Lượt xem của khách bị giới hạn

[Ngôn tình] [Truyện Hoàn] Giờ đang nơi đâu - Duy Đao Bách Tích

Trạng thái
Không mở trả lời sau này.
[Ngôn tình] [Truyện Hoàn] Giờ đang nơi đâu - Duy Đao Bách Tích

MUALARUNG91

Tác giả
Sưu tầm
Tham gia
25/8/19
Bài viết
4,755
Điểm cảm xúc
495
Điểm
83
Chương 99: Đêm (15)
Sau khi nhận được thiệp mời của bà Tư, cô không chút do dự lập tức quyết định sẽ đi. Nhưng đảo mắt cái lại quên khuấy mất chuyện này, suốt ngày vùi mình ở viện nghiên cứu tính toán. Lúc gần tới giờ, Tạ Trạch Ích gần như ‘xách’ cô lên xe. Đã đến mức đó rồi mà trên đường đi đến khách sạn Thượng Hải, cô nửa ngồi nửa tựa trên ghế phụ, đặt giấy trắng lên chân tiến hành tính toán.

Hai vị phu nhân có ý đồ tính toán thấy rõ, Tạ Trạch Ích vô cùng lo lắng cho cô. Nhưng tới khi xe sắp đến khách sạn Thượng Hải, cô lập tức ném giấy bút đi, ngồi thẳng người dậy, cầm son đỏ thoa lên cánh môi rực rỡ, mím môi lại, dùng năm ngón tay vuốt mái tóc màu hạt dẻ ra sau, búi thành vòng tròn ở sau đầu, để lộ cần cổ trắng nõn.

Xe dừng lại, cô mặc thêm chiếc áo khoác đen lên người. Khi đẩy cửa bước xuống, dáng vẻ lười biếng lôi thôi ngày thường đã biến mất, từ đầu tới chân là phong thái lẫn dáng điệu giống bà Cát bảy tám phần.

Vừa thấy cô bước xuống xe, ba người đang ngồi trên ghế trong đại sảnh khách sạn đồng loạt nhìn cô chăm chú, vô thức đứng dậy.

Có người biết bản thân có gương mặt xinh đẹp nhưng không quan tâm, có người có rất nhiều tuyệt kỹ nhưng chẳng hề khoe khoang. Bình thường không cần, không có nghĩa là không biết dùng.

Ngày trước khi còn cùng bà Cát chơi mạt chược ở biệt thự, bà Cát từng nhắc đến cô cháu gái nhà mình thế này: “Cháu nhà tôi nó không quan tâm ba chuyện vụn vặt, tính nó ấy hả, phải làm chuyện lớn cơ, nên tôi cũng tùy nó. Mấy chuyện vớ vẩn mà bảo nó cũng phải để ý thì đúng là phí cả tài.”

Tuy có hơi không biết trọng nhân tài, nhưng dao mổ trâu chưa chắc đã giết được gà.

Tạ Trạch Ích ngồi trên ghế lái, mỉm cười nhìn theo bóng lưng cô, trong chớp mắt, bao lo lắng đều tiêu tan.

***

Doãn Yên cực kỳ chú trọng vào váy vóc lẫn lớp trang điểm ngày hôm nay. Vì cô ta nghĩ bên cạnh là buổi gặp gỡ của các nhà văn, thêm mấy năm trước Trương Hận Thủy từng viết trong tiểu thuyết là thích con gái Trung Quốc mặc áo khoác màu lam giản dị. Vì để phù hợp với chiếc áo khoác màu lam giản dị này, cô ta đã mặc bên trong bộ sườn xám hoa văn thêu năm đường chỉ tơ màu xanh lá. Hai năm qua thỉnh thoảng lại rộ lên trào lưu mặc sườn xám, không còn chuộng kiểu váy dài tay, nên bộ sườn xám cô ta đang mặc dài quá đầu gối, dài hơn áo khoác lam bên ngoài một chút, để lộ màu xanh lá nạo tâm nạo phổi bên dưới màu lam. Đôi tay trần lộ ra từ tay áo rộng lớn của áo khoác, chỉ khẽ cử động là sẽ thấy được cánh tay trắng muốt.

Người khác hay nói Tư công tử thuộc “phái Uyên Ương Hồ Điệp”, vậy chắc chắn anh có đọc truyện của Trương Hận Thủy.

Cô ta rất hài lòng với kiểu ăn mặc như thế này. Có điều mặt trời vừa khuất bóng thì gió nổi, gió lạnh tới mức cô ta khiến run lẩy bẩy khi đứng bên ngoài khách sạn.

Doãn Yên ngồi trên ghế sofa trong đại sảnh, ai oán: “Sao em ba mãi chưa tới vậy? Đừng có nói là không đến đấy chứ.”

Chu thị cụp mắt, cười một tiếng.

Bà Tư nói: “Đợi một lát nữa đi. Bên trên cũng chỉ mới bắt đầu thôi, không cần phải vội.”

Cô ta nghĩ: không biết giờ Sở Vọng như thế nào nhỉ?

Trong mấy năm ở châu Âu, những cô gái thuộc tầng lớp thượng lưu Trung Quốc đều thích vây quanh cô ta, tụ tập cùng cô ta, trong đó có không ít người đến từ Thượng Hải. Lúc hỏi đến, bọn họ đều nói không nghe thấy tên của em gái cô ta trong giới thượng lưu Thượng Hải.

Cũng đã mười lăm tuổi rồi, chắc chắn dì Cát sẽ cho nó ra ngoài xã giao, nếu không thì làm gì kiếm được một nhà tốt cho nó chứ?

Nghĩ tới đây, Doãn Yên dễ dàng đúc kết một kết luận: dù có sao đi nữa thì chắc chắn không đẹp bằng cô ta rồi. Lấy lại được sự tự tin, cô ta cảm thấy không có gì phải lo.

Doãn Yên vừa nghĩ ngợi vừa ngoảnh đầu nhìn ra ngoài cửa sổ, đúng lúc trông thấy một chiếc xe Dodge màu đen dừng ngoài khách sạn. Nhân viên đi ra hướng dẫn đỗ xe, từ chỗ ngồi ghế phụ có một quý cô cao thon, mặc đồ đen từ đầu tới chân bước xuống. Người ấy mặc áo khoác màu đen của Chanel mà cô ta đã nhắm từ lâu. Mỗi lần tới cửa hàng hỏi thì đều được báo là: “Bộ đồ này đã có người đặt trước, được đặt may theo kích thước của cô ấy.” Sau một hồi nghe ngóng, cô ta muốn hỏi liệu có thể may một bộ như vậy dựa theo số đo của mình không, nhưng đều bị từ chối.

Đó là bộ đồ mà Doãn Yên cô ta đã ao ước từ lâu, luôn muốn xem rốt cuộc cô gái có được chiếc áo khoác ấy là ai, không ngờ có thể trùng hợp gặp nhau ở Thượng Hải. Cô ta không kìm được ghé mắt nhìn: thì ra ở Thượng Hải này cũng có người ăn mặc sành điệu như dân Paris.

Nhìn lại lần thứ hai, cô ta thấy rõ màu son của cô gái mặc áo đen nọ: đó là sắc màu hồng tím khá đậm, tạo nên cảm giác trung hòa giữa bộ đồ màu đen và làn da trắng muốt.

Đúng là một vẻ đẹp riêng một góc trời. Thân hình cao thon ấy dần tiến về phía bọn họ, vóc dáng yểu điệu, bước chân nhẹ nhàng. Doãn Yên nghĩ bụng: Đẹp quá, từ trên xuống dưới không có lấy một tỳ vết. Lát nữa phải đến hỏi xem ở thượng Hải thì đặt mua áo khoác mùa mới nhất ở Paris như thế nào mới được; với cả son môi đang dùng là của hãng nào.

Cho tới khi thấy rõ mặt người kia, Doãn Yên thất thố đứng bật dậy!

Chu thị thấy Sở Vọng, trong lòng cũng giật mình. Nhưng sau đó lại nghĩ, dù dậy thì có đẹp tới đâu, tính khí có sắc sảo thế nào đi nữa, người phụ nữ kia bà còn không sợ thì há gì phải sợ con nhỏ này? Nghĩ đến đây, bà ta lấy lại bình tĩnh.

Giơ tay kéo Doãn Yên ngồi xuống để cô ta tỉnh táo lại, lúc này, bà lại thấy người đàn ông mặc toàn đồ đen bước ra từ ghế lái xe Dodge: chính là người họ Tạ. Trước khi ra ngoài, bà mới nghe bà Kiều tiết lộ cho biết nhà cậu ta lợi hại thế nào. Thấy hai người một trước một sau đi vào, Chu thị siết chặt ngón tay, bóp Doãn Yên đau tới mức phải hít khí lạnh.

Còn bà Tư khi thấy Sở Vọng thì hai mắt sáng lên, quan sát cô một lượt từ đầu tới chân, mỉm cười đi tới: “Cháu ba.”

Sở Vọng giật mình, nhưng ngoài miệng vẫn đáp: “Không ngờ dì Tư vẫn còn nhớ cháu.” Ngoái đầu nhìn hai người vẫn mang vẻ mặt khó tin, cô duy trì nụ cười bình thản: “Chị hai, và, bà Chu?”

Chu thị ngẩng đầu lên, “Bà Lâm.”

Sở Vọng nghe thế, âm thầm xỉ vả: Ôi chao, cũng ghê gớm nhỉ. Nhưng ngoài miệng thì chỉ đáp: “Ờ.”

Tạ Trạch Ích vừa đến gần, nghe thấy câu “ờ” ấy thì suýt nữa đã cười thành tiếng, vội cúi đầu che giấu. Ý cười còn chưa tan, ngẩng đầu lên thì thấy Chu thị đang nhìn chằm chằm vào mặt mình. Nói là quan sát, không bằng nói là theo dõi.

Anh thôi cười, hai ba bước tiến tới, đưa khăn quàng cổ bị rơi cho cô.

Lần này, ngoài Chu thị ra, ba người khác ở đại sảnh cũng đều đang nhìn anh. Anh không muốn tự giới thiệu mình, nhưng vì bà Tư đã hỏi nên anh chỉ nói ngắn gọn: “Tạ Trạch Ích.” Thấy bà Tư cứ đưa mắt nhìn mình với Sở Vọng, anh bèn bổ sung thêm một câu: “Dì Cát nhờ tôi làm tài xế cho cô ba.”

Bà Tư khách sáo nói: “Cậu Tạ có đi chung không?”

Tạ Trạch Ích nói, “Không, cám ơn bà Tư. Tôi sẽ chờ ở đây.”

Nhân viên dẫn bốn người lên lầu, Tạ Trạch Ích tìm đại một chiếc ghế trống rồi ngồi xuống, uống trà đọc báo. Dù đã được một lúc lâu nhưng anh vẫn có thể cảm nhận được ánh mắt quan sát đầy tò mò của hai mẹ con nhà kia.

***

Tầng một khách sạn Thượng Hải là một vũ trường lớn, tầng hai là nửa sân thượng, là nơi tụ tập ăn uống theo phong cách Tây; lan can đã được sửa, dù là mời ca sĩ đến hát ở tầng một hoặc buổi tối lúc mọi người khiêu vũ, thì người ở tầng hai cũng có thể đứng xem từ xa. Tuy tầng ba nói là tầng, song thật chất lại giống như một phòng ngăn được xây trong rạp hát cao tường, vừa vặn có thể chứa một bàn mấy người ăn cơm, cũng có thể kéo rèm ra vào, ở gần cửa sổ xem náo nhiệt.

Sàn khiêu vũ cũng đã được dọn dẹp, liên tục có tân khách đi vào. Ở tầng hai thì yên tĩnh hơn, hơn hai mươi người quây quần bên bàn ăn dài.

Bốn người tìm một chỗ ở tầng ba ngồi xuống, nhân viên đi tới châm trà.

Trong thời gian từ dưới lầu đi lên, Doãn Yên đã quan sát Sở Vọng rất nhiều lần, nhưng có thế nào cũng không khơi ra được bất cứ khuyết điểm gì. Bây giờ cô ta vừa âm thầm chê bai chiếc áo khoác đen ấy “có lẽ là hàng nhái”, lại muốn lấy chuyện cô và chàng sĩ quan kia để châm chọc. Nhưng vừa mở miệng thốt lên hai chữ “Anh Tạ…” thì Chu thị đã véo mạnh cô ta ở dưới gầm bàn. Doãn Yên quay sang nhìn Chu thị, Chu thị lườm mắt, ra hiệu im lặng.

Nhưng bà Tư đã nghe thấy, còn tiếp lời: “Có phải là con trai trưởng của Tạ huân tước của hiệu buôn Tốn thị không?”

Sở Vọng đáp, “Cháu không biết nhiều về tài sản của Tạ huân tước cho lắm. Anh ấy thân với cô út của cháu, được cô ấy nhờ vả nên anh Tạ mới chăm sóc cháu ở Thượng Hải.”

Vừa rồi đã quan sát một lượt, nên dĩ nhiên bà Tư nhận ra Sở Vọng không có ý gì khác với Tạ Trạch Ích, có thể gọi là nước chảy vô tình. Bà gật đầu tỏ vẻ đã hiểu, lúc này mới nói lại với mẹ con Chu thị: “Hồi trước ở Nhật Bản tôi có nghe nói, ở Hương Cảng có một người là Tạ huân tước giàu tới nỗi địch được cả nước, cũng không biết là thật hay giả.”

Doãn Yên nghiêng người tới trước, lấy làm tò mò. Chu thị cụp mắt uống trà, mặt không biểu cảm.

Bà Tư cười đùa: “Người ngoài bảo, ‘Có thì có, chẳng qua là không biết địch nước nào’.”

Chu thị cười khan hai tiếng: “Chẳng qua là thứ gian thương chỉ biết kiếm lời.”

Bà Tư thở dài: “Nhưng kiếm lời đến nỗi một đại đế quốc khâm phục, còn phong tước cho ông ấy thì cũng nể. Đây không phải là chuyện người bình thường có thể làm được.”

Chu thị tái mặt, nhưng vẫn cố giữ nụ cười. Rồi bà ta dùng tiếng Nhật tán gẫu những chuyện chỉ có người từng sống ở Nhật mới hiểu được, nhờ đó mới có thể khiến bầu không khí hài hòa trở lại.

Nghe thấy dưới lầu có động tĩnh, Sở Vọng vén rèm nhìn xuống. Tiếng động ngày càng ồn ào, Doãn Yên nhìn ngó một hồi, cũng ngồi không yên, đến gần chỗ cô nhìn xuống. Bên dưới lúc nhúc toàn là đầu người, Doãn Yên vừa nhìn đã trông thấy một bóng người tuấn tú cao ráo, không khỏi thốt lên: “Anh… anh Ngôn Tang?”

Nhưng điều khiến Sở Vọng rung động hơn là những nhân vật xuất hiện phần lớn trong sách Ngữ Văn trong thời kỳ trung học của cô, cũng là cơn ác mộng chi phối những năm trung học ấy – nhóm “bắt buộc phải đọc to và học thuộc lòng”*.

(*Ý chỉ những tác giả nổi tiếng có các tác phẩm trong sách Ngữ Văn mà học sinh phải học thuộc.)

Doãn Yên chau mày: “Hồi ở Anh, chị có biết vài người trong số họ. Không phải ngày trước bọn họ nói không thích anh Ngôn Tang à, vì sao lần này lại mời một mình anh ấy đến, rốt cuộc là có ý gì?”

Bà Tư thở dài, “Biết con đường này không suôn sẻ, thế mà thằng bé vẫn cứ muốn đâm đầu vào… Cũng vì chuyện này nên ông nhà tôi nổi giận không ít lần. Biết chị em hai cháu là thanh mai trúc mã với nó, nên lần này gọi hai cháu đến để xem nó bị mọi người bêu xấu thế nào, có gì khuyên nó đôi câu, để nó biết ‘con đường này không suôn sẻ’, sau này không dính vào nữa.”

Chu thị lại không hiểu bà Tư có ý gì.

Hai cô gái trẻ đứng bên cửa sổ, bà Tư và bà cũng nhìn một hồi. Không so không biết, nhưng một khi đã so thì đến chính Chu thị cảm thấy, gu thẩm mỹ của con gái mình còn không bằng đứa kia.

“Mặc sai đồ rồi.”

Chu thi quy mọi thiếu sót về lỗi ăn mặc: “Đáng nhẽ hôm nay đừng có tỏ vẻ tinh tướng ăn mặc theo phong cách học sinh như thế, so sánh với chiếc áo khoác đen kia, thật sự chỉ như một đứa con nít trung học không có ì nổi bật.”

Có điều bà ta đã quên một chuyện: con gái bà ta vẫn là học sinh trung học.

Nhưng Chu thị biết con gái bà ta rất có tài văn chương. Người có bản lĩnh ấy mà, một khi có cơ hội thì chắc chắn sẽ sử dụng, bà chỉ sợ đến lúc đó Doãn Yên lại mất kiên nhẫn, đi lên nói đỡ cho cậu ta, hai đứa bị đám văn nhân chế giễu không nói, chỉ sợ xấu hổ mất mặt. Vì thế nên trước khi đến đây, bà không ngừng dặn dò Doãn Yên:”Dù tới lúc ấy người ngoài có châm chọc cậu Tư thế nào, dù con có thể biện bạch cho cậu ta thế nào đi nữa, thì chỉ cần ngồi bên cạnh bà Tư nói giúp cậu ta mấy câu là được; chớ đến trước mặt đám nhà văn thi sĩ kia nói nhiều làm gì.”

Mấy người dưới lầu lại chen đến tìm kiếm, Sở Vọng đứng bên cửa sổ lắng nghe một hồi, cũng nhận ra ai là tác giả văn học nào trong sách Ngữ văn.

Mà trên thực tế, bữa tiệc lần này vô cùng nổi tiếng, nổi tiếng đến mức có thể đi vào bài thi cấp ba ở thế kỷ 21. Đây là một lần hiếm hoi mà hai phái Ngữ Ti, Tân Nguyệt nhiều năm viết văn khẩu chiến tạm ngừng đình chiến. Thoạt nhìn là tập thể hoan nghênh tài tử về nước, nhưng thực chất là hợp lực nhắm vào người đại diện giới văn hóa từng sinh sống ở nước ngoài, có suy nghĩ chủ nghĩa tự do của phương Tây.

Bởi một lẽ, trong nhóm bọn họ có rất nhiều quan hệ cá nhân, biết rất rõ “chuyện ngoại tình” “tình tay ba” “lăng nhăng” “vứt bỏ vợ cũ” của bạn bè của nhau, cũng bởi vì bản thân không tránh được liên quan, cho nên trong lúc bao che bạn bè thì cũng giơ cao dù bảo vệ mình. Mà Thư Tình Châu Âu ra đời lại cực kỳ nổi tiếng, đã đâm thẳng vào thần kinh nhạy cảm của đám nhà văn thi sĩ nhìn bề ngoài thanh cao trong sạch, nhưng trong thâm tâm lại lăng nhăng nguội lạnh.

Bọn họ muốn tác giả của truyện Thư Tình Châu Âu phải giải thích, muốn bắt anh cúi đầu xin lỗi. Thậm chí còn tới nỗi phải đem thân ra thí nghiệm, bày tỏ ý muốn giao du với bọn họ, đến lúc ấy mới chịu mở miệng vàng tiếp nạp anh vào “văn đàn Trung Quốc”.

Sở vọng tiếp tục nhìn. Lấy ngài Chu và ngài Từ* làm đầu têu, bọn họ liên tục mắng Thư Tình Châu Âu thiếu lối “hài hước Trung Hoa”, nói anh bông đùa kiểu Tây quá “nghiệt ngã”, vì vậy mà không đủ sự “nhã trí” theo phong cách Trung Hoa. Ngôn Tang chỉ cười nhạt phản bác: “Trong văn của tôi không hề có chữ nào liên quan đến ‘hài hước’ cả. Tôi không thích hài hước, tôi chỉ thích nghiệt ngã.”

(*Có thể là Chu Tác Nhân – người sáng lập phái Ngữ Ti và Từ Chí Ma – người sáng lập phái Tân Nguyệt.)

Anh vừa dứt lời, rất nhiều người ngồi đó rối rít vỗ tay, ví dụ như ngài Thẩm bạn của ngài Từ, mới đầu còn trích dẫn cả kinh điển chỉ trích anh đang trong lúc nội loạn ngoại nhục thì chỉ biết say sưa “văn học tầm thường”, “văn học giải trí”. Ngôn Tang vẫn bình tĩnh cười đáp: “Vậy chắc chắn ngài Thẩm đây chưa đọc tác phẩm tôi viết hồi năm mười lăm tuổi rồi.”

Anh vừa dứt lời, một ngài Trương khác đột nhiên ném ly trà đi, bắt đầu công kích Ngôn Tang, nói anh “hèn mọn, thiển cận, vô vị” lại “không có khí khái dân tộc, là đồ dị đoan bị chủ nghĩa tư bản đồng hóa”, “không xứng đứng trên đất Trung”. Không đợi Ngôn Tang trả lời, ngài Úc đã dứt khoát mở miệng mắng to, dùng những từ ngữ thô bỉ hệt như dân miền núi, không hề có hình tượng của một “văn nhân nhã sĩ”. Úc tiên sinh thành công thu hút ánh mắt của mọi người trong khách sạn, cũng khiến cánh phụ nữ phải xấu hổ.

Một trong những người chiến thắng cuộc luận chiến này năm đó là ngài Chu, trong tuyển tập văn học của ông ta có ghi chép về cuộc tranh luận lần này như sau: “Đến dự tiệc tối ở khách sạn Thượng Hải, trong số đó có Từ, Chu, Thẩm, Trương,… Trong bữa tiệc, mọi người châm biếm trách mắng Tư, đôi bên tranh chấp, thấy rõ kẻ bỉ.” Một chữ “bỉ” này được cho là mắng Tư Ngôn Tang là “người bỉ ổi”. Một bài viết trắng đen điên đảo không ra gì này lại thành công đi vào sách sử, trở thành một trong những giai đoạn nổi tiếng xấu xí hóa Tư Ngôn Tang.

Doãn Yên tức tới mức mặt thoắt đen thoắt trắng, tay siết chặt nắm đấm, mấy lần nghe thấy những từ ngữ thô tục và bác bỏ không phân biệt phải trái kia, cô ta lại đấm xuống lan can.

Chu thị thấy con gái có vẻ không nhịn nổi, lớn tiếng gọi: “Doãn Yên!” Thấy mình thất thố, bà ta cười nói: “Nếu khát thì lại đây uống trà đi đã.”

Cả bà Tư lẫn Sở Vọng đều vô cùng bình tĩnh. Bà Tư thì không cần phải nói, còn Sở Vọng thì đã sớm “học thuộc lòng” rồi, thậm chí còn phải làm rất nhiều bài đọc hiểu liên quan đến cuộc tranh luận lần này, nên dĩ nhiên càng không cần nói. Nghiêng đầu lắng nghe ngài Chu nói một hồi, lúc này cô mới đứng lên, mỉm cười nói với bà Tư: “Để cháu đi nói đỡ cho anh ấy.”

Bà Tư cũng chẳng ngăn cản. Cả Chu thị lẫn Doãn Yên đều bị dọa không nhẹ, nhưng ngay sau đó lại mỉm cười, lấy thái độ chờ xem cô bị cười nhạo, càng chăm chú theo dõi cuộc tranh luận bên dưới.

Sở Vọng vén rèm đỏ lên, từ lan can tầng ba đi thẳng xuống chỗ đám đông.

Lúc này ngài Chu đang nói: “Loại tác giả văn học đại chúng như các cậu, vô tổ chức vô cương lĩnh; chỉ biết vui chơi giải trí, chỉ biết chạy theo thị hiếu người dân; không biết quốc gia đang lâm nguy, dân chúng đang lầm than… Nếu cậu nói là muốn kiếm tiền, thì tiểu thuyết của tôi còn bán chạy hơn của cậu… Kìa cô gái, cô là?”

Ngôn Tang đang cau mày nghe ông ta nói xằng bậy, nhưng vừa thấy Sở Vọng thì chân mày giãn ra, hai mắt sáng lên, hét: “Sở Vọng, sao em lại đến đây!”

Cô mỉm cười với anh. Trong tiếng châm biếm của cánh đàn ông, cô nghiêng đầu nói với ngài Chu: “Ông Chu, vì để mừng ngày sinh nhật của mẹ ông, ông đã mua hai bộ gồm hai mươi bốn cuốn tiểu thuyết từ nhà in Thế Giới rồi gửi chúng về quê cho mẹ. Xin hỏi tác giả bộ tiểu thuyết ấy là ai?”

Ngài Chu giật mình, không ngờ đơn đặt hàng tư nhân của mình lại bị người ta biết được, “Làm, làm sao cô biết!”

“Bộ sách mà ông Chu đã mua, chính là Thư Tình Châu ÂuMê Hồn Du ký do anh Tư sáng tác.” Cô chẳng hề nể mặt, cười nói: “Mẹ không đọc danh tác nhiều-vô-số-kể của con trai, thế mà lại thích tác phẩm của anh Tư Ngôn Tang – người không lọt nổi vào mắt của con trai mình.”

Ngài Chu hừ lạnh: “Phụ nữ phong kiến có khuynh hướng thích mấy thứ tiêu khiển vô giá trị lại dễ hiểu, dù là mẹ tôi thì cũng khó tránh khỏi theo số đông.”

Cô lại nói: “Vậy ông có từng nghĩ đến, mẹ ruột ông bảo ông mua sách cho bà ấy, thực chất là muốn dùng sức lực ít ỏi của mình để con trai biết ở quê còn có một người vợ chưa cưới ‘chết cũng phải là ma nhà họ Chu’ bị ông làm trễ nãi cuộc đời không!”

Ngài Chu tái mặt, còn chưa kịp mở miệng thì ngài Từ đã bị kích thích, “Hàm hồ!” Ngài Trương còn tức giận hơn: “Hôn nhân kiểu cũ chỉ là hủ tục, phải sớm ngày bài trừ mới đúng!”

Sở Vọng nhìn hai người trước mặt, cười nói: “Qua miệng ngài Từ, mấy câu như ‘nơi Thanh Đảo nghe thấy tiếng thơm’, ‘phong nhã tài hoa’ của ngài Trương đây lại biến thành ‘cuộc hội ngộ động lòng’. Tới khi đọc Thư Tình Châu Âu thì có phản ứng quá khích như vậy, hèn gì hèn gì.”

Thấy cô khích bác ngài Từ, ngài Thẩm không vui: “Cô là ai? Còn nhỏ mà muốn làm mẹ đỡ đầu thứ hai hả?”

“Mẹ đỡ đầu dám mắng ngài Từ đây ngoại tình, tư tưởng vợ người khác, còn anh!” Sở Vọng cười nói: “Ha! Được lắm. Đúng là màn kịch bao che xuất sắc. Chẳng trách hôm nay các anh lại mời anh Tư tới đây, thì ra vốn là cùng một giuộc.”

Ngài Chu nói: “Đây là tiệc của Ngữ Ti và Tân Nguyệt chúng tôi, từng câu từng chữ đều sẽ được ghi lại. Một đứa con gái vô danh tiểu tốt như cô đừng có phá đám.”

Sở Vọng càng cười tươi hơn: “Ngài Chu đã nghĩ xong sẽ viết như thế nào chưa? ‘Trong bữa tiệc, mọi người châm biếm trách mắng Tư, đôi bên tranh chấp, thấy rõ kẻ bỉ’. Có phải thế không?”

Ngài Úc dùng tiếng Anh gọi nhân viên đến: “Có thể mời người này ra ngoài được không hả?!”

Nhân viên vừa đi đến thì Tư Ngôn Tang cười nói: “Đây là vợ chưa cưới của tôi, xin đừng đuổi cô ấy đi.”

Đương lúc nhân viên khó xử không biết làm sao thì Ngôn Tang đã đứng dậy, nhường chỗ của mình cho cô.

Sở Vọng thở phào, nói tiếp: “Các ngài mời anh Tư đến tham dự tiệc là có ý gì? Giải mối hận trong lòng? Hay hoan nghênh anh ấy về nước?”

Thẩm tiên sinh nói: “Đương nhiên là để cậu ta biết giới văn nhân trong nước hiện nay như thế nào.”

Sở Vọng nói: “Giải Nobel Cambridge còn đánh giá anh là ‘người rất cầu thị, không xấu hổ vì chân tướng; là người tuyệt vời lại nghiêm túc, đưa ra lời đánh giá rất chính xác trong giới du học Trung Quốc hiện nay, là tác phẩm về Trung Quốc mà đến tận bây giờ tôi thấy chân thật nhất, đầy đủ nhất, quan trọng nhất’. Trong số các anh đã có ai từng được nhận giải thưởng Nobel chưa, có tư cách gì để chỉ trích anh ấy không?”

Ngài Từ nói: “Cậu ta học địa chất, giữa chừng mới đổi ngành, không xuất thân từ khoa Trung Văn.”

Sở Vọng hỏi ngược lại: “Ngài Từ, không phải ông cũng xuất thân từ ngành Luật sao. Nói tôi nghe xem, anh và ông ấy ai viết văn hay hơn?”

Sở Vọng cố gắng: “Nếu các ngài muốn nói ‘anh ấy không có cống hiến gì cho nền văn học Trung Quốc đương đại’, vậy xin hỏi, Ngữ Ti và Tân Nguyệt tranh luận nhiều năm như thế, rốt cuộc là vì điều gì mà lần này mọi người lại có mặt đông đủ ở đây, cùng ‘hòa thuận’ uống trà ăn cơm?”

Ngài Trương đang định nói những lời đó thì đã bị cô chặn họng, trong một thoáng, trên bàn cơm lặng như tờ.

“Truyện Thư Tình Châu Âu không phải là văn học nghệ thuật sao? Vậy văn học nghệ thuật là gì?”

Ngài Úc cười giễu: “Không ngờ anh Tư lại rảnh rỗi quan tâm cả tình sử văn nhân như chúng tôi, thực đúng là ‘vui cảnh lầu son mê múa hát, ngựa thì chết mập, đứt cung tên’, là ‘đem bả danh lợi hảo, đổi cuộc say cạn chén’, hay là ‘con hát biết chi hờn mất nước’…”*

(*Theo thứ tự: trích trong bài Quan san nguyệt của Lục Du, bản dịch của Lâm Trung Phú. Trích bài Hạc xung thiên của Liễu Vĩnh. Trích bài Bạc tần hoài của Đỗ Mục, bản dịch của Khương Hữu Dụng.)

“Các anh luôn mồm đòi “fair play”, nhưng rồi “fair play” thế đó hả?” Sở Vọng cười lạnh, kéo tay Ngôn Tang rời đi, vừa đi vừa nói, “Anh Tư, anh có tài năng xuất chúng của mình, không cần phải tự hạ giá trị bản thân, tụ tập với bọn họ làm gì.”

Ngài Trương nói: “Văn đàn Trung Quốc có thêm cậu ta cũng không nhiều lên, mà bớt cậu ta cũng không ít đi.”

Sở Vọng nghe thế, ngoái đầu nói: “Ông nhớ kỹ những lời này cho tôi! Năm mươi năm, không… Mười năm sau, tôi hỏi lại ông, văn đàn Trung Quốc thiếu anh ấy thì có còn không thiếu không, nhiều thêm ông thì có phải là quá dư thừa không!”

***

Cô kéo Ngôn Tang chạy một mạch xuống lầu, đến bên gần sàn khiêu vũ thì mới buông tay ra, há miệng thở dốc.

Ngôn Tang bị cô kéo chạy một đường, đến một câu cũng không nói gì, chỉ mỉm cười nhìn cô chăm chú. Thấy cô mệt, anh giơ tay muốn giúp cô thuận khí thì lại bị cô tránh đi.

Một lúc sau, Sở Vọng nói: “Anh Tư… Anh thật sự không cần phải cúi đầu với bọn họ. Bây giờ đừng làm thế, sau này cũng không cần.”

Anh nửa hiểu nửa không gật đầu, cười nói, “Được.”

Nghĩ một lúc rồi cô nói tiếp: “Đừng tin bọn họ nói bậy bạ gì mà ‘thổ địa nước ngoài không sinh ra được nhà văn Trung Quốc’. Anh đừng vì thế mà gật bừa, nếu bọn họ không tha cho anh thì anh đến nơi khác chấp nhận mình là được.”

Ý cười in đậm trong đáy mắt lẫn chân mày của Ngôn Tang: “Vậy em có đi cùng anh không?”

Cô im lặng.

May mắn là lần này bà Tư nghe thấy tiếng động nên cũng đi xuống, theo sau còn có Chu thị và Doãn Yên. Ngôn Tang thấy thế, không vui hỏi: “Vì sao… Lần nào cũng nhiều người kéo đến vậy?”

Cô đứng cạnh anh: “Dì Tư quan tâm anh mà.”

Sau đó quay sang lễ pháp nói với bà Tư: “Dì Tư tốt bụng mời cháu đến đây, nhưng cháu lại gây ra họa lớn. Là cháu đã lỗ mãng, vô cùng xin lỗi.”

Bà Tư cười nói: “Không sao, cháu nói hay lắm.” Rồi bà quay người đi ra ngoài, nói, “Ngôn Tang, cha và em trai con vẫn đang chờ con ở nhà.”

Ngôn Tang xoay sang hỏi Sở Vọng, cô cau mày lắc đầu, tỏ ý anh nên đi với mẹ.

Đúng lúc này, anh lại thấy Tạ Trạch Ích ở đằng xa đang tiến đến gần, càng không chịu đi.

Sở Vọng ngoái đầu nhìn lại theo ánh mắt anh, nhanh chóng chào tạm biệt anh. Sau đó bước nhanh đến bên cạnh Tạ Trạch Ích, đi thẳng ra khỏi khách sạn.

Tạ Trạch Ích nói: “Đau lòng à?”

Cô cười khổ, “Có chút chút.”

Tạ Trạch Ích nói: “Những lời em nói bảo vệ cậu ta lúc nãy, nói hay lắm.”

Sở Vọng hỏi: “Anh nghe thấy hả?”

“Ừ. Hôm nay ở khách sạn Thượng Hải, e là không ai không nghe thấy.”

“Có lẽ đó là đỉnh điểm trong đời em.”

“Đỉnh điểm một lòng bảo vệ người nào?”

Cô thở dài, cười nói: “Đỉnh điểm dày công tu dưỡng văn học.”

“Ồ.”

Sở Vọng nhấc chân đá anh: “Ồ cái gì mà ồ?”

Tuy Tạ Trạch Ích né được cú đá nhưng lại thở dài một tiếng.

Sở Vọng không chú ý, chỉ ngẩng đầu nghĩ: bà Tư muốn anh tìm một người vợ có thể khuyên anh biết điều nhượng bộ. Nhưng hôm nay cô lại tới giúp anh đại náo gây lớn chuyện. Con dâu nhà họ Tư chắc chắn không đến lượt cô rồi.

Nhưng nếu không tới, bảo anh phải dập đầu nhận sai, bỏ mặc tiền đồ vì một đám văn nhân chuyên lăng nhăng trác táng kia ư?

Cô không làm được.

***

Sau khi lên xe, Doãn Yên vui mừng hỏi Chu thị: “Mẹ, em ba hôm nay… đã lỗ mãng làm sai rồi đúng không?”

Chu thị đang nhớ lại “nhà họ Tạ” mà người ta nhắc đến, cùng với biểu cảm không che giấu của Tạ Trạch Ích khi nhìn chằm chằm cô bé, có chút nửa buồn nửa vui.

Có lẽ… cứ gả nó cho cậu Tư, phải chăng còn tốt hơn?

__

*Qin: Về tên phái, mấy chương trước mình để là Trăng Non, nhưng như thế không đồng nhất với tên phái Ngữ Ti là Hán Việt nên từ nay về sau mình để là Tân Nguyệt. Mong các bạn thông cảm.
 

MUALARUNG91

Tác giả
Sưu tầm
Tham gia
25/8/19
Bài viết
4,755
Điểm cảm xúc
495
Điểm
83
Chương 100: Đêm (16)
“Ông cảm thấy người nào tốt hơn?”

Trước khi đi ngủ, bà Tư đã thuật lại chi tiết những chuyện đã xảy ra ở khách sạn cho Tư Ưng. Từ chuyện Ngôn Tang bị lép vế cho đến chuyện ngài Úc mắng chửi thô tục, Tư Ưng vẫn giữ nụ cười. Nhưng đến khi cô ba đứng ra chỉ thẳng mặt ngài Chu vứt bỏ vợ cũ, sắc mặt Tư Ưng dần trở nên nghiêm trọng.

Bà Tư mắt nhìn mũi mũi nhìn tim, hỏi thăm: “Cô ba này không tệ, em thích cô bé lắm. Có điều, đáng tiếc đúng không?”

Tư Ưng lắc đầu, “Nhà anh Lâm có một món nợ cũ, cũng là vì mẹ ruột của con bé ba. Chuyện này kể ra thì đúng là không phải lỗi của ông ấy. Nhưng thế đạo hiện nay, phần lớn học sinh từ gia đình cũ ra nước ngoài đều có nợ phong lưu, mà ông ấy cũng là một trong số đó. Một năm trước nhận được thư của Ngôn Tang tôi mới biết được chuyện này cũng thấy rất tiếc. Cho dù có ý phê bình ông ấy thì cũng đã qua thời điểm có thể khuyên nhủ. Ngôn Tang trở nên nổi tiếng, nghĩ ắt hắt cũng là vì chuyện ấy, cảm thấy bất bình cho con bé ba. Có được kiến thức và sự gan dạ ấy, lại vừa có thể cùng tiến cùng lùi với Ngôn Tang, với nó mà nói, sợ là trên đời này không có cô gái thứ hai nào giống con bé cả.”


Bà Tư thở dài, “Biết núi có hổ mà vẫn cứ đâm đầu, dù cô ba có lợi hại tới mấy thì vẫn chỉ là phận nữ nhi. Dù lần này làm khá ổn, nhưng về sau không biết sẽ có bao nhiêu tờ báo lớn nhỏ sẽ đối phó với thằng bé, cô bé có thể giúp được bao nhiêu lần? Vốn muốn tìm một hiền thê để kìm hãm tính khí của nó, dập tắt lửa của nó. Nhưng giờ thì hay rồi, cô bé còn có tính cách dữ dội hơn, nếu thằng bé là lửa thì cô bé chính là dầu hỏa…”

“Thế để nó cháy không tốt sao? Cháy càng rực mới phải!”

“Cháy rực?” Bà Tư tức giận, toan bỏ đi, “Hai cha ông đúng là cùng một chiếc bật lửa. Đốt đi, đốt chết luôn đi!”

Tư Ưng dỗ dành vợ một hồi, sau đó vội hỏi, “Vậy còn cô lớn?”

“Đứa lớn cũng chỉ có chút tài hoa khí chất, có lẽ do bị mẹ chiều hư rồi, mà cũng không biết còn ai chiêu hư không, so ra không bằng cô ba về mọi mặt. Nếu nói có gì tốt thì chính là lòng dạ sâu, trầm ổn hơn cô ba.”

Nghe thấy câu “không biết là bị ai chiều hư”, Tư Ưng nhớ lại một chuyện không hay. Lúc triều đại vẫn chưa thay đổi, hai người bọn ông đã quyết định quan hệ thông gia giữa hai nhà Tư – Lâm. Sau này ông dẫn Ngôn Tang phiêu bạt khắp nơi, trong lúc ông khốn đốn vất vả nhất, Lâm Du đột nhiên gửi thư tới nói muốn hứa gả cô con gái của người vợ cả cho Ngôn Tang, khiến ông cảm kích tột cùng. Đợi tới lúc ông về Bắc Bình, Lâm Du mời hai cha con ông đến Thiệu Hưng, ý lại như muốn gả cô hai cho Ngôn Tang… Mỗi lần nghĩ đến đây, ông lại nhớ tới những ràng buộc và dính dáng giữa hai nhà Tư – Lâm trong nhiều năm qua, lại xấu hổ áy náy khi lấy bụng tiểu nhân đo lòng quân tử.

Ông hỏi lại: “Không phải nghe nói cô hai từng đính ước với nhà họ Trịnh à?”

Bà Tư ngẩn người: “Nhưng bà mẹ của Doãn Yên nói, hôn sự với nhà họ Trịnh đã bị hủy bỏ rồi.”

Tư Ưng gật đầu, “Cũng phải. Chẳng qua là người lớn hai nhà giỡn chơi mới đặt ra chuyện đính hôn từ bé.”

“Nếu đã đồng ý hôn nhân thì cũng không thể bảo che mẹ con gái người ta chủ động được. Chuyện này có làm tiếp cũng không phải,” Bà Tư nhìn ông, “Nếu nói về tâm ý của Ngôn Tang thì ắt hẳn là con bé ba, nhưng như thế phải chịu khổ. Còn nếu nó muốn từ nay về sau sống bình yên thuận lợi thì không thể cưới con bé ba được. Ông xem, người làm cha như ông nghĩ thế nào đây.”

Tư Ưng nghe lời vợ, trầm ngâm một hồi, sau đó không chút do dự hạ bút viết thư.

***

Cô Hứa đã đem đến một tin tức vô cùng lạc quan đến cho cô: cô ấy đã được nhận vào thực tập ở bệnh viện nhà máy sợi dệt.

Đi cùng cô ấy còn có hai sinh viên nam thuộc chuyên ngành Sinh vật học và Y học từng du học Nhật Bản, hai người họ đều là người trong ngành, nhưng đều bị nhà máy sợi dệt từ chối. Thế mà cái kế hoạch đâm ngang bất ngờ của cô ấy lại thành công để cô ấy được nhận vào thực tập. Cô Hứa từng nghĩ trong đó có âm mưu gì đó không muốn bị người khác biết, về sau mới vỡ lẽ: chẳng qua người Nhật thấy cô là nữ nên mới không đề phòng.

“Không đề phòng ấy hả? Bọn họ còn chẳng thèm kiêng dè gì sất! Lúc ở Nhật Bản, bọn họ không ngại để học sinh Trung Quốc chúng ta đọc tài liệu lính Nhật sát hại người Trung. Tôi kể cho mấy người họ Trịnh những gì tôi nghe được thấy được, tôi tức đến điên người, chỉ muốn lập tức báo cho ký giả biết việc làm tàn ác của bọn họ. Nhưng bọn họ lại khuyên can tôi, chỉ vì không thể đem theo máy ảnh, không chụp được bằng chứng. Mà không có bằng chứng thì những lời đó chỉ là câu chuyện sởn tóc gáy, không ai tin cả.”

Nơi đó là một bệnh viện bỏ hoang tại một huyện cũ ở Thượng Hải, nhân viên và lính Nhật ở đó đều gọi nó là “bệnh viện G”, còn cô ấy gọi nó là “vườn hoa kinh khủng”. Đó là một khoảng sân rộng được bao quanh bởi những tòa nhà cao tầng, xen kẽ là một vài tòa nhà nhỏ hai ba tầng, là điểm thấp nhất của độ cao kiến trúc khu vực phụ cận. Lý do vì sao người ở chỗ cao không theo dõi được, bởi vì nó trông giống một khu vườn, có lịch sử lâu đời cùng những lùm cây rậm rạp, là điểm mù dưới ánh mặt trời, là chỗ trú ẩn lý tưởng cho bọn tội phạm.

Các tòa nhà trong sân rộng được đánh dấu bằng chữ in hoa tiếng Anh A, B, C, D. Mỗi tầng được ngăn cách bởi một hàng rào sắt bị khóa bởi một chiếc ổ khóa kỳ dị. Có một số khu vực chỉ những người quan trọng nhất mới có thể ra vào, ví dụ như tầng hai hoặc tầng ba.

Không đủ điều kiện để ra vào tầng hai và tầng ba, cô ấy chỉ có cơ hội đi lang thang ở khu vực an toàn.

Bố cục thiết kế bên trong rất hoàn chỉnh: nguồn cung cấp ban đầu được kéo từ công ty điện lực Hoa Thương ở tô giới Pháp, sau đó dần dần xây dựng phòng phát điện độc lập của riêng mình, nồi hơi áp suất cao, phòng nước mềm, phòng làm đá và máy tạo khí ga trong tầng hầm của phòng thí nghiệm.

Máy phát điện được chôn sâu ở dưới tầng hai, cả ngày lẫn đêm chuyên cung cấp nguồn điện xoay chiều lên tầng trên cùng để chiếu sáng và điều khiển các máy bơm khác nhau, để khi tình huống vô cùng tồi tệ xảy ra thì có thể tự động tiến hành cung cấp điện.

Ở nơi đó, cô ấy còn trông thấy lều động vật cùng lò thiêu hủy xác động vật. Nhưng cô ấy không biết là rốt cuộc nó dùng để đốt thứ gì.

Bên dưới sàn tầng hai có rất nhiều đường ống cung cấp nước, nhưng cô cũng không rõ rốt cuộc nó dùng để làm gì. Cô Hứa cởi áo khoác, mặc bên trong là chiếc sườn xám không tay. Cô ấy vươn cánh tay trắng nõn ra, bên trong khuỷu tay là chi chít sơ đồ đường ống được chép lại bằng bút máy.

Sở Vọng phân biệt từng thứ một: “Mấy thứ này theo thứ tự là ống nước lạnh và ống nước nóng, đây là nước uống lạnh, còn đây là nước mặn lạnh, đây là ống dẫn khí, ống khí nén, ống chân không, còn có cả hơi nước khử trùng, ống sưởi ấm.” Vừa nói Sở Vọng vừa cau mày: “Đến những nơi tiên tiến nhất mà người Trung Quốc sống như Thượng Hải, tô giới công cộng, những căn nhà tốt nhất cũng chỉ có hai loại ống nước nóng và lạnh. Bọn họ làm thí nghiệm gì mà lại tốn tiền tốn thời gian xây dựng nhiều đường ống thế này?

“Chế tạo ‘bột máu’ cần môi trường cực lạnh và thiếu oxy. Em biết nó là gì không?”

“Biết. Dùng huyết trâu bò nghiền thành bột, là thức ăn gia súc của bọ chét. Mục đích duy nhất của việc nuôi bọ chét chính là muốn tạo ra dịch hạch.”
 

MUALARUNG91

Tác giả
Sưu tầm
Tham gia
25/8/19
Bài viết
4,755
Điểm cảm xúc
495
Điểm
83
Chương 101: Đêm (17)
Đến thứ năm, cô Hứa lại tới thăm một lần.

Sau khi về từ chỗ Sở Vọng, cô ấy bàn bạc tìm một tên móc túi ở khu Hạp Bắc, nhờ gã đánh ba chiếc chìa khóa vạn năng. Đến tối, sau khi “bác sĩ” ở bệnh viện nhà máy sợi dệt ra về, ở lại trực chỉ có bảo vệ Nhật Bản. Trong bóng đêm, cô ấy cẩn thận né tránh lính Nhật, một thân một mình lẻn vào “vườn hoa kinh khủng”, dùng chìa khóa vạn năng mở ổ khóa hàng rào sắt của từng tòa nhà, một đêm thức trắng không rời đi.

“Vì cả tòa nhà C cấm người không phận sự ra vào, canh gác cũng nghiêm ngặt nhất, nên trời vừa tối là tôi đã đi thẳng đến tòa nhà C.”

Chỗ đó à, chỉ mới vừa nghĩ tới thôi mà Sở Vọng đã cảm thấy tóc gáy dựng ngược lên hết. Nghe cô Hứa kể xong, đến cô còn thấy rùng mình khiếp sợ chứ đừng nói là một cô gái, trong đêm tối, một mình lẻn vào phòng thí nghiệm vi khuẩn tối mù.

“Hồi trước nghe thấy âm thanh máy móc vận hành phát ra từ tòa nhà C. Đến xem thì mới biết, cả máy ly tâm và máy sấy đều được sử dụng để tạo bào tử vi khuẩn. Đi xuống tầng hầm là có một tủ đông. Ở đó, tôi đã thấy xác chết trẻ sơ sinh và tử thai, bên dưới đề ngày đưa tới, chính là hôm nay. Tử thai dùng làm gì? Tôi đã nghĩ rất lâu, cuối cùng mới nhận ra, xác chết tươi nhất chính là thai nhi và trẻ sơ sinh vừa tử vong, tế bào của chúng có độ nhạy gần với dạng sống bình thường.”

Sở Vọng im lặng lắng nghe, không lên tiếng.

“Mỗi mỗi nóc ở tòa nhà C đều là phòng thí nghiệm, nhưng không có thông tin nào được lưu trữ. Có vẻ mọi thứ đều đã được tiêu hủy vào trước nửa đêm. Ngoài việc thấy rất nhiều kính hiển vi tiên tiến tinh vi nhất và một loạt trực khuẩn thán thư hoạt tính thấp, tôi cũng đã được chứng kiến thứ gọi là “bột máu”. Em biết không, tôi đã dùng giấy thử cao su thử nghiệm, kháng thể trong đó không phải là gia súc hay động vật có vú nào khác. Rất có thể thành phần trong đó là từ mấy đứa trẻ sơ sinh chết yểu và tử thai kia.”

“Tòa nhà B là phòng tiêu bản. Tất cả các chủng vi rút và chủng vi khuẩn tới từ nhà C đều được lưu trữ ở đây. Vì những chủng này nên ở đây cần độ ẩm và áp suất không đổi, áp suất không khí âm, cũng cần phải tự động lọc và chống lại các rung động mạnh. Dây điện mạch điện cùng với phần lớn hiệu điện thế nối từ công ty Điện lực Hoa Thương cũng được dùng để duy trì hoạt động bình thường của tất cả các thiết bị trong tòa nhà này. Đêm khuya vắng người, ở tòa nhà B chỉ có thể nghe thấy tiếng nước chảy, luồng không khí với dòng điện trong đường ống mạch điện trên tường. Máy phát điện nằm ngay dưới nóc nhà B. Nên dù cho cả Thượng Hải có bị cúp điện thì máy phát điện vẫn có thể tự động cung cấp điện cho nhà B. Chị có nhìn vội qua, bên trên viết bằng tiếng Nhật: 033, môi trường nuôi cấy Ishii.”

“Lúc ấy tôi không biết rốt cuộc thành phần của hai chủng này là gì, ở nhà B cũng không có kính hiển vi để kiểm tra, trừ khi đưa chủng đến nhà C, có điều chuyện này quá nguy hiểm. Phải công nhận là bọn chúng tiến hành rất nghiêm ngặt chặt chẽ. Bọn chúng sẽ không để lại bất cứ dấu vết nào ở nhà B, vì tôi thấy có một thùng dầu hỏa rất lớn, đặt ngay ngoài hành lang, cạnh đó còn có vật đốt, giúp bọn chúng có thể lập tức đốt cháy cả tòa nhà nếu có bất trắc, thuận lợi hủy thi diệt tích. Nên tôi lại đến tòa nhà A, thấy đám ‘y tá’ bọn họ thường xuyên ôm một chồng túi giấy da lớn đi ngang qua hành lang. Thời gian không còn nhiều, không kịp đến phòng in ấn với phòng công vụ nên tôi đã đến thẳng phòng lưu trữ.”

“033 là môi trường nuôi cấy bột máu bò truyền thống, còn Ishii … là bột máu người! Sử dụng máu bò làm thức ăn gia súc do nó có hàm lượng protein cao, vậy vì sao lại dùng máu người? Máu bò có thể cung cấp để nuôi dưỡng chủng vi khuẩn, nếu đổi thành máu người thì cần đến bao nhiêu người? Nếu như chỉ là tử thai và xác trẻ sơ sinh dưới tầng hầm tòa nhà C… thì tôi thật sự không tưởng tượng nổi. Rốt cuộc một ngày Thượng Hải có bao nhiêu đứa trẻ chào đời, rồi được bao nhiêu đứa trong số đó tử vong?… Tôi định trộm ít tài liệu đi ra, nhưng sau lại nghĩ, tuyệt đối không thể! Dù có đưa tài liệu của mỗi tòa nhà A ra ánh sáng, thì với trình độ kín đáo của chúng, tôi có thể tưởng tượng được bọn chúng có thể tuyên bố với lý do: ‘Người nghèo khó ở quanh Thượng Hải bệnh tật liên minh, bởi vì điều kiện sinh hoạt quá bẩn, chế độ làm việc nghỉ ngơi quá tệ. Nay đang độ mưa dầm trong xuân hạ, rất dễ mang đến nguy hiểm tiềm ẩn cho khu tô giới Thượng Hải. Cho nên bọn chúng đang chế tạo vắc-xin phòng đậu mùa, dịch hạch và các bệnh truyền nhiễm khác. Vì thế bọn chúng cần có máu người, chứ không phải là máu bò. Nên bọn chúng cần thu gom xác trẻ sơ sinh từ nhiều nơi!’ Ngay cả tôi cũng có thể nghĩ đến, thì bọn chúng hoàn toàn có thể giải thích với lý do đó! Trừ khi lấy ra hết bằng chứng trong bệnh viện nhà máy thì mới có thể để bên ngoài tin, làm gì có một phòng thí nghiệm vì để sản xuất protein kháng huyết thanh mà tạo ra nhiều môi trường nuôi cấy bệnh khuẩn như thế! Rồi môi trường nuôi cấy cần nhiều ‘thức ăn gia súc’ như vậy, rốt cuộc lấy từ đâu ra nhiều máu người đến thế?!”

Thật ra không cần cô Hứa nói, Sở Vọng cũng biết sự khác nhau giữa 033 và môi trường đào tạo Ishii. Điều đó đã được ghi lại trong sách giáo khoa của môn học liên quan đến thời đại tội ác này, nhưng nghe chính miệng một sinh viên Y ở Trung Quốc trong thời đại này nói ra, thì còn sởn tóc gáy hơn so với việc nghe đời sau kể lại nhiều.

Cô nhìn cậu bé ngủ say trên ghế, đột nhiên nảy ra một suy nghĩ kỳ quái: “Trong những ‘xác trẻ sơ sinh’, liệu có thể có vài đứa ‘bất ngờ’ không?”

“Bất ngờ gì cơ?”

“Thì là lúc đưa đến chưa chết hẳn, vì nguyên nhân nào đó mà vẫn còn sống. Hoặc là, thứ đưa tới bệnh viện, có lẽ không phải là xác trẻ sơ sinh…”

“Chuyện này nghe vô lý quá.” Cô Hứa cau mày, “Chúng ta đã phân tích rồi còn gì, nếu bọn chúng muốn có một số lượng lớn trẻ sơ sinh thai nhi như vậy, thì có lẽ một phần trong số đó là từ những gia đình dân tỵ nạn không nuôi nổi ở khu Hạp Bắc, hầu hết đều là thai nhi nữ. Một đứa bé trai bình thường, nuôi đến tầm 12 tuổi là có thể lao động để nuôi cả gia đình, không có lý nào bọn họ lại từ bỏ cả. Còn những phôi thai và trẻ sơ sinh nam trong bệnh viện thì rất có thể đến từ đường số 4, em hiểu ý tôi không? Một đứa con nít ít tuổi như vậy chắc chắn sẽ không nhớ mình bị đưa đến bệnh viện thế nào, sống được ra sao. Dù có tìm được mẹ của nó, thì em cảm thấy bà ta sẽ thừa nhận ư?”

Nghe cô Hứa nói vậy, Sở Vọng im lặng.

Đây không phải là thời đại cô quen thuộc, mà là dân tộc tồn tại trong sách sử, bị người Nhật chế giễu là “ngoại tộc đô hộ”gần ba trăm năm. Là thời đại sống lưng đã gãy, vô cùng tối tăm.

Sở dĩ người Nhật sửa đổi bệnh viện nhà máy sợi dệt này là bởi vì bọn họ đã sớm biết mình có thể có được nhiều nguồn trẻ sơ sinh và phôi thai như thế: Cha mẹ vất vả long đong, chỉ vì chút lợi ích trước mắt, có lẽ chỉ một hoặc hai đồng đô la, hoặc có lẽ là để con trai tìm được một công việc với số tiền lương ít ỏi ở tô giới Hồng Khẩu, chút tiền ấy đủ để người nhà sống qua cả mùa đông. Thượng Hải cũng có chuỗi công nghiệp tình dục khổng lồ, trong thời đại mà điều kiện chữa bệnh và phòng tránh thai còn lạc hậu thấp kém, thì không biết mỗi ngày có bao nhiêu sinh mạng mới “không thể không” chào đời… Những sinh mệnh khó có thể sinh tồn này là những người hiền lành ngoan ngoãn, hoặc là kiên cường cố chấp. Bọn họ tự nguyện làm những con cừu hiến xác cho đồ tể, là những con kiến mê muội nhất, góp phần để cho đế quốc hoành hành ngang ngược ở tô giới, miệt thị tính mạng của người Trung Quốc.

“Nhất định chúng ta phải chụp được ảnh. Chụp lại mọi bằng chứng tội ác của chúng, trước khi bọn chúng dùng dầu lửa thiêu đốt tất cả. Nhưng dù là ban đêm khi các nhân viên đều ra về, thì đội tuần tra Nhật vẫn canh giữ không cho bất cứ ai ra vào. Tôi nghĩ chúng ta chỉ có một cơ hội…”

Cô Hứa đưa cho cô một tờ giấy, trên đó viết:

“Tối thứ sáu, thiếu tá Fujima Daiji phụ trách nhà máy kéo sợi cùng hơn mười đại úy và trung úy khác sẽ đi tham dự yến tiệc Trung Nhật Anh. Đây là một cơ hội cực tốt. Chúng ta cho hai cô gái đến dự tiệc, cố gắng quấn lấy Fujima câu giờ, cho tôi và người khác có thời gian…” Thấy sắc mặt Sở Vọng, cô ấy vội viết bổ sung: “Bọn họ đã được huấn luyện chuyên nghiệp, cũng tự nguyện làm chuyện đó.”

Cô biết, cô Hứa cũng giống hai cô gái ấy, lúc tổ chức cần thì sẽ sẵn lòng trở thành người tử vì đạo. Khi cô lấy tiêu chuẩn của mình để cư xử với người khác thì kiểu gì cũng sẽ bị lệch cán cân, và cô cũng đã ý thức được điều ấy rồi.

Sở Vọng: “Cần tôi làm gì không?”

Cô Hứa lắc đầu, “Không, không cần đâu, em đã làm quá nhiều rồi… Chuyện lần trước đó, Chân Chân có khỏe không?”

Cô đã gọi điện đến nhà Chân Chân mấy lần. Ông Tiết hiểu rất rõ tình cảm của con gái, chỉ nói cô ấy ở nhà nghỉ ngơi mấy ngày là khỏe. Mà bản thân cô cũng bận nên không đến làm phiền.

Sở Vọng tò mò hỏi: “Vì sao chị không hỏi về cô Thẩm?”

Cô Hứa không đáp.

“Bởi vì cô ấy từ một kẻ đi hại trở thành người bị hại, cuối cùng lại trở thành kẻ đi hại, cho nên đúng người đúng tội?”

“Có lẽ em sẽ cảm thấy tôi vô lý, nhưng… Cục trưởng Thẩm bảo vệ cũng như im lặng trong chuyện con gái mình đi hại như vậy, chính là hành động đồng lõa lớn nhất giúp bọn chúng ức hiếp quốc gia này. Vốn dĩ ông ấy có thể đứng ra, cả nhà ông ấy đúng là đúng người đúng tội, mà tôi cũng rất lấy làm có lỗi với Chân Chân.” Cô ấy nhìn Sở Vọng, “Tôi biết em sẽ cho rằng thứ người như tôi rất khó hiểu, nhưng xin lỗi, tôi tôn trọng em chứ không cần em phải hiểu mình. Cô ba, cám ơn em đã cung cấp thông tin.” Nói rồi, cô ấy cầm lấy áo khoác rời đi.

Cô Hứa đi rồi, Sở Vọng chìm đắm trong bóng tối với ngọn nến bập bùng, hồi tưởng lại những lời mình đã nói. Cô chỉ có thể nghe thấy tiếng hít thở cực nhỏ của cậu bé kia. Lúc ngủ say, cậu bé mở miệng không chút đề phòng, thở ra một hơi thở, tựa như âm thanh câm lặng của người dân ngoan ngoãn tại thành phố này, đất nước này. Sự nhẫn nại và nghe lời cùng sự tôn nghiêm có thể bị bất cứ ai chà đạp là thứ mà ai ai trên thế giới này cũng biết, ngay tại khoảnh khắc này, những người Trung Quốc đang tìm vàng ở California bên kia bờ đại dương cũng là nạn nhân của bạo lực tập thể, nhưng lại trở thành đối tượng bị xúc phạm bởi “đạo luật bài trừ người Hoa”, trạm di trú trên đảo Thiên Sứ chính là căn cứ xử lý bọn họ. Quốc gia bài trừ người Hoa không chỉ có mỗi Mỹ, mà còn có cả Canada, Brazil, Indonesia…

Nếu đến cuối cùng dân tộc này vẫn không chịu lên tiếng, chẳng lẽ vẫn muốn trơ mắt nhìn số ít những người tử đạo phải như con thiêu thân lao vào đống lửa ư?

Cô khẽ vỗ nhẹ vào má cậu bé. Trong bóng tối, nó mơ màng mở mắt, cô hỏi: “Em có nhớ mẹ mình không?”

Nó lẩm bẩm mơ hồ, khó hiểu nhìn cô.

Cô lấy hết tất cả thức ăn ra khỏi tủ lạnh rồi xếp nó trước mặt mình, lại hỏi một cách khẩn khoản: “Em cố suy nghĩ cẩn thận đi, có được không?”

Cậu bé mở to mắt, sự ngu ngơ trong đó khiến cô vừa thương xót lại đau lòng. Dỗ một đứa trẻ đòi hỏi kiên nhẫn và có kỹ năng, mà vừa hay đây là chuyện cô tệ nhất.

“Thôi quên đi, em đi ngủ đi.” Cô tuyệt vọng nói.
 

MUALARUNG91

Tác giả
Sưu tầm
Tham gia
25/8/19
Bài viết
4,755
Điểm cảm xúc
495
Điểm
83
Chương 102: Đêm (18)
Sáng thứ sáu ngày 1 tháng 4, ngày diễn ra lễ ra mắt lò phản ứng chậm đầu tiên trên thế giới.

“April food’s day!” Sakuma Ichiro cố ý dùng khẩu âm Nhật đọc thừa ra hai thanh phụ âm trong tên ngày lễ, “Hôm nay! Dù trên báo có đăng mẩu tin kinh thiên động địa tới mấy thì cũng không cần phải chịu trách nhiệm đạo đức pháp lý, cả chính phủ lẫn tư pháp cũng sẽ không truy cứu! Có điều trò đùa chỉ được phép thực hiện đến trước mười hai giờ.”

Sakuma Ichiro dậy từ sớm, vô cùng phấn chấn đi qua đi lại trước cổng viện nghiên cứu, gặp ai cũng chúc họ một ngày Cá tháng 4 vui vẻ. Vừa trông thấy Tạ Trạch Ích chở Sở Vọng đi vào đường vượt giới, gã nhướn mày, càng trở nên hăng hái hơn, “Ở phương Tây, trò đùa chỉ có hiệu quả trước mười hai giờ. Nhưng nghe nói ở Thượng Hải, chuyện thú vị thì ngày nào cũng có.”

Bước xuống xe, Sở Vọng đi về phía viện nghiên cứu. Cô mặc áo khoác màu gừng ngắn, bên trong mặc áo len trắng cùng quần dài cũng màu trắng nốt. Ánh mắt của Sakuma gần như bám chặt trên người cô, gã ta nói mà không chớp mắt: “Tôi thật sự không hình dung được tối nay cô sẽ xuất hiện hoành tráng thế nào đây.”

Sở Vọng làm ngơ đi lướt qua gã, gã ngoái đầu, nhìn lướt qua vạt áo của cô rồi quay sang cười nói với Tạ Trạch Ích đang đi tới: “Ai cũng nói eo của phụ nữ phương Tây nhỏ là do dùng dây thép và xương cá voi quấn chặt. Chẳng trách có người không ngại vạn dặm xa xôi, nhất nhất muốn quay về tìm căn nguyên, có đúng thế không ngài thượng úy tôn kính?”

Tạ Trạch Ích dừng bước, nở nụ cười đạt tiêu chuẩn vô lại: “Xem ra anh còn thành thạo hơn cả tôi.”

Trong quân đội nước Anh, ở tuổi như Tạ Trạch Ích mà đã có được cấp bậc thượng úy thì đúng là kỳ tích. Ấy thế mà Sakuma Ichiro bằng tuổi anh nhưng đã lên tận thiếu tá.

Sakuma nói: “Nếu anh bằng lòng giống các đồng nghiệp khác của mình, có lẽ bây giờ anh sẽ có quyền cho tên khốn là tôi một đấm.”

“Chúng ta chẳng có gì để phải thi đánh đấm cả.” Tạ Trạch Ích nheo mắt, “Xin lỗi, so với đất nước của anh thì quân đội Anh vẫn còn liêm sỉ.”

Nói đoạn, Tạ Trạch Ích bỏ đi luôn. Sakuma Ichiro nhìn theo bóng lưng anh, bất giác cười phá lên. Có quốc gia nào xuất hiện trên mảnh đất yếu đuối này là không vô sỉ xâm chiếm dân tộc này? Bọn họ thì có gì khác nhau?

Gã đã từng nghe người ta nói về tay thượng úy người Anh mát đen da vàng, nước da tái nhợt này. Nếu anh ta ý thức được mỗi một con kiến trên lãnh thổ này là đồng bào ngoại quốc của mình, nếu anh ta không giúp người Anh quyết tâm phá hủy vùng đất này, thì dựa vào đâu mà ở tuổi đó, anh ta có thể sớm đạt được quân hàm ấy trong quân đội Anh?

Nếu cán cân trong lòng anh ta vẫn chưa hoàn toàn nghiêng về người Anh, vậy khi thấy quân đội Anh nhiều lần ăn hiếp người Trung, không biết trong lòng sẽ có cảm tưởng gì?

Sakuma Ichiro nghĩ: Nếu anh ta là một sĩ quan người Mỹ theo quân đội Hoa Kỳ tấn công vào Nhật Bản, thì anh ta hoặc sẽ bị đồng hóa thành một gã sát nhân mù quáng trong cuộc tàn sát, hoặc anh ta không bao giờ muốn sống ở mảnh đất đó thêm bất cứ một giây nào. Nếu là vế trước thì gã có thể tưởng tượng được, nhưng nếu là người sau, vậy thì sức chịu đựng của người này tuyệt đối hơn hẳn người thường.

Rốt cuộc là anh ta thuộc vế nào?

***

10 giờ 15 phút.

Công sứ Anh, Nhật cùng sĩ quan đến từ Nam Kinh đều đã lên khán đài phía bắc cuối sân cỏ chờ sẵn, Tạ Trạch Ích cũng đứng trong hàng ngũ đó.

Hàng trăm máy móc từ trong viện nghiên cứu đã được chuyển ra, từng chiếc máy đếm cũng đã được lắp đặt.

Sở Vọng và Oppenheimer lần lượt kiểm tra máy móc lắp đặt xung quanh nồi hơi để chắc chắn không xảy ra sơ suất, còn Fermi và Bohr đã leo lên bục điều chỉnh thử xem độ nhạy của chỉ số đồ thị hàm mũ của bộ đếm tăng thực có ăn khớp hay không.

Oppenheimer đứng dưới khán đài để điều khiển thanh cadmium nằm ngang, bảo Sở Vọng đến chỗ lò hơi để vận hành thiết bị truyền cadmium lỏng với Fermi và Bohr. Lúc mười giờ rưỡi, Oppenheimer nhìn đồng hồ bỏ túi rồi gật đầu với Sở Vọng.

Cầu thang dựng tạm thời bắc lên nồi hơi cao hai tòa nhà được cung cấp bởi công nhân nhà máy kéo sợi, trong quá trình xây dựng cũng không cân nhắc đến yếu tố dành cho phụ nữ. Khoảng cách các nấc thang rất cao, phù hợp với đàn ông trưởng thành cao trên 5 feet 5 inches*. Trước đây mỗi lần cô leo lên đỉnh lò hơi, luôn có Tạ Trạch Ích để ý cô trèo từng bậc một. Thế nên hôm nay cô cố tình mặc quần dài để dễ leo thang, thế nhưng vẫn rất tốn sức, mấy lần suýt đã đạp hụt.

(*Tương đương 1m6 trở lên.)

Đám sĩ quan bên dưới khán đài cười ầm.

Ở bên trên, Fermi và Bohr vươn tay kéo cô ngồi lên mép đỉnh của nồi hơi. Cô vỗ đôi tay bẩn thỉu, lấy bản tính toán từ trong túi áo khoác ra, tập trung vào lần kiểm tra cuối cùng.

Yoshio Nishina và mười mấy nhà khoa học Nhật Bản cầm bảng biểu trên tay, đứng xung quanh lò hơi, nhìn chăm chú vào máy đếm.

Chu Nhĩ Tra đi theo lãnh sự Anh, cùng giám đốc Nhật Bản, thượng tá quốc quân và phó chủ tịch hội thương mại Thượng Hải đứng trên đỉnh khán đài ở phía bắc, mắt nhìn chằm chằm vào đồng hồ bấm giờ rồi lại đưa mắt nhìn nhau. Lãnh sự nhìn một vòng mọi người bên dưới, sau đó nói to: “Bắt đầu!”

Sau khi nhân viên điều khiển từ từ rút hàng trăm thanh cadmium từ đỉnh nồi hơi ra, lập tức trên trăm mấy đếm bắt đầu nhảy số liên tục, các nhà khoa học Nhật Bản cũng dùng tốc độ cực nhanh điền vào bảng biểu, cứ sau mỗi 30 giây là lại nhanh chóng điền một hàng số. Điền gần xong khoảng mười bộ dữ liệu thì cũng vừa lúc thanh cadmium đứng đã được rút ra hết. Chỉ còn lại thanh cadmium ngang 26 inches với đường kính bằng nồi hơi được sử dụng để kiểm soát cường độ phản ứng của Oppenheimer mà thôi.

Yoshio Nishina liên tục báo cáo con số trên bảng điều khiển. Sau đó, Bohr đứng bên trên hô lớn ra hiệu cho Oppenheimer, anh ta lập tức rút thanh cadmium, vô cùng cẩn thận chậm rãi, thanh cadmium ngang từ từ được rút ra thì máy đếm xung quanh nồi hơi cũng nhảy số càng lúc càng nhanh. Cho đến lúc đường kính của nồi hơi giảm đi một nửa, 13 inches.

Sở Vọng cầm thiết bị truyền cadmium lỏng trong tay, nín thở, không chớp mắt nhìn vào máy đo cường độ bức xạ trên đỉnh lò hơi, bên trên là đường cong chỉ số bức xạ của phản ứng chậm trong nồi hơi được vẽ tự động – độ đọc của nó dần dần tăng lên, rồi sau đó từ từ ổn định, biểu thị rằng ở đáy của nồi hơi, thanh cadmium của Oppenheimer đã được rút ra hoàn toàn.

Đường cong chỉ số chiếu xạ ổn định có nghĩa là hệ số giá trị gia tăng của nó là một, công suất đầu ra bên trong lò hơi lớn hơn công suất đầu vào.

Điều đó cũng chứng minh một điều: phân hạch có kiểm soát đã bắt đầu tự động.

Fermi và cô nhìn chằm chằm vào đường cong chỉ số chiếu xạ, còn Bohr thì theo dõi Oppenheimer từ xa, để phòng trường hợp có chuyện gì xảy ra, anh ta phải yêu cầu người bên dưới đút thanh cadmium vào nồi hơi lại, nên chính anh ta cũng cùng Fermi và Sở Vọng đổ cadmium lỏng vào.

Dù ở trên khán đài hay dưới khán đài, các nhà khoa học hay là sĩ quan… Tất cả mọi người đều nín thở, im lặng nhìn mọi thứ trước mặt tiến hành.

Cả tòa nhà nghiên cứu, chỉ còn lại mấy trăm mấy đếm là không ngừng phát ra âm thanh lặp đi lặp lại.

Tiếng tích tắc ngày càng ổn định thì tim Sở Vọng càng đập nhanh hơn. Cánh tay cầm chiếc đồng hồ truyền dịch cadmium lỏng cô đã từ nhức mỏi chuyển sang tê liệt, nhưng sâu trong đáy lòng cô chỉ có một âm thanh: Phản ứng chậm thành công đầu tiên trong lịch sử loài người sắp được thực hiện rồi!

Hai mắt Sở Vọng dần dần mở to. Sớm hơn kiếp trước 12 năm thật rồi!

Yoshio Nishina và giám đốc Nhật nhìn nhau, những người khác thì vẫn tiến hành tính toán, Yoshio đặt máy đếm trong tay xuống, nhanh chóng bước đến bắt tay với Oppenheimer.

Sĩ quan trên khán đài rối rít đứng dậy vỗ tay.

Phía bên dưới, đại diện của chính phủ Trung Quốc và hội thương mại cùng chúc mừng và bắt tay với các công sứ Anh và Nhật Bản. Ba phụ tá sĩ quan đã hồ hởi mở sâm banh và rượu Brandy, phân phát cho mỗi nhà khoa học và sĩ quan. Các nhà khoa học và binh lính rối rít đi tới, cùng nhau ký tên mình lên nhãn hiệu chai rượu.

Sakuma Ichiro và giám đốc Nhật Bản đều đang nhìn cô. Cô ngẩng cao đầu, mặt nở nụ cười như thể muốn nói: “Sáu tuần, tôi nói được là làm được.”

Một âm thanh khác đang gào thét trong lòng cô: Hơn nữa, tôi cũng chắc chắn nói được làm được!

Bohr và Fermi lần lượt ôm chầm lấy Sở Vọng, người trước ôm xong thì xuống khán đài thu dọn máy đếm, còn người sau thì thấp giọng nói vào tai cô: “Chúc mừng em.”

Trong khoảnh khắc Sở Vọng mỉm cười nhìn anh, viền mắt ươn ướt.

Fermi vỗ vào cô: “Đi xuống ký tên vào chai rượu đi.”

Cô gật đầu, đi theo anh cẩn thận trèo xuống cầu thang.

Oppenheimer đã chờ sẵn bên dưới. Lúc Fermi xuống, hai người vô cùng ăn ý vỗ tay, rồi Fermi tự nhiên nhận lấy ly rượu Brandy mà anh đưa cho.

Fermi đi rồi, Oppenheimer giang rộng cánh tay với Sở Vọng, Sở Vọng cười toe toét, cũng chẳng cố kỵ mà nhào vào chiếc ôm ấy.

Oppenheimer dùng tiếng quốc ngữ trúc trắc nói: “Ở Trung Quốc, làm thế này là không hợp lý.”

***


“Đây là tin tức chân thật nhất tốt nhất trong lịch sử loài người kể từ khi ra đời ngày Cá tháng 4 nhỉ?” Sakuma Ichiro viết tên tiếng Hán của mình lên chai rượu, cười nói với cánh sĩ quan người Anh.

Tạ Trạch Ích nhìn đồng hồ, nói, “Đã quá mười hai giờ, đừng tự làm mình bẽ mặt nữa.”

Ichiro vẫn mặt dày cười, “Không viết đại danh của anh lên sao, ngài thượng úy điển trai của chúng ta? Là đang do dự nghĩ xem nên viết tên tiếng Trung hay tiếng Anh, hay đang đợi cùng tiểu mỹ nhân của mình lưu danh trên sách sử?”

Đúng lúc Chu Nhĩ Tra đi đến, ra hiệu anh đi theo mình đến dưới nồi hơi.

Tạ Trạch Ích đứng từ xa nhìn chăm chú chiếc cầu thang kia, đi theo Chu Nhĩ Tra tiến về phía đám đông. Có người đưa rượu cho anh, nhưng anh khéo léo từ chối.

Chu Nhĩ Tra thấy anh sốt ruột thì đưa mắt nhìn sang bên phía cầu thang, bất đắc dĩ vỗ vai anh: “Đi đi.”

Anh gật đầu cám ơn cấp trên, băng qua đám đông đi về phía cô, đúng lúc Sở Vọng cũng trông thấy anh, nở nụ cười rạng rỡ chạy đến.

Nhìn nụ cười tỏa nắng ấy, bản thân Tạ Trạch Ích gần như bị cô cảm hóa.

Anh đứng yên, đang tính nói: “Chúc mừng.”

Nhưng lời còn chưa ra khỏi miệng thì một bóng người bé nhỏ đã vụt qua trước mắt anh, một khắc sau, anh cảm giác bên hông mình được cô ôm chặt. Cô nhào đến ôm anh quá nhanh khiến anh lùi về sau, đồng thời cũng giơ tay giữ cô lại, không để cô té ngã.

____

*Qin: Đùa chương này edit chả hiểu gì cả, kiểm tra lại nhiều lần lắm rồi, các bạn đọc thấy chỗ nào khó hiểu thì nói mình nhé… Thật sự mình rất dốt Lý….
 

MUALARUNG91

Tác giả
Sưu tầm
Tham gia
25/8/19
Bài viết
4,755
Điểm cảm xúc
495
Điểm
83
Chương 103: Đêm (19)
Tạ Trạch Ích nghe thấy mình đang nói: “Vui lắm đúng không?”

Anh thấy cô ngẩng đầu lên từ trong lòng mình, đuôi mắt cong cong miệng cười toe toét, để lộ hàm răng trắng đều tít tắp, không hề có vẻ ngây ngô mà lại toát lên sự ranh ma đắc chí. Cũng như cái hồi ở trên đảo xa cách đây hai năm, từ lần đó anh đã biết, cô gái mà bây giờ đang ở trong lòng anh chắc chắn không phải người lương thiện.

Cô luôn có những hành động vượt quá dự đoán của anh.

Phải để bọn họ nếm mùi lợi hại!

Ngày hôm ấy khi cô mỉm cười trước đám đông, anh đã thấy được một tầng nghĩa khác trong nụ cười ấy. Sự cuồng điên và thét gào mà chỉ có đồng loại mới có thể hiểu, đột nhiên đốt lên ngọn lửa rực cháy trong lồng ngực đã cô đơn hai mươi hai năm của anh.

Lần nữa sống lại!

Cô chính là phương Đông mà anh si mê bấy lâu. Không phải một phương Đông có Hương Cảng biến dạng vì chào đón người Anh, càng không phải một phương Đông có Thượng Hải chỉ biết nịnh nọt mặc người làm thịt, mà là vùng đất Viễn Đông cổ xưa như dòng nước chảy trong sâu thẳm máu xương, dù vất vả cùng khổ vẫn muốn nắm giữ, rồi cuối cùng cũng có ngày xuất hiện bóng hình khiến xúc cảm trong anh hừng hực, huyết mạch sục sôi, từ từ chinh phục lấy anh.

Lúc này cô đang tựa vào lòng anh, anh cực kỳ dè dặt, rất sợ nếu bất cẩn thì sẽ để cô phát giác ra sự ái mộ trong ánh mắt lẫn hơi thở mình.

Cô dùng sức gật đầu. May mà cô đã nhanh chóng buông tay, chứ nếu lâu thêm một giây nữa thì anh thật sự không dám chắc dưới tình cảnh thần hồn điên đảo, liệu anh có làm gì vượt giới hạn không.

Có người cầm chai rượu Brandy đến, trên nhãn hiệu đã chi chít những cái tên tiếng Trung tiếng Nhật.

Toàn bộ viện nghiên cứu, người có tên tiếng Trung chỉ còn lại Tạ Trạch Ích và cô.

Tạ Trạch Ích đưa chai rượu đến trước mặt Sở Vọng.

Cô nhìn mấy dòng chữ tiếng Trung kia, nói rất rõ ràng bằng tiếng quốc ngữ: “Không ký.”

Anh cầm chai rượu về.

Cô thấp giọng nói nhỏ: “Ký tên cái đách.”

Nghe cô nói câu này, Tạ Trạch Ích bật cười. Đột nhiên nhớ lại hình như anh từng chế giễu cô: “Nói tiếng Quảng không tệ.” Giờ anh lại nghiêm túc lặp lại câu đó một lần: “Nói không tệ.”

Cô mỉm cười: “Không còn chuyện của chúng ta nữa rồi đúng không?”

“Ừ.”

“Vậy về nhé?” Cô nói.

Anh gật đầu.

Cô đi ba bước, anh sải dài hai bước. Anh không đi lên trước mà chỉ đi theo sau, giữ khoảng cách không gần không xa. Lúc băng qua đám đông, cảnh vật xung quanh trở nên mơ hồ; rời xa đám đông, không thứ gì lọt vào đáy mắt anh.

Anh vốn là người thế nào cũng được. Đời này đã quen với tiêu cực, rồi người yêu nhiều lần làm anh thất vọng, cứ thế để anh sống ngày qua ngày trong chết lặng, và không phải là không thể sống tiếp với tình trạng đó. Bởi vì dẫu sao anh cũng luôn được mọi người tỏ tình, rồi chỉ nói vài câu là có thể dỗ dành được người ta; dù bị chê bai cũng chẳng muốn giải thích, không có kỳ vọng gì trong cuộc sống của mình, không tin tình yêu sẽ lại đến với mình lần nữa, và cũng không nghĩ bản thân sẽ gặp được người mình thích. Người Anh xem anh là khẩu súng, là đồng lõa thực dân nối áo cho giặc, mà anh cũng ngầm chấp nhận. Bởi lẽ chưa bao giờ có người thật sự công nhận sự tồn tại của anh, và anh cũng chẳng có bến bờ nào để dừng chân.

Anh vẫn luôn đợi cô xuất hiện, nhưng không kỳ vọng cô sẽ xuất hiện, giống như người chết khát rốt cuộc cũng nhìn thấy ốc đảo, cuối cùng cũng được nhìn thấy ánh sáng một lần trong cuộc đời tràn ngập bóng đêm tăm tối; là món quà quá đỗi ngạc nhiên, cứ như được thần linh ban tặng…

Ngay từ khi chào đời đã bị mù, chưa một lần thấy được ánh sáng, suốt đời lầm lũi trong bóng tối như loài chồn túi, sống thế cũng được. Nhưng nếu đã để anh gặp được một lần…

Rồi hai lần ba lần, không biết gặp bao nhiêu lần, chỉ muốn giam giữ cô bên cạnh mình mãi mãi.

Nếu lúc này cô ngoái đầu lại, nhất định sẽ giật mình bởi vẻ mặt của anh. Tình cảm cháy bỏng đó gần như thiêu anh hóa thành tro, đến chính anh còn cảm thấy khó tin.
 

MUALARUNG91

Tác giả
Sưu tầm
Tham gia
25/8/19
Bài viết
4,755
Điểm cảm xúc
495
Điểm
83
Chương 104: Đêm (20)
“Kính gửi anh Lâm: ngày trước hai nhà Tư Lâm đã có kết hẹn Tần – Tấn*, vô cùng cảm động trước thịnh ý ấy, nên thường dạy bảo Ngôn Tang rằng, dù làm gì tất cũng phải đặt chuyện này lên đầu. Nhưng rời Thượng Hải mấy năm, nó trở nên lười biếng tùy hứng, tính tình buông thả, khiến tôi vô cùng xấu hổ; nếu cứ mạo muội phó thác thiên kim cho con trai tôi, chỉ sợ làm lỡ dở tuổi xuân. Nghe bảo cậu sáu Diệc Dân nhà ngài Trịnh Tân Nông có tài học xuất chúng, là người nổi bật trong lứa du học sinh hiện nay; lại nghe nói năm xưa anh Lâm từng hứa gả cô hai cho nhà họ Trịnh, nghĩ đi nghĩ lại cảm thấy đúng là may mắn, sau này không có gì phải hối hận.

(*Tần Tấn là hai nước lớn vào thời Xuân Thu Chiến quốc bên Tàu. Nhà vua của hai nước ấy cưới gả con cái hai bên cho nhau trải qua nhiều đời. Do đó, từ ngữ: Tần Tấn hay Tấn Tần là chỉ sự kết thông gia giữa hai họ, sự kết hôn giữa trai và gái.)

Nếu được cho phép, vô cùng cảm kích.

Xin chắp tay kính bái

Đêm 30 tháng 3”

Dù Ngôn Tang thích cô bé ba, nhưng Tư Ưng hiểu rõ, cô hai biết tiến biết lùi tâm cơ thâm trầm mới là người có thể giúp ích nhiều hơn cho tiền đồ của con trai mình; cân nhắc hai bên đều khó chọn, chi bằng để ông thử Lâm Du một lần, xem ông ta muốn gả cô con gái nào cho Ngôn Tang cùng đồng cam cộng khổ, tới khắc ấy ắt sẽ thấy được thành ý.

Tuy bây giờ cả Lâm Du lẫn ông đều không kiêm chức vụ, nhưng ngày trước khi hợp nhất đại học Thượng Hải và trường Chính trị Pháp luật, lợi ích cá nhân của cả hai đã bị ràng buộc. Con trai trưởng của Lâm Du tốt nghiệp từ trường quân sự Hoàng Phố, địa vị sự nghiệp ở Nam Kinh đang lên như diều gặp gió. Còn ông, hai năm trước dốc toàn bộ tâm huyết vào Đông Bắc, vì thế mà địa vị của Lâm Du trong ngành giáo dục Trung Quốc đã bỏ xa ông. Nếu bảo giờ nhà họ Tư có gì hơn nhà họ Lâm, thì đó chính là thế lực Đông Bắc năm xưa trải rộng khắp nước và Đông Á vẫn còn, ông vẫn có rất nhiều tay trong mà nhiều người khác không có.

Ví dụ như Trịnh Diệc Dân thuộc phái du học Nhật, sau khi về nước tuy nhậm chức bí thư trong bộ phận hành chính của chính phủ thân Nhật, nhưng thực chất có tin đồn rằng Trịnh Diệc Dân có chức vị quan trọng ở tổng công đoàn Thượng Hải, có lẽ anh ta thuộc phái thù Nhật.

Lại ví dụ như, cô ba gần như đoạn tuyệt quan hệ với Lâm Du, lại đạt được rất nhiều thành tựu ở viện nghiên cứu tại đường vượt giới, Hồng Khẩu.

Trong thư ông không hề nhắc đến cô ba nhà họ Lâm lấy một chữ, không phải là vì không quý cô. Cô bé này bị chính cha ruột phá hỏng danh tiếng, nên ông cũng không có lý do gì để thay con trai nói chuyện cầu hôn với con gái nhà người ta. Chuyện này ông không làm được, cũng không có lập trường để nói. Trừ khi đích thân Lâm Du mở miệng: Lần nữa trịnh trọng hứa gả cô ba gần như đoạn tuyệt quan hệ với mình cho Ngôn Tang.

Lâm Du biết sau lưng hai nhà Tư Lâm có lợi ích không thể chia tách, nhất định ông ta phải đưa ra lựa chọn. Nếu là cô hai, đính hôn xong thì đưa hai người cùng đến Mỹ học, về sau ông sẽ hoàn toàn tin tưởng Lâm Du; còn nếu là cô ba, có lẽ Ngôn Tang sẽ phải trả giá vì lý tưởng của mình, sẽ bị hạn chế tự do cùng cô bé. Chính vì lẽ đó, để tương lai hai đứa nhỏ được suôn sẻ, ông phải cúi đầu khom lưng trước Nam Kinh, cùng với vùng Đông Bắc và tàn dư của nhiều năm kinh doanh, hoàn toàn quy thuận chính quyền Nam Kinh.


***

Trong biệt thự nhà họ Lâm, Doãn Yên đứng trước gương, thử từng bộ đồ mà thợ may vừa may xong đem đến hai hôm trước. Đây là buổi dạ vũ đầu tiên cô ta tham gia sau khi về nước, cô ta vẫn còn nhớ lần trước ở khách sạn Thượng Hải mình đã lép vế như thế nào, nên không muốn lại dẫm vào vết xe đổ đó nữa. Với lại, nhận lời mời lần này còn có các tiểu thư Hoa kiều cùng cô ta đi thuyền về nước. Bọn họ theo cha ruột đến Anh du học, làm quen với các quý cô người Anh da trắng cao quý, hơn nữa trưởng bối trong nhà bọn họ còn có làm ăn với Anh, nên từ nhỏ bọn họ đã được tiếp nhận nền dạy dỗ của Anh. Nên Doãn Yên không muốn lép vế trước mặt bọn họ.

Từ tất cả lễ phục phương Tây cho đến dạ vũ, nào lụa nào gấm, có kiểu bảo thủ dựng cao cô áo, cũng có bộ đồ hở lưng rất tân thời, hở gần như đến cuối cột sống… Thử tới thử lui thấy bộ nào cũng thích, nhưng bộ nào cũng thiếu thứ gì đó. Doãn Yên mặc một bộ trên người, trong tay cầm một bộ, gọi với lên lầu: “Mẹ!” Rồi ảo não hỏi: “Con nên mặc bộ nào mới được đây?”

Nhưng mãi mà không nghe thấy tiếng trả lời.

Ở trên lầu, sau khi nhận được thư, Chu thị đứng ngồi không yên, buổi sáng giả vờ trước mặt con gái một lúc lâu, đợi mãi Lâm Du mới từ trường về, cho nên đến tận bây giờ bà mới bàn bạc được với ông.

“Tôi đã sớm bảo Ngôn Tang này không có tiền đồ gì rồi, ông lại cứ chiều con bé!”

“Ai chiều nó nhiều hơn hả?” Lâm Du nghe thế, phá lên cười.

Chu thị nổi cáu: “Hồi ở Pháp, Anh, không phải ngày nào ông cũng gọi điện nói, thư gửi con bé có thể kéo dài từ trường học đến nhà, hòm thư trong nhà một tuần dọn một lần. Trong lứa du học sinh còn nhiều đứa trẻ tuổi tuấn tú, không nhân đó mà tìm người ưu tú nhất đi, việc gì phải đợi tới lúc này?”

“Không phải là do Doãn Yên không thích à. Tôi thấy mấy đứa đó không đứa nào bằng được con trai Tư Ưng cả. Thân là người làm cha, tôi vẫn thấy Ngôn Tang tốt nhất.”

“Cậu ta thì có tiền đồ gì hả! Không biết có bao nhiêu tiến sĩ Oxford theo đuổi con bé, còn cậu ta không lo học hành, mấy lần suýt bị nhà trường đuổi học,” Chu thị lại nghĩ đến điều gì đấy, “Thằng con thì thua xa người ta, còn ông cha, có phải mấy năm gần đây cũng không được gì đúng không? Giờ Nam Kinh rất thân với Nhật, ông ta lại khăng khăng muốn làm sơn phỉ không thờ hai chủ. Sau này mà cứ thế thì có phải làm liên lụy chúng ta không hả?”

Lâm Du không vui: “Phụ nữ thì biết cái gì, đừng có nói nữa.” Vì buổi chiều còn có lớp phải dạy, ông lập tức khoác thêm áo rồi đi ra ngoài.

Chu thị ngồi trong thư phòng, đọc lui đọc tới lá thư của Tư Ưng. “Tài học xuất chúng”, bà cẩn thận nghiền ngẫm bốn chữ này, lại nhớ đến chuyện Trịnh Diệc Dân thuộc phái du học Nhật, bà lập tức phát giác được một hai. Tiếc là bà không có bạn bè ở Thượng Hải nên không thể nhờ người hỏi thăm, ủ rũ ngồi trên ghế một lúc thì mới nhớ ra đứa con cả đang nhậm chức ở Nam Kinh.

Từ lúc về nước đến nay bà vẫn chưa gặp mặt con, con cũng chưa từng đến thăm hay gọi điện về nhà. Hỏi Lâm Du thì ông chỉ bảo: “Giờ con nó rất được xem trọng, dĩ nhiên rất bận.”

Là bận hay là vẫn oán hận người làm mẹ không nuôi nấng này?

Bà đã xem ảnh của con trai được Doãn Yên mang đến châu Âu – từ năm sáu tuổi đến mười tám tuổi, giờ đã là sĩ quan, chắc hắn còn phải cao ráo điển trai hơn trong hình.

Nếu bình thường không để ý đến mình, vậy hôm nay lấy danh Doãn Ynê hỏi anh cả về hôn sự của em gái ruột, chắc không đến mức ghét bỏ đâu nhỉ?

Nghĩ đến đây, bà lập tức nhấc máy, gọi dãy số gồm bốn số đã thuộc làu. Một hồi lâu sau, đầu dây vang lên giọng nam trung ấm áp. Sau một tiếng “a lô”, bà không biết phải nói gì, chỉ hỏi: “Cho hỏi, cậu Trịnh Diệc Dân đang nhậm chức ở đâu?”

Âm thanh đầu dây lạnh đi ba độ: “Anh Trịnh đang làm bí thư hành chính, sao?”

Tim Chu thị đập thình thịch, suýt đã mếu máo: “Tử Đồng à…”

“Bà Chu.” Âm thanh lạnh lùng ngắt lời bi thương của bà, “Tôi xin bà đừng có xen vào hôn sự của em hai.”

“Tử Đồng ——”

Đầu dây cúp máy cái rụp.

Nắm chặt ống nghe, Chu thị tủi thân đấm xuống ghế. Vì sao bà lại không thể? Bà là mẹ đẻ của Doãn Yên, là nữ chủ nhân của biệt thự nhà họ Lâm. Bà là bà Lâm, không phải bà Chu nào hết!

“Mẹ! Mẹ?”

Doãn Yên ở bên dưới gọi bà hai tiếng, vẫn không ai đáp. Thế là dứt khoát hét lớn: “Bà Lâm!”

Vừa hét xong, Doãn Yên mặc một bộ sườn xám lụa màu tím ánh quang không tay thướt tha đi lên, ló đầu ra hỏi: “Bà Lâm, ai lại chọc bà mất hứng vậy?”

Chu thị xoay mặt đi chỗ khác, dụi mắt rồi mới quay sang cười nói: “Làm gì có ai!”

“Gọi mẹ mãi mà không trả lời,” Doãn Yên vịn lan can xoay người hai cái, “Bộ này có đẹp không?”

Chu thị bĩu môi, lắc đầu, “Đã không có thịt rồi, mặc bộ này vào càng thêm gầy, thế thì đi giày cao gót sao được?”

“Thế đổi sang bộ nào đây ạ?”

“Nếu đã có người phương Tây thì nhất định phải mặc sườn xám. Trong mấy bộ mới may xong hai hôm trước, có một bộ lụa hoa văn hình mây màu gừng…”

Doãn Yên rất nghe lời bà, nên khi vừa thấy con gái, mọi gút mắc trong lòng Chu thị tức khắc tan biến.

Theo như ý muốn của con bé ba, để nó gả cho nhà họ Tư gần đất xa trời, còn Doãn Yên thì hứa hôn cho người tốt hơn, vậy chẳng phải chu toàn đôi bên ư?

Nhân lúc con gái xuống lầu thay quần áo, Chu thị vội giở số điện thoại nhà họ Trịnh ra, đợi đến khi Doãn Yên thay đồ xong đi lên, Chu thị nghĩ ngợi một hồi, nhét mẩu giấy ghi số điện thoại xuống dưới đệm sofa, lúc cô ta trình diễn sườn xám thì hỏi: “Nếu có thanh niên tài giỏi đẹp trai lại xuất sắc hơn cậu nhà họ Tư, mà cũng là thế gia như nhà ta, lại còn là thanh mai trúc mã với con, thì con có chịu gả không?”

Doãn Yên lắc đầu, “Không chịu.”

Chu thị cau mày: “Vì sao?”

Doãn Yên mặc sườn xám đi chân trần, nhảy mấy bước trên cầu thang, gương mặt cũng linh động xoay chuyển theo, “Không biết nữa, từ nhỏ con đã có một trực giác, cảm thấy sau này nhất định phải gả cho anh Ngôn Tang. Sao có thể gả cho người khác được?”

Chu thị nghĩ bụng: cũng được, vậy thì bà sẽ tối nay sao rồi hành sự sau.

Tuy bây giờ hay bảo con gái gả muộn thì tốt. Có điều theo bà thấy, gả muộn là do xuất thân kém, cần con gái làm lụng nuôi cả nhà qua ngày. Đàn ông làm gì có ai không thích người trẻ? Tới khi kết hôn thì bao giờ cũng chọn người trẻ.

Giờ đây con bé cũng đã mười tám rồi, không còn nhỏ nữa.

Nếu là yến tiệc lần đầu tham dự sau khi về nước, thì có thể phô ra phong thái trong buổi dạ tiệc, nhất định trong số những người tới có rất nhiều nhân tài, chắc hẳn sẽ không thua kém Trịnh Diệc Dân.

Nếu không thể thì phải nhanh chóng làm thân với phu nhân nhà họ Trịnh mới được.

Bà mỉm cười nói: “Bộ này đẹp đấy. Lấy bộ này đi.”

***

Người Nhật vẫn đang đắm chìm trong niềm vui nguyên liệu mới mới ra đời có thể cứu đảo quốc thiếu thốn tài nguyên, bất kể là nhà khoa học hay là sĩ quan, bọn họ gần như quên khuấy cam kết rút quân ra khỏi Nam Kinh.

Từ sáng sớm, ở tầng năm tòa nhà nghiên cứu, cách lãnh sự quán nhìn về Hồng Khẩu: ở đó chi chít cửa hàng và nhà máy Nhật Bản, ra vào toàn là người Nhật và cu li Trung Quốc, ai ai cũng có nét mặt hệt như thường ngày, không có dấu hiệu sẽ rời đi.

Thế thì thương hội Trung Quốc ăn mừng chung với bọn họ làm gì?

Tuy đã biết đáp án này từ sớm, nhưng khi nó dần dần trở nên rõ ràng, nỗi đau và tức giận trong lòng vẫn không thể át chế.

“Mẹ kiếp!” Cô chỉ có thể phát tiết cơn giận và sự khinh bỉ bằng câu chửi tục tiếng Quảng này. Nói xong, cô rảo bước nhanh chóng rời khỏi đám đông làm người ta cảm thấy mỉa mai này.

Cô có thứ quan trọng hơn muốn nhanh chóng ghi chép lại.

Vì đang kích động nên bước chân đi thật nhanh, hai mắt phát sáng.

Trên thực tế, từ lâu cô nghĩ đến một thứ kinh khủng.

Máy tính điện tử đầu tiên được phát minh vào năm 1946. Còn trước đó, có rất nhiều bài tính trong vật lý hạt nhân đòi rất rất nhiều người phải tự tính tay cả ngày lẫn đêm. Với máy tính, khối lượng công việc có thể giảm đi đáng kể.

Nhưng dù không có máy tính, tuy sẽ chậm hơn nhưng có một số thứ không phải là không thể.


Ví dụ, hầu hết mọi người đều cho rằng “động đất” chỉ là một hiện tượng tự nhiên.

Nhưng ngay sau trận động đất là thời tiết.

Trên thực tế, các vụ nổ có định hướng không chỉ được sử dụng cho mục đích quân sự, nhanh chóng phá hủy cơ sở hạ tầng nhanh chóng,… mà còn có các chức năng mở rộng như: kiểm soát khí hậu, gây ra động đất, sóng thần nhân tạo, lũ lụt, mưa lớn, mưa đá, sông băng cao nguyên, tan chảy sông băng hai cực… Thậm chí còn định hướng được vết nứt của vỏ trái đất.

Nó được gọi là “động lực khí quyển nổ”.

Chỉ cần giải quyết được các phương trình cực kỳ phức tạp, rồi xây dựng các ống thông gió, đường hầm nước, đường hầm nổ, các phương tiện công trình thủy lợi tương ứng ở các khu vực nhất định… thì có thể gây ra xoáy khí quyển hoặc nhiễu loạn đại dương dưới dạng mạng tinh thể hoặc vụ nổ có định hướng.

Không cần phải đợi tới lúc Nhật Bản nhận ra rằng nên dừng phản ứng hạt nhân bất tận này lại, chứ đừng nói đến việc đợi tới khi động đất tự nhiên xảy ra.

Chỉ cần cô muốn, bất cứ lúc nào bất cứ ở đâu.

Vừa về đến nhà, cô nhanh chóng ghi lại kiến thức và linh cảm của mình ra giấy. Nằm trên giường, cô viết một loạt các ký tự trên giấy nháp mà chỉ có cô mới có thể hiểu được. Một lúc lâu sau cô ngủ thiếp đi, đến tận chiều tối vẫn chưa tỉnh. Dì giúp việc có ghé đến dọn dẹp rồi cũng đi luôn, không đánh thức cô dậy.

***

Đến gần năm giờ, cô bị Di Nhã kéo ra khỏi đống giấy nháp.

“Các đại tiểu thư của tôi ơi! Mới mấy tháng không gặp hai người mà cậu đã gầy gò tiều tụy đến mức này rồi hả, mình đang lo không biết có phải hai người lén giấu mình dây vào đám tiểu thư dở hơi trong nước, học bọn họ hút thuốc hay không, vừa lên lầu đã gặp cậu —— Như thế không tốt hả! Môi đỏ răng trắng mới là khỏe mạnh!”

Sở Vọng không biết, mấy phút trước khi Di Nhã đến thì đúng lúc gặp Tạ Trạch Ích đi ra ngoài. Trước khi đi, anh đã bóc sẵn một chén tôm, châm một bình trà hoa lài đặt trên bàn, tình cờ bị Di Nhã bắt gặp. Sờ vào bình trà, âm ấm, rất vừa miệng, cô nàng không khỏi cười thầm. Đầu nghĩ: người ở bên dưới thì tiêu cực sút hẳn mấy cân, còn người trên lầu, chỉ mong mấy tháng vừa qua không bị anh mình chiều tới mức tàn phế.

Sở Vọng ngơ ngác chui ra khỏi chăn, bị cô nàng tức giận đẩy vào phòng tắm. Dòng nước nóng đã giúp cô tỉnh táo phần nào, bèn hỏi: “Đã gặp Chân Chân chưa?”

Di Nhã tức điên lên: “Nó còn khó mời hơn cả cậu đấy. Gọi mười cuộc mà đến hai cuộc cuối mới gọi được. Cuộc đầu tiên, mình nói với cậu ta, ‘tiệc ba nước Trung Nhật Anh, nếu cậu không đi cùng tôi thì ai tới giúp Đại Trung Hoa của chúng ta thêm rạng rỡ đây?’ cậu ta chỉ đáp một câu: ‘Không đi, không giúp.’ rồi gác máy. Mình còn không tin, lại gọi thêm một cuộc: ‘Nếu cậu không đi, Linzy đi với tôi đến tiệc kiểu gì cũng sẽ bị người ta bắt nạt, ai giúp cậu ấy đây?’ Cậu ta suy nghĩ chừng ba phút mới bất đắc dĩ đồng ý. Cậu nói xem, có phải nó thiếu nghĩa khí không?”

Cô nghe thế thì bật cười, “Giờ chị ấy đang ở đâu?”

“Ở bên dưới, ngồi trong xe ông Tưởng cho người đưa đón chúng ta. Hôm nay cậu ta mặc sườn xám xanh lam ngắn ngang đầu gối, cậu đừng chọn đồ đụng hàng với cậu ta đấy.”
 

MUALARUNG91

Tác giả
Sưu tầm
Tham gia
25/8/19
Bài viết
4,755
Điểm cảm xúc
495
Điểm
83
Chương 105: Đêm (21)
Tuy nhà họ Lâm đã có xe riêng đưa đón Doãn Yên, nhưng trước lúc xuất phát, Chu thị vẫn không yên tâm, nằng nặc muốn lên xe cùng đưa con gái đến khách sạn Hoa Mậu. Chặng đường mười mấy phút nhưng lại cảm thấy có nói thế nào thì vẫn chưa đủ, phải nói tràng giang đại hải mới thỏa: “Đây là buổi tiệc xã giao đầu tiên con tham gia từ sau khi về nước, đừng quên những phép tắc đã học hồi còn ở Anh và Pháp đấy, phải luôn luôn ghi nhớ, đừng để người khác chê cười.” Lúc du học ở Nhật, Chu thị cũng được xem là mỹ nhân Trung Quốc, nhưng sau đó chỉ vì thân phận nên mất cơ hội đến những nơi chính quy như thế này, vậy là bà ta bèn dốc hết tâm huyết lên người con gái.

“Ở Hương Cảng chỉ lác đác vài ba trường nữ, kiểu gì cũng gặp bạn cũ ở Thượng Hải. Con bé cháu ngoại của bác cả của con đấy, Tiết Kỳ Kỳ…”

“Là Tiết Chân Chân!”

“Gì cũng được, nói chung nó cũng chưa được tiếp xúc với tập quán nước Anh đâu. Đến lúc đó cứ nghĩ xem con là ai, còn chúng nó là ai, có nói gì hay làm gì thì cũng phải nhớ tỏ ra kiêu ngạo đấy, cô Lâm của mẹ ạ.”

“Biết rồi.” Làm sao có chuyện Doãn Yên không biết mẹ cô ta có lòng muốn câu chàng rể rùa vàng? Bà vui vẻ ngồi lên xe, nói nhiều đến nỗi làm cô ta phải trợn mắt. Cuối cùng xe cũng dừng lại, ở trên xe thì còn sầm sì mặt mày, nhưng vừa đẩy cửa xe ra, cô ta lập tức đổi sang dáng vẻ yêu kiều tựa búp lan, cầm túi xách đan mây đi tới: “Lancy, Polla, đúng dịp quá!”

Cô ta thấp giọng lên tiếng, bốn cô gái với bốn màu da khác nhau ở trước cửa khách sạn đồng loạt ngoái đầu, mỉm cười chúm chím gọi Doãn Yên: “Linna, đúng là đúng dịp.”

Nhân lúc trường trung học tư thục đang được trùng tu, sáu, bảy nữ sinh có được cơ hội du lịch một năm, thế là cùng về Trung Quốc với nhau. Có người về nhà để đoàn tụ với gia đình, cũng có người có cha chú được phái đến Nam Dương làm sĩ quan hoặc kinh doanh, cho nên tiệc tùng không thể thiếu được bọn họ. Các cô gái đã hẹn với nhau là sẽ gặp mặt ở bên ngoài Hoa Mậu, đến lúc đó cùng xuất hiện, như thế sẽ thu hút ánh nhìn hơn là xuất hiện đơn lẻ. Thế còn không phải “đúng dịp” thì là gì?

Bốn người cùng nhìn chiếc váy sườn xám của Doãn Yên, thầm lấy làm vui vì không đụng màu. Polla thở phào, sau đó lại cười nói: “Linna, hai hôm trước mình từng thấy có người mặc bộ đồ giống cậu đấy. Con gái chúng ta, bình thường mặc còn được, nhưng đây là tiệc khiêu vũ mà, đèn xoay màu đỏ mà chiếu lên thì dễ làm mình trông tối đi lắm. Haiz, từ lúc xuống thuyền đến giờ chỉ mới bốn năm hôm, đi đâu may đủ quần áo vừa người đây? Cũng may là trước khi lên thuyền, thím mình đã nhờ thợ may Thượng Hải may gấp hai bộ.”

Lancy và Brian nhìn chiếc váy lụa dài màu hồng của Polla, “Kiểu này vừa đơn giản vừa đẹp, đem lại cảm giác tinh tế.”

Polla im lặng mỉm cười.

Brian còn nói: “Chắc chắn phải là màu trắng vì nó rất dễ nhìn; Có điều, để phù hợp với phong cách này thì thường phải cắt vai đi, với cả con gái có eo thon nhỏ mới mặc hợp. Người da trắng trời sinh đã có khung xương lớn, phải quấn chặt thắt lưng mới mặc được. Nhưng vải lụa không như thế, mặc đồ lụa là để phô đường nét cơ thể, không thể mặc lớp lót nào được. Nên chỉ có người phương Đông mặc mới hợp, đáng tiếc lại chưa trắng lắm.”

Lancy cũng là người da trắng, nghe nửa vế đầu thì không vui lắm; bởi vì trong số bọn họ, Polla là người đẹp nhất, cô nàng lại không cam lòng tối nay chỉ có một mình Polla nổi tiếng, thế là cũng lên tiếng phụ họa, “Phụ nữ Đông Á mà vừa trắng vừa có vóc dáng đẹp thì khó tìm lắm. Chỉ sợ nhà thiết kế này muốn làm khó con gái chúng ta, tìm khắp thế giới e cũng chẳng được mấy người.”

Tối nay Doãn Yên có ý định muốn “e thẹn kiêu ngạo”, không ngờ vừa ra mắt thì đã có va chạm, thế là cũng ăn miếng trả miếng: “Hay là đổi sang màu tím hải đường đi, đứng dưới ‘đèn xoay màu đỏ’ đó có lẽ sẽ đẹp hơn đấy.”

Polla hừ một tiếng, đi về phía trước.

Bốn người cười nói đi theo. Đúng như dự đoán, năm người vừa băng qua đại sảnh dưới ánh đèn vàng rực rỡ, lập tức các quý ngài mặc âu phục dừng chân ngắm nhìn mỹ nhân.

Giả vờ như không thấy những ánh mắt nóng bỏng xung quanh, năm chị em cùng bỏ qua hiềm khích, thấp giọng cười nói phô bày vẻ đẹp.

“Giới nữ được mời tối nay đều là khách quý cả đấy, biết vì sao không? Cả chủ lẫn khách lần này đều là là các học giả Vật lý, Toán học và Hóa học ở viện nghiên cứu, thậm chí còn có cả sĩ quan cấp cao cũng như chủ tịch hiệp hội thương mại Thượng Hải Hương Cảng nữa. Các cậu nói xem, ở nơi này thì nữ giới sẽ là ai?” Cha của Polla là một tử tước, năm người anh thì một người thuộc Hội Hoàng gia, hai người là thượng tá và trung úy hải quân hoàng gia, cũng rất được các cô gái theo đuổi.

Thư Nhã nói: “Nên mẹ mình mới nằng nặc bảo mình đến, nói đây là buổi dạ vũ cao cấp hiếm khi có, tuyệt đối không có người có ý đồ xấu xa.”

Những người khác thường hay chê bai gia giáo nhà Thư Nhã cổ lỗ sĩ, thế nhưng lúc này lại rất thích nghe những lời khen cổ lỗ sĩ này. Lancy nói: “Mẹ ruột cậu có nói cậu nhìn trúng ai thì đừng buông tay không?”

Mọi người cười phá lên, Thư Nhã tức giận muốn đánh Lancy; Doãn Yên cũng cười, song sắc mặt không được tốt lắm.

Nhưng ở cái nơi tràn ngập hormone đàn ông này, thì việc các cô gái xinh đẹp ăn mặc lộng lẫy đùa giỡn nhau không chỉ không ảnh hưởng đến đại thể, mà thậm chí còn khiến người ta cảm thấy dễ chịu vui vẻ. Dĩ nhiên năm cô gái tự biết những hành động vô tình của mình đã thu hút nhiều sự chú ý, thế nên có cãi vã cũng phải trông tự nhiên và đáng yêu.

Ông nội của Brian đã chuyển đến Anh từ lâu, cha chú trong nhà cũng là thương nhân có máu mặt ở Anh, cả nhà đều mang quốc tịch Anh, đã lâu lắm rồi không về Trung Quốc. Lần này là lần đầu tiên cô ta về nước, cho nên vẫn còn lóng ngóng không rõ về giới thượng lưu Trung Quốc, thế là mời cô Ngụy – người họ hàng từ nhỏ đã cắm rễ ở Thượng Hải đi cùng, để tiện bề nhờ cô ta giới thiệu nếu thấy có nhân vật nào đó trong buổi dạ vũ.

Mấy người Brian các cô mới về nước, đến một buổi xã giao mới, nếu không có người giới thiệu thì ắt hẳn sẽ rất lúng túng. Brian quyết không để sai lầm như thế được phép xảy ra, thế là căn dặn cô Ngụy nhất định không được đến trễ hơn so với bọn họ. Từ phòng khách đi thang máy lên lầu, trông thấy cô Ngụy một mình đứng trước cửa phòng, trong đám đông sang trọng cũng đang đứng chờ, cô ta không chút nổi bật, trái lại càng có vẻ tầm thường.

Cô Ngụy vốn không có cơ hội đến các buổi tiệc xã giao cao cấp như thế này. Có người mời cô ta đi, bất kể là gì cô ta cũng không cho phép bản thân từ chối cơ hội tốt đến thế. Chính vì vậy, cô ta đã chọn bộ trang phục đắt tiền nhất mình có, còn vì thế mà đắc chí cả ngày, cảm thấy giá trị bản thân đã được nâng cao.

Nhưng khi cửa thang máy mở ra, vừa thấy năm cô gái kia, cô Ngụy lập tức cảm thấy mình thua kém, tuy vẫn mỉm cười đến đón, nhưng tay chân lại rất lúng túng, không biết phải thích ứng thế nào.

Brian thấy họ hàng của mình kém như vậy thì sắc mặt cũng chẳng tốt lắm. Vừa ra khỏi thang máy, không đợi bốn người kia có cơ hội đưa mắt đánh giá, cô ta đã vội đi tới giới thiệu với Ngụy tiểu thư: “Lancy Von Karman, Polla Fessenden, Linna Lâm, Thư Nhã. Còn đây là Thấm Á Ngụy.”

Bốn người lần lượt tự giới thiệu, đến lượt cô Ngụy, tuy đã học tiếng Anh ở trường nữ thục Trung – Tây sáu năm nhưng phát âm tiếng Anh vẫn đặc sệt tiếng Trung, lập tức khiến Brian trở thành dã tràng se cát.

Bốn người còn lại không nói gì, vẫn thân thiện mỉm cười trò chuyện với cô Ngụy; tuy ngoài mặt rất muốn giả vờ bỏ qua màn giới thiệu nhau lúc nãy, nhưng điều này đã làm Brian biết: hôm nay người họ hàng của cô ta đã khiến cô ta mất giá rồi.

Nhưng bản thân cô Ngụy vẫn chưa nhìn ra. Bốn cô gái thân thiện mỉm cười, cơ hồ khiến cô ta lầm tưởng mình cũng là một trong số họ.

Cô ta cũng là người rất biết tùy mặt gửi lời. Nghe nói để biết một người có được giáo dục kiểu Anh cao quý hay không thì bình thường sẽ nhìn chân trước: các cô gái gia đình quý tộc kiểu Anh thường mặc quần dài đi ủng cưỡi ngựa, dần dà, hậu di chứng của sự cao quý ấy là chân vòng kiềng. Vừa rồi lúc ra khỏi thang máy cô ta đã chú ý, trong đó chỉ có một cô gái da trắng mặc lễ phục hoa hồng đỏ, hình như tên là Polla là như vậy.

Khi Brian có vẻ không vừa ý với phản ứng của cô ta, cô ta bèn thử gần gũi với Polla xem thế nào.

Bốn tầng khiêu vũ ở Hoa Mậu có thiết kế rộng thoáng rất nổi tiếng —— tầng thứ nhất cao hơn tầng thứ ba, ở giữa là một tầng trống, đi lên dọc theo cửa sổ là đến sàn nhảy – hơn phân nửa tầng này là để mọi người thưởng thức tham quan, hai tầng bên dưới là khu vực để mọi người xã giao khi đã khiêu vũ mệt, hoặc đứng hoặc ngồi cùng chuyện trò uống rượu; tầng hai thì thanh nhã hơn, chỉ có lan can mà không bố trí ghế ngồi, là nơi giao lưu vô cùng yên tĩnh, không cho phép bất cứ ai quấy rầy.

Chưa đến giờ nên người vẫn chưa tới đủ, người chơi dương cầm vô cùng tinh tế, đánh một điệu trữ tình thư giãn. Năm người ngồi xuống băng ghế gần sàn nhảy, nhìn nam nữ cặp tay nhau đi ngang qua trước mặt, thỉnh thoảng lại có những ánh mắt như có như không phóng đến.

Năm người con gái vui vẻ trò chuyện bằng tiếng Anh.

Lancy cười nói: “Rất dễ phân biệt người da gì với quốc tịch gì đấy nhé. Người Anh thì không nói rồi, còn người da vàng, nếu mắt ai vừa híp vừa ác thì là người Nhật; còn ánh mắt u ám thì là người Trung Quốc. Linna, cậu nói xem mình nói có đúng không?”

Doãn Yên đáp, “Cũng đúng, nhưng không phải đúng hoàn toàn.”

Polla nói: “Mình lại cảm thấy, người Trung Quốc hung hãn với lười biếng nhất, lại còn khó gần gũi nữa. Linna, cậu bảo xem có đúng không?”

Doãn Yên mỉm cười, “Polla nói chính xác hơn đấy.”

Lancy thua một nước, ngoảnh mặt nhìn về phía sàn nhảy.

Trước khi Doãn Yên đến, Lancy và Polla đã tranh giành nhau vị trí hoa khôi trường học rất nhiều năm. Bàn về tướng mạo thì Lancy đẹp hơn, đáng tiếc nhà Lancy chỉ là gia đình tầm trung, không được tiếp nhận nền giáo dục tốt hơn Polla. Hai người minh tranh ám đấu nhiều năm, số vệ tinh theo đuổi nhiều tới nỗi không thể phân thắng bại, nhưng dù là vậy thì bọn họ cũng không đồng ý kết giao với bất cứ người nào, bởi vì sợ rằng sẽ còn người tốt hơn nữa đang theo đuổi, nếu như nhận lời tỏ tình thì sẽ bị đối thủ đánh bại.

Con gái da trắng vốn coi thường người da màu, không ngờ Doãn Yên chỉ vào học chưa đến một năm, thư tình của du học sinh Trung Quốc cả trong lẫn ngoài trường tới tấp gửi đến, không khỏi khiến hai người họ phải nhìn cô nàng bằng con mắt khác; lại vì có Brian giàu có giới thiệu, hơn nữa thoạt trông cô nàng khá dịu dàng, không ganh đua tranh giành, chỉ chú tâm học tập, nên cô nàng luôn là người đưa ra quyết định sau cùng khi hai chị em cãi cọ, việc gì cũng phải nhờ cô ta chỉ rõ đúng sai.

Polla thừa thắng truy kích, “Không phải mình nói câu đó đâu nhé.”

Lancy giễu cợt, “Thế ai nói? Brian? Hay Thư Nhã?”

“Jack London*.” Polla nói xin lỗi, “Ối mình quên mất, chắc chắn trong nhà các cậu không sưu tầm sách của ông ấy đâu nhỉ.”

(*Jack London là nhà văn nổi tiếng người Mỹ, tác giả của Tiếng gọi nơi hoang dã, Gót sắt, Martin Eden, Tình yêu cuộc sống, Nanh trắng và hơn 50 tác phẩm khác.)

Lancy tức đến giận run, nhưng vẫn cười nói: “Chí ít là mình biết không nên mặc váy hoa hồng đỏ trong ánh đèn đỏ, để váy vóc và mặt mũi trở nên tự nhiên hơn.”

“Được rồi được rồi.” Doãn Yên giảng hòa, “Polla mặc váy này đẹp lắm, cực kỳ đẹp ——” Đợi sắc mặt Polla dịu đi, cô ta không quên đâm thêm một câu, “Nhưng nếu có thể đổi màu khác đậm hơn thì sẽ hoàn mỹ hơn nữa.”

Thư Nhã và Brian giảng hòa, dần dà chuyển chiến trường chuyển về phía khách mời: “Nghe nói có rất nhiều sinh viên xuất sắc của Cavendish và Cambridge đấy. Có phải không Polla?”

Polla nói: “Mình không hứng thú với mấy con mọt sách đọc sách tiếng La-tinh.”

Doãn Yên không vui, Thư Nhã cười phì: “Cậu mắng luôn người tình trong mộng của Linna rồi đấy.”

“Đại tài tử ngành Địa chất ở Oxford cũng đến à?”

Doãn Yên nói, “Anh ấy mà không đến, mình quyết không khiêu vũ với người khác.”

“Cậu mà cũng khiêu vũ với người ta hả?”Polla quét mắt nhìn cô ta một lượt, “Mình cứ tưởng người Trung các cậu luôn cho rằng khiêu vũ là không đứng đắn.”

“Sao lại nói thế?”

“Chưa nghe thầy dạy Tăng-gô nói à? Khiêu vũ khó mà rạch ròi với chữ ‘tình’. Nếu không vì sao cứ nhất thiết phải là một nam một nữ nhảy với nhau, bình thường trong lớp khiêu vũ của chúng ta, hai đứa con gái nhảy thì đâu có tầng nghĩa đó?”

Doãn Yên bị cô ta làm cho đỏ mặt, “Đó là nghệ thuật! Sao có thể nhục dục thế được?”

Lancy lại lấy làm hứng thú, “Vậy thì tiểu thư Polla, cậu đã được ai ‘mời tình’ rồi sao?” Vừa nói, cô ta vừa dùng ngón trỏ dài nhọn lơ đãng chỉ chỉ vào đoàn người Oppenheimer đang tiến vào, “Là tay học giả Do Thái mắt to kia?”

Polla híp mắt lắc đầu.

“Sĩ quan quân cảnh Nhật Bản?”

Polla cười phì: “Đi giày cao gót, hắn ta cũng chỉ có thể ôm đùi mình mà khiêu vũ thôi.”

“Vậy là sĩ quan Anh may mắn nào đây?”

Đôi mắt màu xanh lá của Polla dao động qua lại giữa cánh đàn ông cao lớn mặc âu phục đen, chỉ cười không nói.

Thư Nhã hỏi: “Polla nhìn ai vậy?”

Hai năm gần đây Doãn Yên bắt đầu bị cận thị, chỉ cách hơi xa là đã không nhìn rõ mặt, bất chợt hỏi, “Bên đó là sĩ quan Anh đúng không, vì sao trong số đó lại có gương mặt người da vàng vậy?”

Lancy nói, “Năm sáu năm trước ở Luân Đôn, có ai mà không biết Zoe Tse, chuyện này thì có gì kỳ quái?”

Doãn Yên không phải là “dân Luân Đôn”, “năm sáu năm” đó khiến cô ta phải ngậm miệng, không nói được gì. Miên man suy nghĩ, cảm thấy hình như cái tên này trùng với tên tiếng Trung của ai đó, nhưng nghĩ hoài mà vẫn không nhớ ra là ai.

Polla nói, “Mấy ông anh nhà mình hay nhắc đến anh ấy lắm. Người nhà mình thường xuyên đọc sách của Jack London, nên cũng rất thích người Trung. ‘Người Trung Quốc âm hiểm, vừa lười nhác lại khó thân thiện’, trong xương có sẵn bản tính hoang dại. Bọn họ nói bởi vì Zoe Tse, bọn họ rất tin vào lời này.”

“Không phải đâu Polla…”

Mấy chị em còn chưa kịp trêu ghẹo cô ta thì đột nhiên cảm thấy phần đông ánh mắt trong đại sảnh không còn chú ý đến bọn họ nữa, mà cũng giống như bọn họ, nhìn ra ngoài cửa: ở nơi ấy có ba mỹ nhân phương Đông đang bước vào.


Người đi cuối cùng có khí chất dung hòa giữa thiếu nữ và phụ nữ, hẳn phải đang ở một giai đoạn chuyển tiếp nhưng lại như không thể chuyển tiếp; cô có gương mặt non trẻ hoạt bát như trong những câu chuyện cổ, trong đôi mắt đen láy kia phảng phất có chấm sắc lam thơ ngây, nhưng sắc lam ấy như có thể chìm dần trong biển đen nguy hiểm bất cứ lúc nào. Hẳn là màu đen trong mắt quá nặng nên đuôi mắt dài khẽ chùng xuống, thỉnh thoảng tỏ vẻ quyến rũ ngây thơ; đôi môi bóng loáng sắc đỏ, mà nét đỏ tươi ấy đã điểm xuyết mỹ cảm khác thường trên gương mặt, là mỹ cảm trầm lặng đến uy nghiêm khiến người ta yên lòng. So về chiều cao, có thể xem cô là một cô gái Trung Hoa cao ráo, nên mới có thể mặc được chiếc váy lụa mềm mà ngay cả Polla cũng không thể mặc; hơn nữa chính mọi người đã nhấn mạnh: phải là mỹ nhân phương Đông da trắng vai nhỏ eo thon, phải mặc váy màu tím hải đường. Trong khoảnh khắc cô bước vào cánh cửa, màu tím vốn vô cùng khiêm tốn lập tức bung nở thành màu đỏ tươi dưới ánh đèn màu.

Thấy khung cảnh ấy, năm cô gái nổi trội một buổi chiều thoáng chốc chìm nghỉm.

Cô Ngụy biết họ là ai, mà đâu chỉ có biết. Tiếng Anh của cô ta không được tốt, nên vừa nãy khi các cô gái kia nói chuyện, cô ta còn không có cơ hội mở lời. Bây giờ vừa có cơ hội, cô Ngụy lập tức nhanh nhảu giới thiệu từng người một:

“Mia Tse, gần đây mới đính hôn với ông trùm số một Macau, theo ông ta đến rất nhiều nơi ngoại giao cao cấp, coi như cũng đã trải đời; người phía sau là con của một gia đình rất giàu có, có điều ở Thượng Hải này thì người giàu cũng vậy thôi, không phải gia đình quá xuất sắc; còn cô ba nhà họ Lâm phía sau lại càng không được, đã bị cha đuổi khỏi…”

Cô Ngụy còn chưa dứt lời, quý cô Di Nhã “đã trải đời” lanh mắt, tức khắc trông thấy Doãn Yên đang đứng giữa Lancy và Polla, gần như không kìm được, hớn hở “ha” lên một tiếng. Bên này là băng ghế dài dành cho các cô gái đang đợi người mời khiêu vũ, vừa hẹp vừa dài. Năm người bọn họ chiếm vị trí tốt nhất, Di Nhã bước lên trước ba bước, lễ phép hỏi bằng tiếng Anh: “Tôi và bạn mình có thể ngồi ở đây được không?”

Polla nhìn cô ấy, rồi lại bỏ qua cô đánh giá bộ quần áo trên người Sở Vọng; thấy Sở Vọng đánh mắt nhìn đến, cảm thấy mình thất thố thì mới thôi nhìn, nhướn mày nhìn Di Nhã, trong ánh mắt như đang nói: quý cô à, cô không mời mà đến như vậy là thất lễ đấy.

Di Nhã lại làm như không thấy, cười cười, gập người thân thiện hỏi: “Đây là Linna… Có phải là Linna không? Tiểu thư Linna, chúng ta có quen nhau còn gì.”

Năm người đều nhìn Doãn Yên nấp trong bóng tối. Ban đầu Doãn Yên còn muốn giả vờ như không quen ba người bọn họ, nhưng không ngờ Di Nhã lại không mời mà đến, không thể nói là không quen biết được, bất đắc dĩ giật giật lông mày, kiêu ngạo hất cằm.

“Còn nhớ thế là tốt.”

Di Nhã không chút do dự kéo lấy Sở Vọng và Chân Chân, một trái một phải ngồi xuống hai bên Polla.

Rồi sau đó, trên sàn khiêu vũ, gần như mọi ánh mắt đều bị bên này thu hút.

Năm người bên cạnh đã nhìn quen những cảnh đời, trong nháy mắt trở nên khó chịu, uốn éo người như ngồi trên bàn chông.

Vừa ngồi xuống, Di Nhã cười nói: “Chưa từng thấy buổi tiệc nào thú vị như vậy. Đàn ông ở đây, cả quốc tịch lẫn nghề nghiệp đều vô cùng rõ ràng.”

Bất tri bất giác, ba người mới đến lại đưa chủ đề quay về ban đầu, nhưng lần này có nhiều sắc thái hơn. Tuy trong khoảnh khắc ba người bước vào cửa, họ đã bị năm cô gái đây coi là kẻ địch giả tưởng, nhưng khi Di Nhã mở miệng, bọn họ lại không kìm được lắng nghe. Chỉ tiếc có hai người trong đó không hiểu tiếng trung.

“Các cậu nhìn xem, người nào cao mà có ánh mắt sắc sảo là những người mặc quân trang thường ngày, cũng đã quen cầm súng; những ai có vẻ nịnh nọt tự tin thái quá thì chính là lũ thương nhân bè lũ xu nịnh; còn các vị học giả của chúng ta thì sao, đọc nhiều sách văn học nên mắt bị cận, nhìn ai cũng mù mờ.”

__

P/S: Tối có chương nữa nên yên tâm nhé, kịch hay còn ở phía sau. ^^
 

MUALARUNG91

Tác giả
Sưu tầm
Tham gia
25/8/19
Bài viết
4,755
Điểm cảm xúc
495
Điểm
83
Chương 106: Đêm (22)
Khi ngài Tưởng đi tới, trên băng ghế dài đã có hơn mười cô gái khác màu da khác quốc tịch đang ngồi. Chỉ nhìn thoáng qua, trong đôi mắt già dặn lập tức chỉ có mỗi bóng hình của cô vợ thân thương còn cao hơn cả ông.

“Ai là gian thương chỉ biết xu nịnh hả?” Ngài Tưởng giả bộ không vui, hỏi.

Di Nhã chớp mắt, nở nụ cười vô tội với ông.

Sau một hồi nghiêm túc, ngài Tưởng cũng nheo mắt bật cười, còn nói, “Đi theo anh lại đây, gặp ngài Đỗ với ngài Hoàng nào.”

Di Nhã đứng dậy, hai người tay nắm tay, nhưng ngài Tưởng chưa đi ngay mà còn nói với Sở Vọng: “Cô ba không đi chung sao?”

Ngài Tưởng chưa bao giờ làm công việc giới thiệu một cách vô nghĩa. Sở Vọng lập tức gật đầu rồi đi theo hai người họ, ngay sau đó trông thấy hai quý ông rất có phong thái, tuổi tác chừng ngoài năm mươi. Dù chỉ nói họ không xưng tên, nhưng cô cũng hiểu rõ một điều: tiếng tăm của hai người này rất vang dội ở bến Thượng Hải.

Giới thiệu xong, dù muốn nói thêm gì thì cũng phải có quy tắc xã giao. Cuối cùng, ngài Tưởng chỉ nói: “Lượt khiêu vũ đầu tiên hôm nay sẽ theo phong cách Anh của 40 50 năm trước, ngài Hoàng và ngài Đỗ chỉ nhảy lượt thứ nhất, còn thiếu một bạn nhảy. Di Nhã, em nhảy với ngài Đỗ đi.”

Di Nhã gật đầu, mỉm cười hiểu ý với ngài Đỗ, đồng thời Sở Vọng cũng lễ phép mỉm cười với ngài Hoàng. Ba người vừa rời đi, chẳng mấy chốc lại có người đến chào ngài Hoàng và ngài Đỗ.

Di Nhã hỏi: “Thế còn Chân Chân?”

Ngài Tưởng hất cằm, trên băng ghế dài bên kia, một người Anh nom có vẻ là quân nhân đang rất lịch thiệp mời Chân Chân nhảy; Chân Chân mỉm cười, mới đầu có vẻ do dự, nhưng rồi cũng không từ chối.

Lúc này đã huyên náo tiếng người, dần dà át cả tiếng đàn dương cầm du dương.

Ngài Tưởng đưa Di Nhã và Sở Vọng về lại chỗ ngồi, lúc đi băng qua đám đông, đúng lúc Tạ Trạch Ích ở đối diện đi tới. Hai người đàn ông vừa nói chuyện vừa nhìn về phía Sở Vọng và Di Nhã, ngài Tưởng nói gì đó với anh, anh nhìn thẳng vào Sở Vọng rồi gật đầu, xoay người rời đi.

Một nghiên cứu viên người Đức thuộc tổ C ở viện nghiên cứu đã mời được Bảo Vinh, còn Polla, Lancy và Thư Nhã cũng đã có người mời, có điều xem ra bọn họ không hài lòng lắm, nếu không thì đã không nói: “Tôi quyết sẽ không nhảy với anh ta quá một lượt.” Có lẽ cũng có thể do bạn nhảy quá tốt nên các cô gái có quyền sử dụng quyền lợi tự kiêu của mình. Doãn Yên cau mày nhìn xung quanh, khi thấy cửa khép lại thì lập tức tiu nghỉu; hai sẽ quan Nhật Bản rất lễ phép khách khí mời cô và cô Ngụy nhảy chung lượt đầu tiên.

Dần dần, Sở Vọng không nghe thấy sáu cô gái người Anh ở bên kia ồn ào nữa. Cô tìm kiếm khắp nơi những chỗ mà sĩ quan Nhật Bản tụ tập, hy vọng có thể tìm được thiếu tá Fujima, từ đó cũng có thể tìm được bóng dáng của hai cô gái “tình nguyện viên” mà cô Hứa nhắc tới. Lúc này phần lớn khách mời đều đang đứng trò chuyện, nên tầm nhìn khi ngồi bị cản trở, mà cô cũng không thể đứng lên; vất vả tìm kiếm một hồi, đột nhiên có người ở phía sau vỗ vào mình, ngoái đầu lại, cô trông thấy Sakima Ichiro chắp tay đứng sau lưng, cười hỏi: “Tiểu mỹ… À không, hôm nay cũng không chỉ có một mình cô là tiểu mỹ nhân. Nữ khoa học gia của chúng ta, vì không có ai mời khiêu vũ nên đang cật lực tìm đối tượng đấy hả?”

Sở Vọng không trả lời anh ta, cũng không xoay đầu đi: bởi vì lúc này có một sĩ quan người Nhật cao ráo từ phía sau anh ta tiến đến, đi đằng sau là hai cô gái có gương mặt châu Á rất đẹp.

Chân Chân vừa thấy Sakuma, gần như nói bằng tiếng Anh: “Mời anh đi cho, cô ấy đã có bạn nhảy rồi.”

Sakuma Ichiro thấy cô thì càng cười toe toét, “Ô, thế à!” Lúc này người sĩ quan kia cùng hai cô gái cũng đã đến gần, một người trong đó tiến tới kéo tay Sakuma, mỉm cười với mọi người. Sakuma Ichiro vẫn nói: “Vậy thì tốt… Vì tôi cũng đã có bạn nhảy rồi.”

Lúc này, tiếng dương cầm dừng lại, thay vào đó là tiếng đàn violin dần vang lên. Những người đàn ông biết quy tắc đều đã tìm được bạn nhảy của mình, đám đông cùng tiến vào giữa sàn nhảy, các quý cô đứng thành một hàng, còn các quý ông đứng thành một hàng khác, mặt đối mặt. Vì vừa nãy vị trí gần, nên ở trên sàn khiêu vũ bây giờ, Chân Chân và bạn nhảy của cô ấy đứng ngay bên cạnh đôi của Sakuma Ichiro. Tuy Sở Vọng mỉm cười với ngài Hoàng, nhưng cứ luôn nhìn sang chỗ Chân Chân.

Tiếng đàn violin ngày càng du dương, hai bên chào nhau, các quý ông cầm lấy tay các quý cô. Cả ngài Hoàng và ngài Đỗ đều không cao —— như thể đàn ông sát nghiệt quá nặng thì không cao nổi —— lúc đối mặt với Di Nhã và Sở Vọng phải cố hết sức nhìn lên; Chân Chân và người Anh ở bên kia thì thoải mái hơn, nếu đem ra so thì hai người họ thật xứng đôi.

Điệu nhảy lần này rất thoải mái, chẳng trách cả ngài Hoàng và ngài Đỗ đều có thể nhảy, nhưng chỉ có thể nhảy một lượt này mà thôi. Sở Vọng chỉ có chút thời gian nghĩ đến vấn đề đó, bởi vì không lâu sau, trong tiếng đàn, ngài Hoàng nói liên tục.

“Cô ba đẹp lắm.” Ngài Hoàng nói.

“Cám ơn ngài.” Cô đáp.

“Toàn bộ người ở đây, chỉ có cô và cô sáu cùng người bạn kia của cô là những mỹ nhân phương Đông đẹp nhất.”

“Ngài Hoàng quá lời rồi.” Nụ cười cô cứng ngắc, lời khen này thốt ra từ miệng một đại lão đã trải qua tình trường gió trăng năm mươi năm, quả thật không thể tiếp nhận nổi. Cũng may mà ngài Hoàng nhanh chóng đổi đề tài, nói sang chuyện thời tiết rồi lại kể mấy câu chuyện cười nhạt nhẽo.

Sau mấy lượt đổi người rồi quay trở lại bên cạnh ngài Hoàng, ông ta lại hỏi: “Cô ba có biết xã giao là gì không?”

Cô đưa ra định nghĩa, “Là một nhóm người trò chuyện không bàn kinh doanh, nhưng lại hoàn thành đại sự.”

“Được cô Cát dạy dỗ, quả đúng là rất phi phàm. Nhưng cô có biết vì sao xã giao luôn phải đi kèm với khiêu vũ không? Vì trong buổi xã giao không thể nói nặng lời, còn những lời như ‘trời hôm nay đẹp quá’, ‘cô đẹp quá’, nói nhiều sẽ lộ tẩy, cho nên mới cần khiêu vũ, giao lưu thì sẽ thoát được chuyện giao lưu bằng ý nghĩ.”

Ngài Hoàng còn chưa kịp nói hết đạo lý cho cô nghe thì đã đến lúc phải xoay vòng, các cặp đôi xung quanh cũng đã thay đổi bạn nhảy ba lần; có một lần đến bên cạnh Tạ Trạch Ích, cô tình cờ thấy bạn nhảy của anh là một người phụ nữ da trắng, hình như là vợ của một nhà ngoại giao nào đó.

Khi trở lại bên cạnh ngài Hoàng, màn độc tấu violin cũng sắp kết thúc, “Điệu nhảy đầu tiên của ngày hôm nay chủ yếu là để bắt cặp, là sự kiện xã giao đầu tiên, cho nên thường có vài người muốn tiến hành giao lưu nữa; ví dụ như trong quân đội Anh có rất nhiều người có địa vị, trong số đó có người hoặc là muốn gả con gái trong nhà đi, hoặc muốn lung lay quan chức cấp cao; ngoài ra cũng có người chỉ mong muốn đơn giản, kiểu như ‘yểu điệu thục nữ quân tử hảo cầu’… Có điều cô ba nên nhìn xa vào, không thể chỉ chăm chăm nhìn sĩ quan nước khác được. Không phải ở đây còn có rất nhiều thanh niên Trung Hoa tài giỏi đẹp trai sao?”

Sở Vọng nghe thế, biết ngài Hoàng trách cô đang khiêu vũ mà lại lơ đãng nhìn người Nhật. Cô lúng túng cười xòa, đang định xin lỗi thì ngài Hoàng đã nắm tay cô đưa cô về chỗ ngồi, còn nói: “Chuyện này không ảnh hưởng tới đại cục, trái lại phải là tôi cám ơn cô ba đã chịu nể mặt khiêu vũ với tôi mới đúng. Hy vọng sau này có nhiều cơ hội qua lại với cô và cô Cát.”

Ngài Đỗ cũng đưa Di Nhã về lại chỗ ngồi, sau đó cùng ngài Hoàng đi lên lầu. Lúc người Anh đưa Chân Chân quay về, Di Nhã dán mắt nhìn người da trắng kia đang nhìn Chân Chân chăm chú, không khỏi cảm khái: “Muốn khiêu vũ với đàn ông trẻ tuổi quá đi.”

Chân Chân khéo léo từ chối lời mời lần hai của người nọ, rốt cuộc cũng có tâm trạng trêu cô nàng, “Vậy cậu đi mà nhảy. Nếu sợ ngài Tưởng không có ai thì còn có tôi với Sở Vọng đây.”

Di Nhã bật cười.

Lancy cũng ngồi xuống, cảm khái nói với Polla: “Đến mấy thứ cũ kĩ này cũng được chuyển ra, đúng là chán chết.” Dừng một lúc, nghe thấy xa xa có tiếng cười nói của con gái Nhật Bản, cô nàng còn cố ý nói, “Mấy người thấy vui toàn là mấy người chưa trải đời.”

Ba người đối mặt nhìn nhau, chỉ cười mà không nói gì. Lúc này người da trắng trước đó đã mời Lancy đi về phía các cô, Polla vỗ vai Lancy, nói: “Nhìn kìa, anh ta lại đến tìm cậu khiêu vũ đấy.” Lancy liếc mắt, thấp giọng nói, “Mình không định khiêu vũ tiếp với anh ta.”

Thế nhưng người Anh mặc áo đuôi tôm ấy lại dừng trước mặt Di Nhã, đột nhiên lắp bắp nói: “Vừa nãy tôi thấy cô, nhưng cô đã có bạn nhảy. Lượt kế tiếp, liệu có thể…”

Tuy không nhìn thấy vẻ mặt của Lancy, nhưng giọng nữ bên cạnh lập tức im bặt.

Di Nhã ngả người ra sau, nhìn thẳng vào người nọ ít nhất là năm phút, sau đó mới nói, “Xin lỗi, tôi đã có bạn nhảy rồi.”

Mắt thấy người Anh kia đỏ mặt đi xa, Chân Chân nói, “Nếu cậu không nhảy với anh ta thì việc gì phải đùa cợt người ta như thế?”

Trong thời gian ấy, cũng có hai người đàn ông đến mời Chân Chân. Di Nhã thấp giọng nói đùa với Sở Vọng: “Sợ là tối nay Chân Chân muốn làm hoa thơm áp cỏ lạ rồi —— nhất định là do cái vẻ phiền muộn gần đây của nó làm nó trở nên đẳng cấp hơn.”

Sở Vọng và Di Nhã cười ngất, rồi sau đó cô lại để mắt tìm kiếm hai cô gái người Trung kia, thế nhưng vẫn không tìm thấy người đâu. Ban nhạc lại chơi một bài mới. Bản nhạc lần này rất vui tươi. đậm chất nhạc Jazz hòa lẫn điệu Twist, nhưng không phải ai cũng có thể nhảy được. Thế nhưng mọi người lại lập tức hoan hô vui mừng, rồi đưa mắt nhìn vào trung tâm sàn nhảy —— ở đó có một đôi nam nữ da trắng đang độc diễn. Cô gái mặc váy đỏ, ánh mắt trông như lửa, bước chân vừa nhanh vừa nhẹ nhàng. Chàng trai mặc tây trang màu đen, động tác có vẻ khá mệt mỏi, tựa như quỷ hút máu vừa bước ra khỏi cỗ quan tài, vì ngủ suốt đêm nên tay chân vẫn chưa linh hoạt, giữa những nhịp nhảy, cô gái đã dần dần kích thích anh ta, chẳng mấy chốc chàng trai cũng trở nên hưng phấn, như thể vừa được hồi sinh nhờ cô gái ấy. Tới khi chỉ số năng động được tăng cao, anh ta trở thành kẻ chủ động theo đuổi cô gái. Sau khi thành công, vẻ quyến rũ trêu ngươi dần trở nên kiêu kỳ tựa như một chú mèo…

Một vũ điệu tuyệt vời đến lạ thường, phối hợp với tiết tấu nhạc Jazz cực nhanh, đem lại vẻ đẹp ly kỳ kích thích thị giác và thính giác của người xem, ngay cả Sở Vọng vốn không có tâm trạng thưởng thức cũng bị thu hút. Có điều cô chỉ vừa “phiêu” theo điệu nhạc thì lập tức có người kéo hết kéo rồi lại đẩy cô từ phía sau, tức khắc cô bị đưa vào giữa sàn nhảy.

Nhìn thấy nụ cười của Oppenheimer ở trước mặt, cô ngoái đầu lại, kẻ đầu sỏ Fermi đã đẩy cô ban nãy đang đứng trong chỗ tối ở băng ghế cô ngồi, đắc chí khoát tay với hai người. Đôi nam nữ ban nãy lập tức nhường nửa sân khấu cho hai người; đám đông lại một lần nữa tập trung ánh mắt sang đây, thậm chí có người còn vỗ tay.

Sở Vọng trừng mắt nhìn anh, Oppenheimer lập tức cúi đầu cười với cô. Mọi người lại hoan hô lần nữa, Oppenheimer cũng bắt đầu di chuyển theo âm nhạc, mới đầu anh rất vụng về vặn hông, làm mọi người cười đau cả bụng; lúc nhìn xuống, Sở Vọng thấy anh nháy mắt, thì ra là cố tình. Ngay tức khắc cô cũng học theo động tác nhịp bước của anh, anh đi hai bước cô cũng đi hai bước, anh xoay hông hai cái cô cũng bắt chước theo; biên độ động tác không giảm, nét mặt biểu cảm cũng không thay đổi, chỉ là trong hai người thì một người vừa cứng vừa vụng về, còn một người lại nhẹ nhàng cân đối, như cùng một đề bài mà có hai cách giải vậy, lúc chia nhau ra thì lại có sự thú vị riêng; mà khi đặt chung vào nhau thì lại càng hài hòa.

Điệu nhảy đã tiến hành đến phần thứ ba, là phần nổi tiếng nhất trong giai điệu, cũng là điệu nhảy xã giao đầu tiên của nhiều người khi mới bắt đầu học giao tiếp; hai cặp đang khiêu vũ ở đây, tư thế giống y hệt, nhưng một bên là đôi trai gái trưởng thành quyến rũ, còn một bên lại như hai đứa trẻ đang bắt chước người lớn nhảy múa, vừa thú vị mà không khiến người ta ghét.

Có người hô lên: “Hay lắm! Hay lắm!”

Dần dà, mọi người cũng không còn ngại ngùng, từng đôi một cùng nhau tham dự. Có lúc bọn họ di chuyển rất đồng đều theo nhịp, nhưng cũng có lúc rất lộn xộn, chốc chốc lại vang lên tiếng nói cười; mọi thứ dần trở nên sôi nổi, khác hoàn toàn với lượt nhảy hời hợt đầu tiên.

Oppenheimer nói: “Lượt nhảy thứ nhất tên là ‘xin chào quý cô, có thể làm quen không?’, lượt thứ hai là ‘có thể nể mặt tôi cùng đi ăn tối không?’.”

Sở Vọng cũng đang nghĩ đến điều này, nhưng không nghĩ được thú vị như anh. Hai người lại xoay một vòng theo đám đông, Sở Vọng không kìm được cười lớn, hỏi: “Vậy lượt thứ ba là gì?”



Từ sau khi lượt nhảy thứ hai bắt đầu, Tạ Trạch Ích ở bên ngoài nhìn bóng hình màu đỏ trên sàn nhảy, rồi đi về phía băng ghế mà vừa nãy cô ngồi.

Polla đang làm giá không muốn nhảy điệu múa hạ cấp đó, cho nên liên tiếp từ chối mấy người, tự mình làm cao. Bên trái cô ta trống năm vị trí, đương lúc phiền muộn chán nản, vừa ngẩng đầu lên thì thấy một người đàn ông mặc âu phục màu xám đậm tiến đến, cô ta lập tức xốc lại tinh thần, ưỡn người cao lên ba tấc; đôi mắt màu xanh lá phát ra tia sáng, gần như muốn vươn đôi tay ngọc vẫy gọi anh, nhưng người nọ lại ngồi phịch xuống bên cạnh cô ta.

“…” Polla uốn éo xoay mặt đi.

Hai anh em nhìn ra ý đồ, không khỏi rơi vào im lặng. Một lúc sau, Di Nhã nói, “Anh đến muộn thật đấy.”

Tạ Trạch Ích nheo mắt nhìn về bên kia, “Không phải cô ấy đang chơi rất vui sao?”


Di Nhã quay qua nhìn anh, cười hỏi, “Thế còn anh?”

Tạ Trạch Ích ngoái đầu nhìn lại.

“Hồi chiều dì Cát có gọi điện tới, dì ấy nói ông cha của vị hôn phu cũ của cậu ấy vẫn đề nghị ông Lâm gả cô ba cho con trai ông ta,” Di Nhã tức quá hóa cười, “Dì Cát nói, với cái nết xấu của ông Lâm thì chắc là đồng ý ngay. Hai ông cha thảo luận một hồi, cộng thêm lần trước cậu ấy còn ồn ào giải vây cho cậu Tư ở khách sạn Thượng Hải, không chừng sáng mai, mọi tờ báo lớn nhỏ đều đăng tin hỷ sự của hai nhà Tư Lâm đấy. Anh tính đợi đến lúc đó thật à?”

Tạ Trạch Ích cụp mắt, làn mi đen cùng hốc mắt sâu khiến anh có vẻ sa sút, nhưng ngoài miệng vẫn tự giễu, “Em nhìn cô ấy xem, có vẻ gì là thích anh không?”

“Lạ à nha, từ nhỏ đến lớn em toàn nghe người ta nói ‘cháu có một người anh rất hấp dẫn’ cơ mà.” Di Nhã nghiêng đầu nhìn anh, “Đợi tới khi cả thế giới biết ai là chồng chưa cưới của cậu ấy, thì anh nắm chắc được bao nhiêu phần thuyết phục ba thành công đây?”

***

Khi âm thanh của điệu nhảy thứ hai dần tắt, tiếng đàn accordion chậm rãi vang lên. Sở Vọng đỡ vai Oppenheimer, vừa thở hắt ra thì nghe thấy anh nói: “Điệu thứ ba, bình thường gọi là ‘Có muốn đến nhà tôi ngồi một lúc không?’.”

Người trên sàn nhảy đã tản đi, nhưng cũng có nhiều cặp mới cười nói bước vào. Oppenheimer dẫn dắt cô nhảy điệu tăng-gô, cô xoay một vòng tiến ra ngoài, đột nhiên có một người áp sát, lặng lẽ đỡ lấy cô từ trong tay Oppenheimer.

Người kia cúi người, kéo tay cô đặt lên vai mình, đỡ lấy eo cô, im lặng hướng dẫn cô di chuyển trong điệu nhảy xoay nhanh. “Anh Tạ.” Cô thốt lên, nhưng người kia không đáp; cô vẫn chưa lấy lại hơi thở từ điệu nhảy trước đó, bây giờ phải dồn sức tập trung mới không để chân mình hụt nhịp; chùm sáng đỏ từ đèn xoay hắt lên người anh mảng sáng mảng tối, nhiều lần khi mặt đối mặt, dù đang ngẩng đầu thì cô cũng không thấy rõ nét mặt anh, chỉ cảm thấy hôm nay anh có vẻ rất trầm.

Nói gì đó đi mà, như bình thường cũng được. Cô nghĩ bụng. Im lặng như thế, không hiểu sao lại làm cô rất dễ phân tâm, đáy lòng vô hình trở nên sốt ruột, đàn accordion càng kéo nhanh thì càng như có ngọn lửa đốt cháy buồng tim. “Khiêu vũ là giao lưu cơ thể thay ý nghĩ.” Cô nhớ lại lời ngài Hoàng nói, cảm thấy không đúng lắm. Nếu là giao lưu cơ thể thì không phải càng khiến người ta mất tự nhiên hơn sao, cô có thể cảm nhận được bàn tay đang đỡ eo cô trở nên nóng hổi.

Có một khắc dừng lại khi đang cao trào, người nghe lần đầu sẽ rất dễ tưởng rằng bản nhạc đã kết thúc.

Tạ Trạch Ích buông bàn tay đặt bên eo cô ra. Cô nhân đó toan nói: Anh Tạ, tôi không nhảy nữa, cho tôi nghỉ một lúc đi.

Nhưng khi cúi đầu vừa thở hắt thì đột nhiên, cô bị một ngoại lực đẩy ra; còn chưa kịp giật mình thì bàn tay nắm chặt cô lập tức kéo cô trở lại bên cạnh, cũng vì thế mà cô ngã vào lòng anh.

Cô sợ hãi hét lên, trong chớp mắt, tiếng đàn accordion như khúc nhạc nền, như tiếng sét vang lên; con tim cô bồi hồi run lên, nhưng Tạ Trạch Ích vẫn giữ nguyên tư thế, để cơ thể cô dán chặt vào mình một cách tự nhiên, rồi một lần nữa, nhịp chân sải bước.
 

MUALARUNG91

Tác giả
Sưu tầm
Tham gia
25/8/19
Bài viết
4,755
Điểm cảm xúc
495
Điểm
83
Chương 107: Đêm (23)
Chỉ là một xúc cảm xa lạ, thế nhưng vẫn khiến tim cô trễ nhịp. Cách lớp vải lễ phục mỏng manh, hai cơ thể tựa sát vào nhau, thậm chí có thể cảm nhận được làn da trơn bóng trên đôi chân thon dài cứng cáp, rõ ràng là nước da của người đàn ông quá đỗi quen thuộc, nhưng cũng chính vì thế mà trở nên lạ lùng. Sự gần gũi khắng khít trong tình cảnh này lại có điểm hợp lý khác lạ, khiến cô chợt thấy ngại ngùng. Cảm giác đó đã làm cô nảy sinh tâm lý kháng cự, cả cơ thể trở nên cứng ngắc, trong giai điệu du dương của nốt đen và nốt móc đơn, cô như trở thành con rối dây bị anh điều khiển, thụ động nhảy theo sự dẫn dắt mạnh mẽ của anh. Hơi thở quanh quẩn bên tai, cơ thể ma sát cơ thể, sự cứng ngắc của cô và cả sự khoan thai của anh, tất cả đều khiến cô có cảm giác như mình là một cô gái kỹ nữ non nớt thiếu kỹ thuật lần đầu ra mắt, hai tay vịn lấy vai của vị khách làng chơi đã từng trải, tóc kề tóc tai tựa tai, vụng về tìm kiếm niềm vui…

Cô ép mình phớt lờ đi sự khó chịu do đụng chạm chân tay đem tới, thế nhưng lại không thể lờ đi được hơi thở trầm thấp phả gần bên tai, hòa lẫn với nó là hơi thở của chính cô, và trong tiếng đàn accordion cùng violin, cô nghe thấy một âm thanh thứ ba —— dường như có giọng nam trầm khàn đang khao khát thì thào giữa không trung: kiss me, touch me, I want you.

Đầu cô nổ ầm, hai má đỏ ửng. Bởi vì mặt cô tựa vào vai anh, hai chân quấn lấy chân anh, tư thế đó càng khiến tình huống trở nên lúng túng phần nào.

Đúng như dự đoán, trong âm thanh trầm bổng của tiếng đàn cello, anh chợt kéo cô xoay lưng về phía mình, bắt chéo hai tay cô ra đằng trước. Tư thế mang tính xâm lược thấy rõ, khi anh kê cằm lên đỉnh đầu cô thì cũng là lúc anh khóa chặt cô vào lòng mình. Lưng cô có thể cảm nhận được lồng ngực rắn chắc phập phồng đằng sau, và anh cũng có thể cảm nhận được cả người cô đang nóng dần. Rồi cô nghe thấy giọng nam trầm gần bên tai hỏi bằng tiếng Anh: “Shame, eh?”

“Just…” Đầu óc cô thoáng trống rỗng, “Just afraid of making a mistake.”

Anh nói: “Then learn to.”

Học làm gì cơ? Mặt cô lại cháy rụi.

Cô ngập ngừng nhúc nhích, lập tức hai tay anh siết chặt lấy cô, giọng nói cũng trầm đi, tuy vẫn dịu dàng nhưng ngữ điệu lại như ra lệnh: “Don’t think, don’t talk.”

Cô tức khắc ngoan ngoãn nghe lời, quyền nói chuyện đã bị tước đoạt, nhưng cũng chính vì thế mà tất cả dây thần kinh đều trở nên nhạy cảm vô cùng. Tưởng chừng như quần tây bóng loáng và váy lụa mềm mại biến mất, cô có thể cảm nhận rõ ràng làn da của anh, thậm chí trong không khí cũng ngập tràn tín hiệu tán tỉnh.

Có ai đó đã từng nói về tầm quan trọng của âm nhạc trong phim ảnh như thế này: một bản nhạc phim hay không phải là một bài hát êm tai, mà là một bản nhạc như hòa làm một với chi tiết cốt truyện, khớp nhau đến từng nhịp điệu khung hình. Đó có thể là tiếng nổ trong giây phút tuyệt vọng thét gào, cũng có thể là hơi thở yếu ớt của kẻ chết đói chết rét trên cánh đồng hoang vu, là tiếng giày cao gót khi nàng mỹ nhân lắc hông nhảy múa, là bản nhạc cất lên khi tình cảm nam nữ đang lúc thăng hoa, làm nền cho sự giao lưu tâm hồn bên cạnh va chạm thể xác.

Vì sao con người lại phát minh ra điệu nhảy này, vì sao phải dùng hành động tay chân để thay cho lời mời gọi trần trụi?

Rõ ràng đó là ham muốn xác thịt, nhưng nếu từ chối thì lại có vẻ không phải phép.

Mũi chân kề gót chân, đỉnh đầu chạm lấy cằm, trong khoảnh khắc dây dưa thân mật, có một chớp mắt, cô bỗng hồ nghi mọi người xung quanh đã rời đi, giữa sàn nhảy chỉ còn lại anh và vô, còn những người khác thì đang tập trung theo dõi họ.

Lồng ngực cô đánh trống liên hồi, hốt hoảng vô cùng. Mà điều càng khiến cô hoảng hốt hơn, là dường như chính bản thân cô cũng không kháng cự việc tiếp xúc tay chân với anh ở nơi đông người…

Vì sao lại thế?

Ngày trước khi lớp triết học tự nhiên bàn về tiến hóa sinh học, cô từng có một thắc mắc, trong quá trình tiến hóa, sự khác biệt giữa con người và động vật bậc thấp là gì? Cá lớn nuốt cá bé, kẻ mạnh thì tồn tại, yếu kém thì bị đào thải. Trong số những con đực tìm kiếm bạn đời, kẻ mạnh thắng kẻ yếu thì được quyền giao phối sinh sôi, có khác gì xã hội loài người?

Lúc ấy, vị giáo sư già của môn triết học tự nhiên phải đeo máy trợ thính trong suốt quá trình lên lớp, quen hàng trăm cô bạn gái nhưng vẫn chưa lập gia đình, dù đã hơn 60 tuổi nhưng vẫn có thể qua lại với bạn gái là trợ giảng mới 30 tuổi đã nói thế này: “Nếu theo như em nói thì động vật có xương và động vật không xương cũng không khác nhau. Sinh vật phù du là những loài thuộc động vật chân khớp lâu đời nhất, tuổi thọ trưởng thành là bảy ngày, không cần ăn uống cho đến khi chết; trong thời gian giao phối, con cái sẽ xông vào quần thể các con đực để phối ngẫu sinh ra một bụng trứng, từ đó sinh sôi đời sau. Trừ việc đó ra thì suốt đời trong bụng nó không hề có thứ gì. Em nói tôi nghe xem, rốt cuộc phù du khác gì chúng ta?”

Cô không trả lời được.

Chúng là một trong những loài sinh vật lâu đời nhất, dù vẫn sinh sôi cho đến tận ngày nay nhưng vẫn chỉ là loài thấp nhất. Ngoại trừ cơ thể trống rỗng trong suốt với một cái bụng đầy sinh mệnh kéo dài đời sau, thì con người khác gì loài phù du? Ngoài tiến hóa, bằng chứng của sự bảo tồn giống loài là văn hóa, là linh hồn của một dân tộc. Những phép màu được các chủng tộc xa xưa lưu lại thường liên quan đến sự sùng bái thờ phụng về sinh thực một cách trần trụi —— đó là nghệ thuật cao nhất của đầu thời kỳ nguyên thủy, thế nhưng trong xã hội hiện đại ngày nay, con người ta lại thường xuyên có xu hướng nhìn nhận sự sùng bái trần trụi ấy bằng ánh mắt cười cợt. Nhưng có một điều mà họ không ý thức được, đó là sự ham muốn thể xác lẫn tâm hồn của động vật có xương sống trong thời đại văn minh, từ lâu đã chảy trong mỗi tế bào máu thịt của từng nền văn minh nhân loại.

Nếu sự tồn tại của tình dục chỉ có nhiệm vụ là truyền lại đời sau, thế thì con người có khác gì loài phù du?

Vì vậy mà mọi người mới nói: Giao tiếp ngôn ngữ cho phép người ta hiểu được tâm hồn của nhau, còn chuyển động cơ thể lại thuộc tính động vật, mang bản chất thú tính nguyên thủy cổ xưa, truyền đạt trực tiếp những ham muốn xác thịt. Khi ngôn ngữ không thể truyền tải, không thể trao đổi, thì lúc ấy sẽ dùng cơ thể để giao tiếp. Mà khi nhắc đến cảm xúc lúc dùng cả cơ thể lẫn ngôn ngữ đồng thời truyền tải, cô chỉ nghĩ đến một câu diễn đạt – lời nói dối lớn nhất trong nhiều thế hệ của nền văn minh nhân loại là trạng thái sinh mệnh mất tự nhiên nhất, nhưng lại sẽ dẫn đến sự bài tiết các hormone đặc biệt, ví dụ như dopamine và tuyến thượng thận, gây nên sự nhạy cảm vượt xa bình thường.

Cô lắc đầu, lập tức xóa bỏ ý nghĩ đó.

Nếu nói cô không giỏi thứ gì thì đó chính là thấu hiểu tình cảm và biểu đạt tình cảm; mà hai điều đó vừa hay lại là điều anh am hiểu nhất.

Nên học từ đâu đây?

Anh dẫn cô xoay một vòng; lùi về sau một bước, và khi nốt nhạc cuối cùng vang lên, anh dồn trọng lượng của toàn bộ cơ thể cô lên người mình. Cô nằm nghiêng dựa vào bên ngực phải, ngẩng đầu lên, cô bắt gặp Tạ Trạch Ích cũng đang nhìn mình. Cả cơ thể cô có thể cảm nhận được hơi thở phập phồng dữ dội của anh, phía sau hàng mi đen là đôi đồng tử đen sâu thẳm, không bộc lộ cảm xúc biểu cảm nào, nhưng cô như thể thấy rõ mồn một tâm hồn anh từ trong đó. Cả đôi mắt lẫn dòng máu sục sôi trong huyết mạch bên dưới da thịt của anh đã khiến cơ thể cô run lên.

Cô nhìn anh và anh cũng đang nhìn cô.

Cô có chút khó hiểu, lại càng muốn biết nhiều hơn.

Cho đến cuối giai điệu, những người khiêu vũ xung quanh đều đã giải tán, lại cười nói rôm rả. Lúc anh đặt cô xuống, cô vẫn nhìn anh một cách nghiêm túc.

Tạ Trạch Ích đối mặt với cô, “Đã biết chưa?”

Câu hỏi đó có thể được hiểu như sau: Đã hiểu chưa, học được chưa, đã rõ chưa? Cô tạm thời cắt nghĩa hiểu theo vế như nhất, nên vẫn cứ nhìn anh chằm chằm.

Bất chợt, trong đáy mắt anh dâng trào cảm xúc, như muốn dùng hành động để khiến cô hiểu thấu tâm tình này, nhưng lúc sắp sửa thực hiện thì lại có người đi đến nói, “Anh Tạ, mời anh lên lầu nói chuyện.”

Chắc hẳn trong những bữa tiệc tương tự cũng thường xuyên có người tới tìm anh. Anh cùng người nọ rời đi, cô thầm thở phào nhẹ nhõm, nhưng vẫn cứ ngây ra giữa sàn nhảy, như thể linh hồn đã quên đưa thân xác rời đi.

Tạ Trạch Ích đi ra khỏi sàn nhảy, lại bất chợt vòng về.

Cô giật mình, như thể vừa choàng tỉnh khỏi cơn mơ.

Tạ Trạch Ích gập người, nắm lấy hai tay cô, nhìn thẳng vào cô mà nói: “Đợi anh một lát.”

Cô gật đầu, sau đó xoay người băng qua những cặp đôi nối nhau bước vào sàn nhảy, sải chân đi ra ngoài.

***

Doãn Yên và cô Ngụy tức giận quay trở lại băng ghế. Còn chưa tới gần thì nghe thấy Polla nói: “Sao không nhảy nữa vậy?”

Cô Ngụy phàn nàn: “Cả tôi và Lâm đều bị người Nhật táy máy chân tay…”

Doãn Yên sa sầm, “Còn là thiếu tá cơ đấy.”

Polla cười to: “Tôi nói rồi còn gì, khiêu vũ là để bộc lộ tình cảm nam nữ, nhất là khiêu vũ kiểu Tây Ban Nha như thế này.” Đúng lúc ngẩng đầu lên thấy Sở Vọng đi về, nhìn cô một cái rồi xoay mặt đi, nói thêm: “Xem ra có một cô Lâm khác cũng không nhiệt tình khiêu vũ với thượng úy Anh quân nhỉ?”

Doãn Yên ngoái đầu lại, hừ lạnh, “Nó?”

Cô Ngụy tức giận, “Tay Fujima kia còn hỏi tôi và cô Lâm có muốn đến trường đua ngựa ở bến Thượng Hải không.” Vừa nói vừa ngẩng đầu nhìn liếc qua Sở Vọng, “Tưởng chúng ta là ai chứ?”

Sở Vọng hoàn hồn, ngẩng đầu hỏi cô Ngụy: “Cô nói gì?”

Cô Ngụy tưởng dù cô có bản lĩnh chỉ trích mình thì cũng không dám phản bác ngay trước mặt, chỉ cúi đầu ngập ngừng mấy câu.

Sở Vọng sải bước đi tới, nắm lấy sườn xám cao cổ của cô ta, lớn tiếng hỏi: “Tôi hỏi cô nói gì?”

Cổ áo vốn đã không rộng, giờ bị cô nắm như thế, cô Ngụy suýt đã ngộp thở, thế nhưng con người đang ở trạng thái tức giận thì sức lực rất lớn, hơn nữa chiếc sườn xám này là chiếc cô ta quý nhất, sợ bị làm rách nên chỉ biết cầu khẩn, “Tôi, tôi chỉ nói hùa với bọn họ thôi.”

Polla ngồi yên tại chỗ, Doãn Yên định bước tới ngăn cản nhưng thấy Polla không nhúc nhích, cũng không có vẻ gì muốn khuyên bảo, thế là chỉ nói: “Rõ ràng là sự thật, nổi điên cái gì không biết?”

Sở Vọng nói: “Chị câm miệng lại cho tôi.” Doãn Yên tái mặt, cô phớt lờ cô ta, quay sang hỏi cô Ngụy, “Tôi hỏi cô câu thứ nhất, gã thiếu tá đó họ gì?”

“Fu, Fujima.”

“Cô từ chối nhảy với hắn ta rồi sao nữa?”

Cô Ngụy gần như bật khóc, “Linna tát cho hắn một cái, đúng lúc đó có một cô gái đi tới ngăn cô ấy lại, cũng bày tỏ nếu Linna không muốn khiêu vũ hay xem đua ngựa, thì cô ấy có thể đi cùng tay thiếu tá kia thay Linna.”

“Bọn họ đang ở đâu?”

“Không phải ở trong sàn nhảy sao?”

“Cô gái kia mặc quần áo gì, chỉ tôi xem.”

“Sườn xám thổ cẩm màu lam nhạt thêu chữ Thọ bằng chỉ bạc… Ơ, vừa nãy còn ở đây mà?”

Sở Vọng lập tức buông cô ta ra, vội vã tìm bóng người màu lam nhạt nọ. Cô Ngụy liên tục vuốt lại vạt áo, nhưng vuốt thế nào cũng không thể phẳng lại, vừa xót vừa sốt ruột, cực kỳ tức giận. Nhìn bóng lưng màu tím hải đường trước mặt, lòng không nén nổi lửa giận, mắt thấy cô chỉ mải tìm kiếm người mà không để ý đâm đầu vào bóng người màu đen đi tới, thế là cô ta lẻn ra phía sau, nhân lúc cô không kịp đề phòng mà đẩy một cái. Sở Vọng bất ngờ, loạng choạng ngã nhào tới trước.

Nhưng điều cô Ngụy không ngờ chính là, người kia vốn đi về phía Sở Vọng. Bị đẩy như thế, người nọ lập tức đỡ cô vào lòng. Kế hoạch của cô Ngụy không được như ý, còn Doãn Yên lại thất thố đứng bật dậy, vừa vui mừng vừa lóng ngóng, hoảng hốt tới mức bấm ngón tay mình, la lớn: “Anh, anh Ngôn Tang!”

Vì liên tục có người mời Chân Chân mà cô nàng lại không thể từ chối, thế là đành phải theo người ta vào sàn nhảy khiêu vũ tiếp, nhưng ánh mắt vẫn cứ bám chặt lấy Sở Vọng. Vừa thấy bên chỗ cô có động tĩnh, cô ấy lập tức kéo cả Di Nhã đi tới. Hai người vừa đến gần băng ghế thì đúng lúc trông thấy cảnh cô Ngụy đẩy Sở Vọng, nhưng càng ngạc nhiên hơn khi phát hiện, người đỡ lấy Sở Vọng lại chính là cậu Tư!

Vậy là Chân Chân tính đi tới tái tai cô Ngụy lập tức thay đổi kế hoạch, im lặng theo dõi động tĩnh, cũng trong trạng thái sẵn sàng bảo Doãn Yên khép cái miệng thối lại đúng lúc. Còn Di Nhã thì đi thẳng tới trước mặt cô Ngụy, vui vẻ nhìn chằm chằm vạt áo sườn xám của cô ta, nhìn tới mức cô Ngụy không thể đưa tay ngăn cản, mà không ngăn cản thì không được.

Sở Vọng bị đẩy một cái, nhất thời trời đất quay cuồng, hoa mắt chóng mặt, lúc nhìn thấy người đỡ mình là ai thì ngẩn ra, thấp giọng hô lên: “Ngôn Tang?”

Ngôn Tang lạnh lùng nhìn cô, chẳng nói chẳng rằng.

Doãn Yên thấy thế, đột nhiên nói với anh: “Nó mới khiêu vũ với sĩ quan Anh xong, vui vẻ lắm cơ, còn lưu luyến nữa…”

Ngôn Tang sầm mặt lườm cô ta, ngay tới giọng nói cũng lạnh thấu xương: “Tôi biết rồi. Cô câm miệng lại.”

Di Nhã thấy thế thì cười nói: “Xã giao mà, có người mời chẳng le xkhoong khiêu vũ? Mong cậu thiếu gia đây rộng lượng cho, cũng đâu phải là trẻ con.”

“Tôi chỉ muốn nghe cô Lâm Sở Vọng trả lời mình.” Anh cúi đầu nhìn cô, “Em chơi vui không?”

Cô im lặng.

Môi anh trắng bợt, “Ngẩng đầu nhìn anh.” Mặt anh tái nhợt không chút sắc máu, dùng tay chỉ vào mắt mình, trầm giọng gầm lên, âm thanh run rẩy, “Nhìn vào mắt anh.”

Cô ngẩng đầu lên.

Anh cương quyết ép cô nhìn mình.

Mắt cô tối đen, bên trong dường như có bóng dáng tinh tú lấp lánh di động. Vẻ mặt cô nhìn anh vẫn giống hệt nét mặt của năm mười ba tuổi, không có chút khác biệt. Trong vẻ mặt đó mang theo sự ngưỡng mộ không hề che giấu. Cô ngưỡng mộ anh, cô thích anh, sùng bái đến mức như đang nhìn một vị thần, cũng vì vậy nên không dám nhìn thẳng vào anh. Sự ngưỡng mộ và yêu thích đó sẽ khiến bất kỳ người đàn ông nào đều có thể tự mãn ngất ngây. Nếu như bạn bắt gặp vẻ mặt ấy, bạn sẽ hiểu rằng: dù cách biệt hai khoảng trời, dù không thể thư từ qua lại, dù cô có bị phỉ báng thế nào, thì anh, thì anh vẫn luôn tin là cô sẽ chỉ thuộc về một mình anh.

Cái cách cô nhìn anh bây giờ cũng giống như hồi mười ba tuổi năm ấy. Vẫn nét mặt đó, nhưng có gì đó không đúng.

Nhờ cha mà anh biết cô có tham dự buổi dạ vũ này, mà tay sĩ quan người Hoa da trắng kia cũng có mặt, trong một tích tắc, lòng anh chấn động như nhận ra điều gì đó, không chần chừ mà đến thẳng đây. Lúc bảo vệ ngăn anh lại, anh gần như mất kiên nhẫn để giải thích, la lối nói với bọn họ là anh có đủ tư cách để được mời. Đợi tới lúc báo tên họ xong, bọn họ mới mời anh vào. Ngay lập tức, anh đã nhận ra cô ngay giữa đám đông, và trong điệu nhảy Tango cùng với tiếng đàn accordion và violin, cô đang được Tạ Trạch Ích nắm tay khiêu vũ… Cũng không sao, chỉ là điệu nhảy xã giao mà, anh biết chứ. Nhưng trong một chớp mắt nào đó, anh thấy ánh mắt khi cô nhìn Tạ Trạch Ích hoàn toàn khác khi nhìn anh.

Anh rất giỏi phân tích những thay đổi nhỏ nhất trên gương mặt của người khác, đây cũng là thiên phú bẩm sinh của anh, là thiên phú mà anh vẫn luôn tự hào, nhưng khi nhìn thấy vẻ mặt đó của cô, mọi sự tự tin trước đó hoàn toàn sụp đổ.

Có lẽ ngay đến cô vẫn chưa ý thức được, nhưng anh thì đã hiểu rõ.

Nàng thiếu nữ trong thơ của chàng thi nhân sẽ luôn giữ mãi tuổi trẻ, nhưng bản thân chàng ta lại đang dần già đi.*

(*Trích trong bức thư tình Thẩm Tòng Văn gửi Trương Triệu Hoà – là học trò và cũng là bạn đời của ông.)

“Em nhìn anh đi.” Anh gần như tuyệt vọng, lại lần nữa khẩn cầu, như thế nếu làm vậy thì có thể khiến cô thay đổi vẻ mặt.

Nhưng cô vẫn nhìn anh không chớp mắt, cũng không cố kỵ, kéo anh lún sâu vào vũng bùn.

Anh nắm tay cô, kéo cô lại gần, dùng sức hôn cô!

Cô trợn trừng hai mắt, thậm chí còn không kịp giật mình và phản kháng.

Tất cả mọi người ở đằng sau đều hết sức ngạc nhiên, cách đó không xa cũng có người nhìn sang bên này.

Dù cô giãy giụa thế nào thì cũng không thoát được, anh càng hôn mạnh cô, gần như muốn ép cô vào lòng. Cô muốn nói gì đó nhưng chỉ có thể phát ra âm thanh “ưm ưm”, những giọt nước mắt đau đớn ứa tràn.

Anh như cảm nhận được nước mắt cô tuôn rơi trên mặt, cũng cảm nhận được vị tanh ngọt trong miệng, cuối cùng cũng buông cô ra.

Hai người tách nhau ra, Sở Vọng lập tức lùi về phía sau, đưa tay rờ lên môi, trên ngón tay là màu đỏ tươi.

Ngẩng đầu nhìn Ngôn Tang, vết đỏ trên môi anh cũng là sắc máu duy nhất trên mặt.

***

Kiều Mã Linh đã từng tưởng tượng vô số lần khung cảnh gặp lại anh. Chị cố ý mặc bộ sườn xám lụa xanh mỏng, là bộ lần chị mặc trong lần đầu tiên hai người gặp nhau. Lúc đó chị được mời đến nhà dì, anh đang dùng tiếng Quảng khó khăn trao đổi với thầy Ngô. Thầy Ngô nói với anh: “Hội họa Trung Quốc nằm ở khung xương và cái hồn, chỉ cần một nét là thành. Nếu cậu dùng bút phác họa lui tới thì cái hồn sẽ biến mất, như vậy là không đúng.” Anh mỉm cười gật đầu ra vẻ đã hiểu, nhưng vẫn nhìn chị chăm chú, cuối cùng mới nói: “Thầy Ngô nói gì cơ?” Lúc đó chị đã không kìm được bật cười.


“Phụ nữ Trung Hoa chính là họa, mày ngài tựa núi xanh, là bức tranh sơn thủy.” Chị đứng trước kính, vuốt phẳng nếp nhăn của bộ sườn xám. Chiếc áo này đã nhiều năm tuổi, nhưng nó vẫn được giữ gìn rất tốt, tuy vậy vẫn có nếp nhăn. Chị đã cố vuốt cho thật phẳng, nhưng chỉ cần nhúc nhích một tí là nếp nhăn lại xuất hiện. Chị vô cùng sốt ruột, gần như dùng sức để kéo giãn, đúng lúc này nghe thấy âm thanh ở sau lưng, “Cần giúp đỡ không?”

Chị ngoái đầu lại, anh đi tới. Chị không ngờ là anh sẽ đến, không những thế còn chờ ở cửa rất lâu rồi. Thế mà chị lại không nhận ra, đúng là thất lễ.

Gặp nhau lúc xấu xí thế này cũng không sao, chị kìm nén cảm xúc, mời anh vào ngồi. Anh ngồi xuống chị khéo léo rót trà cho anh, động tác như nước chảy mây trôi, làm liền một mạch. Chị thầm lấy làm mừng vì mẹ đã dạy chị rất nhiều nghi thức truyền thống phương Đông, và chị vẫn chưa quên. Chị biết mình đang làm rất tốt, tới lúc ngồi xuống, chị tự hỏi có nên vuốt tóc mai xõa xuống ra sau tai không, nhưng rồi chị lại quên mất.

Anh lịch sự cảm ơn chị vì tách trà.

Chị nhớ sợ tao nhã lễ phép của anh. Vóc dáng anh rất cao, nước da lại trắng đến mức gần như không có sắc máu. Chính nhờ chiều cao và màu da, cùng với sự giáo dục và thanh lịch cùng tài khéo ăn nói của mình, anh đã dễ dàng trút bỏ được hình ảnh xấu xí về người Trung Quốc luôn luồn cúi cố hữu trong tâm trí người Anh. Chỉ vài ba câu nói là anh đã giành được sự tôn kính, khiến người da trắng lập tức coi anh là đồng loại.

Đây cũng là một trong những điểm chị say anh như điếu đổ. Nhưng chị nhớ ngày xưa anh khá phóng túng, thường bỡn cợt trêu đùa, thế mà bây giờ anh lại có vẻ xa cách và lịch sự hơn.

Chị đang hưởng thụ khoảng thời gian yên tĩnh hiếm hoi, thì đột nhiên anh hỏi, “Chị Hoàng tìm tôi có việc gì không?”

“Hôm qua khi đi qua bến phà Thiên Tinh, thấy quán cà phê Chim Xanh, đột nhiên nhớ đến anh.” Chị nhìn chiếc ly anh đang cầm trong tay, nở một nụ cười tự nhiên, “Nên muốn tìm anh ôn chuyện, có được không?”

Hai người đứng đối diện mặt gương, mơ hồ phản chiếu hình bóng của cả hai.

Chị lơ đãng nhìn vào tấm gương.

Tư thế ngồi của anh rất ung dung, tay cầm ly trà, biểu cảm vô cùng tự nhiên. Chị cũng trông thấy hình dáng mình lúc đó: vừa ngồi xuống, các nếp nhăn trên váy càng trở nên rõ hơn. Chị đưa tay vuốt phẳng, có điều sợ động tác quá mạnh sẽ làm anh lưu ý. Chị giật giật, nhưng từ trong gương, chị cảm thấy hành động của mình ngày càng bất an, tay chân cũng không biết nên để vào đâu. Nếp nhăn trên sườn xám vẫn như cũ, chị không dám cử động nữa, đành phải kìm nén mặc kệ nó.

Sau một khoảng im lặng, chị nghe thấy anh nói: “Mã Linh, là em đã từ bỏ tôi trước. Tôi không áy náy gì cả, và em cũng nên thế.”

Chị ngẩn ngơ lắng nghe, chợt cảm thấy trong tim như bị khuyết mất một lỗ hổng, dù làm thế nào cũng không thể lấp đầy. Ôi, tại sao chị lại quên mất, anh chính là Tạ Trạch Ích đã quen nhìn mặt đoán ý. Chị chỉ mới nói mở đầu mà anh đã hiểu hết tâm sự chất đầy trong bụng. Thà rằng chị cứ nói thẳng em nhớ anh, nhớ chúng ta của ngày xưa, đều tốt hơn là cố tình mập mờ nói “muốn tìm anh ôn chuyện”.

Anh đã cho chị rất nhiều lần cơ hội. Chị lại vờ như không thấy, ỷ sủng mà kiêu.

Nhưng chị đâu tốt hơn ai.

Tạ Trạch Ích đặt tách trà xuống, đang định đứng dậy rời đi thì đột nhiên thấy trong gương phản chiếu bóng hình.

Chị bất chợt bật khóc, dáng vẻ điên dại khiến cả gương mặt co quắp, nước mắt thi nhau chảy xuống. Tạ Trạch Ích đứng yên tại chỗ, tựa như một vị khách thờ ơ bàng quan, bình tĩnh nhìn chị suy sụp trong sự hối hận và tự trách không thể vãn hồi.

Kiều Mã Linh cũng thấy dáng vẻ điên dại cuồng của mình khi cuối cùng không kìm nén nổi sự đau khổ. Một khuôn mặt vặn vẹo, một khuôn mặt gớm ghiếc.

Ban nãy chị trốn trên tầng hai, nhìn thấy hai người bọn họ khiêu vũ như thế, đáng lẽ chị không nên đến để tự rước nhục nữa.

Anh và chị như những cặp đôi đầu tiên trong sàn nhảy. Anh của ngày trước đã chết, phải vật lộn để sống, một cách chiếu lệ và cứng nhắc; rồi tới một hôm khi anh gặp được một cô gái, nhất cử nhất động của cô đã vô thức kích thích anh, để anh từ từ sống lại. Nhưng cô gái ấy không hề biết điều đó, nên bây giờ anh là người nắm giữ quyền chủ động, lại lần nữa trêu đùa cô.

Chị chưa từng thấy một Tạ Trạch Ích như vậy bao giờ.

Khi anh nhìn người kia và trong mắt cũng chỉ có mỗi người đó, chị mới trông thấy có thứ gì trôi nổi trong mắt anh. Đó là linh hồn của một người đàn ông.
 

MUALARUNG91

Tác giả
Sưu tầm
Tham gia
25/8/19
Bài viết
4,755
Điểm cảm xúc
495
Điểm
83
Chương 108: Đêm (24)
Sở Vọng ngẩn ngơ nhìn vết máu trên tay mình và trên môi Ngôn Tang, không rõ là máu của ai. Cô có thể cảm nhận được ngày càng có nhiều người nhìn sang bên này, dường như bọn họ đang mong đợi một cái tát thật kêu sẽ xuất hiện. Ngón tay cô giật giật, gần như không kìm nổi mà cho rằng, nếu không tát anh thì thật sự có lỗi với sự mong đợi của mọi người.

Sở Vọng đứng ngẩn ra đấy. Ngẩng đầu nhìn Ngôn Tang, thấy anh đang nhìn mình không chớp mắt, cứ như đang chờ đợi sự trừng phát hay xét xử của cô. Nhìn dáng vẻ chật vật đó của anh, trong một khoảnh khắc, thậm chí cô có cảm giác phải giơ tay tát thật mạnh vào gò má gầy gò tái nhợt của anh, tát thật to để mọi người hài lòng, chỉ có như thế mới có thể kết thúc được tình cảnh này. Còn nếu không làm vậy thì tất cả các bên đều rơi vào thế bí, không biết phải rời đi thế nào, mà nhân vật chính cũng không biết phải làm gì tiếp theo.

Sau màn cưỡng hôn đau tận tâm can, để biểu đạt sự đau đớn cùng sự giãy giụa sâu trong thâm tâm của nữ chính, cách thức đơn giản nhất là kết thúc bằng một cái tát. Hình như trong phim ảnh toàn diễn như vậy.

Cô cẩn thận ngẫm nghĩ, vẫn cảm thấy không nên. Co cũng biết mình sẽ lại làm anh đau lòng. Nhưng anh đã kỳ vọng quá nhiều về cô rồi. Khi một vị thần xem người phàm là đồng loại, có lẽ bản thân không có yêu cầu gì khắt khe, song vô tình lại ôm quá nhiều mong chờ.

Hợc là cô mãi mãi kính ngưỡng anh coi anh là độc nhất vô nhị, hoặc là cùng anh trở thành dạng người được mọi người kín ngưỡng. Đáng tiếc cô đã khiến anh thất vọng, cô chỉ là một kẻ phàm phu tục tử, cô hoàn toàn không thể trở thành hai kiểu người đó được. Tuy bản thân không đúng, nhưng cô cần nói rõ với anh mọi chuyến, chứ không thể giải quyết đơn giản bằng một cái tát hay khóc lóc bỏ đi được.

Cô cứ hoài nghi không biết có phải mình nợ anh một nụ hôn không, một nụ hôn vào thời điểm thích hợp nhất, để câu chuyện bình lặng như nước trôi trở thành một câu chuyện tình yêu. Hình như nụ hôn này nên xuất hiện từ rất lâu trước đó, có lẽ là lúc ăn kem trên du thuyền ở sông Spree trong mùa hè, hoặc là khi ở trên xe buýt đi đến cung điện Sanssouci vào cuối tuần, hay là lúc cùng ăn miếng pho mát cừu có mùi hôi tại trang trại ở Bavaria, hoặc là trên con thuyền từ bến tàu Marseilles đến Berlin, cùng say sưa chè chén với cánh thủy thủ, hay là khi ngất ngây lúc có được lát bánh mì ngon lành trong bữa sáng tại Oxford, hoặc là vào đêm Giáng sinh, nắm tay đạp tuyết đi dưới đèn đường, cùng sang chào thăm hỏi hàng xóm sau khi quay về… Những thời khắc chưa xuất hiện đó, có lẽ sẽ xuất hiện vào một ngày nào đó ở tương lai, nhưng không phải là bây giờ. Cũng bởi vì thế mà câu chuyện tình yêu mùi mẫn cũng chỉ có thể tồn tại trong vô số bức thư tình trên biển Đỏ, Ấn Độ Dương và biển Đông. Có thể nụ hôn đó sẽ xảy ra ở một trong những tình huống trên, tựa như lời thề ước cho một chuyển biến hay một kết cục nào đó. Cô không hiểu đó là gì, nhưng chắc chắn không phải là kết thúc hay bắt đầu mà có thể giải quyết với một cái tát tai.

Nụ hôn này xuất hiện thật không đúng lúc, và trong lúc cô đang nghĩ rốt cuộc điều gì đã khiến anh tức giận thì cũng là lúc cô bỏ lỡ thời cơ cho cái tát “nên có”, khiến trò hề này không thể kết thúc thỏa đáng, và câu chuyện cũng không có kết quả tốt, nên mới khiến mọi người bế tắc như lúc này.

Mãi tới khi thấy Sakuma Ichiro đi tới, cô mới nhận ra rằng: đến rồi, chính là chuyện này, điều khiến cho câu chuyện xảy ra ở tô giới công cộng Thượng Hải năm 1927 không thể tiếp tục xảy ra, nên cô nợ anh một lời giải thích rõ ràng.

Nhưng lời giải thích đó bao gồm việc cô không nên xuất hiện trong căn phòng nhỏ giá rét ở Thiệu Hưng năm năm trước, cũng như toàn bộ hiểu biết của cô về anh từ lúc sinh ra cho đến khi chết đi. Phải mở miệng nói câu chuyện vô lý này như thế nào đây?

Cô thấy anh siết chặt nắm đấm, nhưng chỉ vì vẻ ngơ ngác của cô mà bàn tay lại thả lỏng. Cô vươn tay ra toan nắm lấy, nhưng anh lại lùi về sau một bước.

Cô nghe thấy Di Nhã nói, “Tình cảnh ra nông nỗi này, phải kết thúc thế nào đây?”

Cô lại nghe thấy Chân Chân nói với Di Nhã: “Có phải ban nãy tôi không nên ngăn cản Doãn Yên, mà phải ngăn cản cậu Tư không?”

Di Nhã đáp: “Người yêu hôn người khác trước mắt mọi người, nếu là tôi thì tôi cũng khóc ngất mất.”

Cô nghe thấy Sakuma Ichiro hỏi Doãn Yên: “Khóc dữ vậy sao?”

Không một ai lên tiếng.

Sakuma Ichiro đi tới giữa hai người, quan sát cô một lượt rồi nở nụ cười khuyên giải, “Hai người đã giải quyết xong chuyện riêng chưa? Nếu đã giải quyết xong thì cũng đến lượt tôi với cô Lâm rồi nhỉ?”

Chân Chân hét lớn: “Anh tránh xa con bé cho tôi!”

Sakuma chắp tay ra sau, ngoái đầu lại cười nói: “Tình cảnh này thì khó mà giải quyết rồi, chẳng ai được dễ chịu. Tôi thấy hôm nay trời đẹp nên mới đặc biệt đến tìm cô Lâm giải quyết riêng, cô chắc chắn không cho tôi hỏi ý kiến của cô ấy sao?” Nói đoạn, gã quay đầu lại bảo: “Gần đây có một đứa trẻ một hai tuổi bị mất tích, hội đồng khu phát hiện người đưa đứa bé đó đi chính là một quân nhân người Anh, mà người ra lệnh lại là một thượng úy.”

Sở Vọng không nhúc nhích.

Sakuma lại nói tiếp: “Hai cô gái kia đã đến trường đua ngựa rồi. Cô không gặp bọn họ có lẽ cũng tốt, chứ nếu gặp rồi, sợ là không dám tưởng tượng sau này sẽ xảy ra chuyện gì đâu, đúng không?” Gã chậc chậc hai tiếng, “Đúng là hai cô gái đầy năng lượng.”

Cô hỏi, “Anh muốn tôi làm gì?”

Sakuma ngẩng đầu nhìn đồng hồ, híp mắt nói, “Chi bằng thế này đi. Bây giờ mới mười giờ, cô đi xem đua ngựa cùng tôi, như vậy các cô ấy vẫn ở trong tầm mắt của cô. Thế nào, vẫn thuộc quyền bất khả xâm phạm chứ?”

Chân Chân tiến lên hai bước, nhưng bị Di Nhã giữ lại.

Sở Vọng cúi đầu, thấy trên nắm đấm của Ngôn Tang hằn rõ xương cốt, như thể không kìm được mà muốn đấm vào mặt Sakuma Ichiro. Cô lại vươn tay ra, lần này anh không né tránh nữa, để mặc cô nhẹ nhàng nắm lấy mình. Bàn tay vừa bé nhỏ lại lạnh lẽo.

Rồi cô chợt buông tay, sải bước đi ra ngoài cửa.

Sakuma bật cười, lướt qua Ngôn Tang đi theo cô.

Hai người một trước một sau đi ra khỏi đại sảnh, chợt Ngôn Tang xoay người xông tới chặn đường, lớn tiếng hỏi: “Bọn họ nghĩ em là ai hả?!”

Nhân viên phục vụ đứng bên ngoài giật mình.

“Áo khoác gài nút màu xám sẫm.” Sở Vọng bình tĩnh nói với nhân viên. Nhân viên lại càng kinh ngạc khi cô bình tĩnh đến thế, nhưng đồng thời cũng được trấn an bởi điều đó, xoay người lấy áo khoác ở trong ngăn tủ ra trả lại cô.

Cô cầm lấy áo rồi mặc vào, ngẩng đầu lên nói với anh: “Vậy anh nói đi, em có gì khác với các cô ấy?”

Anh ngẩn người, đứng chôn chân tại chỗ.

Cô đi theo sĩ quan Nhật Bản xuống lầu.

***

Di Nhã điềm tĩnh kéo Chân Chân tái nhợt đi lên lầu, thế nhưng khi vừa tìm được ngài Tưởng, nước mắt Di Nhã đột nhiên chảy xuống, kéo tay áo ngài Tưởng hỏi: “Anh trai em đâu rồi! Anh ấy đang ở đâu?!”

Ngài Tưởng nhìn cô chằm chằm.

“Sở Vọng bị gã Sakuma Ichiro đưa… đưa đến trường đua ngựa.” Tuy Chân Chân vẫn tái mặt, nhưng đã có thể bình tĩnh nói thay cô ấy.

“Thiếu tá mới gọi cậu ta đi rồi.” Ngài Tưởng nắm lấy tay Di Nhã, thoáng trầm ngâm rồi lập tức cho người đi mời ngài Hoàng đến. Sau đó ông kéo tay Di Nhã, gọi Chân Chân cùng đi theo ngài Hoàng xuống lầu.

Vừa đúng lúc có chiếc xe Ford chạy tới, Sakuma Ichiro mới mở cửa xe ra thì nghe thấy ngài Hoàng ở sau lưng gọi lại: “Cô ba, gượm đã.”

Tóc Sở Vọng dính lên mặt, nét đẹp thê lương vốn có lập tức được hóa giải bởi nụ cười của cô. Cô vuốt tóc, dừng bước nói: “Ngài Hoàng.”

Sakuma Ichiro thấy ngài Hoàng đi tới, cũng đổi sang nói bằng tiếng Trung không quá tiêu chuẩn, cung kính chào: “Chào ngài Hoàng.”

Ngài Hoàng gật đầu nhưng không để ý đến gã ta. Ông bước lên, rồi đột ngột *bụp* một tiếng, một chiếc vòng khảm kim cương ôm lấy cánh tay Sở Vọng. Ngoài ngài Tưởng ra, tất cả những người khác đều giật mình, ngay đến Sakuma cũng nhướn mày, nhìn chằm chằm chiếc vòng tay còn to hơn cả cánh tay của Sở Vọng.

Sở Vọng kinh hãi, còn chưa kịp mở miệng nói đồng ý nhận hay từ chối nhận thì ngài Tưởng đã mở miệng trước: “Là ngài Hoàng cho cô, âu cũng là tấm lòng. Cô cứ nhận đi.”

“A.” Cô gật đầu, “Cám ơn ngài Hoàng.”

Sakuma Ichiro cũng cười, dùng tiếng Trung kỳ quái nói: “Ngài Hoàng cứ yên tâm. Tôi đưa cô Lâm đi như thế nào thì sẽ trả cô ấy về như thế ấy.”

Ngài Hoàng mỉm cười gật đầu.

Sakuma Ichiro làm tư thế mời, mời cô lên xe.

Cửa xe đóng lại, cô nghiêng đầu nhìn ra ngoài. Tất cả mọi người đều có mặt, ngoại trừ Ngôn Tang và Tạ Trạch Ích.

Sakuma ngồi ngay ngắn bên cạnh cô, cười khà khà, “Xem ra cô có nhiều bạn thật đấy. Không giống tôi, đến một người bạn cũng chẳng có.”

Cô nắm lấy chiếc vòng nặng trịch trên tay, hỏi, “Bọn anh định làm gì với các cô ấy?”

Sakuma sầm mặt, nhưng ngay lập tức cười nói: “Đua ngựa là trò duy nhất tôi thấy vui ở Thượng Hải, nếu tôi đã thành tâm mời cô đến thì tức là thành tâm muốn kết bạn với cô Lâm. Tôi đã nói sẽ không làm gì cô, thì chắc chắn sẽ không hại cô.”

“Còn các cô ấy?”

“Để xem cô định tiếp tôi chơi thế nào đã. Ở tô giới thường xuyên có cảnh vài người phụ nữ vì địa vị mà giành giật, vì thứ vàng son xa hoa mà sẵn sàng bán đứng bản thân. Loại phụ nữ như thế, chỉ cần khiêu vũ ba lượt là có thể phân loại ra ngay. Nếu người nào còn dè dặt thì chỉ cần dẫn đến trường đua ngựa, chỉ cần qua một hai lượt đua là sẽ hiện nguyên hình.” Sakuma cười ha hả, “Có điều hai cô gái hôm nay không giống thế. Cô có biết khác nhau ở điểm nào không?”

Cô đưa mắt nhìn gã ta.

“Cô nhìn ánh mắt mình đi.” Sakuma nửa cười nửa không, “Ngay cả khi cười xòa thì bọn họ cũng có dáng vẻ anh hùng, sẵn sàng hy sinh, giống hệt cô vậy.”

Cô nghiến răng đầy tức giận.

“Tôi chỉ đùa thôi. Tôi rất thích ánh mắt của cô, hôm nay gặp bọn họ, khéo thế nào lại làm tôi nhớ đến cô. Tôi rất thích cô đấy cô Lâm à, nên đương nhiên tôi cũng thích bọn họ.”

Xe dừng lại trước cổng trường đua ngựa Tào Ma. Sakuma Ichiro nói xong câu đó thì đẩy cửa xe bước xuống, miệng còn lẩm nhẩm: “Tôi đi xem con số 5 của mình đây.” Gã mỉm cười bước đi mấy bước, rồi bất chợt làm như hoàn hồn, quay vòng về cười khì khì mở cửa xe ra: “Thứ lỗi cho tôi, sao tôi lại quên cô thế này?”

Sở Vọng né tránh gã, bước xuống xe. Gió lạnh thổi đến, cô đút tay vào trong túi áo, sờ soạng.

Tào Ma bước ra đón, vẻ mặt cười cười thốt ra câu tiếng Anh bồi, mười cả hai vào trong: “Đại nhân Sakuma, hai vị đại nhân khác đã vào trước rồi ạ.”

Sakuma Ichiro né người, nhường tầm nhìn cho Sở Vọng, “Vị mỹ nhân này của tôi không dễ mời thế đâu.”

Tào Ma quan sát cô, khom lưng cúi mình: “Đương nhiên rồi, đương nhiên rồi.”

Tào Ma đi đằng trước dẫn đường, cô vẫn đút tay vào túi áo, đi theo hắn ta bước vào một căn phòng. Trong tiền sảnh đơn sơ có một chiếc bếp lò, phía sau quầy treo chừng mười tấm bảng màu đỏ, bên trên có khắc số.

Sakuma Ichiro đi tới, đẩy ra một đồng bạc.

Tào Ma hơn hớ hỏi: “Vẫn như cũ ạ?”

Sakuma Ichiro nghiêng người dựa vào quầy, ra vẻ nói, “Ưu tiên phụ nữ. Để cô ấy chọn trước.”

Cô nhìn Tào Ma chằm chằm.

Tào Ma hiểu ý, lập tức giải thích: “Cô gái này, tối nay ở chỗ chúng tôi có mười ba con ngựa, gọi số theo mấy con số 2 3 5 7 9 10 trên tấm bảng treo ở đây. Người mới tay thơm, cô cứ chọn một số cho ngài đây đi, để ngài đây kiếm được bộn tiền.”

Sakuma nói: “Tào, ngươi cẩn thận đấy, ta chỉ đặt vài con thôi.”

Tào Ma nhướn mày, lập tức cười nói: “Hai con, hai con.”

Sakuma cười nói với cô: “Chọn đi, thua cứ tính cho tôi, thắng thì thuộc về cô.”

Cô nhìn gã chằm chằm: “Vì sao lại là hai con?”

“Đánh cược vận may thôi.” Sakuma híp mắt, “Để tôi xem vận may của nữ khoa học gia nhà ta thế nào.”

“Tôi chỉ tin vào các con số, không đánh cược vận may.”

“Toàn là công việc, giải trí chút đi nào.” Sakuma cười bảo.

Cô ngẩng đầu nhìn gã, “Xem mạng người như cỏ rác. Tôi không đánh cược.”

Sở Vọng quay đầu toan bỏ đi, nhưng lại nghe thấy Sakuma nói: “Bây giờ bọn họ đã rơi vào trong tay tôi. Nếu đưa đến Nam Kinh, cô biết bọn họ sẽ bị đối xử như thế nào không?”

Cô khựng bước.

Sakuma vẫn nói: “Cấp trên của Tạ sĩ quan nhà ta đã ở đây, hay là đến hàn huyên với ông ấy về vụ mất tích trẻ em kia nhỉ? Một trận đua ngựa dài chừng hai tiếng, có đủ để cô suy nghĩ kỹ không?”

Cô khẽ cắn răng, xoay đầu lại hỏi: “Các cô ấy có ở trong đó không?”

Sakuma cười nói: “Vào xem là biết thôi mà?” Nhìn vẻ mặt của cô, gã cười bảo: “Tào Ma, dẫn đường đi.”

Tào Ma đáp lời, dẫn hai người đi dọc theo khán đài lộ thiên tới hành lang có mái che ở bên cạnh. Suối nhỏ uốn lượn, bóng trúc lay động; đi băng qua đó là đến một chuồng ngựa. Chỗ có cửa sổ đối diện thẳng với hai gian phòng, và đứng trong mỗi gian ấy là một cô gái. Vì cách cửa sổ nên không nhìn rõ lắm, chỉ cảm thấy bọn họ đang đứng trong một tư thế rất kỳ lạ, cứ như có thứ gì đó tròng qua cổ vậy.

Trong một gian phòng trong đó có bóng người mặc sườn xám màu xanh lam thêu chữ Thọ bằng chỉ bạc. Người cô run lên, quay sang hỏi Tào Ma: “Đây là trường đua ngựa ư?”

Tào Ma nhìn Sakuma, cung kính trả lời: “Ở đây không có ngựa thuần hóa thì sao có thể gọi là trường đua được. Có mấy con ngựa hoang vừa đưa đến, nếu không hành hạ cho ngoan thì làm sao chịu chạy?”

Sakuma cười khà: “Thể lực của con người còn kém hơn so với ngựa nhiều.”

Tào Ma cười nói: “Muốn thuần hóa ngựa thì không thể dựa vào mỗi thể lực, mà phải hành hạ thần kinh, ngựa thuần hóa không thể dựa vào thể lực, mà phải hành hạ thần kinh, đe dọa hình, sắc, thanh, bỏ đói nó, cho nó khát nước, dùng roi quất rồi đánh thuốc nữa…” Nghĩ một lúc, hắn cúi người vái, “Kể ra thì thiếu tá đại nhân am hiểu chuyện này hơn tôi mà.”

“Ta hiểu hơn ngươi chỗ nào?” Sakuma cười nói: “Ngựa ở chỗ ngươi không khác gì bị điên. Nên ta mới không đến trường đua ngựa của đám người da trắng kia mà chỉ đến chỗ của ngươi. Ngựa của ngươi là thú vị nhất.”

Sở Vọng cảm thấy dạ dày cồn cào, cả người như treo lơ lửng trên không, âm thanh cũng hư vô: “Đánh cược thế nào?”

Lúc này Sakuma mới như sực nhớ đến cô, ngoái đầu lại nói: “Thế này đi. Cô chọn hai con, tôi chọn một con.” Gã chỉ vào hai gian phòng kia, “Nếu ngựa của cô nhanh hơn ngựa của tôi thì tôi sẽ thả bọn họ. Sao?”

Cô nhìn thẳng vào gã, miệng hỏi Tào Ma: “Anh Tào, đọc lại số đi.”

“2 4 5 7 9 10 13 15 17 20 21 23 24.”

Cô nghĩ một lúc rồi nói, “10… Và 17.”

Tào Ma gật đầu. “Được. Còn thiếu tá đại nhân?”

“Vẫn như cũ.”

“Được rồi, là số 5 đúng không.”

Cả hai ngồi xuống một chỗ đứng cách nhau so với chiều cao. Đây là góc nhìn tốt nhất, bạn có thể thấy tất cả các vị trí của khán phòng và con ngựa khi họ lao về phía trước. Lúc mười ba con ngựa lao ra đường đua, hai mắt Sakuma bắt đầu phát sáng, thở dài đầy sung sướng: “Ở Thượng Hải nhiều năm thế rồi, làm gì cũng thấy vô vị. Nếu nói còn sót lại gì thì cũng chỉ có đua ngựa.”

Cả hai ngồi xuống một chỗ khá cao ở trên khán đài. Ở đây có góc nhìn rất tốt, có thể nhìn bao quát được cả khán đài và đường đua. Lúc mười ba con ngựa lao ra, hai mắt Sakuma bắt đầu phát sáng, thở dài đầy sung sướng: “Ở Thượng Hải nhiều năm thế rồi, làm gì cũng thấy vô vị. Nếu nói còn sót lại gì thì cũng chỉ có mỗi đua ngựa.”

Gã nhớ đến Thiên hoàng vĩ đại bị vô sinh, còn có cả người vợ không được cưới hỏi đàng hoàng, nhưng nghe nói sau này đã trở thành nhà sinh vật học. Bà dấn bước vào khoa học, cùng Thiên hoàng nghiên cứu trẻ sơ sinh trong ống nghiệm, còn đóng góp cả trứng của mình. Cũng vì lý do này mà bà và gia tộc của gã được che chở. Về sau người con trai kia chết yểu, cả nhà gã khóc ròng suốt ba ngày. Gã nhớ mẹ mình đã dặn rằng, trong nghi thắc nhận quân hàm, phải bày tỏ tiếc nuối và áy náy với Thiên hoàng về phôi thai hai tháng kia trước mặt hàng ngàn binh lính. Gã nghe lời làm theo. Gã bị chính lòng trung thành tuyệt đối của mình và người nhà với Thiên hoàng làm cho khóc chảy nước mũi.

Gã còn quá trẻ, nhưng lại thấy quá nhiều máu. Lúc gia nhập quân đội, gã đã thề thốt trung thành với Thiên hoàng bệ hạ, bệ hạ bảo gã giết người thì gã sẽ lập tức giết, tướng quân nói giết người có thể thăng hàm, gã còn hạ đao nhanh hơn cả quỷ. Trên tay gã có quá nhiều mạng người, quá nhiều sắc máu tươi, dần dần chúng không còn kích thích được giác quan của gã, gã bắt đầu cảm thấy giết chóc không còn mang lại khoái cảm cho mình. Thế nhưng người Trung Quốc lại ngày càng ngoan ngoãn, nếu rút đao thì thằng cha kia sẽ lập tức quỳ xuống, nếu cởi quần thì con ả kia sẽ tức khắc trèo lên; hoặc là ngày càng dứt khoát, chỉ mới bắt hắn ta làm tù binh mà hắn đã cắn lưỡi tự tử. Gã thăng cấp không quá nhanh mà cũng không quá chậm. gã không biết rốt cuộc mình sẽ trở thành thứ gì, cuộc sống dần mất đi hy vọng. Gã thử kích thích mình, làm tình, tàn sát, cưỡng gian thi thể… Thứ gì cũng đã thử, song vẫn tẻ nhạt vô vị.

Gã đến chỗ của Tào Ma một lần, ngày hôm ấy có mười mấy thớt ngựa non mới chào đời được đưa tới, tất cả đều là ngựa hoang. Gã bịt mắt chúng lại, cho phát âm thanh sắc nhọn ở bên tai chúng, tiêm thuốc kích dục rồi trói lại, sau đó lại hành hạ chúng đến chết ngay trước mặt những con còn lại, cuối cùng lột da ném vào chảo dầu; gã bỏ đói chúng ba ngày, lại cho chúng ăn no ba ngày, điên cuồng dùng roi quất.

Những con ngựa đang ở bên bờ vực suy sụp tinh thần, nhạy cảm đến nỗi nếu kích thích thêm một phát nữa thôi thì sẽ lập tức nổi điên.

Ở đây có ngựa đua thuần hóa nhất, nhưng cũng có thớt ngựa điên khùng nhất.

Đó là quá trình được thuần hóa của chính gã ta, là cỗ máy giết người chất lượng cao nhất, phấn khích đến mức gần như điên loạn. Thậm chí gã có thể dự đoán rằng một ngày nào đó trong tương lai, bọn gã sẽ còn có cuộc tàn sát lớn hơn thế, ngay tại mảnh đất dưới chân gã ta, tại vùng dất có dân tộc từng được bọn gã thuần phục, nhưng cuối cùng bị dị tộc cai trị và trở thành nô lệ thấp kém, cuối cùng được bọn gã dùng lễ nghi cao nhất để cảm hóa.

Gã nhìn đám ngựa già chen chúc giẫm đạp nhau, lại nhìn chằm chằm con ngựa số 5 đang dẫn đầu ở dưới đường đua, xúc động tới mức khóc chảy nước mắt.

Gã đưa tay muốn bắt lấy cô gái Trung Hoa bên cạnh mình, là món đồ chơi mới gần đây gã thích nhất, không khác gì con ngựa số 5 của gã. Gã muốn tính để cô cũng cảm động như mình, thế nhưng lại tóm hụt.

Số 10 và số 17 nằm trong số những con già yếu.

Gã cười khẽ, vỗ vào chỗ trống bên cạnh mình: “Ngồi đi.”

Cô lại đút tay vào túi áo, dựa vào lan can, nhìn chằm chằm trường đua ngựa.

Sakuma nghiêng đầu dựa ra sau ghế, nhìn đôi mắt lahj lùng của cô không hề tương xứng với vẻ ngây thơ bề ngoài, nhìn đồi ngực nhô lên bên dưới áo khoác, nhìn thân hình cong vút ở dưới váy, cùng với mắt cá nhân mịn màng bên dưới. Đột nhiên người gã nóng lên, một luồng kích động thôi thúc, khiến gã suýt nữa đã đứng bật dậy. Nhưng tia sáng phản chiếu bởi chiếc vòng trên tay cô hắt vào mắt gã, làm gã ta nhức nhối. Gã chỉ biết đấm mạnh vào lan can.

Mẹ kiếp. Thứ đồ chơi xinh đẹp là vậy, nhưng thật đáng tiếc, lại không cho gã đụng vào.

“Cô cuống cái gì? Thiếu tá Fujima cũng đâu có vội.” Sakuma híp mắt nhìn cô, “Cô xem đi, ông ta cũng đang ngồi trên khán đài đối diện xem đua ngựa đấy. Một gián điệp của cơ sở ngầm thì sao có thể đối đầu được với cả đại đế quốc? Hai ả kia đúng là ngu xuẩn, tưởng chỉ cần níu chân ông ta là có thể thuận lợi hoàn thành đại sự. Nhưng bọn chúng không biết, thật ra thiếu tá Fujima mới đang kéo chân tình báo bọn chúng.”

Cô nhìn chằm chằm con ngựa số 5, không nói không rằng.

“Số 10 và 17 không thắng nổi đâu. Vì sao cô không đi thăm hai con ả kia đi? Nếu cô không đến, bọn họ cũng sẽ giống những kẻ hạ đẳng ngày ngày dần chết mòn trong nhà máy sợi dệt. Bọn chúng không cứu được người trong nhà máy, mà cô cũng không cứu được chúng. Nên đừng vội vàng gì, ngồi xuống xem cho kỹ chú ngựa cưng số 5 của tôi tiến thẳng về đích thế nào.” Gã nhíu mày, sau đó đứng lên, đi đến gần chỗ cô, “Nếu cô vẫn cứ lo thì được thôi, cô cho tôi hôn một cái, cô đồng ý không nói cho người khác biết thì tôi sẽ bỏ qua cho hai đứa kia. Được không?”

Sở Vọng đút hai tay trong túi áo, đứng yên dựa vào lan can, nhìn Sakuma từ từ đi về phía mình.

Hai tay gã ta chống lên tường bao vây lấy cô, dù cô đi giày cao gót thì vẫn phải ngẩng đầu lên, thấp giọng nói: “Tôi cố tình chọn nơi này đấy, bên dưới toàn là tiếng vó ngựa với tiếng hí. Dù lát nữa anh có hét thế nào thì cũng không có ai nghe thấy đâu, cũng sẽ không khiến anh mất mặt. Sao nào?”

Cô khép áo khoác lại, ngẩng đầu nhìn gương mặt đang dí sát vào mình, hỏi, “Tôi nói được làm được, vậy quân Nhật có thể giữ lời hứa, rút lui khỏi đường sắt Mãn Châu và Hồng Khẩu không?”

Sakuma như nghe cô kể chuyện cười, ngửa đầu cười phá lên, “Chính phủ các cô yêu thích chúng tôi như thế, sao nỡ để chúng tôi rời đi được. Con gái Trung Quốc đúng là dễ bị lừa.”

Cô lại hỏi: “Nếu số 10 và số 17 vượt được con số 5 của anh, thì anh cũng sẽ không bỏ qua cho các cô ấy?”

Sakuma nghiêm túc nhìn cô: “Cô cho tôi hôn một cái, tôi hứa sẽ bỏ qua cho họ. Nếu không, lát nữa tôi sẽ dẫn cô đi xem đội tự vệ của Fujima và ông ta lần lượt hôn họ.”

Cô ngẩng đầu lên, khẽ thở nhẹ lên mặt Sakuma đang dịch đến gần.

***

Lúc thấy cô bị gã người Nhật dẫn đi, theo bản năng, phản ứng đầu tiên của Ngôn Tang là chạy lên tầng hai, đập cửa từng phòng một.

Nghe thấy bên ngoài có tiếng ồn, Chu Nhĩ Tra đã đưa Tạ Trạch Ích vào trong phòng khóa trái cửa lại, im lặng uống trà hơn mười phút, không nói năng gì.

Cho đến khi nghe thấy tiếng đập cửa dồn dập bên ngoài, Tạ Trạch Ích nhướn mày nhìn Chu Nhĩ Tra.

Lúc anh đứng dậy định đi mở cửa, Chu Nhĩ Tra đằng hắng hai tiếng, cuối cùng cũng mở miệng.


“Gần đây hội đồng khu nhận được khiếu nại có liên quan đến cậu. Một cậu bé người Trung một hai tuổi mất tích, do cậu ra lệnh Benjamin đưa đi. Cậu bé đó đã đi đâu rồi?”

“Đó là một cô nhi.”

“Cậu chắc chứ?”

“Tôi chưa bao giờ làm chuyện gì mình không chắc chắn, sếp biết tôi mà.”

“Vậy còn chuyện khác thì sao, cậu chắc chắn được bao nhiêu phần? Nhân lúc tối nay không có cấp trên ở hội đồng khu, cậu tự tiện điều hai đội đến bệnh viện nhà máy sợi dệt.”

“Đúng là có chuyện này.”

“Hậu quả?”

“Đưa được ba người rời đi, hoặc là lấy được một bức ảnh làm bằng chứng.”

“Zoe Tse. Tôi đang hỏi hậu quả. Hành động của cậu sẽ gây ra hậu quả cho cả cậu lẫn chúng ta.”

“Mấy năm nay Nhật Bản đã bắt đầu hành động ở ngay tô giới, sếp cũng thấy hết còn gì. Sớm muộn gì dã tâm quyền lợi của chúng cũng bành trướng, nơi này sẽ không còn là đất đặt chân của người Anh nữa. Nhật Bản cần phải rời khỏi tô giới.”

Chu Nhĩ Tra nhìn anh, “Cậu đang đứng ở góc độ nào để suy xét? Đế quốc? Hay là gì?”

“Đương nhiên là đế quốc rồi.”

Chu Nhĩ Tra cười nhạt, “Sợ là cậu có thiên vị.”

Tạ Trạch Ích không đổi sắc: “Zoe Tse thề tận hiến hết mình vì đế quốc, tuyệt không thiên vị.”

Chu Nhĩ Tra cười hai tiếng, xoay mặt đi, “Ở tô giới đã hai năm, cậu có binh quyền ở Thượng Hải cao hơn lục quân tôi, chẳng lẽ không hiểu được lợi ích giữa sáu nước ở hội đồng khu? Nếu những bức ảnh đó thật sự dùng làm bằng chứng tố cáo người Nhật làm chuyện vô nhân đạo ở đất nước này, thì cậu dựa vào đâu tin rằng sự kiện này sẽ không trở thành sự kiện 12 tháng 4 hay 30 tháng 5 tiếp theo? Đến lúc đó, với tư cách là một sĩ quan can thiệp vào án, nếu Nhật Bản và công sứ sáu nước cùng đổ tội, thì đến cả đế quốc cũng không có khả năng bảo vệ cậu đâu Zoe à. Cậu đã hiểu chưa? Nếu dân tộc trên mảnh đất này thật sự thức tỉnh, Nhật Bản đi đời thì tập thể chúng ta cũng đi đời theo. Zoe, cậu phải nhớ lại gia tộc mình, từ thế hệ ông cha nhà cậu, trong mỗi khoản tiền nhà cậu kiếm được đều có mạng của hơn trăm người Trung Quốc. Cậu được sinh ra trên núi hài cốt của người Trung, khi quốc gia bị chia cắt trong đau khổ, thì lúc đó mới có cậu. Sau khi cậu về đây, cậu dám nói hai tay mình không có mạng người nào ư? Chỉ cần một người Nhật bị xét xử, thì Zoe…” Chu Nhĩ Tra ngoái đầu nhìn vào đôi mắt màu đen kia, “Chỉ cần một người Nhật bị xét xử thì không ai trong chúng ta có thể thoát được.”

“Đúng vậy thưa sếp, tôi biết.” Tạ Trạch Ích cúi đầu mỉm cười, làm như lời ông ta nói chỉ là gió thoảng bên tai, quay đầu đẩy cửa rời đi.

“Zoe Tse!” Chu Nhĩ Tra biến sắc, “Đây là tô giới công cộng! Nam Kinh không có điều kiện bảo vệ lợi ích cao nhất của sáu nước trong tô giới! Hôm nay cậu ở lại uống trà nói chuyện với tôi, tôi sẽ tự phái hai đội đến giúp quân Nhật đàm phán hòa giải hiểu lầm giữa hai bên Anh Nhật. Chẳng qua cậu chỉ là nhất thời mê muội, không thể vì thế mà làm lỡ đại sự được!”

Động tác mở cửa của Tạ Trạch Ích dừng lại.

“Zoe, bên nào đúng bên nào sai, cậu nghĩ kỹ đi.” Giọng Chu Nhĩ Tra run run, âm thanh trầm xuống, nửa ra lệnh nửa van nài, “Cậu là một người thông minh, Zoe, cậu hẳn suy nghĩ rõ ràng hơn tôi.”

“Đây là tô giới công cộng, nhưng cũng là lãnh thổ Trung Hoa.” Tạ Trạch Ích cười với ông ta, “Tôi đã nghĩ rõ ràng rồi.”

Chu Nhĩ Tra nhìn anh rời đi, bất chợt ném ly trà trong tay xuống đất.

Tạ Trạch Ích đóng cửa lại, nhìn thấy Ngôn Tang hổn hển chạy đến.

Anh đưa mắt nhìn vết máu trên môi Ngôn Tang, nét mặt thoáng động, hỏi, “Cô ấy đâu rồi?”

Giọng Ngôn Tang khản đặc, “Cô ấy đến trường đua ngựa với người Nhật rồi, anh… anh đi tìm cô ấy nhanh lên.”

“Tôi biết rồi.” Tạ Trạch Ích gật đầu, bước nhanh đi xuống, đẩy cửa phòng tiệc đi ra.

Ngôn Tang theo sát phía sau.

Anh không lập tức sốt ruột đi ngay mà dừng lại trước tủ lấy quần áo, gọi nhân viên đến hỏi: “Cô Lâm đã lấy áo khoác chưa?”

Nhân viên gật đầu, “Vừa mới lấy ban nãy.”

Anh ừ một tiếng, lúc này mới đẩy cửa đi ra.

Đúng lúc Benjamin lái xe đến.

“Tới bệnh viện nhà máy sợi dệt.” Anh nói.
 
Trạng thái
Không mở trả lời sau này.
Top