Lượt xem của khách bị giới hạn

[Ngôn tình] [Truyện Hoàn] Giờ đang nơi đâu - Duy Đao Bách Tích

Trạng thái
Không mở trả lời sau này.
[Ngôn tình] [Truyện Hoàn] Giờ đang nơi đâu - Duy Đao Bách Tích

MUALARUNG91

Tác giả
Sưu tầm
Tham gia
25/8/19
Bài viết
4,780
Điểm cảm xúc
577
Điểm
113
Chương 89: Đêm (5)
Tất cả thành viên ở tổ I bận đến nỗi chân không chạm đất suốt hai tuần liền, và cũng đã mấy hôm Sở Vọng không được ngủ ngon. Quá trình xây dựng đài than chì và sửa đổi bản vẽ gần như được tiến hành song song. Mấy ngày liền thức thâu đêm ở viện nghiên cứu, mệt tới mức ngã vật ra trên đài ở dưới sân, chỉ cần vừa đặt mông xuống ghế là lập tức ngủ ngay, nhưng ngủ chưa được nửa tiếng thì lại có người cầm bản vẽ đến hỏi chỗ sai… Cứ như thế, trong khoảng 10 ngày cô chỉ quay về đường Ferguson mỗi hai lần, cộng lại cũng không biết có ngủ đủ 30 tiếng không.

Điều duy nhất làm cô khó chịu là, từ sau lần nội bộ tổ I nói chuyện bàn bạc, cô đột nhiên bị Sakuma Ichiro để mắt. Những lúc ngồi nghiên cứu bản vẽ ở dưới sân hay khi đi lướt qua nhau ở cổng viện nghiên cứu… cô thường xuyên cảm nhận được một ánh mắt, ngoái đầu lại, đúng là gã Sakuma Ichiro đang nhìn cô chòng chòng từ xa. Ánh mắt của gã rất khó hiểu, mang theo ý tứ ngấp nghé và theo dõi, không phải là ánh nhìn tán thưởng và ngưỡng mộ giữa nam và nữ.

Mỗi một lần cô chạm vào tầm mắt của Sakuma Icchiro, ánh mắt ấy luôn khiến cô rùng mình nổi da gà. Oppenheimer còn từng một lần nói thẳng ra: “Ngài thiếu tá, tôi cho rằng sự có mặt của anh đang làm phiền đến tiến triển thí nghiệm của chúng tôi.”

Sakuma Ichiro mặt dày đáp trả: “Tôi đừng nhìn từ xa mà, làm phiền gì đâu?”

“Tôi nghĩ trước khi đến đây, hẳn anh đã xem qua chương trình giữ bí mật.”

Gã ta cười khì bảo: “Thứ nhất, tôi không hiểu các anh đang nghiên cứu gì; thứ hai, tôi có hứng thú với nhà khoa học nữ của các anh còn nhiều hơn là khoa học. Nếu cô ấy đích thân mời tôi rời đi thì có lẽ tôi sẽ suy nghĩ lại.”

May là trước khi đi Tạ Trạch Ích đã có dặn dò, mọi việc đi về đã có Benjamin đưa đón, hầu hết thời gian còn lại cô đều ở cùng với mọi người trong viện nghiên cứu. Nếu Sakuma Ichiro muốn giở trò thì cũng không tìm được cơ hội.

Sau khi kết cấu cơ bản của nồi hơi dần hình thành, sân thí nghiệm cũng cần được nâng cấp để ổn định hơn. Vậy là trong vòng một tuần, một nhóm công nhân Trung Quốc khỏe mạnh đã được viện nghiên cứu thuê với giá nhân công rẻ để xây dựng đài thí nghiệm. Sakuma Ichiro dẫn một đám lính Nhật và một vị trung úy khác dẫn quân Anh đứng bên ngoài canh gác. Cơ hội tiếp xúc dần tăng lên, qua khe cửa phòng làm việc, cô luôn phải chịu đựng sự quấy rầy đến từ Sakuma Ichiro.

Benjamin ở đối diện hầu như không hề rời cô nửa bước, Sakuma Ichiro đập dây roi dùng để giám sát trong tay, nở nụ cười đầy hàm ý: “Xem ra thượng úy Tạ của chúng ta rất để ý đến cô đấy. Kể ra cũng phải, Thượng Hải quá không an toàn, nhất là đối với một cô gái Trung Quốc xinh đẹp lại còn độc thân.”

Gã cố ý nhận mạnh vào hai chữ “Trung Quốc”, rõ là có ý ám chỉ. Quả thật ở ngõ Phong Nguyên từng có một cô gái Trung Quốc rất đẹp gặp chuyện, có điều chuyện này ngoài người trong cuộc ra thì cũng chỉ có gã với thuộc hạ của gã và Sở Vọng biết. Gã là người gây họa, nhưng lại trắng trợn khoe khoang về sự tàn ác của mình ở trước mắt nhân chứng, chỉ đơn giản là vì gã không sợ.

Từ lúc khoác lác trước mặt người Nhật, ai ai ở viện nghiên cứu cũng căng thẳng tột độ, hầu như chưa được ngủ ngon giấc. Nhất là Sở Vọng, cô vô cùng mệt mỏi, không có thời gian liếc mắt đến gã ta, thấy Sakuma Ichiro thì cũng làm như không thấy. Nhưng chỉ cần nghỉ ngơi chốc lát là lần nào Sakuma Ichiro cũng nắm cơ hội lại gần nói chuyện với cô.

“Cảm giác thế nào.” Trong tuần thứ hai sau buổi bàn bạc lần trước, một hôm nào đó, Sakuma Ichiro ngồi trên khán đài gần cô, hỏi một câu khó hiểu.

Cô lười để ý đến gã, chỉ híp mắt nhìn tiến độ xây dựng giàn giáo hình quả cầu ở giữa sân. Ở trên khán đài sau lưng cô, các tổ viên ở tổ khác cũng đang nghỉ ngơi nói chuyện với các nghiên cứu viên và lính Anh trên sân. Cô mệt mỏi không muốn động đậy, nhiều người đang nhìn như thế, chắc cũng không đến nỗi gặp chuyện nguy hiểm, thế là cứ mặc kệ gã ta luyên thuyên, cô tạm thời bịt tai không nghe.

Sakuma Ichiro lại bổ sung: “Điện báo của Thiên hoàng tuần trước, bọn họ cho cô xem rồi đúng không?”

Sở Vọng giật thót, nghiêng đầu nhìn gã chằm chằm.

Sakuma Ichiro hừ hai tiếng: “Nghe nói trên đỉnh Thái Bình có một đài thiên văn rất ghê gớm. Người Anh xin xây dựng đài vô tuyến sóng dài ở tô giới không thành, thế là người thầy thân ái của cô tự mình cầm đao, đổi đài thiên văn ở núi Thái Bình thành đài vô tuyến sóng dài quân dụng.” Gã ta nhíu mày, tuy miệng vẫn cười nhưng lại như đang thuật lại nội dung tờ báo nào đấy: “‘Gần như không có điểm mù trong quá trình gửi sóng điện từ đi từ đỉnh Thái Bình. Ở nơi gián điệp của nhiều quốc gia tranh giành nhau, xứ Cảng Thơm gần như bị coi là kẻ thù nguy hiểm của các gián điệp từ khắp nơi trên thế giới’.” Rồi gã vỗ tay khen ngợi: “Đúng là lợi hại.”

Gân xanh trên mặt cô giật giật, “Rồi sao nữa?”

“Cô không thấy tiếc à?” Sakuma Ichiro bĩu môi tỏ vẻ xót xa, “Dù biết chúng tôi sẽ dễ trở mắt trước yêu cầu của cô, nhưng cô vẫn phải thực hiện lời hứa sáu tuần của mình. Tiếc thay cho một nhà khoa học vĩ đại, một nhà khoa học nữ, tôi thấy buồn thay cô đấy. Đọc tờ điện báo kia, chắc chắn cô rất muốn xé xác chúng tôi đúng không? Nhưng cô chỉ có thể nhẫn nhịn.”

“Quả đúng là nên xé xác anh ra.” Cô nở nụ cười giả lả với gã, “Hơn nữa tôi chưa bao giờ nghi ngờ điều này.”

Sakuma Ichiro nghe thế thì đột nhiên cười phá lên, khiến công nhân và nhân viên nghiên cứu đi ngang qua không khỏi ghé mắt nhìn. Benjamin đứng canh từ xa cũng giật mình, lập tức dẫn người lại gần.

“Tôi sẽ giữ kỹ quyền ảo tượng của cô, nhà khoa học nữ Trung Quốc thân yêu của tôi.” Hắn ta cười rồi thôi: “Cô biết không, tôi có hứng thú với cô còn hơn cả thí nghiệm khoa học.” Sakuma Ichiro vừa nói vừa nhìn Benjamin đang đi đến, “Tay thượng úy kia đúng là quan tâm cô chu đáo. Xem ra anh ta cũng biết tôi có hứng thú với cô.” Rồi gã ló đầu ra hỏi: “Có biết vì sao tôi có hứng thú không?”

Cô nhìn chằm chằm mặt đất, nheo mắt cười nói, “Ồ. Tôi không muốn biết.”

Sakuma Ichiro không những không cảm thấy xấu hổ mà còn cúi gập người, nói, “Tôi xin lỗi vì tuần trước đã khinh thường cô.” Rồi lại bảo, “Nhà khoa học nữ xuất sắc như cô, theo lý mà nói thì nên nhận được nhiều ưu đãi hơn. Rõ ràng là cô sẽ có tiền đồ xán lạn! Nhưng cô nhìn cô đi, quốc gia của cô có thể đem lại cho cô những gì? Che chở? Danh tiếng? Không hề! Đúng là làm người ta thất vọng!”

Cô cúi đầu xuống, đột nhiên bật cười mà chẳng nói gì.

Gã ta bày tỏ tiếc nuối xong thì lại hướng dẫn từng bước: “Thiên hoàng của chúng tôi rất coi trọng khoa học. Đến thời điểm hiện tại, sinh vật học của đế quốc Nhật Bản đang dẫn đầu toàn thế giới. Nhưng kỳ thực, chính Thiên hoàng là một nhà sinh vật học vĩ đại có một không hai. Nếu cô đồng ý từ bỏ quốc tịch Trung Quốc, chắc chắn Thiên hoàng sẽ dùng lễ nghi cao cấp chào đón cô.”

Sở Vọng nhướn mày, “Ví dụ như là?”

Thấy cô có vẻ thích thú, Sakuma Ichiro nói: “Cô sẽ có phòng nghiên cứu riêng của mình, cũng có trợ thủ riêng. Nếu nghiên cứu gặt hái được thành quả thì nhất định Thiên hoàng sẽ đích thân trao huy chương văn hóa cho cô. Nhưng với điều kiện là cô phải từ bỏ quốc tịch Trung Quốc, gia nhập quốc tịch Nhật Bản.” Rồi gã cười bổ sung, “Biện pháp đơn giản nhanh chóng nhất là gả cho một người chồng Nhật Bản có thân phận hiển hách.”

Lúc nói những lời cuối cùng, gã bất giác xòe hai tay ra, tỏ vẻ mình chính là người “có thân phận hiển hách” đó.

Sở Vọng cười thầm: Gã Thiên hoàng tội phạm chiến tranh biến thái của các người? Có điên mới tin nhà ngươi!

Lại có một hôm, sau khi cô tính toán xong lực chịu nén của “nồi hơi”, lúc giao nhiệm vụ, thành viên của tổ I chỉ điểm công nhân xây dựng đài than chì, cô không có việc gì làm nên lùi ra ngoài mép đám đông. Dưới bao ánh mắt, đột nhiên Sakuma Ichiro mặt dày hỏi: “Nhà khoa học nữ xuất sắc của chúng ta có hứng thủ gả cho người Nhật không?”

Cô còn chẳng buồn nhìn gã: “Không hề.”

Sakuma Ichiro có vẻ khó tin: “Nhưng vì sao? Cô không biết có bao nhiêu phụ nữ Trung Quốc muốn gả cho tôi ư. Thậm chí sau khi tôi làm ra những chuyện lỗ mãng với bọn họ, họ còn quỳ xuống trước mặt tôi, khóc lóc năn nỉ tôi đưa họ đi…”

Gã vừa nói vừa bắt chước cử chỉ quyến rũ của phụ nữ, vô cùng thâm tình diễn lại một màn. Một hồi sau, gã cười to ha hả: “Đương nhiên là tôi chỉ đùa thôi, cô đừng coi là thật. Dù gì thì, trong thâm tâm phụ nữ phương Đông, đàn ông da trắng mới khiến người ta say mê. Bọn họ cao to dũng mãnh, có khí khái phi phàm của đàn ông, bọn họ ôm cô vào lòng, hôn cô liên tục khiến cô không thể chạy thoát, cho tới khi cô tan ra trong vòng tay của họ…”

Sakuma Ichiro vừa nói vừa mặt dày diễn lại vô cùng sống động, cứ như thể đang thật sự ôm ấp một người đẹp Đông phương trong lòng, làm mấy gã người Nhật cười phá lên. Một nữ nghiên cứu viên người Pháp nghe không đặng, không nhịn được cau mày mắng: “Đồ biến thái.”

Gã cũng chẳng hề buồn, cười cười quay sang hỏi Sở Vọng: “Hay là tay sĩ quan Anh Quốc có gương mặt phương Đông kia mới làm cô say mê?”

Tuy gã ăn nói bỗ bã nhưng không tạo thành tội lớn; đối tượng trêu đùa cũng chỉ có một mình Sở Vọng, tổng cộng cũng không nói mấy câu nên không tính là làm phiền người ngoài.

Sở Vọng mệt gần chết nên cũng chẳng buồn quan tâm, chỉ coi gã là không khí.

Có điều hôm đó cô vẫn bị nữ nghiên cứu viên kia kéo cách xa gã ta. Đến hôm sau, các cô gái mới cho cô hay: người bạn của cô ấy ở phòng giám sát tầng hai có nói, rất nhiều lính Nhật tinh thần có vấn đề. Đặc biệt là những kẻ còn trẻ nhưng cấp bậc cao, tuy trẻ nhưng không biết tay đã nhuốm bao nhiêu máu tươi, không biến thái mới là lạ.

Có điều Sở Vọng lại phát hiện, Sakuma Ichiro có tâm trạng khá kỳ quặc với người Trung Quốc, không dính dáng gì đến việc có biến thái hay không. Nhưng cũng không biết chỉ là một mình gã ta hay từ trước cả quân đội nhật Bản đã bị tư tưởng đó tẩy não. Rất nhiều lần, Sakuma Ichiro cố chấp bày tỏ không hiểu trước một vấn đề: “Có lúc tôi không biết người Trung Quốc các cô đang nghĩ gì. Chẳng lẽ Nhật và Trung không thể giao hảo? Không phải người da vàng nên liên thủ đối phó người da trắng sao?”

Trước đây cô từng nghe nói, chiến tranh thế giới lần thứ nhất vừa kết thúc, Nhật Bản đã bắt tay chuẩn bị cuộc chiến thứ hai chống lại Âu Mỹ. Dù lương thực thực phẩm dành cho bách tính có khan hiếm đến mức nào, thì bộ lục quân Nhật Bản vẫn luôn dự trữ quân lương, thậm chí đã có tham vọng làm nên khối Thịnh vượng chung Đại Đông Á*.

(*Khối Thịnh vượng chung Đại Đông Á là một khẩu hiệu được chính phủ và quân đội Đế quốc Nhật Bản đề xướng trong thời kỳ Chiêu Hòa, thể hiện khát vọng tạo ra một “khối các quốc gia châu Á do Nhật Bản lãnh đạo và không phụ thuộc sức mạnh phương Tây”.)

Trước đây, những chuyện như thế chỉ tồn tại trong sách lịch sử như những câu chuyện nghìn lẻ một đêm, ấy nhưng hôm nay nó lại được thể hiện sâu sắc trên người của kẻ gọi là Sakuma Ichiro. Đã không dưới một lần cô nghe gã ta khoác lác: “Người Trung phải nghe theo hướng dẫn của người Nhật, đừng bị bọn Anh Mỹ lừa dối. Lục quân Nhật Bản chỉ đối phó với Nga, còn hải quân đối phó với Mỹ.”

Thoạt mới nghe có vẻ rất êm tai, nhưng cẩn thận suy ngẫm sẽ nhận ra sự miệt thị thâm căn cố đế với Trung Quốc lẫn người Trung. Cứ như thể với Nhật Bản, chinh phục Trung Quốc không cần đến quân đội, chỉ cần khuyến khích người Trung Quốc đầu hàng, làm nô lệ của bọn họ là đủ.

Dễ dàng nhận ra điều đó qua thái độ của lính Nhật với Thẩm Nguyệt Anh. Trong lời nói cử chỉ của gã ngập tràn cảm giác thượng đẳng, đứng trên cả Trung Quốc. Bọn họ cảm thấy người Trung Quốc phục tùng người Nhật là chuyện đương nhiên, phản kháng không chỉ vô dụng mà còn là điều khó hiểu.

Về việc sĩ quan của mình hãm hiếp phụ nữ Trung Quốc, gã không những không thấy xấu hổ mà thậm chí còn coi đấy là điều đương nhiên.

Gã nói: “Nhà nước nuôi quân đội, quân đội bảo vệ nhà nước, thân là con dân của quốc gia, hưởng thụ điều kiện ưu việt do chính phủ chu cấp, thì không phải nên cống hiến lại cho quốc gia ư? Quân Nhật chúng tôi có phụ nữ giải khuây*, đến Trung Quốc của các cô, bảo vệ tô giới của các cô yên ổn thì cũng nên có phụ nữ hy sinh mình chứ, không phải sao?”

(*Phụ nữ giải khuây là từ chỉ những người phụ nữ bị quân đội chiếm đóng của Đế quốc Nhật Bản hãm hiếp, ép làm nô lệ tình dục, họ là phụ nữ các nước bị Nhật Bản chiếm đóng như Trung Quốc, Triều Tiên, Việt Nam, Indonesia, Malaysia.)

Dù đã sớm biết Nhật Bản là xã hội theo mô hình dâng hiến, nhưng sự dâng hiến toàn dân ấy, có lúc chính là lý do tạo nên sự quái dị của quân đội hay thậm chí là quốc gia. Vào những thời điểm đặc biệt: ví dụ như thời chiến, loại hình quái dị đó sẽ càng được biểu dương, gần như trở thành sự biến thái toàn dân thâm căn cố đế.

***

Công việc hơn hai tuần kết thúc, lớp vỏ giàn than chì và lều thí nghiệm về cơ bản đã hoàn thành, cô cũng được một ngày rảnh rỗi, có thể về nhà ngủ một giấc thật đẫy để nạp năng lượng.

Giữa tháng 3 thường xuyên có mưa bụi. Trong ngày Benjamin chở cô từ viện nghiên cứu về nhà, trời xuân âm u thấy rõ. Cô khóa chặt cửa nẻo, kéo rèm cửa sổ lại; làm lụng liên tục hơn mười ngày quá sức, vừa ngả lưng xuống giường, cô lập tức chìm vào giấc ngủ.

Cũng chẳng biết đã ngủ bao lâu, bất chợt một cơn gió lạnh ùa vào phòng, mang theo mùi bùn đất và hương hoa thoang thoảng. Cô mơ màng mở mắt ra, thấy cửa sổ mình khóa đã bị người ta đẩy mở. Gió thổi phất phơ rèm lụa trắng, có một người đứng trước cửa sổ.

Lúc cô mơ hồ nhìn sang thì vừa hay người kia cũng nhìn cô. Anh cất tiếng hỏi: “Làm ồn em hả?”



Cô lắc đầu.

“Đóng cửa sổ mãi dễ bị ngộp lắm. Hóng gió một lúc rồi khép lại sau.”

Cô gật đầu. Một lúc sau mới thấp giọng hỏi, “Sao anh lại về?”

“Quay về thăm em một lúc, lát nữa tôi đi lại ngay.”

“Ừm.”

Mãi lâu không nghe có tiếng động, cô ôm chăn nằm ngủ tiếp. Không biết lần này ngủ bao lâu, đến khi mở mắt vẫn thấy người kia đứng trước cửa sổ.

Cô không rõ có phải mình đang nằm mơ không, cất giọng hỏi: “Anh Tạ?”

Tạ Trạch Ích đáp, “Tôi đây.”

Dù là nằm mơ, cô cũng cảm thấy khung cảnh này thật kỳ quặc, bèn hỏi: “Có phải anh có chuyện quan trọng muốn nói không?”

Anh nghĩ một lúc rồi bảo, “Tôi đem đến cho em một bức thư.”

“Ừ?”

“Trên con tàu ở biển Đông có một anh chàng họ Tư, tôi từng thấy cậu ta đi với em. Cậu ta hỏi tôi có thể chuyển thư đến cho em được không.” Như thể không chắc rốt cuộc cô đang tỉnh hay mơ, anh lại nói, “Thư ở trên bàn, nếu rảnh thì đi mà xem.”

Giọng của Tạ Trạch Ích rất nhẹ, anh vừa nói thì cô vừa dần thiếp ngủ. Chỉ nghe thấy giọng anh mơ hồ, như khẽ thở dài bên tai: “Thôi bỏ đi. Nghỉ ngơi cho khỏe. Tôi đi đây.”
 

MUALARUNG91

Tác giả
Sưu tầm
Tham gia
25/8/19
Bài viết
4,780
Điểm cảm xúc
577
Điểm
113
Chương 90: Đêm (6)
Trong lần đầu tiên tới đường Ferguson, Lâm Tử Đồng đã biết chuyện Tạ Trạch Ích nhận lệnh đưa tàu về biển Đông. Hôm đó đến tìm Sở Vọng, vì nể tình cô ba nhà họ Lâm nên mới đưa ra vài lời đề nghị rất đúng trọng tâm cho Tạ Trạch Ích.

“Đa số du học sinh Anh chỉ thích đọc sách, không thích tham gia vào hoạt động chính trị, không giống du học sinh Pháp.” Anh ta nói, “Hầu hết học sinh sinh viên Pháp đều vừa học vừa làm. Đặc biệt là các du học sinh rời nước trước và sau phong trào Ngũ Tứ, sống ở một nước Pháp năng động tại lục địa châu Âu, bị cuốn vào những cuộc tranh luận đủ loại chủ nghĩa, gần như du học sinh Pháp nào cũng có phe phái chính trị riêng, hơn một nghìn sinh viên học tập tại Pháp, cơ hồ không có lấy một ‘dân đen’. Trong số đó có một nhóm các nhà văn có tư tưởng cấp tiến, chính là phe cánh tả hiện đang bị Bộ Tư lệnh An ninh Tùng Hộ truy nã. Trong hơn một nghìn người này, có hơn ba mươi người đã xuất hiện trên một con tàu sắp vào Biển Đông. Vậy anh Tạ có biết, trong đó có bao nhiêu là ‘sinh viên đỏ’ và bao nhiêu là tội phạm truy nã không? Nếu anh Tạ không hiểu được tình trạng hiện tại của Giang Tây, thì có thể loại suy từ vụ án của tô giới Anh Thiên Tân đã bắt được đảng bộ thành phố Thiên Tân của Quốc dân Đảng vào năm dân quốc thứ mười lăm.”

Tháng 11 ba năm trước, bất chấp sự phản đối của Chính phủ Quốc dân Quảng Châu, phía Anh ở tô giới Anh tại Thiên Tân đã dẫn độ mười lăm thành viên thuộc Quốc dân Đảng cho chính phủ Bắc Dương phe Phụng, dấy lên sự phẫn nộ ở miền Nam. Đến năm sau khi Bắc phạt thành công, đội tuyên truyền của trường chính trị quân sự trung ương đã bắt đầu tuyên truyền chống Anh tại vùng đất trống ở tô giới Anh và địa phận Trung Hoa trước hải quan quận Giang Hán, yêu cầu bãi bỏ những hiệp ước bất bình đẳng. Một ngày sau khi thu hồi tô giới Anh, công sứ Anh tại Trung Quốc đã ra lệnh cho rút nghĩa quân và đội thủy quân lục chiến, đến buổi chiều thì rút lui lính tuần tra. Vào ngày 5 tháng 1, hai trăm nghìn quần chúng thị uy đã bao vây các phòng tuần bộ, tất cả các doanh nghiệp thuộc sở hữu của Anh đã ngừng hoạt động, toàn bộ kiều dân trong khu tô giới của Anh phải ngồi tàu chiến và tàu buôn rời khỏi Hán Khẩu. Đến ngày 19 tháng 2, công sứ Anh Quốc đã đại diện ký kết “Thỏa thuận thu hồi tô giới Anh tại Hán Khẩu”. Đến tháng 3, hội đồng khu tự quản của tô giới Anh ở Hải Khẩu đã giải thể.

Trước khi đi, anh ta còn nói: “Anh Tạ à, trăm năm qua, đại sứ quán Anh Quốc luôn là người vô cùng thông minh. Bọn họ toàn quyền giao cho anh công việc nhàn hạ này, chắc hẳn cũng cho anh lời khuyên tương ứng rồi đúng không?”

Lâm Tử Đồng nói không sai.

Dù là Hugh Hamilton Lindsay một trăm năm trước định vào Thượng Hải, hay George Balfour hơn tám mươi năm trước ra sức dẹp bỏ nghị luận của mọi người mà mua mảnh đất bùn kia, hay là Alcock sau sự kiện “Thanh Phổ” đã mở rộng diện tích tô giới từ 828 mẫu lên 2820 mẫu, rồi sau chiến tranh thành bùn* đã lấy được chủ quyền từ hải quan Thượng Hải… Sau một Tiểu Đao hội, một quân Thái Bình cùng với sự kiện Ngũ Tạp và 12 tháng 4, đất nước này đã trải qua thay đổi triều đại, quân phiệt hỗn chiến, ấy thế mà bọn họ vẫn có thể vững vàng đặt chân tại thành phố thông thương ở vùng Viễn Đông, thì dĩ nhiên người Anh phải thông minh rồi.

(*Năm 1853 sau khi Thái Bình Thiên Quốc xây dựng kinh đô ở Nam Kinh, Tiểu Đao Hội bị ảnh hưởng quân Thái Bình đã nổi dậy khởi nghĩa ở Hạ Môn vàThượng Hải. Dưới sự đàn áp của quân xâm lược Anh, Pháp và quân Thanh cuộc khởi nghĩa đã bị thất bại, cuộc chiến giữa quân khởi nghĩa và quân xâm lược được gọi là chiến tranh thành bùn.)

Cứ nhìn bản đồ thế giới là biết. Hơn một thế kỷ, người Anh đã phát huy sự thông minh đến nấc cao nhất.

Nếu không phải như thế thì Chu Nhĩ Tra cũng sẽ không nói với anh: “Công việc ở viện nghiên cứu là một công việc rảnh rỗi. Ngày trước như thế mà bây giờ cũng vậy.”

Nói là đề nghị, chẳng thà bảo đó là lời khuyên chân thành. Chân thành khuyên nhủ, chưa chắc ai cũng có thể làm tốt; sở dĩ giao công việc rảnh rỗi này cho anh chính là muốn nâng đỡ anh, nhận định anh chắc chắn có thể thông thạo xử lý quan hệ ba nước.

Hạm đội Nhật Bản được hải quân hoàng gia nuôi dưỡng. Bảy năm trước sau hiệp ước Hải quân Washington, tàu tuần dương hạng nhẹ của Nhật Bản dần dần trở nên “hậu sinh khả úy”, và cũng có vẻ vô cùng hưng thịnh. Nhưng ở trên Biển Đông, còn ai hiểu rõ hơn anh về khu vực thực dân Anh ở Đông Nam Á cùng với hải quân và lục quân hoàng gia đây?

Chuyến tàu trước đã bỏ lại tàu chiến của hai nước khác ở tít sau xa, để các nhà địa chất học cùng với người của Đảng Cộng sản Pháp tiến vào vùng nội địa Trung Quốc theo đường bộ một cách quỷ không biết thần không hay.

Mà lần này, quân hạm của hai nước kia đã đang trong tình trạng cảnh giác. Lần này muốn tiến vào biên giới Trung Quốc rất khó. Không phải là không có cách, nhưng anh vẫn cần cân nhắc tính toán.

Trên đại lục Trung Quốc hiện nay đã không phải là vương triều phong kiến Mãn Thanh, địa vị Anh Quốc cũng không so được với Nhật Bản. Nếu như vẫn nghênh ngang đưa con thuyền kia vào biên giới Trung Quốc, thật sự rất khó bảo toàn tô giới Anh ở Thượng Hải sẽ không dẫm vào vết xe đổ như ở Hán Khẩu, khiến Nhật, Mỹ và Pháp đứng đằng sau nhìn chằm chằm được ngư ông đắc lợi.

Nếu đến cuối thật sự có thể khiến Anh rút khỏi tô giới, xóa bỏ những hiệp ước Trung Anh bất bình đẳng, thì há chẳng phải là điều bọn chúng hy vọng ư?

Con thuyền thứ hai đã vào biển Đông và đang ở gần Penang. Dưới sự chỉ dẫn của đài thiên văn ở đỉnh Thái Bình, anh đã tìm thấy con thuyền du lịch xuất phát từ Marseille. Anh dẫn theo một hạm đội hải quân và phiên dịch viên lên thuyền để tiếp tế vật liệu, cũng trấn an tâm trạng của các nhà địa chất học ở trên thuyền.

Lúc sắp xuống thuyền, đột nhiên một chàng thanh niên cao ráo, mặt mày thanh tú xuất chúng đến gần, dùng tiếng Anh rất chính thống chào hỏi: “Anh Tạ, không biết anh còn nhớ tôi không?”

Anh có chứng chứng mù mặt đối với người da vàng. Sau một lúc lục tìm ký ức, anh trả lời bằng tiếng Anh: “Rất xin lỗi.”

Chàng trai nọ cũng không hề tức giận, còn mỉm cười nói: “Trên thuyền ở đảo xa, anh từng mượn bật lửa của tôi.” Vừa nói vừa lấy chiếc bật lửa máy vô cùng tinh xảo trong túi áo gi-lê ra, “Có lẽ anh đã quên rồi.”

Tuy anh khó nhớ mặt người, nhưng chiếc bật lửa này là thứ anh đã ao ước từ lâu, sao có thể quên được.

Nhìn chăm chú một hồi, anh có cảm giác như thể vì đã ở trên thuyền quá lâu nên dạ dày chua chua, dùng tiếng Trung vạn năm không thể sửa được phát âm mà đáp: “Cậu có thể nói tiếng Trung với tôi.”

Chàng trai gật đầu rồi hỏi: “Xin hỏi anh có quen cô ba nhà họ Lâm không? Tôi thấy có vẻ anh quen biết cô của em ấy.”

Anh lời ít ý nhiều đáp: “Có biết.”

“Anh Tạ có tiện liên lạc với em ấy không?”

“Sao thế?”

“Mấy năm gần đây thông tin bị cản trở, suýt đã mất liên lạc với em ấy. Nếu anh có thể liên hệ được, thì ở chỗ tôi có vài bức thư rất quan trọng, không biết anh có thể gửi cho em ấy giúp tôi được không?”

Nhìn xấp thư kia, anh im lặng một lúc.

Anh trả lời rất ngắn gọn, đến câu cuối cùng thì dứt khoát im lặng. Chàng trai nọ còn tưởng anh khả năng nghe tiếng Trung của anh không tốt, bèn lặp lại một lần bằng tiếng Anh.

Trung úy hải quân hoàng gia đi theo giải vây hộ: “Nhận gửi giúp cũng được, đến bưu điện gửi thì gửi cho ai mà chẳng thành. Có điều cảnh sát quản rất chặt chuyện nhập cảnh, chứng tôi cũng sợ phiền phức. Mọi thư từ đều phải được mở ra kiểm tra một lượt. Cậu thấy có ổn không?”

Chàng trai cười đáp: “Không thành vấn đề.”

Cầm lấy xấp thư, anh áng chừng sức nặng, không nhẹ. Sau khi đưa thư cho trung úy hải quân hoàng gia, chàng trai đó lại hỏi: “Nếu có thể biết được em ấy đang ở đâu, thì sau khi nhập cảnh Trung Quốc, anh Tạ có thể dẫn tôi đi gặp em ấy được không?”

Trong tiếng Anh, “anh ấy” và “cô ấy” là hai từ đơn rất dễ phân biệt. Cậu ta vừa dứt câu hỏi bằng tiếng Anh, hải quân hoàng gia đi theo bật cười. Các sĩ quan trả lời còn trước cả anh: “Có thể nhập cảnh được hay không còn là vấn đề, vậy mà chưa gì đã nhớ người yêu rồi à?”

Cậu ta kiên trì vặn hỏi: “Có được không?”

Tạ Trạch Ích nhìn thẳng vào mắt chàng trai, cau mày im lặng một lúc, sau đó nói bằng tiếng Trung, “Tôi không dám hứa. Đợi tôi hỏi cô ba xem em ấy quyết định thế nào đã. Như vậy được không?”

***

Thời gian dừng chân ở Thượng Hải chỉ vỏn vẹn hai mươi tiếng đồng hồ. Tàu tuần dương vừa về đến Thượng Hải, Benjamin đã ra bến đón người. Nghe nói cô ở nhà, anh lập tức lái xe về đường Ferguson.

Về đến nhà là lúc mười giờ sáng ngày thứ Bảy, đúng lúc dì giúp việc người Quảng Đông đang nấu bữa trưa. Benjamin nói rõ tối thứ Sáu cô đã về, ấy vậy mà sủi cảo tôm, xá xíu và trà hoa lài dùng cho bữa sáng vẫn chưa hề động đến.

Anh nghĩ có lẽ cô rất mệt, thế là để cô ngủ thêm một lúc, chỉ dặn dì giúp việc cất bữa sáng đi. Lại dặn dò bà nán lại đây thêm lát nữa, nếu cô tỉnh lại thì hâm nóng đồ ăn cho cô, sau đó gọi điện thoại đến hội đồng khu tự quản báo cho anh biết.

Nửa đường ra cửa một chuyến, đến hơn tám giờ tối, dì giúp việc gọi điện đến hội đồng khu tự quản: “Cô ấy ngủ cả một ngày rồi, liệu có phải bị bệnh không?”

“Để tôi về nhà xem sao.”

Đẩy cửa vào nhà, đầy một bàn ăn tối vẫn còn nguyên vẹn, cơm canh cũng đã nguội.

Mở cửa tủ lạnh ra, bữa sáng lẫn bữa trưa vẫn còn nguyên, không hề có dấu hiệu động đến.

Chỉ vài tiếng nữa là anh sẽ rời khỏi Thượng Hải, Benjamin cũng đã lái xe đến hải quan lấy thư về. Nhìn cánh cửa cuối hành lang vẫn khép chặt, anh lấy làm ngạc nhiên: Sao cô có thể lấy ngày làm đơn vị ngủ được?

Dì giúp việc vẫn ở trong bếp, chỉ để đảm bảo cô sẽ có cơm canh nóng hổi khi thức dậy.

Đi tới cuối hành lang, anh gõ cửa, không có ai trả lời.

Khẽ đẩy cửa ra, anh thấp giọng gọi: “Cô ba?”

Trong căn phòng tối om truyền đến tiếng động mơ hồ, sau đó là âm thanh trở mình. Anh sửng sốt: thì ra là nằm mơ.

Ngay đến dì giúp việc cũng ngạc nhiên đến gần: “Có phải ngủ lâu quá rồi không.”

Ngày trước anh đã từng dặn cô lúc ở nhà một mình thì phải khóa hết cửa nẻo, và anh cũng chỉ giao chìa khóa cho một mình Benjamin, chỉ mỗi lần đón dì giúp việc đến thì mới được mở cửa. Với tình hình này, có lẽ cô đã nhốt mình trong căn phòng kín hơn một ngày, không bị bóng đè thì cũng bị ngộp cho xem. Nhân tiện cả anh và dì giúp việc vẫn đang ở đây, anh rón rén đẩy cửa đi vào, mở cửa sổ ra cho thoáng khí. Vậy mà gió vừa lùa vào thì cô đã tỉnh, ồm ồm hỏi: “Anh Tạ?”

Âm thanh nửa tỉnh nửa mê nghe sao còn êm ái hơn lúc cô tỉnh táo, một tiếng gọi ‘anh Tạ’ của cô làm anh có cảm giác có móng vuốt đang gãi nhẹ vào con tim.

Tầm mắt vẫn chưa làm quen được với bóng đêm nên anh không thấy rõ đường, nhưng nhờ ánh sáng mờ mờ từ đèn đường ngoài cửa sổ, anh trông thấy một đôi mắt ngơ ngác đang nhìn mình. Rõ ràng anh nên nhẹ tay nhẹ chân, không nên quấy rầy mộng đẹp của cô; ấy thế mà đồng thời lại muốn gọi cô tỉnh dậy, bảo cô lấp đầy bụng rồi hẵng ngủ tiếp. Trong lúc giật mình, trong phòng lại vang lên tiếng ngáy khe khẽ như một con thú nhỏ, khiến dì giúp việc ngoài cửa cũng bật cười.

“Xem ra cô bé thật sự rất mệt.”

Trong túi áo anh còn có một phong thư, anh vẫn còn vài lời muốn hỏi cô, nhưng không biết vì sao lại không muốn cô thức giấc. Khép cửa phòng lại, dặn dò dì giúp việc mấy câu rồi lại rảnh rỗi trò chuyện với dì một lúc. Đến khi không thể ở lại được nữa, anh quay vào khép cửa sổ thì cô lại tỉnh dậy.

Cảnh giác lúc ngủ như thế cũng tốt.

Đặt thư lên bàn cho cô, trước khi đi lại nói mấy câu với cô, cũng không biết tới lúc tỉnh dậy cô có còn nhớ không. Đến khi gần đi, anh bảo dì giúp việc trước mắt cứ tạm thời ở nhà nghỉ bên cạnh, thường xuyên ghé đến đây, đợi cô tỉnh lại thì cho cô ăn gì đó. Sau đó anh trả thêm tiền công cho bà, lúc bấy giờ mới vội vã xuống nhà rời đi.

Mấy chiếc xe của hạm đội và hải quan đã chờ sẵn ở bến tàu. Cảnh sát hải quan vừa thấy anh thì cười nói: “Tạ, nghe nói mấy bức thư kia là gửi cho cô gái cậu đang theo đuổi đúng không?”

“Thư sao rồi?”

Anh vừa dứt lời, mấy sĩ quan kiểm tra nội dung thư ở hải quan đồng loạt cười phá lên.

Người nọ còn nói: “Quả không hổ danh sinh viên Cambridge, nhà văn từng được đăng tải trên tạp chí Granta nổi tiếng, đúng là thư tình nồng nàn. Tạ à, cậu tiêu đời rồi.”
 

MUALARUNG91

Tác giả
Sưu tầm
Tham gia
25/8/19
Bài viết
4,780
Điểm cảm xúc
577
Điểm
113
Chương 91: Đêm (7)
Thân gửi Sở Vọng,

Đã lâu không liên lạc, thực nhớ mong vô vàn. Bây giờ mạo muội gửi thư, có thể em khó mà ngờ, đây là một trong những lá thư đêm ngày nhung nhớ. Anh từng nghĩ cứ giữ chúng ở đây, đợi đến ngày gặp em mới trao tận tay; nhưng từng câu từng chữ đều nghĩ đến em, thư chưa vào tay em, lòng đã xao xuyến muốn gặp em, rồi nếu em đọc thư, thì cũng chỉ thêm phiền não mà không có ích gì.

Đêm nay trăng sáng tỏ, nghĩ đi nghĩ lại chỉ muốn để em biết, lúc nhớ em có lẽ là lúc em đang đi dưới ánh nắng chói chang; mà ở đây dưới vầng trăng sáng tỏ, dù liễu xum xuê hay cằn cỗi*, em cũng không cần phải bận lòng.

(*Ý của câu này xuất phát từ hai câu thơ trong bài Lâm Giang Tiên của Nạp Lan Tính Đức. Tác giả mượn hình ảnh cây liễu cô độc dưới trăng để gửi gắm nỗi tương tư thê lương.)

Vốn cũng trông thư hồi âm, nhưng nay chỉ mong em đọc được thư, không cần nhấc bút trả lời.

Ngôn Tang kính bút

Ngày 09 tháng 03 năm 1928



***

Kính gửi Sở Vọng,

Thư em gửi đã đến tay, nhưng vì sự vụ bận rộn nên chưa kịp hồi âm, thâm tâm áy náy vô cùng. Anh thường cất giữ rất nhiều bức thư, hễ đi ra ngoài trông thấy hòm thư là lại muốn gửi thư đi, cho rằng rồi gì cũng sẽ có một bức trót lọt qua khỏi nhiều vòng kiểm tra, thuận lợi đến Viễn Đông. Nhưng nếu gửi thư đi rồi mà lại không nhận được hồi âm, anh lại không kìm được mà nghĩ có thể em đã đọc được thư, nhưng không biết đã làm em mất hứng chỗ nào, để em không đáng phải viết thư hồi âm.

Mấy hôm trước, bạn tốt trong trường là tiến sĩ Trần đã đón vợ con ở quê tới Anh. Trong giới du học sinh thường đồn vợ anh ấy lớn hơn anh ấy mười tuổi, hai người trông giống mẹ con; lại nghe nói vợ anh ấy quê ở Hồ Nam, bó chân, chưa từng đi học. Anh thân với anh ấy nên cũng biết những lời đó chỉ là lời đồn. Chị Trần hơn anh ấy một tuổi, đúng là có bó chân, nhưng anh ấy thường xuyên viết thư khuyên mẹ vợ cho chị ấy được để chân trần; tuy chưa từng đi học, song anh ấy cũng thường xuyên viết thư cổ vũ chị ấy đến trường nữ thục; dù tài học chênh lệch nhau, lại hơn mười năm hai nơi xa cách, thư từ không thông, ấy nhưng anh Trần chưa từng gián đoạn việc gửi thư, thật sự khiến anh vô cùng khâm phục. Nên anh cũng thường hay nghĩ, nếu hồi đó lúc mới đến nhà họ Lâm ở Thiệu Hưng, anh không thấy em lanh lợi dùng kiến thức hóa lý đối đáp, nghe em làm bài ngũ ngôn tuyệt cú, cũng không thấy em em gieo vần không đồng đều nhưng từng câu từng chữ lại hoa lệ mỹ miều; nếu như em cư xử dung tục sơ sài, thi lễ không đủ, tướng mạo bình thường, lại còn bó chân làm người ta tặc lưỡi, thì liệu anh có đưa ra lựa chọn ngày trước không?

Nên cũng vì thế, anh lấy làm may là lúc đó em đã ra ngoài phòng gặp anh, cuối cùng còn nói cho anh biết, người bầu bạn cùng anh đến già, thì ra là em.

Ngôn Tang xin gác bút

Ngày 23 tháng 05 năm 1928.

***

Mong Sở Vọng đọc thư,

Cách biệt đã lâu, nhớ nhung vô ngần.

Hôm nay anh đã thấy em rồi. Ngoài anh ra, rất nhiều người khác cũng đã thấy em. Ngày trước anh thường hay nghĩ, không biết bao giờ thì tên anh và tên em sẽ được đăng trên báo chí, để nhiều người thấy rằng vợ của anh Tư chính là cô ba nhà họ Lâm. Đây từng là điều cổ vũ khuyến khích anh, thế nhưng nay mới biết mình đã sai hoàn toàn. Cuối cùng thì em đã để mọi người biết rằng, ở nhà họ Lâm tại một đất nước ở Viễn Đông có một cô ba thông minh tài giỏi, không thua bất cứ một nam tử hán đại trượng phu tự xưng có tài học lẫn tài trí hơn người nào.

Từ nhỏ cha đã không thích anh theo nghiệp văn. Không thể thường xuyên thư từ qua lại với em, sau khi vào học ở Oxford, cứ một tuần mấy chuyến anh lại bắt xe đi đến khu Cambridge – nơi đã sinh ra rất nhiều nhà thơ học giả – để nhờ người sửa thư, dạy lại cách chọn từ đặt câu. Mới đầu là vì em, về sau lại dần mê đắm. Sau lần từ biệt ở Thượng Hải, lòng rất giận cả em và chú, từng muốn dùng bút làm lưỡi dao, để có ngày em thấy được tâm ý của anh trên sách báo. Anh cũng từng đắc chí vì có được chút thành tích, gần như bỏ bê chuyên ngành địa chất học ở Oxford. Thế nhưng trong âm thầm, thành tựu của em tại lĩnh vực khác đã sớm bỏ xa anh, thực sự khiến anh xấu hổ. Suy cho cùng, anh chưa bao giờ hiểu rõ em, nếu bây giờ làm quen lại một lần nữa thì liệu có kịp không?

Cô ba Lâm, mến mộ em đã lâu, nay mạo muội gửi thư, xin được chỉ bảo.

Từng câu từng chữ đều là chân thành, nhưng người không cần phí công hồi âm.

Ngôn Tang gác bút

Tháng 07 năm 1928.

***

Thân gửi quý cô Sở Vọng,

Đã một năm từ biệt, biển trời hai nơi càng thêm nhung nhớ.

Anh đã suy ngẫm rất lâu về những lời bến tàu bến Thượng Hải, anh đã thuận lợi tốt nghiệp Luật Quốc tế chỉ trong vòng hơn một năm; Tư tưởng cách nhìn của sinh viên Luật Quốc tế khá tự do sôi nổi, điều này cực kỳ hiếm thấy trong số các sinh viên Anh. Bọn họ có tổ chức bình thường hay giao lưu với du học sinh Pháp đang sống ở lục địa châu Âu. Tham gia rất nhiều hoạt động, cũng vì thế mà trễ nải môn Địa chất Học. Sau khi tốt nghiệp chuyên ngành Luật Quốc tế, giáo sư từng khen anh suy nghĩ nhạy bén lại thông minh, cũng đề nghị anh học lên tiến sĩ, mà anh chỉ muốn viết thư thảo luận chuyện này với em. Nhưng vì anh từng bị nhà trường cảnh cáo vì tham dự biểu tình chống phát xít ở Luân Đôn nên thư từ bị chặn, không biết phải liên lạc với em thế nào.

Gần đây nghe nói hội trưởng Hội Hoàng gia dẫn theo trợ lý đến Trung Quốc, mà người mời chính là Từ Lai – sinh viên xuất sắc tốt nghiệp khoa Vật lý ở Cambridge, nhờ vào một bài luận văn về khoa học tự nhiên mà thanh danh vang xa. Rất nhiều lần anh từng thấy tên em xuất hiện bên cạnh tên của anh ta. Anh đã từng thấy ảnh chụp của anh ta hồi năm 20 tuổi trong tập san của trường, anh thừa nhận mình từng ghen tị với anh ta. Đúng lúc vì em có được nhiều thành tựu mà người ngoài ác ý phỏng đoán, chửi bới quan hệ giữa em và anh ta, thì anh mới hiểu được điểm đáng sợ của ghen tị. Em có tài năng học vấn hơn người, gần năm năm trước khi gặp em, anh đã biết rõ điều đó. Lúc ấy anh chỉ muốn gặp em, nói với em là anh tin em.

Nên cũng vì vậy mà anh gửi thư xin hội trưởng có thể đưa anh đi cùng đến Hương Cảng, nơi em đang ở. Ông ấy từ chối anh ngay tắp lự, âu cũng là điều dễ hiểu. Mà ở cuối thư ông ấy lại nói cho anh biết: nếu anh có thể hoàn thành môn Địa chất Học trong vòng nửa năm, thì ông ấy có thể tìm cách đưa anh về Trung Quốc.

Thư ngắn ý dài, những chuyện khác lần sau hẵng kể!

Nhận được những điều tốt đẹp đến từ em, vô cùng cảm kích!

Ngôn Tang

Ngày 04 tháng 08 năm 1928.

***

Thân gửi Sở Vọng,

Vì bận bịu công việc mà đã lâu không viết thư, mong em lượng thứ.

Sắp đến ngày bảo vệ luận án tốt nghiệp, vốn không nên có phong thư này, tránh trì hoãn chuyện học hành, bỏ lỡ con đường duy nhất quay về Trung Quốc. Nhưng cuối năm ngoái, bức điện báo của chú Lâm thật sự khiến ai nấy đều kinh ngạc. Lúc đọc được mẩu tin trên báo dịch cho người Hoa ở Anh, anh chỉ có một suy nghĩ: trên đời này lại có người cha như thế ư, không biết nghĩ gì mà lại nhẫn tâm đánh đổ tiền đồ nhân duyên của con gái một cách công khai như thế! Dù không phải cha ruột thì cũng không đến nỗi ác như vậy. Nếu không phải vì sắp tốt nghiệp, thì anh rất muốn lập tức đi thuyền đến Paris, tìm chú Lâm hỏi rõ lý lẽ.

Vô cùng căm phẫn trước hành động lần này của chú Lâm, nhưng cũng mơ hồ đố kỵ với thầy của em. Người quen biết anh ta đều nói anh ta “rất có tư tưởng, đọc sách rất nhiều, thanh cao đến mức gần như ngông cuồng”. Thêm nữa, cả tài năng lẫn dung mạo của anh ta nhất định hơn hẳn anh, lại còn thường xuyên ở bên em, còn khiến mọi người hiểu nhầm em và anh ta kia mà, thì sao anh có thể không đố kỵ đây?

Thế nhưng chỉ hơn một tuần sau, anh đã nhận được điện báo của anh ta. Anh ta mời rất nhiều thạc sĩ ngành Địa chất của đại học Oxford đến Trung Quốc, bao gồm cả sinh viên mới tốt nghiệp là anh. Hơn nữa, anh ta còn gửi cho anh một bức điện báo, nói với anh là em và anh rất xứng đôi, nghe nói anh gặp khó khăn trong chuyện về nước, anh ta từng muốn đưa em đến Anh đào tạo sâu để chu toàn cho hai ta, nhưng vì nhiều nguyên nhân nên nhắn với anh là, em cũng có nỗi khó xử khi rời Trung Quốc. Thế nên lần này khi mời các nhà địa chất học người Anh và nhà hóa học người Pháp bí mật đến Trung Quốc, anh ấy cũng đề nghị anh đi cùng. Còn nói với anh là em đã có học vấn cao, có bản lĩnh lớn, là người con gái Trung Quốc rất hiếm có trên đời này, bảo anh nhất định phải quý trọng em.

Anh Từ là một người đáng kính, là chính nhân quân tử. Tới lúc này mới biết, so với anh Từ, anh chỉ là một kẻ thiển cận.

Người trí thức đương thời luôn tán tụng tình yêu tự do, xóa bỏ hủ tục phong kiến. Không có tờ hôn ước hư danh này, có lẽ cũng là điều tốt đẹp cho hai ta chăng?

Gác bút

Ngày 16 tháng 02 năm 1929

***

Gửi Sở Vọng,

Anh đã đi qua biển Đỏ rồi. Tiến vào vùng nhiệt đới là lại hay gặp gió lớn bất ngờ trên biển, người đồng hành ai ai cũng oán hờn kêu gào. Chỉ một mình anh là tâm tư phơi phới, chỉ bởi nhẽ thuyền sắp cập bến.

Mấy năm nay ở Anh, du học sinh rất thích mặc âu phục hay đồ Tây. Mùa đông ở Anh rất dài, trời âm u nhiều mưa, thường xuyên nhớ đến cô gái mặc áo sơ mi và quần trắng trên đảo nhỏ đầu hè. Không biết sau hai năm, gặp lại nhau ở Thượng Hải sẽ là khung cảnh thế nào đây?

Ngôn Tang kính bút

Trên thuyền Teste tại Penang
 

MUALARUNG91

Tác giả
Sưu tầm
Tham gia
25/8/19
Bài viết
4,780
Điểm cảm xúc
577
Điểm
113
Chương 92: Đêm (8)
Thuyền từ Viễn Đông đến Châu Âu chủ yếu cập cảng tại Sài Gòn, Việt Nam Pháp thuộc và Singapore Anh thuộc, chỉ có một vài trường hợp hiếm hoi là cập cảng ở Penang – điểm cực nam của Biển Đông, và đây cũng là điểm cuối của thế lực Trung Quốc.

Tuy có rất ít tàu bè cập cảng tại hòn đảo nhỏ trên eo biển Malacca này, nhưng vấn đề vượt biên giới vẫn rất nghiêm ngặt. Hòn đảo bị Anh chiếm đóng này hoàn toàn khác với Singapore: Nó được người Anh điều hành, được hun đúc bởi văn hóa Ấn Độ, và không có lấy một con chữ tiếng Trung trên đường phố. Còn hôm nay, đồn cảnh sát biên giới trên đảo nhỏ lại đang chào đón hai con tàu tuần dương hạng nhẹ từ Nhật Bản và Anh.

Nơi đây vẫn thuộc lãnh địa của Anh. Tuần tra trên biển mấy ngày, hiếm khi Tạ Trạch Ích có tâm trạng tốt, đột nhiên treo cờ trắng với mục đích hạ oai phong, thậm chí còn mời sĩ quan hạm đội Nhật Bản lên đảo Penang, cùng ăn uống chuyện trò trong đồn cảnh sát biên giới trên hòn đảo Anh thuộc.

Chẳng mấy chốc có người đến đồn cảnh sát tìm anh, bảo là hội đồng khu ở tô giới Thượng Hải có gửi điện cho anh, nói cô ba đã tỉnh.

Anh bảo người kia gọi điện về lại, dặn Benjamin đến đón cô ba tới hội đồng khu rồi gọi điện cho anh, anh có chuyện muốn hỏi cô.

Vừa dặn dò xong xuôi, sĩ quan hải quân hoàng gia sực nhớ anh từng “giúp tình địch chuyển thư tình”, lập tức cười giễu. Một đám lính Nhật lính Anh rủ rỉ mồm năm miệng bảy, chỉ chốc lát cả phòng khách đã ngập tràn tiếng cười, bầu không khí trở nên vô cùng náo nhiệt.

Anh chẳng quan tâm, chỉ mỉm cười ngồi xuống, nói với vị đại úy quân Nhật phụ trách ngăn thuyền vào viễn dương: “Việc này nói ra thì cũng là việc công, nhưng với tôi thì chỉ là việc riêng thôi.”

Vị đại úy kia nhìn anh một lúc, sau đó bật cười nói: “Vậy thượng úy Tạ có hy vọng thuyền nhập cảnh Trung Quốc không?”

Anh cười mếu, trông có vẻ khó xử, “Thuyền nhập cảnh, xét về công thì tôi chẳng được chút công lao nào, trái lại còn hao tâm tổn phí bắc cầu cho tình địch, để cậu ta cận kề người thương, thực là đáng hận. Nếu không nhập cảnh thì tôi cũng không sao. Chẳng qua sẽ khiến hội đồng khu cảm thấy Tạ Trạch Ích tôi sợ cạnh tranh công bằng với tình địch, nên cố ý thả đi lúc dẫn thuyền về, cốt để thỏa mãn tâm tư cá nhân. Nếu như có một ngày ôm người đẹp về tay, chỉ sợ người ngoài nói tôi thắng không anh hùng, không phải là chính nhân quân tử. Tôi đúng là bị vu oan mà.” Anh nhấp một ngụm rượu, sau lại cười nói, “Đại úy nghĩ xem, tôi nên xử lý con thuyền này thế nào đây?”

Đại úy khẽ ho hai tiếng, hé môi cười nói: “Cậu phải biết, không chỉ chúng tôi để ý con thuyền này, mà Nam Kinh càng để mắt tới nó chặt hơn cả chúng tôi. Tôi nói cũng bằng thừa.”

“Cũng phải.” Tạ Trạch Ích nheo mắt đáp, “Thế thì, ba giờ sáng nay, con thuyền Tenshinmaru lên đường từ Hồng Khẩu, nói là chở bác sĩ thực tập của trường đại học Y dược Sendai, nhưng hội đồng khu lại nhận được báo cáo là: trên thuyền Tenshinmaru chở hơn ba mươi người Trung Quốc không rõ lai lịch, có nghi ngờ dính dáng đến buôn người.”

Đại úy sầm mặt, “Chuyện này không thuộc phạm vi của tôi.”

“Đúng thật là không thuộc phạm vi của anh.” Tạ Trạch Ích thấp giọng cười, “Nhưng anh có muốn gọi điện hỏi ý của lãnh sự quán Nhật Bản không? Dù tuy Nam Kinh rất để ý đến con thuyền này, nhưng nếu có cuộc điện thoại tố cáo gọi đến hội đồng khu, giả sử kiểm tra ra buôn người thì anh đừng quên, ở hội đồng khu ngoài người Anh ra còn có người Mỹ, Pháp, Ý và cả Liên Xô. Lãnh sự quán lấy nhà máy phía Bắc làm ranh giới, ngoài ra còn có bệnh viện và nhà máy hóa chất mới xây, chừng đó sản nghiệp đủ mọi người ngấp nghé. Nếu để bọn họ biết các anh đưa người sống đến chỗ Thiên hoàng bệ hạ làm thí nghiệm, không biết hậu quả sẽ thế nào đây?”

Tạ Trạch Ích nói câu này vô cùng khéo. Dù các người có để thuyền nhập cảnh hay không thì thực sự cũng chẳng liên quan gì đến tôi. Nếu nói có dính dáng gì thì cũng chỉ đơn giản là cô gái tôi theo đuổi hy vọng con thuyền kia sẽ vào cảng, các người mà tác thành thì tôi đây cũng đội ơn; nhưng nếu các người không muốn thì tôi cũng chẳng thiệt hại mất mát gì cả.

Có điều điểm yếu của các người đã nằm trong tay tôi, nếu mà xử lý thật thì không dễ đâu. Điều kiện đặt ở đây, để xem các người có chấp nhận hay không.

Cơ bắp trên mặt đại úy giật giật, gã nghiến răng hỏi: “Đảo Penang có đường dây gọi đến hội đồng khu không?”

“Dĩ nhiên lại có, còn rất thuận lợi nữa.” Anh ung dung cười nói, “Đúng lúc tôi cũng đang định gọi điện cho người yêu, hỏi cô ấy có muốn đưa con thuyền chở vị hôn phu cũ của cô ấy vào Trung Quốc không. Hay thế này đi, chúng ta đi cùng nhau nhé đại úy?”

***

Ngủ một giấc ba mươi tiếng đồng hồ, coi như bù cho hai tuần lễ thiếu ngủ. Vừa thức giấc dậy, mới rửa mặt đánh răng xong thì dì giúp việc đã đến nấu cơm cho cô, thấy cô dậy thì lập tức vui vẻ mỉm cười, dùng tiếng Quảng Đông còn khó nghe hơn cả Tạ Trạch Ích nói: “Tốt quá tốt quá, cuối cùng cũng dậy rồi! Mau gọi điện cho cậu Tạ thôi!”

Ăn uống xong xuôi, đọc hết xấp thư trên bàn, đầu óc cô cũng đã phần nào tỉnh táo. Cẩn thận đặt thư của Ngôn Tang vào trong hộp gỗ đỏ, tìm bút máy và giấy viết thư ra, vừa nghĩ được hai dòng thư hồi âm thì bên ngoài vang lên tiếng chuông. Nhìn ra ngoài cửa sổ, Benjamin ở dưới lầu nhấn còi inh ỏi, cô đành gác giấy bút lại, thay áo len và áo khoác rồi vội chạy xuống lầu.

Một chuyến đi thẳng đến hội đồng khu, Benjamin đưa cho cô số điện thoại gồm 6 số của đảo Penang rồi đi cùng mấy người cảnh sát khác ra ngoài.

Quay số, đợi chuyển máy khá lâu. Tới khi kết nối được rồi thì đầu kia lại vang lên mấy câu tiếng Nhật, có điều cô không hiểu.

So với mấy câu tiếng Nhật kia thì giọng của Tạ Trạch Ích nhã nhặn hơn nhiều: “Ăn uống gì rồi chứ?”

“Ăn rồi.”

“Ừ. Còn mệt không?”

Cô vội nói: “Không mệt. Anh có về đúng không?”

“Không ngờ em vẫn nhớ.”

“Anh đã nói chuyện gì quan trọng với tôi sao?”

“Cũng không có gì quan trọng cả, chỉ là muốn gặp em thôi. Đã thấy thư chưa?”

“Thấy rồi. Vừa đọc xong, đang viết thư hồi âm thì Benjamin đến.”

“Ừ.” Dừng một lúc, anh nói, “Xem ra tâm trạng em đang rất tốt.”

“Hả? Làm gì có?”

“Em rất thích thư cậu ta gửi cho em?”

Cô suy nghĩ một lúc rồi thốt ra một câu xuất phát từ đáy lòng, “Trên đời này, sợ là không ai không thích thư do chính anh Tư viết cả.”

“Ồ. Em thích cậu ta đến thế à?”

“Anh Tạ?” Cô lấy làm khó hiểu, “Điện thoại viễn dương không cần trả tiền à?”

Tạ Trạch Ích im lặng, tiếng Nhật ở đầu dây biến mất một lúc rồi lại vang lên.

Một lát sau, Tạ Trạch Ích nói: “Em có muốn tôi đưa con thuyền chở cậu ta về Trung không?”

Cô trả lời đầy chắc nịch: “Có. Vì sao lại không chứ?”

“Không suy nghĩ thêm à?”

“Ví dụ?”

“Giả sử chỉ một chút bất cẩn, con thuyền này có thể khiến địa vị của Anh ở hội đồng khu rơi vào thế lưỡng nan. Nếu nghiêm trọng hơn, người Anh có thể bị đuổi khỏi tô giới Thượng Hải.”

Không phải cô chưa từng nghĩ đến chuyện này. Nhưng sau một thời gian dài cân nhắc, sở hữu mỏ uranium, nhà máy chế biến và căn cứ kỹ sư có hiệu quả hơn nhiều so với sự che chở của Anh ở tô giới trong thời gian ngắn. Nhất định phải có các nhà địa chất học, lính Anh ở tô giới mới là điều không cần thiết. Các nhà địa chất là cần thiết, và sự nhượng bộ của Anh là không cần thiết. Rồi sẽ có ngày tô giới phải trả lại, Trung Anh đạt được thỏa thuận thì ắt cũng tự có cách khác để người anh đến vùng nội địa Trung Quốc.

Ngoài ra, cô với nhà họ Tư, Ngôn Tang với Tư Ưng và nhà họ Lâm cũng còn món nợ phải thanh toán. Cô cũng có vài lời cực kỳ quan trọng muốn nói với anh, dù chỉ là vì tiền đồ của anh thì anh cũng nhất định phải quay về.

Cô nói: “Anh Tạ, xin anh nhất định đưa anh ấy về.”

“Là ‘anh ấy’, chứ không phải là ‘bọn họ’?”

“Điểm đó không quan trọng. Chiếc thuyền kia, chắc chắn phải về.”

Đầu dây im lặng một hồi, “Ừ, tôi biết rồi.”

“Anh Tạ, chắc chắn tôi sẽ cám ơn anh đàng hoàng!”

“Chuyện nhỏ thôi mà, không cần cám ơn.”

“Nhất định phải cám ơn!”

“Coi như em nợ đi. Tôi không nhận, đời này em đừng hòng trả.”

“Anh Tạ, thì ra anh độc ác thế ư?”

Tạ Trạch Ích cười một hồi.

Cuối cùng anh thở dài, nói như thỏa hiệp: “Nếu thật sự muốn cám ơn tôi, vậy thì làm nũng đi.”

“…”

“Khó lắm hả?”

Nếu là lúc bình thường có người nói với cô “làm nũng đi”, thì nhất định cô sẽ tát cho hắn mấy tát coi như chào hỏi, rồi bổ sung thêm một câu “cút mẹ mày đi”.

Nhưng Tạ Trạch Ích thật sự đã giúp cô.

Hơn nữa giọng điệu anh khi nói câu đó, nghe như, không biết thế nào mà lại có vẻ ngán ngẩm đau lòng.

Cô xoắn xuýt: “Nhưng… Tôi không biết làm nũng.”

“Không biết cũng không sao, để tôi dạy em. Em chỉ cần nói một câu ‘anh Trạch Ích, anh tốt với em quá, em thích anh nhất’, thì tôi sẽ bỏ qua cho em.”

Cô nghe thấy thế thì trợn trắng mắt.

Đấu tranh một hồi, cô bình tĩnh nói: “Anh Trạch Ích…”

“Dịu dàng tí đi.”

Sở Vọng như quả bong bóng, lấy hết hơi rồi trút cả ra ngoài.

Cô chậm rãi mỉm cười, dịu dàng nói: “Anh Trạch Ích, anh tốt với em quá…”

“Ngọt ngào vào.”

Cô gom góp hết sức lực, bóp giọng nói một hơi: “Anh Trạch Ích, anh tốt với em quá, em thích anh nhất!”

Vừa dứt lời, ngay chính cô cũng sợ điếng người.

“Ừ. Tôi cũng thích em nhất.”

“…” Cô cạn lời.

“Con gái nên làm nũng nhiều vào, đôi lúc có tác dụng lắm đấy.” Sau khi chỉ bảo xong, anh dừng một lúc rồi nói, “Yên tâm, em sẽ sớm gặp cậu ta thôi.”


Cô rất muốn xỉ vả đôi câu, nhưng vừa mở miệng thì đầu kia đã dập máy.

Lại… bị đùa giỡn rồi.

Cô đặt ống nghe xuống, cả gương mặt đỏ bừng, mảng đỏ lan rộng đến tận tai.

Cô giơ hai tay che mặt: Đúng là… xấu hổ quá đi mất.

***

Hai chiếc máy điện thoại trong đồn cảnh sát trên đảo Penang đều bị chiếm dụng.

Bên này là đại úy Nhật Bản vâng vâng dạ dạ xin phép cấp trên, vừa nói vừa căng thẳng lau mồ hôi, luôn miệng cười nói gập người trả lời bằng tiếng Nhật: “Vâng. Đúng thế đúng thế.” Chỉ thiếu nước gập người chín mươi độ.

Còn bên kia, Tạ Trạch Ích kẹp điện thoại giữa tai và vai, thong thả dựa vào bàn, giọng nhẹ nhàng, ung dung nấu cháo điện thoại, trong lúc nói chuyện, từ chân mày đến đáy mắt đều toát lên sự yêu chiều.

Anh như căn ke thời gian, đại úy bên kia vừa nói chuyện xong thì bên anh cũng gác máy. Trên mặt vẫn còn đọng ý cười, híp mắt như khoe chuyện tình yêu, than phiền với đại úy bằng tiếng Anh: “Cô ấy cứ đòi gặp cho được, tôi biết làm sao bây giờ? Thực sự không có cách gì với cô ấy cả.”

Mặt đại úy thoắt đen thoắt trắng, cơ mặt giật giật, cố nặn ra một nụ cười: “Vậy cứ để cô ấy gặp đi.”

Tạ Trạch Ích xoa tay, cười hỏi: “Gặp? Tức là?”

“Một người đổi một người. Các anh để ba mươi người về Kobe, không được để hội đồng khu biết chuyện này; đổi lại chúng tôi cũng sẽ để ba mươi người vào Trung Quốc. Mở một mắt nhắm một mắt, không được để Nam Kinh biết bọn họ đã nhập cảnh.”

Anh mỉm cười ngoắc tay, lệnh cho trung úy hải quân cầm tờ giao kèo đến.

Đại úy không ngờ lại nhanh như vậy. Gã nhướn mày, sau khi đọc xong thì lần lượt ký vào bản giao kèo.

Ký tên xong thì gửi điện báo về, để đồn cảnh sát Thượng Hải cho thuyền Tenshinmaru đi. Ở biển Đông, tàu tuần dương của quân Nhật nhận được tin giả thì dẫn hải quân Trung Quốc đến gần Đài Loan, ngay sau đó, chiến hạm của Anh lập tức dẫn con thuyền chậm rãi nhập cảnh Sán Đầu.

Ở bến tàu Thượng Hải, tại ghế sau của xe hơi của hội đồng khu, nằm bên cạnh một sĩ quan là một đứa bé bẩn thỉu đang ngủ say.

Xe chậm rãi chạy vào tô giới công cộng.

Ở trên xe, Benjamin nghiêng đầu nhìn đứa bé kia, bĩu môi nói, “Ba mươi người đổi lấy ba mươi người. Tự dưng lại mọc ra một thằng cu hai tuổi, bảo tôi đi đâu tìm cha mẹ nó đây?” Rồi anh ta ngoái đầu hỏi sĩ quan, “Sếp tính sao đây? Tìm một chỗ quẳng nó xuống xe, hay đưa về hội đồng khu?”
 

MUALARUNG91

Tác giả
Sưu tầm
Tham gia
25/8/19
Bài viết
4,780
Điểm cảm xúc
577
Điểm
113
Chương 93: Đêm (9)
Đứa bé nọ mặt mũi dơ dáy, hai mắt vô thần nhìn ra ngoài cửa xe. Trên người là áo vải rách rưới, những vết may thô sơ lộ cả đường khâu. Áo bông quá dài, dùng dây cỏ làm thắt lưng buộc ngang hông, bên dưới là chiếc quần cộc màu đỏ, đôi chân trần gầy guộc tím tái vì lạnh.

Benjamin liên tục ngoái đầu nhìn cậu bé, nhưng lần nào cũng bắt gặp vẻ mặt đờ đẫn kia, anh ta không khỏi thở dài.

Lúc nhận được điện báo từ đảo Penang, trên điện báo viết “cho thuyền Tenshinmaru chở ba mươi người rời khỏi cảng Trung Quốc”, gọi điện thoại xác nhận thì Tạ Trạch Ích nói: “Ba mươi người, không nhiều không ít.”

Người Trung và người Nhật ở trên thuyền rất dễ phân biệt. Quần áo trắng giản dị lịch sự là bác sĩ Nhật, còn người nào da mặt nứt nẻ, quần áo vừa bẩn vừa không đủ che thân thì ấy là người Trung. Tuy nay đã vào đầu xuân nhưng vẫn còn đó cái lạnh của mùa đông. Không biết có phải ba mươi người này là số cực ít may mắn sống sót trong rất nhiều người phải chiến đấu chống chọi với cái lạnh mùa đông ở Hạp Bắc không. Mà dù có sống sót qua kỳ đông thì đằng trước vẫn còn cửa ải khó khăn hơn, bị coi là “vượn Trung Quốc”, bị đưa tới hòn đảo phía Đông Nam.

Hội đồng khu tự quản thường nhận được báo cáo về nạn buôn người như thế. Nhưng vì ngày nào ở tô giới cũng có không ít dân tỵ nạn Trung Quốc đột nhiên mất tích nên cũng chẳng mấy ai thấy lạ lùng. Hơn nữa còn vì vụ án giữa người Nhật và người Trung nên hai bên dùng chung một tòa nhà. Theo như tin tức được gửi về từ các gián điệp ở nhiều nước thì nhiều người đã nghe được phong thanh nhiều ít về các thí nghiệm sinh học được thực hiện ở Nhật Bản. Và gần đây thì chúng dứt khoát mở rộng diện tích tô giới Nhật với danh nghĩa là thành lập nhà máy kéo sợi, trắng trợn chiếm dụng một bệnh viện cũ ở Thượng Hải, dùng làm “bệnh viện nhà máy kéo sợi”, còn đưa một nhóm bác sĩ từ trường đại học y dược Sendai đến. Mà thực chất bọn chúng đang ngấm ngầm làm gì, hội đồng khu ít nhiều cũng biết được một hai, nhưng đa số đều chọn mở một mắt nhắm một mắt.

Có điều Benjamin không biết vì sao hôm nay Tạ Trạch Ích lại chỉ điểm vụ lần này, mà dù là món tiền cược cho con thuyền châu Âu đang ở trên biển Đông thì anh ta cũng chỉ có thể vâng lệnh.

Không biết là do trên đảo Penang liên lạc quá nhanh hay đã gặp rắc rối chỗ nào, màtới lúc lên thuyền, đếm tới đếm lui lại phát hiện tổng cộng có ba mươi mốt người Trung Quốc áo quần tả tơi. Lính Nhật trên thuyền nói: “Đã nói rồi còn gì, một thuyền đổi một thuyền, ba mươi mốt với ba mươi có khác gì nhau?”

Anh ta kiên quyết đáp: “Cấp trên đã nói là ba mươi người, không thể nhiều hơn một. Phải để chúng tôi giữ lại một người.”

Người Nhật nói: “Lúc thỏa thuận với cấp trên của chúng tôi, cấp trên của các anh không có nói phải đếm theo số lượng đầu người. Châm chước không được à?”

Hai bên cãi cọ qua lại, cuối cùng lính Nhật tức tối mắng: “Đồ gã chó nô lệ của chủ nghĩa quan liêu!” Nói đoạn, hắn xách cổ một cậu bé gầy gò từ trong ba mươi mốt người Trung Quốc, vung tay ném thẳng xuống biển.

Cậu bé rơi vào dòng nước lạnh băng, ngoi lên vùng vẫy kêu cứu, bọt nước nổi sùng sục. Lính Nhật trên thuyền cười ầm, đồng thời nói với lính Anh đang lục soát rằng: “Ba mươi người rồi đấy, không dư một người, đã hài lòng chưa?”

Rồi con thuyền Nhật nghênh ngang rời đi. Chân vịt xoay nhanh nổi bọt nước trắng xóa, tới khi bọt sóng biến mất thì đứa trẻ cũng chìm dần.

Mấy người lính Anh lập tức phi thân xuống nước, tìm kiếm một lúc rồi vớt cậu bé lên. Lại cấp cứu ở ngay bến tàu, may mà mạng lớn nên giữ được hơi thở cuối cùng, có điều cơ thể đã đạt đến giới hạn rồi. Không rõ bẩm sinh ngốc nghếch hay là sợ đến mức choáng váng, cậu bé vừa run run vừa trả lời, cũng không biết là tiếng địa phương vùng nào mà ngay cả phiên dịch người Trung cũng không hiểu.

Mà đã không hiểu thì không làm ăn được gì. Không hỏi được nhà ở đâu, chẳng nhẽ đem về hội đồng khu nuôi? Trong số những người Trung ở Thượng Hải, lưu dân ăn mày là thành phần không hề ít. Trước đó anh ta từng nghe nói bệnh viện Nhật Bản nhờ người ra ngoài tìm người tàn phế, người điên, người già và trẻ nhỏ cô nhi trong số đám ăn mày đem về bệnh viện, những người Trung Quốc trên con thuyền Tenshimaru vừa rời đi kia cũng là như thế. Vậy có đến tám phần cha mẹ của đứa trẻ này là nông dân vùng khác đến Thượng Hải, không làm ăn được nên lưu lạc thành dân tỵ nạn hoặc ăn mày, thậm chí có thể đã bị chết cóng trong trời đông. Chuyện này ngày nào cũng xảy ra, chẳng có gì lạ.

Tìm một đống cỏ ấm áp, cho nó ít đồ ăn rồi ném nó xuống xe ư?

Benjamin ngoái đầu nhìn cu cậu, nó cũng đang nhìn anh, hai tay cầm chiếc bánh sừng bò anh cho, đưa lên miệng gặm nhấm. Benjamin bất giác mềm lòng, dưới chân tăng tốc, chở cậu ta về hội đồng khu.

Xe chạy vào hội đồng khu, từ xa đã thấy Sở Vọng mặc áo khoác đứng chờ ở cửa. Anh ta lái xe đến trước mặt cô, dừng xe lại rồi nói: “Cô Sở, lúc quá, đang cần cô giúp lắm đây!”

Cô hỏi: “Sao thế?”

Cửa xe sau bật mở, người phiên dịch xách cổ một đứa nhóc bẩn thỉu xuống, tay nó vẫn chặt chiếc bánh sừng bò đã ăn mất một phần ba.

Benjamin nói rõ: “Cô lại nghe xem nó nói gì đi, chúng tôi không hiểu gì cả.”

Cô ngồi xổm xuống: “Em tên gì?”

Cậu bé rụt người lại, thấp giọng nói một câu.

“Nói gì thế? Là tiếng Trung à?” Thấy cô cau mày, Benjamin vỗ gáy: “Không lẽ đã đem người Nhật về rồi sao?”

Sở Vọng cười nói: “Là tiếng địa phương Trung Quốc, có điều tôi cũng không hiểu. Thành phố phía nam Trung Quốc, có cách mấy trăm cây số thì khẩu âm cũng không như vậy.”

Benjamin thở dài: “Thế làm sao bây giờ?”

Sở Vọng nhìn gương mặt nhỏ nhắn trước mặt một hồi, “Tắm rửa sạch sẽ, chụp ảnh rồi đăng báo tìm người?”

“Chuyện này…” Benjamin ngạc nhiên, “Không đến nỗi rầm rộ vậy chứ?”

Cô nghĩ một hồi thì mới hiểu ra. Ý của Benjamin là: ở tầng thấp nhất trong số những công dân hạng hai thì mạng sống là thứ rẻ mạt, không đáng phải bỏ tiền chụp ảnh đăng báo tìm người thân.

Dù như Benjamin cũng có suy nghĩ cố hữu coi người trung Quốc là công dân hạ đẳng, thì những người Anh khác còn hơn cả thế. Anh ta nói câu này rất tự nhiên, như thể không cảm thấy có gì sai, trái lại còn cho rằng cô chuyện bé xé ra to.

Cô không trả lời, hai tay luồn qua nách cậu bé, kéo đến bên cạnh ống nước ở hội đồng khu, mở vòi, lấy khăn ra thấm ướt rồi chậm rãi lau mặt cho cậu.

Benjamin thở dài, sau một hồi đấu tranh tâm lý thì mới xắn tay áo lên đi đến giúp.

Trong lúc lau mặt, Sở Vọng cũng thử hỏi vài vấn đề khác, ví dụ như nhà ở đâu, đã mấy tuổi rồi, thậm chí cả những câu kiểu như “thích ăn gì”, tính dựa vào khẩu vị để phân biệt vùng miền. Nhưng hỏi mãi mà cô vẫn không hiểu cậu bé nói gì, song có thể cảm giác được là phương ngữ nông thôn ở miền Nam Trung Quốc.

Lau một hồi, cô chợt thấy trên cổ cậu đeo sợi chỉ đen. Tưởng là tín vật cha mẹ cậu để lại, kiểu ngọc thạch, đá, hạch đào hoặc đồ trang sức gì đó. Cô tính lấy ra nhìn, xem có thể có manh mối gì không.

Rút vật ở cuối sợi dây ra khỏi quần áo, hóa ra đó là một tấm sắt nhỏ có chiều rộng bằng ngón tay cái. Mặt trước được viết bằng tiếng Nhật, cô đọc cũng không hiểu. Lật tấm sắt lại, bên trên viết một từ tiếng Anh: Ape (Vượn).

Cô ngẩn người, bất chợt đẩy tay áo cậu bé lên để lộ khuỷu tay.

Có những vết sẹo do kim tiêm lưu lại phía trong khuỷu tay bẩn thỉu.

Cô lập tức buông tay ra như bị điện giật, nhét lại tấm sắt vào trong áo đứa con nít, đồng thời cũng kéo tay áo xuống, quay đầu đi thở dốc.

Benjamin hỏi: “Sao vậy?”

Cô khẽ thở hắt một hơi, quay lại cười nói: “Tôi biết làm gì rồi. Cứ giao cậu bé cho tôi trước, được không?”
 

MUALARUNG91

Tác giả
Sưu tầm
Tham gia
25/8/19
Bài viết
4,780
Điểm cảm xúc
577
Điểm
113
Chương 94: Đêm (10)
Vừa về đến nhà, nhân lúc chưa bị cúp điện, cô lập tức cho cậu bé kia tắm nước nóng. Trong lúc tắm lại kiểm tra toàn thân một lượt, may mà ngoài phía trong khuỷu tay phải ra thì không có vết tiêm nào khác.

Nghe Benjamin vô tình nói là cậu bé được đem về từ con thuyền xuất phát đi nhật, điều đó cho thấy cậu bé đã bị nghiên cứu, thế nên mới bị đem đến Nhật Bản để điều tra thêm, đồng thời cũng cho thấy vi khuẩn được tiêm vào người cậu bé không có tính truyền nhiễm, hoặc có thể việc tiêm chủng đã thất bại, hoặc vi khuẩn đã xảy ra biến dị trong quá trình tiêm chủng; thậm chí có thể nói là vô cùng “may mắn”, may là cậu bé chỉ bị kiểm soát không điều trị của nhóm biến.*

Dù trong tình huống nào đi chăng nữa thì chí ít cũng nói rõ một điều, thí nghiệm “vượn Trung Hoa” đã tồn tại.

Cậu bé đã ngủ say, còn cô một mình ngồi trong màn đêm, da đầu căng ra.

Nếu nói ở thế kỷ XX có điều gì khủng khiếp hơn chiến tranh, thì đó chính là bệnh truyền nhiễm. Chiến tranh thế giới thứ nhất đã giết chết 10 triệu người, thế mà trận dịch cúm Tây Ban Nha vào năm 1918 đã giết chết hơn 30 triệu người ở châu Mỹ và lục địa châu Âu. Trong khoảng nửa đầu thế kỷ XX, hơn 200 triệu người đã chết vì bệnh đậu mùa, gấp ba lần tổng số người thiệt mạng trong Thế chiến I và Thế chiến II. Trước kia khi cô làm thí nghiệm về vi khuẩn, trong sách có chú thích về “bào tử bệnh than” như thế này: Trên lý thuyết, một gram bào tử bệnh than có thể giết chết một nửa người Mỹ, còn kết quả thực tế có thể bị sai lệch. Vì thế người Nhật đã tiến hành thí nghiệm trên Trung Quốc nhiều lần, tìm ra một khoáng chất gọi là bentonite, hay còn được gọi là bột đất sét xám, sau khi trộn lẫn với bào tử vi khuẩn thì được máy bay hoặc máy phun sương phun trên diện rộng, có thể lơ lửng trong không khí trong một thời gian dài. Lúc đó, hiệu quả thực chiến có thể tiếp cận gần với hiệu quả lý thuyết nhất.

Trên sách cũng trích một đoạn trong bức thư bí mật về “ủy viên G” (ủy viên vi khuẩn) của Hoa Kỳ sau Thế chiến II:

“… Các bào tử bệnh than có sức đề kháng rất mạnh đối với bên ngoài, gần như có thể ngủ đông mãi mãi và không bao giờ chết! Quyết không để yếu tố này làm liên lụy, đàn áp, đe dọa hoặc giết chết chúng ta trong thời gian dài. Vì vậy, vì sự an toàn của Hoa Kỳ, chúng ta cần tìm một quốc gia hoặc khu vực thay thế. Trung và Nam Mỹ rõ là không được, bởi vì vi khuẩn và vi rút có thể dễ dàng lây lan sang Bắc Mỹ theo cầu lục địa. Đề cử phù hợp nhất phải là tiểu lục địa Nam Á và Trung Quốc, nơi này có lãnh thổ bát ngát, kích thước rộng lớn, khí hậu ấm áp ẩm thấp, địa hình rất phức tạp, chiến tranh liên miên, dân số dày đặc, trình độ tiến hóa lẫn văn hóa đều cực kỳ thấp…”

Vào thời điểm đó, dù là đầu hay giữa thế kỷ XX, dù chiến tranh chưa bắt đầu hay đã kết thúc, thì với cô mà nói cũng quá đỗi xa vời. Nhưng bây giờ cẩn thận ngẫm lại mới hiểu ra: Sau năm 1945, khó khăn giành được chiến thắng, tất cả mọi người ở lục địa phía Đông đều mong mỏi một một cuộc sống mới yên bình. Và khi không một ai đề phòng chuẩn bị, khối đồng minh trong kỷ nguyên chiến tranh đã bí mật tính toán đến mạng sống của nhóm người chất phác này, lại còn hùng hồn nói là: “ trình độ tiến hóa lẫn văn hóa đều cực kỳ thấp…”

Trong lịch sử vi khuẩn, liên quan đến Ủy viên G còn có một bức thư nổi tiếng khác, được chủ tịch tổ thí nghiệm hóa học Hoa Kỳ John Barker dùng để kiểm soát Tòa án Quốc tế Viễn Đông. Trong đó có một đoạn nội dung như thế này:

“Quốc gia duy nhất sử dụng vũ khí vi khuẩn trong chiến tranh thế giới thứ hai là Nhật Bản, còn quốc gia duy nhất bị phá hủy bởi vũ khí vi khuẩn là Trung Quốc. Các anh phải cực kỳ để ý đến sự thật cơ bản này, cần phải ân xá và bảo vệ tội phạm chiến tranh vi khuẩn như Shiro Ishii để lấy kinh nghiệm và tài liệu từ trong tay bọn họ, dùng trăm phương ngàn kế để tiết kiệm thời gian, tiền tài cùng các tài nguyên hữu hình hay vô hình khác của chúng ta. Để Trung Quốc không vướng vào tội ác của quân Nhật năm đó, phải xây dựng phòng thí nghiệm S – phòng thí nghiệm chiến tranh sinh học đầu tiên của chúng ta ở châu Á…”

Shiro Ishii chính là nhà hướng dẫn kỹ thuật của quân đội 1855. Phát minh “vĩ đại” nhất của hắn là đĩa nuôi cấy khuẩn dịch tả cao hai mét dài năm mét, gọi là “bom Ishii”. Đồn rằng vi khuẩn dịch tả được nuôi cấy “đủ để giết sạch cả thế giới cùng một lúc”…

Cô sờ đôi bàn tay lạnh ngắt của mình, lại đưa mắt nhìn cậu bé bị bác sĩ Nhật Bản coi là “vượn Trung Quốc” đang thở đều đều trên sô pha, bất chợt nhớ lại trước kia ở thư viện từng nhìn thấy một bức ảnh, một người đàn ông bị trói gô đưa lên bàn mổ cùng một quân Y người Nhật mặc đồ trắng, đeo kính đen và găng tay cao su, trong tay cầm dao. Bên dưới tấm ảnh ghi chú: Carry out vivisection to the CHINESE MONKEYS (Tiến hành giải phẫu vật sống với vượn Trung Hoa).

Hiện tại đã có một bệnh viện nghiên cứu bệnh khuẩn ở Hồng Khẩu. Nếu bọn họ có được thành quả nhất định, thì dù hiệu suất chưa tới, nhưng chỉ cần có đủ sức mạnh của một phần mười nghìn quả bom Ishii thì hậu quả vẫn vô cùng khó lường.

***

Cô không biết mình đã ngồi trong bóng tối bao lâu. Cho tới khi trời dần hửng sáng, soi rõ màn mưa bụi bên ngoài cửa sổ, dạ dày kêu rột rột vì đói, mồ hôi vã ra như mưa. Đến tận lúc dì giúp việc tới nấu cơm, cô vẫn còn hoảng hốt.

Có lẽ là vì trước đó Tạ Trạch Ích đã dặn dò, nên lúc dì giúp việc đi vào, thấy cô đã tỉnh mà còn có thêm một cục thịt nhỏ nằm bên cạnh thì thoáng giật mình, nhưng cũng không nhiều chuyện hỏi han gì, chỉ đi thẳng xuống bếp nấu cơm.

Cô ngẩng đầu nhìn chiếc máy điện thoại nằm trên hành lang, đột nhiên nhớ tới ngày nào đó khi gọi điện, nhân viên tiếp tuyến đã từng đọc số điện thoại gồm bốn chữ số.

Nhà họ Hứa nổi tiếng khắp Thượng Hải, con gái từng du học Nhật Bản…

Cô giật mình, đứng bật dậy làm cả chiếc ghế sofa bằng da rung lên. Đứa trẻ nằm trên ghế dụi mắt, lim dim nhìn cô.

Cô xoa đầu cậu bé —— tối qua đã gội đầu cho cu cậu một lần rồi. Dù không dễ nhìn lắm nhưng vẫn tốt hơn là để bọ chét sinh sống. Đẩy cậu bé đến dưới điện thoại, cô không do dự quay số điện thoại nhà họ Hứa.

Thời gian chuyển máy khá lâu, hình như là quản gia của nhà họ Hứa nghe điện thoại; tuy giờ đang còn sớm, nhưng vì nghe nói là bạn của cô Hứa, sợ là có việc gấp nên ông ta lập tức gọi cô chủ đến nghe máy.

Giọng cô Hứa nghe rất có tinh thần: “Alo, em Lâm đấy hả?”

“Chào cô Hứa buổi sáng.” Cô cũng lười khách sáo, “Tôi nhớ chị vẫn muốn để mọi người biết bọn chúng là kẻ vô dụng, đúng không?”

Cô Hứa cực kỳ tỉnh táo: “Sao thế?”

Cô hỏi tiếp: “Cho tôi hỏi, hồi du học Nhật Bản, cô Hứa học chuyên ngành gì?”

“Đương nhiên là học y rồi. Có chuyện gì à?”

“Ừm. Vậy chị đã từng nghe đến Shiro Bomb chưa?” Cô không theo chuyên ngành bệnh lý vi khuẩn, cũng không biết những danh từ đó ra đời từ lúc nào.

“Tôi chỉ biết giáo sư Ishii của Đại học Y khoa Kyoto mà thôi. Có chuyện gì thế?”

Cô nghĩ một lúc rồi hỏi: “Vậy còn, salmonella enterica, cholera bacteria, bentonite… và Ape thì sao?”*

(*Nguyên văn tác giả dùng từ tiếng Anh, lần lượt là vi khuẩn đường ruột, vi khuẩn thổ tả, sét khoáng và vượn.)

Đầu dây im lặng một lúc lâu. Cô Hứa hỏi: “Em nghe được những từ này từ đâu?”

“Ở chỗ tôi có một cậu bé một hai tuổi.” Cô kéo cậu bé đến gần điện thoại, thấp giọng hỏi cậu vài câu. Cậu trả lời xong thì cô lại đưa điện thoại lên tai: “Cô có hiểu em ấy nói gì không?”

“Ừ… Hiểu được sơ sơ, có lẽ là huyện Nam Thông.” Giọng cô Hứa có vẻ gấp gáp: “Em đang ở đâu?”

“Chị biết địa chỉ nhà tôi mà. Kính cẩn đợi chị đại giá.”

***

Nếu đi thuyền bình thường thì lộ trình từ đảo Penang đến Thượng Hải phải mất bốn năm ngày; nhưng với chiếc tàu tuần dương hạng nhẹ thì chỉ mất bốn mươi tiếng đồng hồ.

Cả chiếc thuyền này, không kể binh chủng, đa số đều là binh sĩ hạ cấp. Hơn phân nửa là hạ úy, có hai trung úy, chỉ mỗi Tạ Trạch Ích là thượng úy. Bầu trời tối dần, cá voi ở xa phun nước trong ánh chiều tà. Trong hành trình mười tiếng cuối cùng, lính Anh tranh thủ chè chén hưởng thụ quãng thời gian còn lại, chuyển hẳn bữa tối từ trong khoang ra ngoài boong, máy hát cũng được đưa ra ngoài; âm nhạc, rượu ngon, trái cây nhiệt đới và thịt nướng đều có đủ, quân sĩ tỉnh táo nhảy múa; đối với bọn họ mà nói, nếu còn thiếu gì đó thì chắc chắn là phụ nữ rồi.

Đối lập với sự náo nhiệt của mọi người trên boong thuyền là Tư Ngôn Tang đang ngồi trong góc: anh mặc áo sơ mi sáng màu bên trong, bên ngoài là áo ghi lê màu đen, ngồi dưới ánh đèn, cầm một cuốn sách trên tay, có vẻ thị lực kém nên phải nheo mắt để đọc. Nhìn anh như thế là biết ngay, anh chính là kiểu học sinh của trường nội trú ở Anh điển hình; gần như trái ngược hẳn hoàn toàn với Tạ Trạch Ích – kiểu học sinh được thầy giáo đến trường bảo lãnh nhưng còn bị từ chối, cởi phắt ghi lê đồng phục ném xuống đất, nghênh ngang rời đi.

Trên thuyền cũng có không ít sĩ quan cũng học tại trường tư, bọn họ bắt đầu bàn tán về sinh viên Trung Quốc gọi là “Tư” kia: là sinh viên cố hữu của đại học Oxford, đồng thời cũng là sinh viên tham quan của Cambridge, thế nhưng lại nổi tiếng ở Cambridge hơn cả Oxford, ngay từ thời trung học cứ hai ba hôm lại từ Luân Đôn đi đến đến Cambridge, nghe nói vì bạn gái ở Trung Quốc xa xôi giỏi làm thơ, cho nên cũng kiên trì làm thơ trong rất nhiều năm, cốt để nàng được vui vẻ.

Lúc này Tư Ngôn Tang ngồi ở trong góc, cực kỳ im lặng, cả cơ thể chìm trong ánh sáng màu cam, tựa như một bức họa.

Thường hay nghe nói trung úy thích chơi bời. Trước kia không cảm thấy gì, giờ khi sánh với chàng trai người Trung Quốc kia thì quả thật là quá phóng túng.

Ở Anh có một quy tắc lỗi thời, đấy là nếu không có người giới thiệu mà mạo muội tự giới thiệu thì sẽ bị coi là vô lễ.

Tạ Trạch Ích ngẫm nghĩ, sau đó băng qua đám đông, đi đến ngồi xuống bên cạnh anh.

Tư Ngôn Tang khép sách lại, mỉm cười đợi anh lên tiếng.

Anh chỉ vào cuốn sách hỏi: “Tôi có thể mượn đọc được không?”

“Đương nhiên là được rồi.” Tư Ngôn Tang đưa sách sang, “Cứ tự nhiên.”

Nhận lấy sách, trên bìa viết: Madame Bovary. Mở sách ra, một trang toàn tiếng Pháp lại chi chít tiếng Trung chú thích, thì ra là đang dịch.

“Cha tôi là người cổ hủ, không thích người khác làm trái ý mình. Vì tôi làm phật lòng cha trong nghiệp học nên ông đã cho người trừ tiền lương của tôi, cuộc sống vô cùng khốn khó, thỉnh thoảng phải dịch sách kiếm sống.” Tư cười giải thích.

Lật nhanh trang sách rồi dừng lại ở trang có kẹp thẻ đánh dấu. Lấy thẻ đánh dấu làm ranh giới, phần bên trái viết đầy chữ, còn bên phải vẫn còn sạch sẽ. Hình như thẻ đánh dấu được làm bằng ảnh, cũng khá độc đáo. Anh cẩn thận nhìn kỹ, đúng là ảnh thật.

Tổng cộng có bốn tấm ảnh, trong ảnh đều cùng một người. Nhân vật chính là một cô gái lơ đễnh giữa đám đông, cứ như bị mọi người bỏ quên. Ba tấm trước cô đều đang nhìn trái nhìn phải, đến tấm cuối mới chú ý đến thợ chụp ảnh, hai mắt trợn to, vẻ mặt kinh ngạc khiến cô trông chậm lụt miễn cưỡng.

Cô gái trong ảnh vẫn chưa trưởng thành nhưng lại rất tỏa sáng, không biết bởi vì ăn ảnh hay thợ chụp ảnh chỉ tập trung vào cô ấy, vì chú ý chính xác đến từng chi tiết nhỏ nên bức ảnh mới lấp lánh đến thế.

Tạ Trạch Ích nhận ra cô gái trong ảnh, có điều bây giờ cô không như vậy. Nhưng anh cũng đã gặp cô của lúc đó rồi. Vô cùng im lặng, lại có vẻ giảo hoạt.

Nhìn thấy thế, Tư Ngôn Tang ở bên cạnh nói: “Hai năm trước sau khi từ biệt, tôi không ngờ trong hai năm qua chỉ có bốn tấm ảnh này để nhớ nhung. Cũng không biết bây giờ cô ấy thế nào rồi. Anh Tạ đã gặp chưa?”

“Cô ấy?” Tạ Trạch Ích ngẩng đầu, thở dài, nheo mắt cười nói.

Chỉ toàn tự ý làm chuyện theo ý mình, khiến người khác đau đầu theo. Cực kỳ lười biếng, lười hơn cả tưởng tượng của anh, cũng vì thế nên anh cho rằng, nếu không có người phục vụ thì cô khó mà sống tốt được. Những khi cô cười là hai mắt cong cong, khóe miệng chúm chím lúm đồng tiền, hệt như một chú hồ ly. Nhưng cô không thích cười, trừ khi có chuyện cần bàn bạc.

Dĩ nhiên anh cũng đã trông thấy một kiểu cười khác của cô, là nụ cười hiển lộ tài năng, dịu dàng như nước, lấp lánh muôn vàn… Khiến anh như si như mê, thần hồn điên đảo. Tạ Trạch Ích rất thích được thấy dáng vẻ cô cầu cạnh anh, dù biết rõ nụ cười ấy không xuất phát bởi vì anh.

Anh mỉm cười hồi tưởng, sau đó cầm bút lên, cầm lấy hai tờ giấy nháp trống trong trang sách, hỏi: “Có được không?”

Ngôn Tang gật đầu cho phép.

Anh cúi đầu, nhanh chóng hạ bút dưới ánh đèn vàng cam.

Đó là một bức phác họa chân dung, vẽ một cô gái mặc áo khoác lông chồn màu trắng, chỉ có bóng lưng nửa người và mặt bên khi nghiêng đầu. Trên bức họa, hai mắt cô cụp xuống, ngón trỏ thon dài chạm vào cần cổ bên ngoài áo khoác.

Ngôn Tang mỉm cười, “Cô ấy đang làm gì thế?” Lúc anh hỏi câu này thì bức tốc họa cũng đã hoàn thành.

Tạ Trạch Ích mỉm cười lắc đầu, sau đó vẽ tấm thứ hai.

Cô đang cười. Mỉm cười nhìn về người xem, nụ cười lấp lánh gợn sóng, không chút e dè sợ hãi. Ngòi bút phác họa nụ cười ấy không hề dừng lại, rồi dần dà, Ngôn Tang đã có thể thấy sự thay đổi trong nụ cười của cô qua đường nét tinh tế. Ban đầu chỉ là một nét cười nhạt, nhưng ngay trong mi mắt cũng toát lên sự sùng kính mãnh liệt. Cô như mê như say, tràn trề dã tâm.

Đường nét gương mặt chính diện không được phác họa chau chuốt, thậm chí có phần qua loa, như thể nụ cười ẩn trong đôi mắt ấy là toàn bộ thần thái của bức tranh chân dung này.

Từ khi anh hạ bút, Tư Ngôn Tang vẫn thong thả mỉm cười. Nhưng rồi dần dần, ánh mắt anh chậm rãi thay đổi, khó tin nhìn Tạ Trạch Ích.

Nhìn một lúc, anh nói: “Anh Tạ, tôi từng nghe nói về cha anh, dường như ông ấy có tiêu chuẩn rất nghiêm khắc trong việc chọn đối tượng kết hôn cho anh, có đúng thế không? Hy vọng chỉ là lời đồn.”

Tạ Trạch Ích nghĩ rồi đáp, “Quả thật là có chuyện đó, hơn nữa cũng vì thế mà tôi từng phải sống túng quẫn giống cậu.”

“Vậy nếu người anh yêu không phù hợp tiêu chuẩn của bác nhà, thì anh có thể làm gì vì cô ấy?”

Tạ Trạch Ích ngớ người, lúc này mới nhận ra Tư Ngôn Tang đã bắt đầu tấn công mình. Anh lấy làm buồn cười, mỉm cười hỏi ngược lại: “Nếu là cậu thì cậu sẽ làm gì?”

“Tôi sẽ vì cô ấy mà từ bỏ rất nhiều thứ, chỉ cần là người không chấp nhận cô ấy, căm thù hay khinh thường cô ấy. Trên đời này, nếu cô ấy ghét ai hoặc ai đó ghét cô ấy thì đều là kẻ thù của tôi.” Tư Ngôn Tang nhìn thẳng vào anh: “Vậy còn anh?”

Tạ Trạch Ích không trả lời ngay mà chỉ nói: “Nếu cô ấy không thích cậu thì sao?”

Tư Ngôn Tang sững sờ.

“Cậu sẽ làm gì đây?”

Tư Ngôn Tang cẩn thận suy nghĩ, sau đó nói một câu đầy chắc nịch: “Tuyệt đối không có chuyện đó.”

Anh kẹp bức tranh chân dung vào trang Tư Ngôn Tang đang dịch, sau đó nói, “Trên đời này có rất nhiều thứ tốt đẹp quý giá. Nếu chuyện gì cũng bỏ qua, nếu có một ngày ngay đến cô ấy cũng mất đi, thế thì còn ai sẽ coi trọng cậu đây? Nếu là tôi, tôi sẽ không từ bỏ thứ gì vì cô ấy cả.” Tạ Trạch Ích cụp mắt, chỉ nhìn bằng nửa con mắt, “Có điều, tôi sẽ không để cô ấy chịu bất cứ tổn thương nào.”

Điều khiến anh cảm thấy tức giận lẫn sợ hãi đó là, có vẻ như cô đang tìm kiếm sự thương tổn nào đó. Chỉ vì cô là một người Trung Quốc có có lòng yêu nước cháy bỏng không bao giờ cạn kiệt, mà chính cô cũng biết rõ, cô đang được “quyền bất khả xâm phạm” bảo vệ.

Vì thế, anh sẽ bảo vệ cô hết khả năng cho phép.

Lúc vào hải quan, chiến hạm kéo còi, mấy tay thủy binh mở hai chai rượu vang để ăn mừng cho chuyến đi đến đảo Penang thuận lợi lần này. Trong tiếng ồn ào, Tạ Trạch Ích nói: “Đã đến bờ rồi. Vẫn muốn đi gặp cô ba trước chứ?”

Trong tiếng cười đùa ồn ào huyên áo, trong tiếng còi cùng tiếng sóng, Tạ Trạch Ích bị mọi người hắt rượu lên người. Chiến hạm cập bờ, cầu thang được kéo ra, có hai người ăn mặc như thủy thủ ở bên dưới chạy tới, trong tay cầm giấy tuyển thành viên của câu lạc bộ thể hình, bên trên là ảnh một người huấn luyện viên có nước da đen bóng khỏe đẹp, nói đùa với Tạ Trạch Ích: “Câu lạc bộ thể hình bờ biển, cơ bụng, tuyến nhân ngư, một quý chỉ mất một trăm đồng!”

“Thế cơ à? Cám ơn. Nhưng mà,” Giọng anh rất nhẹ nhàng, song thái độ lại rất đáng ăn đòn, “Tôi có đủ cả rồi.”

Thủy binh trên thuyền cười phá lên, người lắm chuyện còn vươn tay tính cởi thắt lưng quân trang của anh, muốn lột sạch quần áo ra.

Kiểu “học sinh xấu” từ chối được giáo viên bảo lãnh, bị trường đuổi học như Tạ Trạch Ích trái ngược hẳn với anh. Những người như thế anh đã gặp không ít. Nhưng trở thành như Tạ Trạch Ích thì lại không nhiều.

Thủy binh hạ cấp xách hành lý cho anh, dẫn anh đi đến bến tàu quân hạm hoàng gia. Xuống bên tàu, đám sĩ quan vây quanh Tạ Trạch Ích trước đó đã bị anh đuổi đi. Áo anh bị giật mất hai cúc áo, cầm trong tay chiếc thắt lưng khó khăn lắm mới cướp về lại được, cũng không màng đến hình tượng mà vừa đi vừa thắt thắt lưng. Tìm quanh bốn phía một hồi, anh đi xuyên qua đám đông đến cạnh Tư Ngôn Tang, hỏi: “Muốn gọi điện thoại ở bến tàu hay gặp mặt trực tiếp?”

Đúng lúc này Benjamin đã lái xe đến, chạy chậm tới tính xách hành lý cho Tạ Trạch Ích. Vừa thấy Tư Ngôn Tang, anh ta hưng phấn trêu đùa: “Ohhhh look! A China boy!” Có thể anh ta chỉ nói chung chung về con trai Trung Quốc, nhưng cũng có thể ám chỉ Tư Ngôn Tang tóc tai đen nhánh, làn da bóng mượt như đồ sứ, khí chất đằm thắm tựa ngọc.

Còn chưa kịp trả lời anh ta thì chợt có hai chiếc xe Dodge chạy vào bến, dừng lại trước mặt mọi người.

Người xuống xe đầu tiên là một người trung niên mặc quái bào vải lụa, tuy đã lớn tuổi nhưng phong thái phi phàm, cực kỳ có khí phách.

Vừa thấy người nọ, cả Tư Ngôn Tang và Tạ Trạch Ích đều khựng lại. Rồi Tư Ngôn Tang cắn đôi môi trắng bệch, cung kính chào thưa: “Cha, sao cha lại đến đây?”

Tư Ưng hừ một tiếng, lạnh lùng nói, “Cha mà không đến thì con định đi đâu hả?”

Lúc này Tư Ưng mới quan sát Tạ Trạch Ích một hồi, giọng không quá thân thiện: “Chuyện nhà họ Tư, không cần người ngoài phải nhọc lòng.”

Tạ Trạch Ích đáp: “Tư lão gia nói đúng. Có nên nhọc lòng hay không là một chuyện, nhưng có nhọc lòng hay không thì lại là một chuyện khác.” Nói đoạn anh nghiêng đầu, thấp giọng nói với Tư Ngôn Tang sắc mặt tái nhợt ở đối diện: “Xem ra bác nhà cũng rất nghiêm khắc, không hề thua gì cha tôi.”

___

*Qin: Các bạn biết Tư Ngôn Tang chính thức out từ đâu rồi đấy. :)
 

MUALARUNG91

Tác giả
Sưu tầm
Tham gia
25/8/19
Bài viết
4,780
Điểm cảm xúc
577
Điểm
113
Chương 95: Đêm (11)
Hai chiếc xe dừng lại bên ngoài biệt thự nhà họ Tư. Hai cha con bước xuống, vẻ mặt sa sầm giống nhau như từ một lò mà ra, không nói không rằng đi thẳng vào nhà.

Cánh cửa đóng cái sầm, chặn mọi người ở bên ngoài. Bà Tư dắt Ngôn Bách đi tới, nhìn cánh cửa được đóng lại một cách đầy bạo lực, hỏi: “Lâu lắm mới về nhà, nhưng vì sao vừa về lại cãi nhau thế?”

Mọi người đứng ở bên ngoài đợi quản gia đến mở cửa. Mấy tháng gần đây có không ít người hầu đến nhà họ Tư, không như bên ngoài đồn là “nhà họ Tư đã lụn bại”, chẳng qua là vì trước đó Tư Ưng thích yên tĩnh, không thích nhiều người đi tới đi lui trong nhà, vì vậy cũng để mặc bên ngoài nói bậy bạ, bản thân thì không phô trương nhiều. Còn những chuyện tư nhân thì giao cho người vợ Nhật Bản thu xếp lo liệu.

Mọi người chỉ thích nhìn vào bề nổi, thế nên trong mắt người ngoài, bắt đầu từ năm 1928, nhà họ Tư đã “lụn bại”. Thực chất không phải như thế, thậm chí phía Nam từng mời ông rất nhiều lần song đều bị ông từ chối, chỉ bởi vì Tư Ưng không muốn lo liệu thêm chuyện khác nữa.

Ông hừ lạnh: “Bà tưởng hai năm qua nó ở bên ngoài khốn khổ lắm sao. Làm gì có chuyện đó, không chăm chỉ học hành, suốt ngày hết lêu lổng chơi bời với đám văn nhân thì đàn đúm cùng lũ thanh niên cấp tiến, không những chậm trễ chuyện học mà còn bị chặn không cho gửi thư nhận thư, bị cấm xuất cảnh châu Âu. Không về cũng được, tôi coi như nhà họ Tư ta có con trai có tiền đồ, muốn làm ‘người Hoa da trắng’ ở châu Âu!” Ông tức tới nỗi mắng một tràng, bà Tư vội trấn an vỗ về, cơn giận nguôi ngoai thì ông mới nói tiếp: “Lần này có thể thuận lợi về nước còn phải nhờ người Hoa da trắng ở tô giới giảng hòa với Nam Kinh, đúng là nhục nhã!”

Tư Ưng không nói những chuyện này với bà. Hồi trước khi còn thường xuyên gửi thư, ông có nhờ bạn bè chăm sóc cho con trai cả, nhưng hơn một năm sau đó lại không nghe thấy ông nhắc đến. Bà cứ tưởng Ngôn Tang có bạn gái ở châu Âu nên ít để ý đến cha và em trai, vì vậy lúc nhắc đến chuyện này với Tư Ưng, thấy ông nổi giận, bà còn cười thầm một thời gian dài.

Suy cho cùng vẫn là mẹ con một lòng. Bà Tư đang mải nghĩ ngợi thì Ngôn Bách đã ngẩng đầu lên, nói ra tiếng lòng của bà: “Anh cả thật sự không có bạn gái ở châu Âu ạ?”

Bà Tư bật cười, rồi lại lật đật bịt miệng Ngôn Bách.

Bác quản gia già mở cửa, lò sưởi âm tường trong nhà cháy tí tách, mọi người cởi áo khoác ra ngồi xuống phòng khách. Tư Ưng đưa mắt nhìn con trai, thở dài, “Vẫn còn vương vấn con bé nhà họ Lâm đấy.”

Bà Tư sửng sốt: “Là ai?”

Tư Ưng trợn mắt nhìn bà, “Còn có thể là ai nữa?”

“Hồi đưa tiễn nhà họ có gặp một lần. Cô ba khi đó không bắt mắt lắm, tuy tướng tá không đẹp bằng chị gái nhưng cũng khiến người ta khó quên, rất đáng yêu. Nay cô hai trông thế nào tôi không nhớ, nhưng vẫn còn nhớ rõ cô ba.” Bà Tư hồi tưởng lại, “Thời gian trước, hình như Lâm lão gia vì chuyện gì đó mà nổi trận lôi đình, đăng báo tuyên bố muốn đuổi cô bé ra khỏi nhà, còn muốn giải trừ hôn ước. Ông ấy có bàn bạc chuyện này với ông không?”

Tư Ưng lắc đầu, xem ra ông vẫn còn canh cánh chuyện này.

Bà Tư ngạc nhiên: “Rốt cuộc là vì chuyện gì?”

“Nói là có quan hệ mờ ám với thầy giáo dạy Vật lý ở Hương Cảng. Thực hư thế nào, về sau tôi cũng có gửi điện hỏi tổng trưởng giáo dục. Từ Lai này rất được Thái Nguyên Bồi coi trọng. Ngài Thái khen học vấn phẩm chất của cậu ta lắm, ba lần gửi điện đến đều nói Từ Lai rất coi trọng gia đình, tuyệt đối sẽ không làm những chuyện như vậy. Tôi vẫn thấy lạ: với giao tình của hai nhà Tư Lâm, dù con bé kia có làm sai thì vẫn sửa sai được. Sau này cả tôi với bà vẫn coi nó là con dâu nhà mình. Sợ là sợ Ngôn Tang không chịu thôi. Nhưng nay xem ra, nó vẫn thích con bé kia.” Tư Ưng thở dài, vừa vui vừa buồn vì cậu con trai do mình dạy nên, “Đến cả tôi với bà còn cân nhắc kỹ lưỡng cho cô ba, còn biết hỏi thăm thực hư chuyện tình, tránh có người xấu cố ý xuyên tạc làm cô bé phải chịu oan. Nhưng rõ ràng là cô bé còn rất trẻ, vì sao anh Lâm lại tự tiện như thế, lại còn tuyệt tình đến vậy, khiến cô bé sau này không gặp được ai. Chẳng lẽ trong chuyện này còn có uẩn khúc gì sao?”

Bà Tư cau mày suy nghĩ, hỏi, “Hay là Lâm lão gia cố ý, muốn hứa gả cô hai cho Ngôn Tang?”

Tư Ưng lắc đầu, “Mấy năm trước đến Thiệu Hưng, Lâm lão gia có đề nghị rồi. Trước khi gặp hai cô con gái nhà họ, tôi đã để Ngôn Tang tự quyết định, bảo nó một khi đã chọn thì cả đời này đừng để tôi biết nó thay lòng đổi dạ.” Nói đoạn, ông thở dài, “Thế mà nhiều năm rồi, thằng bé vẫn nhớ kỹ những lời tôi nói.”

Thấy chồng lo lắng vì hôn sự của con trai, bà Tư lại càng buồn cười. Ông vừa buồn vừa giận con trai, còn không phải vì Ngôn Tang giống mình sao. Ông không cho Ngôn Tang theo nghiệp văn, vì biết rõ người nhà họ Tư vô cùng cố chấp, dù là chuyện chính trị hay người yêu. Nếu không phải vì thế, thì bà đâu mất đến mười hai năm để lay chuyển con tim của Tư Ưng vừa đến Nhật sau khi vợ mất, thậm chí lúc ấy bà chỉ mới mười sáu xuân xanh. Nhà lớn nghiệp lớn như nhà họ Tư, một khi đã cưới bà thì chỉ có một mình bà đến hết đời.

Vì biết tính của con trai sẽ dễ gặp khó khăn trên đường làm quan, một mình ông đã nếm mùi đủ rồi, nên mới nhất quyết không cho Ngôn Tang giẫm vào vết xe đổ đó nữa. Ông tự mình chọn một đất nước có truyền thống học tập tốt, tránh xa hoạt động chính trị để cho anh học đại học, lại chọn chuyên ngành không quá dính dáng đến chính trị văn chương. Hơn nữa lúc bấy giờ trong nước đang rộ lên phong trào dùng ngòi bút làm lưỡi kiếm, là thanh đao sắc bén để lan truyền tin đồn, dắt mũi xúi giục trong những trận chiến chính trị, bọn họ thường xuyên mở hội với văn nhân nhã sĩ, tự coi mình là “trụ cột của xã hội”, cũng là đội ngũ nay bị Nam Kinh chèn ép nhất, chính vì thế nên Tư Ưng mới nhất quyết không chịu cho anh học văn.

Nhưng không phải chính ông cũng quan tâm đến việc lớn quốc gia, thỉnh thoảng “không biết thời thế”, liều mạng làm việc đấy sao? Năm ngoái khi tập san chính phủ Nam Kinh chèn ép “Trăng Non”, ông còn viết hẳn một bài hịch gửi đến tập san chính phủ, chỉ trích bọn họ “dốt nát vô tri, yếu đuối vô năng”. May mà bạn bè ở hội tạp chí thấy, vội vàng chặn thư, bàn bạc biện pháp với ông. Bởi vì bọn họ cũng biết Tư Ưng đang ở tuổi ‘nổi loạn trung niên’, nên đã thống nhất lược bớt phần chỉ trích trong thư, chỉ chừa lại kiệt tác học thuyết binh gia văn cổ đầy xuất chúng, lúc ấy mới không gây nên đại họa.

Bà Tư che miệng cười: “Lâm lão gia thà gạch tên con gái ra khỏi gia phả chứ nhất quyết không gả con bé cho con trai ông. Ông định làm gì đây?”

Tư Ưng không đáp.

“Hay là gửi điện báo hỏi ý Lâm lão gia?”

“Không cần.”

“Vì sao?”

“Giờ ông ấy đã ở trên thuyền về Thượng Hải rồi. Đợi vài ngày nữa, mời ông ấy đến hỏi chuyện.”

Bà Tư lại đưa mắt nhìn lên lầu, “Nếu đến cuối vẫn không theo ý cậu cả thì sao?”

“Nó tự biết tìm cách để mình đồng ý. Thằng bé này, đã quan tâm ai thì sẽ quan tâm hết mình.” Tư Ưng cũng chẳng nhác mí mắt, nhấp ngụm trà rồi nói, “Không tin thì bà cứ lên lầu đi, xem nó còn ở trong phòng không.”

Bà Tư ngạc nhiên, đi lên lầu đẩy cửa phòng Ngôn Tang ra, nhưng cửa sổ mở toang, gió thổi vù vù lật bay những trang sách, nhưng làm gì có bóng người?

Tư Ưng nhìn Tiểu Ngôn Bách ngồi thẳng lưng trên ghế, nghiêm mặt nói: “Sau này không thể dạy con như vậy được. Con cần phải lanh lợi hơn.”

***

Đêm đó lúc cô Hứa đến, mới đầu cậu bé kia nhất quyết không chịu trả lời bất cứ câu hỏi nào. Cô Hứa cũng chẳng vội, sau một hồi kiên nhẫn nghĩ ngợi thì nói: “Chắc chắn là bị bệnh nên mới không chịu nói, để tôi đưa em nó đến bệnh viện khám xem sao.” Nói đoạn định kéo cậu bé đi, nói với nó: “Đi thôi, đến bệnh viện khám.”

Nghe thấy hai chữ “bệnh viện”, cậu bé lập tức cảnh giác nấp ra sau lưng Sở Vọng. Cô Hứa ép hỏi một lần nữa, cu cậu lập tức òa khóc. Hai người nhìn nhau, cô Hứa nhân đó truy hỏi mấy câu, nó vừa lau nước mắt vừa ngoan ngoãn trả lời từng câu một.

Sở Vọng sực hiểu, người như cô Hứa luôn có sự kiên nhẫn và quyết đoán riêng. Tuy có hơi cực đoan, nhưng có đôi lúc cực đoan cũng tốt.

Cô Hứa nói: “Đã hỏi được địa chỉ rồi, nhưng giờ không tiện nói. Hôm khác tôi sẽ nhờ người đến nơi đó hỏi thăm. Bọn họ được huấn luyện chuyên nghiệp, nếu không có gì bất trắc thì chắc chắn trong tuần này sẽ dò la được tình hình rõ ràng. Em chỉ cần ở nhà chờ, tôi sẽ cho người đưa tài liệu đến.”

Cô gật đầu.

“Tuy không nói được quốc ngữ và tiếng Thượng Hải, nhưng vẫn có thể nghe hiểu, chắc hẳn phải có hoàn cảnh. Có điều chắc chắn không phải do cha mẹ dạy,” Cô Hứa vỗ đầu đứa bé, “Vậy làm sao nó hiểu?”

Sở Vọng hiểu ý cô ấy, trả lời, “Ở chỗ tôi đây.”

Cô Hứa ngẩn người, đáp: “Em… Được rồi.”

Thế là mấy ngày sau đó, Sở Vọng đều ở nhà đợi tin của cô Hứa. Những khi tới viện nghiên cứu thì cô để cậu bé ở nhà, khóa trái cửa lại tránh gặp chuyện rắc rối. Có một hôm về nhà, phát hiện trong nhà không khác gì bị đánh cướp, từ phòng bếp cho đến tận phòng ngủ, thậm chí cả phòng của Tạ Trạch Ích, khăn giấy và giấy viết chữ bừa bộn khắp nơi. Mới đầu cô còn tưởng có người xông vào đây, nhưng đến khi nhìn kỹ mới phát hiện, là do cậu bé bướng bỉnh đó nghịch phá.

Cô cũng là một người lười lao động, huống hồ từ viện nghiên cứu về đã mệt gần chết, thế là dứt khoát tùy nó. Lúc dì giúp việc đến thì giật mình, liên tục hỏi “cô chủ, nhà bị trộm sao?” rồi lại dọn dẹp một lần, nhưng sau đó cũng mặc kệ, dù gì bà cũng chỉ phụ trách nấu cơm, chủ nhà không trả cho bà tiền công dọn nhà.

Ngày đầu tiên gặp lại Tạ Trạch Ích là ngày cô ở viện nghiên cứu. Có anh ở đó, cũng không rõ Sakuma Ichiro càng thêm càn rỡ hay là bớt lộ liễu nữa. Tuy hắn không còn tìm cô tán dóc, nhưng vẫn thích đứng từ xa nhìn chằm chặp, mỗi lần cô có cảm giác bị quan sát là luôn có thể bắt gặp được tầm nhìn của Sakuma Ichiro.

Có điều ai ai cũng bận chuyện của mình, mãi đến buổi tối cô mới nói chuyện được với Tạ Trạch Ích. Ngồi trên xe, hiếm khi thấy Tạ Trạch Ích không nhiều lời, thái độ vô cùng khác thường, im lặng lái thẳng xe về nhà.

Chẳng mấy khi lúng túng khi ở với anh như vậy, khiến cô khó mà tin nổi người gọi điện thoại đường dài trêu đùa cô mấy hôm trước là Tạ Trạch Ích. Lái xe đi được một quãng xa, cô không kìm được hỏi thăm: “Anh Tạ, anh có khỏe không?”

Nhưng Tạ Trạch Ích không trả lời.

Im lặng một lúc lâu, anh như bừng tỉnh khỏi giấc mộng, đầu tiên là “A?” một tiếng, rồi sau đó lại “ừ” đáp.

Cô cười nói: “Đã bị cúp điện rồi, lái xe mà lại phân tâm như thế, cẩn thận đụng phải người đi đường vậy.”

“Đã bị cúp điện rồi à?”

“Đúng thế. Anh đang nghĩ gì vậy?”

“Ồ. Vậy tối nay trăng sáng quá, em cũng cảm thấy thế đúng không?”

“Cái gì?”

Tạ Trạch Ích vẫn im lặng lái xe, không trả lời cô mà cũng không nhìn cô. Một hồi lâu sau mới bất chợt hỏi: “Cô ba, tôi còn có thể ở bên em bao lâu nữa đây?”

Cô khó hiểu. Còn đang ngơ ngác thì xe đã dừng lại, thì ra đã tới nhà rồi.

Vì bị mất điện nên cũng không thể đi thang máy.

Hai người lần mò đi trong hành lang tối đen, lúc đi ngang qua tầng hai, chị Trịnh nghe thấy tiếng động, cầm nến đi ra oán trách: “Anh Tạ về rồi đấy hả. Hai ngày gần đây có chuyện gì thế, suốt ngày rầm rầm, ồn chết đi được… Không phải tôi trách móc gì đâu, chỉ là lo quá thôi. Cô Lâm ra ngoài có khóa cửa không vậy? Mấy căn hộ ở đây đều thông nhau, hy vọng là không phải trộm.”

Tạ Trạch Ích nở nụ cười hiếm hoi trong hôm nay: “Có đứa cháu họ mới chuyển tới ở. Dù gì cũng là người Quảng Đông, họ hàng không ít, mong chị Trịnh bỏ qua cho… Đúng rồi, chị Trịnh thích ăn bánh mì ở tiệm Đinh Ký đúng không? Hôm nào đi đặt, tôi sẽ nhờ bọn họ đem đến ít cho chị Trịnh.”

Sở Vọng sửng sốt, dưới ánh nến, cô ngẩng đầu nhìn Tạ Trạch Ích.

Chị Trịnh cười vui vẻ, ánh nến trong tay cũng leo lắt, “Cần gì chứ, dĩ nhiên sẽ bỏ qua rồi… Anh Tạ khách khí quá. Tôi nghe thấy tiếng động, biết hai người về nên châm nến đây, có thấy đường không?”

Cám ơn chị Trịnh, hai người một trước một sau đi lên lầu. Mở cửa ra, thấy tình cảnh bi thảm trong phòng, Tạ Trạch Ích lại không có vẻ giật mình. Đứa bé chơi đã thấm mệt, lăn quay ra ngủ trên sô pha. Anh cúi người dọn chỗ cho cô đặt chân, còn cô đứng sau nói: “Tôi không biết đi đâu mời giúp việc cả.”

“Không sao, tôi có thể làm được.”

Nghĩ một lúc, cô áy náy nói, “Tôi lại làm hư máy pha cà phê rồi.”

Anh vẫn đáp: “Không sao.”

Cô cúi đầu, “Bản lề cửa, bếp đun nước…”

Đợi cô im lặng, anh mỉm cười hỏi lại: “Còn gì nữa? Nói hết đi.”

“Còn cả chuông nối phòng bảo vệ nữa. Bình thường có người đến, chỉ cần bấm một lần là được. Nhưng có hôm đột nhiên không bấm được, thế mà chuông kêu mãi, giống tiếng thét lúc nửa đêm vậy…”

Cô vừa dứt lời thì chuông cửa lại vang lên. Hai người nhìn chằm chằm bộ chuông, đúng là rất giống tiếng thét lúc nửa đêm.

Bấm một cái, chuông vẫn kêu như cũ, âm thanh của bảo vệ đi qua đường dây truyền tới ở đầu loa: “Cô Lâm, dưới lầu có người mời cô xuống, nói là có quà đưa đến, mời cô ký nhận.”

Cô trả lời, “Trễ thế rồi mà còn đến hả? Là gì vậy?”

Tạ Trạch Ích nhìn cô chằm chằm, không nói câu nào.

Cô cũng nhìn thẳng Tạ Trạch Ích, có phần lo lắng.

Một lúc sau, Tạ Trạch Ích thấp giọng nói: “Em xuống đi, không có chuyện gì đâu.”

Nhìn vẻ mặt Tạ Trạch Ích, đột nhiên cô yên tâm hẳn. Sở Vọng gật đầu, “ừ” một tiếng.

“Đợi đã.” Anh cầm giá cắm nến đi tới, dùng bật lửa thắp sáng rồi đưa cho cô, “Nếu cần tôi thì cứ bấm chuông gọi.”

“Ừm.”

Hoảng hốt đi xuống lầu, trong đầu chỉ toàn là vẻ mặt sáng tỏ của Tạ Trạch Ích khi nhìn thấy đứa trẻ. Vì sao anh lại biết? Rốt cuộc đứa trẻ cứu được ở nhà máy kéo sợi và anh có quan hệ gì?

Cô sờ vào khẩu súng nằm trong túi áo khoác.

Anh định làm gì đây?

Đi xuống lầu, cả đại sảnh tối om om, chỉ có ánh nến trong đèn thủy tinh của bảo vệ là nguồn sáng trong đất trời này. Cô đến gần hỏi: “Xin hỏi người tìm tôi ở đâu?”

Bảo vệ đánh mắt về phía thang máy.

Cô giơ giá cắm nến lại gần. Bên cạnh thang máy có có một tấm gương toàn thân, trong ánh nến mù mờ, bóng người cô dần hiện rõ trong gương.

Cô mặc một chiếc váy len cao cổ màu đen, bên ngoài chiếc váy len là áo khoác len màu hồng đậm, chân đi tất xám cùng đôi giày da tròn nhỏ màu nâu có dây buộc.

Hai năm qua cô đã cao hơn, hồi mười ba tuổi mới một mét rưỡi, nhưng giờ đã cao hơn mười cen-ti-mét.

Song lại không cao như hình bóng trong gương.

Lại gần mới phát hiện, bóng người kia không phải ở trong gương, mà là đứng bên ngoài gương. Người đó cao hơn cô nửa cái đầu, nên chiếc áo khoác màu xám dài quá đầu gối trông cũng rất thuận mắt; dù dưới ánh đèn mù mờ thì làn da kia vẫn trơn nhẵn, đôi mắt sáng ngời, lấp lánh theo ánh nến, tựa như có vì sao rơi vào trong mắt.

Thấy cô lại gần, hai mắt người kia khẽ nheo lại, nụ cười càng thêm sâu.
 

MUALARUNG91

Tác giả
Sưu tầm
Tham gia
25/8/19
Bài viết
4,780
Điểm cảm xúc
577
Điểm
113
Chương 96: Đêm (12)
Trong khoảnh khắc ấy, không một ai cất lời.

Rồi Tư Ngôn Tang làm động tác so ngang với môi dưới, khoa tay múa chân cười bảo: “Cao hơn nhiều rồi.”

Nói rồi anh cúi người nhìn cô, bất chợt dịch lại gần. Làn mi cô run lên, nhưng vẫn bình tĩnh để mặc anh nhìn; chỉ là giơ giá cắm nến cách xa ra, tránh làm cháy tóc anh.

“Cũng thay đổi nhiều rồi.” Một lúc sau, anh đột nhiên kết luận. Không biết là ám chỉ gương mặt cô hay là vì ánh mắt lạnh lùng của cô, “Đến mức suýt nhận không ra.”

“Thì cũng hai năm rồi mà. Sao anh vẫn không thay đổi gì thế.”

“Em không nhìn anh thì làm sao biết được anh có thay đổi hay không?”

Cô giơ cao giá cắm nến, quơ quơ trước mặt anh, nói: “Thì giờ nhìn, đúng thật là vẫn giống trước kia.”

Ngôn Tang bật cười, đưa tay toan nhéo mũi cô. Nhưng cô đã nhanh chóng lùi về sau một bước.

Tay anh cứng đờ giữa không trung. Thấy bảo vệ như con chuột đang tò mò quan sát từ trong bóng tối, đôi mắt bé tí sáng quắc.

Anh đành cười khan hai tiếng, chắp tay ra sau lưng.

“Sao trễ rồi mà anh còn tới đây?”

“Vừa cập bến là anh đã muốn đi tìm em ngay, nhưng vì có chuyện đột xuất nên giờ mới tới được.”

“Tới đây bằng gì vậy?”

Anh cười nói, “Còn thế nào nữa? Thì đi thôi.”

“… Đã muộn lắm rồi. Đây là Thượng Hải, luật pháp chỉ là bình phong, không phải Oxford xem trọng nhân tình.”

Anh híp mắt nhìn cô: “Sao em biết ở Oxford xem trọng nhân tình?”

“…” Cô im lặng, phát hiện mình đã lỡ lời, “Đọc trong sách.”

“Vì sao lại tìm hiểu về Oxford như vậy?” Trong mắt anh dần đong đầy ý cười.

Cô thở dài, “Bác Tư không cho anh đến tìm em đúng không?”

“Người ngày trước bảo anh cưới em cũng là ông ấy.”

“Chắc bác ấy có chỗ khó của mình, anh cũng nên thông cảm. Nếu biết anh không màng an nguy nửa đêm lén chạy ra ngoài, khéo bác lại trách tội em mất.”

Anh im lặng một lúc rồi gật đầu, “Là anh lỗ mãng. Lần này anh về không phải muốn làm khó em.”

Thấy anh có vẻ còn muốn nói, dừng một lúc rồi cô bảo: “Có lẽ anh Tạ cũng sắp đi rồi. Để em bảo anh ấy tiễn anh.”

Anh nhìn lên cầu thang chìm trong bóng tối, sửng sốt hỏi: “Anh ta… anh ta ở chung với em?”

Cô đáp: “Anh ấy là cảnh sát tuần tra ở tô giới, em lại ở Thượng Hải một mình nên cô út nhờ anh ấy chăm sóc em.”

Anh gật đầu, “Ừ.”

“Có nhiều người, chỉ vì giữa nam nữ hơi tiếp xúc thân mật là lại dèm pha với cái tưởng tượng bẩn thỉu của mình, gây nên hiểu lầm.”

Anh đột nhiên lúng túng: “Anh không có. Anh luôn tin tưởng em mà. Chỉ cần em giải thích thì anh sẽ tin em vô điều kiện.”

“Em không nói anh.” Cô nhìn bảo vệ mặt đỏ tía tai bên kia, nói: “Nhưng nếu em nói dối thì sao? Anh sẽ hiểu cho em chứ?”

“Em là người cực kỳ quan trọng trong sinh mệnh của anh. Cha, em trai, mẹ ruột… Thậm chí cha anh cũng nói, sau này nếu kết hôn, em còn quan trọng với anh hơn cả ông ấy. Không có gì quan trọng bằng.” Anh sốt ruột bộc bạch, có phần hốt hoảng, “Em hiểu không?”

“Anh coi trọng em đến thế, nếu em không xứng được như vậy thì sao? Em không hiểu anh, làm cản trở anh, thanh danh vấy bẩn khiến anh khó chịu, thật sự không xứng với sự tin tưởng của anh; liên tục chạm đến ranh giới cuối cùng của anh, không để ý đến cảm nhận của anh, như vậy anh sẽ làm gì em đây?”

Anh luống cuống, “Không phải anh nên chấp nhận toàn bộ của em sao?”

Cô nói: “Nhưng em là ai? Nếu không có hôn ước, giữa hai ta cũng chỉ có tình cảm anh em mà thôi, thậm chí mỗi người sẽ có cuộc sống của riêng mình, không nói chuyện với nhau mấy câu. Nhiều năm qua, những thứ chung giữa hai chúng ta cũng chỉ có mấy bức thư. Trên đời này còn có nhiều người có giao tình sâu đậm với anh, em có tài cán gì lại đáng để anh tin tưởng như vậy?”

“Nhưng…” Ngôn Tang có vẻ khó tin, “Em chính là em mà, từ năm mười lăm tuổi, em chính là người anh muốn nắm tay suốt đời.”

“Vậy anh có hiểu em không? Nếu em thật sự giống như người ta đồn đại, có chuyện mờ ám với người khác, nhưng bây giờ em đang lừa dối anh. Anh định xử như thế nào đây?” Nói đến đoạn kích động, môi cô trở nên khô khốc. Khẽ nhấp môi, cô nói, “Anh Tư, xin anh hãy nghĩ thật kỹ.”

Thấy anh im lặng đứng tại chỗ, cô nói tiếp, “Anh về đi.”

Anh ngơ ngác gật đầu, thần hồn lạc phách xoay người rời đi.

Nhìn theo bóng lưng ấy, bỗng dưng cô cảm thấy không đành lòng, bèn bước lên hai bước gọi anh lại, “Anh Tư.”

Anh ngoái đầu nhìn cô.

Lời đến bên môi, nhưng cuối cùng chỉ có thể nói, “Hôm nay muộn rồi. Nếu lần sau anh đến vào buổi sáng, nhất định em sẽ mời anh vào nhà chơi.”

Anh gượng cười, gật đầu rồi xoay người bước đi.

Cô nhìn theo bóng lưng dần khuất một lúc lâu.

Anh vẫn không thay đổi, vẫn là chàng trai của ngày trước.

Nhưng cô đã đọc hết cuộc đời của anh. Một chàng trai niềm nở đầy sức sống, đắc chí hăng hái, cho rằng một người đến chết sẽ không bao giờ thay đổi; có vô số người sẵn lòng sống chết vì anh, nhưng không ai hiểu anh, anh lẻ loi cô độc, chỉ mong có người thấu hiểu; để rồi thoái chí chán nản, trở nên điên dại; hết khóc lại cười…

Cuối cùng, anh đã tự sát trên đường ray trong một đêm tuyết ở Siberia.

Ra đi.

Mà nay anh vẫn mỉm cười, là chàng trai niềm nở đầy sức sống.

Vẫn còn kịp.

***

Cầm nến đi lên cầu thang, gió lớn ùa vào làm ngọn lửa tắt phụt. Đứng ở tầng hai cũng có thể cảm nhận được ngọn nến được thắp, ngẩng đầu nhìn lên, ở tầng ba vẫn mở rộng cửa, ánh sáng từ ngọn đèn dầu trong phòng hắt ra chiếu xuống bên dưới; cũng nhờ thế nên cô có thể dễ dàng đi lên cầu thang.

Gần đến tầng ba, cô thấy Tạ Trạch Ích đứng trước cửa, tay cầm ngọn đèn dầu.

Cô nói: “Cám ơn anh.”

Tạ Trạch Ích đáp: “Không có gì, chỉ là lúc ở một mình tôi sợ tối nên mới thắp đèn, chứ không phải vì em.”

Tuy đã chối bỏ trách nhưng, nhưng nói thế, đến khi vào phòng thì cô lại áy náy. Phòng đã được dọn dẹp ngăn nắp, không khác gì lúc anh đi.

Cứ tưởng Tạ Trạch Ích sẽ hỏi chuyện ban nãy, không ngờ anh lại chẳng nói gì. Đợi cô vào phòng thì đóng cửa lại rồi rời đi. Nhưng cô bất giác đưa tay ngăn cửa, hai người một trong một ngoài cách nhau một khe cửa đủ một người lách qua, cùng ngẩn người.

Tạ Trạch Ích nói: “Sao thế?”

Sao anh lại tốt đến vậy?

Thật ra cô rất muốn hỏi câu đó, nhưng rồi cảm thấy, hỏi như vậy không khác gì những cô gái trẻ ỷ có chút sắc đẹp đã lên mặt. Có vẻ anh có hảo cảm với cô, cô có thể cảm nhận được; có lẽ cũng bởi vì bà Cát nhờ vả nên mới đặc biệt để ý, nhưng lại tốt quá rồi.

Vô công bất thụ lộc. Nếu cô cứ hưởng mãi thì không quá chân thật.

Nhưng có thể hồi báo gì đây? Dường như anh chẳng thiếu gì.

Nghĩ đến đây, cách khe cửa, cô cứ thế ngơ ngác nhìn Tạ Trạch Ích.

Trong phòng lay lắt tia sáng, trong tay anh cũng có ngọn đèn dầu. Cô ngẩng đầu lên, con ngươi phản chiếu hình bóng anh, ánh mắt có phần mông lung. Nếu không phải sớm biết cô thường xuyên thất thần, thì khéo anh đã tưởng cô muốn hôn anh.

Anh cố kìm nén, bàn tay siết chặt đè lên khung cửa.

Ngoài mặt vẫn cười nhạt bảo: “Có một việc nữa, muốn nghe không?”

“Là gì?” Hai mắt sáng lên.

“Sợ em.”

Cô suy nghĩ, đột nhiên phát hiện anh đang thay đổi cách mắng cô là chó, lập tức muốn nhấc chân đạp anh một phát. Nhưng Tạ Trạch Ích đã nhanh tay hơn, vội khép cửa lại. Chân cô đá vào cửa, *rầm* một tiếng, đau đến mức phải gập người.

Cách một cánh cửa, cô có thể nghe thấy Tạ Trạch Ích đang cười ở bên ngoài.

Cười được một hồi, dường như vì áy náy nên thấp giọng hỏi: “Có đau không?”

Cô tức giận: “Anh cứ thử đi!”

Bên kia lại bật cười. Chợt tiếng gõ cửa vang lên, anh nói, “Nhớ khóa kỹ cửa đấy.”

Cô đáp, “Biết rồi.”

Cô lại đứng đợi một lúc, nhưng bên ngoài không còn động tĩnh nào khác.

Tạ Trạch Ích xuống lầu, ngồi vào xe, bàn tay nắm vô-lăng đổ đầy mồ hôi. Bóng tối ở đường Ferguson dễ dàng khiến con người mất đi khả năng tự chủ, lúc nhìn vào ánh mắt sáng bừng ấy, anh suýt đã mất kiểm soát muốn kéo cô ra khỏi phòng, đè lên cửa hôn ngấu nghiến.

Sao có thể không sợ cô chứ?

Ở trước mặt cô, anh không biết thì ra mình lại là kẻ háo sắc đến vậy.

***

Tuy cô đã mời Ngôn Tang “ban ngày hôm khác lại đến”, nhưng cô cũng không có cơ hội ở nhà vào buổi sáng.

Tuy nồi hơi của viện nghiên cứu được chế tạo và thiết kế cùng một lúc, nhưng đến thời điểm này, về cơ bản xác lò đã được xác định: đường kính cuối cùng là 26 feet nên thanh cadmium điều khiển phản ứng dài 26 feet. Hình dạng cuối cùng là một hình cầu với đỉnh hình dẹt, nặng 1.400 tấn, tổng cộng 52 tấn uranium kim loại và uranium oxide, cộng thêm 57 lớp than chì và các khối uranium chồng lên nhau.

Lúc hoàn thành xây dựng thì vừa khéo tròn năm tuần, là ngày 27 tháng 3.

Sau khi Minh Trị đổi mới, Nhật Bản chịu ảnh hưởng nặng nề của châu Âu, do đó bọn họ có ý thức rất mạnh về nghi thức cho các sự kiện trọng đại. Vì vậy nên tuy nồi hơi đã hoàn thành, nhưng nghi thức khởi động chính xác được tổ chức và năm ngày sau, lúc 9 giờ sáng ngày 1 tháng 4.

Chính vì thế mà người Nhật đã chuẩn bị một bữa tối hoành tráng vào tối ngày 1 tháng 4, treo biểu ngữ là “Hợp tác nghiên cứu khoa học ba nước hảo hữu Nhật-Trung-Anh”, mời nhiều người nổi tiếng ở trong và ngoài tô giới đến, bao gồm các học giả, truyền thông và quân đội.

Lần nữa kiểm tra hết các số liệu của hạng mục “nồi hơi”, Sở Vọng chẳng buồn ngẩng đầu, nói với Sakuma Ichiro đến chúc mừng: “Có quá nhiều tính không xác định trong thí nghiệm, chưa chắc sáng thứ sáu đã có thể thành công. Nếu thất bại thì ai còn tâm trạng tham dự tiệc tùng nữa?”

Sakuma Ichiro nhướn mày, “Hết thứ sáu này là vừa tròn kỳ hạn sáu tuần. Người lúc đầu thề thốt nói nhất định sẽ hoàn thành trong sáu tuần cũng không phải là tôi.”

Sở Vọng cũng nhướn mày, liếc xéo hắn ta.

“Thỏa thuận Nhật Bản rút khỏi tô giới và hội đồng khu đã được ký. Nếu không thành công, cô muốn tạ tội với tổ quốc của cô thế nào đây?”

“Các người vừa không tin tôi lại vừa quá tin tôi. Cứ như thể nhất định sẽ thành công vào tuần này vậy. Từ lúc xây xong là hôm nay cho đến giữa thứ sáu, không cho tôi cơ hội để chạy thử hay điều chỉnh. Rốt cuộc các người tự tin vào điều gì?”

Nụ cười của Sakuma Ichiro dần biến mất. Nhưng một lúc sau, hắn đã lại bật cười.

Nhật Bản sẽ không dễ dàng từ bỏ mảnh đất Trung Quốc này.

Nếu cô thất bại, bọn họ càng có lý do để giết con tin, cô sớm biết rõ điều đó.

Mặc dù là thí nghiệm mang tính tượng trưng chỉ kéo dài năm tuần, nhưng trong lòng cô đã có sẵn câu trả lời tiêu chuẩn. Đáp án ấy đã được thực hiện thành công và không hề có lỗi.

Nhưng khi cô đứng trên đỉnh chóp của nồi hơi, cô bất chợt ý thức được vấn đề này liên quan đến sự an toàn của đất nước và mạng sống của vô số người, nếu có một lỗi nhỏ, thì dù có chết cũng không thể bù đắp nổi.

Khi những nghiên cứu viên khác rời đi, cô vẫn ngồi trên đỉnh thí nghiệm, xem xét bản nháp các tính toán, hòng đảm bảo không có bất cứ bất trắc nào xảy ra.

Ngày 27 tháng 3 là ngày có tầm quan trọng rất lớn đối với cô. Suốt đời này cô sẽ nhớ mãi việc xây dựng lò phản ứng chậm ở Thượng Hải, cùng với lần đầu tiên thử vận hành vào năm ngày sau.

Chính vì chuyện này đang nằm trước mắt nên cô không nhớ được mấy tháng trước, từng có người nói với cô rằng, vào ngày 27 tháng 3 sẽ có một con tàu du lịch đến từ Pháp chậm rãi cập bến sông Hoàng Phố.

***

Nghe nói Tư đại công tử mới từ châu Âu về Thượng Hải, thư mời từ các tòa soạn Bắc Bình và Thượng Hải được gửi đến nhà họ Tư nhiều như tuyết rơi, thư còn nhiều hơn cả của Tư Ưng.

Bà Tư cười nói: “Đúng là Trường Giang sóng sau xô sóng trước ông à.”

Tư Ưng cười lạnh, “Bà không đọc báo thấy bên ngoài khích bác nó thế nào à. Trong hộp thư ngoài nhà, có mười bức thì cũng hết bảy tám bức nói nó ‘thổ địa nước ngoài không nuôi dưỡng dược văn nhân Trung Quốc’.”

Bà Tư nói: “Tôi có thấy rồi. Nhưng không phải sau khi đọc xong, cậu ấy đã phát biểu bài văn ngôn “Địa phủ chúng sinh” đầy thâm sâu châm chọc lũ người thích giảng đạo đó sao?”

“Còn có người nói nó ‘nay non sông suy đồi, tri thức nên dùng chữ khuyên người hối cải chứ không nên vì tư lợi bản thân, viết ra những cuốn tiểu thuyết thương mại mang tính giải trí như thế này’.”

Bà Tư tìm được một bài trong số tạp chí mình sưu tầm, mỉm cười đưa cho Tư Ưng: “Ông xem đây là cái gì?”

Tư Ưng định thần nhìn lại, thì ra là bài văn hùng hồn mà con trai ông dùng tiếng Anh viết để châm biếm đám quân phiệt hại nước hại dân. Tiêu đề bài viết là: Tư Ngôn Tang ở Bắc Bình năm 1924.

Lúc ấy, thằng bé chỉ mới mười lăm tuổi.

Tuy Tư Ưng thường cố ra vẻ nghiêm túc dạy con, nhưng thấy con trai có tiền đồ như vậy, khóe môi không kìm được cong lên.

Bà Tư nhanh chóng nói: “Con trai cũng đã lớn rồi, có suy nghĩ chủ trương của mình. Nếu nó thích viết văn thì hay mình cứ tùy nó đi?”

Tư Ưng thôi cười: “Cũng chỉ là mới học viết được mấy chứ, có tiền đồ cái gì!” Dứt lời lại cầm lấy một bức thư đưa cho bà Tư: “Cả “Ngữ Ti” lẫn “Nhân Vật Hiện đại” đều là tạp chí biên tập dẫn đầu chỉ trích nó. Nay thư gửi đến mời nó đến Thượng Hải tham gia ‘hội liên hoan’ ở khách sạn lớn. Nếu nó đi, chắc chắn đó sẽ là Hồng Môn yến. Nhưng nếu không đi, sau này nếu dựa vào nghiệp văn thì đừng hòng mơ có địa vị ở Trung Quốc. Nếu nó đã là con trai tôi thì cứ mặc nó, nhà ta cũng không đến nỗi không nuôi nổi một miệng cơm. Nhưng hai nhà Tư Lâm còn có ước hẹn đó, nó không chỉ là con trai của một mình tôi, nó còn có thể là tấm chồng mà con gái bảo bối nhà họ Lâm dựa dẫm. Dù hôm nay anh Lâm nghĩ thế nào, thì tôi cũng phải có giao phó với nhà họ.”

Bà Tư lấy làm ngạc nhiên: “Không phải đã đăng báo hủy hôn rồi sao?”

“Nhà họ Tư không thể mất nhà họ Lâm, nhà họ Lâm cũng không thể mất nhà họ Tư. Hôn ước chỉ là lý do, tuy đã bỏ hôn ước với con bé ba, nhưng theo tôi thấy, có lẽ anh Lâm có ý định khác.”


Bà Tư khó chịu: “Không lẽ Lâm lão gia muốn…”

“Nhiều năm trước trên đường đến Thiệu Hưng, tuy tôi thấy ông ấy có vẻ thương con bé ba còn trẻ, nhưng kỳ thực lại cố ý muốn hứa gả con hai cho Ngôn Tang. Đăng báo hủy hôn, không biết ẩn tình trong này có liên quan gì đến điều đó không.”

Hai mắt bà Tư sáng lên: “Bao giờ thì thuyền nhà họ Lâm sẽ đến Thượng Hải?”

“Hôm nay.”

“Vậy có thể để tôi tự chủ trương gửi một bức thư, mời cả cô ba lẫn cô hai cùng đến Thượng Hải trong ngày tham dự ‘tiệc liên hoan’ có được không? Chọn một chỗ bên cạnh, cùng xem xem Hồng Môn yến một lần?”

Tư Ưng nhìn vợ một lúc lâu, có vẻ vẫn chưa hiểu lắm.

“Nếu Ngôn Tang có thể tự củng cố được địa vị cho mình thì cứ để con nó theo văn, và ông cũng phải hứa với tôi là từ nay không được can thiệp vào chuyện của nó nữa. Nếu đến lần này nó cũng không đảm đương nổi thì cứ để thấy cảnh nó thoái chí, có lẽ có thể biết Ngôn Tang không phải là bạn đời thích hợp. Nếu nó sẵn sàng bỏ xã hội theo tự nhiên vì ai đó, thì ấy cũng là chủ ý của nó; nếu nó vẫn cố chấp theo ý mình, biết đâu vẫn có người chịu đồng cam cộng khổ bầu bạn cùng nó trong quãng đời còn lại. Có lẽ hôn ước hai nhà Tư Lâm đến đây là hết, lòng người nào người nấy rõ, không cần phải mang nhiều gánh nặng hay oán hận.”

Hai mắt Tư Ưng sáng rực, rất tán thưởng trước ý kiến này, lập tức gật đầu bảo được, cầm giấy bút đến viết một bức thư rồi cho người gửi sang nhà họ Lâm bên cạnh.

***

Một chiếc xe Buick chạy theo sau mấy chiếc xe chở hành lý, chậm rãi tiến vào tô giới công cộng, dừng lại trước cửa biệt thự nhà họ Lâm.

Chủ nhân đã rời đi hai năm, căn nhà để không, gia cho lão quản gia đón từ Thiệu Hưng lên trông nom.

Cửa xe Buick mở ra, Lâm Du bước xuống từ vị trí ghế phụ. Ngày trước ông ta thích mặc quái bào Trung Hoa vì từng du học Nhật Bản. phái du học Nhật năm xưa về nước đa số đều làm quan, nên bọn họ cũng xưng là “phái quan liêu”. Các ông lớn sĩ đồ thông thuận trong phái đều thích các kiểu quái bào bằng gấm như thế, có lẽ vì mặc vào thì có thể đem lại điềm lành.

Mà nay đi châu Âu mấy năm, có người vợ mến yêu chăm sóc cuộc sống cho ông ta, hằng ngày đều là ủi sơ mi âu phục, từ đó ông ta cũng bắt đầu học người đến Âu Mỹ mặc âu phục thắt cà vạt vô cùng phóng khoáng, thế là ném hẳn bộ quái bào ra sau đầu.

Nước ở châu Âu không tốt, uống hai năm nên đầu tóc có xu hướng hói dần, đỉnh đầu nhọn hoắt trông chẳng khác gì chuột. Trước đây ông ta khá gầy, nhưng nay có lẽ vì ăn nhiều thịt bò nên đã biến thành chuột béo má hồng.

Ông ta không hài lòng lắm về diện mạo bây giờ của mình, nhưng không ngăn được vợ ông ta nói: “Tướng mặt chuột là tướng chủ quý đấy.” Câu này nghe đúng là quá xuôi tai. Mỗi lần soi gương, ông ta càng lúc càng thích tướng tá của mình, như thể cảm nhận được bản thân thật sự “quý”.

Ông ta mỉm cười, cực kỳ ga-lăng mở cửa sau ra. Một cô gái cử chỉ tao nhã, mặt mũi xinh xắn bước ra. Đã lâu rồi không đặt chân lên mảnh đất tổ quốc, cô ta thấy mặt đất nhầy nhụa vì mưa dầm dề mà ai oán: “Người trong nước đúng là chả chú trọng vệ sinh tí nào.”

Cô ta cẩn thận xách vạt áo, cẩn thận tìm một chỗ sạch sẽ để đặt chân. Cô ta nôn mửa trên thuyền nhiều ngày liên tiếp, có vẻ gầy và xanh xao hơn so với lúc ở châu Âu. Có điều dạo này cô ta đang giảm cân nên đây chính là kết quả cô ta mong muốn, cho nên còn có vẻ đắc chí khi bản thân gầy gò tái nhợt.

Lúc cha mở cửa xe bên kia đón vợ yêu xuống, Doãn Yên trông thấy quản gia đang cầm hai bức thư. Được cha cho phép, cô ta đi tới nhận lấy thư.

Nhanh chóng xé bức thư viết “kính gửi anh Lâm”, ký tên “Tư” ra, đọc lướt một lượt, hai mắt cô ta sáng lên, cười nói: “Mẹ! Ba*! Bà Tư mời con ngày mai đến Thượng Hải dự tiệc…”

(*Trước đây Doãn Yên gọi Lâm Du là cha, nay đổi cách gọi hiện đại là ba.)

Vị phu nhân trong xe cười nói: “Trọng điểm không phải là bà Tư mà là cậu Tư đúng không? Ở châu Âu ngày nào cũng cậu Tư cậu Tư, hai tai mẹ mọc kén rồi đây này. Giờ đã về nước, người khác có thể hiểu con nói gì đấy, đừng có như vậy nữa.”

Cô ta nháy mắt, cười cười tiếp tục mở bức thư thứ hai ra.

Nhưng vừa đọc được hai hàng thì cứng người, môi trắng bệch hét lớn: “Ba!”

Người phụ nữ kia bước ra khỏi xe, bà ta khoác áo đen bên ngoài bộ sườn xám màu xanh thẫm, bên dưới bắp chân thon thả và mắt cá chân là đôi giày cao gót nhọn hoắt, lên giọng quở mắng: “Đã bảo bao nhiêu lần rồi, là con gái thì phải nhỏ nhẹ, dù gặp chuyện gì cũng không được quá ngạc nhiên. Nhắc con mấy lần rồi hả. Sao?”

Cô ta nuốt nước bọt, đưa thư cho Lâm Du.

Lâm Du như đã có lường trước, nhưng lúc nhận thư đọc, sắc mặt không khỏi biến đổi.

Đó là một bức thư của luật sư viết cực kỳ chi tiết, truy vấn đến tận mười bảy mười tám năm, trăm phương ngàn kế muốn ông ta phải táng gia bại sản.
 

MUALARUNG91

Tác giả
Sưu tầm
Tham gia
25/8/19
Bài viết
4,780
Điểm cảm xúc
577
Điểm
113
Chương 97: Đêm (13)
Bà Chu nghe thấy động tĩnh, bước ra khỏi xe.

Bà ta có chiều cao trung bình, thoạt trông ngoài bốn mươi, ngũ quan bình thường, nhưng vì mặt nhỏ và trang điểm phù hợp với tuổi tác nên nom khá tinh tế. Có lẽ vì phơi nắng nhiều năm ở miền nhiệt đới Việt Nam nên mặt lấm tấm tàn nhang, và cũng vì thế nên da đen hơn phụ nữ Giang Nam bình thường, giống phụ nữ Đông Nam Á hơn. Nét dịu dàng trong thần thái của bà ta là phong tình Giang Nam hòa lẫn cùng cái chất của nông thôn châu Âu. Hai cánh môi mỏng đo đỏ, răng trắng như ngà, để lộ hàm răng đều như bắp mỗi lúc cười. Độ cong của nụ cười cũng được bà ta dày công điều chỉnh, chỉ tiếc tháng năm không tha cho bất cứ, dù mỹ nhân đang cười thì nơi khóe mắt cũng đã có nếp nhăn.

Bà ta vừa nghe là đã biết có chuyện xảy ra. Nhận lấy thư trong tay Lâm Du, đọc hết rồi cười nói: “Biết kiểu gì cô ta cũng làm chuyện này, hèn gì không đổi được tiền ở ngân hàng HSBC, đúng là cô ta đã lén cho người động tay động chân. Hừ, cuối cùng lại đợi chúng ta ở đây.”

Hồi trước lúc còn ở Việt Nam, bà ta định gửi tiền trang sức quý giá của Lâm Du vào ngân hàng Nam Dương của Pháp tại Việt Nam. Nhưng người Pháp ở ngân hàng báo cho bà ta biết: bà ta không có quyền lợi đó. Bà ta không có thân phận, nên tiền tiết kiệm cùng những thứ tài sản của ông ta ở Việt Nam, bà ta đều không có quyền quyết định hay sử dụng, mỗi một tháng, bà ta chỉ được phép lấy hai đồng franc từ ngân hàng.

Đương nhiên bà ta biết đây là thủ đoạn của ai. Đến khi người kia chết, Lâm Du tìm mọi cách đưa bà ta đến Pháp. Lần đó bà ta cũng thử chuyển số tiền kia từ ngân hàng Nam Dương đến ngân hàng Thụy Sĩ, nhưng lần nào cũng có vấn đề trong quá trình làm thủ tục; mấy tháng trước, bà ta còn nhận được một tin dữ: vì nhiều nguyên nhân mà số tiền kia đã bị đóng băng, bà ta phải đích thân về Việt Nam hoặc Trung Quốc ký tên.

Bắt đầu từ lúc ấy bà ta đã để ý.

Ngày còn du học ở Nhật Bản, bà ta và bà Kiều đã có quan hệ cá nhân gắn bó. Những chuyện vụn vặt trong sản nghiệp to lớn của nhà họ Lâm đều được bà ta và bà Kiều cùng nhau thương lượng. Vì liên quan với nhau quá nhiều, nên dù hai người đã không gặp thì vẫn duy trì quan hệ “hữu tình” ấy. Một khi có động tĩnh, bà ta sẽ là người đầu tiên gọi điện báo cho bà.

Nhận được bức điện báo của bà Kiều báo rằng cô ba và thầy giáo có quan hệ mập mờ, bà ta mừng như điên. Bởi vì gút mắc khó chịu nhiều năm của bà ta rất có thể sẽ nhờ đó mà được tháo gỡ.

Thế là bà ta dứt khoát thay chồng làm chủ, gửi điện báo đến tòa soạn lớn nhất Thượng Hải, công khai đăng mẩu tin kia.

Cô ba tuyệt đối không thể xóa tên khỏi gia phả. Chỉ cần nó còn ở nhà họ Lâm một ngày, thì ả đàn bà ở Hương Cảng kia sẽ không dám vọng động tới nhà họ Lâm; nếu không bà ta nhất định sẽ không từ bỏ ý đồ.

Cô ba nhất định phải là con gái nhà họ Lâm, hơn nữa cả đời này nó chỉ có thể là con gái của nhà họ Lâm.

Gửi bức điện báo đó, giải trừ hôn ước với nhà họ Tư, để xem sau này còn có ai chịu cưới nó nữa?

Đến lúc đó dù ai có ý động vào số tiền kia, thì bà ta chỉ cần nói: “Đấy là tài sản của nhà mẹ cô ba, ngày trước được chuẩn bị cho cô ấy gả đến nhà họ Tư ở Bắc Bình, để tôi xem tên sói mắt trắng nào dám động đến của hồi môn của cô ba!”

Làm gì có gia đình nào có gia sản lẫn thế lực lớn mạnh hơn nhà họ Tư, lại chịu cưới một cô con gái thanh danh bị vấy bẩn?

Nhà họ Lâm đâu phải không nuôi nổi cô con gái như thế, dẫu gì thì, làm một cô gái độc thân còn đỡ hơn là dân tỵ nạn ở khu Hạp Bắc.

Dù là gả đại đi chăng nữa, thì đến lúc ấy cũng chưa biết được của hồi môn có được mấy đồng đâu.

Chắc hẳn nó sẽ không dám tự mình đăng báo muốn cắt đứt quan hệ với anh chị và cha!

Chu thị thấy bà Cát có vẻ đã rơi vào mong muốn của mình, bèn ôm con gái vào lòng, “Sợ gì chứ!”

Sau đó ghé vào tai Lâm Du cười nói hai câu, tiêm liều thuốc an thần cho ông ta. Mây mù trên mặt ông ta biến mất, lập tức gọi quản gia tới, gửi điện báo đến Hương Cảng.

***

Đọc hết bức điện báo, bà Cát vô cùng hứng khởi. Mật Thu đứng cạnh lột vỏ nho, cau mày khuyên, “Bà đừng cười lớn quá, cẩn thận để lại nếp nhăn đấy!”

“Em không nói ta cũng quên mất,” Tuy ngoài miệng nói thế, nhưng bà Cát vẫn cười vui vẻ, như thể có một đứa con nít biến khéo thành vụng, khiến bà cởi mở cười to nhớ đến bức điện báo có sức ‘bốn lạng bạt ngàn cân’ kia, “Của hồi môn của vợ trước, dĩ nhiên phải giữ lại để con gái xuất giá dùng. Hồi đó thì lấy lý do chuẩn bị gả cho nhà họ Tư số một Bắc Bình mà giữ lại, nay hôn ước không còn, nhưng vẫn giữ tiền đợi con bé gả vào một nhà khác… Chao ôi cái ả Chu thị này, nhiều năm không gặp, thủ đoạn đúng là khiến người ta vui vẻ.”

Mật Thu tức tối nói, “Bà ta nhất quyết giữ chân cô ba để ôm đồ cưới của tiền phu nhân, đúng là đồ vô liêm sỉ. Cô ba của chúng ta thanh tú xinh đẹp như thế, cả Hương Cảng này cũng không mấy người có thể sánh bằng. Ha, tưởng cô ba của chúng chỉ vì mẩu tin kia thì sẽ không gả được chắc?”

Bà Cát cười một hồi rồi nói, “Đồ cưới tiền bạc đồ trang sức, cũng nhiều năm rồi, dù có truy manh mối thì cũng khó mà kiếm đủ lại. Luật sư có nói với ta, những thứ này chỉ là nhỏ nhặt, coi như tha. Nhưng nay bà ta còn gửi cho ta thứ này… Trứng cút để chim sẻ nước ngoài ấp, cứ tưởng có thể bay thẳng lên trời thật chắc? Cùng lắm cũng chỉ có thể đập cánh hai cái. Ta làm thế là muốn để bà ta biết cái gì gọi là ‘tự chuốc rắc rối’.”

Bà vừa ăn nho vừa cầm bút viết điện báo, đúng lúc này điện thoại đổ chuông. Tuệ Tế nghe máy, nói là ngài Tưởng được ngài Đỗ ở Thượng Hải hẹn đi dự tiệc tối thứ sáu, cho nên buổi chiều không thể đến đánh mạt chược.

“Chuyển lời của ta đến nó: ‘Mời ông Tưởng đi dự tiệc, một đứa không tên không họ như nó chạy theo làm gì?’.”

Tuệ Tế cười hì hì chuyển lời, tới khi nghe đầu kia đáp thì càng cười run người, nói: “Cô Tạ bảo: ‘Cháu muốn đi tạo phúc cho giới quý tộc Thượng Hải. Những bữa tiệc lớn nhỏ trên cả nước không thể không có cháu, nếu không thì tìm ai để áp đảo sắc đẹp đây?’.”

Bà Cát cười phì, “Còn có cả chuyện áp đảo sắc đẹp nữa hả, đừng làm mất mặt người Hương Cảng chúng ta.”

Viết vội xong mấy chữ, bà gọi chú Henry đến, bảo ông gửi điện báo về Thượng Hải.

Bà đưa một tờ giấy cho ông: “Gửi cái này đến nhà họ Lâm.” Rồi ung dung ăn nho: “Để tôi xem ai sốt ruột hơn ai.”

Chú Henry cúi đầu nhìn, trên tờ giấy kia viết: “Điện báo cô gửi đến tôi đều lưu lại làm bằng chứng cả. Nếu gia sản thế lực của nhà chồng tương lai của con gái nhà họ Lâm lớn mạnh hơn nhà họ Tư, thì của hồi môn là cái sá gì?”

***

Lúc điện báo được đưa tới nhà họ Lâm, Chu thị đang gọi thợ may đến may đồ mới cho con gái. Đi cùng thuyền về với bọn họ còn có vài tiểu thư trung học và du học sinh Anh, Pháp, đa số bọn họ đều có gia thế bối cảnh lớn. Nên khi về Thượng Hải, có không ít người chủ động mời xã giao.

Lúc ở châu Âu, cứ cách ba bốn hôm là bà ta lại mời thợ may đến nhà may đồ cho con gái, toàn là kiểu thịnh hành ở châu Âu; về đến Thượng Hải thì phải đổi, tất nhiên không thể thiếu sườn xám ôm người.

Bà cầm điện báo ngồi đằng xa đọc. Đọc hết rồi thì cười giễu: “Người có gia thế lớn mạnh hơn nhà họ Tư? Cưới nó làm con dâu? Lại còn vừa ý nó? Nực cười.”

Cách đó không xa, cô con gái của bà ta đang mặc váy ngủ, giang rộng tay dưới ánh đèn mờ để thợ may đo kích cỡ. Dù vẫn chưa thực sự là phụ nữ, nhưng dáng vẻ bên dưới váy ngủ vẫn uyển chuyển tựa như dòng nước chảy. Cũng uyển chuyển như thế là nụ cười và thần thái của con gái bà, cùng một chút vẻ đẹp thơ mộng phương Đông. Cũng chỉ có con bé, ở châu Âu hai năm qua, dù là Paris hay du lịch cùng cha đến Anh, Bỉ, Đức… không biết đã có bao nhiêu chàng trai nổi danh đang du học theo đuổi. Nhưng ai cũng đều bị từ chối. Có người từng tan nát con tim vì con bé, có người kiên trì không từ bỏ; đếm không hết bao con tim trẻ tuổi nóng bỏng bị con bà giẫm dưới chân, thậm chí cũng có người sẵn sàng chết vì con bé.

Chỉ có Doãn Yên của bà mới xứng đáng có được tình yêu như vậy. Cô ta được đàn ông cung phụng riết quen, đến nỗi mẹ cô ta là Chu thị cũng bị những người theo đuổi con gái nâng cao tiêu chuẩn, cho rằng tài tử Trịnh Diệc Dân không có tiếng kia quá hẹp hòi, gia sản lẫn học thức đều không xứng với Doãn Yên. Hai năm qua bà ta không hề thư từ qua lại với nhà họ Trịnh, nhà bọn họ từng gửi điện báo đến uyển chuyển hỏi, rốt cuộc hôn ước có còn hay không?

Đã hai năm không nghe được tin tức gì về cậu Trịnh. Giả sử có ngày trở thành nhân tài thật, vậy nếu bỏ qua thì đúng là đáng tiếc. Cho nên cũng chỉ gửi điện báo về đáp: Chuyện trọng đại, đợi ngày về nước gặp mặt trực tiếp rồi hẵng bàn lại.

Thế là cứ lần lữa đến tận bây giờ.

Nếu không phải từ nhỏ con gái đã si mê cậu cả của nhà họ Tư bên cạnh, thì bà cũng xem thường cả nhà họ.

Tuy tiểu tử kia hai năm qua có danh tiếng, bà cũng đã từng đọc tập truyện đầu tay “Thư tình châu Âu”, nhưng có cảm giác như đang châm chọc ai đó, khiến bà cảm thấy khó chịu. Rốt cuộc cậu Tư nghe được chuyện này từ đâu? Đang bất bình vì ai? Hai nhà Tư Lâm có quan hệ tốt như thế, bà Tư cũng chỉ là vợ kế của cha cậu ta, có lẽ sẽ không làm mất mặt cha như vậy. Nghĩ đến đây, bà thở hắt một hơi nghĩ, có lẽ chỉ là trùng hợp mà thôi, sau lại cũng không quan tâm thêm.

Mỗi lần chơi đánh bài với các phu nhân nhà giàu khác, nhắc đến “cậu Tư” kia, bà luôn nói: “Haiz, cũng là Doãn Yên thích nó, tôi cũng không có cách gì với con bé.” Ai bảo bà có một cô con gái như bảo bối, ngày ngày đều cưng chiều con?

Trong ánh mắt kén chọn của một người mẹ, bà vẫn cảm thấy cậu Tư không phải là bạn đời phù hợp của con gái. Nhưng có thể sánh cùng nhà họ Tư, ngoài Doãn Yên ra thì còn ai thích hợp hơn?

Cô ba kia ư? Nực cười thật đấy.

Nhưng giọng điệu trong bức điện báo lại có vẻ như đã định liệu kỹ lưỡng. Ngộ nhỡ có nhà nào đó mắt mù chịu cưới nó thì sao?

Nghĩ đến đây, bà càng lúc càng bất an.

Đúng lúc hồi chiều bà Tư uyển chuyển bày tỏ cũng muốn mời cô ba cùng tới Thượng Hải dự tiệc. Bà và Doãn Yên lập tức đồng ý.

Doãn Yên cười nói: “Vừa hay đã hai năm không gặp em ba, cũng không biết gửi ảnh cho con, sắp không nhớ nó trông thế nào nữa rồi.”

Câu này của cô ta là vừa lên án vừa khoe khoang, Chu thị nghe mà lòng hứng khởi.

Bà lập tức cùng bà Tư hỏi thăm địa chỉ của Sở Vọng. Ngồi nhà họ Tư đến đường Ferguson, xuống xe, hai bà đứng dưới lầu kiểm tra địa chỉ hộp thư, lúc đang do dự không biết có nên nhấn chuông không thì một sĩ quan thượng úy Anh Quốc xách hai túi đồ nấu ăn quay về. Thấy thế, anh lễ phép hỏi: “Có phải hai người đến tìm cô ba Lâm không?”

“Đúng thế.”

“Giờ cô ấy không có ở đây. Nếu muốn gửi đồ hay gửi lời thì có lẽ tôi có thể giúp.”

Chu thị không kìm được lên tiếng: “Xin hỏi… Cậu với nó… có quen nhau à?”

“Tôi được cô của cô ba nhờ ở Thượng Hải chăm sóc cô ấy.”

“Ồ.”

Thật ra Chu thị muốn sĩ quan kia mời hai người lên nhà ngồi đợi hơn, như vậy bà có thể dễ dàng xem xét đời sống của nó thế nào. Nhưng không ngờ chờ một hồi lâu, sĩ quan kia vẫn chỉ im lặng nhìn hai người, không nói gì thêm.

Ngược lại là bà Tư đưa thiệp mời, “Làm phiền chuyển giúp tôi thứ này cho cô Lâm.”

“Không có gì.”

Bị từ chối đón tiếp, Chu thị theo bà Tư lên xe. Tức giận một lúc rồi tổng kết: “Đúng là người Hoa da trắng, người Anh thật sự đâu lễ phép như vậy?”

Lại còn bảo: “Nhờ người chăm sóc mà còn tìm đàn ông, dù là cảnh sát nhưng tùy tiện ra vào nhà con gái người ta thì cũng không ổn chút nào.”

Bà Tư chỉ gật đầu cười, không nói gì.

Về đến nhà, Chu thị càng lúc càng hoang mang. Vội vã gọi người gửi điện báo cho bà Kiều, trong điện báo nhắc đến bức thư của luật sư, nội dung của hai bức điện tín đã gửi và nhận được từ bà Cát, cùng với cuộc gặp gỡ hôm nay ở đường Ferguson… Từng câu từng chữ vô cùng rõ ràng, quả thực rất để tâm.

Nhưng nội dung bức điện báo của bà Kiều chỉ có một câu: “Cảnh sát Anh ở tô giới trông thế nào?”

Bà ta lấy làm nghi ngờ với việc bà Kiều không nắm được trọng điểm. Nhưng sau khi cẩn thận suy nghĩ, có lẽ bà Kiều có cách nghĩ đặc biệt, bèn dựa vào trí nhớ mà trả lời: “Da trắng, rất cao, cũng tuấn tú, khẩu âm Quảng Đông, là một thượng úy.”
 

MUALARUNG91

Tác giả
Sưu tầm
Tham gia
25/8/19
Bài viết
4,780
Điểm cảm xúc
577
Điểm
113
Chương 98: Đêm (14)
Lúc nhận được bức điện báo, bà Kiều đứng ngồi không yên. Tổng hợp năm cụm từ đó lại, thì còn ai khác trồng khoai đất này ngoài cậu con trai đốn mạt của Tạ Hồng.

Nhà họ Tạ có gia cảnh thế nào? Phải kể bắt đầu từ ông nội Tạ Huân của Tạ Trạch Ích. Tài sản giàu có của Tạ Huân không thể thiếu hai thứ: nha phiến và trốn thuế. Trốn thuế dĩ nhiên là thuế của người Anh, thậm chí trốn tới nỗi người Anh tâm phục khẩu phục, chỉ vì ba năm sau chiến tranh nha phiến, người Anh vào huyện Thượng Hải, Tạ Huân đã giúp đỡ Balfour rất nhiều. Đối với người Anh mà nói, ông ta chính là một cái cây hái ra tiền. Balfour và ông ta đều coi trọng bãi bùn ở bến Thượng Hải, hơn nữa ông ta biết rõ mảnh đất kia sẽ có món lời thế nào, vậy mà vẫn chắp tay nhường cơ hội cho Balfour. Rồi hai năm sau, ông ta mở tiệm buôn Tốn Thị ở Thượng Hải, công việc chủ yếu là kinh doanh nha phiến và làm điện ảnh Trung Hoa. Ông ta được một gia đình Do Thái ở Anh nhận nuôi, sau đó vào học tại đại học Cambridge. Sở dĩ ở lại phương Đông mà không về Anh Quốc là vì ông ta không muốn nghe những câu như “do đế quốc đã giúp gia đình ông ta kiếm được một khoản tiền lớn như thế”.

Khi nghe tin phải nộp gần một nửa thu nhập của mình cho thuế Anh, ông đã đăng ký công ty của mình dưới danh nghĩa của con trai – tức Tạ Hồng cha của Tạ Trạch Ích, cũng chuyển công ty đến Hương Cảng, còn tài sản thì đưa tới Thượng Hải. Sau khi Tạ Huân qua đời, Tạ Hồng đã tiến một bước phát tài nhờ sản nghiệp kếch xù của cha: khi hãng công nghiệp phim ảnh Đông Phương mới phát triển, nhiều nhà đầu tư có tầm nhìn xa đã đầu tư vào công ty điện ảnh Thượng Hải; kiếm được một khoản tiền lớn trong công nghiệp phim ảnh, đến lúc thấy chưa đủ thì mau chóng rút ra, chuyển sang đầu tư vào ngành công nghiệp vớ ở Mỹ, lần lượt mua nhà mua đất ở Thượng Hải, mở ngân hàng, kinh doanh hiệu buôn và vũ trường…

Ông ta khéo là khéo ở chỗ làm người, trốn được nhiều khoản thuế của đế quốc, mà đế quốc vẫn sẵn sàng phong ông là huân tước. Huân tước Tạ Hồng không cao, chân trái cà thọt, bước đi tập tễnh; người ngoài đều bảo ông ta bị tiền trong túi làm cho cà thọt. Ông ta không hay khoe của, cũng giống thái độ của ông: nói năng khá ôn tồn, nhưng thực chất lại tàn nhẫn từ tận xương. Cho nên hồi còn ở Hương Cảng, ngay tới thống đốc cũng phải nể ông ba phần; người ngoài nửa sợ nửa kính gọi đùa ông là “thống đốc Nam Thái Bình Dương”.

Xét về tài sản trong nhà, toàn bộ khu thuộc địa của Anh ở Thái Bình Dương, ngoài nhà họ Tạ của ông ta ra thì sợ là không ai dám xưng giàu có nhất.


Nếu muốn làm con dâu nhà họ Tạ, không những phải có hồi môn xứng đôi, mà sau khi thành thân còn bị các cô các bà bảy tám phòng của ông ta giễu cợt, và cũng không biết sẽ bị bên ngoài nắm thóp thế nào.

Nếu nhà họ Tạ thực sự để cô ba qua cửa, mà Chu thị trước đó đã khoe khoang muốn chuẩn bị của hồi môn cho cô, thì tới lúc đó dù có táng gia bại sản cũng không lấy lại đủ.

Có điều, cưới nó? Làm sao có chuyện này được.

Bà Kiều cười nhạt hai tiếng.

Ngày trước, tuy Mã Linh chỉ mới 16 tuổi nhưng cũng được xem là mỹ nhân số một Hương Cảng; gia sản nhà họ Kiều có rất nhiều và con gái cũng trong sạch, thế nhưng Tạ Hồng vẫn nhất quyết không chịu để con trai độc nhất của mình cưới con bé. Thế thì làm gì có chuyện cưới một đứa con gái danh tiếng bị vấy bẩn, sau lưng không có chỗ dựa đây?

Xế chiều hôm đó, bà gọi điện mời ba người bạn thân tới nhà đánh bài. Trong đó không thiếu mấy bà vợ lẽ thường xuyên qua lại với nhà họ Tạ. Ở trên bàn, bà Kiều hỏi thăm: “Nghe nói Tạ Hồng đang làm mai cho con trai bảo bối của ông ta hả?”

Một bà có quan hệ tốt với vợ sáu của Tạ Hồng, tức mẹ đẻ của Di Nhã nói: “Bà sáu có bảo, con bé Di Nhã tinh quái lắm, thấy hai cha con họ không hòa thuận, nên có vẻ đang lên kế hoạch kết hợp anh nó với một cô gái Thượng Hải; vừa hay cô gái ấy có giao tình với bà Cát, cho nên tính nhờ vả bà Cát làm mai.”

Ở Hương Cảng này, không có quá nhiều người thường xuyên lui với với bà Cát, đa số mọi người khi nhắc đến bà đều mang theo ba phần kính sợ. Dù biết rõ năm xưa giữa bà Kiều và bà có hận cũ, thì bà Kiều cũng chỉ dám chỉ trỏ sau lưng. Hai năm gần đây đến chỉ trỏ sau lưng cũng dần không dám, mấy bà vợ lẽ kia cũng không kiêng kỵ nhắc đến bà Cát trước mặt bà.

Mấy người khác nghe thế thì không khỏi thở dài: “Ôi chao, Tạ Hồng xoi mói cực, cứ như muốn cưới tiên nữ cho con trai vậy. Có thể cưới gả đàng hoàng cho Tạ Trạch Ích, ắt hẳn cô gái đó cũng phải là Bồ tát cứu thế chuyển kiếp.”

Cả buổi chiều chỉ toàn nói loanh quanh nhà họ Tạ. Bà Kiều thua trên một trăm đô la Hồng Kông, thấp thỏm bồn chồn. Ba người kia hứng khởi ra về, vui vẻ hẹn bà Kiều ngày khác tụ tập.

Tiễn ba người kia rời đi, bà Kiều chóng mặt ôm đầu, trong đầu nhẩm tính một lượt: Nếu con nhỏ đó thật sự làm con dâu nhà họ Tạ, vậy phải ép nhà họ Lâm chuẩn bị bao nhiêu hồi môn cho nó đây? Đến lúc ấy nếu không đủ, bà Cát sẽ đem bức điện báo của Chu thị ra, thù mới hận cũ tính một lượt với nhà họ Lâm, nhất định nhà họ Lâm sẽ làm liên lụy tới bà.

Không, tuyệt đối không thể có chuyện này được.

Nghĩ đến đây, bà ta sốt ruột nóng gan. Chỉ ngồi trên ghế tính sổ sách thôi đã khiến bà ta há to miệng thở dốc, mồ hôi đầm đìa. Mấy lần muốn chống người đứng dậy nhưng không nổi. Bà gọi dì Triệu tới đỡ mình đến cạnh điện thoại, run rẩy quay số, gọi điện bảo Mã Linh về nhà, kể lại chuyện Chu thị và bà sáu đã nói cùng với quan hệ lợi-thiệt trong đó.

Kiều Mã Linh nghe mà khó chịu, gượng cười: “Mẹ à, mẹ nói với con những chuyện này làm gì, để con biết con còn không bằng một cô gái danh tiếng xấu?”

Bà Kiều nói: “Con cũng biết mà, so với con thì nó có điểm gì tốt để con trai Tạ Hồng để ý? Mẹ đã nghĩ kỹ rồi. Đàn ông mà, nhớ nhất là tình đầu. Cậu ta có thể thích con bé thì sao có thể không thích con được? Chắc chắn là vẫn vẫn ghi nhớ mặt tốt của con ngày xưa. Dù gì nó cũng là em họ con, có lẽ do nó có phần tương tự con, nên mới khiến cậu ta nhớ nhung như vậy.”

Bà Kiều nói câu đó cũng chỉ là tự huyễn hoặc mình. Nhưng nếu nói không nhớ đến tình đầu thì cũng không hẳn sai. Chí ít là đã ứng nghiệm với Kiều Mã Linh. Mấy năm qua cuộc sống hôn nhân không suôn sẻ, tuy nay Hoàng Mark đã rủ sạch tình nhân bên ngoài, nhưng trong lòng chị vẫn đã có tâm ma. Không còn sự mới mẻ ban đầu, dần dà trở nên đồng sàng dị mộng. Cộng thêm việc chị từng sảy thai một lần. Bác sĩ bảo là do tức giận, dặn chị phải giữ mình thoải mái. Nhưng cũng vì những lời này của bác sĩ, dù sau này Hoàng Mark có tốt với chị thế nào, nhưng mỗi lần nhớ đến cục máu kia, trong lòng chị lại như có gai nhọn đâm vào, không hề có hứng thú tình cảm nổi với Hoàng Mark.

Mỗi lần như thế, chị thường xuyên nhớ lại chuyện ngày xưa. Nếu ngày trước chị hạ quyết tâm, chịu nghèo khó hay lênh đênh nay đây mai đó cũng được, chí ít có người yêu mình ở bên thì vẫn tốt hơn cái cảm giác lạnh lẽo của bây giờ, không hề thấy được chút trông cậy nào.

Mình của ngày đó tốt đẹp đến thế mà anh không chịu cưới, thì sao có thể cưới cô em gái kia được?

“Mẹ bình tĩnh đi. Không biết nghe ở đâu đồn bậy đồn bạ rồi hoảng hốt vậy nữa, huống hồ, dù anh ấy có thích thật thì Tạ huân tước cũng không đồng ý đâu.”

Bà Kiều cuống lên, “Cái con bé này. Tuy giờ ông ta và con trai đang cãi nhau, nhưng có cha con nào thật sự thành thù không hả? Lại còn để bà Cát cùng con gái bảo bối của ông ta hòa giải, e là chuyện này đã thành năm phần rồi. Năm phần, dù là ba phần cũng không được! Muốn để mẹ biết những món đồ quý giá mẹ gửi vào ngân hàng có ba phần nguy hiểm rơi vào tay ả đàn bà nhà bên sao… Có chết mẹ cũng phải ngăn cho bằng được!”

Kiều Mã Linh lạnh lùng nói: “Mẹ, giờ con đã là Hoàng phu nhân rồi. Hôn sự này, không phải chính mẹ ngày trước đã xin dì che giấu mọi người cho con ư. Nay sao có thể làm vậy chứ? Chỉ vì nếu để người ta biết được mấy thứ trong ngân hàng mà mẹ định khiến con bị đánh về nguyên hình, cả đời này không thể siêu sinh sao?”

Bà Kiều tức giận, mắng Kiều Mã Linh, “Con có biết đó là toàn bộ cơ nghiệp của nhà họ Lâm chúng ta không!”

Kiều Mã Linh cương mặt nói: “Thế thì sao?”

Cứng không được, bà Kiều lập tức vùi mặt vào hai tay, đau lòng khóc lớn: “Cha con chỉ biết có mỗi con ả điếm Bồ Đào Nha đó, nếu sau này cô ta ỷ có con trai, không biết còn tính leo lên đầu mẹ thế nào đây nữa. Mẹ không có bao nhiêu tiền, về sau bà lão rụng răng này biết dựa vào gì để sống đây… Ai cũng bảo con gái đã gả như bát nước đổ đi, đúng là nuôi con gái không được ích gì, hu hu…”

Viền mắt Kiều Mã Linh đỏ bừng, “Mẹ!”

“Chỉ một lần này thôi,” Bà Kiều thấy chị dao động, đột nhiên nắm lấy tay chị, “Ở Thượng Hải có dạ vũ, mẹ sẽ tìm người nghe ngóng. Thằng con nhà họ Tạ cũng sẽ đi. Đã gửi thiệp rồi, đến lúc đó con cũng đi, mẹ sẽ cho người giúp đỡ để con và cậu ta có thể nói chuyện với nhau. Ở bữa tiệc có nhiều người như vậy, cũng không ai để ý ai nói chuyện với ai đâu. Tới lúc ấy, con nhớ ăn vận thật đẹp vào, thăm dò xem cậu ta có cưới con bé kia thật không, hay vẫn nhớ tình đầu là con.”

Kiều Mã Linh im lặng, khó chịu xoay người sang chỗ khác.

“Trên đời này không có người đàn ông nào là không nhớ tình đầu cả. Trải qua chuyện cảnh còn người mất, nếu để cậu ta thấy con vẫn như trước…” Hai mắt bà Kiều nhòa dần, chợt nhớ lại dáng vẻ bi thương của ông Kiều khi lần đầu tiên thấy vợ mới của ông Cát nhà bên, mà lúc đó bà còn đang mang thai tám tháng. Vẻ mặt tái nhợt ấy, sự dịu dàng trong đáy mắt ấy… Nghĩ đến đây bà lại muốn khóc, đó là nỗi đau cả đời của bà, suốt kiếp cũng không quên được. Bà nói tiếp: “Dù người khác có tốt tới mấy, cuối cùng cậu ta cũng không quên được con đâu.”

Kiều Mã Linh dao động. Chị nhìn thẳng vào mắt mẹ, cuối cùng cũng nặng nề gật đầu.

Hai mẹ con lại nói chuyện với nhau một hồi, chưa bao giờ hai người đồng lòng như thế.

Đưa Mã Linh về nhà, cuối cùng bà Kiều cũng giữ được nửa cái mạng, hai mắt sáng rực đi đến cạnh điện thoại, gọi điện tới ngân hàng HSBC, câu đầu tiên hỏi là: “Bộ trà cụ gốm sứ Bạch Định của tôi vẫn còn chứ?”

Đầu kia đáp: “Là bộ gửi năm 1914 hả? Vẫn còn ở đây.”

Biết bảo bối của mình vẫn nằm yên ở ngân hàng, bà Kiều như được tiêm liều thuốc an lòng, xuôi giọng đáp, “Được rồi, không sao.”

***

Gửi lời cảnh cáo đi, bà Cát ung dung ở nhà chờ kịch hay, bà ngồi trên ghế sofa nghe xem ai sốt ruột hoảng hốt trước. Nghe hết chuyện Điệp Nhi kể khi đón Leon tan học, bà Cát cầm trong tay một cuốn sổ nhỏ, bút máy chống trán, thong thả nói: “Ồ ~ Thì ra còn có bộ trà cụ gốm sứ Bạch Định cơ à.”
 
Trạng thái
Không mở trả lời sau này.
Top