Lượt xem của khách bị giới hạn

[Lịch sử] Nhất đẳng ấu đế - Mạnh Nguyễn

[Lịch sử] Nhất đẳng ấu đế - Mạnh Nguyễn

Mạnh

Tác giả
Tham gia
9/7/20
Bài viết
423
Điểm cảm xúc
737
Điểm
93

Tôi nhìn tên sứ giả từ từ bước ra khỏi điện Thiên An. Không kiềm chế được một cái thở phào nhẹ nhõm.

Nhà Tống đang có nhiều vấn đề khác cần lo hơn. Nhà Liêu và Tây Hạ đang quậy tưng bừng ở biên giới phía bắc, trong nước thì đang thực hiện tân pháp của Vương An Thạch
[1]. Tôi còn đang lo hắn tới khiêu chiến. Đại Việt và nhà Tống sẽ có một trận đại chiến trên sông Như Nguyệt do Lý Thường Kiệt chỉ huy. Bây giờ ông đã ngoài năm mươi rồi, rất có thể cuộc chiến sẽ sớm diễn ra thôi. Nhưng may sao chưa phải bây giờ.

Tên sứ giả đó tới, mặt hầm hầm khiến nhiệt độ trong điện như tụt xuống. Lúc ánh mắt chúng tôi chạm nhau qua chiếc rèm, tôi như muốn nín thở và nắm chặt lấy tay mẹ tôi. Nhưng tên sứ giả đó chỉ chia buồn về việc của Thánh Tông, bàn về việc giá cả một số mặt hàng như trầm hương Chiêm Thành có tăng giá rồi đọc tờ chiếu và phong tôi làm Giao Chỉ Quận Vương.

Lúc đó tôi nghĩ “Mình đường đường là Hoàng đế, sao lão vua nhà Tống lại phong mình làm vương?” nhưng nhớ lại thì phụ hoàng tôi cũng nhận tước phong Nam Bình Vương và tất cả đều chỉ là nhận cho có, một chiến thuật ngoại giao mềm dẻo. Đồng thời, mẹ tôi đã chuẩn bị tất cả. Ngay bên dưới sàn, trước mặt tôi là một tờ giấy tổng hợp những lời tôi nên nói và cần nói khi sứ giả hỏi.

Trong năm ngày, tôi phải quần quật học nói tiếng Trung muốn líu cả lưỡi. Còn mẹ tôi cứ như có bằng I e lờ tê ét (Ielts) tiếng Trung, bà và tên sứ giả xì xà xì xồ còn tôi thì ngồi im bặt.

Nếu nhà Tống bận rộn với ngoại bang, thì Đại Việt cũng có vấn đề nội bộ.

Tôi có nói là trầm hương Chiêm Thành tăng giá chưa? Từ Chiêm Thành muốn tới Tống cần đi qua Nghệ An, chính xác là cái chỗ mà nhà họ Dương đóng cọc. Có vẻ chúng đã dựng lên hẳn mấy trạm thu phí trên đường đi buôn của thương nhân.

Sau khi diệt trừ đồng đảng trong vụ mưu hại tôi thì kiểm kê lại tình trạng ở Nghệ An và hủy bỏ một số chính sách hỗ trợ tăng cao quyền lực của họ Dương của Thượng Dương Thái hậu. Sau khi điều tra những kẻ có thư từ qua lại với họ Dương, tôi đã quyết định tha bổng cho họ. Tất nhiên là sau khi bàn luận kỹ lưỡng với mẹ. Mẹ tôi bây giờ đã chính thức được ngồi lên chiếc ghế nhiếp chính với danh hiệu Linh Nhân Hoàng thái hậu. Bà bảo rằng việc không truy cứu trách nhiệm liên đới sẽ khiến những kẻ ấy phục tôi từ trong tâm.

“Vương An Thạch là ai ạ?” Tôi hỏi mẹ tôi trong một buổi tối ngồi học.

“Y là một nhà thơ rất có tài.” Mẹ tôi đáp trong khi chỉ An Dân viết chữ. “Có thể sánh ngang với Tam Tô và Tăng Củng cũng nên.”

“Thế quan điểm chính trị của ông ấy là gì ạ?”

“Hửm?” Thái hậu nhướn mày nhìn tôi.

“Con không có ý trốn học đâu.” Tôi cố thanh minh. “Con chỉ là… muốn biết về những nhân vật kiệt xuất ở nước ngoài thôi. À… biết người biết ta, trăm trận trăm thắng mà.”

“Bệ hạ chăm học, là phúc của bách tính.” Mẹ tôi khẽ mỉm cười. “Y vốn là con của quan lại địa phương, từ nhỏ đã được cọ xát với đời sống nhân dân nên y có thể hiểu cho nỗi lòng của dân.”

“Thế còn những cải cách của ông ta?”

“Cải cách của y, bao gồm những lệ về quân sự như là biến dân thành lính, dạy võ cho dân… rồi dân bảo quản ngựa. Nếu làm ngựa chết thì phải đền.”

“Con thấy cũng ổn mà.” Tôi nhún vai. “Học võ có thể tăng cường sức khỏe, đồng thời cũng luyện được tác phong quân ngũ. Giống như thực hiện nghĩa vụ quân sự bắt buộc vậy. Khi cần sẽ có sẵn quân dự bị sẵn sàng chiến đấu.”

“Đúng vậy đấy.” Mẹ tôi gật đầu dù tôi nghĩ bà cũng không biết chính xác nghĩa vụ quân sự là gì. “Nhưng vấn đề của biến pháp này nằm ở tài chính. Đầu tiên, nhà nước cho dân vay tiền, đến mùa thu hoạch thì trả lại kèm theo lãi. Dân đinh mà không đi sưu dịch thì được nộp tiền cho nhà nước. Nhà nước sẽ lấy tiền ấy để thuê người đi sưu dịch. Và ông ta mở một trạm buôn bán của nhà nước, ở đó sẽ thu mua hàng của dân và cho thương nhân vay vốn có lãi suất.”

Bà ngừng lại một chút để tôi ghi chép và kiểm tra chữ viết của An Dân.

“Ở một mức độ nào đó, biến pháp này có thể giải quyết được vấn đề ngân khố nhà Tống đang trong tình trạng kiệt quệ vì chiến tranh với Liêu và Tây Hạ, nhưng đồng thời cũng có ảnh hưởng đến quý tộc nên không được ủng hộ nhiều cho lắm. Hay chính xác hơn là quý tộc đều phản đối ông ta.”

“Nhưng nó có lợi cho dân chúng mà đúng không?”

“Cũng không hẳn.” Thái hậu rót trà. “Bệ hạ biết đấy, ngân khố nhà Tống đang khá khó khăn, nên họ đang cố đưa ra một lãi suất khá cao để bù vào quốc khố trống rỗng của mình. Tuy nhiên, dân cày ruộng cơm còn không đủ mà ăn, sao có thể chịu được lãi suất của nhà nước.”

“Ồ…” Tôi thấy cái này khá giống với tình trạng vay nặng lãi với tính dụng đen ở thời hiện đại. “Thế nếu chúng ta áp dụng chúng vào Đại Việt thì sẽ thế nào ạ? Chúng ta hiện tại không có chiến tranh, quốc khố cũng dư dả, nếu ta áp dụng biến pháp này với mức lãi suất thấp thì có hiệu quả hay không?”

“Trong thời gian đầu thì có.” Mẹ tôi nhấp một ngụm nước. “Nhưng dần dần, giới quý tộc sẽ không bằng lòng đâu. Giới thương nhân cũng sẽ phản đối biến pháp này vì nó ảnh hưởng đến quyền lợi của họ. Đồng thời về lâu về dài cũng sẽ ảnh hướng đến dân chúng, không sớm thì muộn cũng sẽ gây ra bất bình, và có thể là khởi nghĩa, binh biến, nội chiến.”

“Con hiểu rồi.” Tôi gật gù.

“Ngoài ra, ông ta cũng có cho cải cách thi cử.” Mẹ tôi nói tiếp. “Dần dần bớt lệ thuộc vào kinh thư của Khổng Tử.”

“Nhưng như thế là tiến bộ đấy.” Tôi vội nói. “Thời của con, thi cử quan trọng là Toán Lý Hóa Sinh, ai còn học sách Khổng Tử nữa.”

“Vấn đề là triều đình nhà Tống hầu hết đều là những quan lại theo Nho học.” Mẹ tôi tỏ ra đã quen với mấy lời nói vớ vẩn của tôi. “Đùng một cái cải cách, đâu phải muốn là đổi ngay được. Phái cựu đảng của Tư Mã Quang đâu có dễ mà để yên. Họ không thể chỉ vì giải quyết vấn đề nhất thời mà từ bỏ những thứ đã ăn sâu vào tiềm thức cả nghìn năm được.”

“Thế tức là, biến pháp của Vương An Thạch có thể áp dụng trong thời gian ngắn khi đang rơi vào khủng hoảng, còn nước ta đang ổn định chính trị và kinh tế, với tầm nhìn chiến lược cho mười hay hai mươi năm tới thì khó mà duy trì, phải không?”

“Đúng là như thế đấy bệ hạ.” Bà khen tôi. “Nhưng “biết người” rồi, bệ hạ nên tiếp tục “biết ta” đi.”

“Dạ?” Tôi tròn mắt nhìn ông.

Bà liếc mắt vào quyển Đường Thư trên bàn.

“Con biết rồi.” Tôi lại cầm quyển sách lên và tiếp tục đọc. Nhưng được ba chữ tôi lại ngước lên. “Mẹ có nghĩ Đại Việt và Tống sẽ có chiến tranh không?”

“Bệ hạ, chuyện này ta không có gan đoán đâu.” Mẹ tôi làm nét mặt nghiêm trọng.

“Sắp có chiến tranh ạ?” An Dân hỏi.

“Không đâu,” Tôi xoa đầu đứa bé. “mà nếu có, thì trẫm cũng sẽ bảo vệ em.”



Chẳng cần Thái hậu đoán già đoán non, mấy tháng sau một gã tự xưng là tiến sĩ của nhà Tống, tên là Từ Bá Tường, đã cho người thông báo đến Đại Việt về việc chuẩn bị xâm lược của nhà Tống.

Hiện đang là đầu xuân năm Thái Ninh thứ ba. Thời tiết khá đẹp để đi du xuân, nếu ở thời hiện đại tôi sẽ cắm mặt vào học ôn thi giữa kỳ. Ở đây, tôi có thể đi thuyền ra giữa sông Hồng, vừa ngắm cảnh vừa học làm thơ. Nhưng không phải hôm nay. Tôi đang phải ngồi nghe mấy ông già cãi nhau.

“Xem ra chuyến viếng thăm trước chính là để thăm dò tình hình nước ta.”

“Tên này liệu có tin được không?”

“Từ Bá Tường tuy là người có học thức, nhưng lại không có của đút lót cho quan lại bên trên nên không được làm quan.”

“A di đà Phật.”

“Hắn có vẻ bất mãn với triều đình nhà Tống.”

“Nếu bắt hắn nộp cho vua Tống thì liệu có thể ngăn cuộc chiến này không?”

“Mạng của một tiến sĩ vô danh có thể ngăn được một cuộc chiến tranh không?”

“Giặc Chiêm còn đang quấy phá phía nam nữa, ta liệu có đủ binh lực để chống Tống không?”

“Cuộc chiến này là điều tất yếu rồi.” Tôi đứng dậy bước ra khỏi tấm màn. “Trẫm thấy, sớm hay muộn gì, ta và nhà Tống cũng phải đánh một trận lớn. Nếu chúng tới, ta sẽ dốc toàn bộ sức lực và của cải để bảo vệ đất nước!”

“Bệ hạ vạn tuế!” Quần thần quỳ xuống.

“Các vị ái khanh,” Tôi nảy ra một ý tưởng. “trẫm đang có ý, đón Thái sư… đón Tả gián nghị đại phu Lý Đạo Thành về triều.”

“Bệ hạ, Tả gián nghị đại phu đang trấn thủ Nghệ An…”

“Nhưng mọi chuyện đã ổn thỏa rồi đấy thôi.” Tôi nhảy vào họng ông quan. “Thái úy còn việc binh, đâu thể gánh vác nhiều như thế được. Hơn nữa, qua sự việc giặc Chiêm cuối thu năm vừa rồi, chúng ta cũng thấy được, Thái úy đang lơ là việc quân binh. Trẫm nghĩ là do ngài đã quá bận rộn với việc nội trị. Nên trẫm muốn đón Thái sư về để lo việc quốc chính.”

“Sắp sửa chiến tranh với nhà Tống rồi.” Tôi nghĩ. “Lý Thường Kiệt ơi, tôi cắn rơm cắn cỏ lạy ông, lo mà sửa soạn quân đội đi, sắp đánh nhau to đấy.”

“Bệ hạ,” Một người bước ra. “thần có việc cần tấu.” Người này trông khoảng ngoài ba mươi, mái tóc ông đã điểm bạc. Ông giữ chức Hữu gián nghị đại phu từ thời cha tôi. “Thái sư tuổi đã cao, e rằng không còn minh mẫn. Thần nghĩ, bệ hạ nên ban cho ông ấy chức Thái phó để giảm nhẹ công việc.”

“A di đà Phật. Thái phó tức là dạy học cho bệ hạ.” Một nhà sư bước ra. “Đinh Đại phu nói Thái phó tuổi tác đã cao, không thể lo việc triều chính, liệu có thể dạy được bệ hạ hay không?”

“Chứ không phải ngài đang lo rằng, vị trí của Giác Hải thiền sư sẽ bị ảnh hưởng sao?” Một viên quan trẻ hỏi. “Giác Hải thiền sư đang là thầy dạy học của bệ hạ. Các ngài đang muốn dùng Giác Hải thiền sư để củng cố vị trí của các ngài sao?”

“A di đà Phật.” Giác Hải thiền sư quay về phía viên quan trẻ. “Lưu Thị lang nói thế, không biết là có ý gì?”

“Hạ quan chỉ nói sự thật.” Lưu Thị lang đáp. “Từ khi Thảo Đường Quốc sư viên tịch, thế lực của các ngài đang có phần lung lay, các ngài…”

“Đàm!” Một vị quan lớn tuổi hơn cắt lời anh ta.

“Lưu Thượng thư, hạ quan chỉ nói sự thật thôi.” Lưu Thị lang cúi người. Anh chàng Thị lang ấy tên Lưu Khánh Đàm, là người đã nói với tôi về chuyện đặt người đại diện cho vua ở chợ của Lê Long Đĩnh. Còn Thượng thư Lưu Ngữ kia là cha anh ta.

“Ngô Đại sư, Giác Hải thiền sư,” Lưu Thượng thư quay sang hai vị cao tăng cúi người. “tiểu tử nhà tại hạ còn trẻ không hiểu chuyện. Xin các vị đừng chấp.”

“Ai di đà Phật.” Vị thiền sư họ Ngô chắp tay lạy vị Thượng thư dù nét mặt ông ta trông rõ ràng là đang hờn dỗi.

“Lưu Thị lang cũng vì quan tâm đến bệ hạ, sao bần tăng trách ngài được.”

“Được rồi được rồi.” Tôi can họ. “Thái sư tuổi cao sức yếu, trẫm thì tuổi nhỏ, lại nghịch ngợm. Sẽ làm khó Thái sư mất. Hơn nữa, Giác Hải thiền sư đang làm rất tốt việc giảng dạy. Trẫm cũng không có nhu cầu thay người.”

Rồi chẳng hiểu sao tôi nhìn vào một lượt quan văn tướng võ già nua cùng một dàn sư cọ đã đứng còn không vững trước mặt mình và nảy ra ý tưởng.

“Đúng rồi!” Tôi búng ngón tay. “Nhân cơ hội này, trẫm sẽ cho các quan đại thần tuổi cao vào chầu sẽ cho phép ngồi ghế hoặc chống gậy.”

Họ lại tròn mắt nhìn tôi.

“Các vị đều tuổi cao sức yếu, làm sao chạy theo trẫm được đúng không?” Tôi cười tươi, mẹ tôi ngồi bên khẽ hằng giọng nhưng tôi giả điếc. “Lỡ các vị ngã ra đấy, làm sao trẫm lo được…”

“Bãi triều!” Mẹ tôi hô lớn và dắt tôi đi mất.

“Bệ hạ, bệ hạ đừng nói những câu dân dã như thế chứ.” Mẹ tôi mắng tôi khi đang về điện Thiên Khánh. “Đây là chốn quân lâm thiên hạ, sao bệ hạ có thể…”

Tôi chuồn mất tiêu trong khi mẹ tôi còn đang nói. Tất nhiên, tôi là thiên tử, lời tôi nói ra là ý chỉ của ông trời. Nhưng sự thật thì tôi mãi cũng chỉ là một đứa trẻ mà thôi.



Trong gần một tuần tiếp theo, tôi không chầu. Lý Thường Kiệt đi Nghệ An để gọi Thái sư Lý Đạo Thành về kinh.

Các bạn đoán xem tôi làm gì trong khoảng thời gian đó?

Tôi đã dùng xe ngựa của phủ Thượng thư và cùng Lưu Khánh Đàm, đi theo sau xe ngựa của Thái úy.

“Thái hậu mà biết thì thần bay đầu mất.” Lưu Khánh Đàm thở dài.

“Chuyện này, trời biết, đất biết, ta biết, ngài biết.” Tôi cười nói khi đang ngắm đường. “Sống để bụng, chết mang theo.”

“Ngươi nghe thấy không?” Lưu Khánh Đàm hỏi tên đánh xe. “Bệ hạ đã định sẵn sau vụ này sẽ giết ngươi để diệt khẩu đấy.”

“Bệ hạ tha mạng!” Tên phu xe co rúm người.

“Ngươi không đánh xe đàng hoàng thì trẫm sẽ lấy đầu của ngươi thật đấy.”

Mất gần sáu ngày để đi từ Thăng Long tới Nghệ An. Nếu là bây giờ đi bằng ô tô trên đường quốc lộ thì nửa ngày là tới, nhưng cái thời một nghìn năm về trước, khi mà đường đi thì toàn núi non sông nước và đi bằng xe ngựa, mỗi khi đi phải tránh đường núi đề phòng giặc cướp và khi qua sông phải tìm cầu hoặc đi thuyền qua sông, thì việc đi mất sáu ngày cũng là nhanh lắm rồi.

“Bệ hạ, đến Nghệ An rồi.” Lưu Khánh Đàm lắc tôi dậy.

“Khánh Đàm này,” Tôi tập tễnh bước đi trên phố. “nếu ta mà giống như Lê Ngọa Triều, ta sẽ bêu đầu anh đấy.”

“Nghiêm túc đi, Công tử.” Lưu Khánh Đàm đi bên cạnh tôi, tay cầm cây quạt phẩy phẩy. Anh ta mặc bộ y phục màu trắng trông đạo mạo chẳng kém gì mấy tay đạo sĩ bấm ngón tay đoán ý trời trong phim Tàu.

“Anh biết xem bói à?”

“Ta chỉ biết đôi chút thôi.” Anh chàng Thị lang mỉm cười. “Chuyện của tương lai, đâu thể nói bừa. Huống chi, tương lai của Công tử đây, ảnh hưởng đến cả vạn dân trong thiên hạ này.”

“Khẽ mồm thôi.” Tôi ré lên.

Chúng tôi đến được trước cửa phủ của quan Gián nghị đại phu. Ở đó có một đoàn người ngựa đang đứng chờ.

“Này người anh em,” Tôi kéo tay áo một người. “anh có biết ai đang vào thăm Gián nghị đại nhân không?”

“Mi là ai?” Hắn quắc mắt nhìn tôi. “Sao ta phải nói với mi?”

Tôi đưa hắn một quan tiền.

“Biết chưa?”

“À,” Hắn nhìn tôi cười. “người đang ở trong, là Thái úy đương triều đấy.”

“Không ngoài dự đoán.” Tôi nghĩ.

“Ngài ấy vào đã lâu chưa?” Sư phụ tôi hỏi tiếp.

“Ngài ấy đã vào được một lúc lâu rồi.”

“Thái úy!”

Lý Thường Kiệt bước ra khỏi phủ Gián nghị đại phu.

“Công tử, chạy thôi.” Lưu Khánh Đàm kéo áo tôi.

“Thái úy đã ra về,” Tôi nói khi đứng núp bên góc tường quan sát.

“Mặt mũi hầm hầm thế chắc là không gọi được Gián nghị đại nhân hồi triều rồi.” Lưu Khánh Đàm giả vờ vuốt những sợi râu không tồn tại của mình.

“Cái này chắc phải để ta đích thân đi rồi.” Tôi phủi áo và bước tới gần cửa phủ. Khi ấy Lý Thường Kiệt đang nói chuyện với một thiếu niên.

“Thái úy,” Tôi gọi lớn. “đường sá xa xôi, ngài không vất vả chứ?”

“Công tử à,” Tên lính khi nãy chạy tới. “Thái úy không đùa được đâu.”

“Bệ hạ!” Thái úy quỳ xuống lắp ba lắp bắp. “Thần thần thần không biết bệ hạ tới, không không không thể nghênh đón từ xa, xi, xi, xin bệ hạ thứ tội.”

Hành lễ xong thì ông ta đưa mắt lườm Lưu Khánh Đàm. Tay Thị lang làm cái vẻ mặt tôi bị ép.

“Bệ…”

“… hạ…”

Toàn bộ lính lác của Lý Thường Kiệt và cả gia nô phủ Gián nghị đại phu đều quỳ xuống.

“Các ái khanh bình thân.” Tôi cười và vẫy tay với họ. “Trẫm đến thăm Gián nghị đại nhân. Xong việc sẽ trọng thưởng các khanh.”

Nói rồi tôi bước qua cửa và lon ton chạy vào phủ Gián nghị đại phu.

“Thằng nhóc kia!” Một tên cầm chổi hét lớn. “Ai cho mày vào đây?”

“Vua đấy!” Đám người ngoài cửa hét lớn. Tên kia xanh lè mặt mũi.

Tôi tới được căn phòng chính giữa. Bên trong, Lý Đạo Thành đang ngồi uống trà. Ít lâu không gặp, Nhìn ông có vẻ già đi nhiều.

Ông ngước lên nhìn thấy tôi thì phun trà ra đầy bàn.

“B… bệ hạ!” Tả gián nghị đại phu lắp bắp.

“Gián nghị đại phu,” Tôi cười. “à, Thái phó, sao ông không về với trẫm?”

“Bệ hạ.” Lý Đạo Thành quỳ rạp xuống. “Lão thần vô năng, không dám nhận chức vụ quan trọng ấy được.”

“Ngài là người như thế nào, trẫm là người hiểu rõ.” Tôi bước vào nhà. “Nhớ năm xưa, Thái phó từng nói rằng, tương lai, ta sẽ trở thành vị vua anh minh của Đại Việt. Tiên đế cũng đã giao lại đứa con côi này cho ngài, bây giờ ngài lại thoái thác sao?”

“Bệ hạ,”

“Thái phó, sao ngài có thể ích kỷ như thế?” Tôi cắt lời ông.

“Cúc cung tận tụy, đến chết mới thôi.” Tôi lặp lại. “Ngài vứt lời của phụ hoàng ta dễ dàng như thế sao? Thế mà ngài còn dám đem cả bài vị của tiên đế về sao? Ngài không sợ nhìn mặt tiên đế sao? Ngài có dám nói với Người rằng ngài đã vứt bỏ ta khi ta chỉ mới tám tuổi không!?”

“Bệ hạ, thần không thể!” Lý Đạo Thành dập đầu. “Thần đã suy nghĩ rất nhiều, thần thân mang trọng tội, không thể tiếp tục cứ thế mà làm quan đầu triều được. Bệ hạ giữ cho đầu thần còn trên cổ đã là phúc, thần không thể nhận tiếp ân điển này nữa. Với thánh chỉ này, thần to gan kháng chỉ.”

Ông cố tình chơi tôi à? Được lắm, đã thế thì tôi sẽ tới bến với ông luôn.”

“Ê,” Tôi ngoắc tay với tên người hầu của Lý Đạo Thành. “ngươi biết hiệu vị của Thánh Tông Hoàng đế ở đâu không?”

“Bệ hạ…” Hắn khẽ đứng dậy.

“Đưa ta đến bài vị của cha ta.” Tôi ra lệnh.

Đứng trước vị hiệu của Lý Thánh Tông trong ngôi miếu mới xây, chiếc vị hiệu có bốn hàng Hán tự màu vàng. Viền của chiếc vị hiệu được chạm khắc vảy rồng tinh xảo. Trong lư hương vẫn còn ba ném hương cháy dở. Tôi đi quanh bàn thờ một vòng. Xem ra Lý Đạo Thành rất chăm chỉ lau dọn cúng bái. Tôi bước tới trước tấm vị hiệu đốt ba nén hương.

“Phụ hoàng,” Tôi gọi. “nhi thần vô năng, tuổi còn quá nhỏ, lại không được năng thần phò trợ, là họa của quốc gia.”

“Bệ hạ!” Mấy lão già ngoài cửa thốt ầm lên nhưng tôi mặc kệ họ.

“Nay con cần Thái phó Lý Đạo Thành hồi triều phò tá, phụ hoàng trên trời có linh thiêng,” Tôi lấy ra một đồng xu. “Nếu là mặt ngửa, Thái phó Lý Đạo Thành sẽ hồi triều cùng với con. Nếu là mặt úp, con sẽ bắt Lý Đạo Thành về kinh chịu tội.”

Tôi cắm ba nén hương lên lư hương và tung đồng xu.

Sau đó thì các bạn biết rồi đấy, Lý Đạo Thành thu dọn đồ đạc và quay về kinh thành Thăng Long.

Tôi ngồi xuống ngai vàng, mẹ tôi vẫn chưa hết giận tôi chuyện tôi “đi học” ở Nghệ An. Nhưng khi bà ấy thấy người đàn ông râu tóc bạc phơ chống gậy bước lên điện Thiên An, quỳ xuống hành lễ với Thái hậu và Hoàng đế rồi ngồi xuống chiếc ghế đầu hàng, ánh mắt bà ấy hiện rõ vẻ vui mừng.

Tôi cũng vui. Vì tôi vừa làm một chuyện cực kỳ có ích cho đất nước dù có hơi gian manh, nhưng Đại Việt cần Lý Đạo Thành.

Tôi nhìn Thái phó và khẽ nháy mắt.


[1] Thừa tướng nào đó của nhà Tống.
 

Mạnh

Tác giả
Tham gia
9/7/20
Bài viết
423
Điểm cảm xúc
737
Điểm
93
Thái phó đeo chiếc kính viễn lên.

“Bệ hạ…” Lý Đạo Thành run rẩy. “mắt của lão thần… thực sự… có thể nhìn rõ bệ hạ hơn rồi…”

Ông lão tám mươi quỳ xuống khóc.

“Ân đức này của bệ hạ, lão thần kiếp này xin ghi nhớ, kiếp sau, nhất định sẽ báo đáp bệ hạ!”

“Thái phó không cần phải làm thế.” Tôi mỉm cười. “Thái phó chỉ cần, kiếp này, tận trung với trẫm, vì nước vì dân, vì một Đại Việt hùng cường đến thiên thu!”

“Bệ hạ vạn tuế!” Tất cả mọi người quỳ xuống.

Mặc dù trong lòng thấy vui, nhưng sâu trong thâm tâm tôi lại thấy sợ.

“Nghĩ thế quái nào mà lại đi chế ra mắt kính hả!?”

Nhưng mắt của Lý Đạo Thành đã kém lắm rồi. Đọc chữ không còn rõ nữa. Hôm nọ có người dâng lên một miếng đá thạch anh. Với điểm Hóa đứng top trong trường, tôi nhanh chóng nhận ra với miếng thạch anh đó, tôi sẽ có được cát silic. Tôi đã cho người nghiền nát chúng ra cùng với chì và vỏ sò để có được hỗn hợp. Sau đó đem nung. Tôi bảo nghệ nhân trong cung làm gọng kính vừa với sống mũi Thái phó và dây đeo vòng ra sau đầu cùng khuôn mắt kính tròn. Cuối cùng có được chiếc kính như thế này. Tôi tin rằng nó là chiếc kính đầu tiên trong lịch sử. Hoặc không. Hy vọng là không.

Thái Ninh năm thứ tư, tôi, Nhân Tông Lý Càn Đức đã chín tuổi.

“Các ái khanh,” Tôi gọi bá quan. “trẫm ở ngôi đã bốn năm, mới chỉ học được đôi ba chữ, sách đọc vẫn chưa nhiều. Các thầy chùa thì không thể giải hết câu chữ đạo Khổng. Thái hậu có dạy thêm thì cũng chỉ như Mạnh mẫu. Nên, trẫm muốn chọn người tài trong dân gian có thể giúp trẫm học rộng biết nhiều hơn!”

“Bệ hạ,” Lưu Thượng thư tâu. “triều ta đã có Thái phó, hơn nữa, triều ta cung không thiếu gì người học rộng biết nhiều…”

“Đấy là một phần thôi.” Tôi thầm tự mắng mình vì chưa sửa được cái tật nhảy vào mồm người lớn. “Trẫm thấy văn võ bá quan nhiều người đã qua ngũ tuần, trẫm lại còn nhỏ, e đến khi trẫm trưởng thành lại khuyết mất nhiều vị trí quan trọng. Nên nhân đây cũng muốn tìm người để giúp nước. Nay trẫm ban chiếu, tuyển Minh kinh bác học và thi Nho học tam trường, ý các khanh thế nào?”

“Bệ hạ anh minh!” Các quan đồng thanh.

Tôi nhìn mẹ tôi, bà khẽ gật đầu hài lòng. Thực ra tôi đã tập dượt câu vừa nãy cả buổi tối đấy. Vì vấn đề tuyển chọn quan lại này ảnh hưởng trực tiếp tới việc học của tôi. Còn tại sao, thì phải quay về hai ngày trước.

“Bệ hạ,” Giác Hải thiền sư lạy tôi. “thứ cho bần tăng vô năng.”

“Sư phụ?” Tôi tròn mắt nhìn vị sư thầy đang quỳ trước cửa Văn Miếu.

“Thần không còn gì để dạy Bệ hạ nữa.”

“Kìa, sao thầy lại nói thế.” Tôi đỡ ông dậy. Hay ông thấy Lý Đạo Thành về giữ chức Thái phó nên xin thoái thác? Hay ông giận chuyện Lưu Khánh Đàm?

“Bệ hạ, chúng thần đi Thiên Trúc thỉnh kinh cầu đạo, chẳng phải để làm quan làm lại. Chỉ mong đời sống tinh thần của dân chúng được sung túc. Chúng thần không thể cầm quân đánh giặc như Thái úy, cũng không có năng lực trị quốc của Thái phó. Ở với chúng thần, bệ hạ sẽ chỉ là một Phật tử, không phải một minh quân.”

“Thầy,”

“Thánh Tông đã từng nói với chúng thần, Phật pháp có thể dùng để giáo hóa chúng dân, nhưng trị quốc vẫn cần Nho học. Bần tăng vô năng, không đủ khả năng dạy bệ hạ thông tuệ đạo Khổng.”

Tôi thở dài. Nhưng quả thật, tôi hiểu ý của Giác Hải thiền sư. Phụ hoàng tôi cũng từng nói với tôi chuyện này. Muốn trở thành một đấng minh quân, học kinh Phật thơ ca là chưa đủ. Còn cần học cả kinh Khổng, sử sách, cả kinh tế, nông nghiệp… Bởi thế, trở thành vua thì dễ, làm được vua mới khó. Ngồi lên ngai vàng dễ, giữ được ngai vàng khó.

“Trẫm hiểu rồi.” Tôi chắp tay vái Giác Hải thiền sư. “Sư phụ giữ gìn sức khỏe.”

“Bệ hạ, ngày cuối cùng, bần tăng to gan mời Người đến một nơi được không?”

Tôi và Giác Hải thiền sư đến cánh đồng lúa nhiều năm trước Thông Huyền chân nhân đã đưa tôi tới khi tôi còn là Thái tử. Hóa ra bao năm qua tôi còn chẳng thèm quay lại đây. Đã mấy vụ mùa trôi qua rồi. Tôi nhìn nhưng cây lúa. Chúng đầy những hạt nặng trĩu và cong xuống.

“Vụ màu năm nay cũng không đến nỗi nào.” Tôi nhớ năm trước khi tôi lên ngôi, năm Thần Vũ thứ ba, năm ấy mất mùa, Vua Lý Thánh Tông vì thế mà lo lắng, bệnh tình ngày càng trở nặng đến đầu năm Thần Vũ thứ tư thì băng hà.

“Người còn nhớ, ngày trước Thông Huyền chân nhân dẫn người đến đây, cây lúa ấy như thế nào không?”

“Chúng, không có hạt, và dựng thẳng đứng.”

“Còn bây giờ?”

“Rất nhiều hạt. Và trĩu xuống.”

“Giống như một con người vậy.”

“Hả?” Tôi nhìn vị tăng sư.

“Con người, khi không có giá trị, họ sống một cách cao ngạo. Đến khi có giá trị, họ mới bắt đầu cúi đầu thấp.”

“Khiêm tốn?”

“Đúng thế. Làm người có giá trị, cần phải biết khiêm tốn. Khiêm tốn mà sống, khiêm tốn mà học tập. Việc học, là cốt lõi của con người.”

Giác Hải thiền sư thở dài một cái.

“Nhưng khi bước ra đời, phải đứng thật thẳng lưng. Thẳng lưng, sống hiên ngang như một đấng anh hùng.”

“Lời sư phụ dạy, học trò xin đời đời nghi nhớ.” Tôi quỳ xuống lạy ông. “Sư phụ, xin nhận của học trò ba lạy.”

“Hai lão tăng sư đều đi rồi à?” Mẹ tôi vẫn ngồi xem tấu chương.

“Giác Hải tâm như hải,
Thông Huyền đạo hựu huyền.
Thần thông kiêm biến hoá,
Nhất Phật, nhất thần tiên.”[1]
Tôi buồn rầu quay sang Thái hậu. “Mẹ, con có xứng làm vua thật không? Sao dần dần mọi người đều rời bỏ con?”

“Chỉ là hai vị cao tăng thôi. Người này đi thì người khác tới.” Mẹ tôi lạnh lùng nói. “Bệ hạ, nếu người để cảm xúc cá nhân xen vào công việc quá nhiều, người sẽ không thể đưa ra những quyết định sáng suốt được đâu.”

“Nhưng…”

“Người là Hoàng đế.” Mẹ tôi cắt lời. “Người là người quyết định muôn dân bách tính ngoài kia sẽ ra sao. Họ có thể không biết ngày mai họ có cơm ăn hay không, họ có thể không biết ngày mai mình có phải mặc giáp ra trận hay không. Nhưng Người phải luôn sẵn sàng. Người phải luôn chuẩn bị tinh thần năm sau sẽ có hạn hán, tháng sau địch quốc sẽ xâm lược, ngày mai sẽ có đại thần đột ngột qua đời. Người phải luôn chuẩn bị tinh thần để đối phó với những tình huống tồi tệ nhất. Đồng thời, người cũng phải luôn mang một khuôn mặt không biểu đạt cảm xúc.”

“Như thế có hơi quá không ạ?” An Dân cất tiếng hỏi.

“Nếu bệ hạ bước lên điện với khuôn mặt ủ rũ, người sẽ khiến quần thần nghĩ rằng đất nước ta sắp đại nạn, họ càng có lý do để rời bỏ bệ hạ. Các con hiểu chứ?”

“Trẫm hiểu.” Tôi gật đầu dứt khoát An Dân cũng gật gù tỏ ra hiểu. “Việc bây giờ là tìm thầy mới.”

“Vừa hay,” Mẹ tôi kẽ liếm lông bút, đây là lần đầu tôi thấy bà làm thế. “chúng ta đang cần một đợt tuyển quan lại.”



Cuộc thi diễn ra đúng như kế hoạch. Sau khi các sĩ tử đỗ các kỳ thi ở địa phương và các cuộc khảo thí trên kinh thành được gọi vào cung diện kiến quan lại cùng Thái hậu và Hoàng đế.

Và chẳng cần đoán, các bạn cũng biết đấy, tôi chỉ ngồi yên đó thôi. Mẹ tôi mới là người quyết định. Từ ra đề, chỉ định địa điểm thi, người chấm thi… Cuối cùng còn lại được mười người đến trước mặt tôi và Thái hậu.

“Mười người à?” Mẹ tôi xem danh sách mười người rồi quay sang tôi. “Bệ hạ, người có muốn ra đề cuối cùng không?”

“Trẫm sao?” Tôi tròn mắt ngạc nhiên.

“Bệ hạ là Thiên tử mà, đôi khi cũng phải tỏ chút uy quyền chứ.” Bà nói thế nhưng tôi thấy trong ánh mắt mẹ tôi là “Để xem suốt thời gian qua con học hành như thế nào nào.”

Tôi vén tấm màn lên và bước lại gần mười thí sinh khảo thí. Họ quỳ xuống và không dám ngước đầu lên.

“Bình thân.” Tôi nói với họ.

“Tạ bệ hạ.”

Mười người họ lục tục đứng dậy nhưng vẫn đưa tay ra vái tôi. Vì để giữ mình gần như đứng ngang với họ nên tôi vẫn đang đứng trên cầu thang, cách họ khoảng bốn mét.

“Trẫm hỏi khanh,” Tôi chỉ vào một chàng thanh niên trông khoảng ngoài hai mươi. “vì sao khanh đi thi khoa cử?”

“Bẩm bệ hạ.” Hắn đáp. “Thần cả đời đọc sách thánh hiền, không tham gia khảo thí để lấy công danh, há chẳng phải phí hoài công sức sao?”

“Các khanh cũng thế sao?”

“Bẩm bệ hạ,” Một người có vẻ ngoài đứng tuổi nói. “thần nhiều năm đèn sách, cũng chỉ vì muốn cũng muốn làm rạng danh tiên tổ.”

“Thần từ nhỏ sức khỏe yếu kém, chỉ biết chút thơ văn nhưng cũng muốn dốc hết sức xây dựng nước nhà.”

“Học hành nhiều năm, cũng chỉ mong đỗ đạt làm quan, giúp dân giúp nước.”

Tôi khá hài lòng về câu trả lời của họ. Dù nghe cứ như lặp đi lặp lại một lời.

Tôi đến bên một chàng Nho sinh trông khoảng ngoài ba mươi có mái tóc đen nhánh cột đuôi ngựa và vận bộ trang phục trắng.

“Khanh cho trẫm biết, trên đời này có cái gì không cần đào mà vẫn sâu?”

“Bẩm bệ hạ, là biển.” Anh ta đáp.

“Cái gì, khi ngươi đứng, thì nó nằm, mà khi ngươi nằm, thì nó lại đứng?”

“Bẩm bệ hạ, là bàn chân.”

“Tại sao hổ lại ăn thịt sống?”

Anh ta tròn mắt nhìn tôi. Hắn nhìn ngang, những người khác cũng tỏ vẻ bí.

“Bệ hạ, thần xin chịu tội.” Hắn quỳ xuống.

“Bệ hạ,” Một người bước ra. “Cho phép thần.”

Tôi ra hiệu cho hắn trả lời.

“Hổ ăn thịt sống, bởi vì hổ không biết nấu.”

Đám Nho sĩ ồ lên gật gù. Tôi hỏi người tiếp theo.

“Đình nào lớn nhất?”

“Bẩm bệ hạ, là triều đình.”

“Con gì có lưỡi mà không có miệng, có mũi mà không có mắt?”

“Thứ quái vật gì thế?” Một tên khẽ hỏi nhưng tôi vẫn nghe được.

“Bẩm bệ hạ. Là con dao.” Anh ta đáp sau vài giây suy nghĩ.

Tôi hỏi người tiếp theo.

“Khi nào thì bốn bằng mười?”

Hắn suy nghĩ một lát rồi cũng đáp.

“Bẩm bệ hạ, mười cái miệng, hay bốn cái miệng thì cũng là cái ruộng.”[2]

“Nếu trẫm và cha khanh cùng rơi xuống sông, khanh sẽ cứu ai?”

Người Nho sinh nhìn tôi với ánh mắt tuyệt vọng. Những người khác cũng ngơ ngác nhìn nhau. Quan lại hai bên cũng khẽ trao đổi về câu hỏi hóc búa này. Tất nhiên, đến tận thế kỷ XXI còn có biết bao nhiêu chàng trai đau đầu khi bị người yêu mình hỏi câu tương tự mà.

“Bẩ… bẩm bệ hạ… Phụ thân thần là cha của bốn đứa con. Còn bệ hạ, là cha của cả thiên hạ. Xét về lợi hại, thần, nhất định sẽ cứu bệ hạ rồi ạ.”

“Vậy là, vì trẫm, khanh sẵn sàng phạm tội bất hiếu?”

“Bệ hạ thứ tội!” Hắn quỳ rạp xuống.

“Còn ngươi?” Tôi hỏi tên bên cạnh, người vừa trả lời câu hỏi con dao.

“Cha thần mất rồi ạ.” Hắn đáp ngay tắp lự. “Còn nếu bệ hạ định rơi xuống hoàng tuyền thì thứ cho thần vô năng, không thể đi cùng bệ hạ. Thần còn phải bảo vệ xã tắc Đại Việt, không phải một mình bệ hạ.”

“Hỗn láo!” Một vị quan hét lớn.

“Không sao!” Tôi phất tay. “Khẩu khí lớn lắm! Ta thích.”

“Ngươi thì sao?” Tôi hỏi tên tiếp theo.

“Cha thần rất giỏi bơi lội, ông ấy sẽ cứu bệ hạ.”

“Tức là ngươi sẽ không nhảy xuống cứu trẫm?”

“Thần không biết bơi, nếu thần xuống, triều ta có thể sẽ phải mất một vị trí quan trọng.”

“Quan trọng hơn cả trẫm?” Tôi khẽ nhướn mày.

Đến đây thì hắn bí.

“Bệ hạ, cho phép thần.” Gã Nho sinh lúc nãy vừa trả lời câu hỏi con hổ xin được cứu bồ. Anh ta trông khoảng ngoài hai mươi, tóc hắn được cột đuôi ngựa phía sau và có ánh mắt khá tự tin.

“Bệ hạ, tại sao Người lại dẫn phụ thân thần ra bờ sông?”

“Trẫm…”

“Và chẳng lẽ, bệ hạ ngồi trên ngôi vị cửu ngũ chí tôn, thế mà lại không biết bơi sao?” Hắn nhảy vào họng tôi nói. Nếu là Thái hậu thì hắn đã lôi đi đánh đòn rồi.

“Nhưng với cổn miện như thế này,” Tôi dang tay ra. “trẫm có thể bơi sao?”

“Nếu là thế,” Hắn cúi gập người. “Thứ lỗi cho thần, thần chỉ có thể cứu người ở gần thần nhất.”

Sau đó tôi tiếp tục ra nhiều câu hỏi khác cho các Nho sinh. Hầu hết đều là câu hỏi mẹo. Và chỉ có anh chàng bảo tôi không biết bơi trả lời được hết.

“Đủ rồi bệ hạ.” Thái hậu gọi tôi về chỗ. Sau đó, các quan viên tiếp tục đưa ra những bài khảo thí riêng để chọn xem ai phù hợp với vị trí nào.

“Có vẻ bệ hạ tìm được thầy học mới rồi.” Thái hậu nói khi tôi về chỗ ngồi.

“Kỳ thi tuyển Minh kinh bác học và Nho học tam trường năm Thái Ninh thứ tư,” Quan thái giám đọc quyết định của Thái hậu. “đỗ đầu, Đông Cứu Lê Văn Thịnh.”

Anh càng Nho sinh trả lời được hầu hết các câu hỏi khi nãy quỳ xuống vái.

“Thần, Lê Văn Thịnh, khấu tạ long ân.”

Tôi sặc nước trà.

Cô giáo lịch sử của tôi từng đố lớp tôi về “Tứ Trạng”. Đến cả thằng bạn chuyên sử của tôi cũng chỉ biết mỗi Trạng Lường Lương Thế Vinh. Sau đó chúng tôi mới biết thêm về Lưỡng Quốc Trạng Nguyên Mạc Đĩnh Chi. Trạng Nguyên nhỏ tuổi nhất lịch sử, nguyên mẫu của câu chuyện Cậu bé thông minh trong Sách giáo khoa, Nguyễn Hiền. Và Lê Văn Thịnh, Trạng Nguyên đầu tiên trong lịch sử Việt Nam.[3]

“Lê Văn Thịnh…” Tôi khẽ lặp lại.

“… Bổn cung thấy, Lê Văn Thịnh thông minh xuất chúng, lại từng dạy học, nay phong chức Thị độc vào cung hầu bệ hạ học. Khâm thử.”

“Thần, Lê Văn Thịnh nhất định không làm Thái hậu và bệ hạ thất vọng. Nguyện dốc toàn tâm toàn lực vì bệ hạ và vì xã tắc Đại Việt.”



[1] Bài thơ Tán Giác Hải thiền sư, Thông Huyền đạo nhân của vua Lý Nhân Tông. Tương truyền ông làm bài thơ này khi ông bảy tuổi, sau khi Thông Huyền chân nhân chữa bệnh sợ ve sầu của ông.
[2] Trong tiếng Hán, miệng là khẩu, điền là ruộng. Bốn cái miệng là bốn chữ khẩu (口), ghép vào nhau thành chữ điền (田). Mười cái miệng là chữ thập (十) và chữ khẩu, ghép vào nhau cũng thành chữ điền.
[3] Danh hiệu Trạng nguyên, Bảng nhãn và Thám hoa đến đời Trần mới được đặt. Nhưng đa số đều xem Lê Văn Thịnh là Trạng nguyên đầu tiên. Kỳ thi Minh kinh bác học năm Thái Ninh thứ tư (1075) cũng là kỳ thi tuyển chọn quan lại đầu tiên trong lịch sử Việt Nam.
 

Mạnh

Tác giả
Tham gia
9/7/20
Bài viết
423
Điểm cảm xúc
737
Điểm
93
Những buổi học với thầy Lê cũng quanh quẩn quanh Tứ Thư Ngũ Kinh, Bắc sử và Nam sử. Bớt được mớ kinh Phật kể cũng đỡ, nhưng đôi khi tôi và mẹ vẫn thường tụng kinh và ăn chay vào một số ngày. Thậm chí An Dân cũng bắt đầu phải học cách ngồi thiền và tụng kinh.

“Thầy Lê, trẫm muốn hỏi, vì sao quan phương bắc như Triệu Đà lại được xem là vua của nước ta?” Tôi hỏi Lê Thị độc trong một buổi học Nam sử.

“Ý của bệ hạ là…” Y nhướn mày nhìn tôi.

“Ý trẫm là, Triệu Đà chỉ là quan của Tần Thủy Hoàng, chỉ vì đương lúc loạn thế đánh xuống phía nam, tiêu diệt Âu Lạc mà xem y như vua của dân Việt ta sao?”

Tôi dốt Lịch sử, nhưng bạn cùng bàn tôi chuyên Sử. Nó thường hay cãi nhau trên mạng về vấn đề “Có chấp nhận Triệu Đà là một vị Hoàng đế của Việt Nam hay không?”

Đại khái là vì Triệu Đà lấy quốc hiệu Nam Việt, và Đại Việt sử ký toàn thư cũng có một kỷ riêng về ông ta. Hơn nữa trong thời gian trị vì, ông cai trị theo phong tục tập quán người Việt như ngồi xổm, nhuộm răng, đi chân đất… Các hậu duệ của ông cũng mang một nửa dòng máu Việt.

Bác Hồ cũng có thơ:
“Triệu Đà là vị hiền quân,
Quốc danh Nam Việt trị dân năm đời.”[1]

Nói chung là tôi chẳng quan tâm lắm. Nhưng ở đây thì lại phải quan tâm. Thời này có cả đền thờ của Triệu Đà ở lộ Khoái[2], phía đông nam thành Thăng Long. Một số nơi xem ông là thành hoàng[3] của làng mình.

“Hạ thần học thức nông cạn, không dám đoán bừa. Chỉ dám xét theo sách sử và truyền tụng trong dân gian. Theo ý của hạ thần, xưa An Dương Vương gầy dựng nước Âu Lạc, đã có thể chống lại được cuộc xâm lăng của Tần Thủy Hoàng. Nhưng rồi lại để thua và mất nước vào tay Triệu Đà. Đà vốn là quan phương bắc, nhưng khi về nước nam, y đã cai trị nước Việt theo phong tục của người Việt, thậm chí khi Cao Tổ nhà Hán muốn Vũ Đế nhà ta thần phục, ông ta cũng chỉ thần phục trên danh nghĩa. Giống như nhà Đinh, nhà Lê và cả nhà Lý chúng ta, bên ngoài xưng vương, nhưng trong nước vẫn là lễ nghi Hoàng đế.”

“Nhưng Triệu Đà vốn là người phương bắc mà.” Tôi cãi cố.

“Tích Quang, Nhâm Diên, Sĩ Nhiếp[4] cũng là quan phương bắc kia mà.” Thầy Lê đáp. “Thậm chí họ còn chẳng xưng đế xưng vương gì cả. Họ truyền bá văn hóa, giáo hóa chúng dân thì sẽ có được lòng dân. Còn như Tô Định, tham lam tàn bạo hà hiếp bá tánh thì sẽ chỉ có được sự phẫn nộ của dân chúng mà thôi. Cuối cùng, hắn cũng bị Trưng Nữ Vương đánh đuổi.”

Ánh mắt anh ta nhìn tôi giống như muốn nhắc tôi rằng “mày mà láo nháo là biến khỏi ngai vàng ngay.”

“Ví như Lê Đại Hành, đương lúc Đại Cồ Việt đang nguy khốn mà tiếm ngôi chăng?”

“Vua Đinh và Thái tử bị ám sát, quốc gia lại sắp có nạn binh đao, lúc đó là bất khả kháng. Quan trọng không nằm ở việc nối ngôi chính thống, là hào trưởng hay trẻ chăn trâu, ngôi vị Hoàng đế không xem ở xuất thân.”

“Xuất thân… giống như Tần Thủy Hoàng dù là con của kẻ ca kỹ nhưng cũng trở thành Hoàng đế đó à?[5]

“Đúng vậy. Bệ hạ nghĩ, tiêu chuẩn của một đấng minh quân là gì?”

“Tiêu chuẩn?”

“Nam Việt Võ Đế Đà sống hơn trăm tuổi[6], Sĩ Nhiếp sống cũng ngấp nghé tuổi cửu tuần, Trong khi đó kẻ Thiên cổ nhất đế mà bệ hạ nói cũng chỉ sống không quá năm mươi năm, bệ hạ nghĩ là do đâu?”

“Tu bổ nhân đức!” Tôi phán lại câu ngày xưa các lão sư thầy dạy.

“Chính xác!” Lê Văn Thịnh gật đầu mạnh. “Người giỏi trị nước không xét thân thế, không xem cương thổ, chỉ xem ở đức mà thôi. Triệu Võ Đế tự xưng đế trong nước, đối ngang với nhà Hán, mở đầu cơ nghiệp đế vương nước ta, giữ vững bờ cõi, thiết lập nhà nước, ngoại giao phải đạo, giữ ngôi bằng nhân đức, sống thọ là xứng đáng.”

“Trẫm hiểu rồi. Nhưng Thánh Tông Hoàng đế cũng băng hà ở tuổi bốn mươi chín, bằng với Tần Thủy Hoàng. Thầy nói phụ hoàng trẫm vô đức à?”

“Bản triều Thánh Tông sinh ra phải đi lùi về vạch đích, Tần Thủy Hoàng mười năm làm con tin Triệu Quốc, chịu biết bao cực khổ khó nhọc. Thánh Tông sinh được một người thừa kế anh minh trí hiếu như bệ hạ đây, còn Doanh Chính kia chỉ sinh được lũ con vô năng. Nay bệ hạ lại đố kỵ tuổi tác ư? Ở quê thần, người như thế sẽ bị xem là nhỏ mọn đấy.”

Trong đầu tôi thầm mừng vì mình đã chọn đúng người.

Học với Lê Văn Thịnh có cái hay. Đó là anh ta thường dẫn tôi đi dạo quanh thành. Chúng tôi chủ yếu đi bộ chứ không dùng xe ngựa. Đây vừa là cách rèn luyện sức khỏe, vừa để gần dân chúng. Khổ nỗi, mấy tay thái giám không dám để tôi đi lông nhông trên phố. Họ cứ nhất mực đi theo. Nên Lê Văn Thịnh đã bày ra kế cho hai thầy trò trèo tường ra khỏi Văn Miếu.

Đi chân đất là truyền thống của người Việt, nhưng mấy tên thái giám cứ sợ tội bị thương nên bắt tôi mang giày. Cuối cùng thì tôi cũng được đi chân đất dạo chơi trên phố.

“Thầy, đây là gì?” Tôi chỉ vào một thứ nữ trang bằng vàng đính kim cương.

“Đây là trang sức từ một đất nước ở xa về phía tây, tên là La Mã.”

“La Mã!?” Tôi tròn mắt nhìn Lê Văn Thịnh. Dốt lịch sử thì dốt, nhưng tôi biết La Mã là gì nhé.

“Một đất nước có lịch sử lâu đời. Nằm ở rất xa về phía tây.”

“Khách quan thật có mắt nhìn.” Gã thương nhân ấy là người Việt. Hắn cười tươi rói, để lộ ra một chiếc răng bằng vàng giữa hàm răng nhuộm đen. Ở Đại Việt thì răng đen là mốt, nhuộm răng đen mới chứng tỏ mình nhà giàu, nhưng tôi thì xin kiếu. May làm sao là hầu hết quan lại và cả mẹ tôi đều không chuộng mốt này. “Đây đều là hàng thượng hạng đến từ La Mã. Hai vị cứ tự nhiên quan sát lựa chọn.”

Cuối cùng, tôi chọn được một sợi dây chuyền bằng vàng. Giá cao ngất ngưởng nhưng Lê Văn Thịnh đã ghi giấy nợ và cho phép hắn tới ngân khố quốc gia để lấy tiền nợ.

“Quan lại La Mã là một hội đồng được gọi là Viện Nguyên Lão.” Lê Văn Thịnh giảng cho tôi về La Mã trên đường về. “Hoàng đế nước ấy không xem mình là con của trời mà tự ví mình như thần thánh. Có thể anh em con ở nơi ấy chăng?”

“Con chẳng có hứng thú nhận mấy tên ví mình như thần thánh làm anh em đâu.” Tôi thở dài gặm miếng bánh. “Nhưng con tưởng ở La Mã người ta làm theo kiểu chọn người tài lên làm vua?”

“Trước đây thì thế.” Lê Văn Thịnh nói. “Những việc chọn người lên làm vua sẽ do Viện Nguyên Lão quyết định thông qua biểu quyết số đông. Gần giống như chế độ thiện nhượng thời Ngũ Đế vậy. Nhưng sau một thời gian dài thì Hoàng đế lại nắm quyền hành tối cao và tiếp tục thể chế cha truyền con nối. Có những sự kiện cướp ngôi từ người ngoài họ, nhưng quốc hiệu thì không thay đổi.”

“Thầy có thể giải thích cho con vì sao lại chuyển từ chế độ thiện nhượng ấy sang chế độ thế tập không?” Tôi hỏi thầy Lê khi hai thầy trò về đến (trèo tường vào) Văn Miếu.

“Nếu bệ hạ phải lựa chọn giữa Thượng Dương Thái hậu và Linh Nhân Thái hậu, Người sẽ chọn ai?”

“Tất nhiên là mẹ trẫm.”

“Sự thật là bệ hạ đã chọn Linh Nhân Thái hậu. Nhưng nếu khi ấy có một cuộc chiến tranh giành ngôi vị nhiếp chính giữa hai vị Thái hậu thì bệ hạ có ngăn được không?”

“Không.” Tôi khẳng khái trả lời.

“Đấu đá nội bộ trong cung, có thể dễ dàng dẫn tới chiến tranh trong nước. Trong nước mà có chiến tranh, thì ai là người khổ?”

“Bá tánh.”

“Nếu có chiến tranh, bá tánh bị đưa ra chiến trường, ai sẽ cày ruộng sản xuất lương thực?”

“Vậy thì chế độ tập quyền có tác dụng thế nào?”

“Thì khi ấy, ngai vàng sẽ chỉ trao cho người con của Hoàng đế trước, dẫu có tranh chấp thì cũng hiếm khi nào vượt ra ngoài phạm vi cung đình. Tuy cũng có những lần có binh biến, như loạn tam vương thời Thái Tông. Nhưng nhờ sự bao dung độ lượng của Người mà mọi chuyện cũng ổn thỏa. Nhưng để tránh những trường hợp đáng tiếc như thế xảy ra, ngôi vị Thái tử nên được quyết định sớm.” Thầy Lê nhìn tôi. “Trong cả bắc sử và nam sử, bệ hạ là Thái tử trẻ nhất đấy.”

“Nhưng trẫm có thắc mắc khác. Từ La Mã tới chỗ ta, xa xôi vạn dặm, vậy thì giá thành sản phẩm sẽ như thế nào?”

“Giá thành sản phẩm của La Mã cao gấp trăm lần sản phẩm của nhà Tống. Vì lẽ đó, chỉ có trong Hoàng cung hoặc quý tộc giàu nứt đố đổ vách mới có thôi.”

“Thế còn cửa hàng bên đường đó?”

“Ở đó bán toàn đồ giả thôi.” Lê Văn Thịnh nói như thể anh ta đã biết từ đầu. Ánh mắt anh ta như trêu tôi.

“Trẫm đã phí tiền vào thứ gì thế này?” Tôi lắc cái vòng trong tay. “Thái hậu sẽ giết trẫm mất.”

“Bệ hạ yên tâm.” Lê Văn Thịnh mỉm cười. “Tờ ngân phiếu khi nãy thần đưa hắn cũng là đồ giả thôi.”

“Hả?”

“Bệ hạ nghĩ chức tước thần đủ to để đụng tới ngân khố quốc gia sao?”

“Ừ… nhỉ…” Tôi gãi đầu. “Nhưng sao thầy không nói với ta ngay từ đầu?”

“Để dạy bệ hạ thôi.” Lê Văn Thịnh mỉm cười. Dạy học cho Hoàng đế thích thật. Mắng Hoàng đế cà khịa hoàng tộc mà chẳng lo chịu tội.

“Kinh đô của La Mã là một thành trì giàu sang bậc nhất. Có thể nói, đó là trung tâm thương mại của cả thiên hạ. Điểm đầu của con đường tơ lụa là từ Đại Tống. Còn điểm cuối chính là kinh đô của La Mã. Một thành trì xa hoa tráng lệ. Tuy nhiên, để đi từ đó tới đây, sẽ phải băng qua sa mạc, đi qua các Hãn Quốc ở Tây Vực rồi giặc cướp. Đó là lý do sản vật từ La Mã có giá thành cao ngất ngưởng.”

“Họ có thể đi đường biển mà.” Tôi gợi ý.

“Có chứ.” Thầy Lê gật đầu. “Thời thuộc Hán, có một thuyền buôn của La Mã đã từng cập cảng ở nước ta. Nhưng trên biển cũng đâu có thiếu cướp biển và thiên tai. Thần từng gặp một thương nhân Tây Dương, ông ta nói rằng đi đường biển phải vòng qua một nơi gọi là Lục địa Đen, rồi băng qua những vùng biển đầy nguy hiểm.”

Với một vài kiến thức, tôi đoán ra ngay Lục địa Đen mà anh ta nói chính là Châu Phi.

“Chung quy lại, con đường nào cũng sẽ nguy hiểm như nhau thôi.”

“Còn chứ.” Tôi mim cười.

“Bệ hạ có cao kiến gì sao?”

“Đường hàng không.” Tôi trỏ ngón tay lên trời.

“Hàng… không?” Lê Văn Thịnh ngước lên nhìn trần nhà. “Ý bệ hạ là… bay?”

“Đúng!” Tôi búng tay. “Là bay!”

“Bệ hạ đúng là người trời mà.” Lê Văn Thịnh cười khùng khục. “Thứ lỗi cho thần, thần không biết bay.”

“Ta nói với thầy,” Tôi nói với Lê Văn Thịnh. “Một nghìn năm nữa con người sẽ thống trị cả bầu trời.”

“Thống trị bầu trời ư?”

“Không chỉ bầu trời. Sẽ có ngày, chúng ta sẽ đặt chân lên mặt trăng nữa kìa.”

“Bệ hạ, chú Cuội và chị Hằng đã lên đó từ lâu rồi.” Lê Văn Thịnh rót trà. “Và dẫu ngày mà con người trần thế có thể lên được cung trăng thì thần cũng đã về nơi chín suối rồi.”

Ánh mắt của Lê Văn Thịnh đăm chiêu nhìn ra ngoài vườn. Tôi có thể thấy anh ta đang mơ. Mơ về tương lai khi con người bay lượn trên bầu trời.



[1] Hai câu này nằm trong bài thơ Lịch sử nước ta của Bác.
[2] Lộ Khoái tương đương tỉnh Hưng Yên hiện tại.
[3] Thành hoàng là vị thần được tôn thờ chính trong đình làng Việt Nam, là chủ tể trên cõi thiêng của làng và đều mang tính chất chung là hộ quốc tỳ dân (hộ nước giúp dân) ở địa phương đó.
[4] Tích Quang và Nhâm Diêm là quan Thái thú đầu thời Đông Hán cai quản Giao Chỉ (Việt Nam lúc đó). Là những người đầu tiên truyền bá tư tưởng Khổng Tử vào Việt Nam. Sĩ Nhiếp là Thái thú cuối thời Đông Hán đầu thời Tam Quốc. Trong khi Trung Quốc đánh nhau loạn xạ thì Sĩ Nhiếp giữ cả Giao Châu yên bình như vua một cõi. Đến khi Sĩ Nhiếp mất thì con Nhiếp mới bị Tôn Quyền đánh bại và sáp nhập vào Đông Ngô. Đến đời Trần thì Sĩ Nhiếp được phong vương. Tóm lại, Lê Văn Thịnh đang dạy vua Lý Nhân Tông phải biết tu đức thì mới sống thọ. Nguyên buổi học này Lê Văn Thịnh phạm húy vua n lần nhưng chẳng ai thèm để ý.
[5] Đọc Bão Tố chương 10 phần V.
[6] Theo các tài liệu thì Triệu Đà sống đến 121 tuổi, ở ngôi 70 năm, lâu nhất trong số các Hoàng đế Trung Hoa và cả Việt Nam.
 

Mạnh

Tác giả
Tham gia
9/7/20
Bài viết
423
Điểm cảm xúc
737
Điểm
93

Dạo này con có cảm thấy những sản phẩm xuất khẩu từ nhà Tống đang tăng giá không?”

Thầy Lê hỏi tôi khi cả hai đang “đi học” ở gần một khu chợ. Chuyện này mẹ tôi cho phép. Thái úy cũng nói rằng: “Bệ hạ nên gần dân chúng để hiểu được đời sống nhân dân.”

“Con cũng có thấy.” Tôi cắn một miếng bánh. “Biên giới có chuyện à?”

“Tiểu công tử đây không biết đó thôi.” Người thương nhân nói với tôi. “Nhà Tống đang đóng cửa biên giới, bây giờ người mình chẳng qua được mà người bên kia cũng chẳng về được.”

“Sao tự nhiên lại đóng cửa biên giới?” Tôi hỏi.

“Ai mà biết. Chắc lão họ Vương kia lại có cải cách gì đó rồi.”

“Bệ hạ, người nghĩ sao về chuyện này?” Lê Văn Thịnh hỏi tôi khi hai thầy trò về đến Văn Miếu.

“Sắp có chiến tranh rồi.” Tôi khẳng định.

“Sao bệ hạ lại nghĩ thế?”

“Nhà Tống đang gặp nhiều vấn đề biên phòng phương bắc, nên rất cần giao thương để thu thuế và tăng quốc khố nuôi quân đội. Không lý nào họ lại đi làm một chuyện ngu ngốc như đóng cửa biên giới cả. Nếu có lý do cho việc đó, thì chỉ có thể là họ đang chặn đứng một thứ gây nguy hại đến nước họ. Và đó có thể là gì ngoài thông tin cơ chứ?”

“Quá đúng là bệ hạ!” Lê Văn Thịnh sáng mắt khen ngợi.

“Bài này tôi học rất kỹ để thi học kỳ đấy.” Thực ra cũng nhờ Lê Văn Thịnh đã dạy tôi một chút về binh thư nữa.

Lê Văn Thịnh nhỉnh hơn các sư thầy kia ở chỗ là anh ta rất rành binh pháp. Mới kết thúc kỳ thi Minh kinh bác học có một tháng, Lý Thường Kiệt đã gô đầu ông giáo của tôi đi và cho anh giữ chức Thị lang. Chức Thị lang này là phụ giúp cho Thượng thư giống Lưu Khánh Đàm nhưng nhiệm vụ khác nhau. Lưu Khánh Đàm lo các công việc xây dựng, còn Lê Văn Thịnh làm việc quân sự. Từ tuyển quân cho đến đúc binh khí. Dù phải một lúc gánh cả hai việc nhưng Lê Văn Thịnh không hề tỏ ra lúng túng, anh ta luôn hoàn thành tốt trách nhiệm của mình.

“Nhưng nếu có chiến tranh thực sự, thầy nghĩ ai sẽ là người đủ khả năng lãnh đạo quân dân ta kháng chiến?” Tôi hỏi.

“Tất nhiên, chỉ có Thái úy triều ta đủ khả năng mà thôi.” Lê Văn Thịnh nói. “Thái úy là chiến thần đương thời, có thể sánh với Ngô Vương ngày xưa. Tuy nhiên, một mình ông ấy là không đủ.”

“Không đủ ư?” Tôi chau mày. “Thái úy võ nghệ phi thường, trí dũng song toàn, vậy mà còn chưa đủ để đánh bại nhà Tống sao?”

“Nếu là một đội quân nhỏ, Thái úy có thể đánh. Nhưng nếu là một đạo quân quá lớn, mình Thái úy không đủ.”

“Thế phải làm sao?”

“Bệ hạ à, Đại Việt ta không phải chỉ có mình Thái úy thôi đâu.”



Ngay trong buổi chầu hôm sau, tin tình báo bay về, quân Tống thực sự đang tích trữ lương thực khí giới ở Ung Châu và sẵn sàng công đánh Đại Việt. Hóa ra chúng đã chuẩn bị từ lúc vua Lý Thánh Tông mới đánh Chiêm. Rồi sau vụ nội loạn của họ Dương thì chúng thấy thời cơ đang dần chín muồi và đã đẩy mạnh công tác chuẩn bị cho cuộc xâm lược.

“Vương An Thạch thật quá quắt!”

“Hắn cho rằng chúng ta vừa mới chiến tranh với Chiêm Thành xong nên không còn đủ quân để chống trả ư?”

“Sao hắn có thể nghĩ ra cái thứ như thế này cơ chứ?”

“Các ái khanh,” Tôi gọi lớn. “về vấn đề này, trẫm thấy là hoàn toàn có lý do đấy.”

Văn võ bá quan quay lên nhìn tôi.

“Vương An Thạch vốn là một tay chơi lão làng. Hắn ta nhất định đang định dùng kế “lấy chiến tranh để nuôi chiến tranh” rồi.”

“Bệ hạ,” Một người lên tiếng. “Thần đánh trận hơn hai mươi năm chưa từng nghe binh thư nào nói đến kế này.”

“Đây là một thuật ngữ,” Tôi giải thích. “trong chiến tranh Đông Dương, Pháp đã dùng chính chiêu bài này khiến quân dân ta khốn đốn.”

Tôi nhìn mặt hai hàng quan lại. Họ ngơ người ra như nghe tiếng nước ngoài.

“Nói ngắn gọn, Vương An Thạch muốn sử dụng tài nguyên thu được từ chúng ta để bù đắp vào ngân khố trống rỗng của nhà Tống. Đồng thời giúp quân sĩ phương bắc có thêm chút sĩ khí. Tình huống xấu nhất, nếu ta thua trận, ta sẽ bị bóc lột như thời Đường. Thậm chí có thể quân binh và dân phu nước ta có thể còn phải đi lên miền bắc để đánh trận với Liêu và Kim nữa.”

Cái này tôi chưa học, nhưng ông bà tôi đều là chiến sĩ trong kháng chiến chống Mỹ cứu nước. Ông tôi hy sinh, bà tôi vẫn thường kể chuyện về các chiến dịch quân sự. Tôi cũng nhớ được chút chút. Quay trở lại triều đình Đại Việt, các quan lại sau khi nghe tôi trình bày về lấy chiến tranh nuôi chiến tranh thì mặt họ bắt đầu dãn ra. Nhưng rồi họ lại cau có và xì xào.

“Sao bệ hạ nghĩ ra được những thứ như thế được nhỉ?”

“Lê Văn Thịnh đã dạy bệ hạ những gì thế?”

“Một đứa trẻ có thể có được kiến thức cao siêu và uyên thâm như thế sao?”

“Bệ hạ, thần có lời muốn nói.”

Một người bước ra khỏi hàng và cúi người hành lễ với tôi. Anh ta trông khoảng ngoài ba mươi. Dáng người to lớn cùng và có cái uy của một tướng quân. Các bạn tưởng tôi không biết anh ta à? Tất nhiên là tôi có biết. Đó là Chiêu Văn Hầu Lý Thái Nguyên, cháu nội của Uy Minh Vương Lý Hoảng. Uy Minh Vương là em trai vua Lý Thái Tông, vậy nên anh ta là em họ tôi.

“Quân hầu cứ nói.”

“Nếu chúng ta đã sắp sửa có một cuộc đại chiến với nhà Tống, bệ hạ đã liệu được đối sách chưa?”

“Tất nhiên.” Tôi mỉm cười. Những ngày học bài để chuẩn bị cho kiểm tra một tiết của tôi sắp phát huy tác dụng rồi. “Chúng ta sẽ đánh phủ đầu nhà Tống. Quân ta sẽ đánh thẳng vào Ung Châu.”

Quần thần lại xôn xao bàn tán.

“Bệ hạ, chuyện đó…”

“Bệ hạ, dù rằng Người anh minh sáng suốt, nhưng đánh vào đất Tống. Từ thời Lê chúng ta cũng chỉ mới đánh phá quanh biến giới, tiến vào tận Ung Châu, chuyện này… là bất khả thi rồi ạ.”

“Bất khả thi cái gì? Các khanh đã thử bao giờ chưa mà biết?” Tôi lên giọng. “Vua Lê mới lập quốc đã có đánh vào đất Tống, khiến quân thần nhà Tống sợ xanh mặt, Lý triều ta hùng mạnh như thế này mà lại không thể xuất binh một trận dằn mặt nhà Tống sao? Các khanh tự ti cái gì? Tự nhục dân tộc hả?”

Tôi biết là tôi hơi quá lời, nhưng ít nhất thì nói thế khiến đám võ tướng có vẻ hừng hực khí thế hơn.

“Bệ hạ.” Một người khác bước ra và quỳ xuống. “Thần xin được ra trận.”

Người này có gương mặt trẻ măng, mới mười bảy tuổi. Anh có ánh mắt mạnh mẽ giống cha tôi và cắt tóc ngắn. Anh là Hoằng Chân Hầu Lý Hải Dương, con của Phụng Càn Vương Lý Nhật Trung, em ruột của Thánh Tông. Tức là em họ của tôi luôn.

“Hầu gia từ từ.” Tôi nói với anh ta và quay lại nhìn các triều thần. “Các vị, các vị nghĩ ai là người thích hợp nhất để đánh vào đất Tống?”

Họ không ai nói được lời nào. Có lẽ vì họ đều biết ai là người thích hợp nhất.

“Bệ hạ,” Thái úy Lý Thường Kiệt bước ra. “thần, xin được ra trận.”



“Bệ hạ thực sự giao hết quyền hành cho Thái úy ư?” Lê Văn Thịnh hỏi khi đang cùng tôi tập viết chữ.

“Tất nhiên.” Tôi nói khi đang viết bài Đoản Ca Hành của Tào Tháo. “Thầy cũng bảo Thái úy là chiến thần đương thời còn gì.”

“… được.”

“Ngài không được vào đây đâu ạ.”

“Quân hầu…”

“Chuyện gì ồn ào thế?” Tôi nhìn ra ngoài.

“Bệ hạ.” Hoằng Chân Hầu Lý Hải Dương xuất hiện trước mặt tôi. Mặt anh ta nóng bừng lên. Rồi chợt nhớ ra điều gì, anh vội quỳ xuống. “Thần mạo phạm vào giờ học của bệ hạ, xin bệ hạ thứ tội. Nhưng thần có việc cần tấu.”

“Ngoài Thái úy, nước ta vẫn còn rất nhiều các tướng tài khác, tại sao bệ hạ chỉ trọng dụng duy nhất mình Thái úy?” Anh ta nói sau khi tôi cho phép.

“Trẫm…”

“Bệ hạ, nếu quân quyền rơi quá nhiều vào tay một người, bệ hạ có lường được hậu quả hay không?” Anh ta cắt lời tôi.

“Được rồi.” Tôi quay lại bàn học và rót một cốc trà. “Hầu gia hãy hạ hỏa đi.”

Anh ta nhận cốc trà nhưng chưa uống ngay.

“Bệ hạ, thần không có tâm trạng.”

“Hình như là trẫm chiều đệ quá rồi đệ hư đúng không!?” Tôi quát.

“Quân hầu,” Lê Văn Thịnh đứng bên cạnh khuyên nhủ. “kinh động tới giờ học của bệ hạ là trọng tội đấy.”

“Bệ hạ,” Lý Hải Dương nói tiếp. “thần là hoàng thân quốc thích, từ nhỏ đã được luyện võ và học binh thư, chỉ mong có một ngày được dẫn quân đánh trận, bảo vệ quốc gia như cha ông. Nay bệ hạ trọng dụng đại thần, rời xa huynh đệ như thế này, có khác gì Ngụy Văn Đế với các huynh đệ ngày xưa?”

“Giờ lại lấy Tam Quốc ra dọa trẫm cơ đấy.” Tôi nóng máu. “Thế giờ em đọc khổ cuối bài Đoản Ca Hành xem.”

“Núi không ngại cao,
Nước không ngại sâu,
Chu Công thả cơm,
Thiên hạ về theo.”

Hải Dương đọc lại bài thơ.

“Chu Công ngày xưa làm rơi vãi cơm khi nhai, trong lòng chỉ mong chờ tìm được hiền tài giúp nước [1]. Nay trẫm đã có nhân tài và giang sơn nhất tổ nhị tông để lại, lại không biết trân quý,” Tôi quay vào trong đưa tay về phía Chu Công. “làm sao dám cai trị thiên hạ này? Quân hầu đường đường là người của hoàng thất, lại đi ganh tị chỉ vì chút chuyện nhỏ nhặt này ư? Liệu quân hầu có đang định làm một loạn tam vương nữa hay không?”

“Bệ hạ quá lời rồi.” Hải Dương dập đầu xuống. “Thần ngu muội, nhất thời không hiểu chuyện, xin bệ hạ trách phạt.”

“Được!” Tôi lớn tiếng và ngồi xổm xuống cạnh anh. “Nghe lời trẫm này, sau khi Thái úy thắng trận, nhà Tống sẽ đem quân sang đánh nước ta. Khi ấy, trẫm muốn Hoằng Chân Hầu Lý Hải Dương tận tâm tận lực hỗ trợ Thái úy bảo vệ đất nước.” Tôi nhớ lại lời cha tôi đã nói với Thái úy và Thái sư trước lúc lâm chung. “Cúc cung tận tụy, đến chết không thôi.”

Ánh mắt anh ta nhìn tôi như sáng lên.

“Thần xin tiếp chỉ!”

“Bệ hạ,” Lê Văn Thịnh gọi tôi sau khi Lý Hải Dương đã đi khuất. “sao bệ hạ có thể khẳng định được nhà Tống sẽ lại đem quân tới?”

“Trẫm…” Tôi chỉ lên trời. “xem thiên tướng.”



Tối hôm ấy, Lý Thường Kiệt tìm tới điện Thiên Khánh khi tôi đang ăn cơm.

“Bệ hạ thứ tội, thần lỡ làm phiền giờ cơm của bệ hạ, thần sẽ quay lại sau.”

Lý Thường Kiệt quay đi.

“Thái úy, vào đây nào.” Tôi ngoắc tay.

“Thái úy, không cần phải ngại đâu.” Mẹ tôi cũng nói.

“Thái úy!” An Dân gọi lớn.

Cuối cùng Thái úy đành ngồi xuống ở vị trí xa nhất.

“Lại gần đây nào.” Tôi ngoắc tay.

Lý Thường Kiệt từ từ xích lại gần.

Tôi xới cớm cho vào bát rồi mời Thái úy.

“Bệ hạ!” Thái úy trông rõ ràng là khó xử.

“Ừm, thế này hơi khó xử nhỉ.” Tôi nhìn mọi người. “Người đâu!?”

Chờ tên thái giám tới, tôi bảo hắn mang cho tôi cái chiếu.

Vua tôi ngồi khoanh chân trên chiếu. Trên mâm chỉ có mấy món thịt cá rau canh.

“Ăn nhiều vào An Dân.” Tôi gắp thịt cho em tôi. “Ăn nhiều mới mau lớn.”

Ánh mắt Thái hậu và Thái úy chòng chọc nhìn hai đứa trẻ.

“Thái úy, việc học võ của bệ hạ và Minh Nhân Vương dạo này thế nào?” Thái hậu hỏi.

“Hồi Thái hậu, bệ hạ và điện hạ đều lanh lợi hoạt bát, nhanh chóng tiếp thu được tinh hoa võ thuật của dân tộc và cả thương pháp của Thái Tổ. Sau này nhất định có thể thân chinh dẹp giặc.”

“Thái úy cũng ăn đi.” Tôi xắn một miếng cá ra và gắp cho Lý Thường Kiệt.

“Ơ, bệ hạ, thần,” Lý Thường Kiệt cố tránh.

“Khanh lại không nể trẫm.” Tôi tặc lưỡi.

Cuối cùng Lý Thường Kiệt đành nhận.

“Thái úy phu nhân dạo này khỏe không ạ?” An Dân hỏi.

“Phu nhân nhà thần vẫn khỏe. Tạ điện hạ quan tâm.”

“Thái úy là nghĩa đệ của tiên đế, tức là nghĩa thúc của bệ hạ và bản vương.” An Dân nhí nhảnh nói. “Phu nhân của ngài cũng là người nhà cô[2] thôi. Người nhà quan tâm nhau là chuyện nên làm mà.”

“Điện hạ quá lời rồi. Thần tích đức ba đời mới có được vinh hạnh ấy.”

“Mùa đông sắp tới rồi.” Mẹ tôi đặt đũa xuống. “Phu nhân Thái úy cũng dần có tuổi, sức khỏe cũng không còn như xưa. Ta sẽ tặng khanh một ít áo ấm đem về.”

“Thái hậu…” Lý Thường Kiệt ăn cơm với nước mắt.

“Thế khanh đã quyết định xong chưa?” Tôi hỏi Lý Thường Kiệt khi ngồi đánh cờ cũng ông sau bữa cơm.

“Quyết định…”

“Chiến thuật, hướng hành quân, nhân sự, quân số…” Tôi đặt quân cờ vây xuống.

“Bẩm bệ hạ, thần và Lưu Thượng thư đã sắp xếp xong cả rồi ạ.”

Tôi nhìn ông.

“Mà, Thái úy nổi tiếng dụng binh cẩn trọng lại đồng ý với chiến thuật đánh vào nước Tống của trẫm cơ đấy.”

“Ngồi yên đợi giặc sao bằng đánh trước để bẻ gãy mũi nhọn của nó.”

“Là tiên phát chế nhân. Thái úy, tướng ngoài trận mạc, bất cần lệnh vua.”

“Bệ hạ, điều này…”

“Một khi đặt chân lên đất Tống, toàn bộ quyền quyết định sẽ nằm ở ngài. À không, ngay khoảnh khắc ngài đi qua cổng Diệu Đức[3], mọi sự sẽ do ngài quyết định.”

“Thần nghe nói hôm nay Hoằng Chân Hầu đã có chút bất bình về chiến dịch này.” Lý Thường Kiệt đổi chủ đề.

“Thái úy đi chấp trẻ con ư?” Tôi cười. “Tuy là Hầu tước, nhưng biểu đệ trẫm mới mười bảy tuổi, còn chưa hiểu chuyện. Hy vọng Thái úy không để bụng.”

Tôi không biết Lý Thường Kiệt cảm thấy thế nào khi nghe một đứa trẻ chín tuổi nói một người mười bảy tuổi là trẻ con. Nhưng ở đây ai cũng xem tôi là người trời nên tôi cũng mặc.

“Thần đời nào dám để bụng.” Thái úy mỉm cười. “Ngày còn trẻ, thần cũng ngông nghênh như thế. Tiên đế còn chững chạc hơn thần.”

“Thái úy,” Tôi gọi. “có muốn cùng trẫm, gánh vác giang sơn này không?”

“Là vinh dự của thần!” Lý Thường Kiệt chắp tay nói.

Tôi mỉm cười.

“Đại Việt ta thật có phúc khi có một đấng anh hùng như khanh.”



Phụ quốc thái úy Lý Thường Kiệt cưỡi ngựa đi ngay bên cạnh kiệu của tôi, hai bên đường, dân chúng thành Thăng Long tụ tập đông nghịt nhìn đoàn quân giáp trụ sáng bóng, cờ quạt bay trong gió, tiếng bước chân, tiếng trống và tiếng tù và, tất cả cùng tạo thành một bản hùng ca đầy hoành tráng.

“Thái úy đi chuyến này, dẫu có gian nan, cũng phải đại thắng trở về.” Tôi vén rèn kiệu nói với Lý Thường Kiệt. Con ngựa của ông cao lớn và có bộ lông trắng muốt tuyệt đẹp. Chiếc đuôi của nó có một nửa màu trắng và một nửa màu hồng[4].

“Bệ hạ xin hãy yên tâm.” Lý Thường Kiệt nói. “Thần mang binh đánh trận, nhất định không làm nhục mệnh vua. Nhất định sẽ làm cho nhà Tống kia không thể tiến được một binh một tốt xuống phía nam.”

“Tốt!” Tôi cười. “Lý Thường Kiệt! Hãy thỏa sức mà tung hoành trên chiến trường. Trẫm sẽ chờ tin thắng trận của khanh.”

Thái úy bước qua cổng Diệu Đức và xuống ngựa.

“Bệ hạ vạn tuế!” Lý Thường Kiệt chắp tay vái tôi.

Tôi cũng chắp tay đáp lễ.

Từ hành quân, chiến thuật, nhân sự… tất cả đều do Thái úy Lý Thường Kiệt và Thượng thư Lưu Ngữ, bố của Lưu Khánh Đàm quyết. Một khi vượt qua biên giới Việt – Tống, thì mọi việc đều nằm ở quyết định của Lý Thường Kiệt. Thậm chí là tôi cũng không có quyền gọi ông ta trở về.



Chiến trường đất Tống cực kỳ gian nan. Mỗi ngày tôi đều thấp thỏm chờ đợi tin tức. Cho đến một ngày, không thể chịu đựng được, tôi đã để lại triều đình cho Thái phó và Thái hậu. Tôi và Lê Văn Thịnh lên Lạng Châu. Bây giờ chính là Lạng Sơn.

Bấy giờ là đầu tháng mười hai âm lịch. Cái thời tiết lạnh thấu xương ở miền núi phía bắc này khiến tôi không dám nghĩ đến tình cảnh cái lạnh ở Trung Quốc. Quân sĩ của tôi, Lý Thường Kiệt và rất nhiều người đang ở đó, cố gắng hết sức để ngăn chặn một cuộc tấn công của quân thù. Họ đang chiến đấu vì Tổ quốc, vì nhân dân. Và vì tôi. Tôi không thể yếu đuối được.

Nhà của của người dân ở đây là nhà sàn hoặc những ngôi nhà được xây dựa vào núi. Ngôi nhà lớn nhất và đẹp nhất cũng được dựng lên từ gỗ và lợp bằng rơm. Trên đỉnh ngôi nhà đó có một lá cờ màu vàng viền đỏ đề chữ Lý màu đen to. Sân nhà còn đang phơi một lớp da hổ.

“Chị!” Tôi lon ton chạy vào ngôi nhà lớn đó. Trong chiếc áo choàng lông thú dài tới chân, tôi đã suýt ngã mấy lần.

“Công chúa.” Lê Văn Thịnh cúi người vái công chúa Thiên Thành.

Đây là lần thứ ba tôi gặp chị. Lần đầu là khi phụ hoàng mất. Lần hai là khi chị về Thăng Long sau cuộc loạn họ Dương. Chị gái tôi có nước da trắng hồng xinh đẹp không kém gì Thái hậu Ỷ Lan. Dáng người thon thả và đoan trang của con nhà hoàng tộc. Đôi mắt chị hiền hậu, mái tóc đen nhánh để xuông dài. Chị mặc một chiếc áo lông gấu màu nâu dài ấm áp, đeo nhiều trang sức vàng và vấn một chiếc khăn đen trên đầu. Đây là bộ trang phục truyền thống của người dân tộc Tày ở miền núi phía Bắc. Chị tôi được gả cho tù trưởng xứ này là Thân Cảnh Phúc. Phò mã hiện đang cùng Lý Thường Kiệt bắc chinh.

“Khấu kiến bệ hạ. Bệ hạ vạn tuế vạn tuế vạn vạn tuế.” Chị tôi quỳ xuống.

“Chị, bình thân đi.” Tôi đỡ chị tôi. “Chị em một nhà cả mà.”

“Lê Thị lang.” Chị tôi tiếp tục nhún người chào Lê Văn Thịnh. “Bệ hạ không làm khó ngài chứ?”

“Bệ hạ lo lắng cho quân sĩ ngoài biên ải thế này, là phúc phận của quốc gia, sao thần có thể lười nhác được.” Lê Văn Thịnh đáp.

“Tại vì ở đây thông tin sẽ về nhanh hơn.” Tôi nói. “Chị, mấy ngày nay tình hình thế nào?”

“Tình hình chiến sự, khá là khả quan.”

Chị tôi dẫn tôi và Lê Văn Thịnh tới cạnh một tấm bản đồ da vẽ khu vực vùng núi phía bắc Việt Nam và miền nam Trung Quốc.

“Phó tướng quân ta, Tông Đản đã chỉ huy lực lượng của các tù trưởng đánh chiếm các trại ở phía tây.” Chị tôi lần ngón tay theo các dãy núi và các tòa thành trì đã bị đánh dấu X. “Trong khi đó, quân thủy do Thái úy chỉ huy sẽ đánh vào Khâm – Liêm. Có thể chỉ vài ngày thôi là chiếm được Khâm Liêm.”

“Liệu, mọi chuyện có thuận buồm xuôi gió không đây?” Tôi thở dài. Với cái thời tiết này thì ai cũng chỉ muốn trùm chăn và ngủ một giấc thật dài. Tôi từng xem một số phim lịch sử, thấy chuyện quân sĩ phe này không quen khí hậu mà ngã bệnh rồi phe kia đánh ngược lại khá nhiều. Dẫu biết trước là sẽ thắng, nhưng tôi vẫn lo lắng không thôi.

“Bệ hạ không cần phải lo lắng, ảnh hưởng đến long thể.” Chị tôi khuyên. “Thái úy là chiến thần anh dũng nhất Đại Việt. Các chỉ huy Tông Đản, Vi Thủ An, Lưu Kỷ cũng là tướng tài. Dẫu có khó khăn, nhưng chỉ cần quân và dân đồng lòng thì khó khăn nào chúng ta cũng có thể vượt qua được.”

“Quân và dân…” Tôi nhớ mang máng lại tiết học trên lớp ngày xưa. Cô giáo tôi có nói gì đó về nhân dân nước Tống trong cuộc chiến này.

“Thầy!” Tôi quay sang Lê Văn Thịnh. “Chuẩn bị hành trang đi. Chúng ta sẽ sang Tống một chuyến.”


[1] Một điển tích thời nhà Chu. Chu Công Đán mong có được hiền tài ra giúp nước, khi có người tới lúc ông ăn cơm ông lập tức chạy ra trong khi còn đang nhai và nói chuyện thì phun cơm vào người ta. Trong bài thơ Đoản Ca Hành, Tào Tháo đã nhắc đến điển tích này.
[2] Cô (孤) là tiếng nhún mình của các vua chư hầu, được dùng bởi những người mang tước vương, nghĩa là nói tự khiêm là kẻ đức độ kém.
[3] Cổng bắc kinh thành Thăng Long.
[4] Đúng con ngựa Song Vỹ Hồng từng xuất hiện trong Bão Tố.
 

Mạnh

Tác giả
Tham gia
9/7/20
Bài viết
423
Điểm cảm xúc
737
Điểm
93

Quân pháp Đại Việt nghiêm minh, binh lính tuyệt nhiên không rớ tới một hạt gạo nào của dân. Nhân dân nước Tống vẫn sống yên bình. Khi tôi và Lê Văn Thịnh hỏi thì họ chỉ đáp ngắn gọn “Quân Việt không sát hại thường dân.”

Tên sứ giả năm trước tới Thăng Long mở mồm một tiếng Giao Chỉ, hai tiếng An Nam. Thấy những người dân vùng biên giới này gọi quân Việt là tôi có thể hình dung được phần nào ấn tượng của binh lính Đại Việt trong mắt họ.

“Tài sản của nhân dân. Tính mạng của nhân dân. Và lòng tự tôn của nhân dân.” Lê Văn Thịnh nói khi chiếc xe ngựa đi ngang qua một cánh đồng lúa. “Kẻ cầm quyền mà vô lý tước đoạt đi ba thứ ấy của dân sẽ không bao giờ được tha thứ.”

“Thầy, ta đang ngăn chặn cuộc tấn công của họ, nhưng trong mắt họ thì ta đang là quân xâm lược, đúng không?”

“Đúng là thế.”

Tôi gặp một toán lính Đại Việt đang ngồi uống nước bên đường.

“Dừng xe đã.” Tôi gọi người đánh xe và nhảy xuống chỗ họ.

“Trời lạnh thật đấy.” Một người than thở.

“Thời tiết này mà chúng mình còn phải đi đánh trận.”

“Vợ tôi đang mang thai bảy tháng. Sắp sinh rồi.”

“Tranh thủ lập công kiếm ít tiền mua áo mới cho vợ đi.”

“Các anh em.” Tôi gọi lớn.

Họ ngước lên nhìn tôi.

“Bệ…” Một tên nhìn tôi và á khẩu. Tôi nhanh chóng quắc mắt với hắn. Sao hắn nhận ra tôi nhỉ?

“Tôi chỉ tình cờ tới đây thôi.” Tôi ngồi xổm xuống cạnh họ. “Tình hình quân cơ thế nào?”

“Mọi chuyện khá thuận lợi. Thái úy đã hạ lệnh không tơ hào lấy một cắc nào của dân Tống. Ông ấy còn soạn thảo cả “Phạt Tống lộ bố văn” nữa cơ.”

“Phạt Tống lộ bố văn?” Tôi nhìn họ.

“Cái kia kìa.” Hắn chỉ vào một tờ giấy dán trên tấm bản gỗ lớn bên cạnh.

“Trên đó viết gì thế?” Tôi hỏi. Chẳng quả là vì nó nằm hơi cao nên tôi ngước không tới chứ không phải là tôi không biết chữ nhé.

Thiên sinh chưng dân, quân đức tắc mục.

Quân dân chi đạo, vụ tại dưỡng dân.

Kim văn, Tống chủ hôn dung, bất tuần thánh phạm.

Thính An Thạch tham tà chi kế, tác thanh miêu trợ dịch chi khoa. Sử bách tính cao chi đồ địa, nhi tư kỳ phì kỷ chi mưu.

Cái vạn dân tư phú ư thiên, hốt lạc na yếu li chi độc.

Tại thượng cố nghi khả mẫn, tòng tiền thiết mạc tu ngôn.

Bản chức phụng quốc vương mệnh, chỉ đạo Bắc hành.

Dục thanh yêu nghiệt chi ba đào, hữu phân thổ vô phân dân chi ý; yếu tảo tinh uế chi ô trọc, ca Nghiêu thiên hưởng Thuấn nguyệt chi giai kỳ.

Ngã kim xuất binh, cố tương chủng tế.

Hịch văn đáo nhật, dụng quảng văn tri.

Thiết tự tư lường, mạc hoài chấn bố.


Trời sinh chúng dân, đức quân ắt gần.

“Đạo là quân chủ, cốt ở nuôi dân.

Nay nghe vua Tống ngu hèn, bất tuân lời thánh nhân.

Nghe kế An Thạch, làm phép thanh miêu trợ dịch. Dân chúng lầm than, quan lại béo tốt.

Mệnh dân vốn ở trời, nay bỗng sa cảnh éo le.

Kẻ ở trên cao tất phải xót.

Việc làm từ trước bất cần thưa.

Nay ta phụ mệnh quốc vương ra bắc.

Cốt muốn dẹp yên làn sóng yêu nghiệt, quốc thổ dẫu khác ý dân không phân biệt; quét cho sạch dơ bẩn hôi tanh, cho dân hưởng tháng ngày Thuấn Nghiêu.

Nay ta ra quân, vốn để giúp dân.

Truyền lời hịch văn, người nghe an lòng.

Tự mà suy nghĩ, chớ có sợ gì.

Sau khi dịch lại ra tiếng Việt, tôi quay lại nhìn mấy tên lính.

“Cái này là Thái úy viết sao?”

“Nghe các tướng quân bảo, trước khi đi, Thái phó đã dặn dò Thái úy không được làm mất lòng dân Tống. Nên mỗi khi qua một làng mạc nào chúng tôi cũng đều dán hịch lên. Nhờ thế mà dân Tống không cản trở quá nhiều. Đôi lúc còn giúp chúng tôi chăm sóc người ngựa bị ốm. Thái úy cũng cho phép thương nhân hai bên trao đổi buôn bán trở lại.”

“Không hổ danh là Lý Thường Kiệt.”

“To gan!” Một tên quát tôi. “Dám gọi tên Thái úy như thế.”

“Ồ, xin lỗi xin lỗi.” Tôi cười trừ. Cái tên biết thân phận thật của tôi bặm môi cố không đánh vào đầu tên đồng đội mình.

“Thầy, cho họ ít lương thực đi.” Tôi nói với Lê Văn Thịnh.

“Cố gắng thắng trận.” Tôi đưa những túi gạo cho họ. “Gia đình các anh đang chờ ở nhà. Chúng ta đều không muốn bỏ mạng ở nơi xa quê phải không?”

Tôi lên xe ngựa và tiếp tục tiến về phía nơi Thái úy đóng quân. Mấy tay lính nói chuyện với nhau và sau một khoảnh khắc tôi thấy chúng mặt tái nhợt không còn giọt máu rồi đồng loạt quỳ xuống hướng về phía xe ngựa hành lễ.

“Thầy, Thái phó có gặp Thái úy à?” Tôi hỏi.

“Thần nghe mấy bà tám ở phủ Thượng thư kể trước ngày hành quân, Thái phó đã tới gặp Thái úy và họ trò chuyện cùng nhau tới tận đêm.”

“Ra thế.” Tôi gật gù.

Xe ngựa đi qua một đám ăn mày. Họ bám dính lấy chiếc xe ngựa để xin ăn. Người đánh xe và nhóm tùy tùng cố gắng đẩy họ tránh xa khỏi xe ngựa.

“Đợi đã nào!” Tôi nói lớn. Tôi nhận ra đó không phải ăn mày, mà là dẫn tị nạn. Quần áo chỉ hơi bẩn. Một số người có mang theo hành lý và dẫn theo con nhỏ.

“Công tử, những người này…”

“Cũng chỉ là bá tánh không có cơm ăn. Họ chắc là từ phương bắc muốn tránh chiến tranh.” Tôi xua tay. “Cho họ ít lương thực đi.”

Mấy tay tùy tùng tần ngần một chút rồi cũng chia gạo cho đám nạn dân.

“Chư vị bá tánh!” Tôi nói lớn. “Nếu các vị đói quá thì hãy đi về phía nam. Đại Việt luôn mở rộng cửa chào đón các vị. Hoàng đế Đại Việt sẽ sắp xếp công ăn việc làm và nơi ở cho các vị.”

Họ ngớ người ra.

“Công tử, để ta.” Lê Văn Thịnh nói lớn với đám ăn mày bằng tiếng Trung mà tôi cũng chẳng hiểu lắm.

“Hoàng đế Đại Việt thật tốt quá.”

“Người đúng là Bồ Tát.”

Nhóm dân tị nạn cảm ơn ríu rít và tiếp tục đi. Đi về phía nam.

“Bệ hạ có vẻ chưa nói sõi tiếng Hoa nhỉ.” Lê Văn Thịnh nói với tôi khi xe đi tiếp.

“Ta chỉ không nói rõ được thôi. Ta nghe vẫn được nhé.” Tôi cãi. “Thế, nhóm dân tị nạn kia sẽ ra sao?”

“Nếu họ vượt qua được các dãy núi ở phía nam… sau đó là khí hậu, bệnh tật, văn hóa, ngôn ngữ…”

“Rắc rối vậy sao?”

“Tất nhiên rồi.” Thầy Lê gật đầu. “Dù Đại Việt ta luôn mở rộng cửa đón bằng hữu tứ phương, nhưng đâu thể nuôi mấy kẻ ăn không ngồi rồi được. Họ cần phải tạo ra giá trị cho đất nước chứ.”

“Thế thì để họ khai hoang các vùng đất ở xa đi.” Tôi đề nghị. “Sớm hay muộn gì, người Hoa cũng sẽ tràn xuống phương nam vì giặc phương bắc thôi mà.”

“Bệ hạ nghĩ sao?” Thầy Lê nhướn mày.

“Nếu đợi đến lúc phương bắc quá loạn, người Hoa sẽ tràn xuống phương nam ồ ạt, lúc đó, chúng ta sẽ không ứng phó kịp. Nhưng nếu để từng nhóm từng nhóm nhỏ di cư xuống, chúng ta có thể ứng phó dần. Giống như ngăn lũ vậy. Nếu ta chia nhỏ dòng chảy của các con sông lớn ra thành các con suối nhỏ thì tránh được lượng nước quá lớn dẫn đến vỡ đê.”

“Chà,” Lê Văn Thịnh vuốt chòm râu không tồn tại của mình. “Bệ hạ sở hữu những kiến thức hơi vượt quá độ tuổi đấy.”

“Tôi hơi bị giỏi vật lý đấy.”

“Nhưng kể ra, cũng tội nghiệp cho đám nạn dân đó thật. Không biết họ sẽ mất bao lâu để quen với môi trường mới đây.” Lê Văn Thịnh thở dài.

“Đại Việt ấu đế minh quân thần

Nam quốc cương thổ thái bình thịnh

Tống chủ hùng cường thính u ngôn

Bắc triều vô pháp bất phân minh.”[1]

Tôi tới được doanh trại của quân Việt. Lê Văn Thịnh dùng lệnh bài Thị lang để xin vào gặp Thái úy.

“Lê Thị độc không ở kinh thành hầu bệ hạ học, lại tới đây làm gì?” Thái úy đang nghiên cứu địa hình Ung Châu bằng cái sa bàn lớn, ông gọi Lê Văn Thịnh mà chẳng ngước lên khỏi cái bàn.

“Một chút công chuyện thôi.” Thầy tôi mỉm cười đáp.

Tôi nhìn cái sa bàn. Nó cao ngang với tầm mắt tôi.

“Ta nghĩ quân ta ở ngọn đồi này nên di chuyển.” Tôi chỉ vào một quân doanh nằm trên một ngọn đồi nhỏ. “Sườn đồi không cao, quân địch dễ tiến đánh.”

Lý Thái úy mặt trắng bệch ngã phịch xuống sau lời nói của tôi.

“B… b… bệ hạ…” Lý Thường Kiệt lắp ba lắp bắp.

“Bệ hạ!” Các tướng đồng loạt quỳ xuống.

“Chúng chúng chúng thần thân mang giáp sắt… không thể hành lễ đầy đủ… mong bệ hạ thứ tội…” Lý Thường Kiệt vẫn chưa hoàn hồn.

“Các khanh bình thân đi.” Tôi nói với họ và nhảy tót lên chỗ ngồi cao nhất của Lý Thường Kiệt. “Thế, tình hình thế nào?”

“Bẩm bệ hạ, quân Tống có vẻ có vấn đề trong đường truyền tin nên đến giờ này đã hơn một tháng kể từ khi ta chiếm được Khâm Châu và Liêm Châu mà vẫn chưa thấy quân tiếp viện của chúng.” Một người nói. Anh ta mặc giáp sắt, nhưng tóc tai, vũ khí và một số phụ kiện trên người trông không giống người Việt.

“Dẫu có biết, chúng cũng không thể gửi tới đây quá đông quân cứu viện.” Một người khác nói. “Vấn đề ở tướng giữ thành Ung Châu kìa.”

“Là kẻ nào?” Tôi hỏi.

“Bẩm bệ hạ, là Tô Giám.”

“Tô Giám à?” Tôi nhớ tên này. Cô giáo Lịch sử của tôi có kể về hắn. Tôi chỉ nhớ mang máng là hắn giỏi. “Không cần biết kẻ thù có là ai. Chỉ cần Đại Việt ta quân tướng đồng lòng, cùng kề vai sát cánh bên nhau thì tất sẽ chiến thắng.

Tôi chắp tay lại nhìn họ. Tất cả người trong lều đồng loạt quỳ xuống.

“Các vị tướng quân, non sông Đại Việt ta, nhờ cả vào các vị.”

Các tướng đồng loạt hô to vạn tuế.

“Công tử.” Một vị tướng dân tộc bước tới lều tôi. Thái úy đã sắp xếp cho tôi và Lê Văn Thịnh một lều riêng. “Tại hạ xin được diện kiến.”

“Ai thế?” Tôi hỏi.

“Tại hạ Thân Cảnh Phúc.”

“Vào đi.” Tôi gọi.

Vì việc tôi xuất hiện ở đây là bí mật quốc gia nên các tướng khi tới tìm tôi sẽ gọi tôi là công tử. Điều này khiến các quân sĩ nghĩ rằng tôi là con của vị tướng quân nào đó đang học về chiến trận.

Người dân tộc kia trông cũng ngoài bốn mươi. Ông có đôi mắt sáng và thân hình vạm vỡ. Râu tóc có phần xuề xòa nhưng cũng toát ra vẻ oai phong.

“Phò mã đi chuyến này,” Tôi rót nước mời ông, Lê Văn Thịnh thì đi ra ngoài. “ta đảm bảo không thiệt thòi. Nhất định ta sẽ nâng tước của phò mã lên hai ba bậc.”

“Phúc vốn không phải người Việt, được làm rể hoàng thất đã là đặc ơn to lớn. Nay Phúc chẳng mong gì hơn.”

“Anh rể à,” Tôi vỗ vai anh. “anh chỉ cần chăm sóc chị em đàng hoàng là được.”

“Đảy!” Thân Cảnh Phúc gật đầu. Tôi biết sơ qua thì từ này dịch từ tiếng Tày ra tiếng Việt nghĩa là “vâng”.

“Anh có yêu chị em không?”

“Mỳ!” Anh ta tự nhiên trông chất pác hẳn ra. Lại còn đỏ mặt. “Công chúa… công chúa dịu dàng, yêu thương mọi người, công chúa không chê Phúc là người man. Công chúa tốt lắm.”

“Sao giống ai đó thế nhỉ?” Tôi nhớ ra là anh ta giống tôi. Đi khắp nơi khoe crush của mình.

“Được rồi.” Tôi vỗ lưng ông anh rể. “Ở miền xuôi chúng ta có câu, Thuận vợ thuận chồng, tát biển Đông cũng cạn. Ừm, nó giống như câu… Phua mìa điếp căn, mì kin quá slí của dân tộc các anh đấy.”

“Phúc nhất định sẽ yêu thương công chúa. Không phụ ơn tiên đế và bệ hạ.”

“Anh có biết, con gái Việt rất thích ăn cơm chồng nấu không?”

“Công chúa biết nấu ăn. Công chúa nấu ăn rất ngon.” Thân Cảnh Phúc nói như đứa trẻ được ăn cơm mẹ nấu. “Cả món Việt và món Tày.”

“Anh phải chiều chị ấy chứ.” Tôi cười. “Tranh thủ đang xa nhà, anh học nấu món ăn của người Việt đi. Rồi về nhà làm chị em lác mắt.”

Anh ta sáng mắt ra.

“Tạ bệ hạ.” Anh đứng dậy. “Phúc đi học ngay.”

Thấy ghê chưa? Cái đứa không dám mở miệng tỏ tình với crush bây giờ lại đang chỉ người khác cách lấy lòng vợ đấy.



“Nhanh nhanh lên nào các anh em!” Tôi gọi lớn. Một toán lính bu lại quanh tôi cùng với cái nồi lớn.

Tôi dùng khăn quấn lấy nắp nồi và nhấc lên. Khói bốc lên nghi ngút. Mùi hương thờm lừng phà vào mũi mọi người. Mùi bánh chưng bánh dày xộc vào mũi mọi người.

Sao lại là bánh chưng hả? Vì hôm nay là Tết Nguyên Đán.

“Công tử,” Một người khẽ khều tôi. “những chuyện thế này hãy để chúng tôi làm.”

“Dù không biết công tử là ai, nhưng qua cách Thái úy và các tướng quân đối đãi, công tử chắc là con của vị hầu vương nào rồi.”

“Ôi dào, ai quan tâm ba cái đó.” Tôi vỗ lưng anh ta. “Tất cả chúng ta là con dân của Đại Việt. Chung một quê hương, chúng ta là đồng bào. Cùng một lý tưởng, ta gọi nhau là đồng chí.”

“Đồng chí…”

Những người lính này không biết chữ. Họ không được đi học nhiều nên có vẻ không hiểu lắm về từ “đồng chí”. Nhưng từ ánh mắt họ, tôi biết họ thích từ này.

“Đồng chí Điền.”

“Đồng chí Dũng.”

“Đồng chí Thái úy.”

“Đồng chí Vũ.”

“Thái úy!” Đám lính ré lên và lùi ra xa khỏi Lý Thường Kiệt.

“Công tử.” Ông chắp tay trước tôi và mời tôi vào lều.

“Bệ hạ, xin bệ hạ hãy chú ý đến thân phận của mình.” Tướng quân Tông Đản nhắc tôi khi vào tới trong lều.

“Thân với chả phận.” Tôi thở dài. “Nếu bỏ qua cái ngôi vị Hoàng đế thì ta và họ cũng bình đẳng thôi.”

“Bệ hạ!” Tông Đản hét lên.

“Ta nói các ngài nghe, những người lính ấy đến nơi chiến trường để đất nước ta được bình yên.” Tôi chỉ tay ra ngoài. “Họ bỏ bữa cơm ngày Tết cùng gia đình, họ để vợ con ở lại quê nhà, họ đến nơi đất khách quê người này, sẵn sàng bán mạng vì quê hương. Vậy mà ta không thể chịu một chút khó nhọc này sao? Thánh Tông Hoàng đế ngày xưa cùng ngồi một mâm với binh lính, cùng ở một lều với tướng sĩ. Phận làm con như ta, đâu thể để cha mình trên trời bẽ mặt được.”

Các tướng lĩnh không nói được gì.

“Các ngài không cần làm quá lên như thế đâu.” Lê Văn Thịnh và hai người lính ôm một cái nồi to vào giữa lều. “Quân gần binh, ấy là chuyện tốt.”

“Lê Thị lang, chuyện này không dừng lại ở việc gần gũi thôi đâu.”

“Các ngài biết không,” Tôi bước tới gần cái nồi. “ngày xưa, có một đứa trẻ, mỗi năm Tết đến đều cùng bà ngoại gói bánh chưng. Nhưng khi nó lớn dần, những đêm giao thừa của nó lại trở thành những cuộc ăn chơi đàn đúm bên bờ hồ với đám bạn đồng trang lứa và xem pháo hoa. Đến năm mười sáu tuổi, nó xe cán chết. Và không còn được gói bánh chưng cùng gia đình nữa. Điếu đó khiến đứa trẻ vô cùng hối hận.” Tôi khịt mũi. “Trẫm không muốn phải hối hận như đứa bé ấy. Phụ hoàng băng hà khi còn nhỏ. Mẫu hậu trẫm thì yêu thương trẫm nhưng đến Tết Người lại phải ở bên tiên đế. Trẫm muốn được gần những người lính ấy. Nếu cái Tết của họ đã là ở nơi xa xôi này, thì chúng ta cũng phải bù đắp cho họ chứ. Nguyễn Tướng quân,” Tôi gọi. “phát thịt cho tướng sĩ đi. Đêm nay giao thừa, hãy để họ thoải mái.”

“Bệ hạ vạn tuế!” Vị tướng quân quỳ lạy tôi.

“Được rồi.” Tôi sắn tay áo lên. “Thầy, lấy con đôi đũa.”

[1] Bài này thì tác giả chém ra.
 

Mạnh

Tác giả
Tham gia
9/7/20
Bài viết
423
Điểm cảm xúc
737
Điểm
93
“Sao lại đóng quân ở đây?” Tôi hỏi khi ngồi nghịch thanh kiếm trong lều. “Sao không đóng doanh trên núi để tiện quan sát?”

“Bệ hạ,” Thầy Lê ngồi bên bàn với bút nghiên sẵn sàng. “quanh đây toàn rừng rậm, nói về chiến đấu ở môi trường rừng rậm thế này, quân của các tù trưởng rõ ràng là có kinh nghiệm hơn quân Tống. Tán cây cũng sẽ che khuất khói khi ta nấu nướng, quân địch khó mà biết nơi ta đóng doanh cũng như quân số của ta. Hơn nữa ở đây gần sông dễ nấu nướng hơn.”

“Ồ.” Tôi gật gù. “Lê Thị lang đúng là tinh thông mọi thứ trên đời nhỉ.”

“Với trọng trách cao cả là hầu bệ hạ học, sao thần dám lơ là bất kỳ một lĩnh vực nào cơ chứ. Được dạy dỗ thần tiên giáng trần như thế này, cả đời thần còn không dám mơ tới.”

“Lê Thị lang!” Từ ngoài lều có tiếng gọi lớn.

“Có chuyện gì?” Lê Văn Thịnh mở cửa lều.

“Có thư của Thái úy gửi về.” Người lính đưa tờ giấy cho thầy tôi.

Lê Văn Thịnh đón lấy lá thư và đọc. Nét mặt anh dần tối sầm lại. Nhưng rồi lại ngay lập tức tươi lên.

“Làm thế nào mà Thái hậu Ỷ Lan có thể nhìn nét mặt và đoán tâm tư của người khác nhỉ?” Tôi vẫn thắc mắc chuyện đó, hoặc có lẽ là do người đàn ông trước mặt tôi là một kỳ tài quá đỗi tài năng mà thôi.

“Thầy, có chuyện gì thế?” Tôi lo lắng hỏi.

“Công tử, có muốn cùng ta đi Côn Lôn Quan một chuyến không?” Lê Văn Thịnh đưa lá thư cho tôi.

“Có chuyện gì thế?” Tôi giật lấy lá thư.

“Lê Thị lang, hiện tại toàn quân của ta đang phải dàn trải để canh giữ bốn mặt thành Ung Châu. Tô Giám là tướng tài, thành này ắt khó phá. Theo mật thám của ta, viện quân nhà Tống do Trương Thủ Tiết dẫn đầu sẽ sớm tiếp cận Côn Lôn Quan và tấn công vào hậu quân của ta. Ta không rõ quân số của chúng, nhưng dù không đông thì với thế chủ động chúng cũng sẽ dễ dàng khiến quân ta rối loạn. Ta biết ngài là người đa mưu túc trí thông làu binh thư, các tước của ta đều đã chia ra canh giữ các mặt thành Ung rồi, người duy nhất còn lại có thể điều động binh lính chỉ còn mình ngài. Nhận lệnh của ta, chặn đứng quân tiếp viện từ nhà Tống.”

“Trương Thủ Tiết ư?” Tôi cau mày.

“Công tử biết hắn sao?” Lê Văn Thịnh hỏi.

“Không, ta chỉ không biết cha mẹ hắn kỳ vọng điều gì khi đặt cho hắn cái tên này thôi.” Tôi nhún vai. “Thế Côn Lôn Quan ở đâu? Không thể nào là núi Côn Luân được, chỗ đó quá xa.”

Trong phim kiếm hiệp toàn nghe tới núi Côn Luân. Một lần xem bản đồ các nước trong khu vực từ nhà Tống, Liêu, Tây Hạ, Đại Việt, Cao Ly, Chiêm Thành, Chân Lạp và cả Nhật Bản, tôi xác định được núi Côn Luân phải nằm đâu đó Tây Bắc Trung Quốc hiện nay. Ung Châu nằm ở gần biên giới Việt – Tống nên không thể nào hai thứ ấy là một được.

“Côn Lôn Quan nằm cách Ung Châu hơn hai mươi dặm về phía bắc.” Lê Văn Thịnh nghiên cứu cái bản đồ. “Địa hình hiểm trở thế này…” Thầy tôi quay lại nhìn tên lính. “Chúng ta còn bao nhiêu binh mã?”

“Hiện tại chỉ còn khoảng tám trăm binh lính.”

“Tám trăm…”

“Khoan đã nào, không phải chúng ta xuất chinh hơn mười vạn binh sao?” Tôi lên tiếng. “Thành Ung Châu có kiên cố hay Tô Giám có giỏi cỡ nào thì cũng đâu thể chống chọi được mười vạn quân cơ chứ.”

“Thường thì khi công thành, phe tấn công cần quân số gấp ba lần phe phòng thủ.” Lê Văn Thịnh giải thích. “Cộng thêm tài năng của tướng giữ thành thì mười vạn quân cũng khó mà phá được thành này. Xưa kia muốn phá được thành Cổ Loa, Triệu Võ Đế đã phải dùng đến kế bẩn mới có thể hạ được An Dương Vương đấy thôi.”

Tôi nghĩ nếu Lê Văn Thịnh đeo kính thì anh ta sẽ đưa tay đẩy kính cho xem.

“Chúng ta còn bao nhiêu chiến mã?” Tôi hỏi.

“Vì Thái úy vây thành, không dùng đến ngựa nên hiện tại chúng ta vẫn hơn một nghìn ngựa chiến tốt.” Tên lính kia đáp. Hắn không dám ý ới gì khi bị một đứa trẻ con lên giọng.

“Quân đến cứu viện chắc chắn không ít hơn một vạn.” Lê Văn Thịnh bước ra khỏi lều. “Tập hợp cho ta một trăm con ngựa nhanh nhất và một trăm binh lính nhanh chóng đến Côn Lôn Quan. Bảy trăm người còn lại, tập hợp những người khỏe mạnh và hai trăm bộ giáp tốt nhất. Chúng ta sẽ đón đầu quân Tống.”

Một cổng thành bằng đá sừng sững chặn giữa con đường độc đạo. Trên thành có tấm bảng viết ba Hán tự關崙崑

Một đoàn kỵ binh vượt qua cánh cổng. Dẫn đầu bởi một đoàn cờ quạt với chữ Tống và chữ Trương. Tôi đoán kẻ đi đầu chính là Trương Thủ Tiết.

Lê Văn Thịnh đưa tay ra hiệu cho người lính bên cạnh. Hắn nghe thấy liền thổi một hồi tù và.

Tiếng tù và vang lên, Trương Thủ Tiết dừng ngựa. Hai bên sườn đồi, cờ Đại Việt giương cao bay phất phới trong gió. Từ hai bên đồi, một đoàn hai trăm bộ binh giáp trụ đầy mình bước ra chắn giữa con đường. Những tấm khiên lớn dựng lên, những mũi giáo tua tủa chĩa về phía trước.

“Tướng giặc là ai? Mau xưng tên họ!” Hắn hét lớn.

Lê Văn Thịnh không trả lời. Anh chỉ nhẹ nhàng đưa một lá cờ nhỏ lên. Quân sĩ nhận lệnh lập tức giương cung. Anh chàng Thị lang giật mạnh lá cờ xuống, những mũi tên bắn ra tiêu diệt một số lượng lớn quân Tống.

Bộ binh quân Tống đưa những tấm khiên lên chặn cơn mưa tên.

Lê Văn Thịnh đổi lệnh, quân sĩ lăn những tảng đá xuống đẩy ngã tiếp những hàng bộ binh. Những mũi tên, giáo và tre vuốt nhọn cứ thể xả xuống quân Tống. Trương Thủ Tiết ngã ngựa.

“Thắng rồi!” Tôi hét lớn.

“Chưa đâu Công tử.” Lê Văn Thịnh mặt không biến sắc, tiếp tục ra lệnh. “Chuẩn bị ngựa chiến, chúng ta sẽ chiếm Côn Lôn Quan.”

“Giặc man chớ chạy!”

Một đoàn ngựa chiến lao về phía chúng tôi dẫm đạp lên những người lính. Lưỡi đao của ông vung xuống. Lê Văn Thịnh rút kiếm chặn đòn nhưng vẫn bị hất văng.

“Thầy!” Tôi lao tới đỡ lấy anh ta.

Anh chàng Trạng nguyên đưa tay ra chặn tôi lại.

“Mi là kẻ nào!?”

“Ông nội mi, Trương Thủ Tiết đây!” Gã kia đưa đại đao về phía Lê Văn Thịnh. Ông ta có một vết sẹo lớn từ trán qua đến mắt trái. Bộ giáp màu đồng của ông ta như sáng lên dưới ánh nắng ban trưa. Con ngựa của ông ta có bộ lông màu nâu như cà phê sữa và nó to hơn những con ngựa Việt rất nhiều.

“Trương Thủ Tiết…” Tôi tròn mắt rồi lại quay xuống nhìn cái xác nằm chổng chơ giữa đường. “Nhưng…”

“Đó chắc là thế thân của hắn.” Lê Văn Thịnh nói. “Tên này không tệ đâu.”

“Oắt con nhà ngươi cũng biết uy danh lão phu à?” Hắn phổng mũi lên. “Còn không mau quy hàng.”

“Nhưng, ông ta làm cách nào để xác định vị trí của thầy!?” Tôi hỏi nhằm mục đích câu giờ. Kỵ binh của địch có khoảng một trăm, nhưng với lợi thế bất ngờ và kỵ binh, chúng đang tàn sát quân Việt.

“Hừ, ngay khoảnh khắc những mũi tên bắn ra, ta đã thấy chỗ này bắn sớm hơn những nơi khác một chút.” Trương Thủ Tiết bắt đầu khoe mẽ. “Tức là binh lính ở đây phải nhận lệnh trước những vị trí khác. Điều đó chứng tỏ, tướng giặc phải ở đây.”

“Ông ta quả là một tướng tài.” Lê Văn Thịnh quay lại nhìn tôi.

“Ta xin lỗi…” Anh nói.

Anh ta đưa thanh kiếm ngang qua, chắn giữa tôi và Trương Thủ Tiết.

“Ta nói ông không tệ, là ông nói tiếng Việt không tệ đâu.” Anh chàng Trạng nguyên cười ha hả.

“Cái gì?” Hắn nhăn nhó.

“Ta là Thị lang Đại Việt Lê Văn Thịnh!” Anh hét lớn. “Hôm nay dẫu có hy sinh tại đây ta cũng không để ngươi tiến thêm một bước chân nào!”

“Ngông cuồng!” Trương Thủ Tiết vung đao tấn công. Lê Văn Thịnh dùng kiếm uyển chuyển gạt lưỡi đao sang một bên.

“Dẫu thân này phơi lại nơi đây, ta cũng không để một tên lính Tống nào chạm vào thiên tử nước nam!”

“Nhãi con chết đi!” Lưỡi đao đánh mạnh vào người Lê Văn Thịnh. Anh bị hất văng vào gốc cây.

“AAAAA!!!” Tôi vung mũi giáo đâm vào người Trương Thủ Tiết. Hắn nắm lấy thân giáo và hất ngã tôi.

“Đem một đứa trẻ con ra trận. Đám Giao Chỉ các ngươi điên rồi.”

“Không hề.” Lê Văn Thịnh đứng dậy. “Chúng ta điên hết rồi. Nhưng chúng ta không phải là người Giao Chỉ! Chúng ta là người Việt Nam!”

“Còn nói!?” Lưỡi đao đâm vào Lê Văn Thịnh. Anh nhảy sang bên né.

“Ta còn nói được. Còn ông thì sắp chết rồi.”

“Cái gì?” Trương Thủ Tiết nhướn mày.

Một con ngựa phóng tới hí vang. Lê Văn Thịnh túm dây cương leo lên lưng ngựa.

“Lão già nhãi nhép, có dám cùng ta đấu ba trăm hiệp không?” Lê Văn Thịnh khiêu khích Trương Thủ Tiết rồi phóng ngựa lên cao.

“Ngông cuồng!” Trương Thủ Tiết thúc ngựa đuổi theo.

Như có phép màu, ngay khi ông ta gần đuổi kịp thầy tôi thì con ngựa của Lê Văn Thịnh xoay lại, lưỡi kiếm trong tay Lê Văn Thịnh chém bay đầu Trương Thủ Tiết.

“Hả?” Tôi trố mắt.

“Đâu cần phải ngạc nhiên đến thế.” Lê Văn Thịnh nhặt cái thủ cấp lên.

“Nhưng…” Tôi nhìn quanh. Kỵ binh Đại Việt chỉ có chưa tới mười người nhưng đều dễ dàng đánh bại mấy chục kỵ binh nước Tống. “Làm sao mà…”

“Trương Thủ Tiết tìm được nơi này, chắc chắn là dựa vào tốc độ phản ứng của quân sĩ.” Lê Văn Thịnh ném thủ cấp của Trương Thủ Tiết cho người lính. “Quân lính ở gần bản doanh sẽ phản ứng nhanh hơn những nơi còn lại. Chỉ cần nhìn vào thời điểm phóng tên mà có thể đoán ra được vị trí của chúng ta. Tên này là một kẻ cực kỳ lão làng đấy. Nên trừ khử hắn càng sớm càng tốt.”

“Nhưng, sao thầy có thể đánh bại hắn dễ như thế?”

“Ngựa của Trương Thủ Tiết là loại ngựa Tây Lương. Đây là giống ngựa khỏe, có thể phi nước đại rất nhanh. Ngựa Việt không thể đọ được.”

“Thế thì…”

“Tuy ngựa Việt bé hơn, chậm hơn, nhưng lại giỏi leo trèo.”

“Leo trèo?”

“Nước ta có địa hình nhiều đồi núi. Ngựa của ta có thể leo trèo trên đồi và linh hoạt di chuyển ở những nơi đầm lầy. Không giống ngựa phương bắc, chỉ biết phóng trên thảo nguyên bằng phẳng.” Anh ta nhìn tôi. “Triệu Việt Vương diệt quân Lương ở đầm Dạ Trạch chí nhờ lũ ngựa này đấy thôi.”

Với thủ cấp của Trương Thủ Tiết cùng cái chết của các tướng Trương Biện (cái tên bị bắn chết giữa đường), Hứa Dự, Vương Trấn, Nguyên Dụ, viện quân của quân Tống bị hất cẳng toàn bộ.

Nhưng điều khiến tôi để tâm nhất lại là lời nói của Lê Văn Thịnh.

“Chúng ta là người Việt Nam!”
 

Mạnh

Tác giả
Tham gia
9/7/20
Bài viết
423
Điểm cảm xúc
737
Điểm
93

Tôi ở trong doanh trại hơn một tháng, Ung Châu vẫn vững sừng sững như núi. Việc tôi có mặt trong doanh không ai biết ngoài các tướng nên tôi hoàn toàn không ảnh hưởng tí gì tới sĩ khí toàn quân cả.

Quân doanh bí bách, Lê Văn Thịnh lại rủ tôi leo lên một ngọn đồi cao cách thành Ung Châu mấy dặm, vừa đủ để quan sát trận chiến.

Đây là lần đầu tôi được nhìn thấy thành Ung Châu. Tường thành cao hơn hẳn kinh thành Thăng Long và cũng bề thế hơn nhiều. Xung quanh tường thành có một con hào, binh lính Đại Việt bắc những chiếc ván gỗ làn cầu để bước qua nhưng dễ dàng bị cung tên phía Tống bắn hạ. Binh sĩ leo lên tường thành, quân Tống ở trên tường thành đẩy những chiếc thang xuống. Máy bắn đá bắn lên, quân Tống dùng chính những viên đá ấy đè chết lính Việt. Cảnh tượng không khác gì phim cổ trang. Có điều, tất cả là thật.

“Thầy, tại sao không đốt luôn cổng thành đi?” Tôi hỏi.

“Đốt được cổng thành, tức là có một bức tường lửa ngăn chặn chúng ta vào thành.” Lê Văn Thịnh giải thích. “Thêm nữa, ngay trên cổng thành cũng có máng nước để phòng trường hợp hỏa hoạn. Và phía sau cánh cổng đó, không biết bao nhiêu cạm bẫy đang chờ chúng ta.”

Tôi gật gù và tiếp tục quan sát. Tôi nhìn những mũi tên đang bay và những lá cờ phấp phới. Có vẻ như hướng gió có lợi cho quân Tống nên những mũi tên của chúng bay xa hơn. Vì gặp bất lợi về hướng gió nên tên của quân ta khó bắn lên được còn quân địch thì cứ thả mưa tên xuống.

“Nếu như thế này, tức là ở cổng thành bên kia tên của quân ta sẽ thuận lợi về hướng gió phải không?” Tôi hỏi.

“Đúng thế.” Lê Văn Thịnh gật đầu. “Xem ra dân Ung Châu cũng khá là quyết tâm với cuộc chiến này.”

“Dân?”

“Bệ hạ có nhận ra không?” Thầy Lê chỉ lên tường thành. “Những người đó rõ ràng là không hề có kinh nghiệm chiến đấu. Họ giống như những tên lưu manh chỉ biết mấy ngón nghề để bắt nạt kẻ yếu thôi. Để chuyện như thế này xảy ra cũng đủ biết trong thành chẳng còn mống binh sĩ nào nữa rồi. Còn binh sĩ của ta được rèn luyện qua vô số chiến trường, ắt sẽ thắng được thôi mà.”

Đến hoàng hôn, quân dân Ung Châu vẫn giữ vững cổng thành.

“Xem ra Lê Thị lang không có năng lực làm thầy bói rồi.” Tôi liếc đểu anh ta.

“Mưu sự tại nhân, thành sự tại thiên. Kẻ phàm trần như thần đâu thể đoán đúng ý trời được.” Lê Văn thịnh nhún vai. “Hơn nữa, khi bị dồn vào đường cùng, con người ta dễ có khuynh hướng làm mọi cách có thể để sống sót. Họ đang chiến đấu bằng ý chí mà thôi… Chà, thật tội lỗi khi phải giết họ.”

Tôi nhìn bức tường cao sừng sững như một thứ sẽ không bao giờ sụp đổ. Bỗng tôi nhớ đến một bộ phim đã xem trước đây rất lâu.

“Thổ công!?” Quân doanh ngạc nhiên nhìn tôi khi tôi trình bày kế hoạch của mình.

“Bệ hạ, chúng thần chưa từng nghe đến loại binh pháp này.”

“Có phải giống như là phá sập tường thành của kẻ thù bằng cách đào hầm ở dưới không?” Phò mã Thân Cảnh Phúc lên tiếng. “Ở vùng núi Phúc từng dùng cách đó để đánh bại họ Nùng một lần.”

“Thân Cảnh Phúc, đó là đánh với bức tường của vùng sơn cước chúng ta. Còn với tòa thành to chà bá thế kia ngài nghĩ một cái lỗ bé tí có thể khiến nó sập à?”

“Tù trưởng Lưu Kỷ nói đúng đấy.” Tôi gật đầu. “Bức tường này thì vừa to vừa chắc chắn. Chúng ta không thể phá hủy nó dễ dàng được.”

“Bệ hạ có cao kiến gì?”

“Ngày xưa ở Hy Lạp, có hai tên khổng lồ từng muốn đánh tới đỉnh Olympus, và chúng đã xây một ngọn núi cao chót vót ngang với núi Olympus và thành công tiến vào cung điện của các vị thần.”

Mấy tay tù trưởng xì xầm bằng tiếng dân tộc. Còn các tướng người Việt thì tỏ ra quen rồi.

“Trong Đại chiến thành Ansi, Đường Thái Tông đã dựng nên một bức tường cao để công hạ thành trì của Cao Câu Ly, nhưng nó bị quân Câu Ly chiếm lấy nên ông ta đành phải nhận thất bại ê chề.”

Cái này có vẻ gần gũi hơn nên các tướng người Việt cũng quay sang bàn luận với các tù trưởng.

“Tóm lại, nếu không thể chiếm bằng cách bình thường, thì chúng ta có thể dựng một bức tường cao ngang bằng với tường thành, sau đó tấn công qua. Thế thì khác gì chiến đấu trên đồng bằng đâu. Và chiến đấu trên mặt phẳng, binh sĩ ta thua thế nào được?”

Mọi người bắt đầu nhìn nhau gật gù.

Hôm sau, binh lính bốc cát bỏ vào các bao lớn và chồng lên nhau, tạo thành một bức tường cao ngang với tường thành Ung Châu. Nhờ có bức tường đó, quân Đại Việt chỉ mất ba ngày để có thể xông vào thành Ung Châu.

Chuyện tôi không ngờ tới là, Lý Thường Kiệt cho tàn sát hết dân trong thành. Gần sáu mươi nghìn người đều bị giết không chừa một ai.

Tôi lao vào lều của Lý Thường Kiệt.

“Công tử, đây là lều của Thái úy.” Hai tên lính chặn tôi lại.

“Tránh ra! Muốn bị chém đầu hả!?” Tôi hất chúng ra và bước vào lều của Lý Thường Kiệt.

“Thái úy!” Hai tên lính bước vào định lôi tôi ra.

“Hai ngươi mau ra ngoài.”

Đợi hai tên lính đi rồi, Lý Thường Kiệt hành lễ trước tôi.

“Sao ngài lại làm thế?” Tôi hỏi.

“Vì Tô Giám không thấy đâu cả.” Lý Thường Kiệt đáp.

“Chỉ vì một người, ngài đồ sát cả một tòa thành ư?” Tôi mắng. “Ngài có thấy mình giống Bạch Khởi[1] không!?”

“Bệ hạ đã từng nói, khi thần bước qua khỏi cổng Diệu Đức, mọi quyết định là nằm ở thần. Bao gồm cả việc quyết định dùng kế sách của bệ hạ. Ở đây thần mới là người quyết định. Khi về triều bệ hạ muốn chém đầu thần cũng được.”

“Ngài…” Tôi biết có quát tháo thì cũng chẳng để làm gì. Chỉ đành giận dỗi bỏ ra ngoài.

“Bệ hạ đừng trách Thái úy.” Lê Văn Thịnh nói khi hai chúng tôi vào rừng giữa đêm hôm. Nghĩ lại thì cũng tội cho anh ta khi phải lãnh trách nhiệm trông chừng thằng trẻ trâu như tôi, lại còn phải vác theo khối đá to đùng kia nữa. “Thái úy làm việc là có lý do cả.”

“Lý do!? Lý do của ông ta là gì!?”

“Dân chúng Ung Châu cũng có một phần trách nhiệm trong việc này mà. Ung Châu là nơi cung cấp lương thực và quân trang cho cuộc hành quân tiến đánh Đại Việt. Việc tàn sát nhân dân Ung Châu cũng là để bảo vệ Đại Việt mà thôi.”

“Quân binh đánh trận, liên quan gì tới nông dân thương nhân chứ?”

“Nông dân là nguồn lực sản xuất.” Thầy Lê giải thích. “Thương nhân giao thương sẽ thông thạo đường lối. Họ là một mối nguy hiểm nên cần phải loại bỏ.”

“Còn người già, phụ nữ và trẻ em? Họ cũng là mối nguy hiểm sao?”

“Người đã giết, thù hận sẽ chồng lên hận thù. Bệ hạ khi nãy có nhắc đến chuyện Bạch Khởi tàn sát Trường Bình. Bệ hạ có nhớ quân dân Triệu Quốc đã kháng cự mãnh liệt đến thế nào khi Tần xâm lược không?”

“Biết thế thì đừng có mà làm!” Tôi quát tháo.

Tôi và Lê Văn Thịnh lên một đỉnh đồi nhìn được toàn cảnh thành Ung Châu (đang cháy). Tôi lấy khối đá thầy tôi vác theo và khắc lên đó bốn chữ “Ung dân chi mộ” rồi chôn xuống. Sau đó thắp ba nén hương cầu phúc cho bá tánh Ung Châu.

“Qǐng gěi wǒ diǎn xiāng hǎo ma?[2]” Một người xuất hiện sau lưng tôi. Ánh sáng từ ngọn đuốc không đủ sáng. Nhưng nhờ có cái tòa thành đang cháy sau lưng (cảm ơn nhé Thái úy) mà tôi thấy được ông ta rõ như ban ngày. Áo giáp vấy máu, râu tóc màu muối tiêu rũ rượi, trên tay ông ta là một thanh kiếm.

“Ông ấy nói gì thế?” Tôi hỏi Lê Văn Thịnh.

“Các ngươi là người Việt?” Lão ta hỏi bằng tiếng Việt. Thanh kiếm của y sáng lên dưới ánh đuốc.

“Vâng.” Tôi đáp. Lê Văn Thịnh khẽ chạm vào thanh kiếm bên hông.

“Người Việt hóa ra vẫn còn có kẻ nghĩa khí như thế này.”

Gã người Hoa quỳ xuống bên cạnh tôi và đốt ba nén hương lên. Y vái về phía tòa thành đang cháy và khóc lóc thảm thiết. Tôi nghe loáng thoáng mấy chữ “xin lỗi”. Xin lỗi vì không thể nghe hiểu tiếng Trung nhé.

“Công tử,” Thầy Lê vẫy tôi. Tôi đến bên cạnh anh và anh nói thầm vào tai tôi. “y chính là Tô Giám.”

“Sao thầy biết?” Tôi sửng sốt quay sang.

“Hắn vừa mới nói mà.”

“Tạm thời đừng nói gì hết.”

“Vị tướng quân này,” Tôi bắt chuyện. “là người Ung Châu sao?”

“Ta là Tô Giám. Tri Ung Châu. Thân là thành chủ, lại bỏ thành mà chạy. Làm gì còn mặt mũi nào dám nhìn mặt bá tánh Ung Châu nữa.”

“Tô đại nhân, ngài là một đấng anh hào.” Tôi khen y. “Tuy nhiên, Đại Việt ta còn có Thái úy Lý Thường Kiệt, không bao giờ có thể thua Đại Tống các người đâu.”

“Nước nam nhỏ bé kia lại dám cả gan xâm phạm vào bờ cõi Đại Tống ta? Lý nào lại như thế!?”

“Đại Việt ta, quân tướng trên dưới đồng lòng.” Lê Văn Thịnh nói. “Vua nước nam ta tuy nhỏ tuổi nhưng tài trí hơn người. Lý Thường Kiệt là anh hùng nghìn năm có một. Chúng ta chưa bao giờ sợ Đại Tống các ngài. Tô đại nhân, ngài cũng là bậc trí giả, chắc ngài cũng nhớ cách đây hơn một trăm năm, Lưu Hoằng Thao nước Nam Hán đã bị vua Ngô dìm chết như thế nào chứ? Ngài có nhớ Hầu Nhân Bảo nước ngài đã tử trận thế nào không? Đại Việt ta dẫu đất nhỏ dân thưa, cũng không đời nào chịu làm tôi tớ cho Đại Tống các ngài!”

“Nhà ngươi…” Tô Giám giận đỏ bừng mặt.

“Ta biết nỗi đau mất thành của ngài.” Tôi tiếp lời. “Nhưng đây là vì dân nước nam. Ta không thể để nơi tập kết lương thảo và khí giới của ngài tồn tại được. Chúng ta vì để bảo vệ chính mình mà sẵn sàng cướp đoạt của kẻ khác. Đó là bản chất của con người chúng ta.”

Tôi chắp tay.

“Tô đại nhân, ngài đã làm hết sức rồi. Nhưng với tình hình của các ngài hiện tại, xâm lược Đại Việt ta là bất khả thi. Vương An Thạch buông lời ngu muội, Hoàng đế nước ngài nghe lời xàm tấu. Nước Tống đúng là cần được cải cách. Nhưng cải cách như các ngài hiện tại, cảnh Nghiêu Thuấn ở đâu không thấy, chỉ thấy bách tính lầm than. Chúng ta đều là người đứng trên muôn dân, chẳng lẽ có thể chịu cảnh con dân đói khổ hay sao?”

Tô Giám lùi dần lại. Thanh kiếm trong tay y đưa về phái tôi, nhưng cả tôi và Lê Văn Thịnh đều không phản ứng.

“Các ngươi rốt cuộc là ai?”

“Thị lang Đại Việt, Lê Văn Thịnh.” Thầy Lê chắp tay hành lễ.

“Hoàng đế Đại Việt.” Tôi nghênh mặt ra.

“Hoàng đế…” Tô Giám nhìn chòng chọc vào tôi. Rồi y cười xa xả.

“Ta hiểu rồi! Là Hoàng đế!” Tô Giám cười. “Bảo sao, Đại Tống ta lại thua đám man di các ngươi. Một đứa trẻ đã có thể phát ra những lời ấy, nước Tống ta thực sự không thể sánh được.”

“Tô Giám.” Tôi gọi. “Trẫm không đồng tình với việc thảm sát của Lý Thường Kiệt. Nhưng trẫm cũng không đồng ý với cuộc chiến này. Đây là các ngươi khơi mào trước. Chúng ta chỉ đơn giản là tiên phát chế nhân mà thôi.”

“Ta hiểu rồi.”

Tô Giám quỳ dập đầu xuống.

“Bệ hạ vạn tuế vạn tuế vạn vạn tuế.”

“Tô Giám, hành động này là ý gì?” Thầy Lê hỏi.

“Thần thực mong được làm một thần tử dưới trướng của bệ hạ.” Tô Giám vẫn không ngước lên.

“Ta là thành chủ. Phải chết cùng với thành. Chỉ mong bệ hạ thương xót thần cả đời tận trung với nước tận tụy vì dân, cho thần được chết cùng với dân chúng toàn thành.”

“Tô Giám…” Tôi cất tiếng.

Người đàn ông đưa kiếm lên cắt ngang cổ mình.

Xác của Tô Giám được chôn ngay bên dưới tấm bia mộ tôi dựng. Đầu ông ta hướng về phía thành Ung Châu.


[1] Người chôn sống bốn mươi vạn hàng binh nước Triệu trong đại chiến Trường Bình năm 265 TCN. Đọc Bão Tố phần V chương 12 để biết thêm chi tiết.
[2] Có thể cho ta xin chút hương được không? (tiếng Trung).
 

Mạnh

Tác giả
Tham gia
9/7/20
Bài viết
423
Điểm cảm xúc
737
Điểm
93
Quân Việt đại thắng trở về. Người Tống bị bắt làm nô lệ đi hàng hàng theo sau với hàng tấn của cải cướp được.

“Bệ hạ xem kìa,” Thầy Lê mở rèm và nhìn cảnh sông núi vùng Quảng. “phong cảnh nên thơ thật.”

“Đại Việt thông Nam ải,

Tống triều thất vạn manh

Bản quân xuất binh mã

Thái úy đồ Ung thành.”[1]

Tôi ngồi trong xe ngựa mà cứ lải nhải mãi không thôi. Tôi cũng không biết phong cảnh nên thơ chỗ nào khi mà trước sau tôi là nườm nượp người ngựa cờ quạt phấp phới, nô lệ lê lết mà đi. Lý Thường Kiệt thì rút quân theo đường thủy nên tôi chẳng thấy mặt ông ta đâu.

“Mặc dù thần nói là nên thơ, nhưng thơ của bệ hạ thì…” Thầy tôi tặc lưỡi. “Thần tưởng bệ hạ đã hiểu rồi chứ. Việc tàn sát này…”

“Trẫm hiểu.” Tôi gắt. “Chính vì trẫm hiểu nên trẫm mới không thể chấp nhận được. Tại sao lại như thế cơ chứ? Tại sao không thể hợp tác song phương? Sao chúng ta cứ phải chém giết lẫn nhau?”

“Bệ hạ còn nhớ, lý do Tần Thủy Hoàng thống nhất sáu nước không?”

“Là để kết thúc hàng trăm năm chiến loạn.” Tôi “trả bài”. “Nhà Chu mất đi quyền uy của mình, các chư hầu nổi lên thôn tính lẫn nhau. Cuối cùng, Tần Thủy Hoàng thống nhất lục quốc, nhưng chiến tranh cũng đâu có kết thúc. Trung Hoa rồi lại loạn xì ngầu lên còn gì.”

“Bệ hạ hãy hình dung, nếu cứ mãi chia cắt, mỗi nước một chữ viết, một văn hóa và một tín ngưỡng riêng, thì Trung Hoa có thể lớn mạnh như bây giờ không?”

“Ý thầy là gì?”

“Tuy Đại Tần chỉ tồn tại được hơn mười năm, nhưng những gì nó đem lại cho cả Trung Hoa là vô cùng to lớn. Từ hệ thống cai trị, thống nhất về mặt lãnh thổ, đo lường, văn hóa, chữ viết, Rồi đời Hán củng cố lại. Văn Đế, Cảnh Đế, Vũ Đế nhà Hán đã tạo ra một nhà Hán hùng cường chính là nhờ sự thống nhất của Tần. Nếu Tần không thống nhất, Hoa Hạ làm gì có Hán, có Tùy. Cũng chẳng có Đường có Tống như ngày nay. Thậm chí có thể, Đại Việt ta cũng chẳng tồn tại.”

“Ý thầy là cái thành Ung Châu bé quá, ta nên xâm lược nhà Tống chiếm lấy Trung Hoa luôn hả?”

“Chuyện này thì quá khó nếu là ta của hiện tại.” Lê Văn Thịnh đáp ngay. “Phía nam ta còn có Chiêm Thành. Nếu muốn đánh lên Đại Tống, ta cần ít nhất là một trăm vạn quân.”

“Một trăm vạn?” Tôi kinh ngạc.

“Năm xưa tướng Vương Tiễn nước Tần xâm chiến Sở quốc rộng lớn đã cần tới sáu mươi vạn đại quân, nay Đại Tống giàu mạnh như thế, một trăm vạn, e còn không đủ để tới phía nam sông Hoàng Hà thôi. Chưa kể, nếu ta đánh tới tận Biện Kinh[2], có thể phải gặp cả Liêu và Tây Hạ. Và ta cũng không dại gì mà lại đi đánh lên để gặp hai kẻ địch mạnh như thế kia?”

Về đến Thăng Long, các bạn biết điều đầu tiên tôi làm là gì không?

Xử tội Lý Thường Kiệt? Không. Bây giờ có việc quan trọng hơn rồi.

Tôi giả ốm. Nhưng một khi Thái hậu tới thì chắc chắn là tôi sẽ ốm đòn.

“Lý Càn Đức!” Mẹ tôi đứng trước cửa điện Thiên An hét to. Chưa bao giờ bà gọi thẳng họ tên tôi như thế. “Con ra đây ngay cho ta!”

“Mẫu hậu, ờ, hoàng huynh ốm nặng lắm.” An Dân cứu tôi bằng cách cố chặn cửa. “Ối dồi ôi, không ngồi dậy nổi luôn.”

“Thế ai kia?” Mẹ tôi trỏ về phía tôi, người đang cố lẻn ra khỏi điện Thiên Khánh bằng cách leo qua cửa sổ.

“M… m… mẫu hậu, con biết lỗi rồi.” Tôi chạy quanh sân rồng. Mẹ tôi hóa ra khỏe thật. Đuổi theo tôi khắp cái sân rộng thênh thang.

“Sao ta lại đẻ ra đứa con ngu dại như thế này hả?” Mẹ tôi vung cây roi quấy xuống đất đánh cái tét. “Dám lừa cả ta cơ đấy. Ta còn sống sờ sờ ở đây này! Sau này khi ta chết, con định tới tận Biện Kinh luôn hả!?”

Cuối cùng tôi bị chặn lại bởi Lê Văn Thịnh.

“Thầy, cứu trẫm.” Tôi cầu cứu y.

“Thiên chức của thần là hầu bệ hạ học. Lời mẹ dạy chính là bài học đầu tiên ạ.” Lê Văn Thịnh còn cố giữ tôi lại.

“Người đâu!” Mẹ tôi quát lớn. Mấy tên lính lập tức xuất hiện. “Giữ bệ hạ và Lê Thị độc lại.”

“Hả?” Thầy Lê ngớ mặt ra nhìn mẹ tôi khi hai tên lính giữ chặt anh.

“Bổn cung là mẫu nghi thiên hạ. Là mẹ của cả thiên hạ. Nay không dạy được con mình thì sao dám dạy thiên hạ? Còn ngươi, làm thầy mà không biết can ngăn bệ hạ, lại còn hùa theo, bổn cung phải tự tay trừng phạt hai ngươi.”

“Thái hậu tha mạng!”

“Mẫu hậu, trẫm biết lỗi rồi mà.”

“Mẫu hậu!” An Dân chạy tới can. “Hoành huynh biết lỗi rồi mà.”

“Con im lặng!” Mẹ tôi quát cả An Dân. “Con dám bao che cho nó, ta đánh luôn cả con.”

Và cả ba người chúng tôi ăn đòn.



“Còn đau không?” Tôi hỏi An Dân khi hai đứa tụt quần xuống và nằm úp để ngự y xoa thuốc. Lê Văn Thịnh thì phải về nhà.

“Có ạ.” An Dân vẫn còn khóc. “Rát lắm.”

“Anh thật có lỗi khi lôi em vào chuyện này.”

“Trợ giúp hoàng huynh là việc của thần đệ. Em không giỏi được như hoàng huynh, chỉ có thể làm được như thế. Nhưng mà,” An Dân nhìn tôi với ánh mắt khẩn thiết. “lần sau, anh dẫn em theo với nhé.”

“Tất nhiên rồi.” Tôi xoa đầu thằng bé. “Khi nào em lớn hơn chút nữa, ta sẽ đưa em đi cùng.”

“Còn dám có lần sau?” Linh Nhân Hoàng Thái hậu bước vào. Ngự y lập tức đứng dậy và lùi ra. Anh em chúng tôi kéo quần lên, ra khỏi giường và quỳ xuống sàn.

“Mẹ, chúng con biết lỗi rồi.”

“Còn đau không?” Mẹ tôi hỏi.

Hai anh em nhìn nhau.

“Dạ…”

“Một chút ạ…”

Mẹ tôi sà xuống ôm lấy chúng tôi.

“Mẹ xin lỗi.” Bà khóc. “Mẹ xin lỗi.”

“Mẹ, bọn con sai. Là bọn con có lỗi.” An Dân sụt sịt.

“Là tại con. Là con bắt em ấy. Con làm vua mà không làm gương cho dân. Làm anh mà dạy hư em. Làm con mà bất kính bất hiếu cha mẹ.”

Cứ tưởng sướt mướt một chút là xong. Mẹ tôi bắt hai đứa ngồi tụng hết Kinh địa mẫu ở chùa Diên Hựu. Nay là chùa một cột ở Hà Nội. Ngôi chùa này được xây từ thời ông nội chúng tôi là vua Lý Thái Tông. Tên Diên Hựu là để cầu cho vua được sống lâu. Tôi cũng muốn sống lâu. Nhưng tôi nghĩ là khi nào con trai tôi đủ lớn thì sẽ truyền ngôi cho nó và lên làm Thái thượng hoàng. Sau đó thì đi ngao du cho khuây khỏa.

…Kim ngôn Mẹ đây lời mạch huyết

Đức Từ Tôn tha thiết khuyên con

Hiếu Trung giữ vẹn cho tròn

Mẹ hiền phủ điển bảo toàn chúng sanh…
”​

Tiếng tụng kinh cứ thế vang khắp ngôi chùa cùng với tiếng mõ. An Dân thì ngồi lắp bắp đọc theo vì thằng bé chưa học hết mặt chữ. Chính tôi cũng mất kha khá thời gian để học được hết mớ Hán tự. Và trong lúc tôi tụng kinh, tôi nghe có tiếng xì xầm bàn tán ở sau lưng. Đám sư thầy ở đằng sau cố chen chúc ở ngưỡng cửa để quan sát Hoàng đế.

Sau một lúc làm ngơ, tôi lại nghe có tiếng tụng kinh sau lưng mình.

…Chân linh mẫu xét soi vũ trụ

Điển âm dương kết tựu anh nhi

Thượng tầng Mẫu ngự phương phi

Phân ra thiên địa trị vì chúng sinh…
[3]

Rồi dần dần, càng có nhiều tiếng đọc hơn. Đến khi tụng xong, tôi quay lại thì thấy sau lưng tôi là mấy hàng sư sãi. Có những đứa trẻ trông có vẻ còn nhỏ hơn An Dân.

“Bệ hạ vạn tuế.” Họ quỳ rạp xuống.

“A di đà Phật.” Một vị sư già mặc chiếc áo cà sa đỏ bước ra chắp tay chào tôi. Trông ông ta phải hơn trăm tuổi là ít. Da mặt ông nhăn nheo, đôi mắt ông trắng dã, có vẻ như đã mù, răng thì đen nhẻm, cái còn cái mất. Bên cạnh có một người đỡ. “Bệ hạ và Minh Nhân Vương ghé thăm bổn tự, lại tụng Địa Mẫu Kinh, chắc là đã làm điều gì khiến Thái hậu phật ý chăng?”

“A di đà Phật.” Anh em tôi mỉm cười đáp lại. “trẫm vừa lỡ… gây chuyện, Thái hậu đang không vui.”

“Bệ hạ là Hoàng đế. Đạo Phật là đạo tu tâm. Muốn trị quốc, không thể dựa cả vào Phật được. Còn, phận làm con mà khiến cha mẹ buồn lòng thì cũng nên làm đôi điều cho mẹ cha, kinh Phật chỉ giúp tu tâm, không phải là tất cả.”

“Trẫm hiểu.” Tôi gật đầu chắp tay.

“A di đà Phật.” An Dân cúi người đáp. “Đinh Trụ trì dạy phải. Phụ hoàng mất khi cô còn quá nhỏ để nhớ. Nhờ mẫu hậu và các sư tăng dạy mà nên người. Cô nhất định không để mẹ già chịu thiệt thòi.”

“An Dân,” Tôi hỏi thằng bé khi ra khỏi chùa. Lê Văn Thịnh đã đứng đó chờ tôi sẵn. “em quen vị Đại sư đó sao?”

“Vâng.” An Dân đáp. “Trước lúc phụ hoàng băng hà, mẹ dẫn em đi cầu Phật. Em gặp ông ấy từ lúc đó. Rồi lúc anh đi Tống bỏ em lại thì em thường gặp ông ấy.”

“Ta đã bỏ lỡ điều gì thế này?”

“Đinh Trụ trì năm nay đã hơn trăm tuổi rồi.” An Dân nói. “Nghe nói cha và anh ông ấy bị kẻ gian hãm hại từ khi sáu tuổi, sau đó được mẹ và kế phụ nuôi dạy nhưng rồi các anh em con ruột của kế phụ ông ấy tranh nhau tài sản gì đó dẫn đến giết lẫn nhau và ông ấy đành quy y cửa Phật.”

“Bệ hạ,” Thầy Lê đứng bên cạnh tôi lên tiếng. “thần xin được nói lời này.”

“Thầy cứ nói.”

“Các vị cao tăng có công giáo hóa chúng dân, dạy dân lễ Phật, giúp dân ta thịnh về tinh thần. Nhưng chùa chiềng mọc lên như cỏ, một số chùa còn nguy nga lộng lẫy hơn cả cung vua. Theo hạ thần, cần phải giảm các khoản chi này. Không phải là bỏ luôn Phật, nhưng cần phải kìm nén lại…”

Tôi thấy có vẻ Lê Văn Thịnh không thích thú lắm với Phật giáo.

Lê Văn Thịnh lớn lên từ dân gian, từ nhỏ đọc sách Nho giáo, thấm nhuần tư tưởng lễ giáo của Khổng Tử. Khác với vua cha tôi và các quan đại thần phần nhiều đã hầu hạ qua hai ba đời Hoàng đế, đã vừa thấm nhuần Nho giáo, lại vừa hiểu Phật pháp và cả tư tưởng Đạo giáo của Lão Tử, họ hình thành nên một tư tưởng mà ngày nay chúng ta hay gọi là tam giáo đồng nguyên.

Tuy Lê Văn Thịnh có vẻ không thích Phật, nhưng anh ta đã đỗ kỳ thi Tam trường đấy. Để đỗ được kỳ thi này, tức là anh ta phải học cả sách Nho, sách Phật và sách Đạo giáo. Nhưng để kết tinh được cả ba đạo ấy làm một, chúng tôi vẫn chưa đạt được.

“Thầy à,” Tôi thở dài. “từ khi còn sống, tiên đế đã nhận thấy rằng Phật pháp là quan trọng đối với dân chúng. Nhưng đạo trị quốc, vẫn là đạo Khổng, vẫn là Nho giáo.”

“Đúng.” Lê Văn Thịnh gật đầu.

“Phật giáo là quốc giáo của nước ta.” Tôi nói tiếp. “Thái hậu mộ Phật, tuy không phải là mê tín, nhưng để ổn định về tinh thần, chúng ta cần có một tôn giáo để dựa vào. Khổng Tử giúp trẫm học cách trở thành một đáng minh quân, còn Phật pháp dạy trẫm cách để làm người.”

“Nhưng ngoài đường có vô số kẻ giả tăng giả sư vơ vét bất hợp pháp của dân. Chúng bán những thứ thuốc vô lý hết sức mà kẻ nào cũng mở miệng ra là chùa tôi ba đời chữa bệnh này bệnh nọ. Đó là thứ ung nhọt!” Lê Văn Thịnh có phần trở nên kích động.

“Phật pháp, răn người bình đẳng, dạy người từ bi hỷ xả.” Tôi nói tiếp. “Chính nhờ mộ Phật mà phụ hoàng trẫm mới được người đời ca tụng là hiền quân, là người đại từ đại bi, có thể ban áo cho tù nhân, có thể đốt bỏ hình cụ. Nhờ những điều răn của Phật mà Thái Tổ Thái Tông và cả Thánh Tông đều đã được người đời tôn vinh.”

“Thần đồng ý là về mặt hình pháp, triều ta khoan dung hơn Đinh – Lê, nhưng quá nhân từ không phải sẽ khiến những kẻ bất nhân kia làm loạn sao? Thánh Tông giảm tội cho phạm nhân, thế những người dân lành biết làm thế nào?”

“Thầy không thể cứ nhìn phiến diện như thế được.”

“Lê Thị lang. Ta đang tìm chú đây.” Lý Thường Kiệt xuất hiện.

“Bệ hạ.” Ông vái tôi và An Dân. “Minh Nhân Vương.”

“Thái úy có chuyện gì sao?” Lê Văn Thịnh hỏi.

“Lê Thị lang,” Lý Thường Kiệt quay sang thầy tôi. “từ ngày mai, chú hãy tạm nghỉ công việc Thị độc và chuyên tâm vào việc binh.”

“Nhưng, Thái úy, ta không thể bỏ qua việc dạy bệ hạ được.” Lê Văn Thịnh tròn mắt.

“Thái phó đã sắp xếp rồi. Chú cứ yên trí.”



Lý Đạo Thành đã thực sự sắp xếp tất cả. Tạm thời, ông ấy sẽ thay Lê Văn Thịnh làm công việc Thị độc. Nhưng tôi lại nảy ra một ý tưởng khác khiến cả triều đình một phen mắt chữ O mồm chữ A.

Buổi học đầu tiên của tôi với Thái phó Lý Đạo Thành, trong Văn Miếu có cả An Dân và một loạt con cháu của các quan lại.

“Bệ hạ, chuyện này…” Lý Đạo Thành lên tiếng.

“Thái phó yên tâm. Trẫm đã có chủ ý này từ lâu rồi.” Tôi đứng ra trước lớp, ngay dưới tượng Khổng Tử.

“Các khanh,” Tôi nói. Đám nhóc tì bé nhất cỡ sáu tuổi, lớn nhất khoảng mười ba đồng loạt quỳ xuống. An Dân đứng trơ ra một lát. Tôi đánh lông mày ra hiệu cho thằng bé quỳ xuống. An Dân hiểu ra liền quỳ xuống.

“Bệ hạ vạn tuế!” An Dân nói lớn.

“Bệ hạ vạn tuế!” Đám nhóc quỳ xuống nói theo. Có vài đứa còn cố liếc lên nhìn mặt tôi.

“Trẫm nhiều năm nay, đều học một mình ở chốn này. Chỉ có Chu Công Khổng Tử cùng các thầy bầu bạn. Trẫm buồn vì không có người đồng trang lứa. Nên đã xuống chiếu, cho gọi con cái các quan lại vào Văn Miếu để học chung với trẫm, sau này có thể kế nghiệp cha anh, tiếp tục giúp trẫm nâng đỡ giang sơn.”

“Chúng thần tuân chỉ!” An Dân gào mồm đáp, cố nghe oai phong nhưng tôi lại thấy buồn cười.

“Chúng thần tuân chỉ!” Đám nhóc cũng đáp.

“Được rồi,” Tôi ngồi xuống. “Bình thân.”

Đám trẻ đứng dậy.

“Bệ hạ.” Một người khoảng mười ba tuổi tâu. “Tiên đế xây dựng nơi này vốn là để riêng bệ hạ học và thờ các vị hiền nhân. Thảo dân chỉ là con nhà quan lại tầm thường, em là không có phúc ấy.”

“Các khanh cứng nhắc quá nhỉ.” Tôi xoa cằm. “Thế này đi. Từ hôm nay ta sẽ cho xây dựng trường học trong Văn Miếu. Ừm… đúng rồi! Xây Quốc Tử Giám!”

“Bệ hạ, chuyện này… không phải nên bàn với Lưu Thượng thư sao?”

“Mai trẫm sẽ bàn lại với ngài ấy. Còn hôm nay,” Tôi nhìn nhóm học sinh. “trẫm muốn các khanh ra sau sân với trẫm.”

Đứng giữa bãi đất trống, tôi cho lũ trẻ điểm danh rồi đứng thành hai hàng. Sau đó tôi đặt một quả bóng ra giữa.

“Bệ hạ!” Lý Đạo Thành réo lên.

“Thái úy đừng lo.” Tôi trấn an ông. “Hôm nay là buổi học đầu tiên của họ, đừng khiến họ áp lực.”

“Nhưng…”

“Các đồng chí nghe rõ đây!” Tôi nói lớn và đạp lên quả bóng. “Sau này, khi trẫm trưởng thành và có quyền nhiếp chính, các khanh chính là những người sẽ ở bên trẫm và giúp trẫm xây dựng quốc gia, bảo vệ Tổ Quốc. Chính vì thế, từ hôm nay, chúng ta sẽ cùng đồng tâm hiệp lực, đồng cam cộng khổ với nhau. Quân thần như một!”

“Bệ hạ vạn tuế!” An Dân réo lên.

“Bệ hạ vạn tuế!” Đám trẻ cũng reo lên.

“Chính vì thế, hôm nay trẫm muốn chúng ta đá một trận bóng. Trò xúc cúc[4] này sẽ giúp nâng cao tinh thần đồng đội và tăng cường sức khỏe. Tất cả phải chơi. Được rồi, tản ra!”

Đám nhóc chạy tản ra khắp sân.

“Thái phó,” Tôi nhìn Lý Đạo Thành. “thầy làm trọng tài nhé.”

Thái phó bình chương quân quốc trọng sự Lý Đạo Thành tròn mắt nhìn tôi.

“Đúng là, cha nào con nấy.” Ông lầm bầm nhưng vừa đủ để tôi nghe.

“BẮT ĐẦU!”

Quả bóng lăn trên sân cát.



[1] Vẫn là thơ tác giả chém.
[2] Kinh đô Bắc Tống.
[3] Cái này chép theo quyển Kinh địa mẫu của bà ngoại tác giả, không rõ thời Lý quyển Kinh địa mẫu nó chép gì.
[4] Ngày nay người ta gọi là bóng đá.
 

Mạnh

Tác giả
Tham gia
9/7/20
Bài viết
423
Điểm cảm xúc
737
Điểm
93
Bệ hạ, Chiêm Thành lại quấy vào biên giới nước ta.”

“Vùng Ma Linh tới Bố Chính vẫn là đất của xứ Chiêm dâng cho ta từ thời Thánh Tông. Nhưng ta vẫn chưa đụng tới.”

“Cái gì?” Tôi hỏi. “Ba châu ấy vẫn chưa được khai thác sao?”

“Hồi bệ hạ, đường đi khó khăn, vùng ấy lại khô cằn, khó mà trồng trọt, rừng thiêng nước độc, dân khó mà sống. Vì thế nên… tuy thuộc quyền sở hữu của ta, nhưng ở đó lại chỉ có một số người Chiêm sinh sống.”

“Lý nào lại như thế?” Tôi xoa trán. “Thái úy, chuyện này là thế nào?”

“Hồi bệ hạ,” Lý Thường Kiệt tâu. “năm xưa, thần và tiên đế đã từng dừng thuyền ở vùng ấy sau khi bắt được Chế Củ. Đúng như Trương Đại phu nói, vùng ấy rừng thiêng nước độc, cọp beo hoành hành. Không thể đến ở được.”

“Vô lý!” Tôi đập tay lên tay vịn của bảo tọa. “Thái úy! Ta và khanh phải cùng giải quyết chuyện này!”

Và thế là tôi lại thân chinh trong bí mật.

Lần cuối tôi thấy cảnh tượng này là nhiều năm trước, trước khi phụ hoàng thân chinh.

Những người đàn ông mặc trang phục phụ nữ sặc sỡ xanh đỏ tím vàng, má phấn môi son nhảy múa theo điệu trống bồng uyển chuyển.

Nhấn mạnh đấy. Những người đàn ông!

Đây là một phong tục thường thấy vào mùa xuân ở Triều Khúc. Bây giờ tôi vẫn hay nghe kể về nó. Một điệu múa đã tồn tại hơn một nghìn hai trăm năm. Điệu múa Con đĩ đánh bồng.

Không giống bây giờ, từ “đĩ” có ý nghĩa tiêu cực và chỉ gái mại dâm, thời xưa, từ “đĩ” ám chỉ những người đàn ông giả gái. Tương truyền rằng, cách đây gần ba trăm năm, Bố Cái Đại Vương Phùng Hưng tập kết nghĩa sĩ ở làng Triều Khúc để chuẩn bị đánh giặc. Để nâng cao tinh thần quân sĩ và cũng để giải trí, Phùng Hưng đã cho tráng sĩ ăn mặc diêm dúa nhảy múa theo nhạc anh Bảnh. Vì thấy quân sĩ múa hay quá, thế là vua Phùng Hưng gọi họ “những con đĩ của ta”.

Lúc Thái phó gợi ý múa điệu múa này tôi cũng hơi ngạc nhiên. Nhưng rồi nhìn một đám trai giả gái đi trước đoàn quân hùng hậu cùng với múa lân múa rồng thì tinh thần của tôi phấn chấn hơn hẳn. Các quân sĩ cũng có tinh thần hơn.

“Em lại không được đi ạ?” An Dân ngồi trên ngựa cùng một thiếu niên. Tôi ngồi trong chiếc xe ngựa bên cạnh vén rèm ra nhìn đứa em trai bé bỏng mặt buồn rười rượi.

“Trẫm nói rồi.” Tôi cố với tay ra để xoa đầu thằng bé. “Em lớn thêm một chút nữa nhé.”



Lý Thường Kiệt đánh vào đất Chiêm nhưng không thành. Cuối cùng ông đành cho vẽ lại bản đồ của ba châu ngày xưa phụ hoàng tôi đã chiếm thêm vào lãnh thổ Đại Việt.

“Đây là đất Chiêm Thành sao?” Tôi leo lên một ngọn núi nhìn ra những cánh rừng xanh mướt.

“Bệ hạ xem,” Lý Thường Kiệt khua tay về phía những cánh rừng bạt ngàn. “rừng rậm bạt ngàn. Sông ngòi tuy nhiều nhưng đất đai khó trồng trọt. Chưa kể đến thời tiết thất thường nữa.”

“Thái úy này,” Tôi ngơ ngác gọi Lý Thường Kiệt trong khi mắt nhìn xa về phía những ngọn núi điệp điệp trùng trùng. “phía tây vùng này có nước nào?”

“Hồi bệ hạ,” Lưu Khánh Đàm đáp thay. “phía tây vùng này chỉ có những bộ tộc người Thái. Lúc trước sống ở miền nam Trung Hoa. Nhưng vì dân số người Hán tăng mạnh, lại thêm các vấn đề nội bộ của Nam Chiếu[1] với Tống nên họ đã dần di cư xuống vùng núi này.”

“Liệu, họ có biết đến muối không?”

Hai người họ nhìn nhau, bốn con mắt sáng ngời lên.

“Nhưng bệ hạ,” Một vị quan đương độ trung niên hỏi tôi. “nếu chỉ có như thế thì vùng này thực sự cũng quá nghèo nàn rồi ạ.”

“Ngài là ai thế?” Tôi ngớ ra hỏi. Ông ấy có hàm râu xuề xòa như lâu ngày không cắt tỉa cùng trán gần hói. Đôi mắt như muốn lồi ra khỏi hốc mắt trông rất hung dữ.

“Bệ hạ, đây là Ninh Chí An người Thiên Trường. Cháu năm đời Đại tướng quân Ninh Hữu Hưng thời Đinh. Tuy không kế nghiệp võ của tổ tiên nhưng đã nối nghề cụ tổ trở thành một kiến trúc sư. Hiện là môn khách của thần.” Lưu Khánh Đàm lên tiếng.

“Ninh Tiên sinh,” Tôi gọi ông. “Nếu chỉ có mỗi việc buôn muối cho các dân tộc miền núi kia thì phụ hoàng trẫm đã chẳng lặn lội tới tận đây đánh giặc đâu.”

“Thần ít học,” Ninh Chí An quỳ xuống. “nếu có lời không phải, xin bệ hạ xử tội.”

“Bệ hạ,” Lưu Khánh Đàm cũng quỳ xuống. “môn khách của thần không hiểu lễ nghi, hoàn toàn không có ý bất kính. Xin bệ hạ thứ tội.”

“Không sao đâu.” Tôi đỡ hai người họ dậy. “Nhưng mà, muốn trẫm thứ tội thì,” Tôi hằng giọng. Lâu lắm mới được dịp lên mặt với mấy lão già mà không có mẹ ở bên cạnh nhắc nhở, tôi phải tranh thủ. “kiến trúc sư, ta có thể nhờ ngài xây dựng cảng biển ở đây được không?”

“Cảng ạ?”

“Trẫm học được ở một số sách phương Tây, ở đó họ xây dựng nên những cảng biển sầm uất lắm. Nếu có các cảng biển lớn, thương nhân sẽ đổ tới nhiều hơn, và kinh tế nước ta sẽ càng phát triển.”

“Chúng thần tuân chỉ!” Lưu Khánh Đàm và Ninh Chí An đáp.

“À, Lưu Thị lang.” Tôi gọi vội khi hai người họ vừa quay đi.

“Bệ hạ có gì căn dặn?” Lưu Khánh Đàm quay lại.

“Ta bảo để Ninh Tiên sinh phụ trách xây cảng, chứ không nói anh.”

“Thần xin tiếp chỉ.” Lưu Khánh Đàm quỳ xuống.

“Phiền Thị lang tìm cho ta các mỏ kim loại quý quanh vùng này nhé.”

Anh ta lại tròn mắt nhìn tôi.

“Có thể quanh đây sẽ có vàng đấy.” Tôi nháy mắt.



Tôi tạm cho Ninh Chí An chức Ngoại lang để tiện việc xây dựng. Đồng thời tôi cũng ở lại vài ngày để giám sát.

Mang tiếng là giám sát chứ thực ra thì tôi đang muốn tránh xa cái cung điện ngột ngạt kia. Lâu lâu trốn khỏi cung đi ngắm cảnh kể cũng vui mà. Tôi ngồi ngồi chơi cờ với Lưu Khánh Đàm vừa uống trà trong doanh trướng. Tôi đang tính chiều nay sẽ đi săn hay làm gì đó cho khuây khỏa. Nhắc đến săn bắn, em trai tôi bắn cung rất giỏi dù thằng bé mới có sáu tuổi rưỡi, chỉ dùng được loại cung tên nhỏ, nhưng chưa bao giờ tôi thắng được em trai tôi.

Sẵn đang khoe về em trai, tôi cũng phải khoe về bản thân mình. Sau một thời gian luyện cờ với Lê Văn Thịnh, tôi khá là tự tin khả năng đánh cờ của mình không thua các kiện tướng đâu. Nhưng tôi vẫn không phải đối thủ của Lưu Khánh Đàm. Anh ta tung ra từng nước cờ hóc búa khiến tôi toát mồ hôi.

Khi đang bí nước thì tiếng huyên náo ở bên ngoài đã cứu tôi.

“Có gì mà ồn ào thế nhỉ?” Tôi đi ra xem xét. Lưu Khánh Đàm cũng biết ý nên cũng dẹp bỏ bàn cờ vây và đi theo.

Bên ngoài doanh trại, một đám dân mặc trang phục người Chăm đang làm ầm ĩ lên. Phụ nữ mặc những chiếc đầm dài màu trắng và đội khăn, đàn ông mặc trang phục màu đen và có giắc theo vũ khí. Tôi từng thấy những cảnh như thế này trên TV, trong các chương trình thời sự ở nước ngoài thường có các cuộc biểu tình với băng rôn khẩu hiệu gần giống thế này.

“Có chuyện gì ở đây thế?” Tôi hỏi.

“Bệ hạ,” Một người lính nói. “chỗ này rất nguy hiểm, bệ hạ xin hãy quay về trướng đi ạ.”

“Là vua Đại Việt!”

“Đó là vua Đại Việt!”

“Đồ ác ôn!”

“Các vị bá tánh!” Khánh Đàm hét lớn. “Người đang đứng trước mặt các vị đây, là hoàng đế bệ hạ của nước Đại Việt!” Anh ta vái người về phía tôi.

“Chỉ là một đứa trẻ thôi!”

“Lũ người Việt các ngươi chỉ dám lấy một đứa trẻ ra để làm bình phong cho mình thôi sao?”

“Lũ bỉ ổi!”

Đám đông lại gào thét.

“Các vị!” Tôi hét lớn và vẫy tay ra hiệu. Khánh Đàm liền hiểu ý và công kênh tôi lên vai. “Ta là Hoàng đế của Đại Việt. Nếu các ngươi đang có bất mãn điều gì, hãy cử ra đại diện tới gặp ta! Đích thân ta sẽ giúp các ngươi giải quyết!”

“Một đứa nhóc như mày thì làm được gì hả!?”

“Nó chỉ là một đứa trẻ thôi!”

“Hỗn láo!” Khánh Đàm mắng. “Đương kim thánh thượng của chúng ta, là do thần tiên phái xuống trần để cứu dân độ thế. Dẫu ngài chỉ là một đứa trẻ, ngài cũng là thiên tử!”

“Thôi đủ rồi, Lưu Thị lang.” Tôi tiến tới gần đám dân Chiêm. “Các vị, dù ta chỉ là một đứa trẻ. Nhưng ta vẫn là Hoàng đế. Ta biết các ngươi là người Chiêm, có phong tục riêng, tín ngưỡng riêng khác với người Việt. Nhưng bây giờ nơi đây là lãnh thổ của Đại Việt. Các ngươi sống trên đất của ta, thì các ngươi là con dân của trẫm. Trẫm sẽ đối xử với các khanh một cách công bằng, bình đẳng và bác ái.”

Đám người Chiêm lại xôn xao bằng tiếng Chăm. Tôi thì chẳng biết chữ nào.

Cuối cùng, họ cử ra một đại diện bước tới trước mặt tôi.

Anh chàng người Chăm bước qua cổng doanh trại và cúi đầu chào tôi, đấm tay phải đặt lên ngực trái. Tôi cũng chắp tay chào lại hắn.

Gã thanh niên trông khoảng mười chín hai mươi cao ráo vạm vỡ và có một mái tóc đen cắt ngắn hơi xoăn trên nước da rám nắng trông vô cùng mạnh mẽ. Đôi mắt anh ta trông có vẻ không giống với những người Chăm khác. Nó không hiện lên vẻ phẫn nộ hay sợ sệt như những người kia. Tôi có thể thấy từ chúng một khí thế ngút trời.

“Mà, nếu được mấy người dân kia cử làm đại diện thì chắc là anh ta cũng có chút uy tín. Có thể là nhân vật có chút tiếng tăm ở địa phương.”

Thấy tôi giỏi chưa, tôi bắt đầu đoán được tâm tư người khác qua cử chỉ rồi đấy. Hoặc có thể đó là những gì anh ta cố ý thể hiện cho tôi thấy.

“Người anh em,” Tôi đưa tay về phía doanh trướng. “mời vào.”

“Ninh Chí An đang cho phá các công trình của các ngươi sao?” Tôi hỏi.

“Vâng.” Anh chàng người dân tộc đáp. “Đó là những công trình được xây dựng từ thuở lập quốc và giữ nước của chúng ta. Là chứng tích lịch sử cho những lần phản Hán chặn Tùy chống Đường và cả những trận chiến với người Việt các ngài. Tuy không nhiều nhặn gì, nhưng đó là những gì tổ tiên chúng ta để lại.”

“Bệ hạ,” Ninh Chí An lên tiếng. “Nếu muốn xây dựng cảng biển ở đây thì cần phải bỏ một số công trình cũ. Nếu không sẽ không thể xây công trình mới được ạ.”

“Hắn nói láo!” Gã người Chăm nổi đóa lên. “Hắn còn cho phá cả các công trình kiến trúc văn hóa của chúng thần nữa.”

“Đó là thứ dị giáo, không thể để nó manh nha trong đất nước này được!”

“Thế mà là bao dung sao? Các ngươi chỉ đang muốn đồng hóa chúng ta mà thôi, các ngươi chẳng khác gì lũ người Hán kia cả!”

“Các ngươi còn thấy trẫm đang ngồi đây không!?” Tôi đập bàn.

“Bệ hạ bớt giận.” Lưu Khánh Đàm dâng trà cho tôi.

“Người anh em dân tộc,” Tôi gọi anh chàng người Chăm. “ta hiểu vấn đề của các anh.” Tôi quay sang Chí An. “Ninh Ngoại lang, các kiến trúc văn hóa và những công trình mang ý nghĩa lịch sử, giữ chúng lại.”

“Đội ơn bệ hạ!” Anh ta lạy tôi liên tục.

“Nhưng bệ hạ,” Chí An tâu. “nếu thế thì sẽ không có đủ không gian để xây dựng kho bãi và các công trình dân sinh đâu ạ.”

“Chúng ta có thể tìm nền móng cũ của các công trình lớn và xây dựng trên đó. Về chuyện bến cảng, ta nghĩ, nếu có thể thì hãy tìm khu vực có nước sâu để tiện cho thuyền bè cập cảng.”

“Nhưng bệ hạ, nếu là thế, ta sẽ bị xem là nhu nhược với ngoại giáo mất.”

“Ninh Ngoại lang,” Tôi đưa ba ngón tay về phía ông ta. “Có ba thứ ngài không thể vô lý cướp đoạt đi của người dân. Đó là tính mạng của họ, tài sản của họ, và lòng tự tôn của họ. Nếu mất đi một trong ba thứ ấy, nhân dân sẽ không bao giờ tha thứ cho kẻ cầm quyền.” Tôi đọc y lời Lê Văn Thịnh đã dạy tôi lúc đi Tống. Dù hiện tại anh ta đang bận tối mắt ở sông Như Nguyệt.

“Nhưng bệ hạ, nếu không phá bỏ một số công trình, ta sẽ thiếu đất đai để xây dựng. Các kho bãi, quân doanh, rồi xưởng đóng và sửa chữa tàu thuyền… cả chùa chiềng nữa. Sẽ mất rất nhiều thời gian và cả ngân sách…”

“Trẫm hiểu, tiền bạc và thời gian vô cùng đáng quý. Nhưng làm sao đáng quý bằng người dân? Ta thà để mất tiền của và mười năm, hai mươi năm cuộc đời, còn hơn là nhận lấy sự bất mãn từ bách tính của chính mình.”

“Ninh Ngoại lang, ngài là một kiến trúc sư tài ba.” Khánh Đàm tiếp lời tôi. “Nhưng đây không còn là vấn đề kiến thiết đô thị nữa, mà là xây dựng quốc gia. Ninh Tiên sinh, ta hiểu ngài. Nhưng chính trị gia bọn ta cần mang tầm nhìn của mười năm, một trăm năm. Còn ngài, ta cần ngài cho ta các công trình có thể tồn tại một nghìn hai nghìn năm. Khi mộ của chúng ta đều đã xanh cỏ, thì các công trình ấy vẫn còn vững vàng. Đó mới là việc của ngài. Còn điều khiển đất nước, chèo lái con thuyền này, là việc của chúng ta.”

Theo như sách sử mà tôi học thì việc đồng hóa dân tộc khác là việc đã diễn ra suốt hàng nghìn năm nay. Người Hán đã đồng hóa các dân tộc xung quanh mình, tạo ra một nền văn hóa rực rỡ và huy hoàng trên đồng bằng Hoa Hạ. Tôi đã nghĩ đó là lẽ thường tình.

Nhưng với tâm hồn của con người thời hiện đại và trí óc của một con người sinh ra vào thế kỷ XXI, tôi biết tương lai đất nước tôi sẽ có đến năm mươi tư dân tộc anh em với những bản sắc và tín ngưỡng riêng. Ông cha tôi đã có thể giữ cho các bộ tộc miền núi kia thần phục và khiến họ phải giúp chúng tôi đánh giặc, thế mà tôi không thể thu nhận những con người miền nam này thì sao dám ngồi trên ngai vàng kia và nhận mình là con trai của vua Lý Thánh Tông anh hùng?

“Hóa ra, chính trị gia thì không thể hành xử theo lối thường tình.”

“Ra là thế.” Gã người Chăm cười khùng khục. “Ra đây là lý do chúng ta không thể đánh bại được Đại Việt.”

“Ngươi làm sao thế?” Tôi hỏi.

“Ồ, lỗi của ta.” Hắn đứng dậy. “Ta là Jaya Indravarman II[2]. Thái tử của Chiêm Thành.”



[1] Đến thời điểm trong truyện, Nam Chiếu đã trở thành nước Đại Lý.
[2] Tên tiếng Việt của ông là Chế Ma Na, là vị vua thứ hai của vương triều thứ chín – Sud của Chămpa.
 

Mạnh

Tác giả
Tham gia
9/7/20
Bài viết
423
Điểm cảm xúc
737
Điểm
93
Chiêm Thành không phải một vương quốc. Đó là liên minh của các tiểu quốc nhỏ, trong đó bốn tiểu quốc mạnh nhất gồm Amaravati, Vijaya, Kauthara và Panduranga. Chế Củ là quốc vương cuối cùng của Vijaya đứng đầu Chiêm Thành. Sau khi ông ta mất, một người đến từ Sud, một tiểu quốc khác nhỏ hơn đã trở thành người đứng đầu.

“Anh đến đây với mục đích gì?” Tôi bình tĩnh hỏi lại.

“Đây vốn là đất của người Sud chúng tôi.” Hoàng tử Indravarman nói. Giọng điệu như thể đây là nhà của hắn. Đến cả Lưu Khánh Đàm thường ngày điềm tĩnh cũng phải kinh ngạc ra mặt. “Chế Củ đã chiếm lấy đất đai của tôi. Sau đó lại đem dâng cho các ngài. Tôi ở đây đúng rồi mà.”

“Anh định ám sát trẫm?” Tôi hỏi tiếp.

“Nếu ám sát ngài mà đòi lại được quê hương thì ta cũng làm.” Anh ta cười.

“To gan!” Những người xung quanh tuốt vũ khí.

“Bỏ vũ khí xuống!” Tôi hét lớn.

“Nhưng, bệ hạ…” Lưu Khánh Đàm chắn giữa tôi và Indravarman.

“Nếu hắn định ám sát trẫm thì đã làm từ lúc trẫm ở ngoài kia rồi.”

“Bệ hạ anh dũng thật đấy.”

“Tôi đang sợ vãi ra quần đây này.”

“Chúng ta đều là người sẽ đứng đầu quốc gia.”

Tôi hít một hơi thật sâu và bước tới, cách Chế Ma Na đúng hai bước chân. Đứng gần anh ta cảm giác rất run, nhưng tôi tự cắn vào miệng để giữ bình tĩnh. Anh ta có thể dễ dàng đoạt mạng tôi trong tình huống này, nhưng để có được sự tin tưởng, tôi cần làm thế thôi.

“Bỏ qua mấy trò đùa nhạt nhẽo đi. Vào thẳng vấn đề, Chế Củ đã dâng miền đất này cho phụ hoàng trẫm, bây giờ nơi này là đất của Đại Việt. Anh định làm gì?”

“Các ngài vừa mới xuất một đạo quân mười vạn binh mã đánh chiếm tới tận Ung Châu nước Tống.” Indravarman nhún vai. “Các ngài nghĩ nếu như Chiêm Thành, Tống, và Chân Lạp ba mặt giáp công, các ngài có thể chống đỡ sao?”

“Anh nghĩ thế ư?” Tôi nhìn anh ta bằng ánh mắt thương hại.

“Đúng, ta nghĩ như thế đấy.” Hắn đáp lại tôi bằng giọng điệu đe dọa.

“Pha này toang rồi.”

Vốn dĩ tôi định dọa cho anh ta sợ và quy phục, nhưng nếu cả ba nước Chân Lạp, Chiêm Thành và Tống cùng đánh, chúng tôi gần như không có lấy một cơ hội nào. Chưa kể, Đại Lý vẫn còn ở đó và chưa có bất kỳ động thái nào, nhưng nếu nhà Tống yêu cầu… Đại Việt sẽ phải cùng lúc đánh với bốn nước.

Liệu Đại Việt có thể chống chọi được một cuộc tấn công của bốn nước?

“Tuy nhiên, ta lại không thể làm như thế.” Indravarman thở dài.

“Cái gì?” Tôi chau mày.

“Nếu như Hoàng đế của Đại Việt đã thân chinh ở đây, thì tức là ở kinh thành Thăng Long kia, các ngài đã có một ai đó vô cùng tài giỏi đang chèo lái con thuyền đất nước.” Anh ta nhìn Lưu Khánh Đàm. “Ta thích cụm từ “con thuyền đất nước” này đấy.”

“Vậy anh đến gặp ta, chắc chắn không dừng lại ở mấy cái công trình kiến trúc đâu nhỉ.” Tôi quay lại bàn đưa anh ta đĩa trầu.

“Đúng.” Indravarman ngồi khoanh chân xuống và bốc lá trầu lên ăn. Tôi cũng ngồi xổm xuống đối diện anh ta. “Hiện tại, chúng ta với Chân Lạp đang có một số tranh chấp.”

Dù đang nói, nhưng tôi thấy rõ mặt anh ta đang nhăn nhúm lại vì vị cay của lá trầu.

“Cho đáng đời cái tội dọa ta.” Tôi cười thần trong lòng. Tục ăn trầu chỉ có ở người Việt và các dân tộc miền núi phía bắc. Tên này làm sao biết miếng trầu là phải bao gồm cả cau với lá trầu quét vôi và vỏ cây chay.

“Thế chiến sự thế nào?” Tôi ngồi hẳn xuống, tướng tá như bà bán cá ngoài chợ Giá[1]. Lưu Khánh Đàm đặt ấm chè bên cạnh tôi.

“Cũng… tàm tạm…” Mặt anh ta bắt đầu đỏ lên như người say rượu. “Nhưng chúng ta ở đây thì bàn vấn đề ở đây đi.”

Tôi từ từ rót nước, cố tình trêu tức hắn.

“Thế anh muốn thế nào?” Tôi đưa tách trà cho hắn. Hắn cũng khá lắm, vẫn giữ được bình tĩnh và đón lấy tách trà. Nhưng hành động uống vội sau đó đã khiến ai đó phía sau tôi phì cười.

“Tôi muốn hỏi, ngài có thể bảo đảm cho người dân của tôi một cuộc sống ấm no hay không?”

“Anh không muốn chiếm lại đất đai của mình à?” Tôi hỏi và quét vôi lên lá trầu.

“Chỉ cần ngài cho họ một cuộc sống ấm no là được.” Indravarman trố mắt nhìn tôi cho trọn miếng trầu vào miệng.

“Anh không nghĩ ta sẽ lấy họ làm con tin sao?” Tôi hỏi.

“Con tin? Thế ngài định chuộc gì từ số con tin ấy?” Indravarman hỏi.

“Điều mà cả hai chúng ta đều muốn.” Tôi uống ngụm nước trà.

“Hòa bình.” Cả hai đồng thanh.



“Thần kiếp này, sẽ mãi mãi nhớ ơn của bệ hạ!” Indravarman rời khỏi doanh trại quay lại quỳ xuống dập đầu trước tôi.

Đám loạn dân kia sau khi nghe anh ta trình bày lại bằng tiếng Chăm thì cũng vui mừng quỳ rạp xuống và vái tôi.

“Bệ hạ vạn tuế!”

Tối hôm sau, Thái úy cũng trở về từ biên giới.

“Về vấn đề thu nhận đám dân Chiêm đó,” Thái úy ngồi nghị sự cùng các quan về vấn đề. “ta nghĩ cứ để họ ở đây thế này là không ổn.”

“Đúng thế,” Lưu Khánh Đàm nói. “Nhưng nếu để một người thiếu tầm nhìn đến đây cai quản thì cũng không ổn.”

“Chúng ta cần một người vừa thông tuệ văn hóa Việt, vừa hiểu biết và có lòng bao dung.” Đào Thế Trung nói.

“Bệ hạ,” Một người lính vào báo. “có thánh dụ từ Thái hậu.”

“Cho vào!” Tôi vội nói.

“Hoàng huynh!” An Dân nhảy chân sáo vào lều. Đi sau thằng bé là một thiếu niên có đôi mắt gian manh khá giống Khánh Đàm nhưng nụ cười dịu dàng hơn. Và tôi nhớ là đã gặp cậu ta rồi.

“An Dân!”

“Minh Nhân Vương!” Cả doanh trướng cúi người vái cậu bé bảy tuổi.

“Sao… sao em lại tới tận đây?” Tôi kéo một chiếc ghế nhỏ ra.

“Thần đệ tới,” Thằng bé lắc tờ chiếu trên tay. “mang theo thánh dụ từ Thái hậu.”

Toàn bộ doanh trướng quỳ xuống chờ nghe thánh dụ. Cả tôi cũng phải quỳ.

“Thừa thiên hưng vận, Thái hậu chế viết[2].” Giọng nói trong trẻo ngọng líu ngọng lơ của đứa bé sáu tuổi cầm tờ thánh chỉ vàng nghe có hơi buồn cười nhưng không ai dám cười. “Ba xứ phương nam do Thánh Tông Hoàng đế đem gươm đi mở mang bờ cõi mà có được. Đó vốn là đất của người…”

“Người Man.” Người thiếu niên kia nhắc.

“…của người Man!”

Tờ thánh dụ mất một lúc lâu mới đọc xong vì có nhiều chữ An Dân chưa học. Đại ý là thế này: ba xứ ấy là đất man nên hỗn loạn khó quản. Lại còn giặc cướp, thú dữ và thiên tai, cần người có tài năng và đức độ đủ lớn và cả năng lực cầm binh để chuẩn bị cho những trường hợp bất trắc nơi biên phòng. Nhân sự đã được lựa chọn xong xuôi cả rồi.

Tôi ngước nhìn thiếu niên bên cạnh An Dân, anh ta là Lưu Khánh Ba, em trai của Lưu Khánh Đàm.

“Khánh Ba dẫn em tới đây đấy!” Thằng bé khoe.

Chưa kịp nói thêm gì, ngoài lều lại có tiếng nói vọng tới.

“Thái phó đến!”

Một lão già râu tóc bạc phơ chống gậy bước vào doanh trướng. Bên cạnh còn có một người hầu đang đỡ. Chiếc kính của ông ta lấp lánh dưới ánh đèn dầu.

“Thái phó!” Cả doanh trướng lại chào.

Sau khi ngồi xuống vị trí chỉ ở dưới tôi và An Dân, Thái phó Lý Đạo Thành cầm lấy cốc trà và thổi.

“Thái hậu lệnh cho lão thần tới để bàn giao trách nhiệm.”

“Thái hậu lệnh cho ngài?”

“Nếu đây đã là đất của ta, thì cũng nên để dân ta tới ở. Đồng thời đưa một số con em người Chiêm tới đất Việt ở để thắt chặt tình cảm giữa hai nước. Vua Chiêm phía nam biết dân Chiêm đất bắc không phải chịu khổ nhục sẽ tự động cảm ân đức của ta. Tất nhiên là chỉ ở phía nam Hoành Sơn để dễ kiểm soát.”

Lý Đạo Thành đón lấy tách trà.

“Đó là lý do, nhân sự phương nam sẽ cần những người có năng lực trị an, vừa có năng lực quân sự để có thể chuẩn bị cho mọi trường hợp.”

“Thái phó đã lựa chọn được rồi chăng?” Lưu Khánh Đàm hỏi.

“Đúng thế.” Lý Đạo Thành dộng cây gậy xuống đất.

“Cho gọi Trần Kỵ úy và Cao Ngự sử!”

Hai người bước vào, một người mặc áo quan và một người mặc áo giáp.

“Bệ hạ vạn tuế vạn tuế vạn vạn tuế!” Cả hai quỳ vái tôi.

“Phong Cao Vĩnh làm Thứ sử Bố Chính lo việc trị dân, Trần Quỳnh làm Kỵ úy lo việc binh. Cả hai mau chóng nhậm chức.” Lý Đạo Thành phong chức cho họ.

“Thần, khấu tạ long ân!” Cả hai vái tôi và lùi về cuối doanh trướng.

“Cho gọi Vũ Đại phu và Lương Đô úy.”

Hai người khác bước vào vái tôi.

“Phong Vũ Trung Siêu là Thứ sử Lâm Bình lo việc an dân, Khinh xa đô úy Lương Văn Côn lo việc binh. Cả hai nhanh chóng nhậm chức.”

Lâm Bình khi trước có tên Địa Lý. Nhưng vì dễ nhầm với khái niệm Địa lý nói chung nên cha tôi đã cho đổi tên.

“Thần khấu tạ long ân!”

“Cuối cùng là Minh Linh.” Tôi lẩm bẩm. “Nơi này là biên cương, cần có tướng tài. Dân cư khó quản, cần người có đức lớn. Hơn nữa cũng cần người giám sát xây dựng cảng biển và việc giao thương nữa.”

“Gọi Lưu Thượng thư!”

Thượng thư Lưu Ngữ bước vào.

“Cha!” Lưu Khánh Đàm và Lưu Khánh Ba vội vái phụ thân.

“Thượng thư sao lại…”

“Bệ hạ, thần cao tuổi rồi, xin được giao lại chức Thượng thư này cho người khác. Thần muốn rời xa xứ kinh kỳ ấy về nơi quê mùa mà an hưởng tuổi già thôi.”

Giờ tôi mới để ý, bố con họ có chiếc sống mũi như đúc ra từ cùng một khuôn. Nhưng đôi mắt Lưu Khánh Đàm nhỏ hơn Thượng thư, còn Khánh Ba trông cũng có phần ngây ngô. Trái với vẻ hiền hòa của người bố và em trai, Lưu Khánh Đàm mang điệu cười khinh khỉnh khiến người đối diện sởn tóc gáy.

“Phong Lưu Ngữ làm Tiết độ sứ Minh Linh. Tả vũ vệ Đào Thế Trung, ngươi hãy tới Minh Linh quản lý việc binh, đừng để ta phải thất vọng.” Lý Đạo Thành nói và nhấp ngụm trà.

“Nhưng, Thái phó…” Đào Vũ vệ lên tiếng.

“Ngoài ra, Lưu Khánh Ba, tuổi trẻ anh tài, đến Minh Linh hỗ trợ phụ thân.” Thái phó ngó lơ Đào Thế Trung. “Lang trung Bùi Minh Giang, quản lý việc di dân, nếu đoàn di dân mất kiểm soát hay gặp bất cứ nguy hiểm gì, ta sẽ hỏi tội ngươi đấy.”

“Ti chức lĩnh mệnh!” Bùi Lang trung quỳ xuống.

“Về vấn đề di dân, người nào di dân xuống ba châu miền nam sẽ được miễn thuế ba năm. Đồng thời triều đình cũng sẽ hỗ trợ lương thực và chỗ ở trong thời gian đầu.”

Doanh trướng xì xầm bàn tán.

“Được rồi,” Thái phó đứng dậy. “Việc của ta chỉ có thế thôi. Ta về đây.”

“Thái phó đi cẩn thận!” Mọi người vái ông cho đến khi ông ra khỏi doanh trướng.

Và như thế, vấn đề cai quản ba châu miền nam đã được giải quyết xong xuôi.

“Thôi nào An Dân, Lưu Thượng thư, ý ta là Tiết độ sứ già rồi, cần có con ở bên cạnh chăm sóc chứ.” Tôi nói khi cùng An Dân đi dạo trên đồi. Thằng bé có hơi hờn dỗi khi Lưu Khánh Ba đi mất.

“Em biết anh để Khánh Ba đi là để anh ta phụng dưỡng Lưu Tiết độ sứ. Cha chúng ta mất từ khi anh em mình còn quá nhỏ… em còn chẳng nhớ được khuôn mặt của phụ hoàng. Hôm qua gặp được Lưu Ngữ, em mới nhận ra, ông ấy cũng sắp gần đất xa trời rồi. Nên có con cháu bên cạnh…”

“An Dân…” Mấy năm nay tôi không để ý, nhưng em trai tôi cũng trưởng thành rất nhanh. Rất ra dáng vương gia tôn thất.

“Được rồi!” Tôi xoa đầu đứa em. “Lần sau, anh sẽ dẫn em đi du ngoạn!”

“Thật ạ?” Thằng bé lại sáng mắt ra.

“Nếu em không ngại xa xôi, có thể đau ốm, có thể nguy hiểm… và mẹ…”

“Đường xa, bệnh tật thì được ở bên thần tiên cũng tự khắc qua thôi.” An Dân cười. Rồi nụ cười của thằng bé biến mất. “Còn mẹ thì…”

“Ừ, mẹ thì đáng sợ thật.”

Mẹ chúng tôi dịu dàng và hiền hậu thật, nhưng riêng về dạy dỗ các con thì cực kỳ nghiêm khắc. Từ lời lẽ, cử chỉ, và cả vấn đề giờ giấc.

“Nhưng em đừng lo.” Tôi nói với An Dân. “Ta là Hoàng đế, em là vương gia. Hai chúng ta đều cần có những trải nghiệm cuộc sống để thấu hiểu dân tình thế sự. Không sớm thì muộn, chúng ta đều sẽ phải…”

“Bệ hạ,” Lưu Khánh Đàm cắt ngang chúng tôi. “Sứ giả của Thái hậu từ Thăng Long báo tin, binh mã nhà Tống lại chuẩn bị rồi ạ.”

“Đã chuẩn bị rồi sao?” Tôi hỏi, cũng không ngạc nhiên lắm. Bởi tôi đã nghĩ nó sẽ xảy ra sớm hơn. “Tình hình thế nào?”

“Nhà Tống đã xin hòa hoãn với các nước phương bắc và chuẩn bị quân mã nam tiến. Theo mật thám của ta báo về thì đầu năm sau sẽ tấn công.”

“Đầu năm sau…” Tôi nhìn lên trời. “Minh Nhân Vương.”

“Bệ hạ có gì căn dặn.” An Dân đáp. Thằng bé này cũng thật là nhanh trí, tôi vừa gọi nó là “Minh Nhân Vương” thì nó đã đổi từ “hoàng huynh” thành “bệ hạ”.

“Em đã tới sông Như Nguyệt bao giờ chưa?”

“Cũng lâu rồi em chưa tới đó ạ.”

“Được, khi về Thăng Long, cả nhà ta sẽ cùng ngự thuyền dạo sông Như Nguyệt.”



[1] Chợ Giá ở Hoài Đức, Hà Tây, nay thuộc Hà Nội. Quê tác giả.
[2] Cái này được lấy từ sắc phong của triều Nguyễn.
 
Top