâm Vinh hứng chí thế, trong lòng cũng thấy ngạc nhiên, bèn kiên nhẫn chờ Sâm Vinh mở bọc ấy ra, trong đó là những mảnh vải đỏ đen xanh dính đầy bụi đất, thỉnh thoảng còn có cả vết máu. Nhược Hàn nhìn kỹ, hai hàng mày bỗng cau lại, cả người như bị niệm chú, đứng ngây ra dán mắt vào bọc đồ.

Sâm Vinh đã sớm đoán được phản ứng của Nhược Hàn, vẻ mặt vô cùng hứng thú, hỏi: “Thế nào?”.

Nhược Hàn mở trừng mắt, nhìn chằm chằm bọc vải. Người khác có thể không nhận ra, nhưng Nhược Hàn vẫn nhớ như in, những mảnh vải cũ rách này chính là áo bào mà các tướng lĩnh Bắc Mạc đã dâng lên Sính Đình trong đại chiến Kham Bố năm đó, để thể hiện sự cảm tạ và trung thành của họ đối với nàng.

Những chiếc áo nhuốm máu rất có ý nghĩa với người tướng lĩnh, chỉ khi sùng kính đến mức không thể diễn tả thành lời, họ mới dâng lên áo khoác của mình. Trong đó có áo bào của Tắc Doãn thượng tướng quân, của Sâm Vinh và của cả Nhược Hàn…

Một lúc sau, Nhược Hàn mới sực tỉnh, cả người xúc động đến run rẩy.

“Đây…đây…Sâm Vinh…” Nhược Hàn túm chặt lấy Sâm Vinh, câu hỏi cũng trở nên lộn xộn, “Bạch cô nương… ý ngươi là… không lẽ Bạch cô nương chưa chết?”.

Sâm Vinh có được tin vui, định đùa Nhược Hàn, nhưng thấy Thượng tướng quân xúc động như thế nên không nhẫn tâm, liền gật đầu trả lời: “Đúng thế, Bạch cô nương chưa chết, Bạch cô nương vẫn còn sống”.

“Còn sống?!” Ánh mắt Nhược Hàn sáng lên, “Thế Bạch cô nương đâu?”. Được tấn phong là Thượng tướng quân, nên suy nghĩ có phần tỉ mỉ hơn người, Nhược Hàn nhìn ngay ra phía sau, ánh mắt hướng tới mấy người cùng về với Sâm Vinh.

Thấy Nhược Hàn nhìn về phía ấy, một dáng hình nhỏ nhắn không hề tránh đi, những ngón tay ngọc tháo vành mũ che trên đầu xuống: “Nhược Hàn tướng quân, đã lâu không gặp”.

Khỏe miệng mỉm cười, khí độ vẫn ngời ngợi.

Vẻ ung dung nhàn nhã không ai sánh kịp, ngoài Bạch Sính Đình thì còn có thể là ai?

Nhược Hàn đứng nguyên tại chỗ, chăm chú nhìn Bạch Sính Đình đến hết một tuần hương, mới chậm rãi cất bước tiến về phía ấy, vái chào, rồi đứng thẳng lên, tiếp tục nhìn chằm chằm Sính Đình như không thể tin nổi những điều đang xảy ra trước mắt, cuối cùng khẽ thở phào, cảm khái: “Đến hôm nay, Nhược Hàn mới hiểu được, thế nào là được ông Trời ban ơn”.

Sính Đình cười nói: “Thượng tướng quân đừng vội cảm tạ ông Trời. Lần này đến đây vì việc đối phó với đại quân Vân Thường của Hà Hiệp, nhưng Sính Đình muốn mượn những chiếc áo bào năm xưa để đòi nợ Thượng tướng quân”.

Nhược Hàn thấy nụ cười đã lâu không gặp của Sính Đình thì như được gặp gió xuân, niềm tin trong lòng cũng tăng lên, cười sảng khoái: “Nhược Hàn cam tâm tình nguyện dâng lên cả tính mạng của mình để trả ơn cứu mạng của tiểu thư trong trận chiến thành Kham Bố. ha ha, dù không có những áo bào này, không có mối ơn Kham Bố, chỉ cần tiểu thư đến vì việc đối phó với Hà Hiệp, chúng ta cũng có thể toàn tâm toàn ý vì tiểu thư”.

“Thế thì được…” Ánh mắt lấp lánh tinh anh, Sính Đình chậm rãi: “Sính Đình bạo gan, muốn Thượng tướng quân đồng ý một yêu cầu của mình”.

“Tiểu thư cứ nói.”

“Sính Đình dẫn theo một người, hy vọng Thượng tướng quân có thể mang toàn bộ binh mã, trung thành và nghe theo hiệu lệnh của người này. Cho dù người ấy là ai, Thượng tướng quân cũng sẽ thừa nhận là chủ soái. Thượng tướng quân có đồng ý không?”

Nhược Hàn ngạc nhiên: “Trong thiên hạ lại có ai tài năng đến thế, khiến tiểu thư cam tâm tình nguyện nhường quyền chủ soái?”.

Sính Đình mím môi, như đang suy nghĩ, một lúc sau lại nở nụ cười, khẽ than thở: “Tình thế cấp bách, muốn đạt được mục đích phải không từ bỏ thủ đoạn nào. Sính Đình vốn định dụ Thượng tướng quân đồng ý rồi mới nói… Nhưng thôi vậy, cứ để Thượng tướng quân gặp người ấy, rồi suy nghĩ xem có nên đáp ứng yêu cầu của Sính Đình không”. Ánh mắt nàng nhìn sang bên cạnh, dịu dàng gọi một tiếng: “Vương gia…”

Nghe thấy hai tiếng đó, Nhược Hàn như bị sét đánh giữa trời quang.

Không thể nào, người đó không thể nào…

Ánh mắt Thượng tướng quân từ từ nhìn qua.

Nam nhân cao lớn bên cạnh Sính Đình tháo chiếc mũ rộng vành xuống, để lộ khuôn mặt góc cạnh, mắt hổ sáng quắc. ánh nhìn vừa chạm phải Nhược Hàn, chàng liền cười nói: “Lần trước Sở Bắc Tiệp nửa đêm xông vào doanh trại Bắc Mạc, thực là vì nóng lòng muốn tìm thê tử. Đã mạo phạm, mong Thượng tướng quân lượng thứ!”.

Thân hình rắn chắc, sừng sững như núi, chính là Trấn Bắc vương đã không rõ tung tích bấy lâu nay.

Như thể sóng dữ ập tới, lớp sau mạnh hơn lớp trước, Nhược Hàn đã gặp bao bão táp, nhưng lúc này cũng phải sững sờ hồi lâu, nhìn Sở Bắc Tiệp như người gặp ma.

Hai danh tướng đương thời, ngoài Hà Hiệp, hóa ra người kia vẫn còn tồn tại.

Uy vũ vẫn đây, ánh mắt tự tin ngạo mạn nhìn thiên hạ vẫn như xưa.

“Thượng tướng quân có bằng lòng vứt bỏ thù hận cũ giữa Đông Lâm và Bắc Mạc, đi theo vương gia, chống lại Hà Hiệp ?” Giọng Sính Đình như từ một nơi xa xăm truyền đến bên tai Nhược Hàn, để lại từng hồi vang vọng.

Ánh mắt trĩu nặng suy tư của Nhược Hàn nhìn về phía Sở Bắc Tiệp. Người này từng dẫn quân xâm phạm, suýt chút nữa đã hủy hoại cả Bắc Mạc, sau đó lại mạo hiểm xông vào doanh trại Bắc Mạc, xoay cho Nhược Hàn trở tay không kịp để lừa lấy tung tích của Thượng tướng quân Tắc Doãn.

Nhưng, người ấy đích xác là vị tướng tài duy nhất trên thế gian này có thể đối chọi với Hà Hiệp .

“Thượng tướng quân?”. Không biết từ lúc nào, Sâm Vinh đã đến từ lúc nào, khẽ đẩy một cái.

Nhược Hàn sực tỉnh. thấy ánh mắt của Sính Đình và mọi người đều dồn vào mình, Nhược Hàn ngẩng đầu nhìn, các tướng sĩ trên thành lầu đang lặng lẽ nhìn xuống, quan sát Sở Bắc Tiệp danh tướng lừng lẫy.

Tất cả như đang nín thở chờ đợi câu trả lời của Nhược Hàn.

Nhược Hàn ngẩng lên, hỏi: “Các tướng sĩ đều đã thấy cả rồi. Người này là Đông Lâm Trấn Bắc vương, là Sở Bắc Tiệp suýt chút nữa đã tiêu diệt cả Bắc Mạc ta. Nay người đó đến đây, muốn chúng ta đi theo để chống lại đội quân Hà Hiệp . các ngươi nói xem, chúng ta có nên cự tuyệt không?”.

Xung quanh nhất tề yên lặng, không có cả một tiếng ho.

Nhược Hàn hỏi thêm lần nữa, bốn bề vẫn lặng ngắt.

“Được…”, Nhược Hàn nhìn quanh, “Ta hiểu rồi”.

Nhược Hàn nhìn về phía Sở Bắc Tiệp, trầm giọng: “Vương tộc Bắc Mạc đã bị Hà Hiệp tiêu diệt hoàn toàn, đất đai Bắc Mạc cũng bị đại quân Vân Thường thỏa sức giày xéo. Lúc này, việc ngu xuẩn nhất là không bước qua được mối thù năm xưa giữa Bắc Mạc và Đông Lâm… Ai có thể đánh bại Hà Hiệp, giải cứu chúng dân đang sinh sống trên mảnh đất này, Nhược Hàn sẽ phong người đó làm chủ soái, nguyện đi theo chinh chiến trên sa trường”.

Sở Bắc Tiệp nở nụ cười, khuỷu tay khẽ động, một âm thanh khỏe khoắn và dứt khoát vang lên.

Dưới ánh mặt trời, hàn quang của Thần uy bảo kiếm nổi danh thiên hạ soi rọi bốn bề, Trấn Bắc vương đã rút kiếm ra khỏi bao.

“Ta sẽ đánh bại Hà Hiệp, giải cứu chúng dân đang sinh sống trên mảnh đất này. Các tướng sĩ có bằng lòng theo ta không?”

Mọi người đều nghe thấy âm thanh thấp trầm mà ẩn chứa sức mạnh của Sở Bắc Tiệp.

Bốn bề yên ắng hơn cả khi nãy.

Sự yên ắng đến ngột thở.

“Có ai bằng lòng đi theo Sở Bắc Tiệp?”, Sở Bắc Tiệp cao giọng hỏi.

Sính Đình chậm rãi ngẩng đầu, ánh mắt lướt qua từng khuôn mặt nhuốm vàng vì bụi đất.

“Ta!”, có người cất tiếng.

“Ta!”, một giọng khác vang lên.

“Ta!”, có người hét thật to.

“Ta bằng lòng!”

“Ta!”

“Ta, và cả ta nữa!”

“Ta!”

“Ta!”



Lời đáp to như sấm, cả cổ thành bừng lên những tiếng gầm vang nối tiếp nhau.

Đi theo Trấn Bắc vương.

Đi theo kẻ thù năm xưa của Bắc Mạc, đi theo nam nhân có thể đuổi nỗi tuyệt vọng ra khỏi mảnh đất này, đi theo danh tướng có thể đánh bại được Hà Hiệp .

Đại vương đã chết, vương cung cũng không còn, quê hương bị giày xéo, phụ mẫu thê nhi bị binh mã Vân Thường lăng nhục đủ bề.

Nhưng, họ có khao khát muốn sống tiếp, có dũng khí không chịu khuất phục, có ý chí chiến đấu không bao giờ tan rã, có bầu nhiệt huyết sẵn sàng đổ máu để bảo vệ mảnh đất quê hương, và có cả… Trấn Bắc vương.

“Trấn Bắc vương!”

“Trấn Bắc vương! Đánh bại Hà Hiệp!”

“Đánh bại Hà Hiệp! Đánh bại Hà Hiệp! Đuổi sạch quân Vân Thường…”

Cổ thành Giang Linh sục sôi.

Trên từng khuôn mặt trẻ tuổi, ngoài bụi đất, cáu bẩn, vết thương, dấu máu, còn cả nụ cười xúc động và những giọt nước mắt lăn tròn.

Đôi mắt to rộng cũng trào ra hai dòng lệ xúc động, Nhược Hàn rút kiếm, bước lên trước, hét vang: “Nhược Hàn xin thề với kiếm, từ giờ trở đi, ta không còn là thượng tướng quân Bắc Mạc nữa, ta chỉ là tướng lĩnh Nhược Hàn của Trấn Bắc vương! Mong Trấn Bắc vương cũng ghi nhớ lời thề của mình!”.

“Ta sẽ đánh bại tất cả những kẻ khiến sinh linh lầm than, bao gồm cả Hà Hiệp .” Sở Bắc Tiệp trầm giọng trả lời, ánh mắt vô cùng dịu dàng nhìn về phía Sính Đình, “Bởi ta đã hứa với nữ nhân thân yêu nhất lòng mình là sẽ mang đến cho nàng một thiên hạ thái bình”.

Sính Đình không ngờ, ngay lúc này, Sở Bắc Tiệp lại bày tỏ tình yêu trước tất cả mọi người. Tuy rằng tiếng reo hò nổi lên khắp nơi, chỉ có Nhược Hàn, Sâm Vinh và mấy người quen thuộc đứng bên nghe thấy câu nói ấy nhưng hai gò má nàng đã đỏ bừng, không biết ứng phó thế nào. Nàng cúi xuống, một lúc sau mới miễn cưỡng khôi phục lại vẻ ung dung khi trước, khẽ khàng đưa ra chủ ý: “Nay sĩ khí đang mạnh, chính là lúc cần danh chính rồi ngôn mới thuận. đây là cánh quân đầu tiên của vương gia sau khi tái xuất, liệu có nên lấy một danh hiệu chính thức? Ví như… Trấn Bắc quân”.

Lời nói của nàng còn chứa đựng cả một ý khác. Sở Bắc Tiệp lần này tập hợp tàn binh các nước để đối phó với quân Vân Thường, như vậy trong quân của Sở Bắc Tiệp ngoài binh sĩ Đông Lâm còn có cả binh sĩ những nước còn lại, nên tuyệt đối không thể dùng hai chữ “Đông Lâm”, để tránh cho tướng sĩ các nước tham chiến khác buồn phiền.

Sở Bắc Tiệp dẫn binh nhiều năm, sao không nghe ra ý của Sính Đình, nên cười gật đầu nói: “Đúng, ta nên đặt một cái tên”. Sở Bắc Tiệp khua kiếm chém ngang bầu trời, hét lên, “Các tướng sĩ hãy im lặng, nghe ta nói câu này!”.

Sở Bắc Tiệp vừa lên tiếng, xung quanh lập tức yên ắng, chờ đợi vị chủ soái vô địch này cất lời.

“Từ nay trở đi, chúng ta sẽ thành đội quân đối kháng Hà Hiệp ”, Sở Bắc Tiệp chậm rãi nói, “Đại quân này không gọi là Trấn Bắc quân, cũng không gọi là Bắc Tiệp quân, càng không phải Đông Lâm quân. Tên của đội quân này sẽ là Đình quân!”

Sính Đình khẽ kêu lên một tiếng, vẻ không thể nào tin, nhìn về phía Sở Bắc Tiệp.

“Sẽ có người hỏi, tại sao lại là Đình quân?” Sở Bắc Tiệp giơ cánh tay to khỏe ôm lấy Sính Đình nhỏ bé, kéo vào lòng mình, cất cao giọng, “Bởi vì nữ nhân thân yêu nhất của ta tên là Bạch Sính Đình . ta đã hứa với nàng, sẽ vì nàng mà dẹp yên loạn lạc, đem lại cho nàng một thiên hạ yên vui, ta khiêu chiến với Hà Hiệp vì muốn bảo vệ Sính Đình, bảo vệ điều quý giá nhất trong cuộc đời Sở Bắc Tiệp”.

“Các tướng sĩ, các vị đi theo ta không vì quyền lực, tiền tài, đất đai, không để đáp ứng dã tâm của những quý nhân muốn tranh quyền đoạt thế, cũng chẳng phải bị vương lệnh thúc ép, càng không phải vì Sở Bắc Tiệp ta”

“Rốt cuộc vì điều gì mà phải mạo hiểm theo ta?”

“Chẳng lẽ các ngươi lại không giống Sở Bắc Tiệp ta?”

“Chúng ta đổ máu để bảo vệ người thân yêu nhất, chúng ta sẵn sàng bị thương vì những người chúng ta quý trọng, chúng ta sẵn sàng hy sinh tính mạng vì tâm nguyện của mình!”.

“Hãy nói cho ta biết, các ngươi cũng giống ta!”

“Hãy nói cho ta biết, hỡi các tướng sĩ Đình quân, các ngươi sẽ không bao giờ quên người thân yêu nhất của mình, sẽ không bao giờ quên tất cả những gì các ngươi quý trọng! Sẽ không bao giờ quên tại sao mình lại chiến đấu!”

“Hãy nói cho ta biết, đội quân này tên là gì?”

Giọng nói của Sở Bắc Tiệp xuyên qua tường thành cũ kỹ, vang vọng đến tận trời cao muôn trượng.

Sau khoảng khắc tĩnh lặng, những thanh âm sôi sùng sục tràn khắp không gian.

“Đình quân!”

“Đình quân! Đình quân!”

“Đình quân!”



Cả thành trì Giang Linh đang gào thét, đang chấn động.

Sính Đình dựa vào lồng ngực ấm áp của Sở Bắc Tiệp, nước mắt nóng hổi trào ra.

Sâm Vinh bước tới, giọng khâm phục: “Nhất định Trấn Bắc vương là người tình lợi hại nhất thiên hạ”

“Ta không biết có phải là người tình lợi hại nhất thiên hạ hay không?”, Nhược Hàn thở dài, “Nhưng ta có thể khẳng định, Sở Bắc Tiệp tuyệt đối là vị thống soái hiểu cách động viên lòng quân nhất trong thiên hạ”.
 

Hoa Tử

Sưu tầm
Tham gia
24/9/19
Bài viết
10,570
Điểm cảm xúc
1,484
Điểm
113
Chương 54:
Vương cung Vân Thường, đình đài vẫn nguyên.

Ánh tịch dương đã tắt.

Vương tọa Diệu Thiên công chúa từng ngồi vẫn lặng lẽ đặt trong đại điện, tấm rèm che vẫn cô đơn đung đưa theo gió, phấn son dùng dở quạnh quẽ trước gương.

Hà Hiệp bước qua bao lớp thị vệ, từ con đường lớn của vương cung đi tới. Dọc theo hành lang, đường đi ngày càng nhỏ hẹp. Hà Hiệp dừng ở một góc khuất nhất, ổ khóa to đùng khóa chặt cánh cửa gỗ của gian phòng trước mặt.

Diệu Thiên công chúa cùng thị nữ thân thiết Lục Y đã bị chuyển đến giam lỏng ở đây. Chỉ những thị vệ Hà Hiệp tin tưởng mới được cử đến canh giữ gian phòng nhỏ này.

“Phò mã.” Tên trưởng thị vệ bước tới, thỉnh an Hà Hiệp, rồi thận trọng hỏi, “Phò mã có cần mở cửa vào trong không?”.

Đôi mắt đen của Hà Hiệp lặng lẽ nhìn cánh cửa gỗ đang khóa chặt.

Diệu Thiên ở trong đó.

Thê tử của Hà Hiệp, mẫu thân của hài nhi hắn, công chúa dịu dàng thân thiết có nụ cười lay động lòng người, chủ nhân Vân Thường đích thân viết vương lệnh, muốn hỏi tội danh mưu phản của Hà Hiệp, muốn xử Hà Hiệp tội chết, muốn đưa Hà Hiệp vào con đường cùng, đang ở trong gian phòng này.

Hà Hiệp vẫn dán mắt vào ổ khóa trên cánh cửa, dường như nó không chỉ khóa chặt cánh cửa, mà còn khóa cả trái tim Hà Hiệp. Hắn đứng đó, yên lặng hồi lâu, rồi mới chậm rãi lắc đầu: “Ta không vào, đừng nói ta đã tới đây. Người mang cái này vào trong, nói với Công chúa rằng ta đã đọc được vương lệnh, Chưởng ấn đại nhân đã bị bí mật xử tử. Đây là quà đáp lễ của ta, có sự giúp sức của Phong Âmcô nương mà Công chúa đã ban tặng cho ta”.

Trưởng thị vệ dạ một tiếng, thận trọng đỡ lấy hộp gấm từ tay Hà Hiệp, rồi bước đến trước cửa, lấy chìa khóa mở cửa, đi vào.

Khoảnh khắc cánh cửa mở ra, Hà Hiệp ngẩng đầu nhìn vào, bên trong tối om.

Chẳng mấy chốc, cánh cửa gỗ lại được mở ra từ bên trong, trưởng thị vệ bước ra ngoài, cẩn thận khóa cửa lại, rồi đến phụng mệnh với Hà Hiệp: “Bẩm, đã dâng lễ vật lên Công chúa và chuyển lời của Phò mã, không thừa một từ”.

“A!” Trong gian phòng bỗng vang lên tiếng kêu thảm thiết.

Tiếng kêu thảm thiết đáng sợ, hoàn toàn lạc điệu, nhưng những người biết giọng nói của Công chúa đều nhận ra đó chính là tiếng kêu của Diệu Thiên.

Những thị vệ được chọn canh giữ ở đây đều không phải bình thường, nhưng khi nghe thấy tiếng kêu ấy, gần như tất cả đám thị vệ, bao gồm cả trưởng thị vệ này đều phải rùng mình.

Sau tiếng kêu thảm thiết là tiếng “rầm”, hình như có vật gì đó đang đập mạnh xuống nền gạch.

Mọi người đoán chắc Diệu Thiên công chúa mở hộp gấm, nhìn thấy thứ bên trong. Nhưng, rốt cuộc Phò mã đã tặng gì mà khiến Công chúa sợ hãi và tuyệt vọng đến thế?

Khi đám người thị vệ trao nhau ánh nhìn sợ hãi, sắc mặt Hà Hiệp vẫn bình tĩnh đến rợn người.

Chỉ có Hà Hiệp mới biết bên trong hộp gấm đó chứa thứ gì.

Hộp gấm đựng một bảo bối, ít nhất là trước đó, Công chúa và Quý Thường Thanh đều coi đây như một bảo bối.

Họ cứ tưởng, nó có thể tấu lên những tiếng đàn sánh với Sính Đình. Họ ngỡ rằng, nó có tư cách động đến những gì Hà Hiệp đã dày công sắp xếp cho Sính Đình, cầm chiếc lược Sính Đình đã từng cầm, đắp chiếc chăn Sính Đình đã từng đắp, chạm vào cây đàn Sính Đình đã từng chạm.

Nhưng, trong mắt Hà Hiệp, đó hoàn toàn không phải một bảo bối, mà là một binh khí họ đưa đến để giày vò trái tim Hà Hiệp.

Đôi bàn tay biết đánh đàn của Phong Âmở trên người chủ nó chi bằng chặt nó đi, kệ máu chảy ròng ròng mà để vào hộp gấm, mang tới làm lễ vật.

Bao nhiêu giày vò sỉ nhục ngày trước, tiểu Kính An vương này sẽ hai tay dâng lên trả cho chủ cũ.

“Công chúa! Công chúa! Công chúa sao thế? Công chúa!” Giọng của Lục Y như vỡ thành từng mảnh, run rẩy lọt qua khe cửa gỗ, vọng ra bên ngoài.

Tất cả những người bên ngoài đều lắng tai nghe, suy đoán động tĩnh bên trong. Lục Y kêu lên vài tiếng, không biết tại sao cũng đột ngột ngừng bặt, bên trong và bên ngoài bất chợt yên tĩnh một cách chết chóc. Một lúc sau, Lục Y lại kêu lên: “Người đâu! Người đâu!”.

“Người đâu! Công chúa ngất rồi, gọi ngự y! Mau gọi ngự y!”

“Thị vệ đại ca, thị vệ đại ca ơi, cầu xin các người, hãy bẩm báo với Phò mã đi!”

“Công chúa... Công chúa... Trời ơi, máu!” Cánh cửa gỗ ầm một tiếng, không biết có thứ gì thúc mạnh vào, khiến đám thị vệ đứng bên ngoài thót tim. Bên trong là tiếng móng tay đang cào vào cánh cửa.

“Máu, máu! Người đâu! Người đâu! Người đâu...”, Lục Y gào khóc.

Tiếng gào khóc hoảng loạn của Lục Y càng khiến đám thị vệ sởn da gà, ai nấy đều liếc trộm Hà Hiệp.

Nghe tiếng kêu khóc của Lục Y, Hà Hiệp bèn bảo: “Các ngươi lui hết ra, không có sự cho phép của ta, bất cứ ai cũng không được lại gần”.

Đám thị vệ nghe tiếng kêu như trong ác mộng, chỉ mong có thể nhanh chóng rời khỏi đây, nên lập tức rút sạch.

“Cầu xin các đại ca hãy gọi ngự y đến, ai cũng được, gọi ai cũng được...”, Lục Y vẫn đang khóc lóc trong phòng, rồi liên tiếp mấy tiếng rầm rầm, hình như Lục Y quay lại bên Diệu Thiên, trong lúc hoảng loạn mà va phải bàn ghế.

Choang!

Chiếc chậu rửa mặt cũng rơi xuống đất.

“Công chúa, công chúa tỉnh rồi à?”, giọng Lục Y nhỏ hơn một chút, “Công chúa không sao chứ! Công chúa làm nô tỳ sợ quá...”.

“Lục Y, ta đau quá...”, là tiếng của Diệu Thiên.

Một lúc sau.

“Máu, sao lại nhiều máu thế này...” Tiếng nói yếu ớt mà kinh hoàng của Diệu Thiên.

“Công chúa! Công chúa cứ nằm yên... Người đâu! Cứu mạng! Công chúa sinh non rồi, người đâu!” Lục Y lại bắt đầu gào khóc, tiếng kêu xé ruột, xé gan hơn lúc nãy, “Phò mã, Phò mã mau đến đây đi! Công chúa sinh non, Công chúa... Công chúa không ổn rồi!”.

Hà Hiệp đứng bên ngoài, ánh mắt u ám như ngọn lửa sắp tắt chỉ còn chút ánh sáng cuối cùng.

“Công chúa, Công chúa! Cứu với, cứu Công chúa đi, cầu xin các người hãy mở cửa. Chúng ta cần ngự y, nếu không, cho một ít thuốc cũng được!” Cánh cửa lại phát ra những tiếng động dữ dội, Lục Y đang điên cuồng đập vào đó, giọng khản đặc.

“Cầu xin các người, cầu xin các người! Công chúa sinh non rồi! Ngự y, ngự y!”

“Phò mã, Phò mã thật nhẫn tâm...”

Phò mã.

Phò mã Vân Thường, dưới một người, trên cả vạn người.

Thuở ban đầu, ai khẽ liếc đôi mắt trong veo, làn môi thoáng nét cười dịu dàng, như tiên nữ vén mây xuống đoan trang ngồi trên vương tọa?

Khẽ dựa kề bên, áo tơ khăn lụa.

Đình hoa sắc thắm, mơ tưởng uyên ương.

Nhớ đêm động phòng hoa chúc, khi Hà Hiệp nâng mũ phượng trên đầu thê tử lên, Diệu Thiên từng thở dài: “Đêm động phòng hoa chúc, nam nhân đứng trước mặt thiếp, nam nhân sẽ chung sống với thiếp cả đời là một trang văn võ song toàn, một bậc anh hùng cái thế. Cảnh này, người này đẹp tựa trong mộng, chỉ lo đây là giấc mộng đẹp mà thôi”.

Nụ cười tươi tắn trong ánh nến, đôi má ửng hồng như men rượu say.

Công chúa, thê tử của ta, đây không phải giấc mộng đẹp, mà là một cơn ác mộng.

Ta và nàng tất phải mất một, đây là cơn ác mộng không ai có thể tránh khỏi.

“Cứu với! Có ai cứu Công chúa... Cầu xin các đại ca, cầu xin các người...” Giọng nói khiến tim người ta tan vỡ của Lục Y cứ vang vọng bên tai.

Khuôn mặt đẹp của Hà Hiệp khẽ co, cảm thấy lòng bàn tay lạnh toát. Hà Hiệp vội cúi đầu xuống, mới phát hiện không biết từ lúc nào mình đã đến bên cửa gỗ, tay nắm chặt ổ khóa. Hắn sững người, buông tay ra, lùi một bước, rồi đứng sững lại.

“Người đâu, cứu mạng! Cầu xin các người hãy cứu lấy Công chúa...”

“Phò mã, Phò mã không thể nhẫn tâm như thế! Cầu xin các người hãy nói với Phò mã một tiếng, Công chúa sắp chết rồi...”, Lục Y gào khóc, hét lên từng tiếng, “Dù có muốn giết Công chúa, Phò mã cũng không thể bỏ mặc cốt nhục của mình. Cầu xin các đại ca ngoài kia, hãy thông báo cho Phò mã, hãy báo tin cho Phò mã!”.

Giết Công chúa?

Hà Hiệp lắc đầu, không, hắn chưa từng có ý định giết Công chúa. Hà Hiệp đã nghĩ cách đoạt vương quyền, phế bỏ vương vị của Công chúa, nhưng chưa từng nghĩ đến việc giết nàng.

Sao phải giết nàng chứ? Đời này kiếp này Công chúa đã là thê tử của Hà Hiệp, là vương hậu tương lai của Hà Hiệp. Hà Hiệp đã nói, sẽ khiến Công chúa trở thành nữ nhân tôn quý nhất trong thiên hạ. Hà Hiệp không muốn ra tay, không hề muốn ra tay.

Nhưng, thê tử của Hà Hiệp lại viết vương lệnh, liên kết với đám quan lại, định cho Hà Hiệp tội mưu phản. Vương lệnh chắc như đinh đóng cột, viết rõ sẽ xử Hà Hiệp tội chết.

Chỉ một chút, chỉ một chút nữa thôi, chưa biết chừng người bị nhốt trong kia sẽ là Hà Hiệp, người đang quằn quại trong vũng máu kia sẽ là Hà Hiệp, người bị băm vằm thành trăm mảnh cũng chính là Hà Hiệp!

Ác mộng, đây là cơn ác mộng.

Xen lẫn tiếng gào khóc của Lục Y là từng tiếng kêu thảm thiết của Diệu Thiên.

“A... a a! Lục Y, ta không chịu nổi nữa rồi...”

“Công chúa, ngự y... sẽ đến ngay, sẽ đến ngay...”

“Không, không, ta không cần ngự y, ta cần gặp Phò mã... Phò mã....”

“Công chúa...”

“Mau, mau đi tìm người gọi Phò mã đến...”

Lục Y khóc nấc lên: “Công chúa, Phò mã...”.

“Lục Y, ta muốn gặp Phò mã... Ta không chịu được nữa rồi, ta muốn gặp Phò mã. Mau đi đi, Phò mã sẽ gặp ta mà...” Giọng nói yếu ớt của Diệu Thiên ngắt quãng, nhưng vẫn vô cùng cố chấp.

Công chúa!

Hà Hiệp vẫn đứng im như tượng bên ngoài bỗng đấu tranh trong lòng, loạng choạng đến bên cửa gỗ, năm ngón tay nắm chặt ổ khóa nặng và giá lạnh.

Lạnh băng. Nặng trịch.

Đây là ổ khóa trong trái tim Hà Hiệp, ổ khóa của cuộc đời Hà Hiệp.

Nếu công chúa vẫn còn, sự việc vương lệnh kia sẽ lại tái diễn. Không gì có thể thay đổi được kết cục này.

Hà Hiệp nắm lấy ổ khóa, lòng bàn tay mồ hôi ướt đẫm, lạnh buốt.

Diệu Thiên vẫn không ngừng kêu rên: “Phò mã... Tìm Phò mã cho ta, chàng sẽ gặp ta... Tìm Phò mã cho ta... A! Ta đau quá...”.

Diệu Thiên dừng một lúc, bỗng cất giọng, gào lên: “Phò mã, chàng đã đến đúng không? Là thiếp đã viết vương lệnh, nhưng dù chàng có hận thiếp, muốn giết thiếp, thì tình nghĩa phu thê giữa chúng ta, chẳng lẽ chàng lại không muốn gặp thiếp lần cuối? Phò mã... Phò mã...”.

Bàn nay nắm chặt ổ khóa của Hà Hiệp bỗng run rẩy.

Công chúa, Công chúa, ta không thể gặp nàng.

Nàng là thê tử của Hà Hiệp, là thê tử duy nhất của Hà Hiệp trong cuộc đời này.

Ta không hận nàng để Quý Thường Thanh chèn ép ta, ta không hận nàng làm ta mất Sính Đình, ta không hận nàng.

Ta chỉ hận ông Trời, hận cơn ác mộng này, hận những điều khiến nàng phải viết trong vương lệnh xử ta tội chết, hận tất cả những việc khiến ta không thể giữ trọn nàng.

Nước mắt tuôn trào trên khuôn mặt nhăn nhúm vì đau khổ, Hà Hiệp nắm chặt ổ khóa, nghe tiếng Diệu Thiên gào khóc, bất lực quỳ bên ngoài.

Sáng sớm, tiếng chuông tang nặng nề, thành kính làm kinh động dân chúng Vân Thường đang sắp bắt đầu một ngày mới bận rộn.

Nhìn từ xa, cả vương cung Vân Thường chìm trong sắc trắng, vô cùng thê lương.

Dân chúng Vân Thường đau đớn nghe tin, chủ nhân Vân Thường hoài thai sáu tháng, công chúa của họ, vì sức khỏe yếu nên sinh non, hương tan ngọc vỡ trong lòng Phò mã.

Điều họ không biết là, cũng trong đêm đó, rất nhiều quan viên của triều đình bị binh lính bí mật đưa đi xử tử với những tội danh khác nhau.

Đông Lâm.

Màn đêm trĩu nặng, trăng sao im tiếng.

Mạc Nhiên nấp trong rừng, cảnh giác nhìn chăm chăm về phía những ánh lửa xa xa.

Lửa cháy ngút trời, hình thành một đường cánh cung, bao vây toàn bộ vùng rừng núi họ đang náu thân.

Mũi tên nằm sẵn trên dây cung, căng mà chưa bắn.

Tình thế nguy cấp đã kéo dài mấy ngày nay. Chút lực lượng cuối cùng của vương tộc Đông Lâm đang bị trói chân tại đây, không thể rời đi. Cả hai đội quân đều hiểu rõ, sự tĩnh lặng hiện tại chỉ là vẻ bề ngoài, ẩn chứa sát khí bên trong.

Bỗng có tiếng sột soạt từ bụi cỏ bên cạnh.

“Không biết lúc nào Hà Hiệp sẽ đến?”, La Thượng thận trọng tiến tới sát Mạc Nhiên, cùng nhìn về phía quân địch đang bao vây mình mấy ngày nay từ đằng xa.

Mạc Nhiên hạ giọng: “Dù Hà Hiệp xuất phát từ thành đô Vân Thường, chắc giờ cũng đã đến đây. Theo ta thì trước tối mai, chúng sẽ dốc toàn lực tấn công”.

Tảng đá đè nặng trong lòng họ lại nặng thêm vài phần.

Địch đông ta ít, trận thế phía trước của đại quân Vân Thường khiến người ta nhìn mà khiếp sợ, Mạc Nhiên cùng ít binh mã còn ở đây chẳng dám nghĩ đến việc bảo vệ được Vương Hậu, thậm chí họ còn chẳng dám hi vọng có một người sống sót mà ra khỏi chỗ này.

Không lẽ Đông Lâm binh khỏe mã cường từng xưng bá tứ quốc, lại lâm vào bước đường cùng?

Hai người nấp trong rừng, nhìn về phía những bóng người đang chuyển động nơi doanh trại Vân Thường trong màn đêm. Không khí như bị đè nén đến cực độ, La Thượng hạ giọng: “Bệnh tình của Vương hậu nương nương ngày càng nặng...”. Một hán tử vẫn luôn lạc quan, giọng nói giờ cũng trĩu nặng buồn đau.

“Chớ lên tiếng!”, Mạc Nhiên gằn từng tiếng, “Nhìn xem!”.

La Thượng nhìn theo ánh mắc Mạc Nhiên, binh tướng quân địch đang được điều động, trận địa từ từ di chuyển, rõ ràng là sự chuẩn bị trước lúc tấn công.

“Xem ra Hà Hiệp đến rồi”, La Thượng hạ giọng.

Mạc Nhiên lạnh lùng gật đầu, ánh mắt sắc nhọn giám sát mọi động tĩnh của quân địch đằng xa. Đại quân Vân Thường ngay hàng thẳng lối sắp sẵn trận thế trên dốc núi. Số binh sĩ bao vây cánh rừng này vốn đã rất đông, không biết lần này Hà Hiệp còn mang thêm bao nhiêu binh mã? Dòng binh mã cuồn cuộn xuất hiện trong tầm nhìn của họ, mỗi đội lính đều có người cầm đuốc riêng, đại quân kéo dài dằng dặc, như con rồng lửa uốn lượn trong khe núi.

Mạc Nhiên và La Thượng đi theo Sở Bắc Tiệp chinh phạt nam bắc, trải qua hàng trăm trận đánh, nhưng chưa từng gặp trận chiến nào chênh lệch đến mức này, họ bỗng thấy thực lạnh lòng.

Mạc Nhiên nhìn La Thượng, cắn răng nói: “Trận chiến sinh tử sắp bắt đầu, ngươi qua bảo vệ Vương hậu nương nương. Ta sẽ cùng mọi người chống chọi ở đây”.

La Thượng nhìn về phía bóng mâu ánh kiếm tua tủa như rừng phía xa, lại nhìn đám binh sĩ ít ỏi đến tội nghiệp sau lưng, hiểu rõ không một người Đông Lâm nào có thể thoát chết trong trận chiến này. La Thượng đi theo Sở Bắc Tiệp nhiều năm, sống chết đã thành chuyện thường, đến thời khắc quyết định cũng không lôi thôi dài dòng, chỉ trầm giọng: “Huynh đệ tốt, cố giết thêm vài tên địch, xuống suối vàng chúng ta so xem ai giết được nhiều hơn”. Nói xong, La Thượng vỗ vào vai Mạc Nhiên một cái, rồi lùi vào trong rừng, báo cáo với Vương hậu tin xấu này.

Tu...

Tiếng hiệu lệnh chậm rãi vang lên phía dốc núi đối diện, vọng đến trời cao.

Tùng, tùng...

Sau hiệu lệnh là tiếng trống trận trầm hùng, rất có tiết tấu, ban đầu là hai, ba tiếng tách rời nhau, như bầu trời âm u nhiều ngày cuối cùng cũng lác đác vài hạt mưa, dần dần, mưa như trút nước, tiếng trống càng lúc càng dày, tiết tấu mỗi lúc một nhanh, giống như cả mặt đất bao la đang run sợ trước thế trận này, khiến cho mỗi binh sĩ Đông Lâm cũng thấy tim mình đập nhanh theo tiếng trống dồn.

Khi tiếng trống ầm ầm vang dội tới tận mây xanh, đoàn quân Vân Thường đã sắp sẵn thế trận cũng bắt đầu chuyển động.

Lửa cháy ngút trời, những bóng đao khí thế tiến về phía rừng rậm đã bị bao vây nhiều ngày nay.

“Đứng dậy, thế địch lớn mạnh, ẩn nấp vô ích.” Mạc Nhiên đứng lên khỏi chỗ ẩn nấp đã nhiều giờ, quay lại nhìn các binh sĩ cùng ẩn nấp phía sau, “Trận chiến sinh tử đã bắt đầu, hỡi những nam nhi Đông Lâm, hãy ngẩng cao đầu!”.

Một chiến tướng dẫn đầu quân địch đang khua kiếm chỉ huy đại quân lại gần.

Móng sắt xé tan sự yên ắng, càng tô thêm vẻ tĩnh lặng chốn rừng già.

Đại diện cho vương tộc Đông Lâm – Vương hậu và cả chút binh lực cuối cùng của Đông Lâm – đang trốn trong rừng rậm yên tĩnh này.

Mạc Nhiên bất chấp sống chết, nhìn về phía đoàn quân. Vân Thường lớn mạnh đang ầm ầm kéo đến như mây đen, thể hiện sự dũng mãnh đã được tôi luyện khi theo Sở Bắc Tiệp nhiều năm, rút kiếm khỏi bao, bình tĩnh chờ đợi khoảnh khắc sinh tử.

Ánh lửa rừng rực từ từ tiến lại gần, soi rõ cả khu rừng.

Mạc Nhiên dẫn theo những tướng sĩ cùng vào sinh ra tử với mình, tuốt kiếm đứng giữa gió đêm rét buốt.

Ai cũng nín thở.

Đông Lâm, mảnh đất sinh ra ta, nuôi dưỡng ta, sẽ thấm máu của ta, chôn cất thi thể ta.

Không ai sợ hãi, họ đã từng theo Trấn Bắc vương vô địch thiên hạ, từng chứng kiến sự huy hoàng đến trong khoảnh khắc sinh tử.

Sự giác ngộ về cái chết khiến ánh mắt họ càng thêm giận dữ.

Đại quân Vân Thường càng lúc càng tới gần, tiếng vó ngựa trở nên gấp gáp hơn.

“Giết! Giết! Giết!” Tiếng gầm trong cổ họng của những binh sĩ Vân Thường kết thành âm thanh đáng sợ, vang vọng vào tận núi rừng.

Vị tướng quân Vân Thường rút kiếm, chiến mã tung vó, đại quân Vân Thường như con mãnh thú khổng lồ vừa được tháo xiềng, xông về phía đám người Mạc Nhiên với tốc độ nhanh nhất.

Đến đây!

Mạc Nhiên cầm chắc thanh bảo kiếm, biết mình ở vào thế tất bị dòng nước lũ cuốn đi, cũng giống như Đông Lâm ở vào thế phải trở thành lịch sử trong đám lửa này.

“Giết! Giết!”

Ánh lửa bừng bừng soi rõ từng khuôn mặt binh lính.

Binh mã, lưỡi mác, ánh kiếm che khuất tầm nhìn. Thiên quân vạn mã đến cùng tiếng gió. Bầu không khí nặng nề không thể tiếp tục ngăn cách hai quân với thế lực hoàn toàn chênh lệch.

Mạc Nhiên nhìn chằm chằm tướng lĩnh đang chỉ huy đại quân Vân Thường ngay trước mặt. Đó nhất định là chủ soái của Vân Thường trong lần quyết chiến này.

“Giết!”

Tuấn mã lao tới, tướng địch từ trên cao nhìn xuống, vung kiếm tới đầu Mạc Nhiên.

Khoảnh khắc Mạc Nhiên giơ kiếm lên đỡ, bỗng nghe có tiếng xé gió.

Vút!

Trống trận ầm ầm, tiếng chết chóc ngút trời, Mạc Nhiên lại nghe thấy tiếng xé gió, dường như tất cả những âm thanh giết chóc kia đều không thể địch lại âm thanh sắc nhọn này.

“A!” Tướng địch đang trên lưng ngựa bỗng kêu lên thảm thiết. Cánh tay cầm kiếm đưa về phía đầu Mạc Nhiên bỗng dừng giữa không trung, cả người lảo đảo, ngã xuống ngựa.

Một mũi tên vàng chói lọi từ phía sau đâm thẳng đến trước trán tên tướng lĩnh.

Cung thật mạnh, tên thật nhanh, ngắm thật chuẩn xác.

Mọi người đều sững sờ trước màn kinh hoàng này.

Cái chết bất ngờ của chủ tướng Vân Thường đúng vào lúc hai bên bắt đầu giao chiến đã gây chấn động cho những binh sĩ Vân Thường tận mắt chứng kiến hơn bất cứ việc gì.

Nháy mắt, chỉ trong nháy mắt.

Chủ soái lại chết ngay khoảnh khắc đầu tiên khi trận chiến diễn ra.

Trầm Cảnh đại tướng quân đã tử trận.

Một trong bảy cánh quân của Vân Thường, Đại tướng quân Trầm Cảnh của đạo quân Úy Mặc đã trúng tên, chết ngay khi lâm trận.

Người nào lại có được bản lĩnh này?

Mũi tên vàng bắn từ phía sau, người bắn tên ở phía đó. Binh sĩ Vân Thường vô cùng hoảng hốt, quay lại nhìn về phía sau đoàn quân.

Họ đã nhìn thấy.

Trên dốc núi phía sau, một kỵ binh xuất hiện dưới ánh trăng.

Nhìn rõ hình bóng ấy, cả người Mạc Nhiên chấn động, xúc động đến nỗi không thể cầm chắc thanh kiếm.

Điều này có thật không?

Người đó một tay cầm dây cương, một tay giương cung, dừng ngựa ngay trên đỉnh dốc. Ánh trăng tuy sáng, nhưng những người ở đây không nhìn rõ khuôn mặt ấy. Trong mờ ảo, họ chỉ cảm thấy một vầng sáng xuất hiện phía sau. Một dáng hình ngạo nghễ liếc nhìn thiên quân vạn mã Vân Thường, giống hệt như thiên tướng hạ phàm.

Cự ly xa như thế...

Người đó chính là chủ nhân của mũi tên vàng?

Đích thân trả lời câu hỏi này, kỵ binh ấy lại rút tên, giương cung, động tác thuần thục như mây trôi nước chảy. Tiếng xé gió lại vang lên, khí thế khiến người ta khiếp sợ, chỉ trong nháy mắt, kim quan xuất hiện.

“A!” Một tiếng kêu thảm khốc nữa vang lên, xóa tan không gian yên tĩnh vì cái chết của Trầm Cảnh.

Trước bao nhiêu con mắt, vị phó tướng Vân Thường cũng ngã khỏi ngựa, đổ xuống bên cạnh thi thể của Trầm Cảnh.

Thật đáng sợ!

Đại quân Vân Thường sợ hãi, lòng dao động. Người này là ai? Ai lại có bản lĩnh đến mức ấy?

Đại quân Vân Thường bỗng sực tỉnh, nhận ra họ đang ở trên sa trường hiểm ác.

Nhưng có người còn phản ứng nhanh hơn họ.

Ánh kiếm lóe lên, tiến về phía những binh sĩ Vân Thường đứng ngay hàng đầu.

“Vương gia! Vương gia về rồi!” Mạc Nhiên chém đổ mấy tên lính Vân Thường đã mất hết ý chí, khuôn mặt hết sức ngạc nhiên xen lẫn vui mừng của người gặp được kỳ tích, gào lên, “Các huynh đệ, hãy hét lên cùng ta, Trấn Bắc vương đã về!”.

“Trấn Bắc vương đã về!”

“Trấn Bắc vương đã về!”

“Trấn Bắc vương đã về!”

Tiếng hô vang dội khắp đất trời.

Trong bóng đao ánh kiếm, ba tiếng “Trấn Bắc vương” như một thứ vũ khí lợi hại nhất, tước đi toàn bộ ý chí còn sót lại của đoàn quân Vân Thường.

Trấn Bắc vương, Trấn Bắc vương từng dẫn theo đại quân Đông Lâm chinh chiến khắp thiên hạ.

Ngay cả Phò mã Vân Thường, chiến thần của Vân Thường cũng không dám coi nhẹ Trấn Bắc vương.

Nam nhân mà đứng giữa thiên quân vạn mã, chỉ cần một mũi tên đã lấy được mạng của Đại tướng quân Trầm Cảnh.

Sở Bắc Tiệp dừng ngựa trên dốc. Dưới ánh trăng, đoàn quân Vân Thường lại nhìn thấy một màn đáng sợ hơn, bên cạnh Sở Bắc Tiệp đột ngột xuất hiện bao nhiêu binh mã.

Ở bên kia dốc núi, phía sau đại quân Vân Thường và Đông Lâm, cũng đã sắp sẵn quân mai phục, quân mai phục do Trấn Bắc vương đưa tới.

Trúng kế rồi.

Họ đã bị Trấn Bắc vương dẫn quân tấn công từ hai phía. Sự bừng tỉnh bất ngờ này đã làm tiêu tan nốt sức chiến đấu của đại quân Vân Thường vừa mất đi trụ cột, không biết kẻ nào kêu lên tiếng đầu tiên, vứt bỏ trường thương trong tay, chạy thục mạng sang chỗ khác.

“Trấn Bắc vương! Là Trấn Bắc vương!”

“Chạy thôi... chạy thôi!”

Mất đi chủ tướng và phó tướng, đại quân Vân Thường chẳng khác gì một đám cát bay.

Mạc Nhiên dẫn theo binh mã, từ hai bên xông vào. Thấy danh tướng Sở Bắc Tiệp trong truyền thuyết bỗng nhiên xuất hiện, những binh sĩ Vân Thường vội vã vứt bỏ vũ khí, hoàn toàn mất sạch ý chí chiến đấu.

“Giết!”

“A!”

Những tiếng kêu thảm thiết vang lên bên tai. Đại quân Vân Thường tháo chạy như dòng nước đục gặp tảng đá chắn ngang, bắn tung tóe.

Trấn Bắc vương, Trấn Bắc vương trụ cột của Đông Lâm đã trở về.

Mùi máu tanh nồng khắp rừng, trên dốc, dưới trăng.

Không có thời gian truy kích đoàn quân Vân Thường bại trận, Mạc Nhiên bước vội qua những thi thể quân sĩ Vân Thường, lao về phía bóng hình nơi đầu dốc.

Mạc Nhiên chạy đi với tốc độ nhanh nhất từ trước tới giờ, cho đến khi có thể nhìn thấy rõ khuôn mặt quen thuộc, vẻ ung dung mà mình cứ ngỡ cả đời này không còn được gặp lại, hắn mới dừng bước.

“Vương gia!” Mạc Nhiên mình đầy thương tích, quỳ sụp xuống chân Sở Bắc Tiệp, “Vương gia... Vương gia đã trở về...”. Trước nay vốn kín đáo trầm tĩnh, lúc này Mạc Nhiên cũng xúc động đến không thể kiềm chế nổi bản thân, bao nhiêu lời muốn nói đều tắc nghẹn trong lòng, chỉ còn nước mắt trào ra như suối.

Những binh sĩ Đông Lâm chạy sau Mạc Nhiên cũng vô cùng xúc động, tất cả quỳ xuống, không ngăn nổi dòng nước mắt.

Sở Bắc Tiệp kéo Mạc Nhiên dậy, quát: “Trên sa trường, nam nhi chỉ đổ máu, không rơi lệ, khóc cái gì?”. Sau khi nhìn kỹ khuôn mặt lấm lem máu bụi của Mạc Nhiên, Sở Bắc Tiệp trầm giọng, “Rất tốt, Mạc Nhiên, làm tốt lắm”. Biết tin những binh sĩ cuối cùng của Đông Lâm đang bị bao vây, Sở Bắc Tiệp vội vã đến đây, cuối cùng đã cứu được Mạc Nhiên và mọi người, trong lòng cũng rất xúc động, nhưng chàng không quen để lộ tình cảm trước mặt người khác, liền hỏi: “Vương tẩu thế nào!”.

“Vương hậu nương nương đang ở trong rừng. May mà Vương gia đến kịp.” Nói đến việc chính, Mạc Nhiên đã bớt vẻ xúc động, sắc mặt cũng u ám hơn, giọng rất khẽ, “Vương gia, nương nương bệnh nặng rồi”.

Sở Bắc Tiệp im lặng một lát rồi nói: “Ta đi thăm vương tẩu”. Sở Bắc Tiệp quay lại phía sau, giọng dịu dàng hơn nhiều, “Sính Đình, nàng đi cùng ta được không?”.

Lúc này mới chú ý đến hình dáng yêu kiều sau lưng Sở Bắc Tiệp, Mạc Nhiên vô cùng kinh ngạc: “Bạch cô nương?”.

Sính Đình gỡ mạng che mặt, mỉm cười: “Mạc Nhiên, lâu lắm không gặp”, rồi quay lại nói với Sở Bắc Tiệp, “Sính Đình đi theo Vương gia”. Dứt lời, nàng cứ để Sở Bắc Tiệp bế mình lên ngựa, nhẹ nhàng đặt tay mình vào lòng bàn tay vững chãi của chàng. Hai người cùng cưỡi ngựa, từ từ đi xuống dốc núi, tiến vào trong rừng.

Mọi người đều theo xuống núi, cùng trở về doanh trại trong rừng.

Đến gần doanh trại, gặp đúng La Thượng đang lao đi như tên bắn, gần va vào Sở Bắc Tiệp đang xuống ngựa. La Thượng ngẩng lên, nhìn khuôn mặt Sở Bắc Tiệp, liền kinh ngạc kêu lên: “Đúng là Vương gia thật rồi! Không lừa ta đấy chứ?”.

Kỳ tích bỗng xuất hiện, La Thượng xúc động đến mức quên hết cả tôn ti, cứ nắm lấy bàn tay Sở Bắc Tiệp.

Sở Bắc Tiệp vỗ vai La Thượng, nhìn hắn với ánh mắt trìu mến: “Tiểu tử, ngươi cũng tiến bộ nhiều. Ta phải vào gặp vương tẩu, lúc khác hàn huyên”. Chàng dắt tay Sính Đình vào trong trướng, để lại La Thượng vẫn đang đứng ngẩn người chỗ cũ.

La Thượng vội túm lấy Mạc Nhiên đang bước tới, vẻ mặt hoàn toàn nghiêm túc: “Chắc không phải chúng ta đang ở dưới suối vàng nên mới gặp Vương gia đấy chứ?”.
 

Hoa Tử

Sưu tầm
Tham gia
24/9/19
Bài viết
10,570
Điểm cảm xúc
1,484
Điểm
113
Chương 55:
Trong trướng, ánh nến vàng vọt.

Sở Bắc Tiệp dắt theo Sính Đình bước vào cửa trướng, thấy Vương hậu đang nằm trên giường, mái tóc đen đã bạc mất nửa.

Vị vương hậu một nước ung dung đoan chính trước đây, sắc mặt giờ xám xịt, u sầu chất chứa thành những nếp nhăn chằng chịt trên khuôn mặt xinh đẹp trang điểm kỹ càng ngày nào.

Vương hậu đã ở bên Đông Lâm vương những ngày tháng cuối cùng, chịu đủ giày vò trong ngày tháng Đông Lâm xảy ra biến.

“Vương tẩu”, Sở Bắc Tiệp lặng lẽ đến bên giường, hạ giọng gọi.

Hai hàng mi dày của Vương hậu khẽ run, chậm rãi mở đôi mắt đã mờ đục, một lúc lâu mới nhìn rõ khuôn mặt trước mắt.

“Vương đệ về rồi.” Vương hậu thở hắt ra, cố gắng nói từng tiếng, “Nghe nói vương đệ đã đuổi hết quân Vân Thường đang bao vây ngoài kia”.

“Vương tẩu vất vả rồi.”

Vương hậu lắc đầu, nở nụ cười đau khổ, ánh mắt nhìn về phía sau lưng Sở Bắc Tiệp, bỗng ngừng lại.

Sở Bắc Tiệp phát hiện ra, bèn lui về sau một bước, nắm chặt bàn tay mềm như không xương của Sính Đình, để nàng yên tâm.

Không khí trong trướng bỗng trở nên khác thường.

Ánh mắt Vương hậu dừng lại rất lâu trên người Sính Đình.

“Bạch Sính Đình?” Giọng nói của Vương hậu rất khẽ, ba tiếng từ từ lọt ra khỏi môi, ẩn giấu bao chuyện trong quá khứ khiến người ta phải nghiền ngẫm.

Sính Đình cúi người, hành lễ: “Vương hậu nương nương”.

“Bạch Sính Đình, Bạch cô nương...”, Vương hậu nói, “Ngươi qua đây để ta nhìn cho kỹ”.

Sính Đình “vâng” một tiếng, khẽ khàng cất bước, dừng lại bên giường Vương hậu.

Dưới ánh nến vàng vọt, hai đôi mắt trĩu nặng gặp nhau.

Lần đầu tiên họ nhìn rõ khuôn mặt đối phương.

Chuyện cũ theo gió cuốn đi, nhưng ký ức vẫn chẳng thể phai nhòa.

Nỗi đau mất con, nỗi đau bị đưa đi khỏi biệt viện ẩn cư. Giữa bao nhiêu ân oán, Vương hậu đã mất đi hai nhi tử, Sở Bắc Tiệp mất đi Bạch Sính Đình, Đông Lâm mất đi Trấn Bắc vương.

Cuối cùng, khi binh mã Vân Thường xâm phạm bờ cõi, Đông Lâm mất đi sự tôn nghiêm của một quốc gia.

Họ bị số mệnh buộc lại với nhau, gây tổn thương cho người khác và làm thương chính mình. Ngày hôm nay, họ mới nhìn thấy mặt nhau.

Vương hậu lặng lẽ nhìn Sính Đình, hỏi: “Ngươi có hận ta không?”.

Sính Đình hỏi lại: “Vương hậu có hận Sính Đình không”.

Chuyện cũ như ánh lửa, lóe lên trong sâu thẳm ký ức, nhưng rồi nhanh chóng phụt tắt, chỉ để lại làn khói mỏng manh, cảm thán vô cùng.

Vương hậu rời mắt khỏi Sính Đình, nhìn sang Sở Bắc Tiệp, lặng lẽ thở dài.

“Trước khi ra đi, Đại vương đã hỏi ta một câu.” Ánh mắt Vương hậu chứa bao ký ức, “Đại vương hỏi, nếu phu thê chúng ta sinh ra ở hai nước đối địch, liệu đời này chúng ta có thể ở bên nhau?”.

Vương hậu không nói tiếp, như đang mải mê đuổi theo dòng ký ức.

“Vương tẩu đã trả lời thế nào?” Hồi lâu, Sở Bắc Tiệp mới lên tiếng hỏi.

Vương hậu nhìn về phía Sở Bắc Tiệp, khóe miệng mỉm cười, không trả lời câu hỏi ấy, hạ giọng: “Đại vương luôn mong chờ Trấn Bắc vương trở về nắm vương quyền Đông Lâm. Giờ, ta có thể yên tâm mà đi rồi”.

“Vương tẩu sẽ khỏe lại thôi.” Sở Bắc Tiệp quỳ một chân xuống bên giường, dịu dàng nắm tay Vương hậu, nhìn thật kỹ nữ nhân tôn quý chốn thâm cung đã vất vả chống đỡ cho Đông Lâm đến tận ngày hôm nay. Họ là người một nhà, bao lâu trước, huynh hiền đệ kính, thúc tẩu hòa hợp, cùng dự yến tiệc, cùng lên tầng lầu, cùng nghe ca hát, cùng vui cười nhìn đám trẻ chơi đùa.

“Có thể khỏe lại không, không quan trọng”, Vương hậu lạnh nhạt đáp, “Trấn Bắc vương, chúng ta đều đã phạm không ít sai lầm”.

Nghĩ đến vương huynh trước nay vẫn tín nhiệm mình, Sở Bắc Tiệp đau khổ nhắm mắt, trầm giọng: “Bắc Tiệp đã sai, nên khiến vương huynh thất vọng, vương tẩu vất vả”.

Vương hậu buồn rầu nhìn hai người trước mặt, mệt mỏi khép hàng mi, cảnh tượng phu quân trước khi ra đi bỗng thoáng qua trong đầu, theo đó là khói lửa ngập trời thiêu đốt Đông Lâm.

Vương hậu thở dài: “Trong thiên hạ này, lấy đâu ra người không phạm sai lầm?”, rồi nhìn về phía Sính Đình đang cúi đầu im lặng, “Chẳng lẽ ta và Đại vương lại không mắc sai lầm? Hôm đó khi ký hiệp ước với Phò mã Vân Thường Hà Hiệp, đem Bạch cô nương mà Trấn Bắc vương yêu quý như tính mạng của mình đổi lấy việc liên quân Vân Thường – Bắc Mạc rút lui. Biết rõ là không đúng, nhưng vẫn phải ra một quyết định sai lầm. Nếu so sánh, chỉ có lỗi của Bạch cô nương mới là không cố ý”.

Sính Đình lắc đầu, ngước hai hàng mi dày, đôi mắt sáng rõ nhìn về phía Sở Bắc Tiệp, thở dài: “Vương hậu sai rồi. Sính Đình biết thiên hạ sắp đại loạn, nhưng vẫn vì những oán hận trong lòng mà giả chết ẩn cư, không muốn giải thích hiểu lầm với Vương gia, Sính Đình hành xử chậm trễ, dẫn đến sinh linh lầm than. Đây mới là hành động ngu muội nhất, biết rõ là sai mà vẫn không chịu quay đầu”. Ánh mắt nàng chạm phải ánh mắt Sở Bắc Tiệp đang quay lại.

Mạc Nhiên và La Thượng nín thở chờ bên ngoài trướng, niềm vui sướng trong lòng vẫn còn nguyên. Trong rừng âm u, lại vẫn chưa đến sáng, bốn bề tối om nhưng ánh mặt họ sáng lấp lánh, như đã nhìn thấy ánh mặt trời sắp lên của ngày mai.

“Là thật, là thật...” Thỉnh thoảng, La Thượng lại cúi đầu lẩm bẩm một câu, sắc mặt vô cùng hân hoan.

Mạc Nhiên vỗ mạnh vào vai La Thượng, quay đầu nhìn những huynh đệ còn lại sau bao trận chiến gian khổ, vừa mới đây họ còn thề quyết trận huyết chiến này, không ngờ có thể cải tử hoàn sinh, trong lòng trào dâng niềm hân hoan và cảm khái.

Đợi rất lâu, họ mới thấy màn trướng khẽ động.

La Thượng đứng bật dậy: “Ra rồi”.

Tất cả nhất tề đứng dậy, tinh thần hăng hái, nhiệt thành nhìn chằm chằm về phía cửa trướng.

Sở Bắc Tiệp và Sính Đình bước ra.

“Vương hậu đã trao vương quyền Đông Lâm cho ta, từ hôm nay trở đi, tất cả binh mã của Đông Lâm đều nghe theo sự điều khiển của bản vương”, giọng nói chắc chắn ung dung của Sở Bắc Tiệp vang lên bên tai mọi người.

Trong lòng dân chúng Đông Lâm, Sở Bắc Tiệp chính là người kế thừa của vương vị sau Đại vương Đông Lâm, nên ai cũng mong chờ quá trình chuyển giao vương quyền đơn giản này.

“Tình thế khẩn cấp, không có thời gian hàn huyên chuyện cũ”, Sở Bắc Tiệp ngẩng lên nhìn sắc trời, “Đại quân Vân Thường tan rã chỉ vì lòng quân rối loạn, còn thực lực không hề giảm bớt bao nhiêu. Chúng sẽ nhanh chóng tập hợp lại. Chúng ta phải tức tốc rút khỏi chỗ này trước khi kẻ địch giương cờ đánh trống quay lại tấn công”.

“Mạc Nhiên!”

“Có!”

“Lập tức chỉnh đốn đội ngũ, chuẩn bị nhổ trại.”

“Lĩnh lệnh!”

“La Thượng!”

“Có!”

“Ngươi phụ trách bảo vệ sự an nguy của Vương hậu, chọn ra chiến mã khỏe nhất, trên xe sắp sẵn cỏ mềm”, Sở Bắc Tiệp hạ giọng dặn dò, “Cẩn thận, đừng để Vương hậu nương nương bị xóc nảy”.

“Mạt tướng xin làm ngay.”

Chỉ huy xong, Sở Bắc Tiệp liên tiếp ra mấy vương lệnh. Những người này đã theo Sở Bắc Tiệp vào sinh ra tử, quen nghe theo hiệu lệnh, nay nhìn Trấn Bắc vương uy vũ tái xuất, họ như tìm lại được trụ cột của mình, hành động vô cùng nhanh gọn. Chỉ nghe những tiếng “Lĩnh lệnh!”, “Lĩnh lệnh!”, cả đám người hưng phấn đi thực hiện nhiệm vụ của mình.

Toàn doanh trại hành động thần tốc, chưa đầy nửa canh giờ, mọi việc đã được sắp xếp thỏa đáng, họ quay lại phụng mệnh. Sau đó, toàn quân nhổ trại lên đường, đi sâu vào hẻm núi phía nam, cẩn thận che giấu tung tích.

Sở Bắc Tiệp cử binh mã tạo ra dấu vết giả trên đường, để đánh lừa quân địch, khiến đại quân Vân Thường không thể xác định được hướng đi của họ.

Tối hôm đó, khi nghỉ ngơi giữa đường hành quân, Sở Bắc Tiệp cho triệu tập tất cả các tướng lĩnh nghị sự giữa rừng già rộng lớn.

Sở Bắc Tiệp ẩn cư hai năm, vừa xuất hiện đã phải lo cho vương tộc Đông Lâm đang bị bao vây, chưa có thời gian tìm hiểu tình hình tứ quốc hiện nay.

Mạc Nhiên bẩm báo hết sức tường tận: “Sau khi nắm được quyền quản lý kho tiền lương, Hà Hiệp đã tăng cường chi dùng cho quân đội, chỉ trong một thời gian ngắn hắn đã thu nạp được rất nhiều binh sĩ dũng mãnh. Họ được Hà Hiệp đích thân thao luyện, lại được tôi rèn qua bao nhiêu trận chiến... Đại quân Vân Thường hiện nay không còn là đội quân ngủ đông chỉ biết tự bảo vệ mình”.

“Đại quân Đông Lâm và Bắc Mạc đều đã bị đại quân Vân Thường của Hà Hiệp đánh cho tan rã.” Nghĩ đến tình thế tồi tệ hiện giờ của tứ quốc, La Thượng tiếp tục trầm giọng, “Hy vọng duy nhất hiện nay có thể chống lại đại quân Vân Thường chỉ còn đại quân của Quy Lạc”.

“Giờ Quy Lạc đang nội loạn, Quy Lạc vương Hà Túc và Đại tướng quân Nhạc Chấn đối đầu với nhau. Quy Lạc còn không tự lo được cho mình, lấy đâu ra sức lực lo đến đại quân Vân Thường?”, Nhược Hàn đáp, “Ta đã bí mật lập ra mấy điểm trưng mộ binh sĩ ở Quy Lạc, từ sau khi Thượng tướng quân Tắc Doãn khiêu chiến với Hà Hiệp, ngày càng có nhiều nam nhân trẻ tuổi gia nhập lực lượng, trước mắt tính ra tổng cộng đã có hơn một vạn người. Chỉ là, chúng ta không có binh khí, cũng chẳng có chiến mã”.

“Thất bại trên sông Phục Sạp đã gây tổn thất nặng nề cho quân Đông Lâm, rất nhiều binh sĩ đã bỏ chạy vì không còn hy vọng, số còn lại đều đang ở đây”, Mạc Nhiên quay đầu, nhìn phía sau yên tĩnh, “Tính cả người bị thương cũng không quá năm ngàn”.

Một thoáng yên lặng.

So với ba mươi vạn đại quân của Vân Thường, tính toàn bộ tướng sĩ, đội quân của họ cũng chỉ có một vạn năm ngàn người.

Sau một ngày đường, nỗi xúc động khi gặp lại Trấn Bắc vương dần qua đi. Hiện thực tàn khốc ở ngay trước mắt, họ có Trấn Bắc vương có tài thao lược, nhưng binh mã biết lấy ở đâu?

Trầm ngâm giây lát, Sở Bắc Tiệp xua tay nói: “Mọi người hãy nghỉ ngơi đi, ngày mai còn phải hành quân, không được để đại quân Vân Thường đuổi kịp chúng ta”.

Tất cả tướng lĩnh đều biết chủ soái cần thời gian suy nghĩ lần lượt rời đi, chỉ có Mạc Nhiên vẫn ở bên Sở Bắc Tiệp, giống như trước kia ở cùng Sở Bắc Tiệp, họ vẫn đi tuần một vòng quanh doanh trại trước khi đi ngủ.

Hai người đứng trong gió đêm yên tĩnh, nhìn về phía đống lửa sắp tắt, chậm rãi cất bước.

“Lúc nãy ngươi không nhắc gì đến tin tức của Thần Mâu.”

“Thần Mâu đại tướng quân... Khi quân Vân Thường tấn công thành đô, Đại tướng quân đã tử trận”, Mạc Nhiên nặng nề trả lời, “Sở thừa tướng tuổi già sức yếu, không thể rút theo bọn thuộc hạ, nghe nói không muốn chịu nỗi nhục bị bắt sống nên đã uống thuốc độc tự vẫn”.

Tâm trạng cả hai người đều nặng nề, Sở Bắc Tiệp thở dài, chắp tay sau lưng, tiếp tục đi tuần một vòng.

Từ khi Sở Bắc Tiệp trở về, đây là lần đầu tiên Mạc Nhiên có cơ hội nói chuyện riêng với Vương gia, bao câu hỏi chất chứa trong lòng, Mạc Nhiên đánh bạo lên tiếng: “Vương gia, Bạch cô nương...”.

“Nàng vẫn sống, đã tha thứ cho ta và trở về bên ta.”

“Hôm đó... chẳng phải họ nói trong bụng Bạch cô nương đang mang cốt nhục của Vương gia...”

Sở Bắc Tiệp bỗng dừng bước, khuôn mặt cương nghị đau đớn. Mạc Nhiên đã theo Sở Bắc Tiệp nhiều năm, rất ít khi nhìn thấy vị vương gia uy nghiêm cao ngạo này không khống chế được tình cảm của bản thân, thầm thấy hối hận vì đã nói những điều không nên nói.

Mạc Nhiên bỗng nghe thấy giọng nói khản đặc của Sở Bắc Tiệp: “Sính Đình đã trải qua bao nhiêu nguy nan như thế, có thể sống đến hôm nay đã chẳng phải chuyện dễ dàng, đâu còn giữ được hài nhi trong bụng... Bản vương...” Nắm tay chàng chặt rồi lại lỏng, “Bản vương không nhẫn tâm hỏi nàng...”.

Hài nhi mệnh khổ, chắc không còn nữa.

Sau khi gặp Sính Đình, Sở Bắc Tiệp đã phải bôn ba khắp nơi vì tứ quốc loạn lạc, từ rừng rậm Bách Lý đến cổ thành Giang Linh, từ Bắc Mạc đến Đông Lâm, nên không còn thời gian nói chuyện cũ với Sính Đình.

Chút thời gian ít ỏi của họ không đủ để nói những lời ngọt ngào và cả lời cảm tạ ông Trời. Hơn nữa, Sở Bắc Tiệp đường đường là Trấn Bắc vương, đứng trước thiên quân vạn mã của quân địch mặt vẫn không biến sắc, nhưng mỗi lần nghĩ đến hài nhi, lại không có đủ dũng khí.

Chàng không thể tưởng tượng Sính Đình bị binh sĩ Vân Thường truy đuổi, gặp bao hoạn nạn, đã phải tuyệt vọng khi mất đi cốt nhục trong hoàn cảnh thế nào.

Việc đau đớn này, chắc đã trở thành vết thương luôn nhỏ máu trong tim Sính Đình, nên từ ngày gặp lại đến giờ, Sính Đình vẫn chẳng hề nhắc đến hài nhi.

Sở Bắc Tiệp đứng yên ngoài rèm trướng, những suy nghĩ trĩu nặng trong lòng khiến bước chân chàng cũng trở nên nặng trĩu.

Câu hỏi của Mạc Nhiên chính là một cái kim trong lòng Sở Bắc Tiệp. Chàng muốn nhổ nó ra, nhưng nếu chàng hỏi đến vấn đề này, liệu có làm tổn thương đến Sính Đình?

Khó khăn lắm nàng mới trở về bên cạnh, Sở Bắc Tiệp nguyện từ bỏ cả tính mạng của mình, cũng không muốn Sính Đình phải đau khổ, dù chỉ là một chút.

Hài nhi... không được nhắc đến...

“Vương gia định đứng ngoài này đến bao giờ?” Màn trướng khẽ động, Sính Đình bước ra ngoài, dịu dàng hỏi.

Nàng nắm lấy bàn tay Sở Bắc Tiệp, cùng chàng bước vào trướng rồi mỉm cười, nói: “Sính Đình biết bản lĩnh cầm quân của Vương gia, tình thế dù nguy nan đến đâu cũng không thể khiến Vương gia phiền não thế này. Rốt cuộc Mạc Nhiên đã nói gì, mà khiến Vương gia do dự, buồn bã tới mức ấy?”.

Sở Bắc Tiệp nắm lấy bàn tay mềm ấm của Sính Đình, ngọc ấm hương nồng gần trong gang tấc, chốn cực lạc chẳng qua cũng chỉ thế này. Thời khắc giờ lành cảnh đẹp bỗng bị câu hỏi trong lòng phá hỏng, Sở Bắc Tiệp cắn môi, cuối cùng cũng hạ được quyết tâm: “Sính Đình, hôm đó tại biệt viện ẩn cư...”.

“Vương gia, mật thám cử đi đã về.” Giọng nói của binh sĩ bẩm báo vang lên ngoài trướng đúng vào thời điểm không thích hợp nhất.

Không biết tại sao, Sở Bắc Tiệp bỗng thấy lòng thở phào, vội vàng vén rèm, bước ra: “Báo ngay!”.

Thành đô Vân Thường chìm trong tang thương.

“Cái gì?”, Hà Hiệp mặc áo tang đập bàn cái rầm, đứng dậy kinh ngạc, “Sở Bắc Tiệp đột nhiên xuất hiện?”.

“Đúng thế!” Lính truyền tin quỳ một gối, không dám ngẩng đầu. “Rất nhiều binh sĩ đều nói tận mắt nhìn thấy Sở Bắc Tiệp đứng trên dốc núi giương cung, bắn chết Đại tướng quân Trầm Cảnh.”

“Hắn có bao nhiêu binh mã?”

“Các thuộc hạ của Đại tướng quân Trầm Cảnh đều nói không nhìn rõ.”

Hà Hiệp nổi giận: “Hai quân giao chiến, Sở Bắc Tiệp từ phía sau bắn tên, sao lại không nhìn rõ có bao nhiêu người xông tới?”.

“Khởi bẩm Phò mã, lúc đó... vừa nhìn thấy Trấn Bắc vương, bọn họ đã sợ hết hồn, chưa kịp giao chiến, đại quân đã tự tan tác...”

“Hèn mạt!”, Hà Hiệp cắt ngang.

Lính truyền tin im bặt, không dám lên tiếng.

“Chỉ nhìn thấy trên dốc có một bóng người, còn chưa giao chiến mà hơn vạn binh mã đều sợ chạy hết.” Hà Hiệp đi đi lại lại trong phòng, giọng giận dữ, “Đám người Trầm Cảnh mang theo lần này là binh sĩ kiểu gì? Dù hắn còn sống trở về, bản Phò mã cũng sẽ trị hắn tội luyện binh không nghiêm”.

Sau cái chết của Diệu Thiên, Phò mã nắm trọn đại quyền Vân Thường ngày càng hung ác nham hiểm, ánh mắt lúc nào cũng ẩn chứa hận thù, khiến người ta không lạnh mà run.

Lính truyền tin quỳ trên đất, nghe tiếng chân Hà Hiệp đi qua đi lại, tim đập thình thịch như có người đánh trống trong lồng ngực. Hắn bỗng nghe bên ngoài có tiếng bẩm báo: “Phò mã, lính truyền tin từ vương cung Đông Lâm đã về”.

“Gọi hắn vào đây.”

Cửa phòng bị đẩy ra, một tên lính truyền tin khác người đầy bụi bặm bước vào, quỳ xuống, vừa thở vừa nói: “Bẩm Phò mã, Trấn Bắc vương đột nhiên xuất hiện ở thành đô Đông Lâm, giết chết mấy binh sĩ Vân Thường ta”.

“Cái gì?”, Hà Hiệp dừng bước, “Nói rõ hơn đi”.

“Sáu hôm trước, Trấn Bắc vương xuất hiện ở thành đô Đông Lâm giương cung bắn mấy thị vệ của quân ta.”

“Sao không cử người đuổi theo?”

“Đại tướng quân lập tức sai binh mã ra khỏi thành truy đuổi, nhưng ra tay xong, Trấn Bắc vương lập tức dẫn theo mấy kỵ sĩ đi ngay, đến khi chúng ta đuổi theo ra ngoài thành, bọn họ đã đi xa, trời đêm lại tối đen nên rất khó đuổi được.”

“Trời đêm?”, Hà Hiệp nheo mắt, “Hắn xuất hiện ở thành đô Đông Lâm vào đêm của sáu hôm trước?”.

“Vâng.”

Hà Hiệp nhìn về phía lính truyền tin đến trước: “Ngươi vừa nói, buổi tối của sáu hôm trước, Sở Bắc Tiệp xuất hiện trên dốc núi nơi ẩn nấp của vương tộc Đông Lâm?”.

“Vâng, thưa Phò mã.”

“Hai nơi này cách xa nhau như thế, Sở Bắc Tiệp sao có thể xuất hiện đồng thời ở hai điểm?”

“Việc này... việc này...”

“Có nhìn rõ mặt Sở Bắc Tiệp không?” Hà Hiệp hỏi lính truyền tin vừa từ thành đô Đông Lâm trở về.

“Tuy không nhìn rõ, nhưng theo lời đám binh sĩ ở đó nói, những người bên cạnh hắn đều hét lên Trấn Bắc vương...”

“Ngu dốt! Mới nghe đối phương hét lên vài tiếng đã tưởng rằng hắn chính là Trấn Bắc vương? Lơ là đến thế, há chẳng phải nhầm lẫn chủ tướng?”, Hà Hiệp hét lên, “Người đâu! Lôi hắn ra ngoài cho ta!”.

“Phò mã tha mạng! Phò mã tha mạng! Thuộc hạ không dám nói bừa, không dám lơ là! Giờ khắp Đông Lâm đều nói Trấn Bắc vương đã về, chắc chắn là có việc này, thuộc hạ sẽ điều tra rõ ràng...”, lính truyền tin liên tiếp dập đầu.

Đông Chước cầm theo thư tín vội vã bước vào cửa, thấy Hà Hiệp sắc mặt xám xanh, lại thấy lính truyền tin đang xin tha mạng, bèn nói: “Thiếu gia?”.

Hà Hiệp thấy Đông Chước đang cầm quân báo, biết là có chuyện quan trọng nên lạnh lùng hạ lệnh: “Bản phò mã tạm thời tha mạng cho ngươi, còn tái phạm quyết không tha! Ra ngoài”.

Hai lính truyền tin may mắn thoát nạn, vội vã rời khỏi.

“Thiếu gia, Sở Bắc Tiệp xuất hiện ở thành đô Bắc Mạc.”

“Việc xảy ra khi nào?”

“Sáu ngày trước đây.”

Hà Hiệp cười gằn: “Sáu ngày trước, Sở Bắc Tiệp xuất hiện ở ba nơi khác nhau, thành đô Đông Lâm, trong rừng rậm, thành đô Bắc Mạc. Kẻ ngốc cũng biết đã xảy ra chuyện gì”.

Đông Chước lập tức tỉnh ngộ: “Có người lợi dụng danh tiếng của Sở Bắc Tiệp, mạo nhận Sở Bắc Tiệp để làm dao động lòng quân ta! Nghĩ cũng phải, Sở Bắc Tiệp mất tích đã lâu, vương cung Đông Lâm thành đống tro tàn, nếu hắn định tái xuất thì phải xuất hiện từ lâu rồi, sao đến tận lúc này mới đột nhiên xuất hiện?”.

Hà Hiệp nhắm mắt một lát, nghe những lời của Đông Chước thì mở mắt ra, trong đó như có tia sáng đang nhảy múa: “Không, nếu giả mạo Sở Bắc Tiệp có thể dao động lòng quân, thì ngay từ khi quân Vân Thường tấn công Đông Lâm đã phải xuất hiện việc này. Điều ấy càng rõ một điều rằng, Sở Bắc Tiệp đã xuống núi thật. Cùng xuất hiện một lúc ba nơi chỉ là kế dụ địch, chính là muốn lừa chúng ta, muốn chúng ta tưởng rằng có người giả mạo. Đáng tiếc, lừa được kẻ khác nhưng sao lừa được Hà Hiệp ta?”.

Đông Chước hoàn toàn tỉnh ngộ, ngẩn người hồi lâu: “Nếu đúng là Sở Bắc Tiệp, liệu thiếu gia có nên dốc hết đại quân, lập tức tiến đến Đông Lâm đối phó với hắn?”.

“Sở Bắc Tiệp rất giỏi ẩn giấu tung tích, ngươi có biết muốn truy kích hắn trên khắp thảo nguyên hoang vu rộng lớn của Đông Lâm phải cần đến bao nhiêu binh mã, bao nhiêu thời gian không?” Khuôn mặt đẹp của Hà Hiệp ẩn giấu sự sắc bén, khóe môi hơi nhếch lên, “Truyền lệnh, chuẩn bị hành trang. Ta phải đến Quy Lạc”.

Vẻ mặt ngơ ngác, Đông Chước hỏi: “Hai cánh quân của Phi Chiếu Hành và Thương Lộc đã đến Quy Lạc, đủ để đối phó với một Quy Lạc đang nội loạn, thiếu gia hà tất phải đến đó?”.

“Đánh rắn phải đánh bảy tấc[1]. Đông Chước, ngươi có biết điểm yếu của Sở Bắc Tiệp nằm ở đâu không?” Đôi mắt sáng của Hà Hiệp chuyển động, vẻ mặt vô cùng khó đoán nhìn Đông Chước.

[1] Cách ví von của người Trung Quốc, ý chỉ nói năng, làm việc gì cũng cần phải nắm rõ cái quan trọng, điểm mấu chốt nhất.

“Điểm yếu của Sở Bắc Tiệp?”. Bị hỏi, Đông Chước chau mày nghĩ ngợi.

Thấy Đông Chước không hiểu, Hà Hiệp mỉm cười: “Điểm yếu của Sở Bắc Tiệp nằm ở hai chữ ‘Binh mã’”.

Một mũi tên trúng ngay vào đích.

Đông Chước thật sự tỉnh ngộ.

Binh lực của hai nước Đông Lâm, Mắc Mạc đã hoàn toàn tan vỡ, Sở Bắc Tiệp muốn có tinh binh chỉ còn cách tìm đến Quy Lạc thực hiện ý định của mình. Hà Hiệp lập tức đến Quy Lạc, đánh tan đại quân Quy Lạc cũng đồng nghĩa với việc phá tan cơ hội tìm kiếm binh sĩ cuối cùng của Sở Bắc Tiệp.

Không bột chẳng gột nên hồ. Không có binh mã quân lương, Sở Bắc Tiệp còn có thể làm gì?

Dù có là thần tướng, Sở Bắc Tiệp cũng không thể chỉ dựa vào sức mạnh của một người để đánh thắng đội quân lớn mạnh của Vân Thường.

Bàn xong kế sách, hai người một trước một sau rời khỏi thư phòng.

“Đến tận bây giờ, thuộc hạ vẫn không thể tin Sở Bắc Tiệp lại đột nhiên xuất hiện”, Đông Chước vừa đi vừa lẩm bẩm, “Sao Sở Bắc Tiệp lại vô duyên vô cớ xuất hiện vào lúc này?”.

“Sự xuất hiện của Sở Bắc Tiệp không thể là vô duyên vô cớ.”

“Thiếu gia?”

“Chắc chắn có nguyên do.” Hà Hiệp trầm giọng, ánh mắt lấp lánh tinh anh thoáng nhìn qua hậu viện. Nơi đó, Sính Đình đã từng ở.

Cửa phòng ấy vẫn đang đóng chặt.

Thiên hạ rộng lớn này, còn ai có thể khiến Sở Bắc Tiệp vì tuyệt vọng ẩn cư phải xuống núi?
 
Trạng thái
Không mở trả lời sau này.
Top