Lượt xem của khách bị giới hạn

[Ngôn tình] [Truyện Hoàn] Giờ đang nơi đâu - Duy Đao Bách Tích

Trạng thái
Không mở trả lời sau này.
[Ngôn tình] [Truyện Hoàn] Giờ đang nơi đâu - Duy Đao Bách Tích

Hoa Tử

Sưu tầm
Tham gia
24/9/19
Bài viết
10,493
Điểm cảm xúc
1,412
Điểm
113
Chương 129: Hợp tan (1)
Bỗng trong tòa nhà vang lên tiếng ồn ào tấp nập: công nhân dậy sớm dỡ bia từ sà lan rồi vận chuyển đến quán rượu Tkachenko. Vũ nữ người Nga vốn chẳng bao giờ dậy sớm, nay nghe nói ở tô giới có tin đồn lớn, thế là vội vã khoác thêm áo khoác, đi giày cao gót trang điểm lộng lẫy ra khỏi hộp đêm đổ xô lên đường, ôm hy vọng sẽ gặp được những người săn đầu người đến từ các công ty quảng cáo xà phòng hoặc thuốc lá, hòng kiếm được tiền lương nửa năm; cánh phóng viên cũng tập trung trước cổng tòa án từ sáng sớm, cùng đợi xem thành phố này sẽ lộn xộn thế nào.

Còn ở trên tầng hai quán Tkachenko, hai người họ chậm rãi chuyện trò như không có việc gì.

Cô chợt nhớ ra mình đang ở đâu, hỏi anh: “Sao ra sớm thế, kết quả hội thẩm không ổn à?”

“May nhờ có anh Tạ. Anh ấy đứng trên lập trường của mình nên mới có thể chiếm được kết quả tốt nhất.”

Anh chợt nhớ đến lời miêu tả Tạ Hồng qua lời người khác – “không xem mình là người Trung, cũng không cho rằng mình là người Anh, thuận tiện mưu lợi giữa hai bên”. Rốt cuộc Tạ Trạch Ích có bao phần tương tự?

Giống như lời cha anh đã nói. Cường quốc tiến vào Tử Cấm thành như vào chốn không người, văn vật lịch sử, trân châu ngọc thạch, thành rương thành hòm; giết chóc cướp đoạt cũng không ngại “tiền bất chính”, nhưng rồi có một ngày nhất định sẽ phải trả lại. Không phải hôm nay thì cũng là ngày mai, nói chung vẫn sẽ có ngày.

Nên anh mới cho rằng Tạ Trạch Ích là người Anh. Dù anh đã thề nguyện cống hiến với nước Anh, nhưng bản thân anh cũng hiểu được cảm xúc mạnh mẽ lúc nóng lúc lạnh giữa tín ngưỡng chính nghĩa và hận thù.

Trong 80 năm qua không biết có bao nhiêu người Anh từng đặt chân đến Trung Quốc, gần một triệu con người khao khát công lý đã bị đồng hóa thành kẻ giết người bởi địa ngục trần gian, nhưng nhưng chưa từng có ai nhanh chóng tỉnh ngộ lập tức thành Phật.

Thậm chí anh có thể tưởng tượng được, Tạ Trạch Ích phải liều mạng thế nào mới có thể mưu cầu được con đường hy vọng thỏa đáng này.

Trạch Ích – chọn điều lợi lộc chứ không phải chọn cuộc sống an nhàn, là dễ chết khó sống, cũng khó tự thân tỉnh táo.

Chuyện này, nếu không phải là anh thì không thể.

Nên mới là Tạ Trạch Ích chứ không phải Tư Ngôn Tang anh.

Có một thời gian dài anh thường nghĩ, nếu năm ấy người xuất hiện bên ngoài cửa sổ phòng cô ở Thiệu Hưng là Tạ Trạch Ích, thì chắc chắn kết quả sẽ không như vậy.

Ngôn Tang không khỏi bật cười.

Ở dưới lầu trên phố Queen’s, cửa tòa án đã mở. Đoàn người mặc quân trang lần lượt đi ra, phóng viên ở bên ngoài đồng loạt ùa đến.

Anh lập tức gọi nhân viên đem hóa đơn tới.

Thấy cô vẫn nhìn mình chằm chằm, anh liền mỉm cười.

Cô vội hỏi: “Bao giờ thì anh đi?”

Anh đáp: “Đêm nay.”

Cô không ngờ lại nhanh như thế, có điều, nếu không phải vô tình gặp ở đây thì cô cũng đã tưởng anh sớm rời đi rồi.

Cô hỏi: “Bây giờ, anh vẫn muốn đi sao?”

Anh cười, không trả lời mà nói: “Không đi sớm, chẳng lẽ ở lại tham gia hôn lễ của em?”

Cô nhìn anh nói: “Anh sẽ cưới vợ mà, chỉ là người đó không phải là em. Em không phải một nửa thích hợp của anh, người nên tránh đi là em mới đúng. Anh có gì không tốt?”

Anh ngẩng đầu thở dài, đoạn cười nói, “Anh chưa đi là vì muốn nói lời tạm biệt với em, nhưng bản thân lại không tìm được lý do để gặp em nên cứ lần lữa mãi tới hôm nay. Cũng không nghĩ là em sẽ chủ động xuất hiện trước mặt anh. Bởi vì không biết làm gì nên suốt ngày chỉ ở nhà.”

“Em đã đọc “Cô dâu của những ngày đã qua” rồi.” Rồi lại bổ sung, “Anh Tạ đem đến cho em.”

Nhốt mình trong nhà viết truyện, nói lời tạm biệt với cô.

Cô nhớ về sau anh sẽ bị cận. Nhưng vì anh không viết tự truyện của bản thân, nên khi người ngoài nhắc đến chuyện của anh thì cũng chẳng ai để ý là anh bắt đầu bị cận từ khi nào. Nhưng vào lúc này, khi anh ngồi ở đầu kia bàn ăn cách chưa tới một mét, biểu cảm của anh lúc nhìn cô rất tự nhiên bình thản, thậm chí nơi khóe miệng còn treo nụ cười khá lạnh lùng, mang theo cảm giác xa cách.

Đây là khoảng cách anh biết mình nên tránh xa cô.

Anh còn nói: “Từ khi hôn ước của hai ta đã bị bỏ, mỗi lần ra ngoài là cha anh lại chất vấn anh hẹn hò với ai.”

Cô gật đầu, “Đấy là chuyện tốt mà.”

“Anh mới nói với ông ấy là có hẹn với ai thì cũng không phải là trâu bò.” Anh mỉm cười.

Cô cười phá lên.

Hiếm khi thấy cô cười thoải mái như vậy, anh cũng bị cuốn hút theo, “Lần đầu tiên gặp em là cha dẫn anh đến. Em được mẹ ôm vào nhà, nhưng cứ quẫy đòi bò ra khỏi lòng mẹ. Rõ ràng là đang nói chuyện của em, thế mà em lại trượt đến chỗ khác như không liên quan gì đến mình. Đầu nhỏ, áo tím quần dài, mái tóc gọn gàng, hai mắt sáng long lanh.”

Cô khép mắt lại, bỗng trong đầu xuất hiện một đoạn như sau ––

“… Năm mười lăm tuổi, cha anh quay về Bắc Bình. Nửa tháng sau tức tháng 2, ông nội nhận được thư từ bạn tốt, mời ông dẫn theo con trai và cháu trai đến nhà cũ ở Thiệu Hưng gặp hai cô con gái nhà họ Lâm. Cha biết ý ông nội. Tư Ngôn Tang lúc ấy còn trẻ, tiếp nhận nền giáo dục nước ngoài nhiều năm, dù biết mình có vợ chưa cưới ở trong nước nhưng chưa bao giờ và cũng chưa có ý định muốn yêu. Khi cùng người nhà chờ trong thư phòng nhà họ Lâm, Tư Ngôn Tang vẫn khá dửng dưng, chào hỏi mọi người một cách thờ ơ. Đúng lúc này cửa mở ra, một cô bé ngây thơ mặc áo tím quần dài đi vào. Cô bé tết bím tóc đuôi sam, tròng mắt sáng long lanh…”

Xem đi, sách giáo khoa đúng là không lừa gạt, mô tả giống y hệt.

Anh nói, “Thật ra là anh đến tìm em trước. Đứng ngoài cửa sổ phòng em, nhưng lại không cho em thấy là anh đã đến.”

Cô im lặng.

Anh thở dài, cười nói, “Về sau anh chưa từng hẹn hò với ai khác.”

Giọng điệu không hề có ý bất đắc dĩ, cô có đáp lời hay không thì anh cũng chẳng nuối tiếc.

Anh khẽ ngẩng đầu, ra hiệu cho cô nhìn ra ngoài cửa sổ.

Nhân lúc cô nhìn ra ngoài, anh vội ký tên lên giấy, tầm mắt dừng lại trên người cô một khắc rồi khoác áo đứng dậy rời đi.

Cô hoàn hồn, vội đuổi theo hai bước gọi anh lại: “Anh Ngôn Tang!”

Sải bước của anh rộng hơn cô mà anh lại không có ý dừng lại, khiến cô vất vả đuổi theo.

Cuối cùng cô cũng níu được tay áo anh ở dưới tiệm Tkachenko.

Cô thở gấp, “Đêm nay em đến tiễn anh… cùng với anh Tạ.”

Anh mỉm cười, “Cái hồi anh Tạ đến tìm anh cũng có nói như vậy. Anh không muốn từ chối lần thứ hai đâu.”

“Vì sao?”

“Anh sợ lúc em đến tạm biệt, bản thân không nhịn được mà hỏi em sẽ là lúc nào.”

Cô ngẩn người, sau đó ngẩng đầu.

Đây có phải là đồng nghĩa với “hỏi ngày về” không?

Ngôn Tang tưởng cô đang kìm nén nước mắt, vội nói: “Hình như em còn nợ anh một phong thư, định bao giờ thì trả đây?”

Y hệt như đòi nợ.

Sở Vọng ngẩng đầu không phải vì muốn khóc, mà là muốn hạ quyết tâm. Cô hít sâu một hơi, không đầu không đuôi thốt ra một cái tên: “Cynphia Sachs.”

“Người Do Thái?” Anh chần chừ.

“Nếu anh gặp một người tên là Cynphia Sachs.” Cô cố ý nhấn mạnh cái tên này, “Thì đến lúc đó em sẽ gửi thư cho anh.”

Xe Ford của công ty phát thanh đã nhanh chóng rời đi. Rồi mọi tin tức trong phiên tòa lần này sẽ được phát tới Thượng Hải và toàn thế giới qua đài phát thanh.

Đã có người la lớn: “Thỏa thuận ngày 25 tháng 10! Trong tháng này thủy quân lục chiến Nhật Bản rút khỏi Thượng Hải! Mọi nhà máy Nhật Bản sẽ chuyển về nước! Chỉ mấy ngày nữa sẽ kết nối giao thông phía nam Thượng Hải với tô giới và Hạp Bắc, sau khi “hiệp ước tám năm” có hiệu lực, hơn 170 hiệp ước bất bình đẳng ở 6 mục đã bị xóa bỏ! Thu hồi quyền tài phán lãnh sự! Quân đội năm nước sẽ rút khỏi Thượng Hải vào năm dân quốc thứ 26! Trả lại tô giới!”

Rất nhiều tuần cảnh ở chính quyền thành phố Thượng Hải và hội đồng khu đã phải rất vất vả trong việc duy trì trật tự.

Cách con đường quốc lộ rộng rãi do người nước ngoài xây dựng, thế giới bên này yên ắng tựa như một thế giới khác.

Ngôn Tang nhìn cô gái trước mặt, làn mi khẽ rung. Dù trong lòng có rất nhiều nghi vấn nhưng không hề hỏi ra, mà anh chỉ im lặng nhìn cô, như muốn nhìn ra đáp án từ vẻ mặt kiên định của cô.

Anh cúi người nắm lấy vai cô, trao cô chiếc ôm vô cùng lịch thiệp. Lúc áp sát, anh thấp giọng nói, “Chúc tân hôn vui vẻ.”

Rồi sau đó lùi về sau hai bước, chậm rãi nói với cô: “Em nhìn Thượng Hải xem, có giống gánh xiếc thú không?”

Cô ngẩn người.

Không đợi cô trả lời, anh đã khoác áo vào, xoay người sải bước rời đi.

Cô không quá lo lắng cho Ngôn Tang, cũng không cho rằng hai người sẽ không gặp lại nhau nữa, nên cô không xem câu chúc “tân hôn vui vẻ” là lời tạm biệt, và cô cũng không cần “tạm biệt” anh.

Nên lúc anh hỏi: “Thượng Hải có giống gánh xiếc thú không?”, như đang nhắc cô nơi đây là Thượng Hải, dưới lầu là tòa án, ngoài cửa là biết bao chuyện kỳ quái.

Có phải Thượng Hải rất đẹp rất giàu không? Có lẽ thời kỳ này còn chưa rõ ràng, nên sẽ nói với người châu Âu và người Mỹ rằng: “Thượng Hải không hề thua kém Vancouver, San Francisco và Berlin, xe hơi, điện ảnh, đài phát thanh, cần gì có đó.”

Nhưng hàng trăm công nhân người Hoa đã chết trong lúc xây dựng đường sắt ở San Francisco và Vancouver thì không ai hỏi tới; khi người da trắng đến Trung Quốc hoành hành ngang ngược, người da trắng đánh chết người Hoa thì người Hoa chỉ có con đường chết; mà dù người Hoa có đánh chết người da trắng, thì vẫn là tử lộ.

Mấy ngày qua cô vẫn luôn nghĩ, vì sao Chân Chân không chịu yêu Chers từ sớm. Mà chuyện của cô Thẩm đã làm cô nhận ra: chúng ta chỉ là công dân hạng hai ngay trên chính mảnh đất của mình.

Còn Chers cũng không khác gì người ngoài, trong khoảnh khắc đưa binh lính và hạm đội của anh ta từ Nam Dương tiến vào sông Hoàng Phố, bọn họ đã được định trước là kẻ xâm lăng, hơn người một hạng.

Lúc liên quân tám nước tiến vào thành phố Bắc Kinh, người Anh là những người đốt phá và cướp giật nhiều nhất; bọn họ ra sức khai cương thác thổ trên khắp thế giới, còn Trung Quốc lại đang đánh mất chủ quyền của mình.

Mối tình này đã được báo trước là bất bình đẳng ngay từ đầu.

Ngay cả khi anh ta sẵn sàng hạ mình theo đuổi một cô gái phương Đông, thì cô gái ấy và gia đình của cô vẫn luôn là “lợn China” trong mắt những người da trắng, luôn là dân mất nước.

Cô nghĩ, trong mười tám năm cuộc đời của mình, đã rất nhiều lần Chân Chân thấy cảnh sát ngoại quốc đánh đập người kéo xe ở bến Thượng Hải, nhưng cô ấy không có quyền đi tới đánh trả giúp phu xe, mà cô ấy chỉ có thể phẫn nộ bất bình. Giờ đây cô ấy cũng chẳng thể chia sẻ nỗi bất bình ấy với Chers —— thậm chí cô ấy còn không biết Chers đã từng chặt ngón tay cái của một công nhân nào chưa, hay từng nổ súng với một người cu li nào chưa. Cô ấy không thể hỏi những chuyện này, mà cũng không nói ra được. Giả sử mọi điều đó là thật, liệu Chers có xem đó là tội lỗi không? Anh ta cũng chỉ là một trong số hàng ngàn binh lính đã bị đồng hóa sau khi đến các thuộc địa của Anh, bọn họ đã quá quen với chuyện đó rồi.

Có lẽ chỉ cần anh ta đứng đó, thì sẽ lập tức hóa thân thành ba chữ “kẻ xâm lược” to tướng.

Tám mươi năm trước bọn họ xông vào nhà ta, chiếm cứ sân ta, tiến hành cải tạo sửa đổi, phái người trấn thủ. Rồi sau đó lại nói, ở đây tốt hơn nơi các bạn đang ở nhiều, nếu các cậu muốn hưởng thụ văn minh nơi này, hoan nghênh đến ở bất cứ lúc nào.

Nhưng nền văn minh đó không phải là chúng ta, quân nhân cũng không phải là chúng ta, đến nỗi khi bạn nói với bọn họ đây là nhà của chúng ta, bọn họ sẽ ngạc nhiên hỏi ngược lại: “Là ai bảo thế?”

Kiểu sỉ nhục này, không một người nào lớn lên với lòng tự trọng và kiêu ngạo có thể chấp nhận được sự bất công như thế; mà Chers càng không thể hiểu được.

Trừ khi có một ngày thật sự đuổi bọn họ rời khỏi đây, rồi sau đó đối mặt ngồi lại ngang hàng với nhau. Bạn đến chỗ tôi thì sẽ dùng lễ đối đãi; tôi đến chỗ bạn thì không còn phân biệt giàu nghèo tôn ti nữa.

Cô chợt nhớ đến Sakuma, thỉnh thoảng cảm thấy chưa chắc lòng trung thành và đại nghĩa không phải là một kiểu tẩy não, có ai mà không hiểu được con tim một lòng muốn bảo vệ mảnh đất nơi ta sinh ra.

Cô nhớ Lỗ Tấn từng trả lời học trò như sau: “Chúng ta phải đấu tranh cho tự do ngôn luận trước, rồi sau đó tôi sẽ nói cho các em biết chúng ta nên đấu tranh vì điều gì.”

“Kẻ muốn an toàn chưa chắc đã có tự do, muốn tự do thì phải mạo hiểm.”

Mà hôm nay tự do và nguy hiểm đang ở bên kia con đường quốc lộ. Cô đứng một mình trên con đường do người Anh xây dựng tại lục địa phía Đông, chỉ nghe thấy tiếng ầm ầm vang dội của kỷ nguyên vĩ đại bên kia đường đang lăn về phía cô, tựa như có thứ gì đó sụp đổ, lại tựa như có tấm mở màn được chậm rãi kéo lên.

Rồi trong đám đông, trong tiếng ồn ào, một bóng dáng cao lớn băng qua đám đông, chậm rãi tiến về phía cô.

Cô ngẩng đầu nhìn anh thắt cà vạt đen, chợt nhớ lại mục đích mình đến hôm nay – thay anh thắt cà vạt mà mình đã học cả đêm.

Trong mớ suy nghĩ bòng bong, cô vô tình nghe thấy một giọng nói bé nhỏ lại mệt nhoài tự hỏi: “Anh đang thề bảo vệ điều gì?”

__

*Qin: cố beta xong chương này trong đêm khuya chỉ vì muốn nói, bye vật lý luật pháp chính trị lịch sử.:(( Kết thúc phần chính của chính truyện rồiiii, chặng tiếp theo là những chương ngọt ngào của vợ chồng Tạ thị nhé.
 

Hoa Tử

Sưu tầm
Tham gia
24/9/19
Bài viết
10,493
Điểm cảm xúc
1,412
Điểm
113
Chương 130: Hợp tan (2)
Nhìn nhịp bước thong thả của anh, có lẽ anh đã chờ ở bên kia đường một lúc lâu, đợi hai người trò chuyện xong mới đi sang.

“Nói chuyện xong rồi?” Anh hỏi.

“Vâng.”

“Thế thì tốt.”

Cô ngẩng đầu lên, còn chưa mở miệng hỏi thì tài xế nhà bà Cát đã lái xe Buick đến, cùng xe Ford của sĩ quan người Anh dừng ngay bên cạnh hai người.

Xe Ford dừng lại, một trung úy mắt vàng, mặt mũi bình thường vóc dáng cao ráo bước xuống, nói nhanh với Tạ Trạch Ích: “Sếp, lãnh sự mời anh mau chóng quay về lãnh sự quán một chuyến.” Đoạn bổ sung thêm, “Sắc mặt không tốt lắm.”

Tạ Trạch Ích chỉ mỉm cười, “Cứ để ông ta đợi.” Rồi còn tốt bụng tìm lý do, “Nói với ông ta là không ai đưa vợ tôi về.”

Trung úy liếc nhìn tài xế nhà bà Cát bị anh cho ra rìa, lâm vào thế khó xử.

Tài xế nhà bà Cát không nhịn được nữa, thò đầu ra hỏi: “Cậu Tạ, bà Cát lệnh cho tôi đúng giữa trưa phải đón cô về.”

Tạ Trạch Ích nói, “Tôi đưa về không được sao? Chẳng lẽ dì Cát cấm không cho tôi hẹn gặp vợ?”

Tài xế khó xử: “Cậu Tạ à, như thế…”

Tạ Trạch Ích lại nói: “Nếu không thì sẽ phải phiền anh lát nữa lái xe đưa tôi từ nhà dì Cát đến lãnh sự quán Anh.”

Tài xế lập tức im lặng.

Sở Vọng sực nhớ bà Cát từng nói với mình: “Cô dâu nhà họ Tạ vác bụng bầu xuất hiện trong buổi hôn lễ, năm tháng sau hôn lễ lại tới tiệc đầy tháng. Không biết sẽ bị người đời chê cười thế nào đây.”

Có điều cô nghĩ, bản thân bà Cát là đại diện cho giới nữ tân tiến nhất thời đại này, đổi lại là bà ấy thì chắc chắn sẽ không để ý những chuyện nhỏ nhặt này; nhưng vì chuyện xảy ra với cô, bà Cát thân là gia trưởng, nhất định sẽ phải nghiêm khắc, đề phòng Tạ Trạch Ích và cô không nhịn nổi mà “bóp cò nổ trước”.

Nên mỗi lần nhớ lại những lời này, cô toàn nín bụng cười thầm.

Anh nhận lấy chìa khóa xe từ trong tay sĩ quan phụ tá, lúc cô ngồi vào xe Ford thì bất ngờ bị người ngồi trên ghế lái hôn chụt một cái.

Đến khi cô hoàn hồn thì Tạ Trạch Ích đã vui vẻ khởi động xe, để lại tài xế của bà Cát đứng bơ vơ đằng sau. Đêm qua cô ngủ không ngon, sắc mặt hơi kém, lúc đi ra ngoài chỉ tiện tay thoa son màu dưa hấu. Không ăn sáng nên son chưa phai, thế mà giờ lại phai vì nụ hôn của anh.

Cô cười cười chỉ tay lên môi anh, anh vẫn nắm chặt vô lăng không buông, định liếm lấy.

Cô mua thỏi son này ở trung tâm thương mại. Thành phần son môi thời kỳ này thật sự rất khó đoán, thế là cô lật đật giơ tay xóa cho anh, cười nói: “Son môi ăn ngon không?”

“Vì là của cô Tạ nên mới ngon.”

Lúc này cô mới hiểu ra: quả nhiên những lời ngày trước là chỉ thị của anh. Trong lòng chợt động, hỏi: “Benjamin đâu?”

“Về Anh rồi.”

“Xin nghỉ hay mãn hạn ở Thượng Hải?”

“Không muốn làm kẻ ngoại lai nữa.”

Kẻ ngoại lai chính là cách gọi những người xâm lược thời dân quốc.

Anh uyển chuyển lựa lời nhưng Sở Vọng vẫn nghe ra, trong hơn một trăm sĩ quan hạ cấp thế tội bị cách chức đi tù ở buổi xét xử công khai mấy tháng trước, Benjamin cũng có mặt trong danh sách.

Thấy cô im lặng cúi đầu, Tạ Trạch Ích nói, “Em không cần phải thương xót làm gì. Tới Thượng Hải ba tháng, trong lúc thi hành nhiệm vụ đã vô tình đả thương một công nhân, hai mươi ba lỗ đạn xuyên qua người chết ngay trước mặt, thế mà quan viên Thượng Hải chỉ xua tay nói: ‘Đó là do hắn ta xui xẻo’. Không tốn nước bọt, đúng là dễ dàng, án mạng đầu tiên trong đời cứ thế bị xóa đi, thậm chí còn xóa luôn cả gánh nặng tâm lý của cậu ta. Thế nên về sau mới dần dần tác oai tác quái, chỉ cần không hài lòng là lại đánh dân nghèo ngoài phố, những chuyện như vậy không hề ít, mà số người Trung chết oan trong tay cũng không chỉ một hai. Sau nữa thì lại bao nuôi phụ nữ do chính phủ lâm thời đưa đến các buổi tiệc, dễ dàng vơ vét sạch một trăm bảng tiền lương của cậu ta. Cậu ta rất thích khoe khoang, mà tiền từ đâu ra thì anh không biết. Buôn lậu nha phiến, buôn bán người Thượng Hải cho giới quý tộc Bêlarut, chắc hẳn đều đã làm.”

Sở Vọng nghe vậy thì cảm khái. Lời này cũng giống lúc Tạ Trạch Ích bộc bạch với cô lúc ở bệnh viện Chữ Thập Đỏ.

Sau đó anh nói, “Học cùng trường ba năm, tốt nghiệp xong thì cùng anh đi từ Mỹ đến tô giới. Trước khi tới Thượng Hải, khi bị công nhân đình công ở San Francisco và Vancouver ném đá, cậu ta không hề coi thường một người Hoa nào. Lúc ở Hudson New York, nói chuyện với con gái hơn hai câu là lại đỏ mặt. Tô giới đúng là lợi hại.”

Đáng sợ nhất không phải là kỳ thị, mà chính bản thân người Trung Quốc tự cảm thấy mình thấp kém hơn người, chắp tay bỏ đi tôn nghiêm, để mặc bản thân và đồng bào bị chà đạp.

Vì vậy nên anh mới hận tô giới đến thế, bất chấp việc mình có thể bị gán tội danh gián điệp cũng phải gắng sức đấu tranh tới cùng để nó biến mất sớm?

Không biết ý thức công lý mạnh mẽ của anh đến từ đâu, Sở Vọng không tài nào hiểu nổi.

Đài phát thanh đang phát sóng bản tin nóng nhất ở Thượng Hải: “… Mọi đất đai được mua ở Thượng Hải sau khi Ngũ Khẩu mở cản thông thương từ năm 23 đến năm 26 Đạo Quang sẽ được trả lại cho chính phủ Thượng Hải trong vòng tám năm…”

Cô “cạch” một tiếng bấm vào công tắc, đột nhiên hỏi: “Anh Tạ, rốt cuộc anh cống hiến vì đất nước nào?”

Tạ Trạch Ích cười nói, “Anh nhớ là mình đã nói với em rồi mà. Anh chưa bao giờ nghĩ mình là người Anh, cũng không cho rằng mình là người Trung Quốc.”

Cô nhìn anh chăm chú, “Vậy anh làm như thế là chỉ để giảm cảm giác tội lỗi cho bản thân và cho đất nước anh tiếp nhận văn hóa?”

“Một phần nhỏ thôi.”

“Còn phần lớn là gì?”

Anh quay đầu sang, khẽ nheo mắt lại:”Chính là em nói với anh phải nên làm thế nào.”

Cô ngẩn người, “Em nói với anh như vậy bao giờ?”

Lúc này xe đã tiến vào hẻm Parker, dừng lại cách biệt thự bà Cát không xa.

“Đến nhà rồi, mau xuống xe đi.”

Thấy cô không nhúc nhích, ngồi trên ghế phụ nhìn mình chằm chằm, Tạ Trạch Ích bất đắc dĩ nói: “Vấn đề này anh không thể trả lời em ngay được. Em cứ về nhà nghĩ kỹ đi.”

Rốt cuộc cô cũng không hỏi nữa, thở dài mở cửa xe ra, vừa bước xuống xe đã ngoái đầu hỏi: “Gần đây anh vẫn bận lắm à?”

“Có hơi hơi. Còn nhiều người Anh đợi hỏi chuyện anh lắm.”

“Bọn họ sẽ không làm khó anh chứ?”

“Không đâu, vợ anh cứ yên tâm. Toàn Thượng Hải này, không ai có cấp bậc cao hơn anh Tạ cả, lãnh sự Anh cũng phải nhìn sắc mặt anh làm việc.” Anh mỉm cười.

Thế thì tốt rồi. Chu Nhĩ Tra là người vốn không chịu ảnh hưởng bởi quân lệnh bên ngoài, lại ngang ngược tung hoành ở thuộc địa viễn Đông.

Thế nhưng ngay từ đầu anh chàng thượng úy này đã dám không tuân lệnh Chu Nhĩ Tra, giờ tự tay đẩy ông ta ra khỏi vị trí của mình, đích thân ngồi lên.

Cô nửa quỳ ở bên ghế phụ, cúi người xuống, kéo lấy cà vạt quân trang của anh đến gần, hôn chụt lên môi và má anh.

Hôn xong lại sửa cà vạt cho anh, nhìn anh hỏi, “Anh Tạ, lần sau hẹn hò là bao giờ?”

Anh cười nói: “Lần say sẽ đón em từ nhà ngoại đến phòng tân hôn.”

Cô gật đầu, đóng cửa xe lại rồi rời đi.

***

Quả nhiên bà Cát đang chờ cô ở trên bàn ăn, hỏi, “Tạ Trạch Ích đưa cháu về?”

Cô trả lời, “Thời gian gặp mặt chỉ có 10 phút.”

Bà Cát liếc cô, vẻ mặt lười để ý.

Lại hỏi, “Thằng nhóc đó không nói cho cháu là phòng ngoài của Lâm Du đến chỗ Tạ Hồng gây sự à?”

Sở Vọng ngồi xuống ăn bưởi vàng với bà, “Gây sự gì ạ?”

“Đòi tiền.”

Cô giương mắt nghĩ ngợi, cuối cùng kết luận: “Sính lễ.”

“Cô đúng là đã xem thường bà ta rồi.” Bà Cát hừ lạnh.

“Tạ huân tước có bị nước mắt phụ nữ làm lay động không?”

Bà Cát liếc cô, “Bà ta muốn vớt lợi lộc từ chỗ Tạ Hồng hả, còn khó hơn kiếm từ chỗ cô gấp mấy lần. Đúng là mộng tưởng hão huyền, bị người ta vác ném ra cửa rồi.”

Một người đàn bà xông vào ổ trộm, không những không lấy được tiền mà còn bị chế giễu. Ầy, đúng là quá thảm. Cô vừa ăn vừa nghĩ.

Bà Cát lại nói: “Người nhà họ Trịnh tận mắt trông thấy con gái bà ta tay trong tay với sĩ quan người Anh rời khỏi vũ trường lúc 10 giờ tối, thế là tìm đến cửa hỏi bà ta có muốn từ hôn không, bà ta đáp rất sảng khoái, không hề biết vì gom góp đồ cưới cho cháu mà đã lâm vào đường cùng, không đền nổi sính lễ, thế là nổi trận lôi đình nói bà ta dạy hư con gái.”

Sở Vọng bĩu môi, “Chỉ trách mắt ông ta kém thôi.”

“Cá mè một lứa.” Bà Cát lại nói, “Mấy ngày tới bớt ra ngoài đi, đề phòng Lâm Du cùng đường bí lối đòi cháu đền bù tiền biếu của nhà họ Trịnh.”

Sở Vọng nhớ lại dáng vẻ chính trực thanh cao thường ngày của Lâm Du, thế là chế nhạo, “Không tới mức khốn khó vậy chứ?”

Có điều nếu bà Cát đã hạ lệnh không cho cô ra ngoài thì cô cũng đành ngoan ngoãn nghe lời ở nhà.


Sửa đổi hiệp ước không phải là kết quả tốt nhất. Lời hứa hẹn tám năm, xa cách hai miền, dù là Chers hay Chân Chân thì cũng không nhẫn nại nổi. Cô cũng lười ra bến tàu nhìn Chers đưa tiễn Chân Chân, đỡ tốn nước mắt của người ngoài là cô.

Đến bữa rồi, Di Nhã gọi điện đến miêu tả chân thật rằng Chers đã lái xe như bay đến bến tàu thế nào, leo lên cầu thang trước khi con tàu Eisenbeck khởi hành, từ cầu thang lẻn lên khoang tàu rồi chạy thẳng đến boong tàu. Dưới bao con mắt của mọi người, anh trao Chân Chân nụ hôn cháy bỏng trước mặt cha và bạn bè của cô ấy.

Có lẽ ông Tiết sẽ tức giận hộc máu tại chỗ mất.

Nhớ đến hình ảnh đó, Sở Vọng lại vui vẻ.

“Sau đó thì sao?” Sở Vọng hỏi. Chers còn có công vụ, không thể Chân Chân hai bàn tay trắng về Anh được.

“Dọc đường đi toàn dừng ở thuộc địa Anh, dĩ nhiên Chers có thể quay về bất cứ lúc nào. Còn về việc có khuyên nổi Chân Chân về cùng hay không thì chưa chắc”

Cô không biết trong thời gian tới Chân Chân có về Thượng Hải không. Có điều từ hôm nay, có một người khác sẽ phải rời đi một thời gian dài.

Sau bữa tối, luật sư đến nhà viếng thăm, bà Cát bảo cô đến kho hàng kiểm tra đồ cưới, một phần dùng danh nghĩa của cô gửi vào ngân hàng HSBC; còn một phần trang sức nhỏ khác thì để cô đeo.

Mấy bức tranh được đặt lần lượt vào hộp để gửi đến ngân hàng, mỗi lần dọn đi là lạch sư lại gạch bỏ một dòng.

Bà Cát rất ngạc nhiên, chỉ vì bà phát hiện tổng số của hồi môn rất sát với trong thư của luật sư, nhưng chỉ thiếu một thứ. Lâm Du đã quên đòi chị mình nên cuối cùng mới rơi vào kết cục thế này.

Bà lẩm bẩm, “Ông ta trọng tình thân như thế, nhưng vì sao lần nào cũng đối xử tệ với chị ấy và cháu như vậy?”

Khi đồ đạc được chuyển đi hòm hòm, bà Cát kéo tủ đồ trang sức ra, cho cô chọn một món trang sức đẹp đẽ để mang.

Cô lập tức nhìn thấy một chiếc khóa vàng vô cùng quen thuộc. Hàm lượng vàng không cao, và cũng không phải do nghệ nhân nổi tiếng làm ra, bất cứ thứ nào trong phòng này cũng có giá trị hơn nó. Nhưng Sở Vọng lại biết rất rõ về nguồn gốc của nó: “Vì đám cưới của bạn cũ, tuy bần cùng đau ốm nhưng Tư Ưng vẫn dẫn vợ đến thăm. Vợ ông thấy cô dâu xinh đẹp dịu dàng thì rất vui, lập tức cởi khóa vàng ra tặng, lấy làm ký kết hôn ước. Ghi lại vào đầu tháng 3 năm Quang Tự thứ 34 (tức năm 1908).”

Cuối năm ấy cả nhà Tư Ưng chuyển sang Thượng Hải, đến năm thứ hai sinh hạ Tư Ngôn Tang, năm năm sau có Lâm Sở Vọng.

Từ đó mới bắt đầu câu chuyện khiến người đời sau dở khóc dở cười.

Cô giấu khóa vàng vào lòng, không buồn đếm xỉa đến những thứ khác.

Anh cũng có món đồ độc nhất vô nhị được cô tặng. Vậy thì cô cũng muốn một món có một không hai trên đời với mình, như vậy cũng không hẳn là quá đáng đâu nhỉ?

Đến lúc này, mọi ân oán giữa hai nhà cùng chuyện cũ của hai người đã được xóa bỏ.
 

Hoa Tử

Sưu tầm
Tham gia
24/9/19
Bài viết
10,493
Điểm cảm xúc
1,412
Điểm
113
Chương 131: Hợp tan (3)
Ngày hôm sau, mới bốn giờ sáng mà Tuệ Tế đã gấp gáp cầm một bức điện báo đi lên lầu.

Cô mở ra xem, điện báo bảo cô nhanh chóng đến đường vượt giới kiểm tra tài liệu, tối nay máy bay quân dụng sẽ đưa số tài liệu đó đến căn cứ đầu tiên được xây xong.

Cô cấp tốc rửa mặt, đến khi xuống lầu, đa số của hồi môn đã được đưa đến ngân hàng, bà Cát đang ngồi thương lượng với luật sư. Thấy cô đi xuống, bà chỉ hỏi một câu: “Mấy giờ thì về?”

Cô lắc đầu.

Bà Cát nói thêm, “Nếu quá bảy giờ thì cô sẽ gọi điện hẹn bác sĩ hôm khác lại đến.”

Sở Vọng gật đầu, lúc mặc áo khoác đi ra cửa, tài xế đã chờ sẵn bên ngoài.

Hồi trước có bao nhiêu người lục tục rời khỏi viện nghiên cứu, thì bây giờ sẽ có bấy nhiêu số nhà khoa học từ Mỹ đến bổ sung.

Nhân viên tổ I gần như đều có mặt, vì mỗi người trong số họ đều biết bí mật mình nắm giữ liên quan đến tính mạng loài người, không dám hành động thiếu suy nghĩ hay dễ dàng từ bỏ nghiên cứu.

Không cần sửa lại tài liệu, tổ I đã có hệ thống phân loại dữ liệu riêng ngay từ đầu và mọi người cũng có tủ sắt riêng. Nên khi một hạng mục xảy ra vấn đề thì cũng rất dễ biết được là do ai chịu trách nhiệm.

Lính Mỹ và quân đội Anh đi từng hàng từng hàng lên lầu chuyển tài liệu xuống, còn cô ôm một chồng giấy tin tức còn dang dở chạy chầm chậm.

Ở phía cuối, chợt có người đi lên đỡ chồng giấy cho cô.

Là một tiến sĩ toán học trước đây không thân thiện với cô lắm. Cô ngoảnh đầu lại, mỉm cười với anh ta.

Người kia xấu hổ, lắp bắp mãi mới tìm được đề tài: “Có người dự đoán, giải Nobel năm nay có thể trao cho nguyên lý dao động.”

Cô nghiêng đầu cười nói: “Đúng là đáng tiếc. Điều đó có nghĩa là anh có một đồng nghiệp tầm thường, đã hạ thấp tiêu chuẩn của cả đội.”

Anh ta lại không biết phải tiếp lời thế nào.

Oppenheimer sải bước đi đến, “Có lẽ anh ấy chỉ muốn chúc em tân hôn hạnh phúc, có phải không John?”

Cô lập tức cười nói trước khi anh ta lên tiếng: “Cám ơn.”

Ba người một hàng đứng giữa sân cỏ, nhìn chằm chằm từng thùng tài liệu được chuyển lên máy bay quân dụng.

Có lẽ Sở Vọng biết vì sao bọn họ lại đến vào lúc đêm khuya. Nhân lúc nửa đêm, hai nước Anh Mỹ liên thủ di chuyển lực lượng cốt lõi của người Nhật để tránh đêm dài lắm mộng, vì vậy mới dùng tốc độ nhanh nhất chuyển tài liệu, tránh về sau có nhiều mạng lưới tai mắt của nước khác.

Bàn về chuyện mưu kế, có người nói: “Liệu người Mỹ có nuốt trọn tài liệu này không?”

Oppenheimer chống nạnh, nheo mắt cười nói: “Trừ khi bọn họ độc chiếm đầu óc của cả đám chúng ta.”

Sở Vọng cười to: “Vậy bao giờ chúng ta mới lại được chạm vào tài liệu đây?”

“Khoảng bốn tháng.” Giọng của Bohr truyền đến từ trong máy B-25, “Tôi và Fermi sẽ đi trước, thúc đẩy ngày đó đến sớm hơn.”

Sở Vọng cười nói: “Chỉ mong đến lúc ấy hôn lễ của em đã kết thúc thuận lợi.”

Bohr cũng cười lớn, “Thế thì chúng ta đành cử hành hôn lễ đơn sơ cho hai người ở căn cứ E rồi.”

“Tôi hy vọng sẽ sớm ngày xây xong căn cứ E, tốt nhất là trong tuần tới. Như thế hôn lễ của em ấy chỉ có một chiếc bàn, cùng lắm là thêm một rương rượu trái cây, uống rượu xong lại đốt hai cây pháo bông, như vậy là có thể đưa em ấy và sĩ quan của mình vào phòng tân hôn sơ sài được rồi.” Oppenheimer bĩu môi, “Vì em ấy không mời tôi tham dự hôn lễ.”

Người của tổ I cùng cười phá lên.

“Còn chưa làm xong thiệp cưới mà.” Sở Vọng lúng túng, sờ vào túi áo khoác, “Bây giờ em mời miệng được không?”

Fermi và Bohr ló người ra từ phía sau, ném cho cô một tờ giấy và một cây bút máy: “Bây giờ đi ghi lại địa chỉ của mọi người đi, đến khi có thiệp cưới thì gửi tới từng nhà, vẫn còn kịp đấy. Nhanh lên.”

Cô cúi người lật đật cám ơn, rồi chạy mòng mòng xung quanh xin địa chỉ của mọi người, vô cùng bận rộn.

Trong đó có mấy cô gái là tiếp tuyến viên cũng hỏi cô liệu mình có thể tham dự hôn lễ được không, cô lập tức bảo bọn họ ghi lại địa chỉ.

Kiểm tra đã xong, trước khi khép cửa lại, Bohr chợt nói: “Tôi và Fermi không có vinh hạnh này rồi. Nhưng bất luận thế nào đi nữa, bao giờ đến căn cứ E thì sẽ chúc mừng em thêm lần nữa.”

Cô gật đầu đáp vâng, đột nhiên cảm thấy rất có mặt mũi.

Cô hít sâu một hơi, nghĩ bụng: đến cuối thế kỷ khi nhìn lại hôn lễ này, thực sự là có rất nhiều danh nhân khắp thế giới hay người đoạt được giải thưởng Nobel đã đến tham dự buổi hôn lễ của cô, không biết sau này về già có thể nói phét được với bao nhiêu tụi trẻ.

Khi nghe tin luận văn sự tồn tại của Nơtron bị loại bỏ khỏi danh mục đề cử giải thưởng Nobel, không biết cô đã nhẹ nhõm tới đâu: Ít nhất là trong năm nay, cô không cần lo lắng khi bắt gặp De Broglie ở đâu đó, làm cô xấu hổ không chốn dung thân.

Trời vừa tảng sáng, khi mấy chiếc máy bay quân sự bắt đầu cất cánh, cô gái tiếp tuyến viên ở tầng hai kéo tay áo cô, bảo rằng cô nhận một bức điện báo.

Lên tầng hai, cô gái người Pháp trao tận tay cô bức điện, dặn cô đọc xong thì trả lại.

Cô ngạc nhiên cầm lấy.

Trên trang đầu tiên viết một câu: “Vào lúc 4 giờ sáng ngày 26, trong trận động đất Fukui 4.1 độ richter, các nhà khoa học phát hiện ra lò phản ứng đã hoạt động liên tục, dự đoán trong hai mươi năm tới sẽ có trận động đất quy mô lớn gây ra khủng hoảng.” Thư đến từ đài phát sóng dài ở núi Thái Bình.

Cô giật mình, nhớ đến người Nhật dù ngã gục giãy giụa vẫn không từ bỏ đường sắt Mãn Châu, đoạn nghĩ, đúng là báo ứng.

Trên trang thứ hai hỏi: “Hỏi, dùng túi cao su mỏng bịt đầu hươu lại thì sau bao lâu nó sẽ chết? Từ thân ái.”

Đợi cô đọc hết, tiếp tuyến viên nhanh chóng lấy hai tờ giấy trong tay cô, thấy vẻ mặt cô khác lạ thì hỏi: “Đã xảy ra chuyện gì sao?”

Cô cười nói: “Bị thầy chỉ trích thôi.”

Cô gái người Pháp cho giấy vào máy cắt giấy, vô tình trông thấy bức thứ hai, không khỏi ngạc nhiên: “Vì sao phải dùng túi cao su bọc đầu hươu? Tàn nhẫn quá.”

Cô nói: “Nghẹt thở có thể làm dừng hô hấp.”

Cô thờ ơ nói xong, trong ánh mắt ngạc nhiên của cô gái da trắng, xoay người mở cửa đi ra.

Động vật có vú hô hấp sẽ tạo ra một lượng lớn carbon dioxide, có thể gây nghẹt thở và tử vong.

Theo cách tương tự, radon được giải phóng bởi sự biến đổi của radium tích lũy sẽ hấp thụ neutron với số lượng lớn, ngăn chặn phản ứng dây chuyền.

Đấy chính là nghẹt thở.

Từ Thiếu Khiêm đúng là lợi hại, lần nào cũng có thể nhìn được toàn cục từ những việc nhỏ nhặt, bốn giờ nhận được thư thì ba tiếng sau đã nghĩ đến việc chất vấn cô: “Kết luận của hiệu ứng ngạt thở của em là gì?”

Sau đó lại nghĩ đến: “Trong tay em có con dao rạch được túi mỏng, em vẫn muốn để nó chết?”

Tàn nhẫn ư?

Một mình cất giấu bí mật này gần một năm, cô luôn nghĩ sẽ ai đó đứng từ quan điểm đạo đức mà trách móc cô. Thà rằng liệt kê rành mạch hành vi phạm tội của cô còn tốt hơn là cô tự tra tấn mình bằng câu chuyện ghi chép bằng tiếng Anh trong 8 tháng qua: con hổ ngày bé từng tấn công con người, về sau được con người nuôi dưỡng, trước khi nó tấn công người chủ thì người chủ đã nổ súng bắn chết nó, vậy hành động đó là sai hay không sai?

Vấn đề này càng khó phân tích hơn với định luật bà ngoại*.

(*Cái định luật Từ Thiếu Khiêm đã từng đặt ra cho Sở Vọng ở chương 36.)

Mà khi chính Từ Thiếu Khiêm hỏi ra, cô lại càng không thể trả lời được.

***

Về đến nhà cũng chỉ mới 10 giờ, bà Cát đã qua cảm giác buồn ngủ, Tuệ Tế thấy cô về thì lập tức đi gọi điện cho bác sĩ.

Cô cởi áo khoác, còn chưa thay áo ngủ mà đã ngã phịch xuống giường, chẳng mấy chốc đã ngủ say.

Khi bác sĩ đến, cô uể oải vươn tay ra khỏi chăn cho ông ta bắt mạch. Bác sĩ hỏi cô vài vấn đề thông thường như chu kỳ kinh nguyệt là bao lâu, có hút thuốc không, cân nặng bao nhiêu vân vân, rồi sau đó không hỏi gì thêm.

Cô nghĩ bụng, người này có thể tính được cân nặng từ pound sang cân, thỉnh thoảng lại dùng thuật ngữ y học hiện đại, có lẽ ông ta là một bác sĩ phụ khoa vừa nghiên cứu y học Trung Quốc và cũng nghiên cứu y học phương Tây. Nên cô cũng không buồn hỏi rằng, rốt cuộc bà Cát mời ông đến là để bồi bổ cho cô để cô có sức khỏe mang thai, hay là trang bị cho cô các biện pháp tránh thai khẩn cấp. Suốt quá trình khám cô cứ lờ đờ uể oải, chẳng hề có lấy hứng thú chút nào.

Có lẽ là vế sau. Kinh nghiệm này đến từ người bạn da trắng cùng phòng cô ngày trước, có một lần cô ấy rủ Lâm Trí đến bệnh viện với mình để kê toa thuốc tránh thai khẩn cấp, bác sĩ nhắc nhở cô ấy rất nhiều: Không hút thuốc, tập thể dục nhiều hơn, khả năng thấp là có hơi phát phì.

Sau đó có một lần, người bạn cùng phòng đó tò mò hỏi vì sao chưa thấy cô uống thuốc tránh thai khẩn cấp bao giờ. “Cậu không thấy dùng ‘áo mưa’ phiền lắm à?” Cô ấy đã hỏi Lâm Trí như vậy. “Không hề, vì mình không có bạn trai.” Bạn cùng phòng nghe thế thì lấy làm ngạc nhiên, cũng tốt bụng bày tỏ mình có thể cho cô mượn “máy rung” để an ủi, nhưng cô đã khéo léo từ chối.

Ngày hôm kia thuốc được đưa tới cửa, hình như nó có công dụng để cô thèm ngủ hơn thì phải; mà cũng có thể do cô không muốn suy nghĩ về câu hỏi của Từ Thiếu Khiêm nữa, dứt khoát đánh một giấc thật ngon, nằm trên giường làm con rùa đen rụt cổ đến tận mấy hôm liền.

Sau một phen bận rộn, bà Cát cũng ngủ một giấc rồi tỉnh, quấn khăn trùm đầu đi vào phòng cô.

“Tâm trạng của cháu đang không được tốt.”

Cô lộ ra nửa cái đầu, nói dối, “Có hơi mệt thôi ạ.”

Bà Cát cũng không hỏi nhiều, chỉ đưa gương tới cho cô nhìn.

“Cô thấy đó, cháu vẫn ổn mà.”

“Cũng không quan tâm chuyện hôn lễ của mình à?”

“Cô biết nhiều hơn cháu.”

Bà Cát bất đắc dĩ, “Bây giờ làm con dâu nhưng sau này sẽ làm chủ nhà, không biết quản lý tài sản chuyện vặt thì dù có nhiều tiền tới mấy cũng không ngóc đầu lên được.”

Cô nheo mắt vui vẻ.

Một lúc sau bà Cát lại nói, “Thôi, chừng nào cô còn sống thì không ai trong liên quân tám nước* dám đè đầu cháu cả.”

(*Ý bà Cát muốn nói đến những bà vợ lẽ đa sắc tộc của Tạ Hồng.)

Sở Vọng bật cười: “Đủ tám nước thật ạ?”

“Thiếu một cô gái người Nhật. Hiện tại tập thể cư dân ở Hồng Khẩu đã đi thuyền về nước, nhưng có lẽ sẽ có nhiều người muốn cùng cái gã tình trường lão luyện đến Hương Cảng hưởng thái bình giàu sang. Chắc hẳn nể mặt con trai nên ông ta mới không dám để lộ ham muốn.”

Sở Vọng cảm thấy hứng thú trước chuyện tình phong lưu của Tạ huân tước, “Có tám vợ bé nhưng không có vợ cả, vì không ai sinh con trai cho ông ấy hả cô?”

Bà Cát không trả lời thẳng, “Không có vợ cả thì quá tốt còn gì, cháu đến nhà họ Tạ còn sợ ai đè đầu cưỡi cổ nữa?”

Sở Vọng cười đáp: “Cô nói rồi mà, liên quân tám nước không dám động đến cháu là vì có cô ở đây.”

Bà Cát liếc cô: “Giờ càng lúc càng ghê gớm rồi đấy nhỉ.”

Bây giờ cô rất nghi ngờ về Tạ Trạch Ích, xoay người ngồi dậy, “Cô à, vì sao lại là Tạ Trạch Ích?”

“Gặp Tạ Hồng rồi thì cháu sẽ biết, ba mươi hoặc năm mươi năm nữa, mức độ phong độ anh tuấn của nó tuyệt không thua kém cha nó hiện nay, chắc chắn là vậy.”

“Vậy đợi ba mươi hay năm mươi năm nữa cháu sẽ cẩn thận đề phòng mấy cô gái trẻ bên ngoài.” Cô cười đùa, đoạn hỏi, “Cô ơi, vì sao sau này cô không tái giá?”

Bà Cát cụp mắt không biết đang nhìn nơi đâu, cười bảo, “Ông Cát đi đã nhiều năm, trong số rất nhiều người đàn ông đến rồi lại đi, thì chỉ có một Tạ Hồng là biết lý biết lẽ nhất.”

Sở Vọng ngẩng đầu: “Tạ huân tước là người rất thú vị.”

“Đúng thế, còn rất tốt với phụ nữ.”

“Thế vì sao cô không cưới ông ấy? Ông ấy cũng đã nhiều năm không cưới vợ mà.”

“Ông ta?” Bà Cát hừ lạnh, “Cô không muốn làm vợ người ta.”

“Làm vợ huân tước và làm bà Cát thì khác gì nhau ạ?”

“Khác nhau là lúc người ta gọi cô, sẽ không có người đàn ông nào đứng trước cô cả.” Bà Cát nhìn cô, “Làm vợ người ta là chuyện vô dụng nhất trong cuộc đời phụ nữ, cuối cùng rồi họ sẽ hiểu đàn ông còn không đáng tin bằng tiền. Nhưng cháu thì khác, cháu có sự nghiệp riêng của mình, sau này ra ngoài chỉ sợ người khác còn phải gọi cháu một tiếng là ‘cô Lâm’*, hoặc là gọi kèm tên chức vụ, có lẽ cả thế giới cũng chỉ có một mình Tạ Trạch Ích gọi cháu là bà Tạ.”

(*Bản gốc ở đây là ‘Lâm tiên sinh’, chữ tiên sinh được dùng với nghĩa gọi tôn trọng người có trí thức, không chỉ dùng riêng cho đàn ông.)

“Không phải như vậy rất hay sao, dành riêng một mình anh ấy gọi.” Sở Vọng cười nói, “Huống hồ cháu rất ghét rắc rối, chỉ e không làm nên đại sự.”

“Còn nói không làm nên? Mấy tháng này ai là đứa nổi nhất hả.”

Sở Vọng khó hiểu.

Tuệ Tế mỉm cười cầm mấy tờ báo đưa đến.

Cô mở một tờ báo ra, tiêu đề to đùng ghi: Viện Hàn lâm Khoa học Hoàng gia Thụy Điển đã trao giải thưởng Nobel Vật lý năm 1929 cho Tsui L., Leung Z. và Lam L. Ba nhà vật lý Trung Quốc đã phát hiện ra sự tồn tại của “nơtron”, xin ghi nhận những đóng góp của họ cho nghiên cứu thành phần hạt nhân nguyên tử.

Tay cô run lên, lại cầm lấy tờ khác, nhưng tờ nào cũng giống hệt nhau, in đầy tên của cô, Từ Lai và Lương Chương.

Ném báo sang một bên, cô ngã vật xuống giường, cuộn chăn quanh người, xấu hổ đến mức người đỏ bừng, đầu nghĩ: lần này mình tiêu thật rồi, mình còn mặt mũi nào mà đi gặp Louis de Broglie và James Chadwick nữa?

Bà Cát tưởng cô quá kích động, thế là bật cười với Tuệ Tế, nói: “Cũng may lúc đó cháu chưa mang họ Tạ, nếu không là để nhà họ Tạ thơm lây rồi.”

Sở Vọng muốn khóc cũng không nổi, chỉ muốn thời gian quay ngược trở lại hai năm trước, để cô có thể bút máy gạch tên mình trong trang cuối cùng ở bản thảo đi.

Hoặc là để cậu bạn nhỏ Từ Văn Quân mới mười hai tuổi đặt câu hỏi về sự tồn tại của nơtron với Từ Thiếu Khiêm, để tên cu cậu xuất hiện trên bài luận văn, để hôm nay cậu chàng 14 tuổi và bài luận văn đó sẽ nhận được giải thưởng Nobel, để người đời nhìn xem thiếu niên Trung Quốc là như thế nào.

Nhưng khi chuyện xảy ra với người phàm tục như cô thì đến chút cảm giác thành tựu cũng không có, thay vào đó là sự xấu hổ tột cùng. Bây giờ lại càng không biết nên về Hương Cảng đối mặt với Từ Thiếu Khiêm thế nào đây – vì anh là người biết rõ thân phận ‘ăn cắp bản quyền’ luận văn của cô.

Bà Cát nói tiếp: “Cháu dùng thân phận đó gả đi tức là kết hôn, không phải xuất giá, càng không phải bát nước đổ đi. Từ đây đi xe đến nhà họ Tạ cũng chỉ mất chừng 10 phút, cháu có thể về bất cứ lúc nào, cũng không ai dám chỉ trỏ nói ra nói vào.”

Cô thở dài, “Nhưng bốn tháng sau cháu phải đi rồi.” Cũng may cũng may, bốn thang mai danh ẩn tích đi làm công trình sư. Rồi mấy năm sau mới xuất hiện, khéo đến lúc đó người ta cũng quên chuyện này rồi.

Bà Cát nói: “Mười sáu tuổi còn quá trẻ, cơ thể không nẩy nở, từ xưa đến nay không biết có bao nhiều cô gái không qua được quỷ môn quan khi sinh con ở tuổi 16 17. Đợi mấy năm nữa sinh con là đẹp, khi đó cô của cháu vẫn chưa quá 50, vẫn có thể địu mấy đứa trẻ hiếu động đi chơi.”

Quả nhiên là thuốc tương tự thuốc tránh thai khẩn cấp, nhân tiện để cơ thể cô được bồi bổ nghỉ ngơi vài năm. Cô không khỏi khen bà Cát thật đúng là đi đầu trào lưu, biết nhìn xa trông rộng.

“Tạ Hồng muốn ôm cháu đến điên rồi, giờ cháu có tiền đồ như vậy thì không cần sợ ai này nữa, thích sinh khi nào cũng được.”

Có lẽ việc sinh con ngày trước đã để lại bóng đen trong lòng bà Cát, nên bà rất hay nói tràng giang đại hải bên tai cô. Cô nghe nhiều, dần cũng tự an ủi: hình như con gái dân quốc sau thời kỳ phong kiến phải có hư danh thì mới được đàn ông tôn trọng, nếu không sống sẽ rất mệt mỏi.

Bà Cát thấy cô không có vẻ gì là uể oải, thế là tiện nói luôn: “Có hứng rồi hả? Nếu có hứng thì để cô lấy đồ cưới ra xem với cháu.”

Trong rất nhiều món đồ đó có gốm Kháp ti pháp lan, gốm David, chạm khắc sơn mài, ngọc bích, vòng ngọc hình rồng, nậm rượu đồng, thảm mandala, bình ôm trăng, thư pháp trục dọc, tranh cuộn, tranh chim đậu cnàh tre, tranh vẽ nhà cỏ, vân vân… Cô nghe mà hai mắt trợn ngược, suýt đã ngủ gật.

Bà Cát vẫn chưa bỏ qua cho cô, đọc xong phần đó thì lại kiểm kê tiếp một đống đất đai, chủ yếu ở huyện Thiệu Hưng

“… Mấy ông cậu của cháu không thích tranh giành. Tiếp quản gia sản nhưng cũng không có ý kinh doanh, may là cô đã mua được 30% tài sản của tổ tiên để lại từ bọn họ. Có một vài cửa hàng bạc, bốn nhà máy rượu vang, một đồn điền trà, một trăm mẫu đất, bốn bất động sản… Ở cái tuổi 16 này, không ai giàu hơn cháu cả.”

Sở Vọng mệt đến nỗi gục đầu xuống, chỉ hỏi: “Rốt cuộc mấy thứ này có giá trị bao nhiêu?”

Bà Cát đưa ra con số hàng trăm triệu.

Cô vẫn không định lượng được, ngơ ngác hỏi: “Hả? Không đủ để mua Hương Cảng từ George V* ạ?”

(*George V là Quốc vương của nước Anh thống nhất và các thuộc địa Anh, và Hoàng đế Ấn Độ, từ 6 tháng 5 năm 1910 cho đến khi mất năm 1936.)

“Mua được mười con phố cũng được nữa là. Nhưng mua để làm gì?”

“Xây nhà.”

Bà Cát tưởng cô nói đùa, thế là bật cười: “Để đến năm 80 tuổi dù chống gậy vẫn đi thu tiền, từ một xu đến 30 triệu cũng phải thu đủ?”

Sở Vọng cười cười, nhớ lại ý muốn to lớn của mình nhiều năm trước cũng chỉ đơn giản là góp đủ tiền, đến quận 8 Paris mua mấy căn nhà bình thường rồi cho thuê trọ, làm một bà chủ nhà an nhàn.

Mơ màng thiếp ngủ, cô nằm mơ thấy Tạ Trạch Ích cõng cô đi giữa ruộng đồng Thiệu Hưng. Trâu nước cày ruộng, các chú nông dân xuống ruộng, các cô thì cấy mạ, còn tụi nhỏ nô đùa vui vẻ.

Cô nằm trên lưng anh, vênh váo vung tay chỉ: “Mẫu đất này, mẫu đất kia, rồi kia kia nữa, tất cả, tất cả, tát cả đều là của chúng ta! Có giàu không?”

Vì cô nghiêng đầu nên tạo áp lực lên tuyến nước bọt, ở trong mơ nước dãi chảy ướt áo sơ mi của Tạ Trạch Ích, đến khi tỉnh giấc thì trên gối nhung ướt đẫm một mảng.
 

Hoa Tử

Sưu tầm
Tham gia
24/9/19
Bài viết
10,493
Điểm cảm xúc
1,412
Điểm
113
Chương 132: Hợp tan (4)
Tỉnh dậy từ giấc mộng đẹp khiến cô vui vẻ không thôi. Lúc thay đồ xuống dưới nhà ăn sáng thì bà Cát đã mặc sườn xám dùng để tiếp khách ở nhà, xung quanh là vài ba vị khách.

“Cô có chuyện gì mà bận thế?”

“Cô ba đúng là cô dâu thảnh thơi nhất thiên hạ này. Mọi chuyện lớn nhỏ về tiệc cưới, tiệc thế nào khách mời những ai, cần váy cưới kiểu gì, cũng không thấy hỏi đến.”

Sở Vọng đút miếng sủi cảo tôm vào miệng, chỉ cười không nói.

Bà Cát vẫy tay: “Lại đây, xem bộ váy buổi chiều mặc sau khi rời nhà thờ có nên dùng xếp ly to không?”

Đến chương trình hôn lễ của mình thế nào Sở Vọng cũng không biết, nên chỉ đáp qua loa: “Ừm, được ạ được ạ.”

Một người thợ may cười nói: “Xếp ly nhỏ thì sẽ đẹp hơn.”

Bà Cát bảo: “Kiểu dáng đó của mười mấy năm trước rồi mà?”

“Bởi vì đã tám chín năm không còn thịnh hành, nên giờ mới là lúc nổi lên.”

Bà ngẫm nghĩ rồi vẫn lắc đầu: “Không được. Váy xếp ly nhỏ thách thức vóc dáng lắm, phải bước khoan thai thì mới khiến váy nhúc nhích nhẹ. Con bé nhà tôi ấy à, sợ đến lúc đó bước đi lại thành sóng to cuồn cuộn, bị người ta cười thúi mặt mất.”

Sở Vọng ấm ức: “Không phải váy xếp ly nhỏ dùng để mặc lúc nhảy nhót khiêu vũ à, như thế mới đẹp chứ?”

Người trong phòng cười to.

Bà Cát chỉ hận không thể rèn sắt thành thép: “Tụi nhỏ các cháu là may mắn lắm rồi đấy. Hơn mười năm trước khi bọn cô còn trẻ, mặc áo cưới giày thêu đi vào nhà chồng, trên đỉnh đầu còn đặt một bát nước, không được phép làm đổ. Nhất là người Quảng Đông, mấy chục người chị em dâu đều chờ nhìn chê cười.”

Sở Vọng cười nói: “Cháu không sợ. Chẳng lẽ liên quân tám nước cũng hiểu được tập quán cũ trong nước ta hả?”

Bà Cát trợn mắt, lại nói tiếp chuyện năm xưa: “Mười năm trước, con gái không được phép xuất đầu lộ diện, cử chỉ cũng phải đoan trang chứ không như bây giờ. Hai mươi năm trước khi mẹ cháu gả vào cửa, cô cũng trốn một bên nhìn lén. Chị ấy mặc váy xếp ly mỏng như sợi tóc, ở tua rua trên áo thắt bốn năm chiếc chuông nhỏ; gót vàng mấy tấc, mỗi lúc bước đi, tiếng chuông ngân như có như không. Đó mới thật sự là đoan trang khéo léo, ra hình ra dáng. Phụ nữ ngày đó vẫn tuân theo lệ cũ, nhưng đàn ông đọc sách mấy năm lại có khiếu thẩm mỹ cách tân, thực đúng là đáng tiếc.”

Tuy thời đại bây giờ đã tiến bộ, nhưng dù ở đâu thì quy củ phép tắc vẫn do nam giới định đoạt, thật không công bằng.

Tụt lại phía sau ắt sẽ chịu đòn. Chẳng trách thời dân quốc có nhiều đàn ông tệ bạc, cũng có nhiều người phụ nữ oán trách. Đương nhiên cũng không thiếu những cô gái độc lập mạnh mẽ nhìn rõ thực tế.

Chẳng mấy chốc, người đàn ông “từng đọc sách mấy năm” đã tới cửa viếng thăm.

Mật Thu vào báo lại với bà Cát, bà chỉ khoát tay, “Bảo ông ta đợi đi.”

Đợi mấy người thợ may rời đi, bà mới bảo Mật Thu dẫn Lâm Du vào phòng khách, cũng nhất quyết kéo Sở Vọng đi cùng.

Lâm Du tới, trông ông ta vẫn như cũ, quái bào là lược thẳng thớm, tuổi tác bốn mươi có ba nhưng vẫn phong độ chín chắn, chắc hẳn hồi trẻ cũng là một người điển trai.

Sở Vọng và bà Cát mỗi người chiếm một chỗ trên ghế sofa nhung.

Lâm Du đứng giữa phòng khách, ánh mắt tán thưởng rơi lên người Sở Vọng, như thể bồi dưỡng nên một cô con gái xinh xắn có sự nghiệp là công lao của ông ta vậy.

Mật Thu biết cần phải im lặng, vì vậy cũng không hỏi ông ta muốn uống trà gì.

Lâm Du cũng chẳng buồn đoái hoài, chỉ chợt nói: “Con giống mẹ con hồi đó đến năm phần.”

Bà Cát cúi đầu không tiếp lời.

Lâm Du hít một hơi sâu: “Gả cho cha là chuyện hồ đồ nhất trong đời bà ấy.”

Bà Cát ngẩng đầu lên, cười nói, “Nói đi, muốn bao nhiêu tiền?”

“Lâm Cẩn, tôi không phải là ăn mày.”

“Không cần? Không cần thì xin về cho. Cháu gái nhà tôi đang bận chuẩn bị hôn lễ, không có thời gian ngồi nói chuyện với ông. Mật Thu, tiễn khách.”

“Đợi đã!” Lâm Du ngồi xuống.

Bà Cát cười cười.

“Cũng phải có người dắt tay đưa con bé vào nhà thờ…” Lâm Du bình tĩnh nói.

Sở Vọng nghĩ ngợi, đúng thế, sao lại quên mất chuyện quan trọng này nhỉ?

Nhưng bà Cát đã cắt luôn cảm xúc của ông ta, chỉ vào đồng hồ treo tường ở sau lưng, “Tôi cho ông thêm ba phút nữa là cùng, đã hết thì không còn lần sau đâu.”

Sở Vọng thấy Lâm Du siết chặt nắm đấm, gân xanh hằn lên mu bàn tay, đứng dậy quay đầu rời đi.

Đứng ở cửa năm giây, rồi ông ta ngoái đầu lại, mở miệng nói: “Hai.”

Bà Cát cười bảo: “Hai trăm ngàn cũng không phải là con số nhỏ. Bé ba, tiền lương một tháng của cháu bao nhiêu, có dư tiền tiêu vặt để cứu người cha này của cháu không?”

Cô ngẩn người, rồi lập tức nói: “Có ạ có ạ.” Vừa nói vừa lôi ví tiền ra.

Lâm Du nói ngay: “Hai mươi ngàn. Trong nhà thật sự không xoay vòng nổi tiền.”

Bà Cát sung sướng bật cười, hất cằm với Tuệ Tế. Một lúc sau, cô ấy cầm một túi tiền lớn đưa cho bà Cát. Bà Cát tháo dây cột miệng túi ra, dốc ngược túi xổ hết mấy đồng xu in hình Tôn Trung Sơn xuống tấm thảm đen đỏ.

Lâm Du đứng chôn giữa trong đống tiền, nhìn Lâm Cẩn chằm chằm với vẻ không tin nổi.

Sở Vọng thở dài, có lẽ cảm thấy nếu cứ đứng ở đây sẽ khiến ông xấu hổ không nhặt được tiền, thế là rất chu đáo đứng dậy đi ra ngoài.

Cô nghe thấy bà Cát ở sau lưng nói: “Đợi đến ngày giỗ 16 năm của mẹ con bé, dẫn vợ ông đến mộ chị ấy nghiêm túc dập đầu hai mươi cái. Số tiền còn lại tôi sẽ chuyển đủ vào tài khoản của ông.”

Khi cánh cửa khép lại, Lâm Du ngồi xuống, chật vật nhặt từng đồng tiền một cho vào trong túi.

Bà Cát nhìn ông, hờ hững nói: “Năm xưa vì chuyện hôn sự mà tôi đã quậy nhà họ Kiều một trận tơi bời, về nhà bị đánh một trận. Để xin tha cho tôi mà chị ấy đã quỳ trong phòng ông một đêm, còn ông chỉ biết hả hê đắc thắng. Nhưng có lẽ ông không biết, sáng hôm sau chị ấy vào phòng tôi đút thuốc, vì làm liên lụy chị ấy nên tôi xin lỗi mãi, nhưng chị ấy chỉ sờ trán tôi nói: “Quỳ một đêm thì có sao. Dưới đầu gối đàn ông có vàng, còn phụ nữ thì không. Biết yếu thế và không biết xấu hổ, thời đại này chỉ tốt với phụ nữ ở điểm đó. Chị không giống em, thế đạo đã trói buộc chị trong căn nhà này. Còn em nhất định phải ra ngoài, nếu có người cho em con đường sống thì dù có chui qua dưới háng người kia, em cũng phải làm. Để sau này còn cho bọn họ biết, cảnh tượng vàng dưới gối vỡ nát trước mặt em là như thế nào’.’”

Mười phút sau, lúc Sở Vọng đang ngồi uống trà chanh Lipton ở trong vườn, cô thấy Lâm Du trầy trật xách túi tiền rời đi.

Bà Cát đi tới cạnh cô, ngồi xuống hỏi: “Con người này, lúc tới thì áo quần tươm tất muốn nắm tay con gái dắt vào nhà thờ, lúc đi lại dắt thêm đuôi chồn hốt hoảng chạy trốn. Cháu xem ông ta có xứng không?”

Sở Vọng nhìn một hồi rồi hỏi, “Vì sao cô lại cho ông ta tiền?”

“Không cho ông ta, chẳng lẽ chờ ông ta đến đòi anh cháu? Lương của chính phủ hiện tại có được mấy đồng? Nó đã không mở miệng đòi nhà chuẩn bị sính lễ thì thôi, vợ chồng mới cưới cũng không dễ dàng gì, hai mươi ngàn này, coi như cô bù cho nó.”

Sở Vọng nhớ lại hồi mới tới Thượng Hải, hình như Lâm Tử Đồng cũng nói với cô gì mà “nợ cha con trả”, lòng cảm khái bà Cát đúng là ân oán rõ ràng.

Nhưng có điều cô nghĩ vẫn không hiểu, “Vì sao ông ta thà mất mặt ở chỗ cô chứ không đến chỗ bà Kiều xin tiền?”

“Đơn giản là vì hai chị em họ có chung bí mật của ông ta hồi còn trẻ, chuyện đó làm ông ta hối hận suốt đời, còn quan trọng hơn chuyện mất mặt ở chỗ cô nhiều.”

Là chuyện gì thế?

Nhưng dù là chuyện gì, thanh cao tới mấy cũng phải cúi đầu trước đồng tiền, tôn nghiêm của người lối mới đã bị phụ nữ phái cũ chà đạp.

“Nhưng vì sao bà Kiều lại khư khư giữ chặt số tiền đó như vậy?” Cô vẫn không hiểu.

Bà Cát nhìn cô, đoạn nói: “Đàn ông gia đình truyền thống đều có tam thê tứ thiếp, nên phụ nữ phải giữ được quyền lực, mà tài sản chính là quyền thế lớn.”

Sở Vọng ngoẹo cổ gật đầu. Từ khi gả đi bà Kiều luôn ôm khư khư kho tàng của mình, chỉ vì bà biết rõ người chồng mình giành được đây không thể cho bà cảm giác an toàn suốt đời. Cuối cùng muốn an toàn vẫn phải dựa vào tiền.

Có điều thủ đoạn thật đáng lo ngại, không biết đã bị bà Cát bỏ ra mấy chục ngàn mua đứt đại lộ Queen’s, lại còn không gióng trống khua chiêng.

Nhưng rồi hai cô cháu lại buồn bã nghĩ: rốt cuộc ai sẽ dắt tay cô, trao cô cho Tạ Trạch Ích đây?

Cách tốt nhất là nhận một người có máu mặt lẫn tài đức vẹn toàn làm cha nuôi. Nhưng trong số mấy người bà Cát quen, đếm tới đếm lui cũng không ai hợp với bốn chữ “tài đức vẹn toàn”, thật sự khiến bà đau đầu.

Trong lòng Sở Vọng đã có một cái tên. Có điều cô không biết có thích hợp không, trừ khi đích thân cô đi mời.

Mấy hôm sau, hai cửa tiệm lâu đời mà các cô các bà nhà giàu Thượng Hải thích ghé đến là Thục Du và Phẩm Phân đồng loạt thông báo: một tháng tới mọi thợ may trong tiệm đã được cô ba Lâm mời làm thợ riêng, phải một tháng sau mới có thể tiến hành làm đơn đặt hàng của mọi người.

Sau khi gửi thiệp mời đi, mọi người ở biệt thự họ Cát cũng bắt đầu đi thuyền, trước khi vào đông đã quay về khu vực nhiệt đới ấm áp.

Không ít người tề tựu ở biệt thự trước ngày khởi hành để tiễn biệt và chúc mừng bà Cát.

Trong số họ có lấy cớ đến chúc mừng cô dâu để kết thân với bà Cát, hoặc là có người không nén nổi tò mò muốn nhìn trước cô dâu nhà họ Tạ kiêm người đoạt giải Nobel, đại tiểu thư có một không hai ở đầu thế kỷ 20.

Bà Cát không có hứng mượn cơ hội này để cô thể hiện tài năng trong giới thượng lưu Thượng Hải. Sở Vọng cũng lười không muốn xã giao khách sáo, thế là dứt khoát nhốt mình trong phòng.

Sở Vọng nằm trên giường, lúc đang cầm vở trằn trọc nghĩ xem nên viết bản kiểm điểm để đưa cho Từ Thiếu Khiêm như thế nào thì Di Nhã đẩy cửa đi vào.

Cô nàng chớp mắt, thở hắt ra, “Danh tiếng gớm nhỉ đại khoa học nhà ta!”

Sở Vọng ném vở sang một bên, cũng chớp mắt nói, “Cái gì? Danh tiếng gì?”

“Không ai trong giới thượng lưu Thượng Hải bây giờ là không biết cô dâu một ngày mặc đến hơn bảy bộ đồ.”

Sở Vọng ngạc nhiên, “Hả, thế thì sao mà thay cho kịp?”

“Quần áo trang sức chính là danh tiếng của con gái, nhiều hơn cũng không thiệt hại gì. Có dì Cát lo cho cậu rồi, cậu không cần phải lo.” Di Nhã cười to.

Sở Vọng nhớ Di Nhã không có chuyện gì thì sẽ không tìm đến, thế là lập tức tra hỏi: “Có biến gì hả? Thành thật khai mau.”

“Không ngoài dự đoán, e là Doãn Yên cũng phải kết hôn rồi.”

“Ớ? Với ai?”

“Một thủy binh hạ cấp.”

“Ồ, thế cũng tốt mà!” Sở Vọng đáp.

“Không biết người ở đâu, lăn lộn ở Thượng Hải hai ba năm rồi được chức hạ úy. Da dẻ đen thui, tự xưng là đến từ Anh. Có điều ngài Tưởng kiểm tra rồi, 70% là huyết thống Ấn Độ, chắc được người Ấn đến từ vùng thuộc địa. Ngài Hoàng đã nhờ người cứu Trịnh Diệc Dân rồi. Dì Cát có gọi Doãn Yên đến nói chuyện một lần, nói là nếu nó đồng ý thì dì ấy vẫn có cách để Trịnh Diệc Dân cưới nó. Nhưng nó không chịu, cho rằng dì Cát không thừa nhận điểm tốt của nó mà đang hại nó. Còn nói đến như Chân Chân mà Chers còn để ý, thì vì sao nó không thể gả cho người nước ngoài được? Lại còn đắc ý nói người Anh kia chịu cưới nó, sau khi kết hôn sẽ cho nó đi Anh du học.” Di Nhã thở dài.

Sở Vọng nghe thế, lấy làm ngơ ngác.

Suy nghĩ của bà Cát là, không phải thế hệ sau luôn vô tội, nhưng ân oán của thế hệ trước không liên quan gì đến họ, có thể giúp được thì cứ giúp.

Nhưng con người ta trưởng thành, ngoài chịu sự ảnh hưởng của hoàn cảnh và cách dạy dỗ ra thì gen do người mẹ cung cấp vẫn chiếm tỷ lệ lớn. Ví dụ như đến 90% ý thức và kiểm soát cảm xúc là ảnh hưởng từ gen của mẹ —— trích từ nhiều tạp chí tế bào học cô từng đọc ngày trước.

Còn về phần vì sao Sở Vọng ở đời trước từ chối bà Cát, khăng khăng đòi đi châu Âu với Ngôn Tang —— khéo cũng có liên quan đến vấn đề di truyền.

“Nếu có thể lợi dụng được đàn ông thì tuyệt đối không cần phải dựa vào hai tay mình.” Thật tiếc cho một phen tâm huyết của Lâm Du.

“Đúng là cái đồ không có mắt nhìn, không biết trên đời này có bao nhiêu cô gái chờ xếp hàng để được dì Cát bồi dưỡng, có hội ngàn năm có một.”

Sở Vọng cười cười nhìn cô ấy.

“Có lúc mình nghĩ, không biết dì Cát có lúc cũng muốn dựa dẫm vào đàn ông không.”

“Không biết. Nhưng có lẽ cô có tiêu chuẩn chọn đàn ông riêng, chắc chắn không liên quan đến tiền tài gia thất.”

Phụ nữ ở thế kỷ 19 khi kết hôn thường nhìn vào học thức ăn nói tiền tài, còn bản thân phụ nữ ở thế kỷ 21 đã có học thức ăn nói, cũng có thể tự nuôi được mình, thế thì cần gì những điểm đó ở đàn ông nữa? Có lẽ cũng như đàn ông tìm bạn đời trong mấy ngàn năm qua thôi, chọn người có vẻ ngoài đẹp trai, vóc dáng ưa nhìn, đợi đến khi da bọn họ bắt đầu nhăn nheo, đường chân tóc lùi về sau thì vứt bỏ họ, đi tìm tình yêu mới, giống hệt đàn ông bạc tình bạc nghĩa từ xưa đến nay, âu cũng là điều dễ hiểu.

Cô của thế kỷ 21 cũng đã từng nghiêm túc phân tích quan điểm về hôn nhân của những người phụ nữ lớn tuổi xung quanh mình, thế thì bà Cát ở thế kỷ 20 cũng không hẳn là không thể.

Di Nhã nhanh trí, lập tức cười hỏi: “Ví dụ như?”

“Có lẽ già rồi, chúng ta có thể cùng cô út đi ra bờ biển ngắm nhìn những cơ thể trẻ trung.”

“Đi đâu nhìn?”

“Vịnh Repulse?”

Di Nhã bật cười, lao tới quấn lấy cô nhốn nháo một hồi, rồi nằm ngã vật ra giường bảo, “Nói thật, có lúc mình rất ghen tị với cậu. Từ nhỏ mình đã có hai điều thắc mắc, thứ nhất là không biết cô gái như thế nào sẽ được dì Cát đích thân dạy dỗ, thứ hai là không biết cô gái như thế nào có thể gả cho anh mình. Cậu thì hay rồi, chiếm luôn cả hai.”

Sở Vọng chỉ vào mình, cười nói: “Mình không xứng hả?”

“Lại còn có thể lừa cha mình đem căn nhà ở Shek O làm nhà tân hôn cho cậu nữa chứ. Cậu không biết đâu, cảnh biển và vườn hoa chỗ đó là đẹp nhất trong số bất động sản của ông ấy đấy.” Di Nhã lau nước mắt chảy ra vì cười, “Nằm trên giường ở trong phòng ngủ là có thể nhìn thấy trai đẹp mặc đồ lặn ở trên bờ.”

Sở Vọng cười to: “Sau này sẽ rủ cậu và Chân Chân đến nằm chung để ngắm.”

“Gì chứ gì chứ.” Di Nhã sẵng giọng, “Chờ sau này làm gì? Đợi mấy hôm nữa đến Hương Cảng, vừa hay không ai dẫn cậu đi xem sính lễ, mình xung phong nhận việc, lập tức dẫn cậu đến vịnh Repulse ngắm cảnh biển và trai mặc đồ lặn.”

“Ớ, vì sao lại là vịnh Repulse?”

“Vịnh Repulse cũng có một căn —— hôn lễ tổ chức ở Shek O, bài trí thành phòng tân hôn.” Cô nàng thở dài, “Cha thiên vị thật chứ, đích thân con gái xin lên xin xuống mà cũng chỉ xin được một căn ở Shek O làm của hồi môn.”

Thấy cô nàng ảo não, Sở Vọng an ủi: “Không sao, đợi mấy chục năm nữa, vịnh Repulse không đẹp bằng Shek O đâu.”

Ô nhiễm công nghiệp và cải tạo ngoài khơi đã lấp biển đi. Đầu tiên là Châu Âu và Hoa Kỳ trong những năm 1940 1950, rồi Hương Cảng trong những năm 1970 và 1980, cuối cùng là đại lục trong thế kỷ 21.

”Làm gì có chuyện đó được? Vịnh Repulse mãi mãi là vịnh Repulse.” Di Nhã mơ màng, cũng không đoái hoài đến câu an ủi của cô. Một lúc sau lấy lại tinh thần, hỏi: “Cậu không biết hôn lễ tổ chức ở Shek O à?”

“Ồ! Giờ biết rồi đây.”

“Trên đời này không có cô dâu nào như cậu cả, thảnh thơi gớm!”

Việc gì phải gấp gáp? Cô và Tạ Trạch Ích cũng chỉ tranh thủ tổ chức hôn lễ thôi mà, coi trọng quá làm gì.

Hai người cười đùa một hồi, một lúc sau chợt nghe thấy tiếng động đi lên cầu thang từ vườn hoa bên dưới. Bình thường giờ này cửa sắt đã được khóa, không biết là gió lay động hay có con thú nào lẻn vào sân.

Di Nhã đứng sát cửa sổ, ngẩng đầu lên nhìn rồi lập tức che miệng cười: “Ây da, là một con mèo.”

Cô đứng dậy đi ra mở cửa, ngồi xổm xuống nhìn quanh nhưng cũng không thấy mèo đâu.

Ngoái đầu lại thì Di Nhã đã đi ra khỏi phòng mất rồi.

Tuệ Tế đứng bên ngoài cao giọng hỏi: “Có cần tôi ra đuổi giúp cô không?”

Di Nhã cười nói: “Cô ấy thích mèo lắm, cứ để cô ấy chơi một lát.”

Cô ngạc nhiên ngoảnh đầu lại. Một bóng đen xuất hiện từ cầu thang bên ngoài phòng, đứng thẳng cạnh giàn nho và cây leo, đôi mắt đen trắng rõ ràng nhìn xoáy sâu vào cô, người khác chắc chắn sẽ không có đôi mắt như vậy.

Cô cười nói: “Ồ, đúng là mèo thật.” Động vật họ mèo cao 6,2 feet*.

(*Tương đương 1m87.)

Tiếng dương cầm và tiếng cười nói ở bên dưới dần vang lên, tựa như truyền đến từ một tòa tháp cao.

Tạ Trạch Ích từ từ lại gần.

Cô cười nói, “Hi quý ngài.”

Anh cũng nổi hứng đùa, “Hi quý cô.”

“Là cô Tạ thưa anh.” Cô sửa lời, lại hỏi: “Xin hỏi anh đến tìm ai?”

“Dám hỏi bây giờ là mấy giờ rồi?”

Cô quay đầu lại, xuyên qua cửa kính có thể nhìn thấy đồng hồ treo trong phòng. Cô cười đáp như thật: “Chín giờ mười lăm phút..”

Tới khi xoay đầu lại lần nữa thì Tạ Trạch Ích đã lặng lẽ đến gần, ép cô đến bên cửa kính.

Cô cúi đầu, tay chống lên ngực anh, cười nói: “Thưa anh, trong nhà tôi có quy củ, anh làm thế là không thích hợp.”

Tạ Trạch Ích không có vẻ lùi lại, mà còn cúi thấp người, chóp mũi gần như chạm vào mũi cô, “Vậy thì, cô Tạ có để bụng chuyện hôn môi với người đàn ông xa lạ vào lúc chín giờ mười lăm phút không?”

“Anh nhà tôi mà biết thì có lẽ sẽ cầm súng bắn thủng đầu anh mất.” Sở Vọng dè dặt di chuyển, không cẩn thận chạm vào cửa kính sau lưng, lúc cô vừa lùi về phía sau thì cánh cửa lập tức đóng lại cái *sầm*.

Cô giật mình kêu lên, mất trọng tâm nên ngã về sau.

Tạ Trạch Ích lập tức đỡ lấy đầu cô, rồi anh tự nhiên ôm eo cô kéo cô áp vào người mình, quấn cô trong vòng tay, đè lên cửa kính rồi hôn ngấu nghiến.

Bên ngoài có người gõ cửa, Mật Thu hỏi, “Cô ba, có chuyện gì thế? Vẫn ổn chứ?”

Ở dưới lầu cũng có giọng nam xa lạ ân cần hỏi: “Cô ba Lâm, nghe nói có mèo lẻn vào, có cần giúp gì không?”

Cô mở to hai mắt, rất sợ ở trên lầu hay dưới lầu có người nhìn thấy cảnh này.

Phát giác cô xuất thần, Tạ Trạch Ích bấm vào eo cô, cô vừa há miệng thì nhân đó hôn sâu hơn. Mọi tiếng la hét hoảng loạn vỡ tan thành tiếng thở hổn hển yếu ớt trong nụ hôn cháy bỏng này. Nhiệt độ và mùi hương trong miệng cô đã khiến anh mê muội, lần nào hôn cũng quấn lấy không thể tách rời.

Nhìn thì cứ nhìn đi, cô cũng đang ở trong nhà mà! Hôn nhân thân mật! Hợp pháp!

Ở ngoài phòng và bên dưới vẫn có người thấp giọng quan tâm hỏi, còn cô dựa lưng vào cửa kính lạnh băng nghĩ như vậy.


Cô cảm thấy khó thở, ngay đến ý thức cũng đã tan rã, lập tức đưa tay véo vào hông anh tỏ vẻ kháng nghị.

Tạ Trạch Ích không nhịn được cười, buông cô ra, ngón trỏ gõ nhẹ vào đầu cô.

Trán kề trán, anh ôm cô ngồi sát cửa kính, hỏi nhỏ: “Thích không?”

Cô gật đầu, cảm giác mặt dần nóng lên.

Thế là cô lại xác định lần nữa: không biết cô thích hôn Tạ Trạch Ích đến đâu.

Không chừng thứ cô ham muốn chính là thể xác của anh – người đàn ông thuộc chi báo họ mèo nhưng thực chất là thú ăn thịt.

Ở bên ngoài phòng, Mật Thu thấp giọng hỏi: “Cô ba, mèo đã đi chưa vậy? Hình như cửa bị khóa trái rồi, bà Cát bảo tôi lấy chìa khóa mở cửa ——”

Cửa phòng đã đóng lại thì chỉ có thể mở từ bên trong. Có lẽ Mật Thu cũng đoán được ‘thứ’ ở ngoài ban công không phải là mèo. Gọi mãi mà không thấy cô đi ra, chỉ e cô và Tạ Trạch Ích đang đóng cửa ở trong đó làm chuyện gì bậy bạ, thế là vội vã đi báo lại với bà Cát.

Có trời mới biết là cô tự khóa trái nhốt mình ở ngoài phòng.

Hai người nhìn nhau bật cười.

Sở Vọng: “Bao giờ thì anh về Hương Cảng?”

“Chậm hơn em, hai ba tuần sau.”

Cô gật đầu.

Tạ Trạch Ích lại trèo xuống thang sắt rời đi.

Hẹn hò trong chốc lát như thế này giống hệt yêu đương vụng trộm tuổi mới lớn. Cô nằm nhoài trên ban công nhìn xuống, trong lòng vui vẻ không thôi.

Ngọn đèn dầu hỏa trong vườn vẫn thắp sáng, người đàn ông trẻ tuổi kia ân cần hỏi: “Vẫn ổn chứ?”

Lúc này Sở Vọng mới nhìn rõ anh ta: tươm tất sạch sẽ, tóc chải ngược ra sau, mặc âu phục đeo kính, đi lên lầu nhìn xung quanh.

Giọng của Tạ Trạch Ích vang lên: “Tôi nghĩ cô rất rất ổn, anh cứ yên tâm.”

Có lẽ thị lực của người ấy không được tốt. Thấy anh mặc quân trang thì tưởng là tuần quan tô giới được mời tới, bèn hỏi: “Đã bắt được mèo cho cô ba rồi à?”

“Chuyện đó thì không ——”

“Không được!” Người đàn ông kích động nói, “Để tôi đi bắt giúp cô ấy.”

Tạ Trạch Ích thân thiện trả lời, “Động vật bốn chân, muốn bắt cũng không dễ đâu.”

Người đàn ông lại đáp: “Cô ấy đang ngủ mà lẻn vào phòng như thế, lỡ dọa cô ấy thì sao?”

Tạ Trạch Ích cười: “Tôi nghĩ sẽ không có chuyện đó đâu.”

“Vì sao anh biết?”

“Hình như tôi vẫn chưa biết quý danh của anh?”

“Cứ gọi tôi là anh Mạch là được rồi.” Người đàn ông nọ sửa lại quần áo.

“Ồ. Có phải cha anh bán kẹo không?”

Có lẽ con trai của nhà tài phiệt kinh doanh kẹo chưa từng nghe ai gọi sản nghiệp kếch xù của cha là “bán kẹo” cả, anh cảm thấy bị mạo phạm, thế là nhìn lướt anh, hỏi ngược lại: “Quý danh của anh đây là?”

“Tạ Trạch Ích.” Anh giới thiệu tên họ xong, lại bổ sung, “Chồng của cô ba Lâm.”

Bàn tay giơ ra của Mạch thiếu gia đông cứng tại chỗ.

Tạ Trạch Ích rảo bước rời đi.

Lúc này Mật Thu đã đẩy cửa đi vào, thấy trong phòng không một bóng người bèn đẩy cửa kính đi ra ban công, thấy cô đứng bên ngoài thì mới thở phào một hơi.

Sở Vọng vui vẻ nằm nhoài lên lan can, gần như có thể mường tượng được vẻ mặt hời hợt điềm nhiên của Tạ Trạch Ích lúc nãy.
 

Hoa Tử

Sưu tầm
Tham gia
24/9/19
Bài viết
10,493
Điểm cảm xúc
1,412
Điểm
113
Chương 133: Hợp tan (5)
Từng rương hành lý được chất lên kho hàng khoang hạng nhất.

Từ di sản, đồ cưới tới chuyện to nhỏ hôn lễ hay cả việc về Hương Cảng… Mọi chuyện gộp lại với nhau dồn dập là thế, nhưng biệt thự bà Cát không hề tỏ ra cuống cuồng.

Mọi việc được làm từng bước một, tiến hành đâu vào đấy.

Nhìn ngoài vào rất có thứ tự – là kết quả của một phen vất vả chuẩn bị ngày trước.

Trên đường đi, mọi người ở trong khoang thuyền đều bàn tán chuyện hôn lễ.

Di Nhã không giấu giếm sự ghen tị với cô: “Cả thế giới đều xôn xao chuyện của Linzy, còn nó thì suốt ngày chỉ biết ngẩn người.”

“Nếu cháu có thể nhận bằng tốt nghiệp đại học lúc 15 tuổi, một tháng có hơn một trăm ngàn tiền lương, thường xuyên nhận được tiền thưởng trị giá 150 đồng cu-ron Thụy Điển, lại còn nổi tiếng khắp nơi, thì vào lúc này khéo cũng chỉ có thể trốn trong nhà phơi nắng mà thôi.” Bà Cát nói.

“Đó là bao nhiêu tiền ạ?”

“Bốn mươi ngàn đô la Mỹ, tám trăm ngàn đồng bạc, là tổng tiền lương của 800 người trung lưu Mỹ trong một năm.”

Trong tiếng thán phục của mọi người, Sở Vọng le lưỡi chạy thẳng ra ngoài ban công phơi nắng.

Đấy cũng là một kiểu học vấn và bản lĩnh, có điều không phải là bản lĩnh của cô.

Cô miễn cưỡng lắm mới không để thời kỳ gian nan nhất ngày trước trở nên tệ hại. Nay phải rời khỏi biệt thự của cô út rồi đến bên cạnh Tạ Trạch Ích, thật sự là rất thoải mái.

Nhưng khi nhìn những cơn sóng cuồn cuộn ngoài đại dương mênh mông, lần đầu tiên cô cảm thấy bất định.

Thư của Từ Thiếu KHiêm gửi đến rất ít, cũng chỉ là những câu hỏi bình thường song lần nào cũng khắc sâu trong lòng cô.

Cô đâu chỉ đi quá thời đại một bước. Bất cứ môn học hay văn bằng nào ở thời đại này cũng không có ý nghĩa lớn với cô.

Nhưng với Từ Thiếu Khiêm, cô luôn có cảm giác dù mình tu luyện cả đời cũng không thể tốt nghiệp được.

Nếu hỏi cô bây giờ cảm nhận của cô trước khi gặp Tạ Trạch Ích là gì, thì cô sẽ nói —— Giống như vào cái đêm trước khi kết thúc kỳ nghỉ đông, vì vẫn chưa hoàn thành bài tập về nhà nên phải đốt đèn vùi đầu làm bài, nhưng rồi phát hiện dù có thức tới sáng cũng không thể hoàn thành suôn sẻ.

Trong khoảnh khắc khi anh quay lưng lại với cô và Lương Chương, hỏi một câu đủ chấn động đất trời: “Phương trình năng lượng khối là gì?”, từ lúc đó trong đáy lòng cô đã bắt đầu e ngại, và cũng biết một điều: Người trước mặt đây, cô kính nể anh ấy. Nhưng cuối cùng, chính người luôn chu đáo nhất là Từ Thiếu Khiêm lại đi một bước điên rồ với cô, thậm chí còn kéo theo rất nhiều học giả hàng đầu điên theo cô.

Nếu như trút bỏ đi mọi thứ mà thân phận của Lâm Sở Vọng đem lại cho cô, chỉ là một Lâm Trí đơn thuần, thì có lẽ cô cũng chỉ có một lựa chọn.

Cô gấp gáp muốn được anh thừa nhận, cũng như người học trò ngây thơ khát vọng muốn được giáo viên thừa nhận vậy.

Không liên quan đến hôn lễ, cũng không liên quan đến tính nghi thức dối trá là ai sẽ nắm tay cô đưa cô đến với Tạ Trạch Ích; dù người nắm tay cô bước vào nhà thờ là thống đốc nào đó, bá tước nào đó, thậm chí là tổng thống đời thứ năm nào đó, thì cô cũng không thành vấn đề.

Thậm chí cô cũng không ngại một mình bước về phía Tạ Trạch Ích, dù gì đối với cô thì thời đại này cũng là một kiểu dị loại, nên từ sâu trong đáy lòng cô không hề quan tâm ánh mắt của người ngoài như thế nào.

Nhưng cô lại khẩn thiết muốn một cái gật đầu hoặc một nụ cười từ Từ Thiếu Khiêm, nói với cô rằng: vào lúc này, tôi vẫn thừa nhận sự tồn tại của em ở thời đại này.

Cô vẫn còn tiến về phía trước.

Chỉ một câu nói đó cũng sẽ khiến cô có đủ dũng khí tiếp bước trong cảm giác tội lỗi không ai biết và phủ định bản thân mình.

***

Trong vòng ba ngày, không chỉ dưới một lần Di Nhã lải nhải truyền đại với cô sự kỳ vọng to lớn của nhà họ Tạ ở rất nhiều phương diện, mà quan trọng nhất vẫn là chuyện sinh con.

Lại còn nói với cô, dựa theo tính cách của các mẹ hai ba tư năm trong nhà cô ấy, vì để gặp cô dâu sớm nên có lẽ sẽ nổi tính con gái, đầu tiên là tìm hơn mười chiếc xe rồi đồng loạt xuất hiện ở trên bến tàu để so bề tài sắc.

Nên lúc sắp xuống thuyền, Di Nhã còn cố ý hỏi: “Lúc này có muốn lén đi theo mình trốn bọn họ, đến xem nhà mới của cha mình trước không?”

Cô nghĩ rồi đáp: “Mình muốn đi xem viện khoa học trước.”

Có lẽ Di Nhã không hiểu nổi viện khoa học thì có gì hay ho để xem hơn là căn nhà sang trọng, thế là cụt hứng.

Bà Cát liếc nhìn cô rồi nói với Di Nhã: “Nhà vẫn ở đó, có chạy đi đâu đâu.”

Di Nhã nói, “Chứ bảo tàng có thể mọc chân chạy được hả dì?”

“Ở đó viết tên mình đấy, không dám không tôn trọng.”

Cũng không phải là viết tên cô sao, dù viết thêm tên của Tạ Trạch Ích thì một tòa nhà to lớn không khác gì đền thờ trinh tiết cứ thế sừng sững xuất hiện trước mặt Từ Thiếu Khiêm. Không biết còn bao nhiêu người còn nhớ vụ bê bối do chị Từ gây nên, có lẽ sẽ lại bị mọi người nhắc đến sau khi cô và Từ, Lương nhận giải thưởng, trở thành vết nhơ to lớn trong đời cô, hoặc là hủy hoại thành tựu nghiệp học của cô, là bằng chứng lớn nhất tố cáo cô chỉ là loài hoa chùm gửi. Ai biết được sẽ thế nào chứ? Dù gì cô cũng không quan tâm lắm.

Nhưng Từ Thiếu Khiêm là người ở thời đại này, anh phải đặt mình vào cái hộp nơi đây. Không biết anh sẽ bị chỉ trích thế nào khi nhìn tòa nhà cao tầng trước mặt trong lúc giảng bài cho học sinh.

Chỉ là cô sốt ruột muốn nhận được ý kiến của giáo sư về bản thảo luận văn mà thôi.

Bà Cát khoát tay, “Kệ nó đi, mấy hôm nay ở trên thuyền chơi với cháu cũng đủ rồi, để nó được yên tĩnh một lát.” Nói đoạn, bà khoác áo choàng màu cọ lên vai cô rồi đưa túi cho cô, để nhân viên trên thuyền dẫn cô rời đi theo lối đi riêng.

Trong chiếc xe Buick màu đen trên bến, tài xế không ngừng rôm rả về chuyện hãng xe taxi nào mới mở, xe taxi nào mới nhập thêm… Tiếng Quảng đây mà, cô nghe mà ngỡ như đã cách một đời.

Viện vật lý cũng có học viện riêng, tòa nhà cao tám tầng vừa được xây xong, ở trên tầng cao nhất viết tám chữ lớn tên cô, trông mà hốt hoảng.

Cô trả tiền xe lẫn tiền típ cho tài xế rồi đẩy cửa đi xuống.

Hình như chỉ mới vào giờ học, vài nữ sinh trễ giờ thở hổn hển chạy vào trường. Cô đi theo phía sau các cô gái ấy, bước chân vào trường học mới toanh.

Không ít giáo sư mới đã được mời đến. Cô chậm rãi bước đi trên hành lang tầng một, đi qua mười hai lớp học lớn, lớp nào cũng chật ních sinh viên với màu da khác nhau. Cô dừng lại lắng nghe một hồi, hình như là sinh viên năm nhất. Cô mỉm cười, thật là tốt quá. Lại bước gần một bước với lý tưởng ban đầu của anh rồi.

Lúc đến tầng hai, đang định tìm ai đó hỏi thì chợt trông thấy một phòng học tối om.

Bây giờ đang là ban ngày, rèm cửa trong lớp được thả xuống che hết cửa sổ, chỉ để lại một cửa sổ cao cỡ một người, làm ánh sáng ngoài hành lang hắt vào. Qua khung cửa sổ ấy, cô có thể cảm nhận được ánh sáng trong phòng liên tục nhấp nháy. Cô lại gần nhìn, thì ra đang chiếu phim.

Vẫn chưa có ai chú ý đến cô, vì vậy cô đứng ở góc cửa sổ và quan sát cẩn thận – trên màn hình, Freder đang luống cuống nói với Johann Fredersen: “Cha, cha có biết bị cha đuổi việc có nghĩa là gì không? Có nghĩa là đi vào lòng đất!”*

(*Bộ phim ở đây là phim Metropoli Thành phố tương lai kể về Johann Fredersen – vị chúa tể tàn bạo cai trị một thành phố công nghiệp khổng lồ trong tương lai. Nhưng dưới vẻ bề ngoài hào nhoáng của thành phố tưởng tượng này là vô khối công nhân làm việc cực nhọc dưới những điều kiện phi nhân tính. Con trai của Fredersen đã nhận ra những điều kiện làm việc quá khủng khiếp của công nhân và anh bắt đầu vận động một cuộc nổi dậy chống lại người cha tàn bạo của mình.)

Tại chỗ nấc thang cao nhất, một nam sinh đang cầm cầm máy chiếu trong tay không ngừng phấn khích.

Bên dưới màn hình, ở góc trong cùng hàng đầu tiên, Từ Thiếu Khiêm đối diện chếch với khung cửa sổ nơi cô đang đứng, ngồi nghiêng sau bục giảng tập trung xem phim cùng học sinh của mình. Hàng mi anh chau lại, mảng sáng mảng tối giao nhau trên mặt anh, biểu cảm cực kỳ nghiêm túc.

Cô lặng lẽ đẩy cửa ra, đi vào phòng học.

Trong phòng không còn ghế, ở cuối lớp có rất nhiều học sinh không tìm được chỗ ngồi, không biết là do bị bộ phim thu hút hay bị Từ Thiếu Khiêm thu hút.

Cô đi đến đứng vào giữa bọn họ, làm mấy người xung quanh ngoái đầu nhìn.

Chỉ có vị trí của Từ Thiếu Khiêm là có thể nhìn bao quát được khắp lớp. Trong chớp mắt cô ngồi xuống, cô cảm thấy Từ Thiếu Khiêm nghiêng đầu, tầm nhìn thoáng dừng lại trên mặt cô.

Một giây, hai giây…

Sau hai giây, Từ Thiếu Khiêm lập tức xoay đầu đi tiếp tục xem phim, cứ như cô chỉ là một học sinh vào trễ.

Trong hai giây đó, cô nghe thấy mấy nữ sinh xung quanh tuổi tác xấp xỉ cô khẽ hô lên, ríu rít: “Ánh mắt của giáo sư lạnh lẽo thật đấy.”

Cô cười thầm: Quả nhiên vẫn có không ít người đến vì phong độ của Từ Thiếu Khiêm.

Xung quanh có một nam sinh bất mãn nói: “Bộ phim nhựa này là hàng hiếm đấy. Tiết của giáo sư cũng không thoải mái như vậy đâu, chuẩn bị tinh thần đợi hết phim thì bị tra hỏi đi.”

Nữ sinh hỏi ngược lại: “Ví dụ như?”

Nam sinh nói: “Ví dụ như vì sao một bộ phim mang ý nghĩa tôn giáo lại xuất hiện trong lớp vật lý?”

Sở Vọng vui vẻ gật đầu: đúng là thầy nghiêm rèn ra trò giỏi, xem ra trong lớp vẫn không thiếu học sinh xuất sắc.

Nghe cậu nam sinh nói xong, các cô gái lập tức im lặng, tập trung hết tinh thần vào bộ phim.

Sở Vọng lại cảm thấy, trong hai tháng kể từ cuộc Đại suy thoái, việc chiếu bộ phim bị biên tập chỉnh sửa nhiều lần này mang đầy ý nghĩa giáo dục kiểu Từ Thiếu Khiêm.

Cô cũng im lặng tập trung giống mọi người trong lớp, không biết đây là lần thứ bao nhiêu ôn lại bộ phim kinh điển của thời đại phim câm, có tầm ảnh hưởng đến hơn 100 bộ phim khoa học viễn tưởng trong tương lai, thỉnh thoảng lại nghe mọi người chấn động hô lên trước hiệu ứng đặc biệt do người Đức tạo ra, thậm chí còn có người hỏi: “Có thật thành phố châu Âu có rất nhiều tòa nhà chọc trời, đường cao tốc nằm trên bầu trời, máy bay qua lại giữa các tòa nhà không?”

Những học sinh từng thấy tận mắt đều cười cậu ta là đồ nhà quê.

Một giờ sau, bộ phim kết thúc, học sinh ngồi dựa vào cửa sổ kéo rèm ra, ánh sáng đột nhiên hắt vào khiến mọi người không khỏi che mắt.

Sở Vọng cũng vì thế mà nheo mắt lại.

Đúng lúc này, cô thấy Từ Thiếu Khiêm xoay người lại, tầm nhìn lại rơi vào người cô lần nữa, không hề nhúc nhích.

Cô giật mình, hai mắt mở lớn.

Cái nhìn của Từ Thiếu Khiêm đã thu hút không ít người xoay qua nhìn cô. Những gương mặt với màu da khác nhau ở hàng đầu cũng nhìn cô chằm chằm.

Cậu học sinh gần đó thấp giọng ghé tai nói với bạn: “Vì cô ấy đến trễ à?”

“Nói tôi nghe xem, các bạn thấy gì qua bộ phim Metropolis này?”

Học sinh ở hàng đầu hỏi: “Thưa thầy, thầy gọi ai trả lời ạ?”

Anh nói: “Linzy.”

Vừa dứt lời, trong lớp lập tức nổ tung: “Có phải là người đoạt được giải thưởng Nobel đầy tranh cãi không?” “Người quyên tặng tòa nhà phía trước sao! Cô ấy cũng đến hả?”

Cô bỏ ngoài tai những âm thanh ồn ào, đi về phía trước hai bước, xuất hiện trong mắt mọi người ở một góc độ khá kỳ lạ: “Nhưng khoa học lại không khác gì liều thuốc tốt với nhà lãnh đạo. Muốn lãnh đạo dân tộc thì phải xây dựng thứ gì đó khiến người dân cảm thấy tự hào, không phải để phô trương mà là để tự tin và răn đe – nhắm vào hai đối tượng cùng một lúc: người dân và kẻ thù. Đấy chính là dã tâm của những nhà lãnh đạo.”

“Ví dụ như?”

Cô hắng giọng: “Ví hạn như các tòa nhà chọc trời, như các siêu đô thị tầm cỡ thế giới, như đại bác tàu chiến, hoặc như… siêu vũ khí.”

Có học sinh ham học hỏi lập tức chen vào hỏi: “Siêu vũ khí là gì?”

Cô nhếch môi, “Để chúng ta tưởng tượng ra một thế giới đô thị hoàn toàn mới.”

Không ít người không nén nổi tò mò, rối rít nhỏm người lên ngoái đầu lại.

Dừng một lúc, Từ Thiếu Khiêm nói, “Mời em lại đây phát biểu.”

Cô vắt áo khoác trên tay, đi lên gần bục giảng đối diện với hơn một trăm gương mặt. Từ Thiếu Khiêm đứng ngay bên trái cô, nhìn cô không chớp mắt.

Cô thoáng nghĩ ngợi rồi nói: “Hãy thử tưởng tượng thế giới một trăm năm sau có rất nhiều người máy. Chúng có ngoại hình giống hệt chúng ta, chúng có thể nói, di chuyển, suy nghĩ và thậm chí có cảm xúc. Nhưng chứa trong đầu chúng không phải là tế bào, dây thần kinh hay huyết dịch, mà là vô số sợi dây đồng vi mạch cùng với hàng trăm chương trình vật lý, hóa học, toán học. Bây giờ muốn giảm cân thì nên ăn chuối hay bánh sừng bò đây? Trong chương trình vốn có trong não, bánh sừng bò có nhiều calo hơn chuối nên tất nhiên sẽ ăn chuối rồi.”

Trong một tiếng cười ồn ào, cô vô cùng bình tĩnh nói tiếp, “Có phải con người cũng sẽ có quyết định như thế đúng không? Nhưng nếu tôi là một người máy, tôi sẽ không hiểu các bạn đang cười cái gì. Bởi vì công thức vật lý toán học hoàn toàn không giải mã được sự hài hước là gì. Cũng với lý do tương tự, chúng không thể hiểu được thơ của Shakespeare hay văn của Khổng Tử. Trong việc giải quyết vấn đề, dĩ nhiên con người sẽ chậm hơn lũ robot được tạo nên từ hàng trăm các công thức. Nên các cửa hiệu không cần người đánh mát nữa, ông chủ cũng không cần thư ký, tiệm may cũng không cần thợ may… Mọi công việc trí óc có thể giải quyết bằng công thức đều được lưu trữ trong cơ sở dữ liệu khổng lồ, tiết kiệm rất nhiều thời gian và tiền bạc. Trước khi ra ngoài, người giúp việc robot sẽ chọn trang phục phù hợp nhất cho bạn, cũng như phù hợp với áo khoác và giày; xe hơi trên đường cũng sẽ tự tính toán bàn bạc xem có nên nhường đường hay không; phương tiện chở người nhanh nhất cũng là người máy, ngồi lên nó thì từ Hương Cảng đến Luân Đôn chỉ mất 10 phút.”

Nam sinh ngồi hàng cuối kia hỏi: “Liệu có một ngày khi bọn chúng có ý thức, thì có khi nào sẽ trỗi dậy phản kháng không?”

Cô mỉm cười lặp lại: “Bạn xem công việc mà giai cấp công nhân lặp đi lặp lại mỗi ngày có khác gì với những người máy tôi mô tả ở thành phố tương lai không? Công nhân đòi đình công không biết đã bao nhiêu lần, nhưng thời đại này vẫn là một đô thị bị thống trị bởi các nhà tư bản.”

“Nhưng cô vẫn chưa nói siêu vũ khí là gì.”

Cô tiếp tục nói: “Chúng tôi cứ to gan tưởng tượng thử xem, một ngày nào đó, trọng tâm chiến lược của Đức sẽ di chuyển về phía tây mà không cần qua thành phố Verdun. Bộ Tư lệnh Đế quốc Đức chỉ cần ngồi ở nhà và nhấn hai nút máy, lập tức 20.000 quả bom sẽ được phóng tới Paris và Luân Đôn, dễ dàng san phẳng hai thành phố thành bình địa.”

Một nam sinh viên khác ngay lập tức hỏi: “Vậy thì nữ hoàng cũng có thể ngồi trong nhà bấm nút là lập tức thổi bay được Erich von Falkenhayn ở trụ sở chỉ huy.”

Sở Vọng gật đầu: “Cho nên, khi Erich xem xét việc có khả năng mình sẽ bị nổ tung cùng với chỉ huy cấp cao ở trụ sở chỉ huy, liệu ông ta có cảm thấy việc mất đi một đội quân lục quân không quan trọng bằng cái chết của mình hay không?”

Có không ít nam sinh lên tiếng: “Trao đổi đồng giá!”

Cô đang định nói tiếp thì bất chợt nghe thấy giọng nam trung vang lên bên tai: “Quân tốt chỉ đi được một bước, tướng soái không rời cửu cung, còn quân xe thẳng ngang đều đi được. Từ đây chiến tranh đã không cần binh lính, mà giống như hai kẻ cầm quyền ngồi đối diện đánh cờ.”

Mọi âm thanh trong lớp học chợt biến mất.

Sở Vọng chấn động.

Chiến tranh giống như một trò chơi. Giả thuyết này cũng là những gì cô tâm đắc hiểu ra khi chơi trò chơi đế chế lúc còn học tiểu học. Chọn sở hữu một siêu vũ khí thực sự rất tuyệt vào thời điểm phá hủy doanh trại của kẻ thù, Nhưng khi chọn mục đó thì bạn phải đảm bảo quân địch chưa từng tạo ra vũ khí đó trước bạn hoặc có vũ khí uy lực lớn hơn bạn, phá hủy khả năng phản công của bạn.

Ở chế độ người máy thì con người luôn không nhanh bằng người máy. Nhiều lần trơ mắt nhìn nhà máy điện, hầm mỏ và kho vũ khí được xây dựng tâm huyết trong nhiều giờ lại bị phá hủy trong vòng mấy giây, không biết đã đau lòng đến mức nào. Có nhiều lần khi cô chơi lại trò chơi này, cô rất quả quyết lựa chọn chế độ không có siêu vũ khí.

Thế mà chỉ vài ba câu nói tùy ý của cô đã lập tức bị Từ Thiếu Khiêm đoán ra được toàn quá trình.

“Lính không chiến đấu, trò chơi may rủi.” Anh nói.

Thì ra từ nhiều năm trước đã nhận ra được chân lý này.

“Nhưng em có nghĩ đến một kiểu cực đoan khác không?” Anh hỏi.

“Kiểu cực đoan nào?” Lúc cô quay sang nhìn anh thì tiếng chuông tan học reo lên, nhưng không ai đứng dậy rời khỏi lớp.

“Việc sử dụng bạo lực vật chất hết mức sẽ không bao giờ loại trừ được vai trò của trí khôn. Do đó, bên sử dụng bạo lực bất chấp mọi thứ, không tiếc đổ máu, thì chắc chắn sẽ có được lợi thế khi bên kia không làm như vậy. Bằng cách đó, hắn ta sẽ khiến đối phương phải làm giống mình, thế là hai bên sẽ theo xu hướng cực đoan, xu hướng này sẽ không bị giới hạn bởi bất cứ hạn chế nào khác ngoại trừ sự kiềm chế vốn có.” Từ Thiếu Khiêm vẫn không hề nhúc nhích, như thể thời gian dừng lại, chỉ có môi anh mấp máy cử động, quay đầu nói với học sinh: “Tan lớp rồi.”

Sau một lúc lâu im lặng, bắt đầu có học sinh lục tục thu dọn sách vở đeo cặp rời đi.

Còn cô và Từ Thiếu Khiêm vẫn đứng yên.

Hình như tiết tiếp theo không có lớp nên cũng không có học sinh nào đi vào.

Như một thế kỷ trôi qua, cô nghe thấy Từ Thiếu Khiêm nói, “Ngồi xuống nói chuyện đi.”

Cô ngồi xuống dãy đầu tiên đối diện với anh, bất an cử động lòng bàn tay ướt đẫm mồ hôi, “Em chỉ đưa ra giả thiết hợp lý mà thôi.”

“Dĩ nhiên em có thể đưa ra giải thiết hợp lý. Bởi vì có phải với em mà nói, về mặt nào đó thì nơi này cũng giống một trò chơi may rủi?”

“Không một người chơi nào lại đặt cược tính mạng của mình vào trò chơi cả.” Lúc mới bắt đầu, cô gần như không lường được hậu quả sẽ gây ra khi để vũ khí này xuất hiện sớm. Cô đã từng thử suy đoán vô số lần, nhưng cũng biết đó chỉ là những tính toán không hề đáng tin. Cô cũng biết mình đang nổi điên, hơn nữa rất có thể kéo mấy trăm triệu người cùng chôn vùi. Nhưng cô biết chắc chắn cô không coi đây là trò chơi, nếu không thì vì sao cô lại hết lòng tin tưởng Từ Thiếu Khiêm, cho rằng anh nhất định có thể biến sự nổi điên của cô trở nên hữu hiệu?

“Trở lại vấn đề kia, túi cao su có thể giết chết một con hươu trong bao lâu?”

“Ba giây.”

“Rất rõ ràng.” Từ Thiếu Khiêm mỉm cười, “Như vậy, nếu trong khoảnh khắc mở mắt ra, em không phải là Lâm Sở Vọng mà là Sakuma Ichiro. Từ đó em bắt đầu chăm sóc yêu thương mẹ mình, bà cũng yêu em thương em, che chở mưa gió cho em… Nói chung không khác gì mẹ ruột em cả.”

Cô lắng nghe anh đặt vấn đề.

Anh nói tiếp, “Giờ đây túi cao su đó trùm đầu bà ấy lại, trong vòng ba giây, em sẽ làm gì?”*

(*Hiểu đơn giản vấn đề mà Từ Thiếu Khiêm như sau: liệu cô có lựa chọn làm một người có bản chất là người tốt nhưng vẫn có thể ngoảnh mặt làm ngơ để mặc người vô tội chết; hay làm một kẻ ác như một Sakuma Ichiro nhưng vẫn không đang tâm để người thân của mình chết. Đây là vấn đề liên quan đến trận động đất sẽ do vũ khí hạt nhân của Sở Vọnggây nên trong tương lai.)

“Em không thể vừa là Lâm Trí vừa là Sakuma Ichiro được.”

“Nên em sẽ có mâu thuẫn, như đấu tranh nội tâm trong mấy tháng vừa qua.” Anh nói.

“Nếu không có cách nào để tránh kết quả cuối cùng là trở thành đao phủ, thì em tình nguyện chụp túi cao su lên đầu mình.”

“Không. Lâm Trí, em vẫn chưa chuẩn bị trả lời câu hỏi của tôi.” Anh lắc đầu, nhìn thẳng vào mắt cô với vẻ thất vọng, “Người Anh có một câu chuyện ngụ ngôn thế này. Lúc thợ săn đi săn thú, bất ngờ gặp phải một chú cọp con…”

“Thầy Từ, em đã nghe qua câu chuyện này rồi.” Cô nói lớn, “Em sẽ không luôn giữ súng trong người để đề phòng nó, vì em không biết sử dụng súng lục. Vì đã biết nó là mãnh thú nên ngay từ đầu em sẽ buộc một sợi dây thừng quanh cổ nó, mài mòn răng nhọn của nó, thuần hóa nó, để cái ngày nó gây nguy hiểm cho tính mạng của em sẽ không bao giờ đến.”*

(*Con cọp trong ngụ ngôn chính là muốn ám chỉ quân Nhật, Sở Vọng ví von việc mài răng cọp như việc dập trước hành động tàn nhẫn của quân Nhật.)

Từ Thiếu Khiêm cười lắc đầu, “Vậy vì sao em lại dẫn nó về nhà? Mỗi một ngày sau khi mài răng nó đi, em sẽ không cách nào quên được vẻ mặt đau đớn khi nó gặp em trong tình huống vô hại, không hề đề phòng em. Như vậy khi nhìn nhau nó sẽ mãi mãi khiển trách em, cả đời này sẽ không xóa đi được, Lâm Trí à.”

“Thế thì sao? Vẫn tốt hơn là có một ngày bị nó cắn đứt cổ ——”

“Có một ngày? Nửa bước vượt thời đại là thiên tài, nhưng một bước vượt thời đại là kẻ điên.”

Cô gần như mất khống chế cảm xúc, “Có trời mới biết em rất hy vọng lúc mở mắt ra mình không phải là Lâm Trí, mà là người thông minh hiểu mọi thứ về thiên văn địa lý chính trị quân sự, lại có thể nhìn được toàn cục. Lịch sử cần anh hùng, đáng tiếc em không phải. Nhưng em vẫn cho rằng việc đưa một kẻ điên tầm thường như em đến đây là có lý do cả!”

“Lâm Trí.”

Nghe tiếng gọi đó, sắc mặt cô tái đi, hai mắt đỏ quạnh ngẩng đầu lên. Từ Thiếu Khiêm từ từ đi ra sau mặt bàn, tiến lại gần cô.

Cô lập tức ngạc nhiên đến ngẩn ngơ.

Chỉ vì Từ Thiếu Khiêm đang ngồi trên xe lăn.

Từ đầu tới cuối anh chỉ ngồi sau bàn, cô còn tưởng anh cũng như các thầy giáo khác, ngồi nguyên một chỗ là do mệt mỏi, chỉ thế mà thôi.

Nhưng đâu ngờ anh lại ngồi trên xe lăn?

“Đã… đã xảy ra chuyện gì?’

Cô cúi đầu nhìn xuống dưới ống quần tây của anh, một bên chân quặp vào trong một cách không tự nhiên.

“Không có gì to tát, chân phải bị bánh xe đè mà thôi.” Từ Thiếu Khiêm nói, “Không cần nhìn. Không có gì đáng ngại cả. Dùng sức vẫn đứng được, có thể đi bộ.”

Cô ngẩn người. Lại nhìn Từ Thiếu Khiêm thêm lần nữa, chỉ thấy anh đi tới trước mặt cô, né người sang trái đối mặt với cô.

Giống như lúc cô đi vào, nửa người anh vẫn hướng về phía mọi người như vậy.

Lòng cô chấn động, “Ngoài chân ra, còn bị ở đâu nữa?”

Một sự im lặng bao trùm.

Cô nhạy bén phát giác: “Tai phải?”

“Điếc rồi.” Anh bình tĩnh thông báo.

Cô ngạc nhiên không dám tin, “Chắc chắn không chỉ đơn giản là bị bánh xe cán qua.”

“Mọi việc đều có cái giá của nó.”

Cô che mắt kìm nén cảm xúc, không dám nhìn thẳng vào Từ Thiếu Khiêm. Dường như mọi sự trừng phạt có lẽ sẽ xảy ra với Tạ Trạch Ích lại như nhân quả báo ứng rơi xuống người Từ Thiếu Khiêm.

Cô nghe thấy âm thanh của Từ Thiếu Khiêm đến gần: ““Tôi mà em nhìn thấy lúc này cũng chính là em mà tôi và Lương Chương không hy vọng nhìn thấy. Dù em có thử thỏa hiệp, thì sớm muộn gì nhiều năm sau vẫn có người công khai lý thuyết nghẹt thở. Nhân lúc bây giờ trận động đất quy mô lớn chưa khiến trăm họ lầm than, em vẫn còn kịp. Lúc này em vẫn chưa chuẩn bị xong, bởi vì khi tôi rất hòa nhã tranh luận với em, em lại cho rằng tôi đang chỉ trích mình, chỉ vì trong thâm tâm em không có cách nào tha thứ được cho mình. Chí vì nguyên nhân này, tôi lần nữa xin em hãy bỏ qua bản thân mình.”

Hốc mắt cô đỏ bừng, cắn chặt hàm răng.

Có chúa mới biết cô rất hy vọng người thay thế cô mở mắt ra là một vĩ nhân học sâu biết rộng, có ý chí kiên cường, bách độc bất xâm, không hề sợ hãi lại còn suy nghĩ chu toàn.

Thậm chí người này có thể là một con cáo già, giết người như ngóe, là kẻ khát máu bất kể thiện và ác, phàm là thứ bất lợi cho mình thì sẽ tiêu diệt hết, không sợ tiếng xấu lưu truyền.

Lịch sử và thời thế đều cần nhân vật kiệt xuất, đáng tiếc cô chỉ là người phàm.

Anh không hỏi gì thêm nữa, chỉ chậm rãi đứng dậy. Anh vẫn cao ráo như ngày trước, chỉ có chân phải là khập khiễng, lúc bước đi cũng vô thức nghiêng về bên phải, chậm rãi đi ra khỏi phòng.

Rốt cuộc là ai đã làm anh bị thương?

Cô không còn sức lực để hỏi nữa.

Chỉ biết là vào lúc này, có lẽ cô đã khiến anh thất vọng.

***

Bỏ qua cho mình như thế nào đây?

Cô bực bội nằm trong nhà nghĩ rất nhiều ngày.

Ngày cưới càng lúc càng đến gần, nhà họ Tạ cũng đã gửi thiệp mời đi, gần như mọi nhân vật nổi tiếng ở Hương Cảng đều tề tựu lại, ngay tới biệt thự bà Cát cũng trở nên náo nhiệt.

Đến cả ông Kiều quanh năm phiêu bạt bên ngoài cũng từ Anh quay về.

Bà Kiều đã tiền mất, lại có vết xe đổ của nhà họ Lâm nên bây giờ rất sợ tật mang, động một tí là lại nổi điên: hết đập đồ lại đánh mắng người ta… Nghe người hầu kể cả Leon cũng bị bà dọa sợ.

Cho đến cái hôm khi ông Kiều đích thân thân tìm đến cửa, lúc này Sở Vọng mới biết, thì ra bà Cát đã âm thầm quậy nhà họ Kiều một trận gà bay chó chạy. Nhà họ Lâm còn là nhà chồng của bà Tô, về phần bà Kiều, một tờ đơn kiện của bà Cát cùng với bằng chứng của thầy xem tướng được hai cụ nhà họ Lâm mời đến ngày trước cũng đủ chụp cho bà Kiều tội danh ăn trộm.

Nhìn qua vẫn thoáng nhận ra vẻ khôi ngô thời trẻ của ông Kiều, có điều bây giờ tóc đã trắng hơn nửa. Ông ta đi đến ngồi xuống trước mặt bà Cát, bỗng như già hơn bà mười tuổi, khí thế cũng kém hẳn.

Ông ta nói rất nhiều lời cảm động, còn bà Cát chỉ im lặng. Cuối cùng, bà chỉ nói một câu rất có khí phách: “Tha cho chị ta? Vậy có ai đã từng tha cho tôi chưa?”

Ông Kiều rầu rĩ rời đi.

Sở Vọng nghe thế cũng chỉ biết thở dài, bất chợt tỉnh táo phần nào.

Chẳng qua một người phàm phu tục tử như cô biết trước được một đoạn lịch sử tàn khốc, cùng với việc đi trước kiến thức thời đại trăm năm.

Dù gì cũng phải có lý do khi ông trời đưa một người như cô đến đây chứ?

Bất cứ ai trên thế giới cũng có thể dễ dàng bỏ qua bọn họ.

Nhưng nếu ngay cả cô cũng bỏ qua cho những người kia ở thời đại này, thế thì ai đến bỏ qua cho cô đây?

Kết luận như vậy… khiến cô mỉm cười cay đắng.

___

*Qin: Có thể nói chương này khá hay khi tóm lại đủ luân quả nhân hồi cũng như giả thuyết về thế giới song song: một hiện tại nhưng có rất nhiều tương lai. Sự xuất hiện của Lâm Trí ở thời đại này không khiến tương lai thay đổi theo hướng tốt hơn mà chỉ là chuyển dịch luân quả mà thôi.~ Nói chung các bạn tự ngẫm sẽ thấy được nhiều điều hay ho hơn những gì mình đang nói đây.
 

Hoa Tử

Sưu tầm
Tham gia
24/9/19
Bài viết
10,493
Điểm cảm xúc
1,412
Điểm
113
Chương 134: Hợp tan (6)
Chiến tranh không phải do lính mà chỉ là trò chơi may rủi.

Cô có thể dùng tâm trạng của người chơi để tham khảo chiến tranh, nhưng đến khi xảy ra chiến tranh thật thì cô không thể giả vờ hai vũ khí trong tay chẳng qua chỉ là hai nút bấm trên máy bay trong trò chơi, thương vong lên hàng tỉ cũng không phải chỉ là số liệu.

Ở thời đại của cô, bằng chứng về tội ác có liên quan đến Nhật Bản cũng không vì hận thù quốc gia mà giáo dục thế hệ bọn cô phải một lòng phụng quốc, để rồi đó con tính mạng người nước họ là cỏ rác là con kiến. Cho dù một ngày nào đó sẽ bị lên án vì đùa giỡn sinh mệnh, nhưng cũng chỉ áy náy vì chưa tận tụy đền đáp cho tổ quốc chứ không hề có tí cảm giác tội lỗi nào với cuộc sống của người khác.

Đây chính là điều mà thời đại và đất nước này trao cho nhân tính và đầu óc của cô, nên về cơ bản khác hẳn với chủ nghĩa quân phiệt đã giáo dục nên một Sakuma Ichiro.

Tội ác này quá sâu nặng. Trừ khi có một ngày cô biến thành Sakuma Ichiro, thì cô chắc chắn sẽ không hề do dự ấn hai nút này, để rồi sau khi sự sống trên hòn đảo cách xa nơi đây vạn dặm hóa thành tro thì mọi sự đã xong, mỉm cười nâng ly tận hưởng niềm vui chiến thắng của trò chơi.

Đáng tiếc quốc gia của cô không giáo dục cô trở thành cỗ máy giết người.

Không biết đây là may mắn hay bất hạnh nữa.

Sự nhân từ và đạo đức đã hằn sâu trong xương tủy sẽ không dễ dàng biến mất.

Chính vì nguyên nhân này mà Từ Thiếu Khiêm có thể hiểu được.

Nếu ngày nào đó cư dân trên hòn đảo kia phải trả giá vì tội lỗi của những kẻ chóp bu, khi hàng ngàn tòa nhà cao tầng bị sụp đổ, thành phố đầy xác chết trôi nổi, khi thiên hạ thái bình rộn rã ca múa trở nên hoang vu, kẻ sống phải sống nửa đời còn lại trong tàn phế dị biến; nếu như hành động của cô gây nên chấn động trên toàn thế giới, hàng ngàn người cứu hổ từ khắp nơi đổ xô đến khu vực phóng xạ để cứu người sống sót, vậy thì có bao nhiêu người vô tội sẽ bị cô hãm hại đây?

Trong khoảnh khắc cô bất chấp tất cả, mọi hậu quả đều do một mình cô gánh vác.

Đến lúc đó, chỉ sợ cô phải làm chuyện trái với lương tâm.

Hoặc là cô trở thành vị thánh nhân từ cao cả, hoặc biến thành một ác ma.

Lúc này cô đang vật lộn trong đau khổ, điều đó có nghĩa là trước thời điểm đó, nếu cô không thể biến mình thành một Sakuma thực sự, thì vào lúc cả đất nước bị hủy hoại đè nén vì cô, thì chắc chắn cô sẽ sụp đổ, sẽ bị phá hủy bởi chính mình.

Năm mươi phần trăm là tiêu chuẩn trung bình, thế nhưng một học trò chỉ đạt năm mươi phần trăm lại là người học trò kém nhất. Vì bọn họ không thể làm tròn được trách nhiệm và cũng không có dũng khí gánh vác thất bại.

Từ Thiếu Khiêm – người biết sử dụng “hạt nhân” để biến Trung Quốc trở nên bất khả chiến bại trong cuộc chạy đua vũ trang trong ít nhất hai thập kỷ, cũng phải thừa nhận việc sử dụng bạo lực trong chiến tranh là không hay, đại khái cũng không phải thần thánh gì.

Vì nhân nghĩa hay vì bác ái, tất cả đều bỏ đi.

Bây giờ anh chỉ là thầy của cô, anh không muốn tận mắt thấy cô bị chôn vùi trong sự chỉ trích và áy náy của bản thân.

“Một nhà vật lý nên dốc sức vì đất nước như thế nào?”

“Em phải hiểu trách nhiệm của mình và chịu đựng nỗi đau mà em phải chịu.”

“Đây là một con đường nguy hiểm.”


“Nếu đã lấy được lưỡi kiếm sắc bén khiến mọi người chỉ trích, thì em cũng phải gánh chịu cơn đau khi kiếm đâm xuyên tim.”


Đương nhiên cô không thể vừa là Lâm Trí, vừa là Sakuma Ichiro được.

Nhưng khi Từ Thiếu Khiêm cho cô thời gian ba giây suy nghĩ, câu trả lời của cô lại là: “Nếu không có cách nào để tránh kết quả cuối cùng là trở thành đao phủ, thì em tình nguyện chụp túi cao su lên đầu mình.”

Đếu đó là câu trả lời cuối cùng của cô, vậy thì đó cũng sẽ là kết quả cuối cùng của cô.

Quay về từ viện vật lý, không biết đã có bao nhiêu đêm cô trằn trọc không ngủ nổi. Phòng cô quá yên tĩnh, chỉ vừa nhắm mắt là trong đầu lập tức tự tra hỏi một cách dồn dập. Thế là cô dứt khoát chuyển sang phòng cho khách, dưới phòng là nhà bếp, bên cạnh là phòng ăn; đêm đến, phòng máy móc chạy ro ro đến hai ba giờ sáng, rồi mấy giờ sau khi trời còn chưa sáng, những người hầu trong biệt thự sẽ rón rén chuẩn bị bữa sáng và báo chí, cách một bức tường, chỉ cần vểnh tai lên là có thể nghe thấy các cô ấy cười đùa chuyện trò, rất náo nhiệt.

Nhưng phòng cho khách cũng có điểm không tốt, đó là trên tường treo đầy tranh vẽ có chữ ký của danh nhân các nước. Khi trời vừa tối ánh trăng chiếu vào, cô lập tức cùng một vĩ nhân mắt to trừng mắt nhỏ, nếu may mắn thì có thể bị đôi mắt to như chuông đồng của bọn họ thôi miên mấy giờ liền.

Hai tuần sau, thấy cô sụt ký và vành mắt trở nên thâm đen, Tuệ Tế không nhịn được nói: “Khéo lễ phục đưa đến sẽ nhỏ hơn một cỡ mất.”

Rốt cuộc bà Cát cũng không chịu nổi: “Ông thầy kia không tới mà cháu buồn đến mức đó hả? Chuyện gì? Chuyện nhà hay chuyện học? Nếu là vì những chuyện này thì đúng là không phải quân tử độ lượng tài đức vẹn toàn.”

Cô đành nói, “Thầy ấy bị thương, phải ngồi xe lăn.”

Bà Cát không nói, một lúc sau mới hỏi: “Chỉ là nghi thức thôi mà. Người khác không được sao?”

Cô không biết phải trả lời thế nào. Nghi thức thôi, thật ra đều như nhau.

Ngày cưới đã đến gần, mọi người nhận được thiệp mời cũng dần đổ về Hương Cảng. Là đại diện duy nhất bên nhà mẹ cô dâu, biệt thự bà Cát chuẩn bị gian phòng cho khách lớn nhất dành riêng cho Lâm Tử Đồng và cô Hứa.

Trong vườn hoa ở dưới lầu luôn tổ chức tiệc chiêu đãi và hội mạt chược quy mô nhỏ. Vì diện mạo bất tiện của cô Hứa nên Lâm Tử Đồng chỉ có thể dự tiệc độc thân; rồi cũng vì hai người tổ chức quá hôn lễ nên không ít lần Lâm Tử Đồng bị các bà các cô âm thầm thăm dò ngày sinh và đã thành thân hay kia.

Sở Vọng cũng đã thấy ba người cậu trong truyền thuyết. Mẹ của cô thuộc lứa thứ hai, ngoài cậu cả đã trên 50 ra, hai ông cậu còn lại ai cũng có khí thế phong thái riêng, cậu hai khiến không ít cô gái xiêu lòng, còn cậu ba thì nhận được đãi ngộ tương tự Lâm Tử Đồng.

Nếu kiếm cơm dựa vào vốn ban đầu thì vóc dáng và phong độ luôn nằm hàng đầu, bà Cát gọi đó là tác phái công tử ăn chơi trác táng, nên rất rõ ràng, bà không muốn cân nhắc xem một trong ba người họ ai sẽ là người nắm bàn tay đeo găng trắng của Sở Vọng.

“Ngài Hoàng thì sao?” Bà Cát hỏi dò, “Sau lần ở khách sạn Hoa Mậu, ai ai cũng nghĩ ông ấy là cha nuôi trên danh nghĩa của cháu, có quan hệ tốt với nhà họ Tạ, về sau còn giúp cháu cứu Trịnh Diệc Dân vì muốn cám ơn cháu chuyện của Tạ Trạch Ích. Ông ấy thế nào?” Một lúc sau, bà Cát lại nói, “Có điều đến ngày thứ ba ông ấy mới lên bến tàu, gấp gáp quá, sáng hôm đó cần phải bàn bạc.”

Cô chỉ biết gật đầu.

“Lần này đã có thể ngủ ngon chưa?”

Đến lượt cô an ủi hàng lông mày nhíu chặt của bà Cát: “Nếu Tạ Trạch Ích về mà thấy cháu sụt cân thế này thì liệu có trả hàng không?”

Tuệ Tế và Mật Thu bật cười. Bà Cát mắng cô, “Cháu tưởng ra chợ mua thịt heo đó hả?”

Cũng may cô không gầy đi quá.

Lễ phục dần được đưa đến, cánh nữ quyến tò mò ngồi trong phòng chờ cô dâu thử đồ. Tuệ Tế tới giúp cô mặc, đến khi đi ra, nữ quyến bên ngoài nhìn chằm chằm mà than: “Bộ váy thêu hoa này quá sang trọng, không biết mất bao lâu mới thêu xong hoa văn tỉ mỉ này nhỉ?”

Cô mặc vào đi mấy bước, bà Cát dán mắt nhìn những nếp gấp xếp ly trên váy cô mà không nói gì, chỉ bảo Tuệ Tế dẫn cô vào thay đồ.

Váy gạc đuôi cá ôm sát mặc trong bữa tiệc vào buổi chiều có thể gọi là yếm, lên trên nữa là một lớp lụa mỏng khoác hờ trên vai; từ quần trở xuống lại là một lớp lụa dày, bên trên khảm những viên kim cương tròn, chỉ cần một chuyển động nhẹ cũng đủ khiến người khác choáng váng.

Mấy bà dì bà bác lớn tuổi cảm khái: “Eo cô dâu nhỏ quá.”

Bà Cát nói, “Dạo này con bé có hơi gầy.”

Không biết là ai khen, “Cần lồi có lồi cần lõm có lõm.”

Lại có người tán dương, “Gầy mới đẹp. Chứ nếu không gầy, váy nhiều xếp ly như thế thì có mặc vào cũng không được linh động thế đâu.”

Bà Cát chỉ cười.

Bộ váy mặc sau tiệc tối là một chiếc váy dài taffeta màu xanh đậm. Vạt áo mỏng màu đỏ đậm gần như trong suốt ở mặt trước nhạt dần từ xương quai xanh đi xuống, phần váy nhung màu xanh đậm rũ dài, ở bên eo chiết nhẹ, từ phần mông trở xuống, bên ngoài lớp nhung màu xanh đậm là lớp lụa êm ái màu xanh nhạt, thêm vào đó là những nếp gấp nhẹ nhàng đầy thanh lịch, sang trọng nhưng không cường điệu.

Trong số các lễ phục thì đây là bộ cô thích nhất.

Cuối cùng áo cưới gửi từ Pháp cũng đã tới.

Trước lúc đó, vì để đề phòng nên bà Cát đã cố ý mời thợ may người Ý ở Hương Cảng lẫn Thượng Hải thiết kế cho cô hai bộ. Một bộ tay áo lụa không quá đặc biệt, một bộ là váy dài không tay có thắt lưng, song bà lại chê không đủ trang trọng.

Cho đến khi nhận được chiếc váy cưới do đích thân ngài Saumur may, rốt cuộc bà mới thở phào.

Vải lụa dài tay, phần cổ tay dùng chun nhẹ ôm sát, được thêu thêm một lớp ren viền hoa, dải lụa hương vân ở cổ áo nhẹ ôm lấy cổ mỹ nhân một cách vừa khít. Bên dưới cổ áo, hình chữ V nhỏ được khoét tạo điểm nhấn: phía trên có xương quai xanh hơi nhô lên dưới lớp lụa căng nhẹ, bên dưới để hở vùng da trắng nõn gần như tiệp màu với áo cưới, cổ chữ V còn khiến tầm nhìn bị kéo xuống theo, phần váy có hoa văn thêu rất độc đáo, phần váy xòe gồm mười hai lớp lụa, đuôi cá gồm sáu lớp, từ trước ngực kéo xuống váy được thêu bằng chỉ vàng chi chít, nổi bật hẳn trên thớ vải màu trắng ngà, đẹp đến ngỡ ngàng.

So với váy cưới, đồ trang trí của Kutchinsky chỉ có thể được coi là nền: một chiếc vòng tay kim cương 12 cara uốn cong hình bông tuyết phức tạp, đồ trang sức bằng bạch kim hình chim công, ở phần đuôi gắn mười hai viên ngọc trai và một cặp bông tai bồ công anh Psirati.

Khi Sở Vọng thay đồ rồi đi ra, các chị các dì ở bên ngoài không kìm được mà than.

Đến bà Cát thường ngày hay soi mói cũng sáng mắt lên, tầm nhìn rơi lên lỗ tai cô.

Theo thông lệ, ngày hôm đó ở vườn hoa trong biệt thự bà Cát sẽ tổ chức bữa tiệc quy mô nhỏ dành cho người thân trong gia đình. Ngắm váy cưới cô dâu xong, mọi người rối rít rời đi, kể lại với những người đến chậm lỡ dịp chiêm ngưỡng dung nhan của cô dâu.

Mọi người ở viện nghiên cứu cũng đã nhận được vé tàu, giữa trưa hôm đó đồng loạt đến Hương Cảng. Bà Cát còn tận tâm thay cô chuẩn bị một gian phòng tiếp khách để đón bạn bè. Chú Henry đẩy trà chiều tới, đám quái nhân này vừa đến đã lập tức cử Oppenheimer tặng robot mô hình nhỏ do mọi người chế tạo làm quà cưới, cũng rất ngưỡng mộ bày tỏ: “Từ nay em có thể độc hưởng một chiếc máy tính rồi!”

Nhìn mô hình trông giống như màn hình máy tính để bàn ở thời đại win98, Sở Vọng run tay nhận lấy cám ơn.

Ăn xong bữa nhẹ, mọi người nhao nhao bày tỏ muốn đi chơi cảm nhận ánh nắng và bãi cát ở khu vực nhiệt đới vùng Thái Bình Dương. Nhưng ở biệt thự lại không có đủ xe để đưa mọi người đến vịnh Nước Cạn. Đúng lúc Di Nhã đã được bà Cát nhờ dẫn cô ra ngoài giải sầu từ sớm, thế là cô nàng lập tức đứng ra gọi điện về nhà điều ba tài xế đến, đoàn người ồn ào dẫn theo cô dâu chạy trốn, ra bờ biển mở bữa tiệc độc thân.

Vào lúc chập tối, khách sạn Vịnh Nước Cạn đã bày biện sàn nhảy. Bảy tám chiếc xe Plymouth và Cadillac đậu bên ngoài. Nhân viên phục vụ ngạc nhiên mở cửa, có lẽ anh ta chưa bao giờ chào đón rất nhiều du khách da trắng kỳ lạ như vậy trong đời, thậm chí đến nam nữ trong khách sạn cũng giật mình bất ngờ.

Mới đầu mọi người vẫn thong thả ăn uống trò chuyện nghe nhạc, nhưng khi rượu quá tam tuần, bọn họ không hẹn mà cùng trở nên phấn khích, kéo tay người bên cạnh bất kể giới tính bước vào sàn nhảy, cùng cười nhảy múa trong tiếng nhạc ầm ĩ; John vui vẻ khiêu vũ với bạn gái của Oppenheimer, còn Oppenheimer đứng ngoài sàn nhảy vỗ tay cười to…

Sở Vọng không ngờ đám người này một khi ‘điên lên’ thì sẽ như vậy. Nhấp hai ngụm Whisky, chợt có người đi tới vỗ vào vai cô, tưởng là Di Nhã nên cô kéo tay cô ấy tỏ ý ngồi xuống bên cạnh. Nhưng khi quay đầu nhìn thì thấy ở cách đó không xa, Di Nhã và ngài Tưởng đang trò chuyện say sưa với một cô gái người da trắng dưới ánh đèn nhiều màu.

Lập tức nhìn lại, cô gái sau lưng mặc một chiếc váy ngắn bằng vải lông ngỗng, nước da màu lúa mì lộ ra dưới ánh mặt trời vùng nhiệt đới; một tay xách giày, chân trần dính đầy cát; một tay kéo tay cô cúi người cười vui vẻ.

Ngụm Whisky trong miệng cô suýt phun cả ra ngoài, “Chân Chân!”

Chân Chân vội “suỵt ——” một tiếng, kéo tay cô nói nhỏ: “Lại, lại bên này.”

Cô để Chân Chân lôi mình đi, từ lối đi âm u sau lưng đám đông rồi rời khỏi khách sạn, tiếp tục chạy lên cầu thang đi lên ban công tầng hai, ban công khuất sau hai bụi cây cọ, bên ngoài chính là bãi biển và vịnh hẹp trong ánh chiều tà đỏ rực.

Trên sân thượng xếp một hàng dài gồm ba mươi chiếc ghế tắm nắng, nhưng chỉ có vài ba người ngồi trên đó.

Sở Vọng tra hỏi: “… Chị chui từ đâu ra vậy?”

Chân Chân cười ngất, “Đừng nói nhảm nữa. Không dám đến chỗ náo nhiệt, chỉ dám ở bên rìa thành phố phơi nắng, chị chán chết rồi đây. Di Nhã đã muốn dẫn em đến vịnh Nước Cạn chơi từ lâu, thế mà vừa về Hương Cảng là em cứ ỉu xìu. Sao lại gầy thế này? Có nhớ chị không?”

Sở Vọng choáng váng, “Chuyện học thì sao?”

Cô nàng lè lưỡi, “Thì đến Anh cũng cần phải học tiếng Anh một năm, chẳng thà tìm thầy giáo giọng Oxford phụ đạo 1:1, như thế vẫn còn dư lại nửa năm.”

Sở Vọng trố mắt: “Chers cũng tới Hương Cảng?”

Chân Chân cười nói: “Nhờ phúc của em mà anh ấy đã bắt kịp thuyền, vừa đến đảo Penang đã kéo chị xuống thuyền, gọi điện về hội đồng khu nhờ chồng của ai đó ủy thác thiếu tá hải quân hoàng gia đích thân điều anh ấy đến Hương Cảng.”

Cô “ơ” lên.

Chân Chân tựa đầu vào lan can, nheo mắt nói: “Không phải chính miệng em thổ lộ với Di Nhã là muốn ‘đợi đến khi về già thì cùng nằm trên ghế ngắm trai đẹp ở biển’ hả Nhìn chị làm gì, ngắm biển đi chứ.”

Thời tiết đầu mùa đông có lẽ cũng chỉ khoảng 20 độ, đứng trên bãi biển gió thổi tới càng lạnh hơn.

Cô nhìn ra bãi biển: trai gái già trẻ dưới dù che nắng có vẻ không sợ chút nào lạnh, mặc trang phục mùa hè y hệt Chân Chân.

Sau khi mặt trời khuất núi, dưới vòm cây hai bên trái phải là bóng dáng nam nữ thanh niên quấn lấy nhau, thi thoảng còn có thể nghe thấy tiếng cười nói.

Xa xa ngoài bãi cát, tầm nhìn rộng rãi hơn nhiều, do đó khung cảnh cũng rực rỡ và tráng lệ hơn. Bấy giờ trò lướt sóng chỉ vừa từ Hawaii lan đến Úc, nhưng vẫn chưa lưu truyền từ Mỹ đến vùng Viễn Đông. Những trò giải trí dưới biển rất ít, chủ yếu chơi đùa trên bờ cát. Không ít người da trắng quyến luyến cảm giác sương mù buổi hoàng hôn này, thậm chí cũng chẳng sợ lạnh, mặc luôn quần đùi hoa nằm dài trên ghế tắm nắng, nửa thân trên để trần khiến người khác thấy rõ lông ngực.

Bất tri bất giác nhớ đến ngày Tạ Trạch Ích ở đảo xa cũng mặc quần đùi hoa như thế, một tay dắt xe đạp, có lẽ là học thói hư trong trào lưu lướt sóng ở Mỹ.

Đang mải nghĩ, chợt cô nghe thấy giọng Oxford từ xa truyền đến. Ngẩng đầu lên thì trông thấy một người mặc áo sơ mi trắng cùng quần đùi hoa, một người khác mặc sơ mi trắng quần dài đen, cầm áo khoác quân trang trong tay tiến về phía họ – chính là Chers và Tạ Trạch Ích.

Chân Chân vẫy tay, Chers lập tức sải bước đi đến.

Sở Vọng ngẩng đầu lên, Tạ Trạch Ích cũng đưa mắt nhìn cô, bước chân không khỏi dừng lại, tụt đằng sau Chers.

Lan can ban công cao chưa đầy một mét, mà ban công cũng không cao quá bãi cát nửa mét. Chers chạy nhanh mấy bước cuối rồi bật nhảy lên.

Người ngắm cảnh trong phòng ở nhà hàng trên lầu lập tức rướn cổ nhìn ra.

Tạ Trạch Ích lại không làm lố như vậy, đôi giày lính của anh dẫm lên cát từ từ bước đến, đứng dưới ban công ngẩng đầu nhìn cô.

Sở Vọng nói: “Tiệc độc thân của em, anh đến làm gì?”

Chers nghe hiểu tiếng quốc ngữ, thế là dùng tiếng Anh đáp thay anh: “Anh ấy chưa cởi quân trang, trong tay còn cầm súng, nghe nói Madam ở vịnh Nước Cạn nên mới lập tức lái xe đến, có lẽ là muốn quyết đấu với ai đó.”

Chân Chân phá lên cười.

Chers vỗ lan can: “Sao sếp không lên đây?”

Tạ Trạch Ích mỉm cười, “Vợ tôi gầy đi nhiều rồi.”

“Vẫn ổn mà.” Sở Vọng nhớ đến chuyện cười bán thịt heo, “Gầy thì sao, muốn nhân đó trả hàng hả?”

Tạ Trạch Ích giang rộng hai tay với cô, nháy mắt, “Thử là biết thôi.”

Người xem trên ban công không chê chuyện lớn, lập tức hò reo khuyến khích.

Cô trợn mắt, gạt bỏ đề nghị, “Em đang mặc váy mà.”

Có người tốt bụng đang nằm trên ghế tắm nắng đứng dậy, gọi nhân viên phục vụ đến lấy chìa khóa mở khóa khóa cửa nhỏ trên lan can sắt.

Cửa nhỏ mở ra đối diện với thềm đá, cách dưới chân cô chỉ ba bốn bước, như đang hoan nghênh nhiệt liệt cô ra mắt.

Cô đau đầu.

Dưới bao ánh nhìn, Tạ Trạch Ích giẫm lên bậc thềm, đứng trên bục thấp, một tay ôm eo cô nhẹ nhàng ôm cô xuống.

Hai chân cô vút lên trời, vì sợ ngã nên vô thức vòng tay ôm lấy đầu anh, la lớn trong lòng: quả là quá tâm cơ!

Trên ban công khách sạn truyền đến tiếng trầm trồ.

Tạ Trạch Ích sải bước lớn, ngẩng đầu nói: “Nhẹ đi không ít.” Rồi ôm cô đặt xuống ghế tắm nắng.

Anh ngồi xổm cạnh cô, ngẩng đầu lên nhìn, trong mắt không hề có ý đùa giỡn: “Sao lại thế này?”

Màn đêm vừa giăng, nhân viên đi ra bãi biển châm đèn dầu hỏa.

Sở Vọng cười nói, “Đang lo không có ai dắt tay em đi về phía anh.”

Hai mắt Tạ Trạch Ích lấp lánh vì sao mỗi khi cười, “Thế thì có sao?”

Cô cúi đầu, “Em chỉ hy vọng được nhận lời chúc phúc.”

“Người đó quan trọng lắm hả?”

“Rất quan trọng.”

“Quan trọng thế nào?”

Cô suy nghĩ, “Nếu không gặp thầy Từ, có lẽ em đã đến Paris mua vài căn nhà cho thuê, làm bà chủ nhà an hưởng tuổi già rồi…”

Tạ Trạch Ích cười nói, “Nên là? Bây giờ chúng ta cũng có thể đến đại lộ Champs Elysée để mua hàng chục căn hộ có vườn, mỗi tháng anh sẽ chống gậy cùng em đi thu tiền nhà, trò chuyện tận hưởng tuổi già.”

Cô mỉm cười, nhìn theo ánh mắt anh mà thở dài, “… Nếu không có anh ấy, có lẽ sẽ không có cơ hội thật sự hiểu anh.”

Tạ Trạch Ích nghiêm túc lắng nghe rồi tổng kết, “Ừm, thế thì đúng là rất quan trọng rồi.”

Sở Vọng cười.

Tạ Trạch Ích kéo tay cô hôn lên, ngón cái xoa nhẹ mu bàn tay cô, khẽ gọi, “Cô Tạ.”

“Ừm?”

“Anh Tạ dùng để làm gì?”

Trong đầu cô bất giác hiện lên nhiều công dụng của Tạ Trạch Ích.

Còn chưa kịp nghĩ ra câu trả lời chính xác thì Tạ Trạch Ích đã nói, “Sau này nếu gặp chuyện hay người nào đó không hai lòng, em chỉ cần giới thiệu mình là ‘cô Tạ’. Nếu bọn họ muốn hỏi chuyện hay muốn đổ lỗi thì nhất định sẽ nghĩ, trước em còn có một anh Tạ. Anh Tạ chính là áo giáp của em, về sau hễ gặp gió bão thì em cứ đẩy anh ra chắn. Cô Tạ à, em phải suy nghĩ bao lâu mới nhận ra đây?”

Tạ Trạch Ích thấy cô vẫn chưa nhận ra thì đứng dậy xoa đầu cô, cười bất đắc dĩ.

Sở Vọng chỉ nghĩ Tạ Trạch Ích nói thế là để an ủi mình, nghĩ kỹ thì cũng không giải quyết được nguồn gốc sự buồn rầu của cô, thế nên cũng không để trong lòng.

Cô lại hỏi anh mấy chuyện như vì sao Chers và Chân Chân lại từ Penang đến Hương Cảng, có tính toán gì. Cuối cùng hai người cùng nhìn những con thuyền nhỏ ở xa đang lại gần bờ, sương khói trong lòng cô nhiều ngày qua lập tức tan biến, hiếm được dịp bình yên thế này.

Nhẽ ra anh không nên biết gì cả, nhưng trong chớp mắt đó, Sở Vọng cảm thấy người đàn ông bên cạnh có thể hiểu cô.

Hôm đó chơi tới tận mười giờ đêm, mọi người ở khách sạn vẫn chưa thỏa thích, mấy con ma say làm liên lụy Chers và tài xế hai nhà phải đỡ lên xe.

Mọi người lần lượt lên đường, Di Nhã và ngài Tưởng lái xe đến đón Chân Chân về, mấy chiếc xe của nhà bà Cát và nhà họ Tạ chở mọi người ở viện nghiên cứu về thẳng khách sạn Sheck O, còn Chers và Tạ Trạch Ích thì cùng đưa Sở Vọng về nhà.

Tạ Trạch Ích là chú rể, không tiện vào nhà vợ nên ba người tạm biệt nhau ở đường Bá Tước, câu chào là “hẹn gặp lại vào ngày hôn lễ”.

Hiếm khi Sở Vọng có được hai giấc ngủ ngon.

Quả nhiên, ngày hôm sau, Tạ Trạch Ích rất quy củ không xuất hiện trong tầm mắt của bà Cát.

“Bọn đàn ông cũng chuẩn bị cho anh Zoe bữa tiệc độc thân rất long trọng.” Tối thứ hai, Di Nhã dẫn Chân Chân đến nhà bà Cát, cô nàng đã nói như vậy.

Bà Cát liếc cô rồi quay sang liếc Chân Chân: “Bạn của cha cháu không đến hôn lễ đúng không?”

Chân Chân cười giảo hoạt, “Chơi với cấp trên của nó xong, cháu tức thì chạy đến Shek O trốn.”

“Còn biết có cấp trên, Sở Vọng thì chả biết gì.”

Sở Vọng chẳng hiểu sao lại bị nói, tức khắc ra chiều vô tội.

Bốn người ngồi trong phòng cô, nghe bà Cát thuật lại kỹ càng về chương trình hôn lễ.

Sở Vọng ngáp liên tục, miễn cưỡng ghi nhớ đại khái trước khi ngủ thiếp đi.
 

Hoa Tử

Sưu tầm
Tham gia
24/9/19
Bài viết
10,493
Điểm cảm xúc
1,412
Điểm
113
Chương 135: Hợp tan (7)
Edit: Jeongie | Beta: Qin Zồ

Khi mặt trăng còn chưa lặn, Sở Vọng đã bị dựng dậy tắm rửa thay quần áo. Cô mơ màng ngồi trước gương trang điểm, đích thân bà Cát tự tay trang điểm cho cô, búi tóc cô thành kiểu búi vô cùng phức tạp.

Lim dim hai mắt ngái ngủ ngồi xuống sô pha màu nâu vàng, cái đầu gục gặc như muốn đánh thêm vài giấc. Khi mở mắt ra, cô nhìn về hướng cửa sổ sát sàn: vầng trăng mờ ảo ở bên ngoài đã lặn dần, ánh ban mai từ từ chiếu vào.

Ây… có một kiểu tóc thôi mà làm từ khuya đến bình minh.

Cô vẫn mặc áo ngủ rộng rãi trên người, gương mặt đã được trang điểm tỉ mỉ, Mật Thu cẩn thận đút cho cô vài miếng bánh táo tàu nhỏ. Cậu cả và cậu hai nhà họ Tô đã dẫn vợ con tới, hai cậu đang ngồi uống trà sớm với mấy khách nam ở dưới lầu, mấy mợ thì nắm tay tụi nhỏ từ hai tuổi đến mười tuổi đi lên lầu. Từ nhỏ đến giờ, nơi xa nhất mà chúng đến là Thượng Hải, bây giờ có cơ hội đến Hương Cảng, chứng kiến khung cảnh náo nhiệt của thuộc địa nhiệt đới thì cảm thấy vô cùng mới lạ.

Đặc biệt là bọn nó khá hứng thú với Di Nhã và chú Henry, hết lần này tới lần khác bám theo khiến hai người phải chạy trốn.

Sở Vọng nhìn lễ phục đã được ủi phẳng phiu, ngay cả áo cưới cũng được treo thật cao. Tuệ Tế và mấy cô hầu canh giữ nghiêm ngặt, nhưng dường như không thể ngăn nổi sự tò mò của bọn trẻ muốn sờ thử. Bánh táo tàu, sủi cảo tôm và chân gà ngũ vị thay phiên nhau tấn công là thế, nhưng đối với tụi nhóc thì áo cưới lại hấp dẫn hơn nhiều. Hết cách, Di Nhã đã bị Chân Chân và Tuệ Tế bán đứng, bị đẩy đi dỗ bọn nhóc.

Sở Vọng không chỉ một lần nghe thấy đoạn đối thoại sau:

“Sao chị lại giống mấy con búp bê tóc vàng trong tủ kính ở các cửa hàng Tây thế?”

Di Nhã rất nhẫn nãi: “Vì chị là Cinderella…”

“’Xin đờ re là’ là ai?”

Di Nhã trợn tròn đôi mắt.

“Chị xinh đẹp thế này, chị là cô dâu hả?” Cô dâu đóng cửa cả ngày không tiếp khách, chỉ có vài người may mắn mới nhìn thấy dung nhan của cô, cho nên mọi người vô cùng tò mò.

Chân Chân vui vẻ: “Chị ấy không phải là cô dâu, chị ấy là em gái chú rể…”

“Thế thì chị phải ở trong nhóm đón dâu chứ, sao lại ở trong phòng của cô dâu?”

“… Chị ấy cũng là bạn của cô dâu.” Chân Chân kiên nhẫn hơn Di Nhã rất nhiều.

Mấy đứa nhóc như hiểu ra, châu đầu ghé tai nhau nói: “Hóa ra chú rể cũng tóc vàng mắt xanh…”

Sở Vọng đã trang điểm xong, Tuệ Tế đứng dậy, kéo cửa phòng ra một khe nhỏ, ôm đứa bé trai nhỏ nhất vào phòng thay đồ – đứa bé này và con gái nhỏ nhất của Tạ gia sẽ đảm nhận vai trò hoa đồng.

Áo cưới cao cổ bó sát làm cô phải rướn cổ lên mới có thể hít thở và phải ngồi thẳng lưng – mệt quá.

Được rảnh một lúc, cô cảm thấy đói bụng nên đưa tay lấy một miếng bánh táo, nhưng vừa ăn được hai miếng chợt nghe ở bên ngoài có tiếng động cơ ô tô và hàng loạt tiếng thắng xe cùng tiếng đóng cửa xe. Chỉ trong chốc lát, cổng lớn ở dưới lầu được mở ra, không biết có ai dùng giọng huyện nào ở Chiết Giang la lên:

“Đàng trai đến đón dâu rồi –”

Sở Vọng nhìn miếng bánh táo còn chưa kịp nuốt hết, lập tức bị sắc; Tuệ Tuế không biết cổ áo cô bị siết, cứ nghĩ rằng cô lạnh nên lấy khăn choàng khoác thêm cho cô, cô đưa tay ngăn lại, đứng dậy chạy vào phòng tắm.

Có người cười nói: “Đúng là cô nhóc, lần đầu cưới nên hồi hộp hả?”

Bà Cát nói: “Con bé hồi hộp cái gì?”

Di Nhã bật cười: “Mọi người không biết đâu, vừa nãy nó lén uống hết mấy ly nước, hết nước chanh rồi lại đến sữa bò, son môi bị nó ăn hết một nửa. Nó không đi vệ sinh thì ai đi đây?”

Mọi người cười cô, bỗng nghe thấy bà Cát kêu lên, “Di Nhã, xuống lầu cản Lâm Tử Đồng lại –”

Di Nhã hỏi lại: “Làm gì ạ?”

“Mấy ông cậu của con bé có khẩu khí văn chương rất lớn, không chừng đã đưa ra mấy câu thơ tứ lục khó hiểu ngăn cản anh cháu ở ngoài cửa rồi đấy.”

Di Nhã la lên gay rồi: “Anh con làm gì được học mấy cái này?” Nói đoạn, cô ấy lập tức lê guốc phi xuống lầu.

Sở Vọng buồn cười không thôi, thầm nghĩ, may là bà Cát lo xa, trước đó đã để tài xế đưa mấy người trong viện nghiên cứu đến Shek O rồi. Nếu để bọn họ tham gia vào đội ngũ rước dâu, không chừng lại hỏi Tạ Trạch Ích, Galileo là ai rồi Michelson và Einstein là ai, thế thì e là đến kiếp sau cô cũng đừng mong được gả đi.

Mợ hai ngồi bên cạnh bà Cát, chỉ vừa vào cửa mấy năm nên chưa nhìn thấy sự lợi hại của cô em chồng, có hơi bất mãn: “Đúng, bọn tôi là nông dân, không có bãn lĩnh đi học trường Tây Dương –”

Mợ cả vội vàng che miệng bà ấy lại.

Bà Cát không rảnh quan tâm đến bà ấy, liên tục hỏi: “Sở Vọng đâu rồi?”

Chân Chân che miệng cười: “Vẫn còn ở trong đó.”

Sở Vọng ngồi trên nắp bồn cầu màu vàng nâu, nhìn ánh nắng lọt qua khung cửa sổ nhỏ trên vách tường, lắng nghe tiếng nô đùa ầm ĩ của bọn nhóc và tiếng cười đùa của mấy cô gái ở bên ngoài, tất cả khiến cô có cảm giác không thật, như thể cô đã là bà cụ tám chín mươi tuổi, lúc này đang tận hưởng niềm vui con cháu quây quần.

Bà Cát đứng ở trước cửa phòng tắm, “Chỉ là kết hôn thôi mà làm như lấy mạng của nó vậy.” Vừa dứt lời, bà gõ cửa phòng, “Vị hôn phu của cháu đã ở dưới lầu rồi, cháu muốn nhóm đón dâu vào nhà vệ sinh trong phòng cháu hả?”

Cô đáp lại một tiếng rồi đứng dậy, kéo váy cưới bước ra ngoài, ngay lập tức bị kéo đến trước gương tô son lại.

Sau một loạt tiếng bước chân vang lên dồn dập, Di Nhã há miệng thở dốc, vội vàng đóng cửa lại: “Không được rồi –”

Mọi người hỏi: “Sao thế?”

Cô ngồi thẳng người, ánh mắt nhìn về phía cửa.

Di Nhã đang báo cáo lại tình hình dưới lầu: “Cháu vừa xuống dưới lầu đã nghe mấy ông cậu đang bàn nhau làm sao để trêu anh ấy. Có mấy người nghe nói anh ấy lớn lên ở nước ngoài từ nhỏ, sau lại học trường quân đội, nên có người đòi lấy nội dung Cương Giám, Phương Dư ra kiểm tra anh ấy, làm cháu hết hồn. Anh ấy làm gì biết mấy cái đó? Khó khăn lắm cháu mới tìm được anh Lâm, nói với anh ấy: ‘Nếu bọn họ làm khó chú rể thì anh giúp anh ấy với.’ Mới dứt lời thì anh Zoe đã từ cửa đánh ập vào.”

Mọi người bật cười: “Không ai cản cậu ấy hả?”

Di Nhã nói: “Anh Lâm còn chưa nói gì thì Chers và đám bạn của anh ấy đã từ sau lưng Zoe sải bước đi tới, lần lượt phát bao đỏ.”

Mấy bà mợ hỏi: “Bao gì?”

Chân Chân giải thích, “Là lì xì.”

Mấy bà mợ trao đổi ánh mắt, cử người nhỏ nhất ra hỏi: “Trong bao lì xì có bao nhiêu tiền?”

Di Nhã nói: “Tiền gì? Bên trong là chi phiếu.”

Bà ba Tô hỏi tiếp: “Viết bao nhiêu?”

“Tám ngàn tám trăm tám mươi tám…”

Di Nhã chưa nói hết thì mấy bà mợ đã nhao nhao rướn cổ lên.

Mợ cả là người từng trải, bình tĩnh nói nhỏ hai câu bên tai hai đứa nhóc, để hai đứa xuống lầu đòi lì xì, có vài bà mẹ của mấy đứa nhỏ cũng chạy đi theo; người không có con thì lại như đang ngồi đống lửa. Có người nhanh nhẹn nói: “Cô dâu cần phải trang điểm lại, để tôi xuống lầu giúp cô ấy kéo dài thời gian.”

Cô ấy vừa đi, ngay lập tức nhận được vô số ánh mắt khinh bỉ.

Vài người châu đầu ghé tai nhau hỏi: “Nhà trai làm nghề gì? Nhà họ Tống ở Thượng Hải lúc hưng thịnh nhất cũng chưa chắc vung tay rộng rãi như thế.”

Di Nhã không lên tiếng.

Huân tước Tạ làm gì, dăm ba câu không thể nói rõ.

Bà Cát chỉ nói một câu ngắn gọn: “Lúc trước huân tước Tạ là nhân vật có tiếng trong giới tài chính Nam Dương.”

Di Nhã và Chân Chân cười vui vẻ.

Sở Vọng ngồi trên ghế thở dài: “Cháu cũng muốn một bao lì xì.”

Bà Cát mắng cô: “Làm gì có cô dâu nào đòi lì xì trong ngày cưới của mình?”

Sở Vọng le lưỡi: “Cháu chỉ nghĩ thôi mà.”

“Son môi!”

Vừa dứt lời, bà mợ ba nhân cơ hội đi đòi lì xi vừa nãy đã vào phòng, khép cửa lại rồi nói: “Ở dưới lầu đã hốt gọn cả rồi.”

Bà Cát kinh ngạc: “Dù gì cũng có ba mươi cửa ải, sao lại nhanh như thế?”

Bao lì xì lớn chừng bàn tay trong túi mây của bà mợ ba vô cùng chói mắt. Bà ba nói: “Ây, còn phải hỏi sao?”

“Một đám hám lợi.” Bà Cát không lên tiếng, quay đầu hỏi Di Nhã: “Lâm Tử Đồng đâu? Gọi nó ra làm khó anh Zoe của cháu đi.”

Di Nhã đáp lời, lại vội vã đi ra khỏi phòng.

Chân Chân bật cười: “Anh Lâm cũng khó xử thật.”

Chưa đầy một giây sau, Di Nhã đã quay trở lại, đỡ trán nói: “Cháu tận mắt nhìn thấy anh Zoe lén đưa hết số bao lì xì còn dư cho anh Lâm, sau đó, anh Lâm cười đi lên lầu — không ai ngăn bọn họ lại cả.”

Vừa dứt lời, tiếng gõ cửa phòng đã vang lên. Lâm Tử Đồng đứng bên ngoài nói: “Cô út, em ba, chuẩn bị đón dâu nào.”

Di Nhã nháy mắt với Chân Chân, thở dài: “Không có đạo đức mà!”

Tuệ Tuế và Mật Thu luống cuống đỡ cô đang ngồi trước gương trang điểm dậy, lần lượt khoác lớp áo lót lông nhung màu trắng rồi đến khăn trùm đính phỉ thúy xanh đỏ. Sở Vọng đưa tay sờ hàng lông mày mảnh như tơ, ngẩng đầu nhìn vào gương — gương mặt cô được trang điểm vô cùng xinh đẹp. Trâm cài tóc và khuyên tai vàng như hai chiếc cúc áo khẽ đung đưa. Sở Vọng vuốt nếp gấp trên chiếc váy dài xếp ly, nhủ thầm, không biết Tạ Trạch Ích mặc gì mới có thể đón cô dâu đậm chất Trung Quốc này đi đây?

Bà Cát cứ nhấn mạnh đi nhấn mạnh lại bên tai cô: “Dáng đi, nét mặt phải trang trọng lên!”

Cô chột dạ đáp lại, được mọi người đỡ tay, cẩn thận bước ra khỏi phòng.

Một đoàn người nối đuôi nhau đi xuyên qua hành lang, bước xuống cầu thang đi xuống lầu —

Nhóm đàn ông trong phòng khách dưới lầu gom thành một nhóm, không phân biệt lạ hay quen, ngoài nước hay trong nước, không phân biệt màu da, ai nấy đều dùng tiếng phổ thông trò chuyện rôm rả, ngay cả Chers cũng có thể lưu loát nói vài câu tiếng Thượng Hải, nom vô cùng vui vẻ hòa đồng.

Chân Chân và Di Nhã đi sau thầm nghĩ: “Hám lợi, đúng là hám lợi mà.”

Lâm Tử Đồng đứng ngay chỗ rẽ của cầu thang, thấy mọi người đi đến thì ngồi thẳng lưng, cung kính đợi bọn họ lại gần rồi lặng lẽ nhét hai bao lì xì đỏ chót vào tay Di Nhã và Chân Chân.

Hai người kinh ngạc, Sở Vọng nhìn thấy thì nói: “Thời thế thay đổi, thời thế thay đổi.”

Bà Cát trừng mắt với cô.

Lâm Tử Đồng đem xấp lì xì còn dư lại nhét hết vào tay Sở Vọng, đuổi theo vài bước nhỏ giọng nói: “Cậu Tạ cố ý để lại cho em đó.”

Sở Vọng kinh ngạc chỉ vào mình, quay đầu nhìn Lâm Tử Đồng, mở khẩu hình: “Em?”

Lâm Tử Đồng nghiêm túc gật đầu,

Sở Vọng nhìn nhóm người đi xuống lầu.

Tiếng cười nói dưới lầu cũng dần ngừng lại, nhóm người bắt đầu đứng dậy.

Một nhóm người nước ngoài da trắng tóc vàng nhìn chiếc váy phồng trên người Sở Vọng, vẻ mặt tán thưởng “ồ” lên, tiếng vỗ tay vang vọng khắp nơi.

Sở Vọng thầm than: đúng là hôn lễ này không phải của riêng mình cô, mà là cử hành cho người ta xem.

Tạ Trạch Ích cũng ở trong đám đông, anh mặc bộ âu phục màu xám, cà vạt tơ tằm màu đen và khoác chiếc áo gi lê màu đen bên ngoài — hình như anh đã cắt tóc, thay đổi kiểu tóc rẽ ngôi giữa trông có vẻ mất tinh thần lúc xưa, mái tóc được cẩn thận hất về phía sau và chải sang một bên, vô cùng chói mắt trong nhóm khách nam.

Anh cùng “ồ” theo mọi người, ngẩng đầu nở nụ cười với cô, vẻ kinh ngạc ẩn chứa trong mắt.

Sở Vọng cũng cười, bụng nghĩ, gì thế này? Người nhà hai bên chưa bàn bạc trước với nhau à, trang phục hai nhà không hợp chút nào cả.

Nhưng cô cũng thở phào nhẹ nhõm, cô không thể nào tưởng tượng nổi nếu một người đàn ông đậm chất Anh cổ điển mà khoác lên bộ trường bào Trung Quốc thì sẽ trông như thế nào. Có nhẽ bản thân anh cũng cảm thấy không được hài hòa cho nên tự ý đổi sang âu phục.

Hai người dừng bước nhìn nhau từ xa, mãi cho đến khi không biết bà mợ nào đứng sau lưng Sở Vọng bật khóc.

Trong phòng khách, đám khách Tây chưa bao giờ nhìn thấy cảnh tượng này, bọn họ đều bị tiếng khóc của bà làm giật mình, trố mắt đứng nhìn, xầm xì với nhau: “Sao lại khóc thế này? Không được khóc lóc thảm thiết mới đúng chứ.”

Nhưng vẻ mặt của nhóm khách nam ở Trung Quốc lại rất bình thản. Sở Vọng nghe thấy tiếng khóc sụt sùi ở sau lưng, không biết rốt cuộc là khóc mới tốt hay là không khóc mới tốt nữa. Cô buồn phiền nhíu mày, ngay lập tức lại bị Di Nhã và Chân Chân nhéo một cái đau đến hít hà, miễn cưỡng tạm cho qua.

Tạ Trạch Ích nhìn thấy cô vất vả kìm nén nước mắt thì bật cười, rồi anh bước nhanh đến trước mặt cô, kéo cô thoát khỏi bể khổ.

Trên cầu thang, mấy người phụ nữ và đám trẻ con vẫn còn đang khóc ‘gả’, không hề biết chú rể đã nắm tay cô dâu đi ra cửa.

Mọi người đứng phía sau trân trân cặp vợ chồng mới cưới này: người đàn ông cao to, bước đi khoan thai dáng vẻ lịch lãm; cô gái mang đôi giày thêu, thấp hơn anh một cái đầu, bên dưới lớp áo lộ ra bốn ngón tay thon dài trắng nõn, cô được anh nắm tay dắt đi, dẫm từng bước nhỏ tựa như hai con thoi.

Dù lễ phục của hai người không hợp nhau nhưng lại ăn ý một cách kỳ lạ.

Hai đứa nhóc nhà mợ kinh ngạc reo lên: “Ơ, sao tóc chú rể không phải màu vàng thế?” Vừa nói xong thì hai đứa bị mẹ cốc cho hai cái, òa khóc tại chỗ.

Đám đông tặc lưỡi lấy làm lạ, sau đó nối đuôi đi theo.

Cô dâu chú rể mặc kệ mọi người phía sau mà chạy ra cổng biệt thự bà Cát, ngay lập tức đã có người cầm dù đen tiến lên.

Sở Vọng vừa cúi đầu, dưới ánh nắng chói chang lại rơi xuống những hạt mưa to chừng hạt đậu, đúng là khí hậu gió mùa miền biển vô cùng đặc sắc.

Tạ Trạch Ích giơ tay ngăn lại, cản người cầm dù cách hơn nửa bước. Anh khẽ khom người, ôm cô dâu toàn thân gấm đỏ vào lòng, sải bước đi xuyên qua vườn hoa, khom người đứng bên cạnh chiếc xe Plymouth đã mở cửa sẵn, đầu tiên để cô ngồi ổn định vào hàng ghế sau, sau đó mới vòng qua bên trái, khom người ngồi vào.

Đám đông sau lưng cũng lần lượt lên xe.

Mưa mây rơi lộp độp lên mui xe, nước mưa lăn xuống cửa xe đang chuẩn bị tăng tốc, tạo nên vô số vệt nước chảy dài trên cửa.

Tóc và hàng mi của Tạ Trạch Ích đều x dính nước, anh ngồi bên trái cô, nghiêng đầu hỏi: “Em dậy lúc mấy giờ thế?”

“Không biết nữa, khoảng năm giờ thì phải?”

“Buồn ngủ không?”

Cô đang đang định lắc đầu thì lại ngáp một cái.

Tạ Trạch Ích cười, “Em vất vả rồi.” Anh nhẹ nhàng chỉnh khăn trùm lại cho cô.

Dưới lớp lông nhung trắng, gương mặt nhỏ trắng nõn ngáp một cái, đôi mắt giăng hơi sương nhìn anh.

Tạ Trạch Ích nhìn cô là lòng ngứa ngáy, thế là cúi đầu chen vào dưới khăn hôn cô.

Lái xe da ngăm người Nam Dương trêu ghẹo: “Cậu Tạ, buổi tối mới động phòng mà.”

Tạ Trạch Ích cười đáp, “Khó mà đợi được, đúng không?”

Sở Vọng uể oải nên đầu óc chậm mất nửa nhịp.

Cho đến khi anh đặt cô gối đầu lên người mình, Sở Vọng đội nguyên khăn trum dựa vào người anh mới cảm thấy nóng.

“Cùng ngủ một lát nhé?” Tạ Trạch Ích thấp giọng cười trên đỉnh đầu cô, tiếng cười cách khăn trùm đến, làm lớp lông nhung rung rung nên hơi ngứa.

Cô không dám ngẩng đầu nhìn anh, dứt khoát kéo khăn xuống dựa lên người anh giả vờ ngủ, nhưng chỉ một lát sau cô đã ngủ thật luôn rồi.

Hai người dựa vào nhau ngủ một giấc đến Shek O, đến nơi đã gần hai giờ chiều.

Xe dừng lại ở biệt thự được dùng làm phòng tân hôn trên núi Long Tích.

Tạ Trạch Ích dậy từ sớm, để cô ôm tay mình ngủ thêm một giấc nữa. Đến khi chiếc xe đi theo phía sau dừng lại, bà Cát bảo Mật Thu và Tuệ Tế đến gõ cửa xe, thấy hai người ôm nhau ngủ thì không nhịn được nở nụ cười, “Sao lại ngủ ngon thế này?”

Tạ Trạch Ích chồm người dậy, đưa tay mở cửa xe rồi ôm cô bước xuống.

Từ bậc thềm đá xuyên qua vườn hoa tường vi, nhóm nữ quyến cản anh ở ngoài cửa: “Cô dâu phải thay áo cưới, chú rể đến lễ đường trước đi.”

Tạ Trạch Ích cười đáp: “Được rồi được rồi.”

Chậm rãi buông cô ra, anh vẫn quyến luyến không muốn cất bước, đưa mắt nhìn cô dâu của anh được mọi người dìu đi qua vườn hoa rồi đi vào căn phòng hiện đại màu trắng kia.

Lúc bước vào căn phòng có cột trụ làm bằng cẩm thạch, Sở Vọng mới tỉnh táo hẳn. Cô quay đầu nhìn lại, Tạ Trạch Ích vẫn còn đang đứng đó nhìn cô.

Vừa bước vào là có thể nghe thấy tiếng sóng biển rì rào quanh quẩn trong phòng khách và hành lang. Chưa kịp bước đến bên cửa sổ cạnh biển, chỉ nhìn xuyên qua cánh cửa sổ rộng lớn thôi cũng trông thấy màu xanh của biển và của mây trời.

Nhóm nữ quyến đã chạy đến bên kia xuýt xoa khi thấy cảnh biển, Sở Vọng nhìn sang cửa sổ sát sàn đối diện vườn hoa. Xuyên qua những khung cửa, cô vẫn nhìn thấy bóng dáng của Tạ Trạch Ích thấp thoáng sau bụi hoa tường vi, tựa như nhìn thấy anh qua những thước phim điện ảnh nhuộm màu năm tháng, trên mỗi thước phim là những cảnh bất đồng.

Bỗng trong cô dâng lên cảm xúc khác lạ, cho đến khi bà Cát dẫn một bà nữa, cùng Tuệ Tế gọi cô một tiếng thì cô mới hoàn hồn, cùng mọi người bước lên lầu, lúc bấy giờ mới xua đi suy nghĩ khác thường trong lòng mình.

Căn phòng ngủ ở lầu hai rộng khoảng ba trăm feet được trang trí thành phòng tân hôn. Cô gỡ mái tóc được búi cầu kỳ của mình ra, chải lại rồi búi thành một búi giản dị, bên trên được cài thêm trang sức bằng bạch kim.

Áo cưới phải mặc từ đằng sau, Di Nhã, Chân Chân và bà Cát cùng nhau cài từng hạt nút tinh xảo phía sau váy cho cô.

Tiếp đến, cô đeo găng tay tơ tằm màu trắng vào, mang đôi giày cao gót được giấu dưới váy, Sở Vọng chưa kịp nhìn xem đôi giày màu gì, nhưng dù sao cũng chẳng quan trọng.

Đeo đôi bông tai bồ công anh lên tai, lúc Sở Vọng quay đầu, mọi người đồng loạt vỗ tay.

Bà Cát nở nụ cười đầu tiên trong suốt mấy ngày qua.

Di Nhã thở dài: “Ai mà ngờ trong ba đứa chúng ta, Sở Vọng lại là người đầu tiên lấy chồng.”

Có người không có ý tốt nhỏ giọng thầm thì: “Nghe đồn là bác sĩ bảo cưới?”

Di Nhã cười nói: “Nhìn cái eo của cô ấy kìa, chỉ sợ ăn cơm thôi cũng sợ chật nữa là.”

Chưa nói được mấy câu, bà lão kia đã mời những người không phận sự ra ngoài, lót chăn hỉ đỏ lên trên gường, sau đó rải đậu phộng, táo đỏ, hạt ngũ cốc và tiền lên.

Chờ đến khi mọi người đi ra hết, bà lão cũng lui ra, bà Cát khóa cửa phòng lại.

Sở Vọng đứng bên cửa sổ tầng hai nhìn xuống, xe của Tạ gia đã rời đi, một hàng xe khác đậu thành dãy trên đường bên ngoài vườn hoa.

Tiếng chuông nhà thờ vang lên mười bốn lần, âm thanh rất gần tựa như đang vang trên đầu cô, và cả tiếng sóng biển cùng lúc vang lên. Sở Vọng thò đầu ra ngoài cửa sổ, nhà thờ nằm ngay trên một con đường khá gần đây, chỉ khoảng mấy phút đi bộ mà thôi. Cô quay đầu lại hỏi: “Sao mình lại đi xe thế ạ?”

Bà Cát cúi đầu nhìn chiếc váy đuôi cá dài chấm đất của cô, “Cháu nói xem?”

Di Nhã và Chân Chân lần lượt giúp cô cầm váy lên, chầm chậm đi theo cô xuống lầu rồi ngồi vào xe.

Cảnh đường phố liên tục thay đổi ở bên ngoài cửa sổ, màu sắc của những ngôi nhà cũng biến thanh màu xanh đỏ trắng như phim hoạt hình. Trên đihr sườn đồi, nhà thờ tọa lạc tại một con đường ven biển.

Phần lớn mọi người đã vào nhà thờ ngồi, còn vài chục người vẫn đang tụm năm tụm ba tám chuyện dưới ánh mặt trời.

Chân Chân và Di Nhã cầm váy của cô đỡ cô xuống xe, bà Cát đi tới nói: “Nào, đến nói chuyện với ngài Hoàng đi.”

Ngài Hoàng đang đứng bên bãi cỏ nói chuyện với một vị phu nhân trung niên mặc bộ đồ nghiên cứu. Thấy cô bước đến, hai người lập tức tạm dừng cuộc trò chuyện, đồng loạt quay đầu nở nụ cười thân thiết với cô.

Cô mang giày cao gót giẫm lên cỏ bước tới, chưa đến gần thì ngài Hoàng đã mỉm cười nói, “Dì Cát đã nói với tôi rồi.” Nói đoạn, ông hếch cằm nhìn về phía mấy cây cọ xa xa, “Người cô muốn tìm ở nơi đó.”

Sở Vọng dừng bước, nhìn theo hướng ông ấy chỉ — ở đó có bốn năm người da trắng đang đứng. Bên cạnh bọn họ là một người đàn ông ngồi xe lăn đang ngồi hóng mát dưới bóng cây.

Cô ngẩn người.

Ngài Hoàng nói tiếp: “Sắp bắt đầu làm lễ rồi, đừng để mọi người đợi lâu.”

Cô lập tức nhấc váy lên, vội vàng chạy về phía bụi cây cọ.

Ở xa xa có mấy người bên viện nghiên cứu la lên bằng tiếng Anh: “Coi chừng té đó –”

Từ Thiếu Khiêm cũng lấy lại tinh thần, chậm rãi đứng dậy, một tay anh chống lên thân đại thụ, tay kia khoát với cô ra hiệu bảo cô chạy chậm một chút.

Cô bật cười, dừng lại cách Từ Thiếu Khiêm vài bước rồi thở phào lấy lại nhịp, đi từng bước về phía anh, “Thầy Từ, thầy đến rồi.”

Trên người anh là một bộ âu phục trang trọng, anh đứng lên vẫn cao hơn cô khi mang giày cao gót nhiều.

Cô cầm váy mà tay chân luống cuống, không biết phải nói gì cho phải.

Trên mặt Từ Thiếu Khiêm vẫn là nụ cười dịu dàng như xưa, “Em không mời tôi đến dự lễ.”

Lòng cô mừng rỡ: “Em xin lỗi, là em lo…”

“Không sao, chồng em đã thay em lấy công chuộc tội rồi.”

Cô sững sờ: “Anh ấy… anh ấy đến tìm thầy ạ?”

Từ Thiếu Khiêm nhìn cô, trên gương mặt hiện lên ý cười đầy thích thú. Một lúc lau sau, anh mới nói, “Ừ, chúng tôi nói chuyện một hồi lâu. Lâu rồi tôi chưa từng trò chuyện vui vẻ đến thế, đã rất lâu, rất lâu rồi.”

Nhìn nụ cười trên mặt anh, cảm xúc kỳ lạ khi đứng trong căn phòng ven biển kia lại một lần nữa xuất hiện.

Cô luôn có cảm giác Tạ Trạch Ích biết cô.

Cách đó mấy chục mét có một nhóm người đang tập trung nói về thuyết lượng tử, những người còn lại đều bắt đầu đi vào nhà thờ.

Ánh nắng chiếu xuống bãi cỏ vẫn còn ẩm ướt, mắt cá chân của cô cũng thấm ướt theo. Tất cả mọi thứ đều mang đến cho cô một cảm giác kỳ lạ, nhưng chẳng hiểu sao lại khiến cô vô cùng yên lòng.

Cô quyết định, “Mặc dù em không biết hai người đã nói gì…”

Từ Thiếu Khiêm nghiêm túc nghe cô nói.

“Nhưng em luôn cảm thấy thắc mắc, liên quan đến một lá thư,” Cô nắm tay thành đấm, đi lại gần một bước, nhỏ giọng hỏi: “Anh ấy từng có một bức thư chưa từng giao cho em, trong thư có viết một câu rất kỳ lạ.”

“Câu gì thế?”

“Ie Spectem Suprema mihi CumVeneril hari, Ie teneam mor iens deziciente manu.” Cô đọc lên với phát âm không chuẩn lắm.

Từ Thiếu Khiêm nghe xong, vẫn giữ nét mặt giống hệt trước khi nghe cô nói ra câu này.

Sở Vọng muốn nhìn thấy sự thay đổi nét mặt của anh dù chỉ là một chút xíu, kinh ngạc, do dự, hoặc trầm tư…

Nhưng đáng tiếc là không có.

Điều này có nghĩa là… anh không hề hiếu kỳ với mục đích viết lá thư này của Tạ Trạch Ích.

Nếu thế, ở mặt nào đó mà nói, điều đó cũng đã chứng minh tất cả suy đoán của cô từ trước đến nay.

Ngay sau đó, Từ Thiếu Khiêm nói tiếp một câu: “Hôm qua cậu ấy có hỏi tôi một câu.”

Sở Vọng lẳng lặng nghe anh nói.

“Cậu ấy hỏi tôi: Thế chiến thứ nhất là chiến tranh của các nhà hóa học, thế chiến thứ hai là chiến tranh giữa nhà sinh vật học và vật lý học — câu nói này nghĩa là gì.”

Quả nhiên.

Sở Vọng vùi mặt vào lòng bàn tay mình.

Nhưng câu nói ấy cũng không phải là lời dạo đầu của anh.

Từ Thiếu Khiêm ngước mắt nhìn cô, không biết là vì bối rối, xấu hổ hay giận dữ mà giơ tay bụm mặt, chợt anh nhớ đến vị khách không mời ngày hôm qua.

Cậu ta chọn thời gian và địa điểm rất tốt — ở trên đài thiên văn núi Thái Bình chống nghe trộm đứng đầu trên toàn thế giới.

Cậu ta vận dụng thân phận quan quân của mình, lấy được quyền lợi viếng thăm.

Từ Thiếu Khiêm nhìn cậu ta qua lớp gương một chiều một hồi lâu, sau đó mới chậm rãi mở cửa, đẩy xe lăn mời cậu ta vào, cậu ta cũng không chút khách khí đứng thẳng người đi theo anh vào trong.

Lúc bất động, trong cậu ta như một khẩu súng cán dài màuu đen; nhưng khi cậu ta nhúc nhích, người ngoài mới biết thực ra cậu ta chỉ đang ngủ đông mà thôi.

Cửa khép lại, cậu ta cũng không tự giới thiệu mà mở lời bằng câu: “Thầy Từ, cô ấy có thể hiểu vật lý những chưa chưa chắc hiểu chiến tranh. Xin phép cho tôi thay mặt cô ấy đến trả lời anh.”
 

Hoa Tử

Sưu tầm
Tham gia
24/9/19
Bài viết
10,493
Điểm cảm xúc
1,412
Điểm
113
Chương 136: Hợp tan (8)
Edit: Jeongie | Beta: Qin Zồ

“Chiến tranh?” Từ Thiếu Khiêm khép cửa lại, “Là kiểu chiến tranh của “những nhà chinh phục luôn yêu thích hòa bình” kia ư?”

“Đúng vậy. Ashur tấn công Duraykish, Napoleon chiếm đóng Jena, Elliot mở cửa Quảng Châu, thiên hoàng Minh Trị và Nicolas đã chiếm đoạt bán đảo Triều Tiên và bán đảo Liêu Đông ở thế chiến thứ hai. Nếu như chuyện gì cũng có thể đạt được kết quả mà không cần hao tổn binh lính thì tốt, dù sao thì “chính trị gia đều yêu hòa bình”. Có phải là ý này không, thầy Từ?” Tạ Trạch Ích không để tâm mà chỉ cười nói: “Trong mắt nhà khoa học nổi tiếng thế giới thì thấy thế nào?”

“Có lẽ mục đích của nhà quân sự và chính trị gia khác nhau, nhưng với các nhà khoa học toàn thế giới, dù có nổi tiếng hay không thì trong chuyện này cũng chỉ có một phe.” Từ Thiếu Khiêm nghiêng người nhìn anh, hơi nheo mắt, “Còn anh? Hiệp ước bảy năm, mạo hiểm để cách chức rồi vào lao ngục, phe của anh là gì?”

Tạ Trạch Ích mỉm cười, “Giống với anh và cô ấy.”

“Giống nhau?” Từ Thiếu Khiêm cũng cười, anh chậm rãi bước đến trước hình chiếu của một bản đồ, “Trong mấy trăm năm qua, lực lượng vũ trang của Anh được dùng để mở đường cho thương nghiệp, truyền bá tôn giáo, văn hóa, còn Trung Quốc vẫn đang chọn xem bị ai đánh, vì không thể thoát khỏi cục diện bị tấn công. Con người đều có bản sắc văn hóa và bản năng tìm cách hạn chế tổn thương. Tất cả những điều này, và cả nghề nghiệp của cậu đã quyết định cậu không thể nào giống bọn tôi được. Sao có thể giống nhau chứ?”

Tạ Trạch Ích xoay người theo anh, ánh sáng màu đỏ trên màn hình chiếu thẳng lên người hai người, kích thích thị giác trong thời gian ngắn.

Anh mất vài giây mới thích ứng được, nói tiếp: “Quả thực không giống nhau hoàn toàn. Người châu Âu theo đuổi chiến tranh suốt mấy trăm năm, “là sự tiếp nối của chính trị”, là “sự đả kích về lãnh thổ, tài nguyên và dân số của kẻ địch”. Chiến tranh là sự xung đột giữa hai lực lượng, có qua có lại, là so chiêu, là “mỹ học tiếp nhận”. Một trong hai phe không thể chịu nổi mà xảy ra chiến tranh. Vì thé chiến tranh cũng chỉ là một trận đi săn có quy mô lớn, đói ăn khát uống, chém giết lẫn nhau, lấy bạo chế bạo mà thôi. Đổ máu, hy sinh là lẽ tất nhiên, không có ai đáng để thương hại hay bị lên án. Trong chiến tranh bạo lực, kẻ yếu luôn bị áp đặt ý chí, không có gì đáng trách cả. Còn có cái gì tàn nhẫn hơn so với cuộc săn này của nhân loại? Và liệu có ai có biện pháp ngăn cản?”

“Đến nay vẫn chưa có ai. Dù có là nhà quân sự cao siêu nhất.”

“Có câu nói…” Tạ Trạch Ích cau mày suy nghĩ một lúc mà vẫn không nhớ được nguyên văn tiếng Trung, anh đành dùng tiếng Anh thay thế, “The Supreme art of war, is to subdue the enemy without fighting.”

“Không đánh mà có thể khuất phục được quân địch mới là nghệ thuật quân sự.”*

(*Câu tiếng Anh là bản dịch một câu trong Binh Pháp Tôn Tử.)

“Đúng vậy. Nhưng một khi khai chiến thì sẽ không còn tồn tại lý tưởng này nữa.”

“Đúng thế. Vì trong chiến tranh đầy rẫy những tình báo có tính khả thi, xác suất, may mắn và rủi ro, nguy hiểm, cực khổ, khó đoán, những âm mưu phức tạp. Nó không tồn tại cách hiểu chính xác, cũng không tồn tại giá trị tuyệt đối.”

“Vì thế chiến tranh là hoạt động gần với canh bạc nhất trong các hoạt động của nhân loại.” Anh nói, “Sự nỗ lực và thủ đoạn ngoại giao của nhà cầm quyền đều không có tác dụng, công pháp quốc tế cũng có lúc tuyên bố hết hiệu lực, trong trạng thái như thế này, chỉ có thể dùng đầu óc đánh cờ, chỉ có thể làm theo cảm tính; là trò đánh bạc bạo lực không ngừng thăng cấp, cũng như con ngựa hoang đứt cương vậy.”

Từ Thiếu Khiêm vô cùng bất ngờ, lui ghế về sau nhìn anh, ra vẻ rửa tai lắng nghe.

“Đánh bạc mà còn cần đắn đo suy nghĩ sao? Có những lúc phải cần dũng khí, dũng khí đánh cược của con bạc.”

Từ Thiếu Khiêm nghe anh ví von như thế thì cười, “Chuyện quốc gia đại sự, có quan hệ với sự sống còn của nhân dân cũng như sự tồn vong của đất nước. Nếu trận này anh đánh cược thua thì anh sẽ phải thua cả lãnh thổ, tài nguyên và tính mạng của hàng trăm vạn người.”

“Thế thì tại sao lại phải thua? Nếu không còn cách nào để không bị xâm lược, vì sao lại phải chất vấn liệu vũ lực nắm trong tay có phải là chính nghĩa hay không, là bản lĩnh hay là máu tươi? Chiến tranh không phải là cuộc quyết đấu của quý tộc, thầy Từ à, người châu Âu đã vứt bỏ găng tay trắng từ thế kỷ 17 rồi. Người Trung Quốc bị đánh trong mấy trăm năm qua vẫn còn chưa đủ nhiều hay sao, vì sao lại không chịu phản kích?” Trong mắt Tạ Trạch Ích tựa như có một ngọn lửa bùng cháy, “Thầy Từ, tôi xin mạn phép hỏi anh, lúc trước anh dẫn một đội ngũ bí mật, mang hơn một nửa hội hoàng gia Luân Đôn đến Viễn Đông là có dự tính gì, chỉ là vì binh pháp không phản kháng, không đánh mà thắng ư? Nhưng trong chiến tranh có rất nhiều tính khả thi, không thể không chế, mà nó làm theo cảm tính, là bạo lực, là chân thực, là sự đánh cược. Anh là một người có suy nghĩ lương thiện, ban đầu khi anh quyết định, sao anh có thể quyết định rằng mình ‘không cần nó’?”

Từ Thiếu Khiêm hỏi ngược lại, “Anh biết nó được bao nhiêu?”

“Bao nhiêu ư? Đơn giản chỉ là một vũ khí có uy lực cực mạnh, gấp mười, gấp trăm… ngàn vạn lần so với bom Grandslam, tôi không rõ lắm, nhưng thế thì sao? Chiến tranh chỉ đơn giản là death feast, lấy bạo chế bạo.”

“Lấy bạo chế bạo…” Từ Thiếu Khiêm không khỏi lườm Tạ Trạch Ích vì câu nói này. Anh lặp đi lặp lại bốn chữ này rồi hỏi ngược lại: “Thế cậu sẵn lòng nhìn bàn tay vợ cậu nhuốm đầy máu, trở thành vật hy sinh của trận chiến bạo lực này ư?”

Tạ Trạch Ích híp mắt, hỏi thử, “Có lẽ anh hiểu cô ấy hơn tôi nhiều.”

Từ Thiếu Khiêm nhìn anh một cách thận trọng.

Dù có lúc tiếng nói từng đụng chạm đến loại vũ khí kia, nhưng vị giáo sư trẻ tuổi này chưa bao giờ lộ ra vẻ mặt cảnh giác như thế.

Tạ Trạch Ích lập tức nhận ra ý nghĩa của vẻ mặt này, anh nói ngay, “Có vẻ cô ấy đã phải gánh vác một bí mật hết sức nặng nề nhưng lại không có người chia sẻ hay tâm sự. Với tính cách của cô ấy, dù biết đó là tội ác nghiêm trọng thì cô ấy vẫn sẽ không chùn bước. Chỉ vì cô ấy nghĩ rằng, ngoại trừ mình ra thì không có ai có thể làm việc này cả.”

Từ Thiếu Khiêm trầm giọng hỏi: “Sao cậu biết không có ai chia sẻ với cô ấy, chỉ có cô ấy mới có thể làm được?”

Tạ Trạch Ích lẳng lặng nhìn anh ấy, “Thầy Từ, anh có biết câu nói “Thế chiến thứ nhất là chiến tranh của các nhà hóa học, thế chiến thứ hai là chiến tranh giữa nhà sinh vật học và vật lý học” nghĩa là gì không?”

Từ Thiếu Khiêm không nói gì, đưa mắt ra hiệu cho anh nói tiếp.

“Nó có nghĩa là, dù biết rõ chuyến này có rất nhiều tình báo có tính khả thi, xác suất, may mắn và rủi ro, nguy hiểm, cực khổ, khó đoán, đan xen những âm mưu phức tạp. Nó không tồn tại cách hiểu chính xác, cũng không tồn tại giá trị tuyệt đối. Nguy hiểm, khó khăn trùng điệp, nhưng rồi cuối cùng cũng chỉ là phí công, là thất bại, thậm chí mang tiếng xấu đầy mình, hai tay nhuộm đầy máu, thế nhưng cô ấy vẫn làm. Cô ấy điên rồi phải không? Làm việc theo cảm tính cũng được, bạo lực cũng được, cô ấy đã đánh cược hết tất cả, chỉ vì có lẽ đây chính là điểm sáng duy nhất trong bóng tối, nhất định phải có một người theo đuổi ánh sáng, sẵn sàng tiến sâu vào đầm rồng hang cọp…” Anh khẽ ngẩng đầu, “Đây không phải là thuyết bạo lực mà là thuyết hiện sinh. Dù cho cô ấy có còng lưng, cơ thể khiếm khuyết hay chỉ còn hơi tàn… thì cô vẫn muốn sống sót, không muốn để đồng loại xâm chiếm đến cùng.”

“Cô ấy có sự dũng cảm của riêng mình. Có lẽ nơi cô ấy được sinh ra đã định trước là cô ấy sẽ không trải qua sự tàn khốc của chiến tranh và xâm lược, vậy thì cứ để tôi trải nghiệm nền văn minh giẫm đạp lên tham quan, làm một người tán thành thuyết bạo lực nói cho cô ấy biết phải tàn nhẫn thế nào. Nếu như trận này đánh cược thua thì tôi chính là đồng lõa lớn nhất của cô ấy, là tòng phạm, là đao phủ của cô ấy, cũng sẽ cùng xuống địa ngục với cô ấy.”

“Đây chính là điều mà cô ấy đã nói cho tôi biết. Trước khi gặp cô ấy, tôi sống rất tiêu cực, mất cảm giác, cũng sớm học được cách bàng quan khi nhìn tội ác cướp bóc, bóc lột trong địa ngục này. Nhưng tôi may mắn biết bao khi gặp được cô ấy, lúc ấy tôi mới hay trái tim của mình vẫn nồng cháy như xưa…”

——

“Anh ấy… còn nói gì nữa không?”

Từ Thiếu Khiêm ngẩng đầu nhìn cô, mỉm cười nói “Nói gì nữa? Gần đây thầy cảm thấy mình già rồi, trí nhớ giảm sút. Em tự đi hỏi anh ta đi.”

Tiếng chuông nhà thờ lại vang lên, cô có vẻ nôn nóng.

Cô mở miệng, nhưng Từ Thiếu Khiêm đã ngăn cô lại, “Nếu không vào nhà thờ là không kịp đâu đấy.”

Cô nản lòng, đành thôi vậy.

Từ Thiếu Khiêm cười bất lực, “Không phải em mời thầy đến làm người đưa em vào giáo đường hay sao?”

Cô sững sờ, cả người đờ ra.

Sao cô lại quên mất chuyện này chứ…

“Nhưng có lẽ thầy không thích hợp cho lắm.” Từ Thiếu Khiêm cúi đầu ra hiệu cô nhìn chân mình, cười nói, “Thầy đã tự ý mời giúp em một người thích hợp hơn rồi.”

Nói đoạn, anh lập tức quay đầu lui sau, vừa kính cẩn lại trêu chọc gọi to, “Dear Prof. Lutherford!”

“Ông tổ trong ngành” ngoái đầu lại từ trong đám đông, nhìn Sở Vọng trước tiên, sau lại nhìn Từ Thiếu Khiêm, chắp tay sau lưng rồi đi tới, “Ờ? Nghe nói tôi được đảm nhiệm làm cha nuôi?”

Sở Vọng nhìn người đàn ông với bộ râu quai nón muối tiêu kia, kích động đến nỗi run rẩy tay chân.

Rutherford cười nói với Từ Thiếu Khiêm, “Xem ra học trò của học trò của tôi không thích tôi mấy.”

Sở Vọng vội vàng lắc đầu, nước mắt nhanh chóng trào ra, “Chỉ… chỉ là em vui quá thôi!”

Từ Thiếu Khiêm dùng tiếng Trung tinh nghịch nói, “Thần tượng của em, chính là Grandmaster của em.”

Sở Vọng bật cười thành tiếng, cô rất vui.

Rutherford lịch sự vươn tay cầm tay cô, chậm rãi đi về phía giáo đường.

Đám người sau lưng cũng từ từ đi theo.

Trước cổng nhà thờ, một cô gái da trắng tóc vàng, dáng người cao cao dẫn hai “cục bột” mặc lễ phục đi đến, đưa bó hoa bách hợp cho cô, sau khi ôm tạm biệt cô và Rutherford thì lén rời đi từ cửa hông.

Từ cửa có thể nhìn thấy huân tước Tạ đang đứng trong nhóm ở một góc hẻo lánh, rạng rỡ trò chuyện với thống đốc; Tạ Trạch Ích đang bình thản đứng chờ ở trong nhà thờ; nhóm người trong trang phục xinh đẹp đang xầm xì với nhau, thỉnh thoảng còn có tiếng cười của các cô gái…

Hoa đồng nhặt váy cô lên, Sở Vọng và Rutherford cùng nhau mở cửa bước vào…

Trong nháy mắt, mọi người quay đầu lại, bầu không khí trở nên yên tĩnh.

Ánh nắng chiếu vào lớp kính thủy tinh nhiều màu, rơi xuống thảm đỏ trên mặt đất rồi hắt lên người cô.

Tạ Trạch Ích cũng ngoái đầu, bình tĩnh nhìn cô, anh đứng im nơi đó, từ đầu đến cuối mang theo ý cười.

Trong đầu cô nhớ đến những lời mà Từ Thiếu Khiêm và cô đã nói với nhau, cô nhìn về phía Tạ Trạch Ích, trái tim nảy thình thịch. giống như đang bước qua đường hầm thời gian đi về phía anhthế nên con đường này mới như thể dài một trăm năm…

Thậm chí cô không hề biết cha xứ đã hỏi, “Ai sẽ trao cô dâu cho chú rể?”

Rutherford nói, “Tôi, Rutherford, lấy danh dự của hiệp hội hoàng gia xin trao cô dâu lại cho chú rể.”

Đám đông bỗng truyền đến tiếng thét nho nhỏ——

“Trời ạ, hội trưởng hội hoàng gia Luân Đôn!

“Giáo sư Rutherford!”



Sở Vọng lấy lại tinh thần, dưới tiếng thổn thức và ánh mắt đầy hâm mộ của mọi người, bàn tay phải của cô đã được Rutherford đặt lên tay Tạ Trạch Ích.

Cô nghe cha xứ hỏi Tạ Trạch Ích, “Con có đồng ý lấy cô gái trước mặt này làm vợ hay không?”

Cô nghe thấy anh đáp, “Con đồng ý.”

Sau đó anh nói tiếp, “Dù nghèo khó hay giàu sang, du bệnh hoạn cũng như lúc mạnh khỏe, khi thịnh vượng cũng như lúc gian nan, dù xinh đẹp hay nhan sắc đã phai, Tạ Trạch Ích xin hứa sẽ luôn yêu thương, tôn trọng, chăm sóc cô ấy, sẽ giữ lòng chung thủy với cô ấy suốt cuộc đời này, mãi mãi không hối hận.”

Cha xứ bất lực, mọi người đều bật cười vì sự nôn nóng của anh.

Trong tiếng cười vui vẻ, ánh mắt Tạ Trạch Ích chưa từng rời khỏi cô, ngữ khí nhẹ nhàng nhưng lại chắc chắn.

Cha xứ chuyển sang cô, thậm chí không biết ông đã lên tiếng hỏi hay chưa, trong sự hỗn độn, cô chỉ nghe thấy mình chậm rãi đáp lại ông, “Con đồng ý.”
 

Hoa Tử

Sưu tầm
Tham gia
24/9/19
Bài viết
10,493
Điểm cảm xúc
1,412
Điểm
113
Chương 137: Hợp tan (9)
Edit: Jeongie | Beta: Qin Zồ

Trở về hoa viên sau khi buổi lễ kết thúc, trời đã ngã sang màu quýt chín rực rỡ lúc xế chiều. Mấy người hầu Nam Dương da đen của nhà họ Tạ nâng rượu khai vị đi vào vườn hoa cạnh bờ biển, để khách mời mỗi người lấy một ly rồi đi dạo qua những hàng cây thiên tuế, giàn tường vi và lướt qua bãi cỏ lưu ly, cuối cùng là ăn tối ở cạnh bàn lớn dưới ô che bên bờ biển.

Vừa quay lại nhà mới, Sở Vọng được Tuệ Tế dẫn lên lầu thay lễ phục và làm tóc.

Kiểu tóc ấy vô cùng phức tạp. Chờ đến khi chải tóc xong, cô thay một bộ lễ phục bằng lụa taff rồi xuống lầu thì người hầu đã mang điểm tâm ngọt và rượu khai vị vào hoa viên.

Cô tiện tay lấy một miếng bánh Opera và một ly rượu màu xanh, nhưng mới ăn hết hai miếng bánh thì ly rượu trong tay đã bị người khác lấy đi mất. Sở Vọng ngẩng đầu, Tạ Trạch Ích chân thành nói với cô, “Em uống ít thôi.”

Ly rượu bị anh đưa lên quá đầu, Sở Vọng giơ tay đoạt mấy lần nhưng đều thất bại.

Cô ngẩng đầu nhìn anh, định hỏi anh vấn đề đã khiến cô hoang mang cả một buổi trưa.

Sở Vọng chưa bao giờ vội vàng muốn có cơ hội được ở riêng với Tạ Trạch Ích như bây giờ, đáng tiếc cả ngày hôm này, hễ hai người cùng nhau xuất hiện là lại khiến mọi người chú ý, không phải là lúc thích hợp để trò chuyện.

Lần chạm mặt này vô cùng khéo, khiến cô không biết phải bắt đầu từ đâu.

Tạ Trạch Ích nhìn cô chăm chú một hồi rồi uống cạn ly rượu trong tay, thừa dịp cô đang nhìn anh thất thần, anh nâng đầu cô lại gần rồi hôn lên.

Trong chớp mắt, vị cay nồng kèm theo vị bơ trên môi cô đã đánh chiếm toàn bộ nụ vị giác của cô.

Trong khi vị giác, thị giác lẫn xúc giác bị kích thích, cả người cô bị nhấn chìm trong sự kinh ngạc.

Môi Tạ Trạch Ích rời khỏi môi cô, anh liếm vị ngọt còn sót lại trên môi, nói, “Hóa ra Trinity phải uống như thế.”

Rồi anh kéo tay cô đi đến bãi cỏ được thắp sáng bởi những ngọn đèn dầu.

Vừa nhìn thấy cô mặc lễ phục dạ hội bước đến, ánh mắt của các bà nhà giàu đang ngồi như sáng bừng lên, kinh ngạc nhìn về phía cô.

Trong tiếng trầm trồ, không biết từ lúc nào cô đã đi theo anh vào giữa sân.

Điệu nhảy đầu tiên phải do cô dâu và chú rể lên sàn, nếu không thì buổi khiêu vũ sẽ không thể chính thức mở màn. Nhạc Jazz lập tức vang lên ngay khi hai người tiến vào giữa sân, dưới ánh đèn, mọi người tản ra nhường lại sàn diễn cho hai người.

Dưới ánh mắt chăm chú của bao người, cô cảm thấy eo mình bị anh siết chặt, nhiệt độ ấm áp từ cơ thể anh truyền đến. Tạ Trạch Ích hơi khựng lại, nhìn xuống bên dưới nách cô…

Phần nách của bộ lễ phục không tay này khá rộng, từ dưới nách khoét một chữ V thật sâu kéo thẳng xuống eo. Lúc nãy cô ở trong chỗ tối nên không phát hiện ra, lúc vào sàn nhảy, đứng gần một chút đều có thể nhìn thấy phần da thịt trắng nõn chưa từng bị phơi nắng của cô, khi cô giơ tay lên, mọi người có thể nhìn thấy sự đầy đặn nữ tính và đường cong lả lướt của cô…

Nhận ra động tác anh khựng lại, sau đó cánh tay đặt trên eo cô khẽ dời lên trên, khép hai tay che lại khoảng trống lớn của phần nách áo. Sở Vọng đang định ngẩng lên nhìn vẻ mặt của anh, nhưng ngay lập tức, anh nâng dưới nách rồi ôm cô lên khiến mũi chân của cô cách mặt đất một khoảng.

Trong phút chốc hốt hoảng vì mất thăng bằng, anh bế cô xoay một vòng trên bãi cỏ. Mọi người kinh ngạc thốt lên, ngay sau đó tiếng ủng hộ vang lên khắp nơi. Tạ Trạch Ích không đáp lại, anh đặt cô xuống đất, kéo tay cô đặt vào tay Tuệ Tế đang một bên, nhỏ giọng dặn dò, “Đưa cô ấy về phòng nghỉ ngơi trước.”

Tuệ Tế nghe thấy thế thì còn kinh ngạc hơn cả Sở Vọng, nhưng nghĩ khiến anh thất lễ trước các khách mời thì lại không tốt, thế nên cô ấy đồng ý ngay.

Tạ Trạch Ích nhỏ giọng nói, “Chờ anh một lát.”

Cô gật đầu, “Vâng.”

Hai người vẫn còn đang nhìn nhau trên bãi cỏ, Tuệ Tế kéo tay cô, nói, “Không sao đâu, nhất định cậu Tạ có thể đối phó với các khách mời.”

Nhạc Jazz chỉ vừa nổi lên, nhưng cô cũng cảm thấy mình đã quét sạch hứng thú của mọi người.

Lúc quay người đi theo Tuệ Tế lên lầu, cô nghe thấy Tạ Trạch Ích bình tĩnh tạ lỗi với người khác, “Cô ấy uống rượu nên có hơi chóng mặt… Rượu gì à? Absinthe.”

Cho đến khi lại gần tiền sảnh, gió biển vù vù thổi vào cửa sổ, rồi lùa vào trong váy qua chỗ hở bên eo thì cô mới lấy lại tinh thần. Cái anh này thật đúng là…

Cô không biết làm sao với hành động này của anh, nhưng trong lòng vừa nghĩ đến, trên mặt lại nở nụ cười.

Xuyên qua hành lang, cô chạm mặt với bà Cát và bà cụ dữ dằn ban sáng. Vừa thấy cô, bà Cát hỏi cô, “Sao lại không khiêu vũ thêm tí nữa rồi lên?”

Tuệ Tế cười nói: “Có lẽ cậu Tạ thấy bộ lễ phục này lộ quá, không hợp.”

“Cái này mà không hợp à?” Bà Cát ngẩng đầu suy nghĩ một lát, tức giận bật cười, “Để tôi xem lát nữa cậu ta có thấy hợp hay không?”

Vừa nói xong, cửa phòng bị khóa từ giữa trưa được bà lão ấy giữ chìa khóa đã được mở ra, bà lão không nể nang ai mà bước thẳng vào phòng.

Lúc vào phòng, bà Cát nói nhỏ với cô, “Đây là người toàn phúc nổi tiếng ở Quảng Đông.”

“Người toàn phúc?”*

(*Người toàn phúc là chỉ người may mắn trên có cha mẹ dưới có con cái, vợ chồng ân ái anh em thuận hòa. Theo tập tục cưới trong dân gian, lễ cưới cần có người toàn phúc lo liệu để cầu chúc tân lang tân nương như ý cát tường.)

“Năm nay bà ấy đã tròn tám mươi mốt tuổi.”

“Đúng là phúc lớn…” Ở thời đại này mà có thể sống đến bao nhiêu đây tuổi cũng không dễ dàng gì.

“Cha mẹ, chồng đều khỏe mạnh, con trai con gái đầy đủ, gia đình tứ đại đồng đường, con cháu đầy nhà.”

“Quả là có phúc lớn!” Sở Vọng không biết nói gì cho phải, đành phải khen thêm một lần nữa.

Bà Cát trừng mắt nhìn cô, hỏi ngược lại: “Còn cháu đó, dự định thế nào?”

Cô lập tức nghẹn họng, ngoảnh mặt đi chỗ khác quan sát căn phòng.

Tuệ Tế cười trộm.

Bà lão toàn phúc không biết làm gì ở sau tấm bình phong mà chỉ nghe tiếng nước chảy ào ào, căn phòng bắt đầu tản ra hương vị chát chát của bưởi chưa chín.

Chưa đầy một lát, bà toàn phúc đi đến nói, “Được rồi, mời cô gái vào tắm rửa.”

Bà Cát gật đầu với cô, ý bảo cô đi qua đó.

Cô đi đến phía sau tấm bình phong, sau rèm cửa màu đỏ có đặt một thùng gỗ cổ xưa khá to, lá xanh bập bềnh trên mặt nước, hơi nước nóng bốc hơi lên từ trong thùng gỗ, mang theo mùi hương của quả bưởi.

Cô nghe thấy bà lão kia nói, “Cởi đồ ra đi.”

Cô choáng váng, mặc dù đã nghe bà Cát nói sơ qua về tập tục này, nhưng bảo cô cởi sạch đồ rồi tắm rửa trước mặt một bà lão chỉ mới gặp lần đầu thì xấu hổ quá.

Có lẽ tính tình của người may mắn cũng quái gở, chưa đầy ba giây, bà lão đã hét lên, “Cởi đồ ra!”

Cô bị dọa đến giật cả mình, sợ mình làm gì khiến người ta không vui, bèn khom người cởi nút thắt trên eo, cởi váy dài ra đặt lên trên ghế nhỏ. Lúc cởi yếm ra, bà lão ghét bỏ ném lễ phục cô vừa thay ra cho Tuệ Tế cầm đi.

Nhân lúc bà ấy quay lưng đi, cô bước vào trong thùng, không để mặt nước đầy lá bưởi ngập quá người, chỉ để lộ ra cái mũi và đôi mắt.

Bà lão tòa phúc xoay đầu lại lạnh lùng cười, “Mấy cô gái gầy như que củi như các cô, bà đây cả đời gặp qua không tới một vạn thì cũng tám ngàn người. Có cái gì đâu mà còn ngại?”

Sở Vọng không khỏi kính sợ bà lão vài phần, ngoan ngoãn để bà ấy tắm rửa giúp mình.

Nhưng nội việc gội đầu không cũng mất nửa tiếng, sau đó là cổ, bả vai, lưng, hai tay. Lúc xoa ra trước, nội tâm cô cố gắng bình tĩnh, nhưng cảm nhận hai tay bà lão khẽ động, sau đó còn cười, “Hừ, tính ra cô cũng có mấy lạng thịt ấy chứ.”

Sở Vọng, “…”

Bà lão tẩy sạch eo và mông cô, bàn tay hướng xuống phía dưới tìm tòi. Mặt Sở Vọng đỏ bừng bừng, rụt người lại đưa tay ngăn bà, “Để… để cháu tự làm là được.”

Cô đã xoay người đưa lưng về phía bà lão, nhưng bà vẫn không chịu buông tha mà còn nhắc cô, “Phải cẩn thận đấy, đừng có mà qua loa.”

Sở Vọng không ngờ mình lại có ngày bị một là lão tám mươi tuổi làm cho xấu hổ. Ngay lúc này cô không biết phải làm sao, chỉ mong bà ấy có thể im lặng.

Vừa quay người lại, bà lão lập tức kéo hai chân cô đặt lên cạnh thùng gỗ, bắt đầu xoa bóp từ dưới lên trên giống như đang tẩy sạch sẽ.

Lau khô người xong, cô khoác áo choàng tắm ngồi trước gương, cả người toát ra hương thơm tươi mát.

Cửa sổ hướng biển được mở ra, ánh trăng sáng hiện lên trên mặt biển. Trên bàn được đặt một cặp nến, sau khi thắp nến lên, trước nến được đặt ba chén chè trôi nước, một khay đủ đủ, một chén xá xíu và một con gà luộc. Trên vải đỏ được đặt theo thứ tự một cây lược gỗ, một cây lược dày và một hộp kim khâu, một dây buộc tóc màu hồng, một cái kéo và một cây thước.

Tóc của cô đã được lau khô, bà lão cầm lược và lược dày, cực kỳ kiên nhẫn giúp cô chải đầu. Tuệ Tế đã rời khỏi từ lúc nào, chỉ còn mỗi bà Cát đứng dựa bên cửa nhìn từ xa.

Mãi đến khi cô cứ nghĩ cô sắp bị chải đến rụng hết tóc thì bà lão mới dừng lại, sau đó bà ấy lấy dây buộc tóc nhẹ nhàng buộc lên cho cô, búi ra sau đầu.

Sau khi làm xong, đợi cô thành tâm lạy ba lạy với ánh trăng trước cửa sổ, lúc đứng dậy thì tất cả đồ ở trên bàn đã được mang đi.

Tuệ Tế đứng ở ngoài đi tới, đem mấy đồ vấn tóc đi theo sau bà lão ra cửa, sau đó khép cửa lại.

Bà Cát ôm một chồng đồ trong tay đi tới chỗ cô.

Đầu tiên là một bộ nội y chất liệu vô cùng mềm mại, không biết được dệt từ lụa taff và lụa gì, vừa trắng vừa nhỏ, bên trong kèm theo thêm mấy bộ đồ gì đó ôm người màu đen.

“Thay xong thì đưa áo choàng tắm cho cô.” Bà Cát nói.

Cô gật đầu, quay lưng đi cởi dây buộc áo choàng tắm, bà Cát đặt món đồ đang cầm trên tay xuống bàn, rồi thay cô đóng cửa sổ lại.

Cô chậm rãi sắp xếp lại mấy bộ đồ kia, kinh ngạc không thôi.

Quần áo màu đen là nội y tơ tằm cực mỏng. Quần lót rất thiếu vải, từ đường nhân ngữ chỉ có một sợi dây rất nhỏ, bên cạnh xương hông được thắt thành nơ con bướm mới có thể cố định lại; áo lót được cài khóa trước, mặt dây chuyền bằng bạc xuyên qua cái khóa rơi lên trước ngực, hai phần bầu ngực được kéo dài ra như hai cánh bướm mỏng manh, dừng lại tại chỗ nhấp nhô của phần ngừng, dây lụa mảnh vòng qua đầu vai kết thành nơ bướm. Bên ngoài là một bộ váy ngủ màu trắng đơn giản mềm mại và trong suốt như áo lụa, vừa vặn che đi bờ mông của cô. Xuống một chút nữa, đôi vớ màu đen qua mắt cá chân khoảng ba, bốn centimet, hơi rộng. Ngoại trừ tất chân, tất cả quần áo đều vừa nhỏ vừa ôm, không biết có phải dựa theo dáng người của cô để làm hay không mà khi mặc vào vô cùng thoải mái, tựa như dán lên da cô.

Nói tóm lại, đây là một bộ nội y tình thú vô cùng tao nhã.

Cô vừa ngẩng đầu là có thể nhìn thấy một cái gương toàn thân, nhưng cô không thể nào ngẩng đầu lên được, vì bây giờ cô không có cách nào nhìn thẳng vào chính mình.

Bà Cát im lặng một hồi lâu rồi mới nói, “Cháu biết phải làm sao rồi chứ?”

Sở Vọng bình tĩnh đáp lại, “Dạ biết.”

Bà Cát nhíu mày, tra hỏi ngay, “Từ đâu mà biết, ai nói với cháu?”

Sở Vọng, “…”

Bà Cát nhìn chằm chằm cô một hồi lâu, lửa giận hừng hực hiện lên trong đôi mắt, bà nhịn một hồi mới nói, “Cô không quản cháu có… có biết hay không, lát nữa tự mà xem sách.”

Sở Vọng, “… Dạ.”

Bà Cát lấy một quyển sách từ trong hộp gỗ ra đặt lên bàn, dùng hộp gỗ chặn lại một góc, lúc quay người rời đi còn nói thêm, “Bà lão vừa nãy khen cháu, nói ngực cháu rất đẹp.”

Sở Vọng, “… Ngay cả cái này mà bà toàn phúc cũng quản à.”

Bà Cát cúi đầu suy nghĩ một lát, cho đến khi phát hiện ra mình không còn gì để truyền thụ thì mới mở cửa rời đi, khóa cửa lại từ bên ngoài.

Sở Vọng thở phào nhẹ nhõm, bắt đầu quan sát trang trí nhà mới của mình.

Căn phòng khá rộng, tất cả đồ gia dụng đều là màu đỏ tía của gỗ hồng, không thấy vết tích ghép lại, cũng không thấy trạm chỗ gì, kiểu dáng có thể nói là phong cách kiểu Trung điển hình.

Giống với đồ gia dụng, không biết là vì nhà mới hay là cố ý mà căn phòng bây giờ trống rỗng, trong phòng tắm ngoại trừ tấm bình phong ra thì có thùng tắm, bồn cầu, chậu rửa mặt; trong phòng cũng chỉ đặt một cái giường, một cái bàn và một cái tủ quần áo khá cao với một cái gương toàn thân.

Cô kéo hết các ngăn kéo ra xem hử, không có phát hiện bất ngờ nào —— tất cả đều rỗng tuếch, ngay cả một hạt bụi cũng không thấy.

Trên giường có một chiếc hỉ mỏng như chăn điều hòa, bên trên rải đầy hoa quả khô, dáng vẻ từ chối mọi người từ xa, khiến mọi người không dám làm lộn xộn hình dáng ban đầu của nó.

Sở Vọng quay lại trước cửa sổ đối diện ánh trăng bên ngoài, cách một cái bàn, cô đẩy nó ra, thở dài một hơi, mái tóc khẽ lay trong làn gió mang theo hơi ẩm, cô quay người ngồi lên mép bàn.

Tất cả mọi việc xảy ra ngày hôm nay, cô cứ ngỡ mình đang ngồi trên cáp treo, vượt qua một đỉnh đồi rồi sau đó lại rơi thẳng xuống, trái tim treo trên cao cũng rơi xuống, hô hấp cũng theo nhịp tim mà ngừng lại; khó khăn lắm mới trượt đến một cái dốc thoải, đang chầm chậm lại không biết sao lại nhảy lên đến đỉnh cao nhất… Giờ phút này, cô ngồi trên hàng đầu tiên, không thể không nhìn thẳng xuống vách núi dựng đứng gần chín mươi độ bên dưới.

Tựa như giấc mộng, nhưng nó lại quá chân thực, tựa như lái xe sau khi say, chấn động lòng người nhưng lại lâng lâng. Tạ Trạch Ích nói không sai, cô có hơi choáng váng rồi.

Cô muốn tâm sự với anh, tâm sự về bản thân cô, về thời đại của cô, nhưng cô lại không tìm được cơ hội. Hôm nay cô và anh là nhân vật chính, khán giả bên dưới rất nhiều, không để cho cô có cơ hội nói thật —— nói đúng hơn là, khán giả bên dưới đã che chở cho cô, không để cho cô cưỡng ép bản thân đối mặt với một Tạ Trạch Ích đã hiểu rõ chính mình.

Cô chỉ biết hận cái người rõ ràng đã hiểu hết tất cả những lại giả vờ ngốc đến tận bây giờ, để cô tin là thật chơi đùa đến hôm nay.

Nếu nói thật, cô phải nói từ đâu mới tốt đây? Nói cô sinh ra vào bảy mươi năm sau, hiểu rõ thời đại này như lòng bàn tay, chưa từng yêu đương ư?

Chỉ nghĩ thế thôi mà lòng cô đã bị chính bản thân mình dọa đến nổi tim đập thình thịch.

Cô vùi mặt vào lòng bàn tay trầm tư thật lâu. Tiếng nhạc bên ngoài vẫn còn vang lên thấp thoáng, tiếng cười của đàn ông và phụ nữ thỉnh thoảng hòa vào tiếng sóng biển truyền đến.

Cho đến khi cô nghe thấy tiếng bước chân từ cuối hành lang vang lên, từng bước từng bước như giẫm lên trên nhịp tim của cô.

Cô ngẩng đầu lên.

Ở góc độ này, cô có thể nhìn thấy bản thân mình từ tấm gương to.

Ánh trăng chiếu vào căn phòng, chiếc áo trắng như trở nên vô hình dưới ánh trăng, làn da trắng nổi bật mang theo một sự ấm áp, da trắng tựa tuyết; gió biển khẽ thổi vào, cũng làm lay động lớp áo rộng rãi khiến lòng người gợn sóng, từng đợt từng đợt dán sát vào cơ thể cô rồi di chuyển vào phòng, cơ thể cô cũng theo đó mà khẽ lấp ló, tựa như muốn nhảy ra khỏi y phục. Hai nơi trước ngực không chỗ che đậy, đôi chân dài bóng loáng. Xuống phía dưới, làn da lộ ra dưới tất chân khiến người khác không có cách nào tập trung, hình dáng xinh đẹp như ẩn như hiện, ngay cả Sở Vọng cũng cảm thấy rung rinh với bản thân, dường như nhịn không được mà cúi người, cách một lớp tất chân kiểm tra lòng bàn chân của mình.

Mái tóc dài đen nhánh được bà lão toàn phúc chải đến vừa mượt vừa bóng, hai đầu sợi dây đỏ buộc mấy lọn tóc lại,bị gió thổi về phía trước, dán lên hai gò mái của cô.

“Thật là giống món quà được gói kỹ quá…” Sở Vọng cảm khái.

Cô đang suy nghĩ, ánh nến trước cửa khẽ loáng một cái, dọa cô hết hồn.

Ánh nến chập chờn nhưng dường như càng thêm sáng sủa, hắt lên người cô càng thêm hồng hào.

Tiếng chìa khóa vang lên xột xoạt, một giây sau, cửa được mở ra.

Tạ Trạch Ích đẩy cửa ra, anh cũng chỉ mặc mỗi một cái áo sơ mi mỏng, còn chưa đi tới nhưng ánh mắt từ xa đã dừng trên người cô hồi lâu.

Sở Vọng cũng nhìn anh, tựa như cáp treo đã lên đến điểm cau nhất, hoặc như lái xe khi say, bảng đồng hồ hiển thị tốc đọ ba trăm dặm, đầu óc choáng váng, nhịp tim nhay đến nỗi có thể ngừng đột ngột, đôi mắt chỉ biết sững sờ nhìn sàng không biết phải làm sao, không dời ánh mắt đi được, cũng không mở miệng lên tiếng được =.

Tạ Trạch Ích cười nói, “Em mặc ít như thế không lạnh ư?”

Cô nhìn anh chăm chú, lắc đầu rồi lại gật đầu.

Anh suy nghĩ một lát, rồi hỏi, “Uống chút rượu nhé?”

Chưa đợi cô mở miệng trả lời, anh đã quay người không biết đi đâu.

Tiếng bước chân vang lên, không đầy một lát, tiếng bước chân nặng nề quay trở lại.

Tạ Trạch Ích mang theo hai bình rượu đến, đưa khuỷu tay mở cửa. Anh quay người, đi thẳng đến, đưa tay kéo ghế đối diện cô rồi ngồi xuống, anh khẽ lắc bình rượu, ngẩng đầu hỏi cô, “Em có biết nó không?”

Cô cúi đầu, thuần thục điểm danh từng món, “Whisky, Armagnac, Grappa, Brandy.”

Tạ Trạch Ích ngẩng đầu nhìn cô, lẳng lặng nghe cô nói rồi mỉm cười, “Ừm, em đều nhận ra hết.”

Việc đã đến nước này đã không cần phải nói nữa.

Giari phóng bản thân, ai mà không biết? Mở đầu cứ chơi lớn một chút, chơi một trò chơi có thể triệt để thẳng thắn.

Thế là cô không quan tâm nữa, thử hỏi anh, “Hay là… chúng ta chơi trò chơi nhé?”

“Chơi gì?”

Cô nói, “Mỗi người hỏi một câu hỏi, nếu không dám trả lời thật thì phải uống rượu.”

Tạ Trạch Ích đặt tay lên gối, nở nụ cười một là một, đáp, “Được thôi.”
 

Hoa Tử

Sưu tầm
Tham gia
24/9/19
Bài viết
10,493
Điểm cảm xúc
1,412
Điểm
113
Chương 138: Hợp tan (10)
Nụ cười của anh quá đỗi bình tĩnh, khiến cô có cảm giác không biết có phải anh đang giở trò không.

Sở Vọng muốn tìm thử manh mối trong đó nhưng đáng tiếc, mỗi lần anh cười là lại khiến người ta đứng hình.

Cô nghĩ rồi nói, “Ai hỏi trước đây?”

“Ưu tiên phái nữ?”

“Được.”

Sở Vọng ngoẹo đầu nghĩ, lại cảm thấy người hỏi đầu tiên thì có phần thiệt, vậy là lập tức đổi ý: “… Đợi đã, phái nữ xin ưu tiên phái nam.”

“Được.” Tạ Trạch Ích cười, nhìn cô không chớp mắt, “Có đói bụng không, có muốn ăn gì không?”

“Em ăn bánh rồi, không đói.” Cô đáp quả quyết.

“Ừ.”

“Ừ?”

“Hỏi xong rồi.”

“…” Cô tức giận, “Trò này đâu phải chơi như vậy, anh phải hỏi điều anh thật sự muốn hỏi, không thể nhường em được.”

“Đó là điều anh muốn hỏi.”

“Phải cố gắng tìm câu hỏi làm khó người trả lời, làm người ta do dự.”

“Ví dụ như?”

“Ví dụ…” Cô nghiêng đầu trầm ngâm, ví dụ như gì nhỉ?

“Em tên gì?”

“Hả?”

“Cho anh biết tên của em.”

Cô hoàn hồn, trả lời, “Lâm trí.” Cô muốn nói với anh là chữ Trí trong “Trí dĩ kỳ ung phòng tây khương”, cũng là Trí trong “Hà dĩ trí khấu khấu”, nhưng lời đến bên môi lại thành, “Trí, chính là ‘to’ trong ‘to someone’.”*

“Lâm Trí.”

“Ừm.”

“Lâm Trí…”

Anh nghiêm túc gọi tên cô hai lần bằng chất giọng trầm ổn, khiến lòng cô râm ran.

Cảm giác này tựa như vị lữ khách cô đơn đang phiêu bạt nơi xứ lạ, chợt có người thân thiết gọi tên tục. Điểm khác với Từ Thiếu Khiêm chính là, cô chỉ là kẻ tạm trú, từ trong ra ngoài đều được tư tưởng của anh mài giũa, tình cờ có thể nếm được bát thức ăn quê nhà ấm áp, thế nhưng lại không thể dừng chân. Tới khi ăn xong vẫn phải vác bọc đồ lên đường, bước vào màn đêm mịt mù sương tuyết.

Song lần này, người trước mặt lại đỡ lấy bọc đồ của cô vác lên lưng mình, trên mặt mỉm cười, dịu dàng nói: “Có mệt không? Hoan nghênh em về nhà.”

Nước mắt cô chực trào.

Miệng mở to, nhưng âm thanh lại như biến mất, “Đến lượt em.”

“Ừ.”

“Những lời em nói ở trường đua ngựa anh đều nghe hiểu, nhưng vì sao lại giả vờ không hiểu?”

“Sợ dọa em.”

“Sao anh biết sẽ dọa được em?” Không phải người nên bị dọa là anh sao?

Tạ Trạch Ích nghĩ ngợi, làn mi cụp xuống, sau đó cười nói, “Trước khi đẩy cửa ra anh có định hỏi thật, nhưng tới khi đi vào phòng bệnh, thấy em nhìn anh như thế, cứ như đã làm sai chuyện… Em biết ánh mắt mình lúc đó trông như thế nào không? Anh chỉ sợ nếu mở miệng sẽ làm em bỏ trốn mất.”

Cửa sổ để mở, gió biển lùa vào, cô lập tức đổi tư thế thoải mái, đứng dậy ngồi trên bệ cửa trò chuyện với anh.

Trong khoảnh khắc Tạ Trạch Ích nhìn cô, anh thoáng thất thần.

Cô nhắc nhở, “Đến lượt anh rồi.”

Anh hoàn hồn, nghĩ rồi hỏi, “Có sợ không?”

“Sợ gì?” Cô cười, hỏi ngược lại.

Cô biết anh đang hỏi chuyện gì. Sợ gì? Sợ quê hương bị tàn sát, sợ không còn đồng loại; sợ cô đơn, sợ lủi thủi một mình ở nơi loạn thế này, sợ bị coi là dị loại, sợ bị xuyên tạc, sợ bị hiểu lầm. Nhưng không phải anh cũng như vậy sao, cô đã biết điều ấy từ khoảnh khắc anh đứng trước cổng hội đồng khu bộc bạch. Nơi trái tim hướng đến chính là nhà, là mảnh đất dưới chân cô, là người đàn ông trước mặt, từ nay về sau chẳng sợ cô đơn.

“Đây là câu hỏi của em?”

“Không phải! Em vẫn chưa hỏi mà!”

Tạ Trạch Ích không nhanh không chậm nói, “Được, hỏi lại đi.”

Cô ngoẹo đầu nghĩ rồi giảo hoạt cười, “Đã có bao nhiêu cô bạn gái rồi?”

Tạ Trạch Ích cười với vẻ bất đắc dĩ.

“Anh có thể không trả lời,” Cô đắc ý, đưa ly hổ phách to bằng nắm đấm đến cạnh anh, “Uống đi.”

Anh nhận lấy nhưng đặt sang một bên, chậm rãi trả lời, “Bốn người.”

Cô không nén nổi tò mò, vươn người tới trước truy hỏi: “Ngoài Mã Linh và cô gái ở bờ Đông ra thì ai nữa?”

Tạ Trạch Ích cười nói, “Hai người.”

Cô tự biết mình lỡ lời, mất mát lùi về sau ngoan ngoãn ngồi yên, “Được được. Anh hỏi đi.”

Chỉ vừa ngồi xuống bệ cửa thì đã nghe thấy anh hỏi tiếp, “Một cô gái ở trường nữ St Martha’s cùng một cô gái ở trường Hiệp hội Cứu trợ New York. Là khách qua đường cả, chuyện cũng không có gì. Còn không ấn tượng bằng món hoành thánh tôm tươi ăn ở tiệm ăn do cha mẹ cô ấy mở trên phố người Hoa tại New York.”

Thật ra cô không quá hứng thú về chuyện này lắm, chỉ có chút xíu đó thôi, cũng chỉ tò mò về phản ứng của anh sau khi nghe thấy câu hỏi. Có lẽ sẽ khó trả lời đây, cô nghĩ, nhưng không ngờ chưa tới mười giây mà đã đưa ra câu trả lời rất thẳng thắn như vậy, thế là gật đầu khoát tay, coi như bỏ qua cho anh, “Đến lượt anh.”

“Ừ.” Anh ngẩng đầu lên, bình thản hỏi, “Còn em?”

Cô không ngờ anh lại dùng câu hỏi của cô hỏi ngược lại, trong lòng khiếp sợ nhưng ngoài mặt vẫn bình tĩnh trả lời, “Không có ai cả, chỉ có anh. Hai đời cộng lại cũng chỉ có một mình anh.”

“Ừ.”

Cô suy nghĩ rồi cảm thấy không đúng, “Anh Ngôn Tang là vị hôn phu trời ban cho em, em rất tôn trọng anh ấy, nhưng còn chưa có suy nghĩ quá giới hạn thì hôn sự đã chấm hết. Nếu tính ra thì, chắc là hai người… Mà cũng không đúng, nói như vậy thì chỉ một thôi. Em và anh còn chưa kịp yêu đương thì đã bỏ qua giai đoạn bạn trai, thành, thành…”

“Ông xã.”

Cô thở dài, đúng là thua thiệt mà.

“Không sao, sau này sẽ đền bù.”

Cô ngẩng đầu nhủ: bỏ qua giai đoan bạn trai bạn gái thì đền kiểu gì đây?

Có điều so với hỏi câu này, cô càng muốn nắm chắc cơ hội hỏi điều khác hơn.

“Anh Tạ?”

“Có mặt.”

“Nụ hôn đầu là lúc nào?”

Tạ Trạch Ích bật cười, nói, “Bốn tuổi.”

Cô kinh hãi, “Sớm thế hả!”

“Nghe nói hồi nhỏ anh rất xinh xắn, hồi ở Quảng Đang thường bị con gái hôn trộm.”

“A…” Cô lại nhớ đến cái tên “A Chính” đầy nhã trí của anh, không khỏi tự tưởng tượng ra một Tạ Trạch Ích môi đỏ da trắng mi dài.

Tạ Trạch Ích như biết cô đang nghĩ gì, nhân lúc cô vẫn cười thì đột ngột hỏi, “Còn em? Nụ hôn đầu là vào lúc nào?”

“Năm ngoái, ngày 1 tháng 4.”

Anh cúi đầu trầm tư, “Ngày 1 tháng 4…”

Như thể sợ anh truy hỏi đối tượng là ai, cô lập tức ngắt lời anh: “Đến lượt em.”

“Được.”

Cô cẩn thận nghĩ kỹ, quyết tâm chơi lớn một phen, đưa ra câu hỏi mà anh không trả lời được.

Thế là hỏi nhanh một câu như đùa dai, “Lần đầu tiên là bao giờ?”

“Lần đầu tiên gì?” Anh chớp mắt.

“Anh biết mà.”

“Lần đầu tiên? Đi lặn? Lướt sóng? Lái máy bay? Bắn súng? Nhai cau, hút thuốc, hay là…”

“Chơi xấu phạt ba ly.”

Một giây, hai giây, ba giây…

Tạ Trạch Ích lắc đầu cười, sau đó mở nút bình Whisky, đổ đầy một ly. Lúc ngẩng đầu uống rượu, chất lỏng trào ra chảy xuống cổ anh, trượt qua hầu kết di động lên xuống.

Ly hổ phách lóe sáng.

Anh đặt ly rượu xuống, cô hỏi: “Một ly? Không phải ba ly?”

Anh thẳng thắn, “Ừ. Anh không trả lời được.”

Cô hụt hẫng, “Ờ. Đến lượt anh.”

“Em ——”

Cô lập tức ngắt lời, “Không được hỏi trùng câu hỏi của em!”

Anh dừng lại, đoạn đáp: “Được.”

Không biết vì sao cô lại thấy giận: “Anh không có điều gì rất muốn biết về em sao? Không tò mò chút nào ư?”

“Ngày trước thì có.”

“Còn bây giờ?”

“Cũng có. Muốn vận mệnh nói cho anh biết liệu mình có thể bình an bầu bạn với em cho đến già, đến lúc chết, đến hết đời không… Anh cho rằng việc em đến cạnh bên anh đã là may mắn trong đời, nên không dám hy vọng nhiều hơn.”

Cô ngẩng đầu, “Nhưng anh không hề biết em trông thế nào, có cao đủ 1m6 không, trình độ học vấn có cao không, tính khí thế nào, thế mà đã muốn sống hết đời với em…”

“Tính khí? Tính khí thì xấu thật, nói dễ hiểu thì là cô nàng khùng nhất anh từng gặp. Có điều thế thì đã sao?”

“Thậm chí anh còn không biết em mấy tuổi, có lẽ linh hồn này là một bà cụ tóc bạc da nhăn nheo thì sao?”

“Lớn tuổi hơn anh không?”

“Lớn hơn.”

“Bao nhiêu? Năm nay đã tám mươi tuổi chẵn chưa?”

“… Không tới mức ấy.”

“Thế thì tốt rồi, đã tám mươi mà còn ngây thơ như vậy thì đúng là hiếm.”

Cô dở khóc dở cười.

“Nói vài chuyện về em mà anh không biết đi. Nói một chuyện uống một ly. Nếu anh biết thì phạt em một ly, xem ai gục trước.”

Cô gật đầu, “Vậy chắc chắn anh thua rồi.”

Anh nói: “Thử đi đã.”

Cô lập tức bảo: “Em chỉ thấp thua anh 18 cm.”

Anh uống hết một ly, một tay cầm ly một tay cầm bình rượu, đột nhiên nhìn cô.

Rồi anh đứng dậy đi tới, ôm lấy cô dựa lưng vào khung cửa, để cô tựa vào lòng mình.

“Ừ, vị trí ngang môi.”

Nói xong thì hôn lên trán, lên tóc cô, gác nhẹ cằm lên đỉnh đầu cô.

Cô ngửi thấy mùi lá bưởi trên người anh – cũng giống như cô vậy, hòa lẫn giữa hơi thở của anh là mùi lưu huỳnh nhẹ của rượu Whisky mạch nha, là mùi hương tươi mát đặc trưng của mùa xuân, khiến cô không dằn nổi lòng vạch cổ áo anh ra, vùi mặt vào để ngửi thật thỏa mãn.

“Tiếp tục đi.” Anh nói.

“Hai kiếp cộng lại, có lẽ em hơn anh bảy tuổi.”

“Ừ, thế thì sao?”

“Nghĩa là anh…”

Quay lưng về phía ánh trăng, cả người cô lọt vào phạm vi bóng tối của anh. Cây nến cháy sắp hết, ngọn lửa bập bùng lay lắt trong phòng. Anh từ từ cúi đầu xuống dựa vào trán cô, mí mắt cũng cụp xuống, cánh môi hé mở toan hôn cô.

Nhận ra được ý đồ của anh, cô giơ tay che miệng anh, nói, “Sợ là anh phải gọi em một tiếng chị.”

Tạ Trạch Ích bị bịt miệng, nhưng lập tức tương kế tựu kế hôn lên lòng bàn tay cô.

Cô rụt tay về như giật điện.

Anh vòng tay ôm chặt cô hơn, hai tay ở sau lưng cô rót rượu, uống xong thì cười nói, “Bảy tuổi? Dù có bảy mươi tuổi cũng vẫn là đồ khùng của anh Zoe.”

Nói đoạn, tay phải đặt bình rượu sang một bên, anh trở tay chụp lấy cổ tay cô kéo lại gần, chậm rãi hôn lên. Mỗi một cái chạm nhẹ là lại đi đôi với xúc giác ướt át, cảm giác nhồn nhột ở lòng bàn tay cũng được khuếch đại vô hạn.

“Còn gì nữa không?” Anh ngẩng đầu lên.

Cô bị động tác của anh làm cho phân tâm, trong đầu rối bời, nghĩ một lúc lâu mới đáp, “Em… Em còn biết hút thuốc.”

Anh bật cười, hơi thở ấm áp phả vào lòng bàn tay cô ngưa ngứa.

Cô vội nhân đó rụt tay về, đưa ra sau lưng, “Cười cái gì?”

“Chuyện này thì anh biết.”

“Sao anh biết được?”

“Lúc em cầm bút.” Anh mò lấy tay cô, kẹp ngón trỏ của cô bằng đốt ngón tay thứ hai và ngón giữa, “Bao giờ cũng là tư thế này.”

Tay bên kia của cô đang cầm rượu, vì hành động của anh mà giật mình, suýt nữa làm vỡ bình.

Anh nhanh mắt duỗi tay chụp lấy.

“Nguy hiểm thật.” Cô thở phào, chui ra khỏi ngực anh né tránh cảm giác bức bách, tìm một tư thế thoải mái ngồi xếp bằng trên bàn, mở nắp rượu ra rót đầy ly cho mình.

Uống xong, cô quay đầu lại, thấy tầm mắt Tạ Trạch Ích rơi lên cuốn sách trong hộp gỗ bên cạnh cô.

Ngụm rượu trong miệng suýt nữa phun cả ra ngoài, cô ho khan liên hồi, nhanh tay nhặt cuốn sách lên giấu ra sau lưng.

Tạ Trạch Ích hỏi, “Là gì thế?”

“Không, không có gì.”

“Ồ?”

“Còn chơi nữa không?” Cô đổi chủ đề.

Anh suy nghĩ, một tay chống bên cạnh đầu gối cô, tay lùa vào mái tóc rối của cô, cười khẽ, “Ừm, chơi.”

Tầm mắt cô khẽ động theo động tác của anh, nói, “Nồi cá hồi anh nấu là món ngon nhất em từng ăn.”

Anh cười, “Đến dì giúp việc cũng biết.”

Cô không ngờ mình lại là đứa trẻ nghĩ gì trong đầu cũng viết cả ra mặt, nhất thời ủ rũ. Nghĩ ra được câu khác, cô nói, “Em sinh thiếu tháng.”

Động tác của anh khựng lại trong giây lát, sau đó nghiêng người đến gần, chóp mũi chạm vào mũi cô.

Cô thấy anh không lấy ly uống rượu, hai tay chống lên mặt bàn né lui sau, thấp giọng phàn nàn, “Không được chơi xấu.”

Anh gần như dán lên môi cô, dùng giọng mũi nói, “Anh không có.”

Cô lại bảo: “Y tá nói là có ai đó đang đợi em. Nhưng thời gian của người đó không nhiều, không đợi được nên em mới chào đời sớm hai tháng… Mới nghe lần đầu đúng là buồn cười, nhưng sau đó nghĩ, có lẽ vì an ủi đứa trẻ chào đời sớm hơn người khác hai tháng nên mới bịa ra chuyện đó.”

Cô dứt lời, vừa ngẩng đầu lên thì giật mình.

Không biết có phải là cô gặp ảo giác hay không. Trong khoảng cách gang tấc, hai mắt anh sáng đến kinh ngạc, làn mi đen nhánh rũ xuống khi anh cụp mắt nhìn cô, lúc nhắm lại tựa như mây đen che lấp vầng trăng sáng.

Rồi anh nghiêng người, dịu dàng hôn lên môi cô. Hai người ngã xuống bàn, bàn tay to đang đỡ cơ thể cô chợt run lên nhè nhẹ.

Đến khi hai người tách ra, con tim cô vẫn đập thình thịch.

Anh hỏi, “Còn gì nữa không?”

Cô nói, “Có chuyện gì anh muốn biết nhất vào lúc này không?”

“Có.”

“Cái gì?”

Anh tựa trán xuống, ghé sát cô nói nhỏ, “Thích anh hôn em không?”

Hai mặt cô đỏ bừng, khẽ khàng gật đầu, đáp, “Ừm, thích.”

Anh mắt mắt, lại dịch đến gần.

Không chỉ mỗi thế. Thậm chí là nếp nhăn trên trán của anh, đôi mắt đen trắng long lanh của anh, cả ánh mắt dịu dàng khi tập trung nhìn cô và nốt ruồi giọt lệ ở khóe mắt anh…

Ma xui quỷ khiến thế nào mà trước khi anh hôn mình, cô lại thốt lên lời cuối cùng, “Thích ôm anh, hôn anh, thích da thịt gần gũi với anh, rồi nằm trên giường trò chuyện đến tận sáng…”

Hô hấp anh tắc nghẽn, động tác dừng lại.

Cô xoay đầu đi, không dám nhìn vào mắt anh. Cô không uống nhiều rượu nhưng không hiểu sao lại chẳng khác gì kẻ say, cả gan trêu đùa anh chỉ vì để anh ngạc nhiên, để chính anh thừa nhận: thì ra em là như vậy, thế mà anh không biết.

Sau đó từ từ chuốc say anh.

Mấy chục giây trôi lại như một trăm năm qua đi.

Cuối cùng anh lên tiếng, quả nhiên giọng rất bất ngờ, “Thì ra em sẽ nói như vậy.”

Nhớ lại những lời bậy bạ mình từng nói ở kiếp trước, tuy vẫn đỏ mặt nhưng vẫn đắc chí khoe khoang, “Em còn biết nói nhiều hơn nữa cơ, anh muốn nghe không?”

Có điều lần này, cô không đắc chí nổi quá hai giây.

Gần như trong tích tắc, anh cúi đầu hôn lên môi cô, nâng đầu cô lên hôn thật sâu. Cơ thể cô mất thăng bằng, lại sợ ngã xuống bàn sách nên đành giơ tay vịn lấy cổ anh.

Một giây sau, bàn tay anh dời xuống ôm eo, vòng qua khoeo chân nhấc bổng cô lên, sải bước đi vào trong góc phòng, ngồi xuống ghế gỗ hồ đào to lớn.

Sức anh lớn một cách lạ thường, bắt lấy hai chân giữ cô ngồi trên đầu gối mình, thấp giọng hỏi, “Đừng chỉ nói là cho anh nghe, làm trực tiếp cho anh nhìn, có được không?”

Đồ hai người mặc một đen một trắng, quần áo mỏng đến mức gần như trong suốt. Trong lúc được anh nhấc bổng lên, vớ trên một chân cô tuột xuống, bắp chân trần đung đưa.

Cô vùi đầu vào ngực anh, xấu hổ đến mức phát điên. Cách lớp áo da kề da, mùi cơ thể sạch sẽ quanh quẩn làm cô như đắm chìm.

Anh nhẹ nhàng nắn bóp hõm vai cô, tựa vào bên tai cô, không nhanh không chậm nói: “Nếu thấy đau thì anh sẽ dừng lại.”

Giọng thấp và khẽ đến mức có thể chết người, là tia dưỡng khí cuối cùng trước khi cô nghẹt thở.

Cô nghe thấy mình đáp: “Vâng.”
 
Trạng thái
Không mở trả lời sau này.
Top