Lượt xem của khách bị giới hạn

[Ngôn tình] [Truyện Hoàn] Thượng cung - Vân Ngoại Thiên Đô

Trạng thái
Không mở trả lời sau này.
[Ngôn tình] [Truyện Hoàn] Thượng cung - Vân Ngoại Thiên Đô

Hoa Tử

Sưu tầm
Tham gia
24/9/19
Bài viết
10,570
Điểm cảm xúc
1,484
Điểm
113
Chương 10.1:
Ta cùng đám phi tần sốt ruột đứng bên ngoài đợi tin, chỉ thấy các ngự y ra ra vào vào, không khí căng thẳng vô cùng, có người còn mở sách cổ ra tra cứu. Cuối cùng ngự y đưa đến một kết luận, Sư Quý phi lần này sảy thai tự nhiên, không vì nguyên do gì khác.

Chúng phi tần ai nấy thở phào nhẹ nhõm, tuy vẫn phải giữ vẻ mặt bi thương, nhưng đã có mấy kẻ túm tụm nhỏ to: “Có lẽ mấy hôm nay trời lạnh, Hoàng thượng lại suốt ngày lui tới Túy Hà các, nên Sư Quý phi mệt nhọc quá độ chăng?”

Có phi tần khác nghe nói vậy, không nhịn được cười khẽ một tiếng, lại lập tức trở về bộ dạng buồn bã mà rằng: “Quý phi nương nương của chúng ta thật không may.”

Hoàng thượng cùng Hoàng hậu từ tẩm cung bước ra, sắc mặt cả hai đều nặng nề, đặc biệt là Hoàng thượng, da mặt sạm đi, mày cau lại thành hình chữ xuyên[1]. Hoàng hậu nắm lấy tay hắn, nhỏ giọng khuyên nhủ, thấy chúng phi tần đứng cả bên ngoài, bèn thay Hoàng thượng hạ chỉ: “Sư Quý phi hôm nay mệt rồi, chúng tỷ muội ngày khác hãy đến thăm?”

[1]. Chữ xuyên III

Ta nôn nóng tiến ra phía trước, hỏi: “Quý phi tỷ tỷ thân thể có được khỏe không ạ?”

Hoàng hậu khẽ lắc đầu, giọt châu Yên Hà trên chiếc trâm phượng đung đưa trước trán, nàng ta âu sầu liếc nhìn Hoàng thượng, lại quay sang ta nói: “Ninh muội muội thật có lòng, sức khỏe của Quý phi nương nương không có gì đáng ngại nữa, chúng tỷ muội cứ về nghỉ ngơi đi!”

Hạ Hầu Thần lạnh lùng quét mắt qua khắp lượt phi tần, ánh mặt trời xán lạn ngoài điện dường như phút chốc bị lu mờ. Tuy không bị hắn nhìn đến, nhưng không hiểu vì sao, ta cứ cảm thấy ánh nhìn ấy tựa như mũi tên đâm xuyên qua mặt mình, khiến da đau âm ỉ. Ta phải hết sức kìm chế mới giữ cho biểu cảm của mình được tự nhiên, phải không ngừng nhắc nhở bản thân rằng, chỉ là quá đa nghi sinh ra ám ảnh mà thôi.

Chúng phi tần thấy sắc mặt Hoàng thượng không mấy hiền hòa, chẳng nói một lời, ai nấy đều muốn tránh đi, bèn mau chóng cáo biệt Hoàng thượng Hoàng hậu rồi giải tán. Ta hiển nhiên cũng theo sau bọn họ, chỉ mong rời khỏi Túy Hà các càng nhanh càng tốt.

Đâu ngờ cửa vườn Túy Hà các đã ở ngay trước mắt, bỗng nghe Hạ Hầu Thần cất giọng: “Ninh Chiêu hoa, ngươi ở lại!”

Ta chầm chậm dừng lại, rủa thầm: Ban nãy khi thỉnh an sao không cất lời, lại đợi đến lúc này mới lên tiếng? Nhớ lại giọng điệu lạnh giá của hắn, lòng ta cứ như con chuột nhắt sợ gặp mèo, lo lắng không yên. Ta vừa quay lại vừa thấp thỏm, đứng ngay trên thềm ngọc hướng về phía Đế Hậu mà hành lễ. Hoàng hậu thần thái đoan trang như thường, nhưng không giấu được một tia hoảng loạn trong ánh mắt. Sợ rằng bản thân ta chưa bị hắn nhìn thấu, chính Hoàng hậu đã làm lộ manh mối thì hỏng.

Viên ngọc phỉ thúy trên đầu khẽ chạm vào búi tóc theo từng bước chân, ta cảm nhận được cả trọng lượng của chiếc trâm ghim vào búi tóc. Thường ngày không để ý, hóa ra cây trâm vàng này lại nặng đến thế?

Tiếng khóc lóc từ trong phòng riêng của Sư Viên Viên đã biến mất, có lẽ uống thuốc an thần do thái y chuẩn bị, cô ta đã ngủ thiếp đi, Túy Hà các thoang thoảng vị thuốc nồng đượm.

Cuối cùng ta đã bước tới trước mặt Hoàng hậu, cúi mình hành lễ: “Hoàng thượng, ngươi muốn căn dặn thần thiếp điều gì?”

Giờ lâu chẳng nghe hắn trả lời, vẫn là Hoàng hậu lên tiếng đáp: “Bình thân đi.”

Ta thấy khiếp sợ cái không khí tịch mịch khiến người ta phải nín thở này. Cảm giác bất định quen thuộc lại dấy lên, chính là cảm giác khiến ta khó chịu nhất.

Hoàng hậu khẽ nói: “Hoàng thượng, hôm nay trời đã tối, có chuyện gì, hay để sớm mai hãy nói?”

Lúc này, nàng ta không còn dám gọi y là “biểu ca” nữa.

Hạ Hầu Thần đáp: “Nếu Hoàng hậu mệt, cứ về cung nghỉ trước, trẫm muốn nhờ Ninh Chiêu Hoa làm chút việc…”

Lại phải một mình đối mặt với hắn sao? Nghĩ đến những chuyện trước đây, ruột ta bỗng chốc quặn thắt, nhưng không dám thốt ra nửa câu phản đối, chỉ cúi đầu thưa: “Hoàng thượng, nếu là chuyện thần thiếp làm được, có chết thần thiếp cũng không chối từ…”

Hạ Hầu Thần khoát tay một cái, ra ý cho ta ngừng lời, quay người vào thẳng tẩm cung của Sư Viên Viên. Trong tiếng hô bãi giá của tên thái giám, Hoàng hậu rời đi càng lúc càng xa.

Thân người Hạ Hầu Thần dong dỏng cao tựa thân trúc, vạt hoàng bào theo bước chân tung bay, đi đến đâu, bọn cung nhân đều cúi đầu không dám nhìn tới đó. Đầu óc ta căng ra, rốt cuộc hắn đã biết được điều gì, hay chỉ là muốn thăm dò mà thôi?

Ta chưa từng đến phòng riêng của Sư Viên Viên, lần trước đến sửa áo chẳng qua chỉ đứng ngoài và ngồi ở phòng kế bên. Vừa bước vào, lập tức cảm thấy một luồng hơi ấm phả vào mặt, trong mùi hương trầm xen lẫn vị thuốc ích mẫu, cùng vài hương là lạ khác, có lẽ đều là những thảo dược có lợi cho thai phụ, được ngự y điều chế công phu.

Trướng xanh rủ nhẹ, trong phòng có mấy cung nhân lặng lẽ đứng hầu hai bên, thấy Hoàng thượng đi vào, đều quỳ xuống hành lễ nhưng không dám lớn tiếng náo động. Một cung nữ lớn có vẻ vai vế bước ra, nhỏ giọng bẩm báo: “Hoàng thượng, nương nương vừa mới thiếp đi.”

Hạ Hầu Thần đáp: “Các ngươi đều lui cả ra.”

Cung nữ kia liếc ta một cái, rồi dẫn những cung nữ khác ra ngoài.

Ban nảy khi trong phòng đông người thì không sao, nay người vừa đi khuất, cảm giác tịch mịch đáng sợ kia lại dâng lên. Hắn đứng bên trướng xanh, ngắm nhìn bóng dáng nữ nhân bên trong, dường như ngây dại cả người. Ta đứng phía sau, chẳng biết nên phản ứng thế nào, chỉ sợ sơ sểnh một chút, sẽ để lộ vẻ hoảng loạn ra bên ngoài.

Tuy ta không tin lời Ninh Tích Văn từng nói, nhưng giờ đây đứng sau lưng Hạ Hầu Thần, cái cảm giác hoang mang lúng túng lại dâng lên không tài nào kiểm soát được. Tuy hắn quay lưng lại, nhưng cứ như sau đầu có đôi mắt, đương mở chòng chọc dò xét từng cử động của ta vậy.

Ta đưa mắt nhìn quanh một lượt, thấy chiếc ghế tựa gỗ từ đàn “của mình” được bày trong một góc, chiếc ghế chỉ quét sơn mỏng để lộ màu nâu vốn có của gỗ từ đàn, dưới ánh đèn dường như tỏa ra ánh sáng mờ mờ, thân ghế rộng rãi phủ một mảnh chăn gấm thêu, chỗ để chân chạm khắc hoa văn thảo mộc, có lẽ chính là nơi dùng để đặt than hồng sưởi ấm. Nghe nói chiếc ghế này được thiết kế rất đặc biệt, chỉ cần để vào một ít than, là đủ ủ ấm một thời gian dài, nếu lửa tàn, thiết bị giữ ấm trong chân ghế cũng sẽ giúp giữ lại hơi ấm thêm một lát.

Chiếc ghế tựa này giống như nhiều loại vật dụng khác trong cung, trông tinh xảo xa hoa khiến người ta không tránh khỏi bị mê hoặc, chỉ muốn chiếm làm của mình.

“Hai ngày trước, Quý phi và trẫm cùng nằm trên ghế, nhờ có hơi ấm của cỏ ích mẫu từ dưới ghế xông lên, trẫm vốn chịu lạnh kém, cũng cảm thấy ấm áp dễ chịu nhiều, chẳng trách Quý phi lúc nào cũng thích ngồi trên đó.”

Giọng nói hắn quyện trong hương trầm bay vào tai ta, trong phòng tuy ấm áp như mùa xuân, nhưng ta bỗng thấy có tia lạnh chạy trong người, bất giác run rẩy, bèn miễn cưỡng đáp: “Tiếc là thần thiếp chẳng có cái phúc ấy.”

Không cần ta nói nhiều, tự hắn sớm đã sai người điều tra rõ ràng, chiếc ghế này vốn là tặng phẩm Hoàng hậu ban cho ta. Trong lòng hắn dĩ nhiên sẽ sinh nghi, nhưng có lẽ không tin ta dám hạ độc thủ vào ghế này, bởi chiếu theo con người ta, nếu muốn ra tay, chắc chắn không bao giờ để lại dấu vết.

Nhưng ta biết rằng, trong cung ai ai cũng hay ta xuất thân là Thượng Cung, nếu chẳng may nội cung xảy ra chuyện gì, đặc biệt là chuyện có liên quan đến Sư Viên Viên, thì kẻ đầu tiên bị lôi ra tra xét, chính là ta. Nếu đã vậy, sao không cố tình để lộ chút vết tích khiến bọn chúng nghĩ rằng ta bị người khác ám hại, hoặc bên trong còn uẩn khúc gì khác?

Hạ Hầu Thần rảo bước đến bên ghế, chầm chậm ngồi xuống, đặt chân lên chỗ để chân, khẽ nhắm mắt lại: “Đã một ngày một đêm mà chiếc ghế này vẫn còn âm ấm, thật thần kỳ.”

Mặt ta để lộ mấy phần ghen tỵ: “Bảo vật thế này dĩ nhiên chỉ có Hoàng hậu hoặc Quý phi nương nương mới xứng được sử dụng.”

Giọng Hạ Hầu Thần có vẻ uể oải: “Trẫm biết ngươi vốn có bệnh phong thấp, đã xin Hoàng hậu thưởng cho cái ghế này từ trước…”

Ta đang định quỳ xuống nói mình không dám, đột nhiên hắn đứng bật dậy, hỏi dồn: “Chẳng lẽ ngươi nhường một chút không được? Nàng ấy đang mang trong mình giọt máu của trẫm, ngươi không thể nhường được sao?”

Ta cảm thấy mồ hôi lạnh ướt đẫm sống lưng, nhưng trong lòng thở phào một hơi. Quả nhiên hắn chỉ đang thăm dò, hắn nổi trận lôi đình, thử hỏi có ai ở vào hoàn cảnh này mà ruột gan không rối bời? Ta điều chỉnh lại biểu cảm cho có phần sợ hãi ấm ức, mở to đôi mắt nhìn thẳng vào hắn: “Hoàng thượng, người nói gì vậy? Người đang nghi ngờ thần thiếp ư? Người nghi ngờ điều gì? Người cho rằng thần thiếp rắp tâm hãm hại giọt máu của người, vậy sao còn không hạ lệnh tru di cửu tộc nhà thần thiếp đi? Dẫu sao cửu tộc nhà thiếp từ lâu đã tan tác cả rồi!”

Giọng nói thoát ra từ cổ họng mang theo đôi chút run rẩy, đôi mắt chứa chan giọt lệ, nói đến cuối câu, thời nghẹn ngào không thốt lên tiếng nữa. Trong đầu ta hiện ra cảnh tượng cái ngày định mệnh ấy, trang viên bị quan binh bao vây, các bà vú già nháo nhác chạy trốn, phụ thân tập trung thê nhi lại một chỗ, gương mặt trắng bệch như giấy bản, chỉ nói được đúng một câu: “Ai giữ mệnh nấy đi thôi.”

Ông dẫn theo tâm phúc đi ra cửa lớn, đón đầu đám quan binh, đại nương và mẫu thân dẫn theo đám con cháu, dưới sự bảo vệ của các tôi tớ trung thành, thoát ra đằng cửa sau. Cảnh tượng ngày ấy đã biết bao năm vùi chôn tận đáy lòng, ta chưa bao giờ nhớ đến, ngày hôm nay nhằm ép lấy vài giọt lệ, bèn gắng gượng nhớ lại. Mẫu thân từng bảo ta: Con ơi, đừng khóc con à, khóc lóc chỉ khiến người ta chán ghét mà thôi… Mẫu thân đâu có biết, đôi khi nước mắt là thứ vũ khí vô cùng lợi hại.

Hạ Hầu Thần nhắm mắt lại, tựa mình lên ghế, khẽ cất giọng trong tiếng thổn thức của ta: “Trẫm không muốn nhìn thấy vẻ mặt này của ngươi, bởi nó khiến trẫm bị mê hoặc. Trẫm càng không dám nghe tiếng ngươi nói, trẫm không hiểu ý ngươi là gì, gương mặt kia lúc nào là chân tình, lúc nào là giả dối. Nhưng ngươi đừng quên, ngươi chỉ ở trong cung khoảng mười năm, còn trẫm thì cả đời này sống tại nơi đây…”

Nghe đến đây, ta nén tiếng thổn thức, mặc cho hai dòng lệ ròng ròng, trong màn nước mắt, thấy bóng dáng hắn mờ mờ tựa trên ghế, đôi mắt nhắm nghiền, vẻ vừa lạnh nhạt vừa thản nhiên. Ta bất giác hiểu rằng, cho dù có thể hiện lôi cuốn đến đâu, hắn cũng không bao giờ coi ta là một con hát có tài, hắn hoàn toàn không tin! Ta thầm cười nhạt, thế thì đã sao? Ta đã bao giờ mong mỏi lòng tin của hắn? Cho dù không tin, hắn cũng chẳng thể tìm ra chút xíu chứng cứ nào chứng tỏ ta dính líu tới chuyện của Sư Viên Viên.

Lòng dù nghĩ thế, ta vẫn không dám để lộ vẻ bất bình ra mặt, chỉ khẽ khàng nức nở, pha vào trong thanh âm một chút mùi vị ấm ức, tin rằng nếu không phải hắn, không còn ai khác có thể phát giác suy nghĩ thực sự trong ta.

Ta tỏ vẻ chán nản nguội lạnh nói: “Nếu thần thiếp khiến Hoàng thượng phiền lòng đến vậy, chi bằng cáo biệt tại đây, Hoàng thượng đỡ phải chướng mắt.”

Ta chưa bao giờ dám buông lời giận dỗi như vậy trước hắn, nhưng xem tình thế hôm nay hung hiểm như nằm trên lưỡi đao, hơi sơ sẩy thôi, tất sẽ mãi mãi không trở mình được nữa, chỉ có cách tung hết mọi thủ đoạn, dù phải nói ra những câu mạo hiểm như vậy cũng đành.

Hắn nhìn ta vẻ bực bội, ta chẳng chịu nhường, đưa mắt nhìn lại. Ta hiểu ra rằng bởi muốn làm một đấng minh quân, nên dù bị Thái hậu năm lần bảy lượt làm khó, y vẫn không lạm khai sát giới, chỉ dùng mưu thuật Đế vương hóa lớn thành nhỏ, hóa nhỏ thành không. Những tin tức lớn bé từ triều đình truyền tới cũng cho thấy hắn đang dốc sức làm một vị minh quân. Ta đang đánh cược, cược hắn sẽ không khai sát giới trong một tình cảnh chưa hề có chứng cứ xác thực.

Hắn bỗng nhiên bật cười, tiến lại gần, khẽ nói: “Ninh Vũ Nhu, ngươi đang thử thách lòng nhẫn nại của trẫm đấy ư? Ngươi tưởng trẫm không có cách nào trị ngươi? Ngươi không muốn nhìn thấy trẫm nữa phải không? Được, đêm nay trẫm muốn nghỉ tại Lan Nhược hiên. Trò vui giữa hai ta, đã lâu lắm rồi không chơi lại, ngươi nói có phải không?”

Khi nói câu này, khóe miệng hắn khẽ nhếch lên, cả gương mặt bỗng chốc tà mị lạnh lùng, nỗi khiếp sợ quen thuộc từ tận đáy lòng lại dâng lên chiếm cứ trái tim ta. Ta giật mình, nhận ra gương mặt lúc này có lẽ đã để lộ cảm xúc thật, bởi hắn đột nhiên cười lên khoái trá, đưa tay nâng cằm ta lên: “Xem kìa, đây mới là bộ mặt thật của ngươi, không phải sao?”

Ta lập cập đáp: “Hoàng thượng, nếu người muốn tra xét chuyện của Sư nương nương, thần thiếp xin dốc sức khuyển mã phò trợ, thần thiếp…”

Hắn càng cười ra tiếng: “Ninh Chiêu hoa, chuyện này ai đúng ai sai, trong lòng trẫm rõ như ban ngày. Ngươi vốn dĩ không hiểu một điều, trẫm sinh ra ở đây, lớn lên từ đây, chẳng lẽ ngươi cho rằng hai mươi mấy năm sống trên đời của trẫm đem đổ sông đổ bể cả ư?”

Lòng ta lạnh ngắt, cảm thấy sợ hãi ban nãy dần dần tiêu tan, bởi một nỗi sợ khác dâng lên thay thế: Chẳng lẽ từ đầu hắn đã biết Hoàng hậu liên thủ với ta? Vậy mà hắn khoanh tay đứng nhìn, lại còn thêm dầu vào lửa?

Chẳng lẽ hắn cũng không muốn đứa bé kia được sinh ra trên đời? Hoặc giả đến con ruột của mình hắn cũng đang tâm lợi dụng?

Một đứa trẻ sinh ra trong hoàng tộc, nếu nhằm lúc thời cơ không thích hợp thì vận mệnh chẳng khác nào nhánh lục bình trôi sông, không dễ gì được sinh ra rồi lớn lên khỏe mạnh bình thường.

Ta khẽ nói: “Hoàng thượng, thời tiết gần đây tuy giá rét, nhưng lan trong vườn thần thiếp rất lạ lùng, loài Nhụy Điệp vốn sợ lạnh mà nay lại ra hoa. Người đời nói, hoa nở trái mùa, là điềm không lành. Hoàng thượng cho rằng, thần thiếp có nên nhổ cây Nhụy Điệp vốn quý giá hiếm hoi kia không? Hay là mặc cho nó nở hoa giữa giá lạnh, rồi bị gió đông làm cho héo tàn?”

Hắn sững người, trên mặt lộ vẻ trầm tư, chợt ngoảnh mặt nhìn ra cửa sổ. Trong sắc đêm u ám, một cành trúc khẽ đu đưa lay động. Hắn hiểu nỗi ngờ vực trong tim ta. Hai chúng ta như những kỳ thủ cự phách, người ra quân này kẻ đáp quân kia, cùng bức đối phương vào đường cùng, hễ bị chiếu tướng, thì con cờ phải thế mạng chính là thứ vô vụng không hiểu thời thế nhất.

Tấm lưng ướt đẫm mồ hôi nay khô rang. Rốt cuộc ta đã cảm nhận được sự ấm áp dễ chịu trong phòng. Hắn là Thiên tử nắm quyền sinh sát cả thiên hạ, ta biết được càng nhiều, thì càng dễ bị hắn dồn đến cái chết bất cứ lúc nào. Nhưng không rõ vì sao khi “chiếu tướng” thành công, lòng ta lại dâng lên cảm giác khoan khoái kỳ lạ, cứ như con thiêu thân vốn biết sẽ bị lửa thiêu đốt, nhưng vẫn không ngừng xông vào chỗ chết. Bỏ đi thân phận vua tôi, ta và hắn chẳng khác nào kỳ phùng địch thủ.

“Hoàng thượng, đêm đã về khuya, Sư Quý phi bệnh tình còn chưa giảm, rất cần Hoàng thượng ở bên bầu bạn, thần thiếp không phiền người nghỉ ngơi nữa, xin được cáo lui.”

Ta cúi người hành lễ, lần này không chờ hắn nói “bình thân”, bèn chủ động đứng dậy, đi thẳng ra cửa phòng, đang chuẩn bị vượt qua tấm bình phong, lại nghe tiếng hắn từ sau lưng vọng tới: “Khu vườn chỗ ngươi thật lắm điều lạ, lan Nhụy Điệp nếu đã ra hoa, thì không được nhổ mất, trẫm muốn di giá đến xem…”

Ta như muốn ngừng thở, lại nghe hắn nói tiếp: “Hôm nay trẫm quả thực không rảnh, trong vòng vài ba ngày nữa sẽ tới!”
 

Hoa Tử

Sưu tầm
Tham gia
24/9/19
Bài viết
10,570
Điểm cảm xúc
1,484
Điểm
113
Chương 10.2:
Ta từ từ bước qua bình phong chạm hoa, biết hắn không nhìn rõ mặt mình nữa, mới ngầm nghiến răng: Hắn nghĩ ra trò mới để giày vò ta! Hai ba ngày tới ta làm sao ăn ngon, ngủ yên cho được? Lúc nào cũng phải căng óc ra chờ đợi, đề phòng. Hắn nói đúng, hắn sống trong cung lâu hơn ta, hiểu sâu sắc lòng người, ngày ra pháp trường xử trảm không đáng sợ, mà kinh khủng nhất chính là chuỗi ngày chờ đợi cái chết, dài dằng dẵng, dằn vặt đủ điều.

Điều duy nhất ta được an ủi, ấy là hắn thực sự chưa nắm được chứng cứ trong vụ việc lần này.

Ra đến cửa vườn, một cơn gió lạnh ùa tới, sự hưng phấn của cuộc đấu trí ban nảy vừa nguội lạnh, lòng ta lại dấy lên một cảm giác bất an chưa từng có. Nếu hắn đã muốn làm cho ra lẽ vụ việc, tất phải tìm ra kẻ chết thay, mà ta lại chính là một trong những đối tượng thích hợp nhất, thêm nữa ta vừa biết được một bí mật của hắn, lẽ nào hắn không muốn trừ khử kẻ nắm rõ nội tình?

Đến nước này, chỉ còn cách bám chặt lấy Hoàng hậu, khiến nàng ta không thể thoát thân, mong cho Hạ Hầu Thần nể mặt Hoàng hậu, mở cho ta một con đường sống.

Việc này khiến nỗi sợ Hạ Hầu Thần ghé thăm nhạt bớt, ta còn đang bận nhớ lại từng chi tiết nhỏ trong vụ việc, xem liệu có bỏ sót dấu tích nào hay không?

Tố Khiết thấy ta trở về, đã sớm chuẩn bị nước nóng và lò sưởi, giúp đánh tan cái lạnh trên người chủ nhân, nó nói: “Đêm qua nương nương mới dứt cơn đau khớp, không nên để bệnh tình tái phát. Lúc nãy trước khi đi vì sợ cao thuốc làm Quý phi nương nương khó chịu, nên tắm rửa cho bay hết, nô tỳ mới sang xin ngự y một hộp cao khác, nương nương mau bôi đi thôi.”

Lòng ta than thầm một tiếng, làm đủ mọi cách phòng bị thì đã sao, nếu hắn đã nhận định là ta, thì vẫn cứ là ta.

Thời ta còn làm Tuyển thị, Sư Viên Viên nhờ vào chiếc áo Bách điểu mà chiếm trọn cảm tình của Hạ Hầu Thần, tuy Hoàng hậu cho người ngầm ngăn trở, cũng khiến tình thế cam go một phen. Lúc ấy ta đã đoán biết, mâu thuẫn giữa Hoàng hậu và Sư Viên Viên tất càng lúc càng dữ dội. Đêm nọ vì thêu áo Bách điểu, ta từng ngồi kế bên phòng riêng của Sư Viên Viên, hai bên chỉ cách nhau có một bức tường mỏng, ngửi mùi hương Tiên Mao thoang thoảng bay ra từ phòng cô ta, loại cỏ này có tác dụng kích dục, tuy hơi độc nhưng sau khi sao khô lại trở nên vô hại, khiến người hít vào cảm thấy khoan khoái. Loại cỏ này trong cung không cấm dùng, có điều ít người biết Tiên Mao là thuốc dẫn của vô số thảo dược, có tác dụng tăng mạnh dược tính.

Vốn là tay lão luyện ở chốn cung đình, ta hiển nhiên biết nắm lấy tất cả thời cơ thích hợp. Mâu thuẫn giữa Sư Viên Viên và Hoàng hậu chính là một cơ hội lớn. Ta nhờ Khổng Văn Trân thi thoảng dâng cho Sư Viên Viên mấy món đồ mà Ty Thiện Phòng mới làm ra, mấy món đồ này không có gì đặc biệt, duy chỉ có một điềm khác, đó là các mộng gỗ được làm từ gỗ hắc hồ đào loại kém chất lượng, dùng ráp nối xen kẽ với gỗ đàn hương rắn chắc. Loại gỗ xấu này rất dễ hấp thu mùi trầm hương trong không khí, ví như một số nơi chùa chiền quanh năm khác không hề bay biến. Sư Viên Viên tuy mỗi lần Hoàng thượng đến mới đốt hương trầm, nhưng các món đồ mới không ngừng được Ty Thiết Phòng dâng lên đã dần dần thay thế hoàn toàn các đồ cũ. Những mộng gỗ làm từ Hắc hồ đào hấp thu hương cỏ Tiên Mao từng chút một, đã thâu nhập vào thì không dễ gì bay đi. Khoảng hai ba tháng sau, cô ta bầu bí ngày một lớn, thì không còn đốt loại trầm hương kia nữa.

Nhưng như vậy cũng đủ.

Tiên Mao chẳng qua là một loại thuốc dẫn mà thôi.

Nữ nhân trong cung, có ai mà không cạnh tranh giành giật? Với cá tính của Sư Viên Viên, bị ta thế chân đúng vào cái đêm đang ái ân mặn nồng với Thiên tử, cô ta thế nào chẳng nuôi hận trong lòng? Làm sao lại không để ý đến động tĩnh của ta? Ta xin ghế tử đàn của Hoàng hậu, đúng lúc Nguyệt Dung Hoa đến chơi, với bản tính của họ Nguyệt, đang lúc cuống cuồng tìm chỗ dựa, lại chẳng ngoe nguẩy chạy đến báo tin với Sư Viên Viên ngay?

Kỳ thực, ngay cái đêm ngồi thêu váy Bách Điểu, khi vội vàng đuổi theo xa giá tình cờ quay lại, nhìn rõ vẻ mặt Sư Viên Viên trong khoảng khắc khép cánh cửa, ta đã hiểu rõ, phải đi trước một bước mà bảo vệ lấy mình.

Do đó ta nhờ Khổng Văn Trân không ngừng dâng các đồ cần thiết kiểu dáng mới mẻ đến Túy Hà các, nếu Sư Viên Viên không động đến ta, những vật kia sẽ chẳng gây hại, nhưng nếu tình thế bí bách, chúng sẽ trở thành cánh tay đắc lực của ta.

Ta vốn là người như vậy, vì kế sinh tồn, tất cả những gì có thể gây nguy hại cho bản thân đều sẽ đem ra suy xét tỉ mỉ, bởi ta hiểu rõ sống trong cung, chỉ hơi không cẩn trọng, sẽ lập tức sa vào cảnh vạn kiếp bất phục.

Người như ta, sinh mạng lúc nào cũng ngàn cân treo sợi tóc, cách duy nhất bảo toàn cho mình là phải chủ động nắm lấy tiên cơ.

Tuy Sư Viên Viên chưa ra tay đối địch, nhưng quả bom nổ chậm ta gieo sẵn ở Túy Hà các vừa hay trở thành thứ biểu lộ lòng trung với Hoàng hậu. Điều này đâu thể trách ta. Hậu là kẻ cùng ta ngồi chung chiến thuyền, dĩ nhiên ta có trách nhiệm không để chiếc thuyền ấy chìm.

Chiếc ghế tử đàn hiện nay màu sắc bóng bảy hoa lệ, nhưng khi mới được tiến cống, nó vốn chỉ mang màu gỗ tự nhiên, mộc mạc mà u ám. Các đồ vật trong hoàng thất dĩ nhiên phải sang trọng quý phái, do đó Ty Thiện Phòng đã cho mời thợ lành nghề phủ lên ghế một lớp sơn chống mối mọt, lại thêm lớp sơn lót và phủ, ít nhất khiến ghế Tử Đàn xứng tầm với các đồ vật bài trí khác trong phòng. Khổng Văn Trân biết ta đã ngỏ lời xin Hoàng hậu, chiếc ghế này tương lai sẽ mang đến Lan Nhược hiên, nên cô ả hăng hái đáp ứng một vài yêu cầu riêng của ta cũng không có gì lạ. Ta đã đề nghị với Khổng Văn Trân, pha thêm vào nước sơn một ít ngân châu để màu ghế thêm phần tươi sáng bóng mượt, bể mặt ghế tử đàn sẽ như phủ một lớp nhũ bạc; lại dùng các thứ như Thạch Hoàng vẽ hoa văn may mắn lên thân ghế; riêng phần để than sưởi chân, chất gỗ ban đầu đã rất bóng mịn, ta lại đòi thợ mài giũa kĩ thêm một lượt. Ta biết rõ thợ mộc trong cung dùng vật liệu gì để mài nhẵn: Cần một miếng gỗ sồi hơ nóng, thêm búi tóc rối tẩm dầu. Để cho chiếc ghế càng thêm sáng bóng, ta đề nghị thêm vào dầu đánh một loại hạt trà mọc hoang của Tây Vực, mấy thứ vật liệu này kết hợp chẳng hề độc hại, kể cả khi đặt chiếc ghế ở nơi thông gió suốt cả tuần lễ.

Nhưng đáng tiếc, chỉ vì biết ghế ấy sắp thuộc về ta, mà Sư Viên Viên đòi cho bằng được, vội vội vàng vàng mang về Túy Hà các. Kỳ thực dù đặt ghế ở chỗ bí gió cũng không gây hại gì đối với người thường, nhưng cô ta lại đang có mang.

Thêm nữa, các đồ vật trong phòng cô ta đã hấp thu không ít độc Tiên Mao.

Nếu cô ta không ngày ngày đốt than dưới ghế để sưởi, thì đã chẳng hề gì, đằng này vì muốn thị uy với Hoàng hậu, thị uy với ta, nên đêm nào cô ta cũng đốt trầm hương nằm dưới ghế sưởi ấm, cỏ Tiên Mao cùng Ngân Châu, Thạch Hoàng, lại cả hạt trà Tây Vực quyện vào nhau, dưới sức hun đốt của lò than bay vào không khí, xộc vào người vào bụng, thứ hỗn hợp này có tác dụng mạnh mẽ chẳng khác nào xạ hương, khiến bào thai không thể giữ được.

Người trong cung mỗi khi bàn đến chuyện mưu hại thai nhi của các phi tần tiền triều đều nhắc đến xạ hương, thứ này hoặc pha vào son môi, hoặc để vào túi thơm, sẽ khiến người ta sảy thai lúc nào không hay. Ta nghe được chuyện này chỉ thầm cười nhạt, thứ lộ liễu như vậy, có ai mà không cẩn trọng đề phòng, muốn hại người bằng cách ấy, chỉ sợ chưa hại được người ta, tự mình đã vả vào mặt mình.

Cung tần mỹ nữ ai nấy gia thế hiển hách, có nhà nào không biết đến loại độc dược ấy? Nếu muốn ra tay bằng thứ này, quả tình quá ngu độn.

Mấy ngày nay, vì chứng phong thấp mà cả đêm ta không ngủ được, chắc đã có người mang tình hình ở Lan Nhược hiên báo lại với Sư Viên Viên. Cô ta càng thêm đắc ý, càng đòi Hoàng thượng đêm đêm ở bên mình, ngầm cho người đem chuyện trong điện Túy Hà các tiết lộ ra ngoài. Nhờ thế mấy ngày này không cần cho người ra ngoài thám thính, tự có kẻ đem chuyện từ điện Túy Hà truyền đến tai ta, hòng làm ta nóng ruột nóng gan.

Hoàng thượng tuy cũng đến Túy Hà các, nhưng lò sưởi dưới ghế tử đàn được đốt từ sớm, một hai tiếng hít phải hơi độc không có hại gì, đặc tính của ghế tử đàn là giữ ấm cả ngày, lại thêm bọn nô tỳ chốc chốc tiếp than, khiến cho mấy nguyên liệu kia lại bị hun đốt hết lần này đến lần khác, đã độc lại càng độc, cả ngày hít thở trong bầu không khí như vậy, chẳng mấy chốc mà sinh bệnh.

Kết cục hôm nay của Sư Viên Viên không phải do ta, mà do chính ả tự mình chuốc lấy. Ả có biết bao cơ hội giữ được đứa trẻ. Nếu không nhất quyết tranh giành thiệt hơn, nếu không đòi Hoàng thượng suốt ngày ở bên mình, hoặc nếu cái đêm ta thêu váy Bách Điểu, ả không dùng ánh mắt thù hận nhìn theo, giữa màn đêm đen đặc vẫn khiến ta trông rõ mồn một, thì tất cả mọi thứ sẽ không xảy ra.

Đáng tiếc cuộc đời không có chữ nếu như, ả ta trèo quá cao, mải đắc ý mà quên mình là ai, giữa chốn cung đình này, làm thế chẳng phải tự giương tử huyệt cho người khác đánh vào hay sao? Ả xuất thân quyền thế, phẩm chất cao quý, vốn dĩ không nên đem lòng ghen ghét một phi tần nhỏ bé như ta, đáng tiếc phận làm vợ vua, bị cuốn vào vòng xoáy tranh sủng, thì chẳng khác nào nhập ma đạo, không thể nào quay trở lại được nữa.

Trong cung muốn hại người thậm chí còn dễ dàng hơn ở chốn dân gian, chỉ cần khôn khéo một chút, lập tức có người sốt sắng ra tay hộ.

Ta ngẫm nghĩ một lượt tất cả các chi tiết, đi đến kết luận rằng, lần này ra tay không có kẽ hở, chẳng để lại chút dấu tích, Nỗi hoài nghi của Hạ Hầu Thần chẳng qua là vô căn cứ. Huống hồ chính Hạ Hầu Thần chẳng cũng ngầm thuận nước đẩy thuyền đó sao? Ngay từ đầu hắn đã tiên liệu sự việc, vậy mà mấy ngày này vẫn giả ngốc cùng Sư Viên Viên đàn ca sáo nhị, chẳng hề lên tiếng. Tâm tư của con người này, càng lúc càng khó đoán.

Nghĩ đến Hạ Hầu Thần, ta bất giác thấy buồn bực vì chuyện hắn nói sẽ đến Lan Nhược hiên. Quả nhiên hắn thích hành hạ người khác, đối mặt với hắn tương đương với việc đứng trước hàng nghìn vạn khán giả, một con hát như ta dĩ nhiên càng diễn càng hăng, chẳng hề lộ chút xíu sai sót, hết lần này đến lần khác bị hắn bóc mẽ, chỉ khiến cho lòng háo thắng trong ta ngày càng dâng cao, ta thậm chí còn tập dượt trước gương, mong sao lần tới hắn không tài nào lật mặt nạ của mình được.

Vậy mà suốt hai ngày, không thấy Nội Thị Giám gọi thị tẩm, trong lòng ta vì thế chẳng lúc nào được yên.

Hai ngày này gió giục mây vần, trong cung sục sôi, ta chẳng ngốc đến độ tới tìm Hoàng hậu. Hoàng hậu cũng tự biết cân nhắc thiệt hơn, không cử người tới lui thông truyền tin tức, nhưng từ bốn phương tám hướng biết bao cái miệng râm ran bàn tán, tin tức tự đổ về chỗ ta như thác chảy. Nghe nói Nguyệt Dung Hoa đã bị bắt giam, nấm đầu khỉ mà cô ta đem biếu cho Sư Viên Viên bị tra ra có độc tính, có thể khiến người ta vô sinh, nghe nói thứ nấm đầu khỉ này không phải loại mọc tự nhiên, mà do tự trồng. Nấm đầu khỉ vốn dĩ mọc trên các thân cây sồi mục nát, điều kiện sinh sôi rất đỗi ngặt nghèo, vậy mà nhà họ Nguyệt trồng được hàng cụm lớn. Cuộc điều tra phát hiện ra rằng, do cố tình tưới thêm nước hồng hoa vào thân gỗ mục, nên nấm sản sinh độc tố.

Tố Khiết vừa nghe thấy tin này, định vứt túi nấm Nguyệt Dung Hoa đem biếu hẵng còn nguyên niêm phong. Ta biết chuyện chỉ cười nói: “Bên ấy vì ăn nấm mà thiệt thòi một mạng người, ta lại càng muốn nếm thử, ngươi sai Ty Thiện Phòng tối nay hầm lên nồi mang sang.”

Tố Khiết vội khuyên: “Nương nương, thế sao được, ăn vào nhỡ sau này không…”

Ta bật cười, cắt ngang lời nó: “Mấy tin đồn trong cung biết cái nào hư cái nào thực, không cần phải lo quá lên như thế!”

Thái độ của Hạ Hầu Thần khiến ta nhận rõ, hắn quyết không để các phi tần khác sinh hạ hoàng tử trước Hoàng hậu. Đã thế sao ta không sớm an phận, tránh sau này phải chịu khổ? Chẳng ai có thể bảo vệ mình, trừ chính bản thân.

Nấm đầu khỉ kia tin chắc chẳng thể gây hại gì, cùng lắm chỉ giúp tránh thai, thêm thời gian hiệu dụng có hạn, tuyệt không thể khiến Sư Viên Viên sảy thai. Nguyệt Dung Hoa lần này đành cam chịu làm kẻ thí mạng vậy.

Hạ Hầu Thần cần phải có lời cho rõ ràng với nhà họ Sư, nên việc tiến triển đến đây coi như là mỹ mãn, so với nhà họ Sư thế lực mới cường thịnh, con gái của một huyện lệnh thất phẩm nhỏ nhoi như Nguyệt Dung Hoa chẳng đáng là gì.

Đêm đã khuya, Khổng Văn Trân vượt đường tối đến Lan Nhược hiên, bóng gió hỏi han về chuyện cái ghế. Trong bụng ta cười thầm, trận thế do ta bày, nếu để ngươi nhìn ra, thì ta có đáng là Thượng Cung tiền bối của ngươi nữa chăng? Ta cứ vờ như không hiểu ý, Khổng Văn Trân đành lủi thủi ra về, sắc mặt có vẻ an tâm đôi chút.

Ta thừa hiểu nếu có kẻ tra ra chân tướng sự việc, Khổng Văn Trân chắc chắn không thoát được liên lụy, đào đất thời đứt rễ, cô ta dĩ nhiên phải tới thăm dò xem sao. Khổng Văn Trân bất đắc dĩ bị lôi vào cuộc, để bảo vệ bản thân, chỉ đành giúp ta bao biện mọi việc. Đoán chắc phía Nội Thị Giám từng đến Thượng Cung cục tra xét, nhưng phải trả lời thế nào, trong lòng cô ta hiểu rõ vô cùng.

Trước khi sự việc thành công, ta đã nghĩ đủ đường lui, phong tỏa mọi khả năng có thể khiến bản thân rơi xuống bùn, sao có thể như Nguyệt Dung Hoa, dễ dàng bị người ta nắm được thóp?

Từ khi Hạ Hầu Thần tuyên bố trong vòng hai đến ba ngày sẽ xa giá đến Lan Nhược hiên, càng gần tới ngày thứ ba, tâm trạng ta càng hoàng hốt, không biết làm thế nào vượt qua cửa ải khó khăn này. Nhớ lần trước Ninh Tích Văn vào cung hắn cũng đến Lan Nhược hiên, may nhờ Sư Viên Viên xen vào, rốt cuộc đuổi được hắn đi. Thậm chí đôi lúc ta nghĩ, lòng ghen ghét của Sư Viên Viên đối với mình chưa chắc đã hoàn toàn là xấu.

Ninh Tích Văn không phải người trong cung, không thể ở lại lâu, ta đã sai người sắp đặt phòng ốc bên ngoài, phái người đến thăm nom. Ngày xuất cung, nó hết lần này tới lần khác khuyên ta tìm cách giải hòa với Hoàng thượng, nhưng sự tình giờ đã đến nước này, bào ta làm cách nào giảng hòa với hắn được đây?

Sang ngày thứ ba, vẫn chưa thấy phía Hoàng thượng có động tĩnh gì, ta thở phào nhẹ nhõm. Có lẽ Hạ Hầu Thần chỉ tiện miệng nói cho qua chuyện, vụ Sư Viên Viên đã được giải quyết, Thiên tử ngày bận trăm công nghìn việc, phi tần vô số, sao còn nhớ đến ta?

Đang nghĩ ngợi, Tố Khiết đã mang nấm đầu khỉ do Ty Thiện Phòng chế biến vào, ngửi thấy mùi thơm tỏa ra từ cái hũ sành men tím, ta nổi cơn thèm, bèn sai Tố Khiết san ra bát ăn ngay.

Tố Khiết vừa dùng muỗng bạc múc canh vừa lo lắng nói: “Nương nương, Ty Thiện Phòng khi biết người muốn dùng thứ nấm này, đã dặn đi dặn lại nô tỳ khuyên người bớt ăn, tránh xảy ra chuyện gì làm liên lụy đến họ. Nương nương, hay là…”

Ta ra hiệu cho nó ngừng lời, liếc nhìn nước canh màu vàng tươi sền sệt trong bát, nói: “Dựa vào kinh nghiệm bao năm của bản phi trong cung, lại thử bằng kim bạc, làm sao có sơ sót được?”

Nói xong ta nhấp ngay một ngụm nhỏ, cảm thấy vị ngọt thanh từ đầu lưỡi từ từ thấm xuống họng, không kìm được đưa bát canh lên một hơi uống cạn, định múc thêm, nhưng xem dáng bộ con nha đầu này lưỡng lự, có vẻ không muốn đưa cái muôi ra, ta đâm bực mình, bảo: “Ngươi bị mấy tin đồn nhảm nhí trong cung làm cho lú lẫn cả đầu óc, không phân biệt được đâu là phải trái đúng sai nữa rồi à?”

Đúng lúc ấy, có người tiếp lời: “Còn ngươi thì phân rõ phải trái đúng sai lắm?”

Vừa nghe giọng nói ấy cất lên, máu trong người ta lập tức dồn lên đầu, chiếc muỗng thả rơi vào bát, nước canh bắn lên tung tóe, vấy đầy mu bàn tay mà không hay biết. Ta quay đầu lại, đã thấy Hạ Hầu Thần đứng ngay trước cửa phòng, theo sát hắn là Khang Đại Vi. Từ kẽ hở giữa hai người này, thấy phía sau còn một kẻ quỳ mọp dưới dất, chính là cung nữ Sơ Tuyết ta sai đứng canh trước cửa nghe ngóng động tĩnh. Thi thoảng con bé ngẩng đầu lên, lại bắt gặp ánh mắt của ta, sợ quá gục mặt xuống, cả người run rẩy. Có lẽ Hạ Hầu Thần đã ngăn nó vào thông truyền. Trong lòng ta ngầm hối hận sao không cử hẳn hai người đứng canh trước cửa?

Ta vừa rà soát lại trí não, vừa đứng dậy nhún người hành lễ, ban nãy khi uống canh dường như chưa nói câu nào phạm vào húy kị của hắn.

Hắn nói: “Trẫm còn chưa bước vào phòng, đã nghe có mùi hương ngào ngạt xộc vào mũi, ngươi đang uống canh gì vậy?”

Ta ngầm quan sát vẻ mặt Hạ Hầu Thần, phát hiện hắn không buồn cũng không vui, vẫn dáng vẻ lạnh nhạt thờ ơ thường thấy, trong lòng liền khôi phục vài phần tự tin, đáp rằng: “Thời tiết ngày một giá lạnh, thần thiếp mới sai người ninh một bát canh mang sang, nguyên liệu cũng chẳng có gì mới lạ, chỉ bỏ thêm ít nấm thường thôi ạ.”

Ta trả lời qua loa cho xong chuyện, chỉ mong hắn không vặn vẹo nhiều. Nguyệt Dung Hoa vừa bị định tội, ta lại ở trog phòng ăn nấm đầu khỉ, lỡ để hắn biết được, chỉ sợ chẳng phải chuyện hay ho.

Lúc này thái độ Hạ Hầu Thần bỗng nhiệt tình lên đôi chút, hào hứng nói: “Ừm, xem hương vị có vẻ rất ngon, hãy múc cho trẫm một bát nếm thử.”

Tố Khiết bèn lấy ra từ chạn bát một đôi đũa bát, múc đầy, dâng lên trước mặt hắn. Đón lấy bát canh, hắn liếc nhìn Tố Khiết, đột nhiên cất giọng hỏi: “Ngươi nói trẫm nghe, rốt cuộc là canh gì?”

Tố Khiết bị hắn nhìn cho một cái, sợ quá quỳ xuống đất, khấu đầu thưa: “Hoàng thượng, nương nương cũng uống rồi, canh này không có độc ạ.”

Ta lớn tiếng rủa thầm trong bụng, sao đám nô tài bên mình chẳng có lấy một đứa tinh nhanh hiểu chuyện? Vội cười nói chữa: “Nếu Hoàng thượng không thích, thì không uống nữa là xong.”

Hạ Hầu Thần lạnh lùng liếc ta một cái. Khang Đại Vi sớm đã húp một ngụm, nói: “Hoàng thượng bảo ngươi trả lời thì ngươi cứ việc trả lời, nương nương thế nào là việc của nương nương!”

Tố Khiết quỳ mọp ra đất dập đầu liên tục, ngắc ngứ nửa ngày trời mới nặn ra được một câu: “Canh nay dùng gà Trúc Ti, táo lớn, khởi tử, nấm đầu khỉ cùng vài loại gia vị khác ninh nhừ lên ạ”

Hạ Hầu Thần đưa bát cho Khang Đại Vi, thủng thẳng nói: “Nấm đầu khỉ trong này có phải là do Nguyệt Dung Hoa biếu nương nương nhà ngươi không?”

Tố Khiết rụt rè ngẩng lên nhìn ta, lắp bắp đáp: “Khởi bẩm Hoàng thượng, đúng thế ạ.”

Đến đây, biết không thể che giấu được nữa, ta liền cười nói: “Hoàng thượng minh giám, thần thiếp không có phúc được mang thai rồng như Sư Quý phi, có ăn nấm đầu khỉ chắc cũng chẳng xảy ra chuyện gì, nghe nói thứ này giá trị không nhỏ, lại bổ huyết, bệnh phong thấp của thần thiếp vẫn chưa trị dứt, nên mới cho người ninh lên mà uống…”

Ta cúi đầu nói liền một mạch, dứt lời hồi lâu không thấy hắn đáp lại, bèn ngước mắt lên, bắt gặp ánh mắt âm trầm của y hướng về phía mình. Đột nhiên hắn huơ tay một cái, hũ canh trên bàn rơi xuống đất, mảnh vỡ bắn tới dưới góc hài của ta. Chiếc hũ vỡ vụn, nước canh bên trong bắn ra tung tóe, bốc hơi nghi ngút, thậm chí còn xuyên qua vạt váy thấm vào chân, bỏng rát đến độ ta phải lui lại mấy bước. Ta nhìn lên, thấy đôi con ngươi hắn sắc nhọn, âm hiểm như đôi mắt đại bàng, dường như bóng tối trong căn phòng đều bị đôi mắt đó hút cạn.

Ta thất kinh, mặc kệ dưới đất nước canh chảy lênh láng, mảnh vỡ bắn tung tóe, hai gối khẽ chùng, quỳ ngay xuống đất, cúi xuống thưa: “Hoàng thượng, thần thiếp không chủ tâm kháng lại thánh ý, người vừa tuyên Nguyệt Dung Hoa có tội mà dám mang quà cô ta cho ra dùng, thần thiếp…”

Nói đến đây ta bỗng cạn lời, cãi lý để thoát tội xưa nay vốn là sở trường, nhưng thật lòng ta không hiểu sao đột nhiên hắn lại giận dữ? Không hiểu rõ nguyên nhân, biết lý luận thế nào?

Cho dù nấm đầu khỉ có tác dụng gì đó, thì vốn dĩ chuyện này chưa được kiểm nghiệm, cứ cho đó là có thật, chẳng phải đây là điều hắn mong muốn hay sao? Ta xót cái thân mình, có gì đáng nên tội?

Hạ Hầu Thần long nhan đại nộ, chẳng ai dám cả gan cất lời, nước canh chảy trên đất như con linh xà, sớm đã trườn qua đầu gối ta. Dần cảm giác như đầu gối mình vừa dính bết vừa lạnh, ta rủa thầm, mấy tháng nay sống trong phú quý thành quen, mới thế này mà đã khó chịu muốn chết.

Khang Đại Vi chẳng biết từ lúc nào đã đến bên cạnh, dìu ta đứng dậy: “Mặt sàn lạnh lẽo, nương nương vốn có bệnh khớp, nên giữ gìn.”

Ông ta vừa nói vừa dìu, ta nào dám nghe theo, nhưng cơ thể mềm nhũn không cưỡng lại được, bị Khang Đại Vi vụt một cái xốc dậy. Lạ là Hạ Hầu Thần chẳng hé răng nửa lời, không nói mấy câu đại loại như “Ai cho ngươi đứng dậy”. Ta đứng đó mà trong lòng thấp thỏm lo âu, váy thấm ướt mốt mảng lớn, có cơn gió lạnh ùa vào, cảm giác buốt tận xương tủy.

Khang Đại Vi thấy thế bèn bảo: “Nương nương, người thay y phục đi đã?”

Ta nào dám được voi đòi tiên, cứ cúi đầu hướng về phía Hạ Hầu Thần mà nói: “Thần thiếp nào dám.”

Bỗng nghe Hạ Hầu Thần lạnh lùng nói: “Trẫm không muốn nhìn bộ dạng lôi thôi của ngươi, mau vào thay y phục rồi ra đây!”

Nghe thế ta bèn nâng vạt áo, trở về phòng nghỉ sửa soạn lại xiêm y, trong lòng thầm lấy làm lạ, hắn vẫn đứng ngoài đó chờ ư? Theo kinh nghiệm tiếp xúc lâu nay, tâm trạng Hạ Hầu Thần lúc này vô cùng tệ, sau khi nổi cáu, thường sẽ bỏ đi, trong vòng mười ngày đến nửa tháng nếu có tình cờ nhìn thấy ta ở chỗ khác, cũng coi như không gặp, vậy mà hôm nay vẫn nán lại không chịu đi?

Ta vẫn không hiểu, sao hắn lại giận dữ đến vậy?

Nhớ đến những sở thích phòng the kỳ dị của Hoàng đế, ta bất giác buồn bực, tay chân dùng dằng không muốn xong, Tố Khiết chẳng để ý, cứ thoăn thoắt giúp ta mặc áo mới. Ta đủng đỉnh bước ra ngoài, nhận ra các mảnh vỡ trên mặt sàn đã được dọn dẹp sạch sẽ, Hạ Hầu Thần đương dựa người lên bảo tọa gấm thêu bằng gỗ tử đàn, vẫn chưa thấy Khang Đại Vi mang cái Xuân Kỷ kia đến, ta ngầm thở hắt ra, rảo bước tới hành lễ. Ta trước nay rất biết đoán ý người khác, kẻ đối diện chỉ khẽ cau mày hoặc nhếch mép, ta đã biết họ cần gì, sau đó tự tìm lời thích hợp ứng đối, chỉ duy có Hạ Hầu Thần luôn là một ẩn số, ta không rõ thứ hắn cần ở ta là gì?

Hành lễ xong, ta chẳng biết phải làm gì tiếp theo để xoa dịu hắn. Nếu có Ninh Tích Văn ở đây, nó sẽ biết cách pha trò, những câu chuyện cười của nó dường như bất tận, khiến Hạ Hầu Thần khoái chí chốc chốc lại cười lớn, ta có cảm giác làm hắn cười không phải chuyện quá khó, chỉ là… Nếu trước mặt ta lúc này là Hoàng hậu, ta có thể lựa lời hàn huyên chuyện xiêm áo trâm vòng, làm Hoàng hậu rạng rỡ sắc mặt, nhưng với hắn, nói một lời lấy lòng sao mà khó như dời non lấp bể.

“Sao còn không ngồi xuống đây?”

Nghe giọng hắn có vẻ lại bực dọc, ta trù trừ bước lại gần, lúc này mới nhận ra Khang Đại Vi đứng ngay phía sau ghế, không muốn ngồi. Ta vội gọi một tiếng: “Tố Khiết…”

Tố Khiết thoăn thoắt định đi lấy ghế, chợt nghe Khang Đại Vi ho một tiếng, con a đầu thấy thế lại dùng dằng, bèn học Khang Đại Vi đứng yên một chỗ chờ đợi.

Ta lúng túng quay trái nhìn phải, thấy Hạ Hầu Thần cứ vỗ vỗ vào chỗ trống bên cạnh, lòng thầm nghĩ, chẳng lẽ hắn muốn ta ngồi xuống đó? Như Sư Viên Viên và hắn cùng tựa lưng trên ghế tử đàn?

Bảo tọa này cũng làm từ gỗ tử đàn, bề mặt bọc gấm thêu vân mây, nhưng thân ghế chật hẹp vô cùng, không thể so với chiếc ghế được triều cống. Nếu hai người cùng ngồi trên bảo tọa, thế nào cũng phải sát vào nhau, tuy nói là có y phục ngăn cách, nhưng ta thấy còn đáng sợ hơn những lần hành hạ trước đây.

Ta sợ không gì khác, mà chính là vì không thể nắm bắt được suy nghĩ của hắn. Hắn chọn hành hạ ta, là vì trong cung không còn ai thích hợp hơn để “chơi đùa”, đối với hắn, giá trị của ta chỉ có thế. Cho nên dù có đau khổ cách mấy, ta cũng chỉ biết nhẫn nhịn. Nhưng giờ đây ta không thể đoán biết hắn đang nghĩ gì. Ở chốn này, điều duy nhất khiến ta sợ hãi, chính là không thể nắm bắt được suy nghĩ của người khác, ta cảm thấy mình cứ như vừa bị hất ra khoảng không bất tận, rơi mãi rơi mãi, không biết bấu víu vào đâu.

Ta khẽ cắn răng, chầm chậm lại gần, ngồi ghé xuống ghế. Khang Đại Vi biết điều ra hiệu cho Tố Khiết, cả hai cùng lui ra.

“Ngồi xích lại đây, vẫn còn chỗ trống cơ mà!” Hạ Hầu Thần gắt.

Thiên tử đã có lời, ta bất đắc dĩ nhích vào thêm một chút, để không áp sát vào người hắn, ta gắng hết sức co mình lại. Hồi lâu không nghe thấy hắn gắt thêm tiếng nào, ta thầm lấy làm lạ trong bụng, không nhịn được quay sang, bất giác giật bắn cả mình. Hạ Hầu Thần lúc này đang chống cằm, vịn vào thành ghế, nửa thân người khom hẳn xuống, ánh mắt hàm chứa nụ cười, lặng lẽ nhìn về phía ta. Nụ cười ấy trong khoảng khắc như làm cả căn phòng bừng sáng. Vậy mà vừa chạm phải ánh nhìn của ta, khóe mắt kia lập tức đanh lại, cứ như con hát chơi trò đổi mặt nạ[2], mới đây còn đang là Tào Tháo mặt trắng, phút chốc đã thành Bao Công mặt đen, làm ta không cách nào thích ứng cho kịp, càng chẳng đoán ra hắn đang nghĩ gì.

[2]. Trong kinh kịch có tiết mục đổi mặt: Diễn viên vừa múa vừa đổi mặt nạ đeo.

Có lẽ Hạ Hầu Thần đã biết ta mới là hung thủ thực sự cướp đi thai rồng, nhưng không có chứng cứ xác thực, ngược lại ta ngờ hắn thêm dầu vào lửa, cũng chẳng có gì làm minh chứng. Trong chuyện này, hai bên xứng là kỳ phùng địch thủ, nhưng theo lẽ thường mà nói, với tính cách của hắn, nhất định sẽ muốn tìm cách trừ khử kẻ biết quá nhiều về mình. Vậy mà từ đầu chí cuối hắn không hề nổi sát tâm, chẳng lẽ chỉ vì chút vui thú mà hắn giữ một nguy cơ lại bên mình?

Nghĩ đến đây, cả người ta trở nên cứng đờ, dần dần nhích mông ra xa, nếu không dùng tay chống một bên, chắc đã rơi xuống đất từ lâu.

Hắn thờ ơ nói: “Trẫm là hổ chắc? Sao ngươi sợ như vậy?”

Ta đành đáp: “Thần thiếp đâu có sợ Hoàng thượng, chỉ là kính ngưỡng quá độ…”

“Vậy thì ngồi sát vào đây!”

Ta lại lần nữa nhích vào, nửa thân người đối diện với hắn chẳng hiểu sao trở nên mẫn cảm, khi nhận thấy áo bào sắp sửa chạm vào mình, bèn cuống cuồng co người lại. Nếu là trước kia, mỗi khi chỉ có hai người, tay chân hắn sớm đã sục sạo khắp chốn rồi, nhưng lần này thì không hề, điều này càng khiến ta ngờ vực sợ hãi, không biết hắn định giở trò gì.

“Mấy ngày trước ngươi nói lan Nhụy Điệp trong vường nở hoa, sao trên đường vào đây không thấy gì, chỉ có gió thu quạnh quẽ?”

Mấy lời đó chẳng qua dùng để lấp liếm cho qua, nay thấy hắn hỏi đến, ta vội phục xuống đất cáo lỗi, hắn giữ chặt lấy ta, nói: “Ngày nào ngươi chẳng khi quân vài ba bận, thêm một lần này, cũng chẳng nhiều hơn!”

Ta thất kinh đáp: “Hoàng thượng, thần thiếp đâu có…”

Trông hắn chẳng có vẻ gì là bực bội, tay trái tuy nắm lấy tay phải của ta, nhưng không hề sấn tới áp sát, vẫn cứ thản nhiên dựa vào ghế, mặt đẹp như tượng tạc. Hắn vốn là nam tử tuấn tú vô cùng, có điều trước nay ta chưa bao giờ dám nhìn trực diện. Hôm nay khoảng cách giữa đôi bên quá gần, đến độ ta có thể trông rõ cả hàng lông mi cong vút, đôi mắt trong veo tựa hai viên ngọc lưu ly, ánh lên tia sáng sâu thẳm, vừa mê hoặc vừa lạnh giá.

Ta vội cúi đầu, dán mắt vào hoa văn trên ghế gấm, tay kia thu vào trong ống áo rồi đưa lên che mặt như một phản xạ.

Hắn thả tay ra, ta không dám biểu lộ gì quá, thận trọng chậm rãi thu tay vào, cũng giấu vào trong ống áo.

“Đã bao lâu rồi ngươi không đến thăm Thái hậu?” Hắn lạnh nhạt hỏi.

Nếu hắn không nhắc, ta cũng quên bẵng đi. Đã rất lâu rồi ta không còn nhớ gì đến con người ấy nữa, cái người đã bị ta phản bội đâm sau lưng, cũng chính là người từng đề bạt cất nhắc ta, nếu không nhờ bà ta yêu mến, ta đã chẳng ngồi lên được chức Thượng Cung. Vậy mà sự việc mới trôi qua được vài tháng, thậm chí ta còn chẳng gặp ác mộng lấy một lần chứ đừng nói là nghĩ đến. Xem ra, ta quả là một kẻ bạc bẽo.

“Sợ là Thái hậu không muốn gặp thần thiếp cho lắm, vậy nên…”

“Cũng phải, với tính cách của bà, bị một con nô tỳ phản bội, nếu còn gặp lại chắc chắn sẽ chẳng tha. Trẫm chỉ tò mò khi ngươi làm những việc kia, chẳng lẽ không thấy hổ thẹn chút nào sao?”

Ta dửng dưng đáp: “Hoàng thượng, thần thiếp chẳng qua chỉ muốn tìm cho mình một con đường sống, tất cả những gì thần thiếp làm cho Thái hậu, sớm đã nhiều hơn những gì Thái hậu cho thần thiếp rồi.”

“Cho nên cú đâm cuối cùng ấy, chẳng qua là ngươi muốn đòi lại những gì đáng thuộc về mình thôi phải không?”

Ta cúi đầu không đáp.

Hạ Hầu Thần thở dài một tiếng: “Ninh Vũ Nhu, ngươi rốt cuộc là một nữ nhân như thế nào?”

Ta chẳng biết nên trả lời câu hỏi ấy ra sao. Ta cảm thấy mình không phải kẻ xấu, tất cả mọi thủ đoạn trước đây đều là vì sinh tồn của bản thân mà thôi. Trong cung ai mà chẳng vậy, ta cũng không tránh khỏi, có điều ta thông minh hơn họ mà thôi, nên có thể tồn tại dài lâu đứng vững ở đây mà thôi.

Ta hồi hộp phân tích lại lời hắn vừa nói, cảm thấy từ khi hắn bước vào đây, mọi lời nói, cử chỉ đều có nguyên do sâu xa. Thái độ khác hẳn thường ngày. Ta hiểu rõ mọi lần hắn đến đây là để vui lạc thú, nhưng hôm nay có vẻ lại không định làm vậy. Rốt cuộc là vì sao?

“Hoàng thượng, thần thiếp cũng chỉ là một nữ nhân của người mà thôi.” Ta nhỏ giọng đáp, hôm nay hắn có vẻ hòa nhã, ta đâm bạo gan thêm mấy phần, lén liếc mắt sang, lại thấy hắn nhếch khóe môi, dường như đang cười.

“Nhưng ngươi lại chưa từng muốn làm nữ nhân của trẫm phải không?”

Ta không đoán được khi nói câu này, hắn đang giận hay đang vui, chỉ biết đây là điềm chẳng lành, nếu đáp lời không cẩn thận, tất sẽ chạm nọc. Ta đắn đo một chút rồi nói: “Nữ nhân bên Hoàng thượng quá nhiều, thần thiếp e sợ không thắng được họ, cho nên…”

Hắn cười ha hả: “Ngươi mà sợ thua bọn họ? Trong lòng ngươi vốn nghĩ, chẳng cần đến Hoàng đế như trẫm, ngươi vẫn có thể tung hoành ngang dọc giữa cung cấm phải không?”

Lưng ta lại đổ mồ hôi lạnh. Sao hắn có thể nói ra chính xác cái suy nghĩ thầm kín nhất tận đáy lòng ta? Đích thực mỗi lần đối diện con người này, vì không cách nào nắm bắt được tình thế nên ta rất sợ hãi, chỉ muốn tránh xa hắn, mong dựa dẫm vào Hoàng hậu. Ta cho rằng hắn thân lo việc nước, tất không thể bao quát mọi chuyện lớn nhỏ trong cung, có thể thấy rõ, Hoàng hậu sẽ là một chỗ dựa vững chắc hơn nhiều.

“Thần thiếp không dám, thần thiếp lúc nào cũng đặt Hoàng thượng làm đầu, người là đấng phu quân ngàn vàng, thần thiếp sao dám…”

Ghế gấm chật hẹp, ta vừa giật mình thất kinh, tuy chưa ngã xuống đất, nhưng theo thói quen định phục xuống đất thỉnh tội, thân trên ngả ra trước, khiến mặt sát mặt, gần đến nỗi có thể nhìn rõ lông măng trên má hắn. Ta chợt nhận ra hành động này quá vô lễ, vội lùi ra sau, liền bị hắn kéo lại, hai thân hình liền dính vào nhau. Đỉnh đầu cảm nhận được hơi thở ấm áp của hắn, mình mẩy không kìm được nóng bừng. Ta chưa bao giờ ngồi bên hắn thân mật đến vậy, mọi lần trước đến đây hắn đều sỗ sàng bạo ngược, tuy nói là khổ sở khôn xiết, nhưng vẫn còn hiểu được ý tứ, nhưng hôm nay thời chẳng tài nào đoán ra chút manh mối nào.

Hắn khẽ thở dài trên đỉnh đầu ta mà rằng: “Ngươi nhờ vào vụ việc Thái hậu mà lấy được lòng tin của Hoàng hậu, trở thành tâm phúc của nàng ta, lại lần nữa dưới một người mà trên muôn người. Nhưng ngươi nên biết, tất cả những gì ngươi muốn, ngươi cần, trẫm cho phép, thì ngươi mới có được, nếu trẫm không cho, dù ngươi có dựa vào Hoàng hậu, cũng chẳng làm nên chuyện gì.”

Cái ôm thật ấm áp, nhưng lời nói ra lại là ngôn từ vô tình tàn khốc nhất. Rốt cuộc ta đã hiểu mục đích hắn đến đây ngày hôm nay. Hắn cảm thấy ta nhúng tay quá sâu, hắn không thể loại bỏ sự nghi ngờ về ta trong vụ Sư Viên Viên, nên mới đưa ra lời cảnh cáo. Thiên hạ nói gì thì nói vẫn là của Hoàng thượng, thiên hạ đó dĩ nhiên cũng bao gồm cả hậu cung!

Ta vội vùng vẫy định ngồi dậy, càng bị hắn ôm chặt hơn, chỉ đành nói: “Hoàng thượng, bất cứ lúc nào thần thiếp cũng đặt người lên hàng đầu.”

“Biết rõ ngươi nói lời giả dối, trẫm cũng chỉ có thể nghe. Nhưng đừng tưởng trẫm không có cách trị ngươi. Ninh Vũ Nhu, nếu Hoàng hậu không thể là chỗ dựa cho ngươi nữa, có lẽ ngươi sẽ nhớ tới trẫm chăng?”

Mồ hôi lạnh từ sau lưng nhỏ xuống thành giọt, dù đang vận trên người áo dày mùa đông, ta vẫn cảm thấy lạnh buốt thấu xương. Hóa ra là thế, hắn định phá hoại liên minh ta cùng Hoàng hậu dày công vun đắp, khiến ta lần nữa rơi vào thế bị cô lập giữa chốn hậu cung. Điều này so với những lần hành hạ trước đây khủng khiếp gấp bội. Nhục nhã về thể xác rồi sẽ có lúc quên đi, gắng gượng nhẫn nhịn mọi sự sẽ trôi qua, những vết sưng đỏ trên người xức thuốc lên, vài ngày là khỏi, còn hình phạt mới này sẽ khiến mọi nỗ lực của ta hóa thành bọt nước.

Ta nôn nóng lên tiếng: “Hoàng thượng, người phạt thần thiếp thế nào cũng được, nhưng Hoàng hậu là người nhân đức, xin người đừng làm tổn thương Hoàng hậu…”

Vòng tay hắn càng thêm siết chặt, khiến ta gần như không thể thở nổi, hắn ghé tai ta cười khẽ: “Ninh Vũ Nhu, trẫm nắm được đuôi của ngươi rồi.”

Cả người ta lạnh ngắt, bị hắn vừa ôm vừa lôi vào phòng mà không hề hay biết, cho đến khi bức màn buông xuống, xiêm áo trên người bị cởi ra sạch, cảm giác ấm áp bao bọc lấy, ta mới sực tỉnh. Lần này hắn không xé nát y phục, cũng không trói tay, nhưng vốn dĩ ta khô khan từ trong cảm xúc, nên vẫn cảm thấy đau buốt không thôi. Ham muốn của hắn mãnh liệt không ngừng nghỉ, còn ta đau đớn không thể thốt ra lời. Ta trộm nghĩ, nữ nhân trong cung nhiều vô số kể, nếu phi tần nào hắn cũng thế này, thì chẳng mấy chốc bên hắn sẽ chẳng còn ai! Có điều hắn rất biết điều dưỡng thân, chưa bao giờ buông thả dục vọng quá đà.

Ta ra sức nghĩ ngợi đủ thứ, nhằm khiến cơn đau trong mình giảm bớt, hắn thấy vậy càng điên cuồng. Ta cảm thấy trán mình ướt đẫm, chỉ cố nắm chặt lấy thành giường, cắn răng chịu đựng.

Hôm nay hắn không vội vã rời khỏi Lan Nhược hiên như mọi lần, mà nghỉ lại qua đêm. Tuy mệt mỏi rả rời, nhưng trước nay ta quen ngủ một mình, bây giờ bên cạnh đột nhiên có thêm một người, chẳng thể chợp mắt, lại không dám xoay sở cử động mạnh, cứ nằm ngây ra, đến nỗi thân mình cứng đờ, tê bì, cho đến khi nghe thấy tiếng thở của hắn trở nên đều đặn, mới dám rón rén xoay người. Dù làm vậy nhưng đầu óc ta vẫn cứ căng ra, chẳng tài nào ngủ được, đành đem nhưng lời hắn nói ban tối nghiền ngẩm nhiều lần, càng nghĩ càng thấy sợ. Phá hỏng mối quan hệ giữa ta và Hoàng hậu đối với hắn thật quá dễ dàng, chỉ cần tỏ ra sủng ái ta như Sư Viên Viên, tự sẽ có người phe Hoàng hậu tìm mọi cách trừ khử ta, giống như ta đã đối phó với Sư Viên Viên vậy. Hôm nay hắn nghỉ lại Lan Nhược hiên, chính là một tín hiệu, chỉ cần hắn nghỉ lại thêm vài ngày, mối liên hệ vốn dĩ lỏng lẻo giữa ta và Hoàng hậu sẽ sụp đổ tan tành.

Nghĩ tới nghĩ lui, đầu óc ta càng lúc càng căng thẳng, quả thực Hạ Hầu Thần chẳng cần làm gì phức tạp, chỉ như thế là đủ.

Ta phải làm sao thoát khỏi tình thế khó khăn này, chẳng lẽ lại cầu xin hắn đừng sủng ái mình? Nếu ta là kẻ đầu óc không bình thường thì còn có thể nói như vậy. Hay cố tình chọc giận, làm bản thân bị ghét bỏ? Nhưng hắn vốn dĩ hận ta thấu xương, mà vẫn có thể nín nhịn, thi thoảng đến Lan Nhược hiên giày vò có thể thấy hắn là kẻ có khuynh hướng thích ngược đãi, kế này đối với hắn e vô dụng, không chừng còn khiến hắn đoán ra đầu đuôi, càng cố tình tìm đến thường xuyên hơn.

Cả đêm ấy ta không ngủ, cứ gương đôi mắt ngắm song thưa bạc đi trong sương, lại dõi theo mặt trời dần nhô lên qua khe cửa. Trời sáng bảnh, Khang Đại Vi đứng ngoài cửa gọi: “Hoàng thượng, nương nương, đã tỉnh giấc chưa ạ?”

Ta chầm chậm ngồi dậy, nhưng chẳng thấy người bên cạnh mảy may động cựa, bèn quay sang nhìn. Hắn vẫn say giấc nồng.

Ta bèn lay gọi: “Hoàng thượng, người dậy đi, đến giờ thượng triều rồi.”

Hắn như không nghe thấy gì, quay mình vào trong ngủ tiếp. Ta không dám lay mạnh quá, chỉ dám quỳ bên giường tiếp tục gọi: “Hoàng thượng, nên thức giấc đi thôi.”

Kêu liền mấy tiếng, vẫn không thấy hắn đáp lời, ta đành khoác vội áo choàng, đi ra khỏi bình phong. Khang Đại Vi dẫn theo một đám cung nhân bưng sẵn khăn chậu đứng chờ ở ngoài từ lâu, thấy ta đi ra, ông ta cúi mình hành lễ, cất tiếng thỉnh an, lại ngó ra phía sau, hỏi: “Hoàng thượng đâu ạ?”

Ta bất đắc dĩ nói: “Hoàng thượng vẫn còn ngủ!” nói xong nhìn trái ngó phải, định gọi Tố Khiết ra hầu hạ mình chải đầu rửa mặt, tỏ ý rằng việc đánh thức Thánh thượng là trách nhiệm của Khang tổng quản.

Nhưng Khang Đại Vi lờ đi, sốt ruột giục: “Ôi, nương nương của tôi ơi, buổi chầu sớm bắt đầu rồi, nương nương mau đánh thức Hoàng thượng mới phải!”

Khang Đại Vi là lão thái giám hầu hạ Hoàng đế hai triều, tình nghĩa với tân đế rất mực sâu nặng, ta sao dám đắc tội với ông ta, đành quay trở vào phòng. Vén mành nhìn vào giường, thấy Hạ Hầu Thần vẫn quay người vào trong mà ngủ, chẳng có vẻ gì sắp tỉnh dậy, ta lưỡng lự một lúc, tiến tới khẽ vỗ vào cánh tay hắn: “Hoàng thượng, dậy đi thôi!”

Chẳng có phản ứng gì.

Ta vỗ mạnh hơn: “Hoàng thượng, mau dậy đi thôi!”

Vẫn cứ im lặng như tờ. Có lẽ đêm qua hắn thực sự rất mệt chăng?

Vừa nghĩ thế, người ta bất giác ngâm ngẩm đau, cơn giận bốc lên, lần này ta đẩy hắn vẹo cả người: “Hoàng thượng, dậy mau!”

Đến thế mà hắn vẫn cứ nằm bất động. Khang Đại Vi đứng ngoài bình phong lên tiếng: “Nương nương, người gọi lớn một chút, đến lão nô còn nghe không rõ người đang gọi gì!”

Mái tóc óng mượt của hắn xõa đầy trên gối, tấm áo lót màu vàng kim mềm mại rũ trên người, có thể lờ mờ nhìn ra bắp thịt trên cánh tay hắn, nửa gương mặt khôi ngô lộ dưới ánh nắng ban mai, chẳng có vẻ lạnh lùng tàn nhẫn như khi thức, hai bên khóe miệng hơi trĩu xuống, dường như ẩn giấu rất nhiều phiền muộn. Thường ngày ta không dám nhìn thẳng vào hắn, lúc này không kìm được ngơ ngẩn cả người. Cho dù bình sinh hắn hung tài thao lược, hô mưa gọi gió, thì đến lúc ngủ, cũng chỉ là nam nhân rất đỗi bình thường.

Ta ngần ngừ một lát, cúi xuống, ghé sát tai hắn lớn tiếng gọi: “Hoàng thượng, mau dậy tôi.”

Hô xong, đang định chuồn cho mau kẻo hứng trọn cơn ngái ngủ của Thiên tử, ai ngờ hắn cứ như vừa bị bóng đè, cả người giật nảy một cái, sực tỉnh khỏi giấc mộng. Ta vừa lùi được vài bước, đã thấy hắn mở trừng trừng mắt ra nhìn, thấy ta, ánh mắt hắn lộ ra một tia mê hoặc. Ánh mắt đó thật đáng ghét, cứ như đang không tin tại sao ta lại xuất hiện ở đây vào lúc này, rằng tại sao hắn lại nằm trên giường của ta. Ta dĩ nhiên không dám lộ ra nửa phần bất mãn, cúi đầu nói: “Hoàng thượng, đến giờ thượng triều rồi ạ.”

Hắn ngây ra một chút rồi đáp: “Trẫm ngủ say đến vậy sao?”

Ta nghĩ thầm, ngài ngủ hết cả phần ta rồi, dĩ nhiên là ngon, ngon chết đi được.

Hắn nhìn ta lom lom, đột nhiên bật cười: “Ái phi có vẻ tỉnh táo ghê nhỉ?”

Trước nay khi đối đáp, hắn chưa từng gọi tên ta, cũng không bao giờ gọi phong hiệu, gọi ta mà như gọi không khí, chứ đừng nói đến hai chữ “ái phi”. Đầu óc ta ngay lúc bấy giờ không kịp phản ứng kịp, bất giác liếc ra ngoài trướng, cứ tưởng có “ái phi” nào vừa tới, rồi lại ngẩn ngơ nhìn hắn. Tâm trạng Thánh thượng lúc này có vẻ rất tốt, hớn hở nói: “Nhờ đến chỗ của ái phi mà trẫm ngủ được một giấc ngon như vậy…”

Hắn vừa nói vừa xuống giường, gọi Khang Đại Vi: “Khang Đại Vi, tối nay không cần mang lục đầu bài cho trẫm chọn nữa, đêm nay trẫm vẫn nghỉ tại Lan Nhược hiên.”

Đúng thật rồi, chết thật rồi, ta thầm rên trong bụng, cũng phải thán phục con người này, hắn ghét ta là thế, mà chỉ vì muốn ta cùng Hoàng hậu rạn nứt, ngay đến chiêu này cũng mang ra sử dụng. Hoàng hậu đối với ân tình sâu nặng, nếu thi thoảng ta được sủng hạnh thì không sao, đằng này lại như Sư Viên Viên ngày đêm quấn quýt độc chiếm Thiên tử, thì… Cho dù ta có nghĩ trăm phương ngàn kế để hàn gắn, chỉ sợ cũng đành bó tay, chỗ dựa vững chắc nhất đến một ngày không xa sẽ trở thành địch nhân đáng gườm nhất!

Ta chưa từng vọng tưởng có một tình bằng hữu ở chốn thâm cung, biết rõ trong một mối quan hệ, chỉ cần đôi bên không còn đươc hưởng lợi ích tương xứng, thì lập tức trở mặt thành thù, kẻ sống người chết. Hạ Hầu Thần rõ ràng hiểu sâu sắc điều này, nên mới đánh thẳng vào chỗ hiểm yếu của ta?

Khang Đại Vi thấy Hoàng thượng tâm trạng rất tốt, gương mặt già nua thêm vài phần tươi tắn, nói: “Hoàng thượng, người đến Lan Nhược hiên đã nhiều lần vẫn chưa ban thưởng cho Ninh nương nương thứ gì, chẳng khiến cho nương nương tủi thân oán trách sao, người xem…”

Hạ Hầu Thần liếc sang, ta lập tức nhoẻn một nụ cười không thể tươi hơn, tâm trạng hắn đang tốt, chẳng buồn vặn vẹo chê ta giả tạo, cười nói: “Được, nho tím dạo trước Tây Vực tiến cống chắc vẫn còn chứ? Trẫm nghe nói ái phi rất thích, thường sang chỗ Hoàng hậu cùng ăn, nhưng nho bên ấy không thể tươi bằng của trẫm được. Khang Đại Vi, ngươi mau sai ngươi mang năm cân sang đây!”

Hắn rõ ràng định đẩy ta vào vết xe đổ của Sư Viên Viên. Ta biết làm sao đây? Chỉ đành nhe răng nở một nụ cười sáng láng cho hắn xem, cúi người hành lễ tạ hoàng ân.
 

Hoa Tử

Sưu tầm
Tham gia
24/9/19
Bài viết
10,570
Điểm cảm xúc
1,484
Điểm
113
Chương 11.1:
Náo nhiệt một hồi, hắn và đám tùy tùng mới rời khỏi Lan Nhược hiên. Ta ngã ra ghế, cảm thấy mệt lả. Cả đêm thức trắng, giờ đây hai mí mắt cứ nặng trĩu, nhưng không tài nào ngủ được, nằm trên giường trở mình liên tục đến nửa canh giờ. Tố Khiết từ ngoài chạy vào bẩm báo, rằng vật ban thưởng của Hoàng thượng đã mang đến, nghe thấy thế ta càng không ngủ nổi, bèn dậy ra xem, thấy nho tím chất đầy trong hộp lẫn với đá ướp lạnh, cảm nhận rõ ràng mình đang rẽ vào con đường Sư Viên Viên từng đi qua.

Sau khi bị sảy thai, nghe nói Sư Viên Viên cả ngày ở trong phòng than trời oán đất, đòi Hoàng thượng phải tra xét kỹ càng cả hậu cung, khiến Hạ Hầu Thần không muốn gặp. Sủng tình của Hoàng đế đã cạn, lại có Hoàng hậu ngấm ngầm điều binh khiển tướng, đám cung nhân bắt đầu đối xử khinh bạc, những chuyện cắt xén bổng lộc ăn chia không cần phải nói nữa. Cô ta tuy là Quý phi thân phận cao quý, nhưng những ngày tháng sau này chắc chắn sẽ càng lúc càng đau thương, không còn quyền lực trong tay, phi phẩm có cao đến mấy phỏng có tác dụng gì?

Tấm gương của Sư Viên Viên đã chứng tỏ một điều, cho dù Hạ Hầu Thần có sủng ái đến mấy, thì thời gian qua đi, thế nào cũng có ngày tình cảm nhạt phai, có khi còn không lâu bằng thời gian giữ ấm của ghế tử đàn. Nếu ta rơi vào tình thế như Sư Viên Viên, chỉ e kết cuộc càng thảm hại. Cô ta vẫn có nhà mẹ đẻ chống lưng, Hoàng hậu nhất thời chưa thể làm gì được, còn ta một thân một mình, sợ rằng đến lúc ấy còn không được trông thấy mẹ lần cuối.

Nhưng phải làm sao để Hạ Hầu Thần hiểu cho nỗi khổ này?

Ta nghĩ tới nghĩ lui, Hạ Hầu Thần không thích ta và Hoàng hậu quá thân thiết, là sợ ta làm điều gì liên lụy đến nàng ta? Hay vì ta vốn xuất thân từ hạng nô tỳ, không được phép với cao?

Ta càng nghĩ càng thấy mình đâm vào ngõ cụt, không cách nào thoát ra được. Vì Hạ Hầu Thần đã lệnh cho Nội Thị Giám tối nay lại nghỉ ở Lan Nhược hiên, nên hôm ấy trong cung không ai dám tới làm phiền. Phần ta, dù đêm trước không ngủ, nhưng mải nghĩ ngợi nên cả ngày trời vẫn không thể chợp mắt. Đến khi đèn lồng được thắp sáng mới sực nhận ra trời tối tự lúc nào.

Hoàng thượng đến Lan Nhược hiên liên tiếp hai ngày, thật là chuyện chưa từng có, Tố Khiết thấy thế cả mừng, nhanh nhảu giúp ta chải đầu cài trâm, thấy dưới mắt ta có quầng thâm, bèn dặm thêm phấn hòng che đi.

Con bé này không còn dáng vẻ ngây thơ vô tư như ngày mới nhập cung nữa, biết Hoàng thượng ghé thăm, nó ăn mặc phục sức cũng khác với thường ngày, lúc thì cài trâm ngọc, khi lại kẻ mày vẽ mắt. Quả nhiên cung đình là chốn lý tưởng để rèn luyện con người, bất cứ ai hễ bước chân vào, coi như đã sa xuống thùng thuốc nhuộm khổng lồ, cả người không bị ô uế hoen màu thì không thể ngoi lên.

Nếu Hạ Hầu Thần để mắt tới Tố Khiết dù chỉ một chút, ta mừng còn không hết, nhưng sắc nước hương trời như Ninh Tích Văn cũng chỉ khiến hắn nắm lấy tay áo rồi buông, thì đứa nhà quê như Tố Khiết, dẫu có đôi phần xuân sắc cũng làm sao hấp dẫn được hắn? Vừa nhớ đến thất bại lần trước, ta đâm cụt hứng, chẳng muốn hao tâm tốn sức bày đặt gì nữa. Tâm tư Hạ Hầu Thần thâm sâu khó dò, Hoàng hậu góp công lập quốc may ra còn khiến hắn nảy sinh chút cảm tình, những kẻ khác dựa vào đâu mà hoang tưởng?

Trộm gà chẳng được, mất toi nắm thóc. Mấy chuyện vô bổ kiểu này đừng hòng ta làm nữa.

Trước đây khi còn là cung nữ hạ cấp trong Thượng Cung cục ta từng chịu biết bao khổ cực, một đêm không ngủ cũng chẳng để lộ vẻ mệt mỏi dù là mảy may. Đúng canh hai, Hạ Hầu Thần xa giá đến Lan Nhược hiên, xem ra tâm trạng hắn không tệ, thấy ta sửa soạn chỉn chu cũng không buồn mỉa mai xiên xỏ chi cả, gọi người mang lên vài món điểm tâm, một hũ rượu ngọt, nói đêm nay trăng đẹp, dù thời tiết giá rét không thể ra ngoài vườn thưởng thức, nhưng gọi đội ca vũ đàn sáo sang tấu khúc trong phòng, vừa uống vừa ngắm trăng qua song cửa cũng vui thú.

Ta giữ nụ cười tươi tắn, dáng điệu cử chỉ ôn nhu hòa nhã nhất có thể, không để cho hắn nhìn ra nửa phần sơ hở, hắn nói đến đâu, ta khen hay tới đó.

Tình cảnh của ta lúc này chẳng khác gì Sư Viên Viên dạo trước. Thời Sư Viên Viên đắc sủng, chẳng cũng đàn ca sáo nhị đêm ngày đó ư? Ta không có được cái hưng phấn hân hoan của cô ta, những tưởng Thiên tử chẳng thèm để mắt đến bất cứ phi tần mỹ nữ nào khác, cho rằng ân tình đáng phải chia làm ba ngàn mảnh tất thảy đều thuộc về mình, còn gì vinh quang cho bằng? Ta không ngây thơ như Sư Viên Viên, vả chăng hắn đã sớm nói rõ mục đích của những hành động này. Hắn vui vẻ tử tế, ta càng cảm thấy đến cái khóe miệng đang mỉm cười kia giả tạo.

Nhưng ta biết làm sao? Hắn là vua một nước, hắn thích vui đùa, thích nâng một người lên tận mây rồi thả xuống, ta còn cách nào khác ngoài hùa theo? Không những phải chơi cùng hắn, mà còn phải ra sức thể hiện, cười nói, đề ra ý mới. Thậm chí ta còn nghĩ rằng, chuyện vui này tiếp diễn cùng lắm là ba ngày, ba ngày sau, hắn sẽ lạnh lùng nói với ta: Ninh Chiêu Hoa, để xem bây giờ ngươi làm cách nào lấy lại lòng tin của Hoàng hậu?

Đến lúc ấy ta phải phản ứng thế nào nhỉ, nên đau đớn tang thương, hay tỏ ra tuyệt vọng không dám tin vào tai mình? Ta vừa cười tươi như hoa, vừa thầm suy tính trong bụng như thế.

Thôi thì thây kệ tất cả, trước mắt hãy cứ hầu hạ vị tôn thần này cho tốt, thỏa mãn tất cả ý muốn của hắn, đi bước nào tính bước đó.

Tiếng đàn ca đêm ấy có lẽ vọng đi rất xa, khiến tất cả những kẻ đêm thâu lẻ bóng khắp bốn phương tám hướng trong cung đều phải động lòng.

Chẳng hiểu Hạ Hầu Thần lấy đâu ta nhiều tinh lực đến vậy, hai đêm liền mưa giục mây vần, khiến ta mệt mỏi rã rời, không sao chịu nổi đau đớn. Ta cắn răng nhẫn nhịn, khi hắn xong việc bèn thiếp ngay đi.

Khi tỉnh dậy, nhìn ra ngoài thấy trời vẫn còn tối, trong phòng đang thấp nến, Tố Khiết từ bên ngoài bước vào, thưa: “Nương nương, người tỉnh rồi ư? Để nô tỳ hầu hạ người chải đầu rửa mặt, Hoàng thượng sắp đến rồi.”

Ta nghe xong giật mình kinh ngạc, hỏi: “Ngươi nói sao, Hoàng thượng vẫn chưa lên triều ư?”

Tố Khiết che miệng cười đáp: “Nương nương, người ngủ cả một ngày trời, sáng sớm khi Hoàng thượng đi khỏi, người còn chẳng buồn dậy tiễn. Bây giờ là tối ngày hôm sau rồi.”

Lúc này ta mới thấy bụng đói cồn cào, lòng thầm nghĩ vậy cũng tốt, càng mau đến ngày thứ ba. Với tính cách của Hạ Hầu Thần, đó là giới hạn cao nhất mà hắn có thể chịu đựng rồi.

Nghĩ đến dây, ta bất giác thấy vui vẻ hẳn lên, chải đầu rửa mặt xong xuôi, bèn sai Tố Khiết mang một ít điểm tâm lên ăn. Tố Khiết chỉ về phía phòng dủng thiện, tâu lại rằng Ty Thiện Phòng đã mang thức ăn thức uống bày cả trên bàn bên đó, vẫn còn nóng hôi hổi.

Hai bữa liền không ăn, bụng ta sôi lên sùng sục, no rồi, lại phải chải đầu rửa mặt thêm lần nữa. Đang lúc thay một bộ y phục tươi tắn hơn để nghênh Thánh giá, chợt nghe Khang Đại Vi ở ngoài cửa hô: “Hoàng thượng giá đáo.”

Sau khi quỳ xuống làm lễ theo lệ, ta ngẩng lên quan sát, Hạ Hầu Thần hôm nay tinh thần vẫn rất sảng khoái, tâm trạng ta cũng theo đó trở nên dễ chịu hơn, bèn hỏi hắn đêm nay liệu có muốn xem ca vũ nữa không.

Hạ Hầu Thần đáp: “Ái phi nghe hát hai ngày liền, vẫn chưa thấy chán ư? Hoa mai trong Ngự Hoa viên vừa nở rộ, trẫm đã sai người quét dọn sạch đường đi, hôm nay trẫm cùng ái phi đến đó thưởng hoa có hay hơn không?”

Hai tiếng “ái phi” phát ra từ miệng y nghe dịu ngọt hết sức, khóe mắt lúng liếng như cười, thi thoảng vô tình liếc ra xung quanh, khiến mấy cung nữ đứng hầu trong phòng bất giác đều đỏ mặt, cứ như người được gọi là chúng vậy. Chằng hiểu sao ta không cảm thấy hưng phấn chút nào, chỉ nghĩ mình vừa ngủ cả một ngày dài, giờ phải cuốc bộ quanh Ngự Hoa viên rộng mênh mông, đến đêm lại chịu một trận giày vò, xong việc chẳng biết có ngủ nổi hay không. Hạ Hầu Thần thừa biết nếu hôm nay hắn không đến, thế nào ta cũng tới chỗ Hoàng hậu thăm dò thiệt hơn, xem nàng ta có thái độ gì với chuyện Hạ Hầu Thần liên tiếp mấy ngày nghỉ tại Lan Nhược hiên. Nếu thấy còn kịp cứu vãn, ta sẽ còn cách thuyết phục Hoàng hậu gỡ bỏ khúc mắc, còn giả như “tình tỷ muội” quả thực đã tan nát, ta cũng kịp chuẩn bị hứng chịu những sóng gió tiếp theo.

Ta tươi cười bước lên kiệu, ngồi vào trong mới chợt hiểu ra thâm ý của Hạ Hầu Thần. Kiệu loan có tám người khiêng, trống trơn không có nóc, Khang Đại Vi dẩn theo mấy tên thái giám đi bên cạnh tiến về hướng Ngự Hoa viên, đèn đuốc sáng rực bốn phía. Vừa xong bữa cơm tối, người trong cung đang lúc nhàn rỗi không có việc gì làm, rước kiệu rình rang thế này chẳng hóa diễn kịch cho người ta thưởng thức, ngiến răng mà khen hay.

Ta phải ngồi chung kiệu với Hạ Hầu Thần, bị hắn nắm chặt tay trái, chốc chốc lại ghé tai ta liếc mắt đưa tình: Chỗ này ái phi có quen không? Đây là nơi hồi nhỏ trẫm thường đến chơi… toàn những lời nhạt nhẽo vô vị. Ta trộm nghĩ, bộ tịch thế này có khác gì Hoàng đế cuối năm xuất cung tuần du dân gian, diễu hành ngoài phố cho lão bách tính chiêm ngưỡng? Lan Nhược hiên cách xa Ngự Hoa viên, cứ đi như vậy có lẽ phải rước qua nửa Hoàng cung, cứ như hắn muốn tuyên cáo với tất cả phi tần trong cung rằng: Ninh Vũ Nhu khổ tận cam lai, rốt cuộc đã trở thành sủng phi số một bên trẫm.

Miệng ta mỏi nhừ, trong lòng càng khốn đốn, nhưng vẫn gắng sức giữ gương mặt cho tươi tỉnh, vừa không quá phô trương để người ta trông thấy ngứa mắt đến độ muốn chạy ra đá cho một cước, vừa không được để Hạ Hầu Thần ngồi bên nhìn ra dấu tích, đoạn mở miệng mỉa mai, nỗi khổ này thật không thể tỏ cùng ai.

Ngày mai ta còn mặt mũi nào gặp Hoàng hậu, còn biết làm gì để nàng ta tin yêu? Suốt đường đi, đầu óc ta cứ luẩn quẩn mãi suy nghĩ đó.

Kiệu loan vừa vào đến Ngự Hoa viên, có thể trông thấy một góc vườn, nơi trồng nhiều hoa mai đèn đuốc sáng trưng, quả nhiên hắn đã chuẩn bị sẵn, sớm cho người bày biện bàn ghế, có lẽ nhạc sư cũng sắp sửa ra, chỉ đợi Thánh giá đến nơi là đàn sáo cất tiếng tấu hợp ngay.

Con đường nhỏ dẫn đến vườn mai không tiện đưa kiệu vào, ta và Hạ Hầu Thần bèn bỏ kiệu mà rảo bộ, cả đoàn người tiền hô hậu ủng tiến vào vườn mai. Sống trong cung đã nhiều năm, không có nơi nào mà ta không quen thuộc, khu vườn này càng không ngoại lệ. Hết con đường mòn, vòng qua một hòn giả sơn nho nhỏ là đến vườn mai. Ta còn nhớ khi mới nhập cung, vì tuổi nhỏ nên được điều đến Ngự Hoa viên bê chậu cây, nhổ cỏ, ta từng chính tay tỉa cành mai phụ giúp cho nghệ nhân cung đình, không cẩn thận tỉa nhầm cành đẹp, chẳng may bị một phi tần thích hoa mai của tiên đế nhìn thấy, bà ta sai người lấy kim chích vào đầu ngón tay ta. Cả mùa đông năm đó, ta không thể cầm nắm được vật gì. Sau cuộc đảo chính, phi tần đó được ban cho dải lụa trắng, còn gốc mai bà ta yêu quý vẫn vững cùng tháng năm, sương gió. Quả là vật còn đó mà người đã thành thiên cổ.

Ta còn nhớ gốc mai ấy sum suê nhất vườn, lòng không nén được chút mong đợi, vòng qua ngọn giả sơn này là có thề nhìn thấy nó rồi.

Đến khi củng Hạ Hầu Thần vượt qua giả sơn rồi nhìn lên, ta nhất thời sửng sờ: Trên một cành lớn của gốc mai năm nào treo mấy đèn lồng kiểu dáng tinh xảo, vài cung nữ lặng lẽ đứng hầu, trên chiếc bàn bát tiên vừa được bày ra, có một mỹ nhân hình dung kiều mỵ đang ngồi đó, chẳng phải Hoàng hậu thì là ai?

Đêm nay Hoàng hậu phục sức hoàn toàn khác hẳn với hình tượng đoan trang hiền thục khi gặp chúng phi tần. Trên người nàng ta choàng một chiếc áo lông cáo, nhưng khi đứng dậy, ta mới phát hiện y phục bên trong vô cùng mỏng manh, dường như là áo Bách Chiết sa mỏng, bên trên quàng cái yếm thêu phượng hoàng ngậm minh châu, cả bầu ngực được tôn cao, đầu chải kiểu Đọa Mã Dong Sơ, cài một cành trâm phỉ thúy màu xanh biếc, trông dáng vẻ vừa xinh đẹp vừa hơi biếng nhác đáng yêu, dưới sắc đêm huyền ảo, khác gì đĩa điểm tâm ngon lành thích mắt.

Trông tình cảnh phía trước, ta chỉ hận sao dưới đất không có cái lỗ nào để nhảy xuống ngay lập tức. Đúng lúc này Hạ Hầu Thần lại lên cơn, một mặt nắm chặt lấy tay ta, bắt ta dựa sát bên mình, một mặt thong thả bước về phía trước.

Hoàng hậu ăn vận khác lạ, phấp phỏng chờ người thương, nhìn thấy ta, chợt sững ra một lát, nhưng ngay lập tức khôi phục vẻ mặt bình thường, đi tới hành lễ với Hạ Hầu Thần xong, liền cười nói: “Đêm nay hoa mai nở rộ vào độ đẹp nhất, muội muội đến khéo quá.”

Nói đoạn nàng ta sai người mang thêm một cái bàn ra, phủ chăn gấm lên.

Ta nhún người hành lễ với Hoàng hậu, nhận ra trong thoáng chốc, nụ cười của nàng ta có vẻ chua xót. Thân làm Hoàng hậu, có lẽ đã sớm tiên liệu đến tình cảnh này, nên mới mau chóng phục hồi vẻ an nhiên như vậy.

Xem ra Hạ Hầu Thần quyết tâm khiến ta và Hoàng hậu tàn sát lẫn nhau mới thôi!

Nhưng ta sao có thể để hắn được như ý nguyện chứ?

Ta đứng thẳng người dậy, tâu với Hoàng hậu: “Hoàng hậu nương nương, thần thiếp trước nay vốn sợ lạnh, không thể đứng lâu ở nơi gió to, nếu không hai đầu gối lại đau nhức thấu xương, xin Hoàng hậu nương nương ân chuẩn cho thần thiếp cáo lui.”

Ta hơi nhíu mày, tỏ vẻ yếu đuối bất lực, quả nhiên khiến cho Hoàng hậu chú ý, đoạn cất giọng quan hoài: “Bản cung cũng biết muội có bệnh, đều tại Hoàng thượng không để tâm săn sóc, thời tiết lạnh giá như vậy mà bắt muội ra ngoài. Hoàng thượng, người xem có phải không?”

Ta thầm nghĩ, cô đừng để Hoàng thượng nắm đằng chuôi như thế, cứ hạ chỉ phứt đi, Hạ Hầu Thần nể mặt cô, chắc chẳng dám can ngăn đâu.

Ngặt nỗi Hoàng hậu bẩm sinh đức hạnh, không lúc nào dám nghịch ý Thánh quân, quả nhiên Hạ Hầu Thần đáp: “Hậu tưởng trẫm không biết chân Ninh Chiêu Hoa có bệnh? Trẫm đã cho người đặt lò sưởi tứ phía, Hậu không thấy quanh đây ấm áp như mùa xuân ư? Đêm nay Hậu phục sức thật là khác hẳn ngày thường…”

Lúc này ta mới để ý, xung quanh đây đặt đầy lò lửa, mỗi chỗ cắt cử một tên tiểu thái giám trông coi, giữ cho lửa không tắt. Chẳng trách Hoàng hậu ăn vận mỏng manh mà không thấy lạnh. Ánh sáng từ mấy ngọn đèn rọi lên mặt Hoàng hậu, khiến ta nhìn rõ nụ cười hiền hậu của nàng ta lúc này rõ ràng có phần khiên cưỡng. Có lẽ Hoàng hậu sớm đã biết Hạ Hầu Thần sắp đặt bếp sưởi, cứ tưởng là vì mình, ai dè là vì ta?

Chiêu vừa đấm vừa xoa này của Hạ Hầu Thần quả nhiên lợi hại. Theo ta quan sát, Hoàng hậu tuy hiền lương thục đức, đoan trang có tiếng, kỳ thực trong tình yêu không hề rộng lượng. Ta trước nay chẳng được sủng ái bao giờ, nên không có cớ gì gây xung đột với nàng ta, mấy lần đến cung Chiêu Thuần thỉnh an, thi thoảng gặp phải một vài phi tử nào đó vừa được Hoàng thượng sủng hạnh ở đó, Hoàng hậu tuy ngoài mặt nói sẽ ban thưởng, nhưng phi tử kia vừa quay lưng đi, gương mặt nàng ta liền lóe lên vẻ lạc lõng khó tả. Thật chẳng hiểu ra sao, nàng ta đã nắm trong tay quyền lực tối thượng chốn hậu cung, là điều ta nằm mơ cũng không có được, còn có gì không thỏa mãn nữa?

Mong chờ nam nhân kia ban cho chút tình tự hiếm hoi ư? Xem chừng đầu óc nàng ta có vấn đề rồi!

Ta nói: “Hoàng thượng, Hoàng hậu nương nương, khi thần thiếp mới vào cung, được phái đến Ngự Hoa viên làm việc, từng được tỉa cành mai cùng các nghệ nhân. Thần thiếp năm ấy nhỏ dại, hay tỉa nhầm cành, bị nghệ nhân đánh mắng không ít, hôm nay trở lại vườn mai, ngón tay của thần thiếp dường như vẫn còn ngâm ngẩm đau đớn. Tỉa cành tạo dáng mai, cần phải dùng rất nhiều thủ thuật tinh xảo, có khi mất mười năm uốn nắn mới được một tấc mai quý giá. Đủ thấy trồng mai là chuyện chẳng dễ dàng, cứ nhìn gốc mai trước mặt thiếp đây thì biết, thế mai thanh nhã, đấu tuyết ngạo sương, gió thoảng đưa hương, thật là cực phẩm trong số các cây mai, những nghệ nhân trong Ngự Hoa viên phải mất bao tâm tư vun đắp mới thành. Mai vốn ưa lạnh, quen đâm nhụy đưa hương giữa gió tuyết khắc nghiệt, tối nay Hoàng thượng cho người treo đèn lồng lên cây, lại cho người bày bếp lửa khắp nơi, nếu những nghệ nhân trồng mai trông thấy, trong lòng không biết đau xót đến nhường nào!”

Hạ Hầu Thần làm sao biết trồng mai lại cầu kỳ như thế, đưa mắt liếc nhìn Khang Đại Vi một cái.

Khang Đại Vi lom khom chạy tới bên thánh giá, khẽ bẩm báo: “Hoàng thượng, khi lão nô sai người sắp đặt bàn tiệc, quả thực các nghệ nhân trong vườn có bóng gió ngăn cản, nhưng vì là yêu cầu của Hoàng thượng, nên họ không dám phản đối kịch liệt.”

Ta thầm kinh ngạc, Khang Đại Vi sao lại nói đỡ cho ta? Giữa hai bên vốn chẳng có chút giao tình. Ông ta là đại nội tổng quản kề cận bên Hoàng thượng, thời ta còn làm Thượng Cung thì ông ta là tổng quản của Thái tử, quyền thế cao hơn ta rất nhiều. Ta vốn dĩ chẵng có tư cách mà làm thân với ông ta, cũng chẳng có ý định đó, trước nay chưa từng nói với nhau quá hai câu riêng tư, cũng chưa cho ông ta được lợi lộc gì, sao ông ta phải nói đỡ cho ta như vậy?

Lời Khang Đại Vi nói ra, dĩ nhiên là lọt lỗ tai Hạ Hầu Thần, hắn trầm ngâm trong giây lát rồi nói: “Vậy ý ngươi là, trẫm làm thế này sai rồi ư?”

Vừa nghe câu này, đám cung nhân quỳ xuống mọp đất, cả ta cũng vậy, Khang Đại Vi liến thoắng tâu: “Lão nô đáng chết, lão nô đáng chết.”

Mấy lời này ta nghe ra không có mấy phần chân thật.

Hoàng hậu cười nói: “Muội muội nói đúng, thưởng mai chú trọng ý tình, hoa mai vốn nở trong giá rét, hôm nay lại lấy bếp lửa sưởi ấm, khó tránh mất đi cái thú vị. Hôm nay thần thiếp ăn vận cũng mỏng manh, chi bằng hôm khác mọi người chuẩn bị đâu ra đấy, rồi cùng đến thưởng mai? Dù sao mai cũng sinh trưởng ở đây, đâu thể chạy ra nơi khác được?”

Hạ Hầu Thần vừa cười vừa dò ý tứ Hoàng hậu, ánh mắt lóe lên vẻ đồng tình: “Bộ y phục này, chỉ nên để riêng trẫm ngắm mà thôi… Nhưng Hậu và Ninh Chiêu Hoa tình như tỷ muội, có lẽ nàng ấy cũng không để ý gì đâu.”

Hoàng hậu mỉm cười liếc ta một cái, nói: “Ninh muội muội là người linh hoạt biết tiến thoái, sao có thể giống như mấy mụ đàn bà lắm điều bàn tán gièm pha y phục này của thần thiếp?”

Ta thầm thở phào một tiếng, Hoàng hậu xem ra đã hiểu nỗi khổ tâm của ta, biết ta vốn dĩ không muốn tranh sủng, không có dã tâm độc chiếm Hạ Hầu Thần như Sư Viên Viên.

Hạ Hầu Thần quay sang ta, đôi con ngươi đen láy sáng lấp lánh như màn đêm điểm tinh tú, miệng khẽ mỉm cười không ra tiếng: “Ái phi nói có lý, thưởng mai phải vào giá lạnh, nhưng bệnh ở chân nàng chưa khỏi, cái thú này chẳng cách nào vui được. Ta hứa ở bên ái phi đêm nay, đành lấy cách khác bù đắp vậy.”

Hắn gọi liền mấy tiếng ai phi khiến ta bỗng lạnh toát cả người, bệnh phong thấp dưới chân dường như tái phát, âm ỉ đau nhức.

Chẳng cần nhìn, cũng đủ biết nụ cười của Hoàng hậu lúc này cứng đơ.

Ta cúi đầu lĩnh chỉ, cố với theo một câu: “Hoàng thượng, thần thiếp nào dám đòi Hoàng thượng bù đắp, Hoàng thượng ngày lo trăm công ngàn việc, còn tâm tư đâu nhớ chút chuyện vặt vãnh của thần thiếp.”

Mấy ngày nay Hạ Hầu Thần có vẻ rất vui, lần này ta làm hắn cụt hứng, cũng không thấy hắn mảy may bực bội, hắn hào hứng quay sang Hoàng hậu nói: “Đêm đã khuya rồi, Hoàng hậu nên sớm hồi cung nghỉ ngơi đi…”

Hoàng hậu vội lên tiếng, trong giọng nói mang vài phần hy vọng: “Vậy còn Hoàng thượng…”

Lòng ta sốt ruột không chịu được, cô cứ mời thẳng hắn về cung Chiêu Thuần uống trà ăn điểm tâm đi, Hạ Hầu Thần chẳng qua chỉ đang đùa vui, nhằm giữ triều cục ổn định, hắn sẽ không từ chối đâu, sao cô cứ nói một nửa rồi bỏ lửng như thế?

Hạ Hầu Thần đáp: “Trẫm còn một ít tấu chương cần phải về điện Triêu Dương xem nốt, Hoàng hậu hay khó ngủ, sợ mang đến cung Chiêu Thuần xem sẽ gây phiền cho nàng. Ninh ái phi thì cứ đặt mình xuống là ngủ ngay, đêm nay trẫm về Lan Nhược hiên nghỉ cũng được.”

Ta rủa thầm trong bụng, nàng ta khó ngủ, còn ta ngủ không nổi đây, ngài lấy bằng cớ đâu mà nói ta đặt mình xuống là ngủ vậy? Ngoài mặt ta nở nụ cười hàm ơn, xem lẫn chút hối lỗi và lo sợ. Ngày hôm nay sao mà mệt nhọc thế không biết…

Hạ Hầu Thần đối với Hoàng hậu rất mực săn sóc quan tâm, bước tới khép hai vạt áo choàng lông hồ ly trắng cho kín, khẽ giọng sai cung nhân hầu hạ cẩn thận, lại cho người chuẩn bị một cái kiệu nhỏ hai người khiêng bốn bên có mành che, chờ cho Hoàng hậu lên kiệu đi xa, mới quay người đi khỏi Ngự Hoa viên.

Thế là bao nhiêu cố gắng ngày hôm nay của ta xuống sông xuống biển cả. Khó khăn lắm mới được Hoàng hậu lượng thứ, Hạ Hầu Thần nhúng tay vào một cái, mọi sự lại rối tinh. Lần này nếu Hoàng hậu không sinh lòng ngờ vực, thì đến ta cũng cảm thấy không tin nổi.

Càng kỳ quặc ở chỗ, Hạ Hầu Thần nói phải đến điện Triêu Dương phê duyệt tấu chương, nhưng kỳ thực chẳng đi đâu cả, hắn dẫn theo ta và đám tùy tùng cứ thế về thẳng Lan Nhược hiên. Chuyện này sớm mai thế nào cũng truyền đến tai Hoàng hậu, vậy là mối quan hệ giữa ta và nàng ta hoàn toàn hỏng bét.

Thật không ngờ ta rắp tâm bày bố, hao phí không biết bao nhiêu tâm huyết, dốc hết toàn lực duy trì mối quan hệ này, vậy mà Hạ Hầu Thần chỉ khẽ phẩy tay một cái, tình thế đã đảo ngược, không cách nào cứu vãn. Hắn đích thực biến lời nói trở thành sự thật: Những thứ ta muốn, hắn không cho, thì ta vĩnh viễn không bao giờ có được.
 

Hoa Tử

Sưu tầm
Tham gia
24/9/19
Bài viết
10,570
Điểm cảm xúc
1,484
Điểm
113
Chương 11.2:
Trong bụng ta giận điên lên, ngoài mặt vẫn cứ như thường, lại càng hầu hạ chu đáo bội phần, nụ cười càng thêm xinh đẹp.

Hắn cho người đến Lan Nhược hiên bày sẵn một vài thức nhắm, sai Ty Thiện Phòng pha chế rượu ngọt đặc biệt để cùng ta ngự ẩm, lại hạ lệnh cho tất cả cung nhân lui ra, muốn ta đích thân hầu hạ. Cho dù trong lòng có bất mãn đến đâu, ta vẫn hầu hạ hắn đâu ra đó, tự mình nâng bình rót rượu, cầm đũa bạc ăn thử một miếng, mới gắp điểm tâm vào đĩa của hắn.

Trên bàn có bốn món điểm tâm, món nào món nấy đều do Ty Thiện Phòng tốn công sức sáng chế ra, vẻ ngoài bắt mắt, đưa lên miệng nếm thử, đầu lưỡi như muốn tan chảy. Hắn có vẻ tâm đắc, ăn mỗi món một chút, khen: “Ái phi không hổ danh từng giữ chức Thượng Cung, phàm những thứ trong cung đều hiểu biết sâu sắc thấu triệt, đến món ăn ở chỗ nàng cũng ngon hơn nơi khác.”

Ta cười nói: “Món ăn chổ thần thiếp thực ra cũng như các nơi khác, nhưng hôm nay tâm trạng Hoàng thượng thoải mái, nên cảm thấy khác đó thôi.”

Hắn bật cười ha hả: “Không sai, trẫm quên bẵng đi mất, ái phi không những đôi tay rất khéo, mà cái miệng cũng rất dẻo.”

Ta vội tâu: “Tất cả mọi thứ thần thiếp có đều là của Hoàng thượng, cả con người thần thiếp cũng thuộc về Hoàng thượng, thần thiếp không đáng nhận lời khen này…”

Nói như vậy là để tỏ lòng thần phục. Ta thực tâm muốn biết rốt cuộc hắn cần gì ở mình. Ta chỉ cầu hắn cho mình một chốn dung thân nhỏ bé ở chốn cung đình nhiễu nhương này, đừng tiếp tục trêu đùa, đừng tuyệt mọi đường sống của ta như vậy!

Ta điều hòa lại hơi thở của mình, lặng lẽ quan sát vẻ mặt Hạ Hầu Thần, hy vọng nhìn thấy chút lượng thứ và cảm thông nơi hắn, nhưng chỉ trông thấy long nhan đanh lại, lạnh lùng lạnh nhạt. Hắn ung dung dùng đũa bạc gắp một miếng điểm tâm đưa lên miệng, cẩn trọng nhai từng miếng nhỏ, chậm rãi nhấm nháp hương vị, hồi lâu mới nói: “Nói hay lắm. Tất cả mọi thứ của ái phi đều thuộc về trẫm, nhưng trái tim của ái phi trẫm lại không có được, chỉ chiếm được xác thịt bề ngoài thì có nghĩa lý gì?”

Ta nghe xong, tim như muốn vọt ra ngoài, vội trượt khỏi ghế quỳ xuống đất phân trần: “Hoàng thượng, trái tim thần thiếp luôn hướng về Hoàng thượng, nếu người không tin, thần thiếp xin thề độc…”

Hạ Hầu Thần đập đôi đũa bạc xuống bàn đánh “cạch” một tiếng, lạnh lùng nói: “Ngươi coi trẫm như kẻ mù, muốn dối gạt thế nào cũng được sao? Ngươi diễn kịch trước mặt trẫm, ngươi tưởng trẫm không biết ư?”

Ta rốt rít thưa: “Hoàng thượng, oan cho thần thiếp quá, thần thiếp nào dám dối gạt Hoàng thượng!”

Hạ Hầu Thần không thèm nhìn, coi như chẳng có ta ở đó, tiếp tục nhấc đôi đũa trên bàn gắp điểm tâm cho vào miệng, nuốt xong mới tiếp: “Ái phi, trẫm thích nàng, nàng nên vui vẻ đón nhận ân điển của trẫm, đừng giở trò vờ vịt nữa. Mau đứng dậy đi, đừng quỳ mãi ở đó, mặt đất lạnh lẽo, đầu gối của nàng không chịu nổi đâu.”

Nghe hắn nói vậy, cả người ta không kìm được run lên bần bật. Những lời nói mật ngọt ấm áp kia chẳng qua là vỏ bọc của một sự thật lạnh lùng tàn khốc nhất. Bất giác ta hiểu ra, kể từ ngày liên thủ với Thái hậu làm cuộc đảo chính, ta đã coi thường vị Hoàng đế trước mặt. Ta chọn sai chủ, cuối cùng tự đẩy mình xuống vũng bùn, khó khăn lắm mới chạm tay vào khúc gỗ mà neo thân, hắn chỉ cần búng tay một cái, khúc gỗ kia liền trở thành vũ khí lợi hại quay ngược đầu định thôn tính ta.

Ngay từ ngày ấy nếu ta suy xét kỹ thời cục, chọn phò tá cho Hạ Hầu Thần đang có vẻ núng thế, vậy thì câu chuyện sẽ đi theo một hướng hoàn toàn khác. Nhưng hồi đó sao ta có thể chọn hắn, sao có thể? Hắn khiến cả nhà họ Ninh suy bại, khiến phụ thân ta chịu chém đầu, ta sao có thể chọn hắn? Nhiều khi ta chẳng thể làm một kẻ lạnh lùng lý tính được, còn nếu dùng lý trí mà phân tích, bình tĩnh cân đong thiệt hơn thì sao?

Nay chuyện đã đến nước này, ta không thể không gác ân oán trong quá khứ sang một bên. Ta bị hắn bức tới tuyệt lộ, nếu không thật lòng quy phục, trong cung sẽ chẳng còn nơi nào để sinh tồn được nữa.

Nhưng hắn đòi ta thật lòng, ta phải làm sao dâng cho hắn cái “thật lòng” ấy đây?

Dù còn làm ưng khuyển cho Thái hậu, hay phải bấu víu vào thanh gỗ trôi sông Hoàng hậu, cái gọi là “thật lòng” của ta chẳng qua đều nhờ diễn xuất. Ở lâu trong cung, ta diễn nhiều thành thói quen, như một thứ phản xạ tự nhiên mà ta không thể nào khống chế. Tự ta không biết rốt cuộc cái gọi là “thật lòng” có còn trong mình hay không.

Ta từ từ đứng dậy, đầu gối quả nhiên bắt đầu nhưng nhức. Ta không biết nên trả lời thế nào, nhưng một khi hắn còn mong muốn, tất sẽ có ngày ta hiểu rõ tâm can hắn. Ta không tin với kinh nghiệm bao năm ở Thượng Cung cục mà không thể nắm được suy nghĩ của một người.

Nghĩ vậy, thấy Hạ Hầu Thần định gắp một món điểm tâm khác lên, ta vội nói: “Hoàng thượng, đĩa điểm tâm ấy thần thiếp chưa nếm qua, để thần thiếp thử trước đã ạ.”

Nói xong, ta cẩn trọng quan sát sắc mặt hắn. Gương mặt Hạ Hầu Thần vẫn trơ ra như gỗ đá, nói: “Sao phải lằng nhằng thế làm gì?”

Nói xong đưa đũa xuống đĩa.

Hình như ta lại làm sai mất rồi?

Ta thật tình chẳng biết làm sao, phận là phi tử, dĩ nhiên phải lấy quân vương làm đầu, quan tâm hắn là chuyện đúng với luân thường đạo lý, nếu không, thật không biết làm sao “bày tỏ sự thật lòng”. Hạ Hầu Thần không mở miệng, ta không dám tự tiện ngồi xuống, cứ ngơ ngác đứng đó, trông hắn ăn ngồm ngoàm hết miếng này đến miếng khác.

Đồ ăn có ngon hơn mà bị ăn theo cách này không biết mùi vị còn ra gì?

Lò sưởi vẫn cháy đượm, trong phòng ấm áp như mùa xuân. Lan Nhược hiên vốn là nơi trồng hoa lan, dĩ nhiên không được bố trí lò sưởi, Khổng Văn Trân tay chân lanh lẹ, vừa chớm đông đã sai người làm cho ta lò sưởi kiểu dáng giống y như ở cung Chiêu Thuần, khí ẩm từ dưới đất bốc lên, không ngửi ra một chút mùi than nào. Phòng ốc ấm áp đến độ các loài hoa tưởng nhầm xuân sang mà nở, nhưng lúc này một mình ở bên Hạ Hầu Thần, ta lại thấy cái lạnh không rõ từ đâu khiến cả người run rẩy.

Người trong hoàng tộc từ nhỏ được giáo dưỡng nghiêm ngặt các lễ nghi phép tắc, đáng ra khi ăn không được phát ra tiếng. Chẳng hiểu sao tai ta lại thính đến vậy, những âm thanh nhóp nhép khe khẽ trong miệng hắn trở nên đặc biệt khó chịu.

Từ nhỏ đến lớn, ta không thể nhớ rõ đã chinh phục được biết bao người, vậy mà lúc này đối diện với Hạ Hầu Thần, lại chẳng biết làm sao để lấy lòng hắn. Thế này cũng không được, thế kia cũng không xong. Có điều ta bắt buộc phải thu phục con người này, thậm chí khiến hắn khoan khoái thỏa mãn nhất có thể. Bất giác ta cảm thấy đây là câu đố khó nhất trong những câu đố mình gặp phải suốt hai mươi mấy năm cuộc đời. Khi gặp ải khó khăn, dù có phải sứt đầu mẻ trán ta cũng vượt qua bằng được, lúc còn làm nô tỳ ở Thượng Cung cục là như vậy, khi đối mặt với Thái hậu và Hoàng hậu cũng là như vậy. Trong các quá trình ấy có biết bao gian nan trở ngại, nhưng càng khó ta càng hăng, phải đạt được mục đích mới thôi. Trên thực tế, chưa có thứ gì ta muốn mà không đạt được. Vậy mà lúc này ở cạnh Hạ Hầu Thần, ta chỉ biết trân trân nhìn vào đỉnh đầu hắn mà ngẩn người, đầu óc trống rỗng.

Điểm tâm tinh xảo trên bàn vốn để nhấm nháp thưởng thức nên không nhiều. Hắn ăn nhanh như điện, loáng cái là sạch bách, ta bỗng nghĩ: Ăn xong điểm tâm y sẽ làm gì nhỉ? Còn ta, ta phải làm gì?

Suy xét một hồi, đành miễn cưỡng nặn ra một câu: “Hoàng thượng. người no chưa ạ? Thần thiếp sai kẻ dưới rót một chén trà để người uống cho tiêu thực nhé?”

Hạ Hầu Thần quay lại liếc ta một cái, ta hối hận muốn nuốt cả lưỡi cho rồi. Ta bình sinh không có gan giễu cợt long nhan, chẳng hiểu sao lại thốt lên một câu như thế. Thường ngày ta vẫn thầm mắng Tố Khiết, Ninh Tích Văn là tiểu a đầu vụng dại ruột để ngoài da, nhưng lúc này bản thân nào khác gì?

Hôm nay hắn chơi bài ngửa, chính là giúp ta nhận rõ phương hướng của bản thân: Chỉ có ở bên hắn, dựa dẫm vào hắn, mới có thể tìm ra đường sống trong cung. Ta cũng suy nghĩ rõ ràng cả, tình thế như hiện tại cũng chỉ còn cách phục tùng hắn. Kẻ thức thời mới là trang tuấn kiệt, hắn là chủ nhân tối cao ở chốn hậu cung, ta không theo hắn thì theo ai? Ý tứ của hắn ta đã hiểu, nhưng không biết bản thân cần biểu hiện những gì?

Vừa nhác thấy hắn lạnh lùng quét mắt sang, ta không kịp đắn đo, buột miệng nói ngay: “Hoàng thượng không muốn uống trà, vậy thần thiếp hầu hạ người ra hành lang tản bộ cho tiêu thực được không ạ?”

Dĩ nhiên câu nói này chỉ đổi lại một ánh nhìn ghẻ lạnh nữa. Ta hối hận không gì kể xiết, thật là càng nói càng sai, chi bằng đừng nói thì hơn!

Trong phòng nhất thời im lặng như tờ, kỳ thực ta không quen một mình đối diện hắn, mỗi khi cùng chúng phi tử tề tựu gặp mặt luôn có kẻ khác vô tình cố ý chen lời, như thế ngược lại giúp ta thoải mái hơn đôi chút. Mấy lần trước ở bên nhau, hắn luôn vào thẳng việc chính, tuy có đau đớn khó chịu, nhưng thời gian trôi qua lại nhanh. Tình thế ngày hôm nay, khiến ta bó tay thất sách.

Hạ Hầu Thần đứng bật dậy, tới gần, ta cố nhịn không lùi bước. Một ngón tay hắn khẽ nâng cằm ta lên: “Nếu ái phi muốn lấy lòng trẫm, thì phải học nhiều thứ lắm. Đêm nay bắt đầu học từ việc cởi bỏ xiêm y đi đã!”

Ta biết trong lòng hắn đang nghĩ gì, trước ta phò sai chủ, tỏ lòng trung thành sai đối tượng, bây giờ muốn làm lại, thì mọi thứ phải xây dựng từ đầu. Xem dáng vẻ hắn bây giờ, nếu không cho ta một trận bẽ bàng nhục nhã tận cùng, thì còn lâu mới chịu bỏ qua.

Ta trộm nghĩ, liệu đây có phải biểu hiện cho thấy Thiên tử hứng thú với mình? Không rõ vì sao, lòng ta có hơi thả lỏng. Nếu hắn thực sự có hứng thú, thì cho dù cái hứng ấy là xấu là tốt, cũng coi như ta có một chút giá trị, còn hơn bị coi là không khí, là vô hình. Chỉ cần hầu hạ hắn cho tốt, thế nào chẳng có ngày ta được yên ổn mà sống trong cung. Về cái chết của phụ thân, chỉ đành trách phụ thân chọn sai chủ, thắng làm vua thua làm giặc, đó là quy luật tự cổ chí kim. Vì sinh tồn của bản thân, ta bắt buộc phải buông bỏ mối hận này.

Ta nhớ đến Sư Viên Viên, nếu gặp phải tình huống này cô ta sẽ cư xử ra sao? Chắc chắn trước tiên giễu ra một nụ cười kiều diễm dịu dàng nhất có thể, vừa làm nũng vừa tươi cười, tỏ ra khẩn khiết chân thành, ngàn vạn lần thuần phục Thánh quân. Ta dĩ nhiên không thể bắt chước nổi, bèn tỏ ra ngây thơ như cô bé con lần đầu nếm trải mùi đời, hơi cúi đầu xuống nói: “Vậy xin để thần thiếp hầu hạ Hoàng thượng thay áo.”

Mấy ngón tay giá lạnh đột nhiên siết lại: “Xem ra ái phi không tài nào sửa được cái tật vờ vịt.”

Ngón tay hắn lạnh lẽo, đặt dưới cằm nghe từng tia ớn lạnh truyền qua da thịt, dù khó chịu nhưng ta nào dám vùng ra. Ngón tay ấy lần theo gáy trườn xuống dưới, đến cổ áo, nó cứ như chơi trò vờn bắt ve vuốt xung quanh. Trong giây phút đó, ta thực sự cảm thấy hắn định vặn gẫy cổ mình. Ngoài mặt tuy cười rạng rỡ, nhưng cơ thể không kìm được, co rúm lại. Hắn thấy vậy nói: “Đây mới là phản ứng thật phải không?”

Ngón tay kia dừng lại trước cổ áo. Ta căng thẳng đến độ toàn thân phát run, chỉ nghe “xoẹt”, một vật lạnh ngắt đập mạnh vào da thịt lõa lồ trước ngực. Phòng ốc tuy ấm áp, nhưng vật nọ lạnh đến tê tái. Y phục trên người ta bị xé toạc, chỉ còn độc một mảnh vải vắt ngang ngực. Ta không cách nào duy trì nụ cười được nữa, hai tay ôm choàng lấy thân người, gắng gượng níu giữ xiêm áo đang rơi rụng xuống đất, muốn che giấu cơ thể trần trụi của mình, nhưng chiếc áo vốn dĩ dày dặn chỉ trong thoáng chốc đã lìa làm hai mảnh. Phải rồi, hắn muốn ta cảm thấy nhục nhã ê chề từ trong ra ngoài. Khi mới nhập cung cũng vậy, ta bị phạt quỳ dưới mặt đất phủ đầy tuyết mà giặt y phục, trên đầu cả một trời hoa tuyết bay lượn giữa từng không, bốn bề mịt mùng, trong vòng mười mét không thể nhìn ra bóng người. Bông tuyết rơi xuống chậu giặt thoáng cái tan rã, nghe loáng thoáng như có kẻ kề bên tai mà cười cợt chế giễu. Nhìn lên, chỉ thấy bức tường đỏ cao vời vợi, rộng mênh mông, còn bản thân quá bé mọn, cảm giác tuyệt vọng trong lòng lan ra vô bờ bến.

Ta từng thề độc, sẽ không bao giờ để bản thân rơi vào cái cảm giác tồi tệ ấy nữa. Nhưng nó vẫn tới, như hồng thủy tràn qua ruộng vườn, không tài nào ngăn được. Ta bất giác quỳ xuống, mắt trân trân nhìn y phục từng mảnh từng mảnh rớt xuống mặt sàn gỗ cứng lạnh, nhìn lên đôi hài màu vàng tươi, rạp người lạy: “Hoàng thượng, thần thiếp đáng chết, xin hãy để thần thiếp hầu hạ người thay áo…”

Ta không nhận ra trong lời nói của mình xen cả tiếng nấc nghẹn, càng chẳng để ý giữ gìn dáng vẻ mực thước thêm được nữa.

Hắn quỳ xuống, nâng cánh tay ta lên. Hai bàn tay lạnh lần hồi trên da thịt, khiến ta càng run bắn cả người. Hắn nói: “Cứ như thế này, đừng diễn kịch trước mặt trẫm nữa…”

Hắn đứng thẳng dậy, bình thản tiếp: “Đứng lên, trẫm đang đợi ngươi thay áo cho đấy.”

Ta lẩy bẩy bò dậy, ngón tay run run, phải cố gắng lắm mới không để lệ trào mi, nhưng luống cuống chẳng rõ nên bắt đầu “nghi thức thay áo” từ đâu.

Hắn đột nhiên nắm lấy tay ta, đặt chúng vào vạt trước của mình, giục: “Mau lên, trẫm không dư dả thời gian mà đợi ngươi đâu!”

Ta không dám ngẩng đầu lên, chỉ máy móc nhìn vào vờm ngực hắn, lần lần cởi chiếc đai lưng, Hạ Hầu Thần hết tỏ ra sốt ruột ngán ngẩm, ta đâm tự ti, lòng nghĩ hắn đã không muốn được lấy lòng, thì ta cố gắng phỏng có ích gì?

Y phục trên người Hoàng đế đại đa số đều đến từ Thượng cung cục, dĩ nhiên ta nắm được kết cấu lớp lang, giờ trong lòng chẳng muốn mơn trớn nịnh nọt, bèn coi hắn như cái mắc áo, tay chân mạnh bạo lanh lẹ hẳn, vừa cởi Hoàng bào, vừa đưa xiêm áo lót cho hắn mặc.

Hạ Hầu Thần ngược lại không thốt lời mỉa mai nữa, chỉ im lặng phối hợp.

Ta thầm nghĩ, thế mới ngoan chứ!

Cuối cùng cũng thay xong áo quần, ta khẽ nói: “Hoàng thượng, đêm đã khuya rồi, nên đi nghỉ thôi?”

Hắn bỗng ôm chầm lấy ta, bước mau tới bên giường, ném ta lên đó, tự mình thuận thế nằm đè lên. Bên tai ta nghe rõ tiếng thở của hắn, biết trong đó ngầm mang ý giận, khẽ ngước nhìn, chỉ thấy con ngươi lạnh lùng, gương mặt trơ khấc như tượng không một chút tình cảm, lòng ta đâm sợ, mình lại chọc vào tổ kiến lửa nào rồi?

Hay ta đã nhầm, kẻ này vẫn phải ngon ngọt ve vuốt mới xong? Nhưng dịu dàng thì hắn chê giả tạo, không dịu dàng thì nộ khí bừng bừng, rốt cuộc hắn muốn thế nào?

Mảnh vải cuối cùng trên người ta bị lột ra không thương tiếc. Khi thâm nhập, hắn chẳng thèm nhẹ nhàng chút nào, cơn đau kia lại trào lên mạnh mẽ, nước mắt cố giữ trên khóe mi cuối cùng phải rớt xuống. Rốt cuộc hắn muốn sao đây?

Hai lần ta khóc trước mặt hắn, chẳng có lần nào xuất phát từ ý muốn, bây giờ cũng vậy, giọt lệ này hoàn toàn kết tủa từ nhục nhã ê chề.

Hắn chẳng nói chẳng rằng, hành sự xong liền đắp chăn ngủ ngay. Rất lâu, ta mới chầm chậm xoay người qua, lẳng lặng khóc một mình, mãi mới áp chế được nỗi tuyệt vọng trong lòng. Nghe thấy tiếng thở khe khẽ bên cạnh, chợt nghĩ, sao hắn không đi, sao phải nằm ngủ chung giường với ta làm gì?

Bản năng mách bảo ta rằng, dường như đích thực hắn thích ta vì lẽ gì đó. Câu hỏi này cứ quẩn quanh trong đầu khiến ta lần nữa lại thắp lên một tia hy vọng, giống như năm nọ khi tuyết lớn ngừng thổi, sau cơn mưa trời lại sáng, ta được miễn cho hình phạt, điều vào Thượng Cung cục.

Hắn không thích ta làm bộ làm tịch, đó là vì ta làm chưa tới, chưa đủ chân thực, khiến hắn nhận ra giả tạo. Chỉ cần ta tiếp tục cố gắng, rồi sẽ có lúc giả hóa thành thật, hắn sẽ nhận ra điểm tốt, ngược lại không ngon ngọt dỗ dành, hắn sẽ nổi giận đùng đùng vì trượt xa khỏi kỳ vọng.

Sau một hồi phân tích thiệt hơn, ta thở ra một hơi, mơ hồ thiếp đi ngay trước khi bừng sáng.

Khổ nỗi có người nằm bên, ta không tài nào ngủ được sâu giấc. Mới mơ màng một chút, trời vừa rạng, đã nghe tiếng Khang Đại Vi ngoài cửa gọi: “Hoàng thượng, trời sáng rồi, lão nô cho người hầu hạ Hoàng thượng thay áo nhé?”

Ta rủa thầm một tiếng, bỗng nghe bên cạnh có động tĩnh, liền quay sang nhìn, phát hiện Hạ Hầu Thần không biết lúc nào đã nằm quay về phía ta, đôi mắt mở lớn nhuốm vẻ mơ màng biếng nhác, tuyệt không còn chút nào hờn giận, mấy lọn tóc mỏng xõa trên mặt càng thêm phần nên thơ.

Hắn chầm chậm cất tiếng: “Không cần nữa, Ninh Chiêu Hoa trước đây là Thượng Cung, rất biết cách hầu hạ, đề nàng ấy làm là được rồi.”

Xem ra hắn đâm nghiện ta mất rồi? Đêm qua nổi giận như thế vẫn chưa đủ hay sao?

Nhớ lại bản thân vừa quyết chí phải diễn cho như thật, ta không cố gắng nở nụ cười nữa, chỉ nói: “Hoàng thượng, vậy là thần thiếp sẽ hầu người chải đầu rửa mặt ư?”

Việc rửa mặt chải đầu buổi sáng so với khi chuẩn bị đi ngủ phức tạp rườm rà hơn hẳn.

Dĩ nhiên, ta biết mình phải làm những gì. Khi Thượng Quan Thái hậu còn là Hoàng hậu, có một thời gian ngủ không được ngon giấc, ta phải đích thân mang gối thuốc hoa bia đến biếu. Thượng Quan Hoàng hậu vô cùng thích thú, hạ lệnh cho ở lại cung Trường Tín để thuận tiện quan sát bệnh tình. Buổi sớm hôm đó, chính tay ta hầu hạ Hoàng hậu rửa mặt chải đầu, bà vô cùng ngạc nhiên thích thú, luôn miệng khen ta khéo léo hơn hẳn cung nữ khác. Hạ Hầu Thần dù thân nam tử, nhưng cũng là người, hầu hạ hắn rửa mặt chải đầu chẳng qua là vậy.

Hắn không cho đám cung nhân vào, nên ta phải tự mình ra ngoài rót nước nóng từ ấm ra chậu gỗ, vừa rót vừa nghĩ, khi mình rửa mặt thường sai đám nô tỳ bỏ thêm một vài cánh hoa vào, hắn là nam nhi, có lẽ không mấy thích những thứ như vậy, nghĩ thế bèn thả luôn khăn mặt vào chậu, vắt cho bớt nước, thử lại độ ấm một chút, đang định quay vào, đã thấy Hạ Hầu Thần vốn dĩ ngồi trên ghế, chẳng biết tự bao giờ đứng sau lưng mình. Thân hình hắn cao ráo, ta phải giơ cánh tay hết cỡ mới đưa khăn lên đến mặt, cử động không khỏi khó khăn, bèn hắng giọng đề nghị: “Hoàng thượng, người cứ ngồi xuống, để thần thiếp hầu hạ cho tiện.”

Hạ Hầu Thần chẳng thèm để ý, lại hỏi ngược: “Trông ái phi có vẻ thành thục lắm, chắc đã quen làm việc này từ trước?”

Riêng mặt này trong lòng ta khá tự tin, bèn đáp: “Trước đây, có một thởi gian Thái hậu ngủ không ngon giấc, thần thiếp đích thân đến chăm nom suốt đêm, tiện cho Thượng Cung cục chế tạo gối thuốc trị liệu. Thần thiếp từng hầu hạ Thái hậu chải tóc rửa mặt, người không ngớt lời khen thần thiếp tay chân khéo léo!”

Hạ Hầu Thần lạnh nhạt nói: “Rồi đến lúc cần, cũng chính ngươi dùng bí mật của bà ta để mưu lợi!”

Ta sững người, chẳng biết vừa động phải chỗ nào khó chịu trên long thể, khiến hắn bắt đầu châm chọc khiêu khích như thế, trong lòng thầm nghĩ, kẻ này so với Thái hậu khó hầu hạ gấp bội, lại nhớ từng bị hắn chê giả tạo, bèn cười nhạt, nói: “Hoàng thượng, đó đều là chuyện quá khứ cả rồi…”

Giọng hắn càng lạnh lùng: “Hôm nay trong phòng không có người ngoài, ngươi đâu cần giả vờ như thế.”

Ta chưa bao giờ trải nghiệm cái cảm giác nụ cười sượng cứng trên mặt, hôm nay mới là lần đầu tiên. Nếu trước mặt bây giờ có gương soi, chắc hẳn gương mặt trong ấy so với khi khóc chẳng dễ coi hơn bao nhiêu.

Ta chỉ biết cúi đầu, đắn đo không rõ có nên làm như các cung nhân, quỳ xuống xin giáng tội? Nhưng ta thực lòng không biết mình sai ở chỗ nào? Ta đã nỗ lực lắm rồi, tại sao không thể khiến hắn vừa lòng?

Chiếc khăn mặt trong tay dần lạnh đi, trong phòng tuy ấm áp, nhưng bàn tay ta vẫn ngầm cảm nhận được cái lạnh ấy. Chẳng biết ta nên giặt lại khăn, hay nên xin Hoàng thượng ngồi xuống trước?

Hạ Hầu Thần tự quay vào ghế ngồi, nói: “Gọi Khang Đại Vi vào đây, không cần ngươi nữa.”

Ta thầm thở hắt ra, không dám thể hiện vẻ hoan hỉ ra mặt, chỉ cúi đầu ủ rũ, len lén thăm dò sắc mặt Hạ Hầu Thần, ngược lại hắn chẳng thèm nhìn lấy một cái, xem như không có ta ở đó. Ta đành gọi Khang Đại Vi vào, lòng thầm nghĩ, xem ra để làm con người đó hài lòng, con đường này còn rất dài.

Khang Đại Vi mang theo hai tên tiểu thái giám bước vào, ta như trút được gánh nặng. Suốt ba ngày nay, mỗi lần Hạ Hầu Thần rửa mặt, ta cũng phải thức dậy gọi Tố Khiết chuẩn bị nước để chỉnh trang đầu tóc xiêm áo cùng. Ta cẩn thận để ý trước sau, vậy mà hầu hạ vẫn chưa được chu đáo. Đã quyết tâm dựa dẫm vào Hạ Hầu Thần, quyết lấy lòng hắn, nên lúc này thấy Khang Đại Vi chỉ huy hai tên tiểu thái giám hầu hạ, ta bèn đứng một bên thầm ghi nhớ kỹ càng từng bước một. Hạ Hầu Thần không ưa dùng cung nữ hầu hạ mình rửa mặt sáng sớm, nên lúc nào cũng mang theo thái giám chuyên làm các việc này. Một chiếc hộp tròn sơn son chạm trỗ tinh xảo được bưng vào, khi mở ra, thấy bên trong đặt gương đồng, ống nhổ, lược ngà voi… tên tiểu thái giám đứng một bên chải đầu, lại khẽ nâng mặt rồng lên lau nhẹ, có tên khác mang ngự bào phục sức đến giúp hắn mặc vào. Ta đứng một bên quan sát, nghĩ thầm, thế này so với việc rửa mặt chải đầu hằng sáng của ta không mấy khác biệt, chẳng qua những vật dụng ta dùng có phức tạp hơn một chút, việc vẽ mày thoa phấn thì hẳn không cần làm rồi.

Đang nhìn đến thất thần, chợt nghe giọng Hạ Hầu Thần sốt ruột cất lên: “Trẫm không cần đến nữa, ngươi còn đứng ngây ra đó làm gì? Không mau đi rửa mặt chải đầu đi, trông đầu bù tóc rối thật khó coi.”

Ta đành nhún người hành lễ, rồi ra một góc gọi Tố Khiết vào.

Giọng điệu ác nghiệt của hắn ta nghe đã thành quen, bèn bình thản soi mình vào gương. Nữ nhân trong gương sắc mặt hồng nhuận, tóc mai phơ phất, dù không kẻ mày vẽ mặt cũng thêm mấy phần lơi lả tự nhiên, đâu đến nổi “đầu bù tóc rối” như hắn nói. Ta thầm nghĩ, mỗi lần đối diện cùng ta, thẫm mỹ của Hạ Hầu Thần cũng thay đổi chăng?

Tố Khiết vừa giúp ta chải đầu, vừa nói: “Nương nương, Hoàng thượng thích hoa mai, nên sớm nay nô tỳ đã hái một cành mang về, hay là cài lên tóc nương nương một nhánh?”

Bi hắn dùng lời hắt hủi liên hồi, lòng ta đã có chút nguội lạnh, bèn đáp: “Không cần đâu, ngươi cài đi.”

Tố Khiết hí hửng đáp dạ.

Nhìn từ trong gương ra, gương mặt Tố Khiết sạch sẽ gọn gàng, trong vẻ thuần khiết nhuốm một chút phong tình. Nó đối với ta nhất mực tôn kính, cho dù lòng vọng tưởng đến Hoàng thượng, nhưng vẫn để ý tâm tư của ta, không dám tự tung tự tác. Đáng tiếc thủ đoạn của nó dẫu thế nào cũng không hơn được Tố Hoàn, ta than thầm trong bụng, nếu Tố Khiết và Tố Hoàn hợp nhất, vừa được cái nhanh nhẹn giảo hoạt của Tố Hoàn, lại thêm dung mạo thuần khiết của Tố Khiết, ta “làm mối” cho nó cũng chẳng sao. Nhưng Hạ Hầu Thuần lúc này đã rất đa nghi, chẳng may sơ sẩy làm gì thất sách, nhất định sẽ rơi vào cảnh vạn kiếp bất phục, ta chẳng nên tự chuốc khổ vào mình.

Chợt nghĩ đến Hoàng hậu, cơn sầu lại dâng lên. Chuyến này ta và Hoàng hậu đích thị không còn cách nào hàn gắn được. Hạ Hầu Thần thực sự đã khiến mối quan hệ giữa hai bên rạn nứt, có lẽ ta chẳng nên lui tới cung Chiêu Thuần làm gì nữa. Vừa nghĩ đến nỗ lực bao lâu nay phút chốc hóa thành tro bụi, ta đâm chán nản chẵng muốn làm gì, mặc cho Tố Khiết sai hai đứa cung nga giúp bản thân trang điểm chỉnh tề.

Theo lệ, khi Hoàng thượng đi thiết buổi triều sớm, ta phải tiễn ra cửa. Hạ Hầu Thần lúc này đã chỉnh trang hoàn tất, đang ngồi trên bảo tọa uống trà do Khang Đại Vi dâng lên. Thấy ta bước vào, ánh mắt hắn liếc qua một cái, cười khỉnh nói: “Ái phi hôm nay trang điểm có vẻ khác lạ, nếu định đến chỗ Hoàng hậu, thì dường như không mấy phù hợp đâu!”

Ta sững người, vốn dĩ đâu nghĩ mình sẽ đến chỗ Hoàng hậu? Đoạn cúi nhìn người, mới phát hiện Tố Khiết chọn chiếc ào tằm tà bằng sa mỏng bảy sắc cầu vồng, áo lót trong màu vàng nhạt thêu mẫu đơn màu đỏ tươi, cả người cứ như cây đào mật yểu điệu vô cùng. Tự biết khả năng của mình còn hạn chế, chưa thể hầu hạ khiến hắn hài lòng thỏa mãn, không muốn nhiều lời phản biện, chỉ nói: “Hoàng thượng, hôm nay là ngày Thượng Cung cục rèn lư đốt trầm hương cho đám phi tần, Khổng Thượng Cung nói kiểu dáng vẫn chưa quyết định xong, muốn thần thiếp tới vẽ giúp một số mẫu. Thần thiếp nghĩ mấy ngày nay nhàn rỗi, nên đã đồng ý, đâu còn thời giờ để mà…”

Hắn cười nhạt: “Ái phi cũng bận tâm nhiều thứ quá, hay để trẫm nói Hoàng hậu nhường một phần việc cai quản hậu cung cho ái phi?”

Mối quan hệ giữa ta và Hoàng hậu đang lúc cam go, lời này nếu truyền ra ngoài, quả thực chẳng khác nào thêm dầu vào lửa, ta vội quỳ xuống tâu: “Hoàng thượng, thần thiếp tự biết năng lực có hạn, chưa từng dám si tâm vọng tưởng, thần thiếp sở dĩ dám đồng ý giúp Khổng Thượng Cung, chẳng qua vì lần trước kia từng có lúc gánh vác chức Thượng Cung…”

Hắn phẩy tay áo, chẳng thèm cho ta bình thân, đi một mạch ra cửa. Khang Đại Vi lom khom chạy theo sau, xa xa nghe giọng nói già nua của ông ta vọng lại: “Hoàng thượng, nương nương đang quỳ dưới đất ạ!”

Hạ Hầu Thần nói: “Cô ta thích quỳ thì cứ quỳ, quỳ chán sẽ tự biết đứng lên!”

Ta thầm nghĩ, câu này của hắn chẳng hóa bảo ta khi quân phạm thượng ư?

Ta nào dám đứng lên ngay, thấy bóng dáng hắn khuất sau ngã rẽ, mới bảo Tố Khiết dìu dậy. Sau đó lập tức sai người mang một chiếc áo dài nền nã giản dị thay vào, xong xuôi ngã ập ra ghế, mình mẩy rã rời, lòng trộm nghĩ, ba ngày này so ra còn mệt mỏi hơn mười mấy năm tiến cung về trước.

Ta cảm thấy có chút ánh sáng lóe lên, xem ra Hạ Hầu Thần thực có hứng thú với ta, đây là niềm hy vọng duy nhất khi mối quan hệ giữa ta và Hoàng hậu đang ở bờ vực thẳm, chỉ mong Hoàng hậu nể mặt Hạ Hầu Thần chưa làm khó ngay lúc này, nếu được như vậy, ta sẽ có thời gian sắp đặt mọi thứ. Trong lúc lơ đãng quét mắt ra xung quanh, ta vô tình nhìn thấy chiếc váy Bách Điểu treo sau mảnh châu, bất giác tinh thần lại hạ xuống. Sư Viên Viên chẳng phải từng nhận ân sủng đứng đầu hậu cung một thời đó sao? Nhưng nghĩ một lối khác, hồi đó Hoàng hậu có ta giúp sức mới thuận lợi khiến Sư Viên Viên thất sủng, nay bên cạnh Hoàng hậu đã không còn ai như thế nữa rồi!

Nghĩ thế, ta lại như được ánh nắng chiếu soi sau mây mù, Hạ Hầu Thần đã ngầm ám thị ta phải đặt hắn lên hàng đầu, nếu như bám được vào cây đại thụ này, chẳng mạnh mẽ hùng cường hơn hẳn Hoàng hậu ư? Dẫu sao hắn chính là nguồn gốc của mọi quyền lợi trong hậu cung. Nhưng cứ nhớ lại dáng vẻ nhăn nhó, hoặc cáu giận, hoặc mỉa mai của hắn, tim ta không kìm được trống dồn, phải làm sao để khiến hắn vui lòng đây?

Mấy canh giờ sau, Khổng Văn Trân mang theo vài mẫu thiết kế lò hương mới đến xin ta bình giá để lấy làm tham khảo, ta bèn tiện miệng gợi ý vài ba câu. Giờ đây Khổng Văn Trân đối với ta nhất mực cung kính, cứ vài ba ngày lại chạy đến Lan Nhược hiên một lần, nét mặt niềm nở vồn vã không cần phải nói.

Chẳng mấy chốc mà hết mùa đông, cái Tết vừa qua mùa xuân liền tới, chính là lúc côn trùng ruồi muỗi sinh sôi, lại thêm mùa xuân năm ngoái kinh thành bị ôn dịch hoành hành, Hạ Hầu Thần sớm đã hạ thánh chỉ, các bộ phải chuẩn bị kỹ lưỡng, không thể để ôn dịch tác oai tác quái. Thượng Cung cục đương nhiên phải theo cẩn tuân thánh ý, Ty Thiện Phòng đã sớm chuẩn bị hương trầm phòng bệnh dịch, trong hương cho thêm ngải thảo, bạc hà là các vị thuốc phòng bệnh, sát khuẩn; Ty Chế Phòng gia công một số lượng lớn chăn thêu gối hương, bốn góc nhồi thêm đàn hương, trầm hương, cam tùng, thạch xương bồ, lá ngải… hơn bảy mươi loại kỳ hoa dị thảo và vị thuốc quý phối hợp thành hương liệu, đem dâng đến các cung điện.

Lần này Khổng Văn Trân tới thăm tiện mang đến cho Lan Nhược hiên một bộ, ngầm bóng gió rằng, hương trầm chăn gối này quy cách chẳng khác gì bộ đưa đến chỗ Hoàng hậu, nghĩ đến tình thế trước mắt đang dầu sôi lửa bỏng, ta bèn nghiêm giọng khuyên răn cô ta không nên làm quá bổn phận của mình. Khổng Văn Trân nghe vậy cảm thấy lạ lùng, đành vâng dạ cho qua, ta bèn bảo cô ta đổi một bộ theo quy cách như các phi tần bình thường.

Khổng Văn Trân như bị giội một gáo nước lạnh, nhưng đành ngậm bò hòn làm ngọt, sai người mang chăn gối trầm hương về, trước khi ra đến cửa, giả vờ như đột nhiên nghĩ đến mà rằng: “Mấy đứa cung nhân mang than đến cung Tinh Huy về có bàn tán rằng, người sống trong ấy ho nặng, Hoàng thượng sai ngự y thăm mấy lần vẫn không thấy khởi sắc, e rằng sớm sẽ…”

Ta hơi lặng người, biết cô ta ám chỉ Thái hậu. Đã rất lâu rồi không có ai nhắc đến bà, trong cung là như vậy, vinh hoa phú quý một khi đã tận thì con người ta chỉ như cành liễu bên tường thành, rũ rượi trong góc chẳng được ai biết đến. Ta trầm ngâm một lát không nói gì, Khổng Văn Trân bèn tiếp: “Nghe nói bệnh tim đập nhanh của Thái hậu ngày một nặng, nô tỳ chiếu theo phương thuốc trước kia của nương nương vài lần đem canh thuốc dâng sang bên ấy, chẳng biết có công hiệu không?”

Nói xong, cô ta hành lễ rồi đi ra.

Ta trước nay chẳng bao giờ muốn làm anh hùng hiệp nghĩa, nhưng không rõ vì sao, câu hỏi của Hạ Hầu Thần ngày trước lại đột nhiên vang lên trong đầu: “Có đến thăm Thái hậu hay chưa?” Lúc nói câu này, đôi mắt hắn rõ ràng ánh lên một tia khinh miệt. Ta bất giác cất tiếng gọi với theo Khổng Văn Trân: “Nếu canh đã nấu xong, tối nay hãy để bản phi mang sang. Cục diện trở thành như hôm nay, bản phi cũng nên gánh lấy một chút trách nhiệm”

Khổng Văn Trân kinh ngạc quay lại nhìn ta một cái, không nói gì thêm.
 

Hoa Tử

Sưu tầm
Tham gia
24/9/19
Bài viết
10,570
Điểm cảm xúc
1,484
Điểm
113
Chương 12:
Cung Tinh Huy quả thật xa xôi diệu vợi, con đường lát đá xanh như dài bất tận, vài ngôi sao đơn chiếc le lói trên màn trời, càng khiến cả tòa cung điện như ngâm mình trong bóng tối, thê lương u uất.

Mấy lần trước đi thăm Thái hậu, ta đều giả làm cung nữ, riêng lần này phục sức như thường, ngồi một chiếc kiệu nhỏ, cho Tố Khiết đi theo bên cạnh.

Đêm nay ánh trăng sáng sủa, ta mơ hồ nhìn thấy cỏ dại um tùm mọc ra hai bên con đường lát đá dẫn vào cung Tinh Huy. Nếu là cung Trường Tín trước đây, sao có thể như thế? Xem ra đám cung nhân sớm đã hiểu tình thế hiện tại của Thái hậu, nên chẳng buồn chăm chút gì nữa.

Đến trước cửa cung, đoàn kiệu gặp hai cung nữ canh đêm, thấy ta tới, bèn chạy lại hành lễ rồi dẫn đường vào trong. Ta cảm thấy hơi lạ, Thái hậu năm lần bảy lượt câu kết với người ngoài cung mưu đồ xấu, vậy mà Hạ Hầu Thần vẫn không giam lỏng, có lẽ thế lực trong ngoài cung của bà sớm đã tan tác không đáng kể, nên hắn mới lơi lỏng như vậy? Thật không ngờ kẻ hay chấp nhặt như Hạ Hầu Thần về phương diện này lại hành xử rất khoáng đạt.

Tẩm cung của Thái hậu trong cung Tinh Huy nằm ở phía đông nam, vẫn là vị trí tốt nhất trong cung, nhưng cả tòa cung điện xét cả về kiến trúc lẫn vị thế dĩ nhiên không thể nào so sánh với cung Trường Tín, số lượng cung nhân rõ ràng ít hơn hẳn, ta cùng Tố Khiết đi từ ngoài vào đến nơi, chỉ gặp lác đác vài ba cung nga. Cung Tinh Huy vẫn đèn đuốc sáng tỏ, nhưng chỉ càng tôn thêm cái vắng lạnh bên trong.

Tới trước cửa tẩm cung, chưa kịp qua cửa, đã bên trong có người ho húng hắng liên hồi, lại có giọng ai đó khuyên nhủ ỉ ôi: “Thái hậu nương nương, người nghỉ một chút đi, trời lạnh thế này, hay người uống một chén trà nóng cho ấm bụng?”

Lại có người nói: “Thượng Cung cục hẹn mang canh thuốc đến, sao giờ này vẫn chưa thấy?”

Sau một trận húng hắng nữa, giọng nói của Thượng Quan Thái hậu vang lên: “Ai gia giờ đến nông nỗi này, bọn chúng tránh đi còn chẳng được, canh thuốc mang đến thế nào chẳng bớt xén, nấu ẩu, uống vào có tác dụng gì?”

Có cung nữ lại khuyên: “Thái hậu nương nương, cho dù thế nào người cũng là Thái hậu, bọn họ không nên làm thế.”

Ta nghe giọng điệu cung nữ này cũng nhạt nhẽo, chẳng có mấy phần thật lòng, nói không chừng trong số những đứa ăn bớt bổng lộc của Thái hậu có cả nó.

Những đồ ban thưởng cho các quý nhân trong cung, phải qua tay đám cung nhân mới đến được với chủ tử, chuyện vụng trộm nhũng nhiễu trong đó nhiều không kể xiết. Lúc này Thái hậu thế cô, bị kẻ khác đối đãi tệ bạc cũng không có gì lạ.

Cung nga dẫn đường kia đã sớm một bước bẩm báo với bên trong: “Bẩm Thái hậu nương nương, Ninh nương nương giá đáo.”

Thái hậu sững sờ nói: “Vẫn còn có người đến thăm ai gia kia à? Là Ninh nương nương nào thế?”

Ta lập tức sải bước qua cửa, cúi mình hành lễ: “Thái hậu nương nương, thần thiếp mang canh đến cho người đây.”

Thái hậu đang ngồi bên bàn sách gỗ đàn múa bút viết gì đó, nghe thấy giọng của ta, bèn ngẩng đầu lên, rồi lập tức cúi xuống như cũ, nắn nót một nét bút sau cùng, mới cất giọng: “Không ngờ người còn nhớ đến ai gia.”

Thái hậu có vẻ gầy đi nhiều, gương mặt thấp thoáng nếp nhăn, tinh thần xem ra vẫn minh mẫn, mái đầu điểm bạc chải mượt mà không rối một sợi nhỏ, trên người mặc chiếc áo dài làm bằng gấm Vân Nam màu đỏ đun, ngoài khoác áo lụa màu nâu nhạt có thêu hình chim liệng, trên đầu cài một viên trân châu tròn to bằng ngón tay cái, phục sức vô cùng giản tiện.

Ta nói: “Thần thiếp trước nay nhận ân huệ của Thái hậu, nào dám quên?”

Thái hậu đặt cây bút lông sói xuống, chầm chậm bước tới, khi chỉ còn cách ta chừng hai xích thì dừng lại: “Ai gia từ lâu đã biết Ninh Chiêu Hoa thông minh tuyệt đỉnh, nếu không nhiều năm về trước chẳng thầm quan sát rồi đề bạt cho chức cao bổng hậu. Có điều ai gia không ngờ, mà không, ai gia đáng lẽ nên nghĩ đến rồi, bản tính của Ninh Chiêu Hoa chính là thứ ta yêu thích đó ư? Ứng biến mau lẹ, đó là sở trường của ngươi.”

Ta đã tiên liệu lần gặp mặt này, Thái hậu hoặc sẽ ngọt nhạt mỉa mai, hoặc sẽ phũ phàng thẳng mặt, nhưng chẳng ngờ bà ta lại bình thản ngồi đó thuật lại ngọn nguồn cứ như kể chuyện bữa ăn giấc ngủ. Điều này thực khiến ta có đôi phần bối rối, đành đáp: “Thái hậu nương nương, đều là vì thần thiếp thân bất do kỷ.”

Thái hậu chậm rãi bước ra chỗ khác, vừa đi vừa nói: “Mấy ngày gần đây ai gia thường ngồi chép kinh Phật. Phật nói lục đạo luân hồi, thiện ác đều có căn nguyên của nó, ngày nào ai gia cũng tụng kinh niệm phật, mà vẫn thấy chưa đủ để chuộc lại tội nghiệt ngày xưa. Ninh Chiêu Hoa cũng nên thử kiểm điểm bản thân, tội nghiệt chồng chất, không những mệt mỏi thân mình, mà còn liên lụy người khác.”

Ta biết Thái hậu ám chỉ điều gì. Cái chết của đại nương có thể nói do một tay ta gây nên, bà ta tất không thể biết ân oán riêng giữa chúng ta, vẫn đang nghĩ cái người chết dưới tay sát thủ là thân mẫu của ta.

Tụng kinh niệm Phật ròng rã bao ngày tháng, mà lão bà tóc mai điểm sương này từ đầu chí cuối vẫn không buông bỏ được chấp niệm.

Ta quay lại nhìn lên bàn, chỉ thấy trong nghiên mực lấp lánh ẩn hiện sắc vàng kim, từng trang kinh thư viết xuống có lẽ như dát vàng nạm bạc, đáng tiếc những tiếng niệm Phật cầu kinh ra rả suốt ngày kia chẳng hóa giải nổi oán giận trong lòng người đàn bà này.

Người sống trong cung, có ai mà không vậy?

Ta nói: “Thần thiếp mang canh thuốc đến, trong tiết trời giá lạnh thế này có lẽ bệnh tình người không mấy dễ chịu. Thái hậu nương nương hãy uống nhân lúc còn nóng, sẽ ấm người hơn đôi chút.”

Tố Khiết đặt hũ canh lên bàn, lấy một chiếc bát sứ, định múc.

Thái hậu liền cười nhạt: “Canh thuốc do Ninh nương nương mang đến, ai gia sao dám uống. Ở vào cái tuổi này, ai gia đã trải qua không biết bao nhiêu thăng trầm, Ninh Chiêu Hoa vẫn còn trẻ, con đường sau này còn dài, ai gia vừa nhắc đến thuyết luân hồi, chẳng biết bao giờ đến lượt Ninh Chiêu Hoa phải chịu án luân hồi đây.”

Ta cười không ra tiếng, ngoảnh nhìn vầng trăng ảm đạm phía xa: “Thái hậu nương nương, người còn nhớ thần thiếp đi lên từ nơi thế nào không? Cũng một đêm đông, thần thiếp phải quỳ trên đất giặt áo, tuyết trắng trời ngập đất, chẳng nhìn thấy trăng sao. Có luân hồi thế nào, chẳng qua cũng đến thế mà thôi.”

Gương mặt Thái hậu ánh lên vẻ khen ngợi: “Không sai, trong cung này chẳng mấy kẻ tài trí sánh kịp ngươi, đấu lại ngươi. Nếu là người bình thường, sớm đã bị những cực nhọc tủi nhục chốn này đè bẹp rồi, ngươi thì khác, bao giờ cũng khiến cái bất lợi trở thành có lợi cho mình, người như ngươi…”

Bà ta đột nhiên khẽ cười, cầm bát canh Tố Khiết đặt trên bàn lên, múc một muỗng đưa lên miệng, nói như thở than: “Chốn này vốn dĩ không phải là nơi dung thân cho ai gia. Nhưng ai gia lại muốn xem xem, ngươi sẽ khuấy động gió mưa ra làm sao?”

Ta cười khổ trong bụng, ta lấy đâu ra bản lĩnh lớn như bà nói, tình hình như hiện nay, ngay cả đến danh phận Chiêu Hoa cũng sắp sửa lung lay.

Hôm nay ta đến là có mục đích khác. Xem ra tâm trạng Thái hậu vẫn rất tốt, có lẽ bà quá nhiều kình địch, mấy việc ta làm chẳng qua là trò trẻ con, bà ta sớm đã chằng coi vào đâu, nghĩ vậy bèn thận trọng cất tiếng hỏi dò: “Mấy ngày nay Hoàng thượng đến nghỉ tại Lan Nhược hiên, đêm đến thường sực tỉnh khỏi giấc mộng, cảm thán tình nghĩa thời niên thiếu Thái hậu dành cho mình, lại nhớ những ưu phiền của Thái hậu trong trận biến cố ngày đó, xem ra Hoàng thượng vẫn còn nhớ thương Thái hậu nhiều lắm.”

Thái hậu hơi biến sắc, nhìn ta chằm chằm, chợt nở nụ cười: “Ninh Chiêu Hoa muốn biết chuyện gì?”

Mấy ngày gần đây câu chuyện của Ninh Tích Văn cứ trở đi trở lại trong đầu ta, Hạ Hầu Thần khi thiếu thời nếu đích thực từng lánh nạn ở nhà họ Ninh, nếu phụ thân ngày đó đích thực đã trao cho hắn một phần ân huệ, thì đó sẽ là vốn liếng quý báu của ta. Khổ nỗi ngày đó cơ ngơi sản nghiệp của phụ thân to lớn, nô bộc thành đoàn, chuyện lại xảy ra ở khu nhà của đại nương, ta hoàn toàn không hề hay biết.

Trong lòng số ruột, ngoài mặt ta chỉ chầm chậm mở hũ canh ra múc thêm vào bát dâng cho Thái hậu, thấy bà ta thong dong uống tứng muỗng một, cũng không tiện thúc giục.

Hồi lâu, Thái hậu mới đặt bát xuống: “Ai gia nuôi nấng Hoàng thượng bao năm, sao lại không hiểu tính tình con trẻ. Hoàng thượng là kẻ chóng quên tình nghĩa, làm gì có chuyện mơ thấy ai gia? Nếu Ninh Chiêu Hoa định dùng ân tình cũ để níu kéo lòng thương xót của Hoàng thượng, thì thất bại là chắc.”

Ta thoắt mừng, nghe giọng điệu này có lẽ chuyện năm xưa là thật? Gương mặt giữ vẻ ủ ê, đáp: “Thần thiếp đã vọng tưởng rồi.”

Sau khi uống hết hai bát canh, Thái hậu nhắm hờ đôi mắt, thấy bà ta có vẻ mệt, ta liền đứng dậy cáo từ.

Về được nửa đường, ta liền lệnh cho phu kiệu kéo ngược trở lại, men theo con đường lát đá xăm xăm đạp ánh trăng mà đi. Đến Ngự Hoa viên kiệu chậm rãi vòng lại, tới trước cửa phía đông nam, tình cờ gặp Khổng Văn Trân đang vội vã đi ngược chiều, thấy người trong kiệu là ta, sắc mặt ả hơi lộ vẻ kinh ngạc, dĩ nhiên vẫn khiêm cung cúi mình hành lễ. Nhìn dáng điệu Khổng Văn Trân vội vàng, ta bèn lên tiếng hỏi: “Trời đã tối rồi, Khổng Thượng Cung định đi đâu vậy?”

Khổng Văn Trân đáp: “Dung phi nương nương muốn ăn canh hoa cúc tươi, nô tỳ thấy cúc trong Ngự Hoa viên đang nở rộ, nên định đến hái một ít.”

Lòng ta thầm kinh ngạc, Dung phi kia chẳng qua là một mỹ nhân phẩm vị kém, vậy mà Khổng Văn Trân lại phải đích thân đi hái hoa phục vụ, thật chẳng giống tính cách bình sinh của cô ta, thấy trên tay ả đích thực cầm mấy bông hoa cúc tươi, nên không tiện hỏi thêm, đành để người đi.

Xuyên qua Ngự Hoa viên về Lan Nhược hiên quãng đường sẽ gần hơn nhiều, nhưng Ngự Hoa viên vốn là nơi đám phi tần nghĩ đủ chiêu trò gây sự chú ý, Hạ Hầu Thần thường qua lại ở đó, nên ta có hơi ngần ngại. Trước khi hiểu rõ những mưu toan của Hạ Hầu Thần, ta không dại gì đi chọc tổ kiến lửa, rốt cuộc quyết định đi đường vòng, Tố Khiết đang nóng lòng muốn vào Ngự Hoa viên, thấy ta ra lệnh rẽ, đành tiu ngiu đi theo.

Thấy Tố Khiết như vậy, ta càng không muốn bước chân vào Ngự Hoa viên. Kiệu vòng sang đường khác, đi một hồi lại rẽ qua góc tường, bổng thấy Tố Hoàn tay cầm giỏ mây, cắm cúi tiến thẳng về phía ta. Khi đụng độ, vẻ mặt nó hơi luống cuống, vẫn hành lễ như thường. Thời còn ở Lan Nhược hiên, Tố Khiết với Tố Hoàn tuy không mấy thân thiết, nhưng tối nay bất ngờ trùng phùng,Tố Khiết tỏ ra vô cùng mừng rỡ, bèn tiến lên hỏi: “Tố Hoàn tỷ tỷ, tỷ vội vã định đi đâu thế? Trong làn mây đựng thứ gì vậy?”

Nói xong định thò tay mở làn, Tố Hoàn lập tức lấy tay che đi, nghiêm mặt: “Thứ này để dâng lên Hoàng hậu nương nương mà cô cũng dám mở xem?”

Tố Khiết vốn sợ Tố Hoàn, nghe thấy bèn dừng tay. Thật lạ, Tố Hoàn trước nay rất thận trọng, không phải đứa ba hoa bừa bãi, sao lại cất giọng dọa nạt ngớ ngẩn như vậy?

Ta ngầm quan sát chiếc làn giờ đây đã bị hé ra một góc, vừa đủ để nhìn ra bên trong có một thứ gì màu vàng kim, đoạn liếc nhìn Tố Hoàn một cái, gương mặt nó vẫn bình thản như thường, nói: “Ninh nương nương, nô tỳ ra ngoài đã lâu, e quản sự sốt ruột, nô tỳ xin cáo lui ạ.”

Nói dứt lời, bèn đậy cái làn lại cho ngay ngắn, tiếp tục xăm xăm đi về phía trước.

Tố Khiết nói: “Hừ, giờ bay được lên cành cao nên chẳng coi ai ra gì nữa rồi.”

Trong lòng ta ăm ắp nghi ngờ, đột nhiên tình cờ gặp gỡ hai kẻ có liên hệ mật thiết với mình, rốt cuộc đã xảy ra chuyện gì?

Trời đang lúc rét đậm, về đến Lan Nhược hiên, trông vào trong vườn lá cây đều nhuộm vàng, những loại hoa cỏ quý giá đều được các nghệ nhân mang cả vào phòng giữ ấm. Tố Khiết thấy ta tâm thần bất định, ngây người nhìn vào vườn không lên tiếng, bèn nói: “Nương nương, người yên tâm, nô tỳ sớm đã kêu người mang cây lan Nhụy Điệp mà nương nương yêu thích vào phòng giữ ấm rồi. Tuy thời tiết đang lúc khắc nghiệt, nhưng các nghệ nhân vốn dĩ khéo léo tài tình, nghe người ở Ty Chế Phòng kể, mấy ngày trước Nhụy Điệp còn nở ra mấy bông hoa!”

Ta bất giác hiểu ra thứ màu vàng kim trong làn của Tố Hoàn là gì, chẳng chính là hoa của giống lan Nhụy Điệp trứ danh đó sao?

Chỉ nó mới có cái sắc vàng bóng mượt, sáng láng lại hơi tai tái xanh như vậy, cho dù là nghệ nhân nhuộm vải tài giỏi nhất cũng không thể làm ra được thứ màu sắc như vậy.

Ta tin những chuyện này có uẩn khúc, nhưng không thể hiểu được Hoàng hậu sai Tố Hoàn mang mấy bông hoa Nhụy Điệp kia về làm gì?

Nhụy Điệp có mùi hương rất kỳ lạ, Hoàng hậu vốn không mấy thích hương hoa quá nồng đượm, chắc sẽ chẳng dùng nó để lấy hương đâu?

Đến nửa đêm, trời đổ mưa nhỏ, nhiệt độ giảm đột ngột, Tố Khiết nhóm lửa trong phòng, tuy ta không cảm nhận thấy gió lạnh bên ngoài đang thổi ra sao, nhưng vẫn trở mình mãi không ngủ được. Trong lòng càng thấy kỳ quặc, khi Hạ Hầu Thần nằm bên cạnh ta ngủ không ngon, tính ra đã hai ba ngày ngủ không đủ giấc, sao hôm nay vẫn cứ không ngủ được?

Không cách nào đi vào giấc ngủ, ta đành sai Tố Khiết thêm mấy viên thuốc an thần vào lư hương, đến khi cả gian phòng tràn ngập mùi thuốc, mới mơ màng thiếp đi.

Dường chi vừa ngủ được vài canh giờ, đã nghe tiếng Tố Khiết ở bên ngoài giục: “Nương nương, nương nương, ngươi tỉnh chưa ạ?”

Trong lòng ta có chuyện khúc mắc, vốn đã khó ngủ, nghe tiếng gọi lập tức tỉnh cả người, đưa tay sờ lên trán, thấy ướt đẫm mồ hôi, mới đáp: “Có chuyện gì mà hốt hoảng thế, còn đợi gì nữa mà không vào giúp ta rửa mặt chải đầu?”

Tố Khiết nghe thế vội bước vào, nhún người bẩm báo: “Nương nương, mới sớm tinh mơ thái giám quản sự đã tới báo rằng, Thái hậu vừa tạ thế, yêu cầu chúng ta không được mặc y phục sặc sỡ, đầu không được cài trâm hoa. Nương nương, bàn ghế vật dụng bên ngoài đều phủ gấm trắng cả rồi, đến tường thành cũng treo đầy vải tang!”

Ta thất kinh, lập tức ngồi dậy khỏi giường, cảm thấy mồ hôi lạnh trên trán túa ra dữ dội. Đêm qua ta vừa đi gặp Thái hậu, tuy bà ta oán nộ trùng trùng, nhưng tinh thần vẫn còn minh mẫn, cớ gì sớm nay đã chết được? Một vấn đề lớn nữa là, bà ta chết vào khi nào, cách lúc ta rời khỏi bao lâu?

Không hiểu sao từ khi nghe thấy tin này, tim ta dồn dập liên hồi, mô hôi lạnh rướm đẫm sống lưng, Tố Khiết sợ quá phải lay gọi: “Nương nương, nương nương?”Ta sực tỉnh, nhận ra mình đang ngồi bên mép giường, ngón tay bấu chặt lấy thành giường, mạnh đến nỗi các đầu móng sắp sửa đứt cả.

Ta vội đứng dậy, trấn tĩnh tinh thần, nói: “Tố Khiết, giúp ta chọn lấy một bộ y phục màu sắc trầm dịu một chút, thay hết mành trướng trong phòng, còn nữa…”

Tố khiết đáp: “Nương nương, những điều người căn dặn nô tỳ đã lo liệu cả rồi, nương nương không cần phải quá bận tâm.”

Một đứa cung nữ nhỏ dâng chén trà lên, ta trượt tay, chén trà vỡ tan dưới đất. Cung nữ sợ quá quỳ rạp xuống đất, toàn thân run lẩy bẩy.

Nhìn xuống, chỉ thấy lá trà bám đầy mặt sàn, cái tách Thanh hoa vỡ làm hai mảnh lăn lông lốc. Thật là tiệc tàn người tan, phồn hoa lụn bại. Ta quay sang hỏi Tố Khiết: “Mấy ngày trước ta sai đưa tin ra ngoài cung, ngươi đã làm chưa?”

Tố Khiết thưa: “Nương nương, nô tỳ sớm đã thu xếp ổn thỏa rồi ạ.”

Ta gật đầu, nhìn ra bầu trời sầm sập mây đen ngoài cửa sổ, thầm nghĩ, nếu sự việc đúng như dự đoán, thì tổ rơi trứng phải vỡ, ta gặp chuyện, người ấy cũng đừng hòng thoát thân!

Nếu người coi ta như con cá nằm trên thớt, thì người đã lầm.

Vừa tảng sáng, sắc trời mờ mịt, từng không giăng kín khói sương, những màu sắc tươi sáng của tường đỏ ngói xanh hôm nay bỗng trở nên cũ bạc, cả hậu cung như bị vây trong một đám mây đen khổng lồ. Các cung nhân qua lại không dám nói chuyện lớn tiếng, gấm đào trên ghế đều cất đi, thay bằng gấm trắng in hoa văn thanh đạm. Nội Thị Giám bắc thang treo vải trắng rợp tường thành, ai nấy bận rộn căng thẳng, nhưng không ở đâu phát ra tiếng động.

Tình hình đương rối ren, ta chỉ có cách ở lì trong Lan Nhược hiên, mặc vào chiếc áo bạc màu, búi tóc trống trơn, lặng lẽ chờ đợi. Tiếp theo sẽ có chuyện gì xảy ra đây?

Vừa dùng xong bữa trưa, chợt nghe ngoài vườn tiếng người láo nháo, Tố Khiết luýnh quýnh chạy vào, vẻ mặt hoảng hốt, bẩm: “Nương nương, Lý công công dẫn theo một đám người đang đến…”

Ta đứng bật dậy, nheo mắt nhìn về phía góc mái hiên, nơi mưa gió mịt mờ, lòng nghĩ rốt cuộc điều đó đã tới?

Người bước vào là Lý công công, quản sự ở cung Hoàng hậu, thời quan hệ giữa ta và Hoàng hậu đương tốt đẹp, đã từng đem biếu không ít món đồ quý giá tinh xảo cho y. Ngày thường nếu tình cờ gặp mặt, thế nào y cũng nở nụ cười rạng rỡ, vậy mà hôm nay gương mặt đanh lại như thép, hành lễ xong bèn nói ngay: “Ninh nương nương, Hoàng hậu có lời mời.”

Theo sau y có mười mấy tên thái giám, xem ra không đơn giản là mời ta đến cung Chiêu Thuần, lần này không lộn ngược cả Lan Nhược hiên lên, chắc họ không chịu dừng tay.

Đến ngây ngô như Tố Khiết còn cảm thấy sát khí từ phía mấy vị khách không mời bốc lên ngùn ngụt, bất giác tựa vào người chủ: “Nương nương…”

Ta quay lại nói với nó: “Lý công công xem chừng phải khám xét Lan Nhược hiên, Tố Khiết, ngươi nhớ dặn đám nô tài thuận ý.”

Ta biết rằng chuyện tiếp theo bản thân không thể điều khiển được, ngăn sao nổi người ta lĩnh chỉ bề trên hành sự? Những trò ma mãnh bên trong dĩ nhiên không cần nói cũng hiểu. Ta chỉ có thể nhắc Tố Khiết cảnh giác, nhưng con a đầu này vốn ngốc nghếch, sao địch lại được Lý công công giảo hoạt lại lão luyện?

Ta đứng dậy, sai Tố Khiết mang cái áo khoác lông chồn tía ra, cẩn thận mặc lên người, để Tố Khiết cài cho chiếc đai lưng cùng màu. Áo lông chồn này màu đen ánh tím, không phải quá sặc sỡ, Lý công công trông thấy đương nhiên không thể nói gì được.

Khi ta rời đi, đám cung nhân trong Lan Nhược hiên đều đã bị dồn vào một góc đình viện, bắt quỳ cả xuống. Ta chỉ biết thầm cười khổ, cô ta ra tay quả thực chớp nhoáng.

Dưới sự hộ tống của đám thái giám, ta bước lên một chiếc kiệu bốn mặt che kín, nghĩ bụng quanh kiệu chắc chắn toàn là thủ hạ của Lý công công. Để tránh ta có lòng khác, y còn sai một bà vú cẩn thận khám người một lượt. Từ đầu chí cuối ta ngoan ngoãn phục tùng không bộc lộ bất kỳ động thái phản kháng nào.

Ngồi trong chiếc kiệu nhỏ bị phong kín bằng trướng xanh, không một tia sáng lọt vào, ta chỉ có thể theo dõi tình hình bên ngoài qua đôi tai. Nghe những âm thanh trò chuyện râm ran ngoài kia truyền lại nghe không rõ nội dung, chỉ cảm thấy những giọng nói ấy rất thản nhiên, khiến người ta sợ đến lạnh người.

Ta quàng lại áo lông chồn cho kín cổ, vuốt ve nhẹ bề mặt mềm mại ấm áp của nó, hơi mỉm cười. Trận giông tố này sẽ đem lại cho ta những gì đây?

Ta khẽ nhắm đôi mắt, không cố sức nghe tiếng người bên ngoài nữa, chỉ cảm thấy chiếc kiệu hơi lắc lư, có lẽ vừa ngoặt qua một ngả đường hoặc đang đi gấp. Khá lâu sau, kiệu được hạ xuống, có lẽ đã đến nơi nó cần đến.

Một tiểu thái giám vén màn lên, bầu trời tuy hơi u ám, nhưng đột nhiên thoát khỏi cảnh tối tăm khiến ta bị chói mắt. Hai hàng cung đăng lưu ly ở lối ngoài cung Chiêu Thuần được thắp sáng trưng, vẻ âm u ngoài trời bị đẩy lui hoàn toàn. Ta vừa bước xuống kiệu, một đám tiểu thái giám đã vây xung quanh, cung nữ dẫn đường đi phía trước, như thể đang áp giải phạm nhân. Tình thế đã xấu đến mức không thể xấu hơn được nữa. Ta nghĩ thầm, còn có gì tệ hơn được cái đêm gió tuyết năm nào? Khi ta vùng vẫy ngay bên bờ vực giữa sự sống và cái chết.

Bao nhiêu ngày tháng ở trong cung, có lúc nào ta không vùng vẫy trên bờ vực sống chết đâu?


--- ------ BỔ SUNG THÊM --- ------

Cung nữ dẫn đường đi thẳng tới chính điện. Hoàng hậu sớm đã ngồi trên ghế phượng, tay lồng ống áo, trên tóc cài trâm phượng màu tím. Bởi Thái hậu vừa mất, cô ta phải tránh dùng màu đỏ, chỉ mặc trên người một chiếc áo bào màu sắc lạnh nhạt, sắc mặt nghiêm cẩn không hề có ý cười. Ta không liếc nhìn hai bên, cung kính hướng về phía cô ta hành lễ, khi được kêu bình thân, mới đứng dậy đưa mắt thăm dò những người khác trong điện, quả không ngoài dự liệu, Khổng Văn Trân nép trong góc, còn Tố Hoàn đứng hầu ngay cạnh Hoàng hậu, tay cầm cái ấm sứ, đang rót trà.

“Hôm nay bản cung cho gọi Ninh Chiêu Hoa tới quả thực là bất đắc dĩ, mong Ninh Chiêu Hoa không lấy làm phiền lòng.” Thời Phượng Cần chậm rãi nhấp một ngụm trà xong mới cất lời.

“Bất cứ lúc nào được Hoàng hậu nương nương triệu kiến đều là vinh dự cho thần thiếp, sao dám ‘phiền lòng’?”

Ta cúi đầu khẽ khàng đáp, Hoàng hậu nương nương không còn gọi ta là “muội muội”, xem ra đao đã rút khỏi vỏ, không thể thu hồi được nữa.

“Bản cung trước nay có giao tình với Ninh Chiêu Hoa, hôm nay không thể không cho gọi đến để căn vặn vài điều, đây là điều bất đắc dĩ, chỉ vì sự việc can hệ trọng đại, bản cung lãnh trách nhiệm quản lý tam cung lục viện, không thể không tra xét cho rõ ràng, tránh lòng người ngờ vực, khởi cuộc giao tranh, ảnh hưởng tới gốc rễ của quốc gia.”

Nghe cô ta nói ra một tràng lập luận lưu loát, kín kẽ không có lấy chỗ hở, ta chỉ biết cúi đầu, đáp dạ liên hồi.

Thấy ta không buồn tranh biện, Thời Phượng Cần bèn hỏi: “Ninh Chiêu Hoa, giờ thân đêm qua, có phải ngươi dẫn người đến thăm Thái hậu không?”

Ta đáp ngay: “Thần thiếp nghe Khổng Thượng Cung nói bệnh tim của Thái hậu phát tác, nên mang theo canh thuốc do Ty Thiện Phòng nấu đến thăm Thái hậu, vội đi quên cả giờ giấc.”

Khổng Văn Trân lúc này đột ngột chen lời: “Canh thuốc do Ninh nương nương mang đi đích thực do nô tỳ sai Ty Thiện Phòng nấu, đưa cho người của Ninh nương nương, nhưng từ đó về sau phát sinh thêm chuyện gì, nô tỳ quả tình không rõ.”

Ta biết Hoàng hậu sớm đã hạ quyết tâm, cho dù có biện giải ra sao, cô ta cũng sẽ chĩa mọi mũi giáo về phía mình. Cô ta sớm đã bày binh bố trận đâu vào đó từ trước khi tất cả mọi việc xảy ra, phần ta chỉ được tin Thái hậu khuất núi, còn những diễn biến cụ thể không hề hay biết, bởi vậy không rõ mình nên thanh minh ra sao, đành phải đi bước nào hay bước đó.

Giọng điệu Hoàng hậu nghe hòa nhã dễ gần, nhưng câu nào câu nấy khí thế bức người: “Ninh Chiêu Hoa, Thái hậu tuy có bệnh, hễ ho là khó dứt, nhưng thân thể trước nay an khang. Đêm nay vừa uống canh ngươi mang đến, không quá hai canh giờ thì đau thắt tim, đột ngột qua đời. Các thái y khám nghiệm trong những thứ Thái hậu nôn ra, phát hiện trong dạ dày bà có độc. Sau bữa ăn tối Thái hậu không dùng thêm gì khác, chỉ uống canh do ngươi dâng đến, ngươi còn lời nào để nói nữa không?”

Ta sớm đoán biết Hoàng hậu sẽ đem chuyện bát canh thuốc đêm qua ra thêu dệt, nhưng không ngờ lại quyết liệt cực đoan đến thế, đem tất cả mọi tội lỗi đổ lên đầu ta, chỉ rõ ta là hung thủ đầu độc Thái hậu.

Ta vội quỳ xuống biện bạch: “Hoàng hậu nương nương, thần thiếp bị oan, canh thuốc ấy thần thiếp uống thử rồi mới dâng lên Thái hậu, thần thiếp không sao, cớ gì bát canh ấy lại có vấn đề được?”

Hoàng hậu lạnh lùng cười, chẳng còn chút nào dáng vẻ hiền từ mọi khi, nói: “Bản cung biết ngươi sẽ giảo biện như thế. Bản cung không quên Ninh Chiêu Hoa trước đây từng là Thượng Cung, thủ đoạn đương nhiên cao siêu, người khác sẽ cho rằng ngươi không đời nào hại người bằng phương cách thô lậu lộ liễu, chính thế ngươi càng làm cho ẩu tả vụng về… Không sai, trong canh không có độc, nhưng Ninh Chiêu Hoa vốn hiểu biết sâu rộng, chắc hẳn biết về một loài lan ở Lan Nhược hiên có tên là Nhụy Điệp?”

“Thần thiếp dĩ nhiên là biết, mấy tháng trước đúng vào mùa nở rộ của Nhụy điệp, thần thiếp còn mời Hoàng hậu nương nương cùng đến thưởng ngoạn, lẽ nào Hoàng hậu nương nương đã quên?” Ta cúi đầu tiếp, “Thần thiếp không ngờ rằng, tay nghề của các nghệ nhân trồng hoa trong cung lại cao siêu đến thế, đem Nhụy Điệp trồng trong phòng giữ ấm, lại có thể khiến hoa nở như giữa mùa xuân. Đáng tiếc loài hoa cỏ bị con người thúc nở, chẳng thể nào có dáng vẻ xinh đẹp như ngoài tự nhiên.”

Đám nghệ nhân trồng hoa chẳng hơi đâu tốn công như thế, chắc phải có người ngầm ra lệnh. Ta vẫn chưa nắm rõ thế trận mà Thời Phượng Cần bày bố, Nhụy Điệp nở, mùi hương có hơi nhức mũi, nhưng loài hoa này vốn không có độc.

Hoàng hậu cười nhạt mà rằng: “Với thủ đoạn của Ninh Chiêu Hoa, dĩ nhiên không dùng đến thứ bày ngay ra trước mắt được…”

Cô ta phất tay, một vị ngự y bước lên trước, nhỏ giọng bẩm cáo: “Khởi bẩm Hoàng hậu nương nương, nước canh nếu đứng riêng một mình vốn là thuốc chữa bệnh tim rất lành tính, nhưng Thái hậu mấy hôm nay cảm lạnh ho nhiều, thần đã kê lên mấy thang thuốc trị lạnh, gồm có thục địa hoàng, nam khung, bạch thược, phục linh trắng, đương quy, gừng khô, thạch xương bồ hoàng kỳ, nhân sâm, cam thảo… Bởi Thái hậu chưa hết lạnh, mấy ngày nay trời lại rét đậm, nên thần đã thêm vào trong thuốc một ít cung quế, nhưng Ninh Chiêu Hoa lại tự tiện cho Thái hậu dùng canh có chứa mấy vị thảo dược gây xung đột với thuốc của hạ thần, tuy nhiên không quá đáng ngại, chẳng qua chỉ khiến Thái hậu bụng dạ khó chịu mà thôi…”

Cung nữ quản sự cung Thái hậu lại bước lên tâu: “Hoàng hậu nương nương, sau khi Ninh Chiêu Hoa đi khỏi, Thái hậu đi ngoài hai ba lần, thứ bài tiết ra màu vàng trắng hôi thối khó tả. Nhớ ra cái túi thơm mà tháng trước Ninh Chiêu Hoa đem biếu, Thái hậu bèn sai nô tỳ lấy ra đeo lên mình nhằm trừ khử mùi hôi, không ngờ chưa đến hai canh giờ sau, người phát tác bệnh tim, vô phương cứu chữa.”

Ngự y đứng bên cạnh tiếp lời chứng thực: “Thái hậu nương nương bị tiêu chảy, người đã suy nhược, lại thêm khí lạnh thấm vào, hoa Nhụy Điệp vốn dĩ không có độc, tuy nhiên nếu hít phải mùi hương sẽ có tác dụng kích thích dạ dày. Thái hậu tuổi tác đã cao, đáng lẽ có canh thuốc trợ lực mà cơ thể được bảo vệ, nhưng canh thuốc bị bài tiết ra hết mất rồi, lúc này bệnh tim tái phát, thật hết thuốc chữa.”

Ta cười nhạt trong bụng, nếu Hoàng hậu đã muốn giăng bẫy ám hại, dĩ nhiên phải suy tính chu toàn mọi lẽ, ta có biện bạch thế nào cũng chỉ uổng công. Xem ra lúc này Khổng Văn Trân đã về phe Hoàng hậu, từ miệng ả ắt sẽ có vô số chứng cứ buộc tội ta. Cuộc gặp gỡ đêm qua đâu phải là tình cờ, lát sau với Tố Hoàn lại càng không, nó cầm làn mây cố tình để ta trông thấy, rõ ràng là định cảnh tỉnh chủ cũ.

Ta cúi đầu nói: “Nếu vì sơ suất của thần thiếp khiến Thái hậu nhiễm phải quái bệnh, thần thiếp chẳng còn lời nào để nói.”

Trong điện đột nhiên im ắng, Hoàng hậu không ngờ ta nhận tội mau như vậy, có lẽ trong bụng còn nhiều lời chuẩn bị sẵn chưa kịp thốt ra, đâm không biết nên tiếp tục chất vấn ra sao.

Im lặng hồi lâu mới nghe cô ta cất giọng: “Vậy là ngươi Thừa Ânhận có liên quan đến cái chết của Thái hậu?”

Ta lạnh nhạt đáp: “Thần thiếp không Thừa Ânhận điều đó, nhưng tất cả là do ý trời, lòng thành của thần thiếp lại gieo đại họa cho Thái hậu, thần thiếp rất hổ thẹn, dù cho Hoàng hậu vì thế mà xử thần thiếp tội chết cũng đáng!”

Hoàng hậu cười nhạt nói: “Bản cung vốn nghe Ninh Chiêu Hoa giảo hoạt như cáo, hôm nay thực được mở rộng tầm mắt. Ngươi có biết trong gian phòng nhỏ kia là ai hay không?”

Ở góc đại điện có một cánh cửa bằng gỗ nhỏ, vốn được sơn son lúc này đã phủ khăn trắng. Ta cúi đầu đáp: “Thần thiếp không biết.”

Hoàng hậu phất tay một cái, cánh cửa gỗ mở ra không một tiếng động, có người từ bên trong bước ra. Người này mặt mày diễm lệ như trăng rằm, còn ai khác ngoài Ninh Tích Văn? Con bé nhìn thấy ta, hấp tấp bước tới mấy bước, hô một tiếng: “Tỷ tỷ?” liền bị mấy cung nữ ngăn lại.

Ta nghi ngại nhìn Ninh Tích Văn một cái, trông vẻ mặt nó ngơ ngác, rõ ràng bị bắt về, chẳng biết đầu đuôi sự việc ra sao. Mong nó đừng nói câu nào gây họa.

Hoàng hậu trở lại vẻ mặt hiền hòa, quay sang hỏi Ninh Tích Văn: “Tích Văn muội muội, đừng sợ, bản cung và tỷ tỷ của muội trước nay có thâm tình. Nay tỷ tỷ của muội rước họa vào thân, bản cung vì mong giúp cô ấy thoát tội, nên muốn hỏi muội mấy việc cho tường tận, muội chỉ cần thuật lại y hệt những lời cô ấy nói với muội trước đây là được.”

Ninh Tích Văn không hay biết việc xảy ra trước đó, tưởng Hoàng hậu định giúp ta thật, bèn do dự đáp: “Hoàng hậu nương nương, lời nói của nô tỳ sẽ giúp tỷ tỷ thoát tội thật chứ?”

Lòng ta nóng như lửa đốt, nhưng biết ra hiệu bằng mắt phen này vô ích. Đầu óc ngốc nghếch của nó vốn dĩ không thể hiểu được, đành cầu trời cho con a đầu vụng dại không nói ra lời nào bất lợi.

Ninh Tích Văn do dự lúc lâu, hết nhìn ta, lại nhìn gương mặt hiền từ của Hoàng hậu, mới ấp úng nói: “Cách đây không lâu nô tỳ nhập cung, trong lúc hàn thuyên trò chuyện, tỷ tỷ từng nhắc đến Thái hậu nương nương, nói nếu năm xưa không nhờ Thái hậu cưu mang, tỷ tỷ sớm đã mất mạng.”

Ta thầm thở phào một tiếng, mấy lời này vô hại, không để kẽ hở nào.

Hoàng hậu cười hỏi: “Ninh Chiêu Hoa bình sinh là người ân oán phân minh, biết Thái hậu có bệnh tim thường lui đến thăm hỏi, điều này có hay không có?”

Ninh Tích Văn gật gật đầu: “Tỷ tỷ cũng nói với nô tỳ như vậy.”

Hoàng hậu tiếp: “Vậy ngươi có biết cuối cùng Ninh Chiêu Hoa vì đại nghĩa diệt thân, đã tiết lộ tin tức Thái hậu câu kết với ngoài cung cho bản cung biết hay không?”

Ninh Tích Văn bối rối nhìn ta một cái, vội vã đáp: “Không, nô tỳ không biết, tỷ tỷ luôn nhớ ơn Thái hậu nương nương, tỷ ấy sẽ không làm như vậy.”

Hoàng hậu bật cười, vẫy vẫy tay, có hai Nội Thị Giám từ ngoài điện giải một người vào, người này cúi gằm mặt, sắc diện tiều tụy, rõ ràng vừa phải chịu nghiêm hình tra khảo.

Ninh Tích Văn vừa nhìn thấy y đã trở nên kích động, lạc giọng hô hoán: “Hắn chính là tên sát thủ đã giết chết mẫu thân!”

Hoàng hậu nói: “Tích Văn muôi muội dường như có chuyện chưa biết rõ, tên sát thủ này qua tra khảo đã khai là được thái thú An Định phái đi, mà thái thú An Định chính là cháu họ xa của Thái hậu.”

Ta cụp mắt im lặng, mọi chuyện thế là rõ, cô ta quả tốn nhiều công sức, giờ đây tất cả chứng cứ đã như một tấm lưới to siết chặt lấy ta, bịt kín mọi đường thoát. Diễn biến tiếp theo không nghe cũng biết, Hoàng hậu sẽ nói ta sở dĩ đầu độc Thái hậu là vì bà ta phái người giết hại đại nương, động cơ giết người rõ như ban ngày. Cô ta sắp xếp chu đáo thế này, có lẽ không phải chuyện một sớm một chiều mà hoàn tất được, chắc là định liệu từ lâu rồi. Có lẽ ngay từ ngày đầu xưng tỷ gọi muội với ta, Hoàng hậu đã ngấm ngầm vạch ra kế hoạch. Thật kỳ lạ, ta chẳng qua là một phi tần thấp kém không có gia thế chống đỡ, chẳng thể uy hiếp đến địa vị của cô ta, có ta bên mình, cô ta chỉ thêm lợi mà vô hại, hà cớ gì phải đuổi cùng giết tận?

Ninh Tích Văn lảo đảo sắp ngã, nhìn ta trân trối, gương mặt đầy vẻ thê lương: “Tỷ tỷ, vì báo thù cho mẫu thân muội mà…”

Câu này của nó như thêm dầu vào lửa, càng khiến tội danh của ta thêm vững chắc. Hóa ra cô em gái này chẳng ngây ngô như vẻ ngoài.

Ta thở dài một tiếng ngẩng đầu lên nhìn thẳng vào Hoàng hậu: “Hoàng hậu nương nương, thần thiếp xuất thân ti tiện, vì mong được yên ổn khó trách phải dùng thủ đoạn. Nhưng thần thiếp tự thấy mình đối với Hoàng hậu nương nương không bạc, chẳng dễ gì mới làm người cảm nhận được tấm chân tình, tìm đủ mọi cách giúp mình thoát tội. Thần thiếp cảm kích trong lòng, có điều vốn không thích tranh đua, đã gây ra họa lớn thế này, may mắn không làm liên lụy đến Hoàng hậu nương nương, coi như đã là đoái công chuộc tội. Thần thiếp có tội, mong nương nương hạ chỉ nghiêm trị. Phải rồi, thần thiếp có bệnh phong thấp, mùa đông năm nay rét giá bất thường, e chẳng chống chọi nổi, Hoàng hậu nương nương từng thưởng cho chiếc ghế tử đàn để ủ ấm, thần thiếp vẫn chưa được ngồi lên bao giờ, ghế ấy bây giờ ở chỗ Sư quý phi có lẽ cũng chẵng cần đến nữa, thần thiếp cầu xin Hoàng hậu nương nương gia ân, được mang cái ghế tử đàn vào phòng giam cùng mình có được chăng?”

Hoàng hậu sững người, rõ ràng không hiểu tại sao ta vô cớ nhắc đến ghế tử đàn, hồi lâu không thấy cất lời, ta bèn ngước nhìn cô ta, khóe miệng khẽ nhếch lên, nói: “Nhắc đến mới nhớ, chiếc ghế tử đàn này do nhà ngoại Hoàng hậu nương nương chế tác, nương nương và thần thiếp trước nay tình như tỷ muội, dẫu phải vào nhà ngục, cũng còn chiếc ghế kỷ vật, để thần thiếp ngày ngày tưởng nhớ đến nương nương chứ?”

Hoàng hậu ngồi trên ghế phượng trơ phỗng như tượng, ta biết trong khoảng khắc cô ta đã chấn động, chỉ cười thầm trong bụng. “Lời nói đầu” có lẽ nên dừng lại ở đây là đủ? Ta hiểu đạo lý giành ăn với lang sói thì phải có tâm địa như lang sói, Hoàng hậu cai quản hậu cung, động một chút là lấy mạng người ta, có khác chi lang sói? Cô ta bề ngoài tỏ ra tình thâm ý trọng với ta, nhưng chỉ hơi khiến cô ta mất lòng, liền khống cho là bất nghĩa, xếp cùng một hạng với Sư Viên Viên. Cô ta không ra tay, thì ta cũng chẳng động vào!

Hoàng hậu trầm ngâm hồi lâu mới thở dài mà rằng: “Ninh Chiêu Hoa thật có tình, chỉ trách bổn cung không đủ sức cứu Ninh Chiêu Hoa khỏi cơn nước lửa. Yêu cầu này của ngươi ta dù thế nào cũng phải làm cho được.”

Mặt ta lộ vẻ cảm kích, quỳ xuống hành lễ tạ ơn.

Hoàng hậu rời khỏi ghế phượng, bước tới gần, than: “Ninh Chiêu Hoa, hai ta một thời là tỷ muội, bản cung sao có thể nhẫn tâm chính tay giáng hình, bản cung đã cầu Hoàng thượng hạ chỉ. Ngươi yên tâm, bản cung sẽ xin Hoàng thượng niệm tình nghĩa mà giảm nhẹ tội hình.”

Người trong điện tuy không đông, nhưng nghe mấy lời này của Hoàng hậu, có lẽ ai nấy đều ngầm gật đầu tán thưởng. Ta cúi đầu nhìn xuống mũi hài, chiếc áo bào màu trắng làm bằng gấm in hoa văn chìm buông rủ trên mặt sàn không một chút bụi, hòa với màu hài thành một mảng trắng như tuyết, cứ như trở lại trân mưa tuyết nhiều năm về trước, trắng đến vô cùng vô tận, nhuốm đầy tuyệt vọng.

Ta bị tước hết trâm cài áo tang, đưa vào Tông Nhân Phủ, biệt giam một mình trong căn ngục nhỏ. Không giống như những nhà ngục khác, nơi này tương đối sạch sẽ, trên giường phủ vải thô, lại có một tấm chăn mỏng gập sẳn, không có vẻ gì là rách nát bẩn thỉu. Ta biết đây là đặc ân của Hoàng hậu, ta bị dồn đến nước này, xem ra vĩnh viễn không thể tìm cách trở mình được nữa, nên cô ta mới vui mừng đâm phóng khoáng, vừa được tiếng hiền đức với người ngoài vừa giữ hình tượng với Hoàng thượng.

Cột lại suối tóc đen dài ba xích, chẳng trâm chẳng vòng, ta cứ đễ vậy đi ngủ, để nguyên đai lưng, phấn sáp trên mặt. Nhà ngục để sẵn một bộ y phục mùa đông chuyên dành cho phạm nhân, đưa lên mũi hít thử, mùi ấm mốc xộc thẳng vào phổi, ta nghiến răng mặc vào, cảm giác lạnh lẽo thấu xương mới hơi giảm đi một chút.

Từ lỗ cửa bé xíu nhìn ra, ngoài trời vẫn sương khói âm u, không thấy bóng dáng một tia nắng nào, hay sắp có tuyết thật nhỉ? Ta thầm nghĩ, trận bão tuyết ngày ấy xảy ra khi mình còn nhỏ, không hề có khả năng tự bảo vệ mình nên mới để kẻ khác mặc sức chà đạp. Còn lúc này mọi thứ đã khác, cho dù ta không thể giữ lại cái mạng nhỏ của mình, cũng phải kéo kẻ khác cùng xuống hoàng tuyền một lượt.

Có điều, tốt nhất người ấy nên bảo vệ ta thì hơn. Nhìn những bông tuyết đầu tiên bay qua cửa sổ, ta khe khẽ nhoẻn cười.
 

Hoa Tử

Sưu tầm
Tham gia
24/9/19
Bài viết
10,570
Điểm cảm xúc
1,484
Điểm
113
Chương 13.1:
Đêm xuống, người mà ta chờ đợi cuối cùng đã xuất hiện.

Ngồi trong bóng tối, ta nghe có tiếng cửa sắt mở ra ở đầu hành lang. Nơi này tĩnh mịch, chỉ cần một tiếng động nhỏ cũng truyền đi rất xa rất xa. Cửa mở kéo theo một trận gió lạnh xen lẫn làn hương thoang thoảng ập vào. Ta nghĩ bụng, rốt cuộc cô ta cũng đã đến?

Mùi hương thanh nhã sang trọng này, chỉ có người phẩm hàm cao quý trong cung mới được dùng, chẳng hạn như Hoàng hậu.

Ta dỏng tai nghe tiếng trâm vòng ngà ngọc va chạm leng keng, lẳng lặng chờ đợi. Gặp nhau trong tình cảnh này, có lẽ cô ta sẽ không mang theo nhiều người, trên mặt chắc hẳn cũng không cần nở nụ cười hiền từ như mọi khi.

Ta ngồi xếp bằng trên giường, nhìn Hoàng hậu một mình đi tới, mày phượng hơi cau, có vẻ đăm chiêu. Nhà ngục này bốc lên thứ mùi giống như trong cái thùng tắm bằng gỗ ta từng ngủ gục ngày trước, vướng vít, thoang thoảng như có như không, nhưng bằng cách nào cũng không khử hết được.

Sớm nay cô ta còn mặc y phục màu sẫm, nhưng lúc này trên người chỉ mặc áo trắng thuần, có lẽ tin tức Thái hậu tạ thế đã loan truyền ra ngoài. Cũng như ta, trên đầu Hoàng hậu không cài trâm đơm hoa, gương mặt để mộc, trái phải không người theo hầu. Dĩ nhiên ta chẳng cần vừa thấy mặt là cúi xuống hành lễ không thôi, chỉ im lặng nhìn cô ta từng bước tiến lại gần.

Thật không hiểu, là nữ nhân quyền cao tối thượng đương triều, tại sao cô ta phải quyết liệt dồn ta vào chỗ chết, tối nay, liệu câu hỏi ấy có đáp án hay không?

“Xem chừng Ninh Chiêu Hoa ở bất cứ đâu cũng biết tự tìm niềm vui, bảo vệ lấy mình. Bản cung còn lo đám nô tài ở Tông Nhân Phủ có mắt không thấy Thái sơn, quên chuẩn bị áo đông tránh rét cho ngươi, xem ra bản cung lo hão mất rồi.”

Ta cười đáp: “Thần thiếp trước nay rất biết bảo vệ bản thân, trong lòng Hoàng hậu nương nương chắc cũng rõ. Chỉ hiềm ngoài kia sài lang quá nhiều, sau lưng thần thiếp lại không có người dìu dắt, chỉ biết dựa cả vào mình, cũng may còn một người tỷ tỷ như Hoàng hậu nương nương.”

Ở đây chẳng còn ai khác, Hoàng hậu không bận tỏ vẻ từ bi, nghe thấy mấy lời mỉa mai châm chích của ta, tức đến nghẹn họng, hồi lâu mới cất tiếng: “Trong cung trước nay là như vậy, Ninh Chiêu Hoa chẳng lẽ còn chưa thấu?”

Ta đáp: “Thần thiếp nên cảm tạ Hoàng hậu nương nương chưa tước bỏ cái phong hiệu Chiêu Hoa của thần thiếp, vào đến ngục chưa đến nỗi bị người ta xén mất cái chăn mỏng. Có điều thần thiếp không hiểu, thần thiếp trước nay luôn ngưỡng vọng Hoàng hậu, người cớ gì không chịu cho thần thiếp một con đường sống? Vì được thân cận với người, thần thiếp nguyện làm thân trâu ngựa, sao người lại đối xử với thần thiếp như vậy?”

Hoàng hậu nương nương đứng ngoài song sắt, nhìn ta không đáp, hỏi ngược lại: “Bộ đồ phạm nhân Ninh Chiêu Hoa mặc trên người trông bẩn ố loang lổ, chắc đã từng qua tay nhiều người. Vì tránh rét mà Ninh Chiêu Hoa chẳng ngại khoác lên, đủ thấy bản năng sinh tồn của ngươi mạnh mẽ bền bỉ, bản cung hổ thẹn không bằng. Nếu đổi lại để bản cung phải chịu những khổ cực như vậy, bản cung thà chết...”

Cô ta khe khẽ thở dài: “Đây có lẽ là điểm khác biệt lớn nhất giữa bản cung và Ninh Chiêu Hoa.”

Ánh đèn leo lét từ trong phòng ngục soi rọi đôi con ngươi thuần tịnh như nước của Hoàng hậu, gương mặt đẹp đẽ không tì vết. Một gia đình thế nào, tốn bao nhiêu công sức bồi đắp từ khi còn nhỏ, mới nuôi dạy ra một con người như thế? Nhan sắc tầm tầm dẫu có được nuôi dạy công phu liệu có thể trở nên cao quý bất phàm nhường vậy?

Ta đột nhiên hiểu ra suy nghĩ của Thời Phượng Cần: “Nếu quả thật như vậy, chẳng lẽ Hoàng hậu định xử lý tất cả nhân mạng trong cung?”

Thân là Hoàng hậu thì phải chuẩn bị tinh thần đối diện với tam cung lục viện của Đế vương, nếu không sao chẳng làm thê tử của một người bình thường cho xong?

Hoàng hậu che miệng cười: “Ninh Chiêu Hoa vẫn chưa hiểu rõ suy nghĩ trong ta rồi. Cũng đành, rồi có ngày ngươi sẽ hiểu, vì sao bản cung phải trừ khử ngươi!”

Tuy chưa thể làm rõ nguyên cớ vì sao Hoàng hậu gây ra chuyện này, nhưng ta hiểu một chuyện: Khi quyết định tiếp tay cho lang sói, sớm phải chuẩn bị tâm thế bị cắn xé.

Ta chậm rãi đứng dậy, lại gần mấy song sắt. Thời Phượng Cần rõ ràng cảm thấy bất an, nhưng cố giữ cho mình bất động. Xem ra mùi hôi trên áo ngục của ta quá nồng nặc, khiến cô ta không kìm được phải lấy tay bịt mũi, sau lại thấy làm vậy có phần bất nhã, bèn bỏ tay xuống.

Ta thong thả bước về phía cô ta cho đến khi giữa hai người chỉ còn cách một chấn song sắt, mới nói: “Hôm nay trời không đẹp, trong ngục lạnh lẽo thấu xương, nếu Hoàng hậu có lòng đoái thương, sao chẳng sai người mang chăn và áo choàng đến? Nhỡ đâu trong lúc chưa nhận chỉ xử quyết, thần thiếp không cẩn thận chết cóng nơi này, lại gây tiếng dơ cho thanh danh nương nương.”

Hoàng hậu không ngờ ta còn dám giở giọng yêu sách, sắc mặt hơi chuyển sang trắng bệch, lạnh lùng nói: “Đã là phạm nhân còn đòi hỏi nọ kia, bản cung tuy là chủ hậu cung nhưng cũng chẳng cách nào làm được.”

Ta nhoẻn cười, lại tiến thêm một bước, tay nắm chặt lấy song sắt, hướng về phía cô ta nói: “Xem ra lòng tốt của Hoàng hậu đối với thần thiếp là giả, nhưng cũng may, thần thiếp sớm đã chuẩn bị cả rồi...”

Gương mặt Hoàng hậu càng tái đi, nhớ lại mấy câu ta nói trong đại điện, liền hỏi: “Cái ghế tử đàn kia rốt cuộc có chỗ nào không ổn?”

Ta bật cười, lồng hai bàn tay bị hơi lạnh của song sắt làm cho cứng đờ vào ống áo, đáp: “Ghế tử đàn vốn chẳng có vấn đề gì, có điều việc Sư Viên Viên mất con có liên quan đến cái ghế ấy, mà người đoán xem, chiếc ghế ấy do nghệ nhân nào chế tác?”

Hoàng hậu ngỡ ngàng chẳng hiểu chuyện gì, ta mỉm cười: “Thượng Cung cục tuy thuộc về nội cung, là nơi chuyên trách phục vụ hoàng gia, làm chuyện gì cũng thuận tiện hơn nhiều chỗ khác, người bên ngoài quanh năm xếp hàng đợi đến lượt hiếu kính chẳng được. Thần thiếp chỉ cần sai người hơi truyền chút phong thanh ra ngoài, lại thêm ngầm chỉ điểm, các nhà giàu ở Chiết Giang đã đem dâng ngay cái ghế nằm thủ công tinh xảo, được làm bởi nhà họ Hoắc vốn chuyên chế tạo đồ dùng hạng sang. Nhà họ Hoắc kia cũng được coi là hào phú một vùng, ban đầu chỉ làm nghề mộc, sau nhờ con gái gả vào nhà quyền quý đâm cả họ được nhờ, gà chó bay lên trời.”

Ta đủng đỉnh nhìn ra góc tường mà cười: “May mà sau khi giàu có họ không làm mai một nghề tổ, các món đồ làm ra vẫn đẹp như ngày trước, thêm nữa lại đúng y như yêu cầu thần thiếp đã đề ra.”

Ta quay lại nhìn thẳng vào gương mặt trắng bệch của Hoàng hậu, nói: “Điều buồn cười là, bọn họ cứ tưởng chính Hoàng hậu nương nương sai người tìm đến đặt hàng, người nói có đáng cười hay không?”

Phàm những người đứng ở địa vị cao đều có một cảm giác, gọi là an toàn hoặc kiêu hãnh cũng được, họ không bao giờ sợ những nắng mưa gió bão cuộc đời chạm đến gót giày mình, họ chỉ luôn đấu tranh với những điều cao cả hoặc to lớn, những điều không thấy được, những thế lực đến từ tương lai, sẽ không chấp nhận để một tình huống nào đó xảy ra gây đe dọa đến địa vị của họ. Điều này thể hiện rất rõ nét trên người Hoàng hậu, cô ta từ nhỏ đã được mọi người coi là trung tâm, xung quanh dường như đều chăm chú dõi theo, chỉ nghĩ đến việc chăm sóc nuôi dưỡng thật tốt chờ ngày đưa cô ta vào cung làm Hoàng hậu, không cho phép bất cứ một sơ suất nào xảy ra. Vậy nên hành vi cử chỉ lời nói của Thời Phượng Cần phải hoàn hảo thước khuôn, xứng là kẻ sinh ra để làm Hoàng hậu. Liệu cô ta có dễ dàng lưu lại một vết nứt trên cả tòa núi băng không?

Cô ta từ bé quen sống trong nhung lụa, là con gái của một đại gia tộc, đương nhiên phải nếm mùi tranh đấu, âm mưu, tự biết toan tính cho mình. Có lẽ từ nhỏ cô ta đã được giáo dục các thủ đoạn để củng cố địa vị, khác với ta, từ khi nhập cung cứ như bị ném vào trăm ngàn lưỡi đao, chỉ hơi sơ sểnh là bỏ mạng, từ đó mà rèn dần bản lĩnh. Ở chốn cung cấm này, ta chẳng có ai là bằng hữu thực sự.

Thời Phượng Cần nghiến răng, nhìn ta cười lạnh: “Nhà họ Thời là một đại gia tộc, ngươi không bao giờ tưởng tượng nổi thế lực của nó lớn đến thế nào đâu. Cho dù ngươi cố ý để lại dấu tích gì, đều sẽ bị xóa sạch nhanh thôi!”

Ta quay lại ngồi xuống bên giường: “Hoàng hậu nương nương, thiên hạ không chỉ có mỗi mình họ Thời, còn có họ Sư, họ Thượng Quan, thậm chí là họ Hạ Hầu. Trong số đó mấy nhà là địch, mấy nhà là bạn? Thần thiếp chẳng có bản lĩnh gì to tát, chỉ có cái tài vặt nghe ngóng thăm dò tin tức là tạm được. Nếu có phe địch nào biết được sơ hở này của Hoàng hậu, chẳng lẽ không tiện tay lợi dụng? Thêm nữa cái ghế tử đàn trên đường vận chuyển ra kinh thành, phải được các châu phủ lập hồ sơ tỉ mỉ, lại qua ải của Phủ Nội Vụ... Vốn dĩ cũng chẳng sao, vụ án Sư Quý phi đã kết thúc từ lâu, nhưng nếu Hoàng hậu cứ nhất định muốn quấy lên, khiến Hoàng thượng sinh nghi, chỉ việc lần theo giấy tờ đầu mối này tra xuống, nhà họ Thời tuy thừa sức hóa giải, nhưng phải mất kha khá công tâm, hoặc phải lấy mấy nhân mạng của họ Hoắc ra đắp đền mới xong. Thần thiếp cảm thấy như vậy đâu có đáng, Hoàng hậu chỉ cần dừng tay, nghĩ cách giúp thần thiếp sống sót, thì vụ án kia theo thời gian cũng sẽ dần lắng xuống.”

Ta chậm rãi tiếp: “Hoàng hậu nương nương minh giám, thần thiếp đích thực chẳng có bản lĩnh gì to tát, có điều được làm Thượng Cung mấy năm, chút mánh lới đưa đẩy thông tin vẫn còn chưa quên. Thần thiếp cũng hay thư từ với ngoài cung hơn người khác một chút, chẳng hạn hai ba hôm không có tin thần thiếp, cái bí mật kia sẽ có người mang đến một vài nơi đặng lĩnh thưởng, ngẫm ra món hời ấy chẳng ít, còn ‘một vài nơi’ kia dĩ nhiên không thể là đồng minh của nhà họ Thời!”

Hoàng hậu nhìn ta, da mặt trắng như giấy bản: “Sao ngươi không sớm thương lượng cùng ta?”

Ta hiểu rõ suy nghĩ của Hoàng hậu. Nếu ngay từ đầu tiết lộ việc này, cô ta tất sẽ không hãm hại ta một cách quá lộ liễu khoa trương, rồi vô ý khiến mình bị lôi xuống vũng bùn dễ dàng.

Ta ngầm cười nhạt. Nếu cô ta biết kế hoạch này của ta, thế nào chẳng nghĩ mọi cách thăm dò ra chỗ sơ hở, rồi bày một thế trận kín kẽ hơn nữa, đằng nào cũng phải khiến ta mắc câu mới thôi. Ta cười đáp: “Thần thiếp có lòng trắc ẩn của riêng mình, thần thiếp luôn mong mối quan hệ với Hoàng hậu được khăng khít vui vẻ, thực sự có thể coi nhau là tỷ muội. Kỳ thực thần thiếp không muốn đẩy Hoàng hậu vào chỗ bất nghĩa, xin người yên tâm. Sau khi Sư Quý phi hư thai, thần thiếp đã len lén lấy đi thứ khoáng vật trong bọng sưởi chân của ghế tử đàn, chẳng một ai hay biết.”

Khiến cho Sư Viên Viên mất đi cái thai dĩ nhiên không phải hoàn toàn bởi cái gọi là “khoáng vật trong bọng sưởi của ghế Tử Đàn”. Lò sưởi ở dưới chân ghế Tử đàn vốn đã được thiết kế để giữ nhiệt lâu, lại thêm một loại khoáng thạch có đặc tính khó tản nhiệt, thứ này trong Trung y được dùng để hoạt huyết, nếu đem biếu thẳng cho Sư Viên Viên tất sẽ bị tra ra, mọi chuyện không những thất bại mà còn gây tội. Từ đầu ta đã sai người của Thượng Cung cục lén lấy đi, Hoàng hậu không biết, Khổng Văn Trân cũng không biết, chỉ có nhà họ Hoắc và người thợ chế tạo ghế tử đàn là hay. Do đó nếu Hoàng hậu tra xuống, cũng chỉ biết được rằng thứ khoáng thạch đó là thủ phạm hãm hại Sư Viên Viên, mọi tội chứng đều không có lợi cho bản thân, bởi vậy Hoàng hậu mới sốt sắng hẳn lên như vậy.

Thời Phượng Cần loạng choạng chực ngã, đôi tay trắng trong như ngọc phải vịn vào song sắt lạnh lẽo mới đứng vững. Ta liếc nhìn đôi tay đó mà than thở: “Hoàng hậu nương nương, nếu Hoàng thượng mà biết bàn tay ngọc ngà của người cùng nhúng vào tội ác máu tanh với thần thiếp, chẳng biết những khi riêng tư có còn muốn gọi người là ‘biểu muội’ hay không?”

Cô ta miễn cưỡng đứng thẳng người dậy, một trận gió lạnh ùa vào nhà ngục, khiến mình liễu run rẩy. Hoàng hậu cười khổ: “Ninh Chiêu Hoa, ngươi biết không? Nếu một người được tán dương trong thời gian dài, dần dần sẽ tưởng mình có thể làm được tất cả mọi thứ trên đời, chẳng có khó khăn nào không thể vượt qua, từ đó đâm không thể chịu đựng bất cứ uất ức gì dù chỉ một chút. Bản cung từ khi lên ngôi Hoàng hậu, đã chẳng để thứ gì vào mắt, quên đi di huấn của tổ tông dòng tộc, quên cả việc chỉ cần một lời nói cử chỉ bất cẩn của mình cũng có thể đẩy cả gia tộc vào vòng nước lửa.”

Ta biết mình đã đạt được mục đích, bèn thầm thở phào một hơi, cười nói: “Thực ra thần thiếp và nương nương rất giống nhau, đều thân bất do kỷ. Thần thiếp không trách nương nương đẩy mình vào cảnh tù tội, nương nương làm vậy chỉ vì bảo vệ bản thân mà thôi. Nhưng tình thế như hiện nay, nương nương nên nghĩ cách giúp thần thiếp thoát tội là hơn.”

Khuôn mặt trắng như tuyết của Hoàng hậu dưới ánh đèn phảng phất trở nên trong suốt: “Muội muội nên biết, một vụ án lớn đến vậy hễ bung ra, không biết có bao nhiêu kẻ phải chịu liên đới. Khả năng của bản cung thực ra cũng có hạn... nhưng bản cung có thể cầu xin Hoàng thượng mở lượng khoan hồng với muội muội...”

Ta huơ tay lên cắt ngang lời, rồi thủng thẳng nói: “Hoàng hậu nương nương, thần thiếp không nói mình không nhận tội, người không nhất thiết phải cầu xin Hoàng thượng, với quyền thế trong tay, bày một kế nhỏ kim thiền thoát xác với nương nương có gì là khó?”

Hoàng hậu trợn mắt thất kinh: “Muội định rời xa chốn hào hoa phú quý bậc nhất trong gầm trời này ư?”

Ta đáp: “Đây tuy là nơi hào hoa phú quý bậc nhất, nhưng mười mấy năm qua đối với thần thiếp chỉ là cái lồng sắt giam thân.”

Kỳ thực mỗi lần nhận được thư của mẫu thân từ ngoài cung gửi vào, biết bà sống no đủ hạnh phúc, từng ngày trôi qua thanh thản tươi vui, lòng ta thế nào cũng dâng lên một cảm giác mong mỏi thèm muốn. Ở trong cung ta luôn bị vô số kẻ quyền cao chức trọng hơn kìm kẹp, nhưng ra ngoài, ta tin với tài xoay xở ứng biến, bản thân có thể sống sung túc mà tự do tự tại hơn rất nhiều.

Tính ta vốn không hay lưu luyến những thứ vô nghĩa, hậu cung tuy hào hoa vinh hiển, nhưng đã bị Hoàng hậu dồn vào bước đường này thì nơi đây không còn thích hợp nữa, miễn cưỡng ở lại chỉ khiến cho mâu thuẫn tranh đấu càng thêm ác liệt. Sau lưng Hoàng hậu có Hoàng thượng chống đỡ, có gia tộc hậu thuẫn, còn ta chỉ có đôi bàn tay trắng, thế bại đã rõ mười mươi. Ta chỉ nắm được một sơ hở nhỏ để áp chế Hoàng hậu, thế nào cũng có ngày cô ta biết chi tiết đó không thể gây hại đến mình. Ta chỉ có cách nhân lúc kẻ địch còn đang dao động chưa kịp định thần phân tích phải trái, tẩu thoát càng nhanh càng tốt. Đây là điều ta nên làm.

Ánh mắt Hoàng hậu lóe sáng, hàng lông mi dài phủ rợp cả con ngươi. Ta hiểu những gì cô ta đang suy tính, nếu thả ta đi, há chẳng phải đồng nghĩa với việc đem phóng sinh mối nguy hại lớn nhất của mình?

Ta nói: “Hoàng hậu không cần lo lắng, người đừng quên chuyện Sư Quý phi thần thiếp cũng có phần tham dự, muội muội thì nằm trong tay người. Nếu thần thiếp làm chuyện xằng bậy, tính mạng của muội muội khó mà giữ được, nó là người thân duy nhất còn lại trên đời này của thần thiếp...”

Mặt ta thoáng buồn, nhưng trong lòng thầm nghĩ, trong lúc ta nguy khốn nhất, người muội muội yêu quý lại còn được nước đẩy thuyền, xô ta xuống vực thẳm. Con a đầu này chẳng thích tiến cung lắm ư, thôi thì hãy chiều ý nó, cho nó ở lại bên cạnh Hoàng hậu, nơi tập trung mọi quyền lực tối cao chốn hậu cung. Ta cười thầm, lần trước vào cung, nó hàn huyên cùng ta vẻ chân thành khẩn thiết lắm, chẳng biết trong ấy có bao nhiêu phần là vì bản thân mình, bao nhiêu phần là vì ta?

Hoàng hậu có vẻ đã lung lay, nhưng hãy còn do dự, kỳ thực ta đã gợi ý cho cô ta cách tốt nhất để giải quyết vấn đề, nếu thành công, từ đây ta sẽ được sải cánh ra trời cao biển rộng, còn Hoàng hậu cũng bớt đi một kẻ địch khiến bản thân ăn ngủ không yên. Mọi chuyện mờ ám trước đây sẽ chìm xuống đáy nước. Cũng có thể cô ta rung động là vì nghĩ rằng, sai người đoạt tính mạng ta ở ngoài cung sẽ dễ dàng hơn nhiều.

Cuộc đời như một trò cá cược, ta sẽ không vì thế mà lùi bước, cam nguyện cố thủ trong cung, gắng gượng bám víu lấy một nam nhân sẽ chẳng bao giờ biết yêu ai. Huống hồ muốn đoạt mạng ta không phải chuyện đơn giản.

Ngọn đèn dầu trong phòng ngục bỗng lay động, khiến ánh sáng vốn leo lét càng trở nên chập chờn, lúc tỏ lúc mờ, nhân ảnh đã bé nhỏ mong manh lại như bị vùi dập dưới cơn sóng dữ, quặn thắt, méo mó.

Hoàng hậu chợt cười: “Ninh muội muội suy nghĩ thực chu toàn, bản cung sao nỡ từ chối yêu cầu của muội? Phòng giam này ẩm thấp lạnh lẽo, khiến muội phải chịu khổ một phen rồi. Bản cung sẽ sai người mang chăn gấm áo bông đến, những ngày tháng này chắc sẽ còn dài, không nên để cái lạnh làm tổn hại đến thân mình.”

Ta hoan hỉ cúi xuống hành lễ, lần này là niềm vui thật lòng: “Tạ ân điển của Hoàng hậu nương nương. Bên cạnh Hoàng hậu nương nương lúc này đang thiếu người, muội muội thần thiếp tuy ngu độn, nhưng dung mạo cũng dễ nhìn, nếu Hoàng hậu nương nương bằng lòng, xin để tiểu muội thay thần thiếp hầu hạ... Tiểu muội này của thần thiếp rất nghe lời, không suy nghĩ quá nhiều như thần thiếp, lúc nào cũng như chim sợ cành cong, tưởng cả thế giới muốn hại mình...”

Hoàng hậu gật gật đầu: “Muội muội yên tâm, nếu con bé đã là người chí thân trên đời này của muội, bản cung tất sẽ đối tốt, cho con bé một danh phận để sống yên ổn trong cung.”

Trong lòng dù có thống hận bao nhiêu, nhưng nền giáo dưỡng tỉ mỉ từ khi còn tấm bé khiến cô ta không tốn nhiều thời gian phân rõ lợi hại, nhận định tình thế một cách khách quan. Ngôi vị Hoàng hậu mà cô ta đang ngồi, không chỉ ảnh hưởng đến vinh nhục cá nhân, mà còn là hưng bại của cả gia tộc họ Thời.

Vì thế, Hoàng hậu không thể để mình sơ sểnh dù là một chi tiết nhỏ nhất.

Nữ nhân có quyền lực trong hậu cung là như thế đó.

Mọi việc đã bàn bạc thỏa đáng, Hoàng hậu bèn quay người đi về phía cửa ngục, thân hình tú lệ uyển chuyển bước đi, tấm áo trắng một màu càng nổi bật trên bức tường xám xịt, trông hơi quỷ mị âm u, chẳng còn dáng vẻ đoan chính uy nghiêm như lúc ngồi ở trên điện Kim Loan vàng ngọc huy hoàng.

Ta nghĩ, người như Thời Phượng Cần chỉ thích hợp sống mãi trong cung, và cũng chỉ có cô ta mới thích hợp để ngồi lên ghế phượng dát vàng.

Hoàng hậu rảo bước đến góc tường, chợt chầm chậm quay lại, trên mặt dường như đang mỉm cười: “Muội muội, có một chuyện ta nghĩ muội nên biết. Việc lần này không phải chỉ do mình ta, mà vốn là mong muốn của Hoàng thượng. Trong cung có một số người, vì lý do nào đó không được phép sống sót cũng là lẽ thường. Bản cung chỉ nghĩ cách hoàn thành ý muốn của Hoàng thượng mà thôi.”

Lòng ta lạnh băng. Mấy ngày gần đây Hạ Hầu Thần không đối xử với ta bạo liệt như trước, khiến ác cảm của ta với hắn tiêu biến đi đôi phần. Hóa ra hắn vẫn thế, coi mọi thứ như con cờ trong tay mình. Cảm giác mới lại với ta vừa hết, đã cảm thấy con cờ này chẳng còn giá trị gì nữa. Nhưng sao ta lại như thế? Chẳng lẽ trong trái tim này vẫn còn ẩn chứa chút vọng tưởng nào với hắn? Nghe mấy lời của Hoàng hậu, đáng ra ta không nên thất vọng. Không sai, đó mới là Hạ Hầu Thần, lạnh nhạt vô tình, có thể rũ bỏ bất cứ thứ gì cảm thấy nên rũ bỏ, ví như ta.

Hoàng hậu thấy ta bất động, dường như đã sớm đoán biết sẽ như vậy, khẽ thở dài một tiếng, thần sắc trở nên kỳ lạ, chẳng nói gì thêm, chậm rãi rời khỏi cửa ngục. Ta nghe tiếng cô ta dặn dò quan cai ngục: “Ninh nương nương tuy phạm đại tội, nhưng vẫn là tỷ muội tốt của bản cung, các ngươi không nên xử bạc với cô ấy. Lát nữa hãy đến Thượng Cung cục lĩnh chăn gấm và áo bông mới về cho Ninh nương nương, nhớ thắp thêm bếp sưởi trong phòng giam. Trước nay thân thể Ninh nương nương vốn suy nhược, nếu xảy ra sơ suất gì, bản cung sẽ không tha cho các ngươi!”

Ta cảm thấy trong tim mình có một tia cảm kích thật lòng. Chăn gấm áo bông quả thực là hai thứ hiện giờ ta rất mong mỏi. Hoàng hậu là người hay đắn đo hơn thiệt trong chuyện lớn, nhưng những việc nhỏ lại rất phóng khoáng, tốt hơn nhiều so với vô số kẻ bụng dạ hẹp hòi ta đã gặp. Nếu cô ta không quá cố chấp, biết đâu chúng ta thực sự có thể trở thành tỷ muội tốt của nhau.

Nhìn ra song cửa sổ bé tẹo trong phòng giam, ta thấy tuyết rơi. Cuối cùng thì tuyết cũng rơi. Đêm đông này có lẽ giống như đêm đông năm nọ, cũng tuyết bay mù trời. Ngày ấy ta khổ tận cam lai, còn hôm nay, mong muốn của ta xem ra cũng sẽ được toại nguyện.

Trận tuyết lạnh xuyên thấu thịt da, kỳ thực đối với ta lại là điềm may mắn.

Mỗi lần lâm vào nghịch cảnh, thời vận của ta lại dần trở nên sáng sủa.

Lát sau, viên cai ngục mang đến một tấm chăn gấm màu trắng trơn cùng áo bông dày dệt bằng tơ tằm, kiểu dáng tuy bình thường, nhưng lót bông dày hơn một chút, chạm tay vào thấy mềm mịn, có lẽ được làm từ tơ tằm thượng hạng. Bếp sưởi cũng được mang vào, trong phòng giam bốn bề thông gió, tuy chưa thể ấm bằng ở Lan Nhược hiên, nhưng cũng tốt lắm rồi.

Ánh mắt viên nữ cai vào Thượng Cung cục lấy đồ có chút kỳ lạ, thấy cô ta muốn nói lại dừng, ta bèn hỏi: “Có phải Khổng Thượng Cung có lời muốn truyền tới ta?”

Cô ta vội vã quỳ xuống tâu: “Nương nương, Khổng Thượng Cung nhờ nô tỳ hỏi thăm nương nương, bảo nương nương yên tâm tĩnh dưỡng, mọi uẩn khúc rồi sẽ sáng tỏ... nương nương thiếu thốn thứ gì, cứ đưa tin đến Thượng Cung cục là được...”

Ta lẳng lặng cười nhạt. Khổng Văn Trân vốn định trèo cao, tưởng rằng vuốt đuôi Hoàng hậu là có thể bức ta đến chỗ chết, bí mật của bản thân sẽ vĩnh viễn được chôn vùi. Nào ngờ Hoàng hậu lại không theo ý, vẫn sai người mang chăn gấm vào ngục, như thể tình nghĩa giữa ta và Hoàng hậu vẫn thắm thiết không đổi, bảo sao Khổng Văn Trân sợ chết khiếp, đành phải chủ động đánh tiếng vỗ về. Ta khẽ than: “Bản cung giờ thân vùi ngục tối, vậy mà vẫn còn nhiều người nhớ đến như vậy, xem chăn này đường kim mũi chỉ đều tăm tắp, kín kẽ đến con ruồi bay chẳng lọt, các cung nhân bình thường làm sao làm ra được, chắc là chính tay Khổng Thượng Cung mới làm đây mà? Ngươi hãy thay bản cung đa tạ Khổng Thượng Cung.”

Phàm những vật do Khổng Văn Trân làm ra, ta chỉ nhìn sơ là biết. Với vị trí như hiện tại, đương nhiên cô ta không cần chính tay khâu chăn gấm áo bông, có lẽ vì sợ quá, trong lúc tâm trí rối ren bất đắc dĩ nghĩ ra cách này, có điều thời gian cấp bách, từ lúc Hoàng hậu hạ ý chỉ đến khi chăn được trao vào tay ta chỉ cách có vài canh giờ, cô ta không thể kịp khâu xong cả cái chăn lớn, chẳng qua điểm xuyết vài đường vào những chỗ dễ thấy, mục đích chính là để ta nhìn ra.

Cai ngục ở Tông Nhân Phủ vốn không giống nơi khác, họ biết những người bị giam bên trong đều là hạng không tầm thường, hiện giờ tuy rơi vào vòng lao lý, nhưng nếu được phóng thích thì lại đường hoàng là một nhân vật hô mưa gọi gió, cho nên không ai dám tỏ vẻ ngạo ngược bất kính. Lại thêm nữ cai kia thấy ta vừa bị giam chưa đầy mấy canh giờ đã có người mang chăn đến, Hoàng hậu còn đích thân tới thăm hỏi, bèn càng siêng năng hầu hạ, ân cần niềm nở, nghe nói ta có bệnh đau khớp, còn sai người đến Thượng Cung cục hầm canh thuốc dâng vào.

Thời gian vùn vụt trôi, chớp mắt đã hết một ngày, ta hỏi cai ngục, tuyết ngoài kia đổ có dày không?

Cô ta nói, cũng sâu xấp xỉ một xích.

Hôm nay đại hàn, tất cả mọi người đều ở trong cung điện mà ủ ấm, vụ án của ta có lẽ sẽ tạm gác lại?

Thời tiết quả thực khắc nghiệt, cai ngục sai người mang thêm hai bếp sưởi vào bày ở hai góc phòng, căn ngục bỗng chốc ấm áp hẳn lên, tuy bốn bề đều thông gió, nhưng không còn cảm thấy lạnh giá chút nào.

Đang uống canh hầm do Thượng Cung cục mang đến, chợt nghe ngoài cửa ngục có người khẩu truyền: “Hoàng thượng giá đáo.”
 

Hoa Tử

Sưu tầm
Tham gia
24/9/19
Bài viết
10,570
Điểm cảm xúc
1,484
Điểm
113
Chương 13.2:
Cai ngục nghe xong phịch một tiếng quỳ mọp xuống đất khấu đầu nghênh giá. Ngó ra chưa thấy bóng dáng Hạ Hầu Thần, ta bèn húp nốt chỗ canh còn lại trong bát, đoạn thong thả quỳ xuống.

Mặt đất trong nhà ngục dĩ nhiên không thể so sánh được với đá xanh ngọc trắng bằng phẳng nhẵn nhụi của hoàng cung, những chỗ gồ ghề sắc nhọn trên mặt đá chưa được bào kỹ, đâm qua lớp quần bông, khiến đầu gối ta đau nhói.

Ta nghe có tiếng cửa sắt bị mở ra, kẽo kẹt chói tai vô cùng, khiến người nghe thấy nhức cả răng, khóe mắt đã trông thấy vạt dưới của chiếc trường bào lông cáo màu trắng, thấp thoáng đôi hài màu vàng tươi, mũi hài còn ướt, có lẽ vì đạp tuyết mà đến.

Cuối cùng Hạ Hầu Thần đã tới. Sao hắn phải tới? Hoàng hậu đã giúp hắn trừ diệt mối họa lớn nhất trong cung, bản thân hắn chỉ việc khoanh tay đứng nhìn, khiến đám người bên nhà ngoại của Thái hậu trút mọi oán hận lên đầu ta, khiến tất cả người trong thiên hạ tưởng rằng Thái hậu chết bởi tay một phi tử vô danh tiểu tốt. Mà phải, hắn nên đến để cảm tạ mới hợp lẽ.

“Căn phòng này cũng ấm áp đó chứ, chẳng giống nhà lao chút nào.” Giọng nói của Hạ Hầu Thần băng giá vượt cả trận tuyết ngoài cửa sổ.

Lòng ta dâng lên một cảm giác tức giận, trong mắt hắn ta vẫn là thứ chẳng đáng một đồng, nên được chọn làm kẻ thế mạng cũng dễ hiểu. Nhưng hắn là Hoàng thượng, đất trong thiên hạ, có đâu không màu vàng[1]. Nghĩ đến đây, lòng ta liền dịu xuống: “Hoàng thượng, Hoàng hậu nương nương có lòng xót thương thần thiếp, nên đã sai người mang bếp sưởi đến.”

[1] Màu vàng của đất được chọn làm màu của vua, ám chỉ cả thiên hạ thuộc về vua.

Nghe thấy thế, hắn trầm ngâm hồi lâu mới nói: “Đứng dậy đi, mặt đất lạnh lắm đấy.”

Ta vội bò dậy, đầu gối đập vào mặt sàn thô ráp đau điếng, tuy đã gắng sức đứng cho nghiêm cẩn, nhưng không tránh khỏi lảo đảo, đánh mắt nhìn lên, chỉ thấy Hạ Hầu Thần đang giơ một cánh tay ra, dường như là muốn đỡ?

Nhìn lại lần nữa, lại thấy cánh tay hắn đã chắp sau lưng, chẳng lẽ ta hoa mắt?

Khang Đại Vi đang đứng ngoài cửa sắt chờ, lúc này bỗng lên tiếng: “Hoàng thượng, mấy thứ này nên cho đám nô tài mang vào chưa ạ?”

Hạ Hầu Thần lạnh lùng đáp: “Không cần nữa, ở đây đủ rồi.”

Ta ngó trước nhìn sau, trong phòng giam này thứ nhiều nhất chỉ có bếp sưởi, chẳng lẽ hắn cho người mang bếp sưởi vào? Ta không dám tin, nhưng chớp mắt một cái lại thấy bình thường. Cuối cùng hắn cũng có chút cảm kích ta, muốn ta ra đi được thanh thản đây mà, có lẽ thế này đã là biểu hiện nhân từ nhất của hắn rồi.

Hạ Hầu Thần không cho người mang bếp sưởi vào, nên ta không tiện khấu đầu tạ ơn, có điều ngoài khấu đầu hoặc cúi mình hành lễ, ta thực không biết nên làm gì. Nếu là các phi tần bình thường, bị ép tới bước đường này, tất sẽ tha thiết xin hắn mở lượng hải hà, lớn tiếng kêu oan, nhưng ta sống trong cung lâu ngày, đã thấu triệt mọi lẽ nhân quả, nay Đế Hậu coi ta như quân cờ sử dụng, thì quân cờ này sớm đã định số có ngày bị hủy đi, có cầu xin bao nhiêu cũng chỉ phí hoài sức lực. Hồi lâu sau, ta mới thốt được một câu: “Đa tạ Hoàng thượng còn nhớ đến thần thiếp.”

Hắn cau mày nói: “Bất cứ khi nào nhìn thấy trẫm, ngươi đều có vẻ khó chịu, trẫm đến khiến ngươi gặp nhiều rắc rối lắm sao?”

Ta cúi đầu đáp: “Hoàng thượng, thần thiếp đâu có khó chịu, phải nói là không dám như vậy, Hoàng thượng nghĩ ngợi nhiều nên thấy vậy đó thôi.”

Hắn lạnh lùng nói: “Trẫm thấy thế nào không đến phiên ngươi đánh giá!”

Người này thật kỳ lạ, chẳng bàn chuyện chính, chạy đến tận nhà ngục này gặp ta chỉ để rủ rỉ nói chuyện sao? Cứ day đi day lại thứ chuyện vô vị này chẳng biết để làm gì?

Ta nói: “Thần thiếp giờ là phạm nhân, không đáng để Hoàng thượng đích thân đến thăm hỏi. Trong ngục dơ dáy, thần thiếp sợ làm vấy bẩn đến long thể.”

Hắn tiến lên trước một bước, chỉ còn cách ta trong gang tấc, vòm ngực chút xíu nữa sẽ đụng vào mũi ta. Phải kìm chế lắm ta mới không lùi lại. Hắn đưa tay ra ôm trọn lấy khuôn mặt ta, chỉ cảm thấy làn hơi lạnh buốt từ mấy ngón tay thanh mảnh truyền vào da thịt. Sự đụng chạm này đã khiến ta không cách nào chịu được nữa, bèn vùng vẫy định thoát, lòng thầm nghĩ chỉ mấy ngày nữa thôi mình sẽ vĩnh viễn thoát khỏi hắn, không cần chịu đựng sự hành hạ lẫn tính khí thất thường kia nữa, nghĩ đến đây lại thấy chẳng nên tính toán làm gì, bèn không buồn vùng vẫy thêm, nặn ra mấy giọt nước mắt mà thưa rằng: “Hoàng thượng, thần thiếp bị rơi vào hoàn cảnh này, chẳng dám trách ai, chỉ trách mình bình thời không sống sao cho tử tế.”

Hắn thả tay khỏi mặt ta, khẽ nói: “Ninh Chiêu Hoa vẫn không hiểu, tuy gương mặt này của ngươi có thể che giấu mọi sự thật, nhưng người bên cạnh ngươi thì không. Đêm qua sau khi Hoàng hậu rời khỏi Tông Nhân Phủ, thần sắc trở nên khác thường, trẫm chỉ hỏi một chút, Hậu đã kể hết sự tình. Trẫm vốn đang nghĩ nên làm thế nào để cứu ngươi, nhưng xem ra chẳng cần nữa!”

Ta thất kinh, lập tức nín khóc, liếc nhìn Hạ Hầu Thần, chỉ thấy trong mắt hắn bừng bừng lửa giận, cứ như muốn ăn tươi nuốt sống mình. Rốt cuộc hắn đã biết được bao nhiêu? Ta vắt óc suy nghĩ, Hoàng hậu không phải hạng người ngu ngốc, chắc sẽ không đem kể hết mọi chuyện, cùng lắm chỉ thuật lại tình hình khổ sở của ta trong ngục mà thôi. Hắn định phỉnh gạt ta chăng?

Nếu không hắn sẽ chẳng nhiều lời vô ích.

Nghĩ thế, tinh thần ta dần trở nên trấn tĩnh, đang định quỳ xuống thỉnh tội, bất chợt cánh tay bị Hạ Hầu Thần nắm chặt đến đau nhói, ngước nhìn lên, thấy trong ánh mắt sắc bén tinh minh xen lẫn một tia bi thương, như cơn hồng thủy cuốn qua đất bằng mà trời đất lại đổ mưa xuân, lòng ta chợt rúng động, bèn nói: “Hoàng thượng, thần thiếp và Hoàng hậu trước nay luôn giao hảo, Hoàng hậu vì giữ cho hậu cung yên bình, bất đắc dĩ phải trừ bỏ thần thiếp. Thần thiếp vì chuyện này lẽ nào không đau xót, nhưng sống trong cung đã nhiều năm, thần thiếp sớm thấu hiểu đó là nơi như thế nào, nên chỉ dám cầu xin Hoàng hậu cho mình được ra đi thanh thản một chút, không ngờ Hoàng hậu nhớ về tình xưa đâm quá tỉ mỉ chăm chút, khiến Hoàng thượng phải lo nghĩ.”

Ta vừa thăm dò sắc mặt Hạ Hầu Thần vừa nói, muốn xem rốt cuộc hắn đã biết bao nhiêu phần nội dung cuộc nói chuyện bí mật ngày hôm qua.

Hắn thả ta ra, đứng thẳng người, chắp tay sau lưng, ngẩng đầu nhìn ra ngoài ô cửa sổ phòng giam, ngoài kia chỉ có tuyết, tuyết rơi bất tận. Dẫu đứng giữa phòng giam tồi tàn u tối, thân hình hắn vẫn phảng phất sự uy vũ bức người, như cây tùng Hoàng Sơn, như đỉnh chóp Thái Sơn: “Ninh Chiêu Hoa, trong cung không chỉ có ngươi là kẻ thông minh, cũng không chỉ có ngươi sống ở đó lâu năm, tai vạ đến thời đừng để gậy ông đập lưng ông, chết vì sự thông minh của chính mình!”

Nghe tiếng đàn hiểu ý tình, cuối cùng ta đã nhận ra, hắn không biết rõ đêm qua ta và Hoàng hậu nói những gì, có lẽ chỉ do Hoàng hậu trong lúc bối rối để lộ sơ hở, khiến hắn sinh nghi.

Việc cần làm bây giờ là phải đánh tan sự nghi ngờ của hắn. Ta thảm não: “Hoàng thượng, thần thiếp như cành liễu neo mình trên tường thành, để sinh tồn chỉ có cách tìm bằng được một chỗ nương tựa, nếu giờ khắc cuối cùng này thần thiếp có thể giúp ích được gì cho Hoàng thượng, mong người thương cho thần thiếp phải chịu tiếng xấu trăm năm, cho thần thiếp được chết toàn thây. Nếu có thể, xin Hoàng thượng cho người mang xác thần thiếp về quê nhà chôn cất, thần thiếp khi còn sống không dám trách phận mỏng duyên bạc, chỉ cầu kiếp sau được sống đời bình thường.”

Hạ Hầu Thần nghe xong, quay phắt lại, nhìn chằm chằm vào ta, nụ cười trên môi bay biến: “Hóa ra ngươi luôn nghĩ trẫm là người như vậy, ngươi cho rằng trẫm đem ngươi ra làm con tốt thí?”

Ta cúi đầu không đáp, trong lòng nghi hoặc: Ta đâu còn giá trị lợi dụng gì nữa, hắn việc gì phải làm bộ làm tịch, ra vẻ đau buồn phẫn nộ? Người lạnh lùng đứng sau giật dây mọi chuyện trong miệng Hoàng hậu đích thực là hắn, vì muốn dẹp yên trận phong ba bên phía Thái hậu mà tung ta ra chịu trận, thế cục này ta sớm đã hiểu, chuyện tranh đấu trong hậu cung bao giờ chẳng vậy, tính thiếu một bước, khiến bản thân rơi vào cảnh hiểm nghèo này, ta đành cam chịu.

Thấy ta cúi đầu không đáp, hắn đột nhiên bước lại gần, ta chưa kịp né tránh, mái tóc sau ót đã bị nắm lấy. Hắn khiến ta không thể cử động gương mặt, sau đó ghé mặt mình sát lại, nói bằng giọng vô cảm: “Có lúc trẫm thật sự muốn phanh ngực ngươi ra, xem trong ấy rốt cuộc có trái tim hay không?”

Gương mặt hắn càng lúc càng gần, ta bị giữ chặt không thể tránh né được, nghe cả mùi hơi thở phả ra từ cái mũi thẳng tắp, mát lạnh như bạc hà, có lẽ hôm nay hắn uống canh rồi mới tới. Ta không hiểu hắn tức giận vì cái gì, theo lý mà nói, hắn là Hoàng thượng, quân muốn thần chết, thần không chết là bất trung. Cả ta, Hoàng hậu và hắn đều hiểu chuyện Thái hậu vong mạng thế nào cũng phải có người hứng chịu tội danh, ta không có gia tộc chống lưng, ở trong cung địa vị chẳng cao chẳng thấp, lại có ân oán sâu xa với Thái hậu, chính là lựa chọn tốt nhất cho vị trí con tốt thí mạng. Chính ta đã thản nhiên chấp nhận điều này, việc gì hắn phải nộ khí bừng bừng như thế? Có phải vì ta không lớn tiếng kêu oan, nước mắt ròng ròng xin hắn chủ trì công đạo, nên hắn đâm cụt hứng, khó chịu trong lòng?

Phần ta chịu không thể giả vờ được. Sau khi biết Hạ Hầu Thần là kẻ đứng sau mọi chuyện, mà còn bắt ta tỏ vẻ thất vọng, yếu mềm thì thật là khó ngoài sức tưởng tượng. Ta chưa bao giờ kỳ vọng điều gì ở Hạ Hầu Thần, thì lấy đâu ra thất vọng. Hắn giở mưu ma chước quỷ mới khiến ta cảm thấy dễ thở. Vậy mới thực sự là Hạ Hầu Thần, là vị Hoàng đế vượt qua bao phong ba mà ngồi lên vương vị.

Ta chậm rãi đáp lời: “Thần thiếp có tim chứ, trái tim ấy thủy chung hướng về Hoàng thượng, bất luận Hoàng thượng muốn thần thiếp làm gì, thần thiếp đều sẽ dốc tâm dốc sức hoàn thành, kể cả có phải mất cả tính mạng.”

Ta thừa biết hắn cố làm ra vẻ giận dữ, trong lòng đã hơi sốt ruột, thầm nghĩ Hoàng thượng ơi là Hoàng thượng, yêu cầu của ngài cũng cao quá đấy, đã định bắt ta chết thay, mà còn đòi ta tỏ vẻ tuyệt vọng đau thương, ra chiều lưu luyến ấy à? Ninh Vũ Nhu này sống trong cung từ nhỏ, thế sự bạc bẽo trông thấy đã nhiều, nên thích nghi với nó rồi. Người trong cung ai ai cũng quen giả tạo, nhưng “tình ý” giữa ta và Hoàng thượng lại đạt đến mức độ này, trước khi bức tử còn bắt ta diễn tuồng mua vui! Ta nghĩ thầm, Hạ Hầu Thần, người đúng là khó hầu hạ, cũng may, vài ngày nữa thôi ta chẳng cần hầu hạ người nữa rồi.

Tuy nhiên để tránh xảy ra sơ suất vào lúc quan trọng, ta đành cúi đầu không nói gì, lặng lẽ chờ động thái tiếp theo của hắn. Mùi trong nhà lao khá nồng, phòng giam của ta tuy có bếp sưởi, nhưng bốn bề thông gió, có thế nào hắn cũng không dùng thủ đoạn cũ để trừng phạt ta chứ?

Chỉ cần hắn đừng làm thế, ta chẳng có gì phải sợ. Ta đã làm con tốt đúng ý hắn, người đến bước đường cùng suy tính cho mình cũng là lẽ đương nhiên. Hắn chẳng buồn cảm kích, lại còn quen thói xỏ xiên trách móc, Hạ Hầu Thần ơi là Hạ Hầu Thần, người thật khiến ta chết mệt. Nghĩ đến việc chẳng bao lâu nữa có thể thoát khỏi hắn, ta thầm nhủ, giờ hắn có làm gì cũng cố mà nhẫn nhịn cho qua là xong.

Chợt nhớ hắn không thích mình giả vờ tươi cười, ta bèn lạnh mặt mà nói: “Hoàng thượng, thần thiếp rất biết vị trí của mình, chưa bao giờ dám có nửa phần vọng tưởng, được phò tá Hoàng thượng là vinh hạnh của thần thiếp. Thần thiếp cam nguyện một mình hứng chịu tội danh, không làm liên lụy đến kẻ khác...”

Ta tự cảm thấy mấy lời này khá là hợp tình hợp lý, hắn có thế nào cũng sẽ ít nhiều cảm động, thử hỏi trong kia có vị cung phi nào giơ mình ra trước lưỡi đao chết thay mà bình thản như ta?

Nghe xong, rất lâu hắn không cất lời, quay mình đi chỗ khác, trước mặt ta chỉ có tấm lưng to rộng. Trên người hắn bận tang phục, chẳng hiểu sao làm ta cảm thấy tấm lưng kia thêm đôi phần thê lương, lòng bất giác trở nên sốt ruột. Tuy ta ở trong cung nhiều năm, sớm đã học hết mọi mánh khóe lường gạt giả dối, nhưng Hạ Hầu Thần lại là cao thủ trong đám cao thủ, dáng vẻ này... chẳng lẽ hắn muốn ta thể hiện lòng tuyệt vọng luyến tiếc với mình bằng được mới hài lòng? Hắn muốn làm một đấng minh quân, thánh quân, thì cứ làm trò trước mặt chúng nhân là được rồi, nơi này tứ phía chẳng có bóng người, việc gì phải vậy?

Mấy ngày liền sau sự biến to lớn, tuy ta tìm được đường sống trong chỗ chết, nắm chắc một hai sinh cơ, nhưng đổi lại phải động não liên tục, đã mệt mỏi rã rời, chỉ muốn được yên tĩnh, tiện nghĩ cách khéo léo thúc ép Hoàng hậu, liệu đường thoát thân ngay lúc cô ta chưa tra xét rõ chân tướng những lời đe dọa của mình.

Hậu cung là chốn đã dạy ta làm thế nào vượt qua nghịch cảnh, làm thế nào toan tính quyền mưu, nhưng lòng ta chẳng hề lưu luyến nơi này. Nếu còn ở lại, với gia cảnh của ta, vĩnh viễn chỉ có thể bị người ta đè đầu cưỡi cổ, sau này tuổi tác lớn dần, sẽ bị vứt vào xó tường. Thêm nữa, Hạ Hầu Thần tâm tư khó đoán, hỉ nộ vô thường, sau này có người mới nhập cung, năm ba năm liền ta không được ân sủng, thậm chí cả đời về sau không được, cũng là chuyện thường tình. Hoàng hậu vốn dĩ có ý thù địch, hôm nay ta tìm cách thoát được tội danh thì hậu cung cũng chẳng còn chỗ để dung thân, nếu cố sống cố chết bám trụ chỉ chuốc lấy tủi nhục. Bạc đầu phi tử, một mình thêu áo.

Nếu có thể xuất cung thì lại khác, dựa vào tay nghề thủ công của mình, lại thêm vốn liếng thu lượm được thời còn làm Thượng Cung, cho dù mai danh ẩn tích làm một thương nhân nho nhỏ, ta cũng thừa sức sung túc phú quý.

Ta đã thể hiện quyết tâm với Hạ Hầu Thần, mục đích của hắn cũng đạt thành, việc gì phải làm khó ta nữa?

Vậy mà mấy lời tâm huyết kia chỉ đổi lại một sự im lặng dài đằng đẵng. Chiếc áo bào trắng như cây tùng phủ đầy bông tuyết, hoàn toàn bất động. Ta vừa hoảng hốt vừa bối rối, chẳng biết nên tiếp tục cuộc đối thoại này ra sao, chẳng lẽ phải tỏ vẻ tình thâm lưu luyến, bi thương tuyệt vọng hắn mới thỏa mãn? Nhưng vừa nói xong mấy lời ban nãy lại làm vậy, há chẳng làm hắn thêm bực bội, càng cho rằng ta đã giả dối lại càng giả dối hơn?

Lửa trong bếp lò nơi phòng ngục cháy rừng rực, những viên than củi phát ra tia lửa trong câm lặng. Đột nhiên chẳng rõ vì sao, một chiếc bếp lửa phát ra tiếng nổ lớn, khói bụi bắn tung tóe khắp nơi, có mấy viên than vỡ bắn lên tấm trường bào màu trắng của Hạ Hầu Thần, chiếc áo này rõ ràng được dệt từ tơ tằm, không bền như nhung gấm, thấy trên vạt áo bị thủng hai lỗ lớn, ta vội nói: “Hoàng thượng cẩn thận.” Vừa nói vừa lia mắt tìm cái cời lửa mà cai ngục để sẵn trong góc phòng.

Cời lửa được nung từ sắt, cầm trong tay thấy lạnh tanh, Hạ Hầu Thần dường như chẳng thèm nghe ta cảnh báo, vẫn đứng bất động bên cạnh bếp lửa. Ta không tiện vòng ra trước mặt hắn cời lửa, thấy cái bếp kia lại lép bép mấy tiếng, những đốm lửa bay ra suýt chút nữa thì liếm sạch vạt áo trước của Hạ Hầu Thần.
 

Hoa Tử

Sưu tầm
Tham gia
24/9/19
Bài viết
10,570
Điểm cảm xúc
1,484
Điểm
113
Chương 14.1:
Ta chẳng để ý gì nữa, vội vứt cái cời lửa xuống đất, kéo Hạ Hầu Thần ra sau: “Hoàng thượng, lửa này lạ lắm, than củi cháy bình thường không như thế.”

Than này trông bề ngoài giống như loại than rẻ tiền trong dân gian thường dùng, nhưng khói bốc lên mù mịt khác thường.

Vô tình nhìn sang, chợt thấy mắt Hạ Hầu Thần đỏ hoe, hình như bị lửa hun quá độ, đôi môi mím chặt, cả gương mặt lạnh tanh, ta vội gọi: “Hoàng thượng, người sao vậy, cay mắt quá phải không?”

Vào lúc này xin ngài đừng xảy ra chuyện ngay trong phòng giam của ta, đừng làm ảnh hưởng kế hoạch của ta!

Hạ Hầu Thần nhắm nghiền đôi mắt, quay người rảo bước ra xa nhằm tránh cho Khang Đại Vi nghi ngờ: “Đừng cho người vào đây!”

Khang Đại Vi vô cùng tỉnh táo, vội vã chạy ra ngoài, trong phòng ngục chỉ còn lại ta và Hạ Hầu Thần.

Ta sững người, sâu trong tim nảy sinh ý hoảng, lùi về sau một bước, miễn cưỡng cười hỏi: “Hoàng thượng, người sao vậy?”

Hắn từ từ tiến lại gần, ta chỉ biết lùi dần lùi dần, đến khi chạm phải mép giường bèn ngồi sụp xuống, chẳng biết lùi đi đâu nữa, đành giương mắt nhìn cánh tay hắn chậm rãi đặt lên người mình. Như mọi khi, trong không gian vắng lặng vang lên tiếng xiêm áo bị xé toạc, bàn tay hắn luồn vào vạt áo, mang theo một hơi lạnh, rút cạn hơi ấm trong người ta. Hắn nói: “Chỉ có những lúc thế này, trẫm mới cảm nhận được ngươi một cách chân thực…”

Trời quả thực rất lạnh, gió rét tức thì lùa qua cổ áo tràn vào cơ thể, ta không kìm được né tránh: “Hoàng thượng, Hoàng thượng, người từ từ đã, thần thiếp ở trong ngục đã mấy hôm, sợ làm người nhiễm uế khí.”

Ở một nơi thế này mà hắn còn nổi hứng cho được, ngoài nỗi sợ, ta còn cảm thấy không thể hiểu nổi, Hạ Hầu Thần rốt cuộc là người như thế nào?

Hắn thì thầm vào tai ta: “Đừng phản kháng nữa, ngươi là người biết thời biết thế, tự hiểu cự tuyệt trẫm sẽ dẫn đến hậu quả như thế nào.”

Cảm giác chán ghét trong tim ta dâng đến cực điểm, thầm nghĩ nếu hắn là minh quân, thì phải biết lần này ta hy sinh lớn biết nhường nào, tất thảy trù mưu toan tính đều thành hư không, đổi lại cái họa lao lý, hắn đã đạt được mục đích, sao còn đày đọa ta?

Chiếc áo bông trên người bị hắn cởi tuột, đôi tay nam nhân như con rắn lần mò xuống dưới, buốt giá như không còn chút sức sống, khiến cả cơ thể ta cóng lạnh theo. Những ngón tay hắn mơn trớn vỗ về phần trên đùi, cả người ta rởn da gà. Chăn trong phòng đã được đổi cái mới, nhưng chắc chắn vẫn có thể ngửi thấy mùi ẩm mốc đặc trưng, vậy mà hắn chẳng hề thay đổi so với mọi lần, loáng cái đã sẵn sàng lâm trận. Ta nhủ thầm, chẳng lẽ biết bao phi tần trong cung vẫn không đủ khiến ngài thỏa mãn?

Đúng như lời hắn, ta không được phép phản kháng, không được phép né tránh. Thôi thì mong cho quãng thời gian ê chề này mau chóng trôi qua.

Nhưng lần này Hạ Hầu Thần có vẻ khác lạ, không như mọi khi. Ngón tay hắn chậm rãi lướt trên tay ta, đôi bàn tay vốn lạnh giá dần ấm lên nhờ nhiệt độ cơ thể, từ từ khiêu khích thân dưới, khiến ta cảm thấy khó chịu, tê dại. Trong lòng tuy chán ghét tận cùng, nhưng cơ thể lại mong đợi được hắn chạm vào, khi phát giác điều này, ta không kiềm chế được kinh ngạc, cơ thể sao lại không như ý bản thân, khe khẽ ưỡn lên dưới cánh tay hắn. Đang lúc bối rối, chỉ thấy tia dục vọng trong mắt Hoàng đế càng lúc càng nóng bỏng, dường muốn xé ta ra làm trăm mảnh. Hắn khẽ cười: “Hóa ra trước đây trẫm làm sai cách...”

Ngón tay ấm nóng của hắn chậm chạp đưa vào... một ngón, rồi hai ngón, trong lòng ta muốn cự tuyệt, nhưng cơ thể lại như bông hoa bừng nở nghênh đón chúng, lòng thẹn dâng trào, hắn định làm gì thế này? Coi ta như hạng gái thanh lâu rẻ rúng? Muốn ta triệt để thần phục trước hắn? Nhưng ta chẳng đã quỳ dưới chân hắn rồi đó sao? Ta chẳng đã nói chuyện làm bất cứ việc gì vì hắn, chỉ vì hắn mà thôi đó sao?

Gương mặt tuyệt đẹp của Hạ Hầu Thần dần dần ửng đỏ, hơi thở trở nên nặng nề, ngồi dậy cởi bỏ y phục trên người, rồi lại ôm lấy ta. Không cần. Ta xoay mặt đi chỗ khác, chiếc váy lót sau cùng bị hắn lột ra không thương tiếc, bàn tay kia lướt nhẹ vào bên trong... Ta gắng gượng ép chặt hai đùi lại. Trong phòng tuy có bếp sưởi, nhưng thân mình vẫn thấy lạnh ngắt. Chiếc chăn trắng đột nhiên được phủ lên cả hai, cùng lúc, hắn rút mạnh ngón tay, rồi thâm nhập, sau cơn xấu hổ ta thở phào, lần này không đau đớn như những lần trước.

Có tấm chăn bao phủ, ta không còn thấy lạnh, trong mũi tuy toàn là mùi vị đặc trưng của nhà ngục, nhưng không gian dần ngập tràn cảm giác ủy mị, ta quay nhìn bếp lửa cứ chợt bừng chợt tối. Cơ thể lõa lồ trong chăn bị hắn xâm chiếm, nhức nhối như sắp vỡ làm ngàn mảnh, nhưng không còn đau đớn như trước, ngược lại trong lòng sinh ra mong mỏi. Không khí trong chăn nóng phừng phừng, ta cảm thấy có thứ chất lỏng rơi xuống gáy, ngẩng đầu lên nhìn, thấy mặt y đỏ rực, mồ hôi từ trên trán nối nhau lăn xuống. Thấy ta nhìn, long nhan thêm vài phần sầu nộ, không giống với cơn giận bạo tàn mọi khi.

Ánh nhìn của hắn trở nên phức tạp, như giận lại như tủi, pha chút e thẹn, cứ như muốn lấy tay che kín đôi mắt đang nhìn mình. Rốt cuộc hắn chỉ gườm gườm liếc một cái. Lúc bấy giờ ta còn tâm trí nào giữ gìn vẻ mặt nữa, lòng như vừa buông bỏ điều gì, khoan khoái kỳ lạ, khẽ nghẹo đầu sang bên, tránh ánh mắt của hắn.

Hắn cử động ngày một mãnh liệt, dường muốn vò nát thân ta, nhưng lạ ở chỗ, ta không có cảm giác đau đớn khổ sở như mọi khi, có lẽ cơ thể đã dần dần thích nghi với chuyện này, mọi giác quan trở nên vô cùng linh mẫn, mùi mồ hôi trên người hắn hòa quyện với mùi nhà ngục, như một liều thuốc độc ấm áp. Càng lúc cảm giác chán ghét với hắn càng tiêu biến đi, chỉ muốn kéo dài thời gian này ra mãi mãi.

Không, ta không nên lưu luyến hắn! Cung điện là cái cũi nhốt mà ta phải thoát ra, cảm xúc này sẽ hủy hoại tất cả. Ta chẳng qua chỉ là một phi tử trong vô vàn phi tử khác, đừng, đừng bận lòng vì tia ấm áp mong manh này mà phạm sai, từ đây vạn kiếp bất phục.

Ta hít vào một hơi nặng nhọc, ngọn lửa trong bếp lò in trong đáy mắt. Phải chăng vì nhìn quá lâu, nên dẫu nhắm mắt lại, ngọn lửa đó vẫn cứ bập bùng cháy trước mắt.

Chợt một suy nghĩ lóe lên: Ta là kẻ thuộc về hậu cung, đã thuộc về hậu cung quá lâu, có thể nào suốt đời này ta chỉ phù hợp với nơi đó? Có thể nào chỉ bám víu lấy nó, ta mới có được tất cả những gì mình muốn...

Ta nhắm mắt lại vì sợ hắn nhìn ra suy nghĩ trong mình. Ta sẽ cố gắng, cố gắng khống chế thứ suy nghĩ phản nghịch kia lại.

Một lúc sau, hắn nằm xuống giường, hai tay ôm trọn lấy ta. Hắn dụi đầu vào gáy ta, khe khẽ gọi: “Ái phi, ái phi...”

Ánh nến trong nhà ngục rúng động, dường như đáp lại tiếng gọi của hắn. Trong bóng tối, ta nghe rõ sự mềm yếu bên trong tiếng gọi ấy. Đây rốt cuộc là thật hay giả, hắn cố tình làm vậy để dụ ta lên tiếng ư? Không thể trách ta nghĩ như vậy, Hạ Hầu Thần hết lần này đến lần khác vạch trần ta, “đạo hạnh” của hắn cao thâm hơn ta nhiều lần, lại nắm trong tay quyền lực chí cao vô thượng, ta chỉ có cách cẩn thận từng li từng tí, không để hắn khống chế toàn bộ cục diện.

Một lúc lâu không nghe ta đáp lời, hắn thở dài: “Thật lạ lùng, trẫm luôn muốn ngươi đối xử với trẫm thật lòng, nhưng ngay lúc gần gũi nhất, trẫm lại thấy khó chịu. Chỉ có những khi thế này, ngươi mới để lộ cảm xúc chân thật ra, hoặc buồn, hoặc vui...”

Nghe đến câu cuối, tim ta giật thót. Ta thực sự đã để lộ hỉ nộ ra mặt ư? Cả người rã rời, ta hít một hơi thật sâu, tập trung tinh lực mới thốt lên lời: “Hoàng thượng lo nghĩ quá nhiều rồi, thần thiếp không đáng để người phải như vậy.”

Thực tế ta không tin hắn lại như vậy. Hắn tiến thoái lưỡng nan, vì ta mà rung động ư? Hai chúng ta là cùng một hạng người, diễn kịch trước mặt kẻ khác thành quen rồi. Khi còn ở cung Trường Tín, ta tận mắt tận tai chứng kiến hắn lợi dụng tình nghĩa mẹ con với Thái hậu, vừa sướt mướt đau thương đấy, nhưng bà ta quay lưng đi khỏi, hắn lại là Hạ Hầu Thần khinh bạc vô tình. Tình cảm của hắn có bao nhiêu là thật, bao nhiêu là giả?

Chăn gấm của Thượng Cung cục đem biếu vào ngục tuy không thêu hoa cỏ chim chóc đẹp đẽ như chăn dùng trong hậu cung, nhưng vẫn là chất liệu chống lạnh hảo hạng nhất, trong phòng lại có bếp sưởi cháy hồng, tuy thi thoảng có cơn gió lùa qua, nhưng ta không thấy lạnh chút nào. Hắn ôm chặt ta trong lòng, qua cơn sợ hãi, mới cảm thấy nhiệt độ trong chăn tăng cao, mồ hôi trên người hắn thấm đẫm da thịt, ta cảm thấy hơi khó chịu, khẽ cựa mình một cái, hắn giật mình tỉnh dậy, lại càng ôm chặt hơn. Ta ngập ngừng nói: “Hoàng thượng, đêm đã khuya rồi... Người...”

Đôi môi nóng hổi của hắn đặt lên gáy ta, ta cảm thấy nơi ấy đau tấy, bất giác rên lên một tiếng. Hắn nói: “Trẫm biết ngươi không thích, nhưng chỉ những khi thế này, trẫm mới cảm nhận ngươi là chân thực. Nhìn ngươi đi lại giữa phồn hoa nhung gấm hậu cung, trẫm lo bất ngờ ngươi sẽ tan biến đi mất...”

Lòng ta thất kinh, hắn biết rồi ư, biết được bao nhiêu? Ta cắn chặt răng, cố không để các bắp thịt trên cơ thể co rút, vì đang nằm gọn trong lòng hắn, chỉ hơi có chút phản ứng sẽ bị phát hiện ngay. Ta cố nói bằng giọng ấm áp nhất có thể: “Hoàng thượng, chuyện lần này là do thần thiếp sơ ý gây họa. Cục diện như hiện nay chẳng ai có thể cứu vãn được nữa, thần thiếp cam nguyện vì Hoàng thượng gánh chịu mọi thứ.”

Cơ thể hắn dần nóng ran, cánh tay siết chặt đến nỗi ta không thể thở được, có lẽ hắn lại nổi giận mất rồi?

Lòng ta thấp thỏm không yên, nhưng không dám vọng động, lát sau, nhiệt độ cơ thể hắn dần trở lại bình thường, cất giọng điềm đạm: “Trẫm biết chuyện này không phải do ngươi làm. Ngươi tin hay không thì tùy, trẫm không hề ra lệnh cho ai đổ tội lên mình ngươi cả!”

Rốt cuộc hắn cũng nói ra lời này, nhưng ta có thể tin được không?

Ta trầm ngâm không đáp, lặng lẽ ôm chặt một góc chăn. Ở chốn thâm cung này, ta có thể tin được ai? Nên tin ai? Rất lâu sau ta mới nói: “Hoàng thượng, thần thiếp không hề oán trách.”

Trong phút chốc, vòng tay to lớn kia buông lỏng ra. Hắn vạch chăn, ngồi dậy, gió lạnh lập tức lùa vào, hút lấy hơi ấm nồng nàn trong chăn. Hắn giận rồi. Ta không dám động đậy, thậm chí không dám kéo chăn che gió lạnh. Hắn tiện tay hất một cái, vạt chăn rớt xuống người ta, gió lạnh lúc này mới bị ngăn lại. Ta quay mặt vào tường, nơi đây tuy là căn phòng tốt nhất của nhà ngục, nhưng trên tường vẫn đầy vết loang lổ. Ta hồi tưởng lại tất cả những gì vừa xảy ra, thật như một giấc mộng.

Có tiếng loạt soạt khe khẽ vang lên, có lẽ hắn đang mặc quần áo. Cánh cửa sắt kêu lên ken két rồi im bặt. Giọng Hạ Hầu Thần không to không nhỏ mà vang vọng khắp nơi: “Khang Đại Vi, hồi cung.”

Tiếng đáp rè rè, the thé của Khang Đại Vi cất lên ngay sau đó: “Hoàng thượng, người sao vậy?... Ninh nương nương lại...”

Rất lâu sau chẳng có ai đến làm phiền ta. Duyên ấm đứt đoạn, cơ thể ta lạnh dần. Có quấn chặt chăn gấm vào người cũng không hết lạnh. Ta nghĩ thầm: Hoàng thượng, thần thiếp vốn là người như thế đấy. Sống trong hậu cung, thần thiếp phải làm người như vậy.

Ta lần mò trong chăn, hẳn phục mỗi nơi một ngả cuối cùng được tập trung lại, khi mặc xiêm áo cho tề chỉnh mới cảm thấy người mình ấm lên một chút.

Chợt nghe cửa sắt lại mở ra, có tiếng cai ngục cung kính gọi: “Nương nương, nô tỳ để thêm hai cái bếp nữa nhé?”

Ta liếc nhìn, nữ cai kia càng thêm vẻ kính cẩn, quả thực có hai cái bếp đặt ngay trước cửa phòng. Ta nói: “Thế thì nhiều quá, nhỡ gây hỏa hoạn thì sao?”

Cai ngục đáp: “Không lo, không lo. Nô tỳ sẽ cho người ngày đêm canh gác, chỉ mong nương nương nói giúp nô tỳ vài câu trước mặt Khang công công... Nô tỳ nào dám biếng nhác, phòng giam trước nay vẫn bị gió lùa như vậy mà...”

Trông cô ta như thể nếu không đem bếp sưởi vào sẽ ăn không ngon ngủ không yên vậy. Ta đành khoát tay, mặc cô ta muốn làm gì thì làm, viên nữ cai hớn hở hăng hái mang bếp vào, như trút được gánh nặng.

Thân ta mang trọng tội, can dự đến gốc rễ của quốc gia, cho dù Hạ Hầu Thần thực có lòng sợ rằng cũng không bao che nổi. Nếu không Thái hậu năm lần bảy lượt tham gia đảo chính, hắn sẽ không hết lần này đến lần khác bỏ qua. Nguyên nhân chủ yếu có lẽ bởi binh lực của mấy vị phiên vương kia hùng mạnh, nếu cái chết của Thái hậu bị phanh phui là có liên quan đến Thiên tử, họ chẳng sẽ mượn cớ xuất binh đoạt quyền ngay? Khi Hạ Hầu Thần chưa thành niên, tất cả chuyện triều chính đều bị nhà Thượng Quan khống chế, Thái tử như hắn chẳng khác gì con rối, có thể bị phết truất bất cứ lúc nào. Họ Thượng Quan thế lực giăng kín bầu trời, cho nên thời ấy ta mới chọn theo phe Thái hậu, ai ngờ vị Thái tử yếu thế lại bất ngờ trở mình thành công?

Ngoài trời tuyết lất phất bay, thi thoảng có một vài bông lạc vào song cửa sổ, bị ta tóm lấy trong lòng bàn tay. Ta đã như cá nằm trên thớt, ngài không Thừa Ânhận việc do mình làm thì có thay đổi được gì? Ngài đâu thể cứu ta, ngài chỉ có thể mặc cho Hoàng hậu hí lộng càn khôn, nắm giữ lấy vương quyền và ổn định triều cang. Một nữ nhân nhỏ bé như ta phải hy sinh có đáng là gì?

Cuồng phong rít gào, tuyết rào rạt lùa vào phòng, đậu trên tay ta. Tia cảm xúc nồng ấm không rõ từ đâu vừa giăng mắc trong lòng nay đã tan chảy vào hư không.

Tuyết rơi liên miên ba ngày, đến ngày thứ ba, mặt trời mới ló mặt ra khỏi tầng mây âm u, sưởi ấm mặt đất bằng ánh sáng của mình. Có lẽ giờ này tường đỏ ngói xanh trong cung vẫn phủ một màu trắng xóa, đám cung nhân chắc đã dậy từ sớm để dọn tuyết trên đường lớn, cho kiệu loan của Hoàng đế đi qua được dễ dàng.

Sống trong ngục, ranh giới giữa ngày và đêm dường như bị xóa nhòa, trong cung không còn ai tới thăm, cả ngày ta chỉ biết ngủ mê mệt, đến đêm lại không thể chợp mắt, dù có bếp lửa hồng sưởi ấm, nhưng cứ trước khi trời sáng thể nào ta cũng sực tỉnh, ngóng vầng mây ửng hồng, chờ lỗ cửa sổ chuyển từ màu đen sang trắng bạch.

Tất cả những gì ta có thể làm chỉ là chờ đợi, đợi tình thế ổn định, đợi Hoàng hậu thực hiện lời hứa của mình. Ta từng nghĩ nếu chuyện không thành thì sẽ ra sao, nếu buộc phải lôi Hoàng hậu xuống bùn để đổi lấy cái mạng hèn của mình, cũng coi như lãi to. Lúc này ta đã xem nhẹ việc sống chết, đâm càng nhận được sự kính ngưỡng của vị nữ cai trung tuổi kia. Cô ta tưởng ta đã có cách thoát tội, thể nào cũng có ngày trở về hậu cung, càng siêng năng hầu hạ từng li từng tí.

Ngày hôm đó, ta dậy sớm như mọi bận, rảo quanh phòng giam một vòng, cảm thấy thật vô vị. Mỗi sáng cai ngục đều tới Ty Thiện Phòng lĩnh bữa sáng mang về, bữa nay xem giờ giấc còn lâu mới đến, bên ngoài có hai tên thủ hạ được phái đến trông coi bếp lò sao cho hồng rực đêm ngày.

Rất lâu sau, nữ cai đích thân cầm cái mâm nhỏ, có lẽ dùng để đựng thức ăn bước vào. Vẻ mặt cô ta kính cẩn như thường, nay lại thêm vài phần hoan hỉ, đặt cái mâm lên kỷ án, hớn hở nói: “Nương nương, đại hỷ rồi, nghe người trong cung kể, Hoàng thượng nói rằng vụ án của người còn nhiều nghi vấn, muốn giao cho Đại Lý Tự phúc thẩm. Nương nương, người sắp được cứu rồi!”

Đầu mày cuối mắt cô ta đầy vẻ ngưỡng mộ, cứ như chính mình sắp thoát tội không bằng. Ta lúc ấy đương mở mâm, nhấc cái lọ sứ hai lớp lên, vừa nghe đến đây, thật như sét đánh ngang tai, suýt nữa trượt tay đánh rơi xuống đất. Vậy là tất cả hy vọng, tất cả kế hoạch chẳng hóa ra tro cả sao?

Việc gì hắn phải làm vậy? Coi như có thể giúp ta thoát tội, nhưng ta còn sống nổi trong cung nữa không? Hắn làm thế, chẳng tự quăng mình vào muôn trùng rắc rối, hậu cung vốn dĩ đã như một cái ao nước tù, lỡ tay khuấy lên, hàng sa số mùi vị khó ngửi lập tức xộc thẳng vào không trung, những đồn đoán truyền ngôn hễ bung ra ngoài, chỉ không cẩn thận chút thôi là mọi chuyện dây lên mình, nói không chừng đám phiên vương ở biên cương sẽ mượn cớ làm loạn.

Bởi Thái hậu và hắn ân oán sâu nặng, nghi ngờ từ nhiều phía sẽ chĩa về hắn, tội danh mưu sát Thái hậu quả là cái cớ tuyệt vời để đám phiên vương chầu chực đêm ngày như hổ đói xông vào xâu xé. Dù là nhìn từ khía cạnh nào, hắn cũng không nên làm thế này!

Nữ cai thấy ta nghe nói thì ngẩn người, tưởng ta mừng quá không thốt lên lời, bèn hoan hỉ tiếp: “Nô tỳ vừa nhìn đã biết nương nương phúc dày, sao có chuyện ở lâu tại nơi xúi quẩy này...”

Ta sốt ruột cắt lời cô ta: “Ngươi nghe được chuyện này từ đâu?”

Nữ cai đáp: “Nương nương, lúc nô tỳ vào cung lấy bữa sáng cho nương nương, thấy đám cung nhân trong ấy ai ai cũng đồn đại râm ran, nghe nói Tông Nhân Phủ đã lĩnh ý chỉ rồi, e rằng ngay ngày hôm nay Đại Lý Tự sẽ đến hỏi chuyện nương nương. Có thánh chỉ của Hoàng thượng ở đây, ai dám làm càn?”

Nói xong, cô ta lại vồn vã xúc động xúc đầy một bát cháo đưa ra: “Nương nương, người đừng vội, thế nào cũng có lúc mọi chuyện hai năm rõ mười, Hoàng thượng đã hoài nghi chuyện này, trong cung còn ai lớn hơn Hoàng thượng nữa?”

Lòng ta nóng như lửa đốt, xem ra lần này phải tính toán lại từ đầu, lật ngược vấn đề lại mà suy nghĩ. Có điều dù kết cuộc thế nào, Hoàng hậu vẫn cứ vững như bàn thạch, hỏi ta làm sao sống tiếp trong cung được?

Ta bỏ bát cháo, hồi tưởng lại tình cảnh khi Hạ Hầu Thần lần trước đến thăm, xem bản thân có nói hay làm điều gì không thỏa đáng để lọt vào mắt hắn, khiến hắn sinh lòng ngờ vực, cho rằng ta muốn trốn đi hay không. Ngẫm đi ngẫm lại một hồi thấy không đúng lắm, nữ nhân như ta chẳng qua chỉ là một phi tần bé nhỏ giữa vô số phi tần của hắn, nhằm tránh cho hoàng thất khỏi nỗi ô nhục, dẫu có biết được âm mưu kia hắn cũng chỉ việc dặn dò quan giám hình trông coi cẩn thận, tăng thêm lính gác là được, việc gì phải hao tâm tốn sức đi đường vòng?

Trước đây cũng vậy, ta suy nghĩ mãi mà không thể nghĩ ra nguyên do cách hành xử lạ lùng của hắn, chỉ đành đổ cho một số nguyên nhân nào đó khiến hắn bất đắc dĩ phải làm vậy?

Nữ cai thấy ta cứ ngơ ngơ ngẩn ngẩn, chẳng buồn ăn cháo cũng chẳng buồn rửa mặt, bèn sai hai cấp dưới vào hầu hạ, do đây là nơi giam giữ nữ phạm, lại thường là những người lai lịch bất phàm, nên đám cai ngục đều được học qua lễ nghi trong cung, tuy không thể so sánh với các cung nữ chuyên nghề hầu hạ như Tố Khiết, nhưng vẫn tạm chấp nhận được. Trong lúc tâm tình đang hoảng hốt, ta chẳng chú ý lắm bọn họ chải đầu có đẹp hay xấu.
 

Hoa Tử

Sưu tầm
Tham gia
24/9/19
Bài viết
10,570
Điểm cảm xúc
1,484
Điểm
113
Chương 14.2:
Qua giờ tỵ không lâu, quả nhiên có một đám người do thái giám dẫn đầu, một viên quan thẩm án mang theo thánh chỉ của Hoàng thượng tới. Vốn dĩ vụ án của ta thuộc quyền thẩm tra của Tông Nhân Phủ, nhưng Tông Nhân Phủ hoàn toàn nằm trong vòng kiểm soát của nhà họ Thời, Hạ Hầu Thần muốn tránh đi, bèn giao vụ án cho Đại Lý Tự là nơi tâm phúc của mình xử, có vẻ thật muốn giúp ta thoát tội?

Viên quan này râu tóc rậm rạp, trên người bận quan phục tam phẩm, gương mặt tràn đầy chính khí. Tuy phải nằm ngục nhưng ta chưa bị truất phong hiệu, vẫn danh chính ngôn thuận là phi tử của Hoàng thượng, do đó khi thăng đường hoặc thẩm vấn ta chỉ việc đứng mà trả lời, không cần quỳ, ngược lại quan thẩm phải hành lễ xong mới có thể bắt đầu tra hỏi.

Qua lời người nữ cai, ta mới biết vị này chính là Lí Sĩ Nguyên, viên quan có tiếng ngang ngạnh cố chấp đánh chết không thay đổi thuộc Đại Lý Tự, nghe nói khi thẩm án ông ta chẳng bao giờ thèm để ý xuất thân lai lịch bị cáo, chỉ chiếu luật mà làm, dưới thời tiên hoàng từng mấy phen bị thăng giáng ba chìm bảy nổi, cố nhiên đắc tội với không ít người, ngược lại không mấy ai to gan đùa với lửa. Nghe nói ông ta tuy cố chấp sắt đá, nhưng thông minh tuyệt đỉnh, án do ông xử ít có án oan. Nữ cai vừa nhắc đến tên người này, ta đã biết Hoàng thượng quyết tâm giúp ta thoát tội.

Còn ta không lẽ lại nói với người rằng, thần thiếp chẳng muốn thoát tội chút nào?

Ta lặng lẽ thăm dò Lí Sĩ Nguyên, ông ta có đôi mắt sắc bén như dao, cảm giác khi bị ánh mắt đó liếc qua cũng hao hao như khi bị Hạ Hầu Thần dò xét. Ta thầm than không hay, dự cảm không lành trong lòng dâng cao. Xem tình hình này, kế kim thiền thoát xác đã thỏa thuận với Hoàng hậu khó mà thành.

Ta vốn là một phi tần phẩm vị không quá cao, với danh tiếng của Lí Sĩ Nguyên, theo lẽ sẽ không tôn trọng lắm, vậy mà ông ta vẫn chu toàn lễ nghĩa, cung kính như thường, khi thẩm vấn càng không vặn vẹo bức ép, câu nào câu nấy thoải mái như thể chuyện phiếm.

Đầu tiên Lí Sĩ Nguyên hỏi ta cặn kẽ từng chi tiết về cái đêm Thái hậu mất, ta cân nhắc cẩn thận mới trả lời, phục hiện hầu hết tình hình cung Tinh Huy lúc đó cho hắn nghe. Ta biết chẳng cần thêm mắm dặm muối thì nghi vấn lớn nhất vẫn đổ dồn về phía mình, có người cố ý thêm dầu vào lửa, chuyện đẩy ta vào nguy kịch thời dễ như trở bàn tay. Vậy mà nhìn dáng vẻ Lí Sĩ Nguyên hồ như chẳng hề bị tác động bởi ảnh hưởng bên ngoài, ông ta lặng lẽ nhíu mày, dường như phát hiện không ít nghi vấn bên trong.

Lòng ta thầm sốt ruột, nhưng không dám thúc giục, tránh khiến ông ta sinh lòng ngờ vực, nhủ thầm tình cảnh như hiện tại chỉ có cách thẩm tra cả Hoàng hậu, lẫn tình tình ngoài cung lúc đó mới phán đoán được chính xác. Có điều Hoàng thượng đã nhúng tay vào, e rằng Hoàng hậu tránh đi còn không kịp, chắc gì đã tới đây? Nếu cô ta đến chẳng quá mạo hiểm hay sao?

Lí Sĩ Nguyên hỏi rất nhiều, miệng một điều nương nương hai điều nương nương, giọng điệu vô cùng cung kính, ta bèn thuật lại tình hình đêm đó một lượt. Ông ta không hề nhắc đến ân oán giữa ta và Thái hậu, ta thấy lạ bèn chủ động hỏi, Lí Sĩ Nguyên liếc nhìn đầy ẩn ý thưa rằng: “Nương nương, thiên hạ là của Hoàng thượng, nương nương làm như thế chính là quay đầu về bờ, đâu thể coi là động cơ giết người? Huống hồ gia đình nương nương ở ngoài bị người ta truy sát, nếu tại hạ không lầm thì gia mẫu đã không may táng mạng?”

Ta chẳng biết nên khóc hay nên cười, cảm thấy cần phải đề cao cảnh giác với con người này, hình như hắn đã điều tra ra mẫu thân ta là ai? Quả thật không hổ danh là Lí Sĩ Nguyên cẩn thận kín kẽ, ngang ngạnh cố chấp!

Lí Sĩ Nguyên còn nhắc đến “Khổng Thượng Cung”, ông ta cho rằng những điều Khổng Thượng Cung nói đích thực là sự thật, có điều đó chỉ là sự thật nhãn tiền. Ta lấy làm lạ, bèn hỏi hắn, chẳng lẽ còn một sự thật nào khác, hắn chỉ mỉm cười mà không nói.

Sau khi hỏi chuyện xong, Lí Sĩ Nguyên bèn cáo biệt, trước khi ra về để lại cho ta hai câu nói không mấy rõ ràng: “Nương nương, đời người có khi tưởng mất mà lại còn, tưởng còn mà hóa mất, vụ án này nếu có tội thì tránh không thoát, vô tội tất không thể bị oan. Xin nương nương yên tâm, bản quan nhất định điều tra cho rõ ngọn ngành sự việc.”

Ta chỉ biết mỉm cười tỏ ý cảm tạ, ngó theo bóng dáng quan phục tam phẩm chầm chậm rời đi, bất giác trong lòng dâng lên một dự cảm, người này cứ như hình bóng Hạ Hầu Thần khi về già vậy!

Trong lòng ta nơm nớp lo sợ, một Hạ Hầu Thần đã làm ta điêu đứng, giờ lại thêm một Hạ Hầu Thần lão luyện từng trải gấp bội, kế thoát thân của ta liệu còn có thể trót lọt?

Nhưng có nói thế nào ta cũng không dám tin Hạ Hầu Thần thực sự giúp mình thoát tội. Tuy đây là việc của hậu cung nhưng có ảnh hưởng trực tiếp đến triều chính, đem ta và việc triều chính lên bàn cân, chẳng khác nào như cân con voi với cọng tóc! Tin rằng bất cứ người sáng mắt nào chỉ cần nhìn sơ là hiểu. Hạ Hầu Thần có thể nắm được ngai vàng, đoán chắc là kẻ biết luận thời thế hơn ai hết, ta đành lái suy nghĩ của mình theo hướng cũ: Bên trong tất có một nguyên nhân nào đó bản thân chưa biết rõ, phận mình chẳng qua như lục bình giữa dòng nước, chìm nổi không theo ý.

Thánh chỉ của Hoàng thượng chẳng khác nào một cái tát giáng vào mặt Hoàng hậu, người đầu tiên vạch trần sự việc và tố tội. Hai người họ bình thường yêu thương quấn quýt, Hạ Hầu Thần có lẽ đã ngầm ước định với Hoàng hậu điều gì đó, mới khiến cô ta bình thản như vậy. Không rõ lúc này Hoàng hậu đang nghĩ gì, liệu đã có đối sách hay chưa?

Sau khi Hoàng thượng hạ chỉ phúc tra vụ án, qua cai ngục ta chào hỏi được không ít người thuộc Tông Nhân Phủ, thi thoảng lại có vài kẻ mang biếu thức ăn vật dụng đến. Hạ Hầu Thần bèn giáng chỉ không cho phép ta tiếp người vào thăm viếng, thành thử việc giao liên trong ngoài ngục bị tắc nghẽn hoàn toàn.

Viên nữ cai rất chăm chuyển đồ vặt từ bên ngoài đến tay ta, vừa nhanh nhẹn lại thật thà, không dám bớt xén chút gì. Hôm ấy cô ta đem vào một giỏ hoa quả, nói với ta rằng đó là quà của Khổng Thượng Cung, điều này quả là lạ, từ khi bợ đỡ được Hoàng hậu đến này cô ta lặn mất tăm mất tích, nay lại đột nhiên xuất hiện? Tuy ngày trước nữ cai đến Ty Thiện Phòng lấy canh, Khổng Văn Trân không gây khó dễ, hơn nữa còn tự tay khâu vài đường lên chăn để thể hiện tấm lòng, nhưng rốt cuộc chỉ đến thế. Khi những kẻ khác lũ lượt đem đồ vật đến biếu đâu thấy cô ả có động tĩnh gì, trước nay nào có bao giờ Khổng Văn Trân chịu làm người chậm chân, nên chuyện lần này khá lạ lùng.

Nữ cai dâng cái giỏ đến tay ta xong thời chưa đi ngay. Ta hiểu ý, cô ta là người chịu trách nhiệm trông coi nhà ngục, phải chính mắt nhìn thấy đồ vật bên trong là gì rồi mới được đi.

Đang lúc mở giỏ, nữ cai bỗng bĩu môi, nói: “Nương nương, Khổng Thượng Cung quyền cao chức trọng, mỗi tháng lương bổng hậu hĩ, thế mà chỉ đem biếu có thứ này?”

Trong giỏ có hai loại quả khô, là vải và táo sấy.

Hai thứ này trong cung đích thực chẳng đáng giá, thấy nữ cai có vẻ khinh thường, ta bèn nói: “Vật tuy ít, nhưng cũng là tấm lòng, Khổng Thượng Cung biết ta thích uống trà hoa quả, biếu hai thứ này đến cũng không có gì lạ.”

Nữ cai nghe thế không nói gì nữa, giúp ta gói ghém cẩn thận rồi cất đi.

Ta nhìn theo cái gói nhỏ để táo và vải khô, lặng lẽ cười nhạt. “Lợi ích cạn ắt chẳng có bình an”. Bọn họ muốn chuyển lời đến ta như vậy.

Hai thứ này có lẽ không phải do Khổng Văn Trân muốn đem biếu, mà là người ở cung Chiêu Thuần sai cô ta đem biếu. Lòng ta không tránh khỏi thất vọng, xem ra vị Hoàng hậu trông có vẻ ung dung tiêu sái nay đã luống cuống chân tay, chẳng toan tính bước tiếp theo nên hành động thế nào, mà trước tiên nghĩ cách uy hiếp ta cái đã, coi như trút bỏ mọi trách nhiệm.

Cô ta thân ngồi ngai cao mà chẳng làm nổi việc lớn, kế hoạch của ta nếu kiên quyết thực hiện chắc sẽ khó khăn trùng trùng.

Ta muốn truyền lời đến Hoàng hậu, nhưng có thánh chỉ của Hoàng thượng, nữ cai kia tuy rất tôn kính ta, lại thi hành luật lệnh rất nghiêm cẩn, có lẽ sẽ không giúp ta báo tin ra bên ngoài, quả tình là hết cách xoay xở.

Hai ngày nữa trôi qua, Lí Sĩ Nguyên lại đường bệ xuất hiện trước song sắt trại giam, nói rằng có rất nhiều nghi vấn vẫn chưa giải thích được, cần có nương nương giúp đỡ, ta thầm nghĩ, phá án chẳng phải là sở trường của ông hay sao? Nếu có thể phá giải nghi vấn giúp ông thì ta đâu đến nỗi bị nhốt ở nơi này?

Không ngờ Lí Sĩ Nguyên nhận thấy ngay cảm xúc bức bối trong giọng nói của ta, lão hồ ly chớp đôi mắt sáng quắc, đột nhiên cất tiếng hỏi: “Sao lão thần cứ cảm thấy nương nương ở trong ngục thoải mái quá, đâm không muốn ra ngoài nữa thì phải?”

Ta giật mình sợ hãi, vội cười nói: “Lí đại phu[1] đùa rồi, nhà ngục có dễ chịu đến mấy cũng không bằng hậu cung lụa là gấm vóc, bản phi trước đây sung sướng biết bao nhiêu, bây giờ sao lại không muốn ra?”

[1] Đại phu: Chức quan to thời xưa, dưới quan khanh trên quan sĩ.

Lí Sĩ Nguyên nở một nụ cười chừng mực, không nói tiếp vấn đề này nữa, chỉ hỏi lại tình hình đêm Thái hậu mất, rồi cau mày nói: “Kết quả kiểm nghiệm của ngự y so với lời khai của nương nương không mấy khác biêt, Thái hậu đích thực bị tiêu chảy quá độ dẫn đến kiệt sức, đột nhiên tái phát bệnh tim mà vong mạng, còn có liên quan đến canh thuốc do nương nương mang đến hay không, thời rất khó nói. Nhưng việc các vị thuốc xung khắc với nhau thì có thật.”

Lí Sĩ Nguyên nói tới đây, ta như sực tỉnh, nhớ ra tại sao mình lại đột nhiên muốn đến thăm Thái hậu. Câu nói của Khổng Văn Trân chính là một nguyên do, Hạ Hầu Thần lại là một lý do khác nữa. Chính vì mấy ngày trước Hạ Hầu Thần dùng lời lẽ khinh miệt ám chỉ ta là kẻ sẽ nhẫn tâm vứt bỏ những thứ hết giá trị lợi dụng sang một bên, nên ta mới đi thăm Thái hậu! Nghĩ đến đây, đôi chút ấm áp Hạ Hầu Thần vừa gieo vào lòng hôm nọ phút chốc trở nên băng lạnh, bất giác ta hiểu rõ, mỗi lời nói, thậm chí cả cái nhìn khinh thị kia đều có mục đích riêng. Có lẽ ta đã bị lay động ngay từ phút ấy, nên mới lưu tâm lời hắn nói ra, cuối cùng chuốc lấy kết cục thê thảm!

Hắn đẩy ta xuống bùn, nay lại sai người kéo ta lên, sâu xa bên trong tất có mục đích khác.

Lí Sĩ Nguyên thấy ta trầm tư thất thần, tưởng nghĩ ra điều gì, bèn hỏi: “Nương nương đang nghĩ gì, xin cứ nói với lão thần, lão thần sẽ theo đó mà phân tích xem có thu được điều gì mới không.”

Đầu ta rối ren trăm mối, cuối cùng chỉ còn một suy nghĩ khinh bạc. Hóa ra là vậy, Hạ Hầu Thần hóa ra, mà không, vốn dĩ là người như vậy, phải thế mới là Hoàng thượng mà ta biết chứ.

Lí Sĩ Nguyên dường như nhìn ra điều gì, bèn nói: “Nương Nương, thời tiết tuy giá rét, nhưng vẫn còn hy vọng, nương nương đừng nên quá bi quan.”

Gương mặt ta lúc này đang bi thương lắm sao? Không phải thế, thâm tâm ta biết sự thật vừa lĩnh hội được mới là lẽ tất nhiên. Những điều Hạ Hầu Thần thực sự toan tính kia là lẽ tất nhiên đó chứ! Không hy vọng thì lấy đâu ra thất vọng? Lòng ta tự lúc nào đã có hy vọng về hắn?

Ta lặng lẽ cười nhạt, quay ra nói với Lí Sĩ Nguyên: “Lí đại nhân, bản phi thật không nhớ ra đêm ấy còn phát sinh chuyện gì khác. Tất cả những gì biết được ta đều nói với đại nhận cả rồi, chỉ mong Lí đại nhân dốc sức tìm ra chân tướng, trả lại trong sạch cho bản phi.”

Lí Sĩ Nguyên liếc mắt một cái, bỗng nhiên mỉm cười: “Lão thần đã nhận thánh chỉ, tất sẽ dốc toàn lực tìm ra chân tướng vụ án. Án này nói đơn giản thì đơn giản, nhưng nói phức tạp cũng là phức tạp, điểm khó nhất ở chỗ xử nương nương có tội cũng được, mà vô tội cũng hợp lý. Kết quả còn phải xem những người đứng trong bóng tối lo liệu thế nào, nếu muốn lôi ra bằng cớ xác thực thì thật khó khăn.”

Lời ông ta nói ta sớm đã hiểu, vụ án này kết quả thế nào thực ra hoàn toàn phụ thuộc vào người thẩm án. Nếu Hoàng hậu thẩm án, ta chắc chắn có tội... Triều cục lấy lợi làm đầu, khép tội ta mới thực có lợi nhất cho vụ án này, không phải sao?

Đôi mắt nhỏ của Lí Sĩ Nguyên thi thoảng lại liếc nhìn, dường như nhìn thấu cả lục phủ ngũ tạng người khác. Ta chợt nảy ra một ý, liền nói: “Lí đại nhân, vụ án này trước do Hoàng hậu xét xử, bản cung và Hoàng hậu vốn tỷ muội tình thâm, nay vì bất đắc dĩ mà phải xa mặt cách lòng, bản phi rất muốn hỏi Hoàng hậu xem người lấy đâu ra chứng cứ mà giam ta ở Tông Nhân Phủ. Có điều đang lúc tâm trạng rối bời, lòng đau như cắt, chưa có cơ hội hỏi. Lí đại nhân có thể cầu xin Hoàng thượng cho ta được gặp Hoàng hậu một lần, biết đâu vụ án lại có cơ khởi sắc?”

Nếu dùng mưu mẹo không thể giao liên được với Hoàng hậu, thì ta cứ quang minh chính đại mà xin Hoàng thượng gia ân thử xem. Hoàng hậu không phải người có liên can đến vụ án, chỉ từng là người thẩm án, có lẽ sẽ không đến nỗi cự tuyệt?

Lí Sĩ Nguyên không tỏ thái độ gì, dường như cho rằng nguyện vọng này rất mực chính đáng, nghĩ một lát rồi nói: “Cũng tốt, vụ án đang lúc bế tắc, bản quan cũng không có nhiều chứng cứ xác thực để giúp nương nương, có lẽ chính nương nương sẽ tìm được con đường cứu bản thân mình.”

Không rõ vì sao, ta cứ cảm thấy hai chữ “đường cứu” thốt ra có một ẩn ý đặc biệt bên trong, bèn thận trọng quan sát gương mặt ông ta, nhưng không đoán ra được điều gì.

Xem ra không chỉ hậu cung có thể khiến người ta trưởng thành nhanh chóng, hóa thành cao thủ diễn kịch, mà quan trường cũng vậy.

Lí Sĩ Nguyên quan tước tuy không cao lắm, không phải quan lớn nhất phẩm, nhưng sự sắc bén và mẫn tiệp của ông ta chẳng hề thua kém bất cứ ai.

Không rõ sau đó Lí Sĩ Nguyên cùng Hạ Hầu Thần thương lượng ra sao, một hôm vừa chải đầu rửa mặt xong, ta đã nghe nữ cai hộc tốc chạy vào tâu: “Nương nương, trong cung truyền lời xuống rằng, kiệu loan của Hoàng hậu nương nương đang thẳng tiến tới Tông Nhân Phủ, là phượng thánh chỉ đến thăm nương nương.”

Ta “ừm” một tiếng, nói: “Bếp sưởi trong phòng thế này hơi nhiều, hôm nay ấm trời, thu bớt hai cái lại. Hoàng hậu nương nương thường bận áo bào, tà áo quệt đất, đừng nên đốt lò thì hơn.”

Viên nữ cai cảm thán: “Nương nương suy tính thật là chu toàn, việc lớn việc nhỏ đều nghĩ cho người khác.”

Ta liếc cô ta một cái, lòng thầm nghĩ người này mới trông thô tục nhưng tấm lòng lại trong trắng như tuyết.

Cô ta gọi người dời hai bếp lò đi, trong phòng đâm trống trải hơn nhiều, trở lại dáng vẻ ban đầu khi Hạ Hầu Thần chưa đến.

Mặt trời đã qua đỉnh đầu, sau bữa trưa mới thấy Thời Phượng Cần đến, lần này tiền hô hậu ủng rình rang, khác hẳn dạo trước. Cái tang Thái hậu còn mới tinh, nên cô ta lẫn Hoàng thượng luôn bận y phục màu trắng, trên đầu không cài trâm vòng gì cả, những người hầu cận bên cạnh cũng thế, cả đoàn người trắng xóa một màu.

Lần này ta không thể cùng Thời Phượng Cần nói chuyện tay đôi như lần trước. Xem ra cô ta không dám xua đám người dưới ra ngoài. Nhìn tình hình này ta càng nhận rõ Thời Phượng Cần đối với Hạ Hầu Thần có chút sợ sệt, hay vì có tình nên không tiện phản đối?

Chờ cho ta hành lễ xong, Hoàng hậu bèn sai người mở cửa bước vào lồng sắt, vẻ mặt thân thiết, tóm lấy tay ta mà nói: “Khổ cho muội quá, căn phòng này lạnh lẽo, ẩm thấp âm u, muội muội hãy gắng bảo trọng thân thể.”

Lần này đến đây phải nói là một động thái lớn của Hoàng hậu. Vốn dĩ lần trước, cô ta còn chẳng dám bước vào phòng, chỉ đứng từ xa xa mà nói chuyện. Bây giờ vồn vã bước vào thì chớ, lại còn nắm tay, rõ là muốn đám cung nhân mở to mắt nhìn cho rõ.

Ta cười nói: “Hoàng hậu nương nương xin đừng bận lòng, cai ngục ở đây đối xử với thần thiếp rất tử tế, mọi hôm còn có bếp lò cháy hồng suốt ngày đêm, thần thiếp nay đã thô da dày thịt rồi, chẳng thấy khổ chút nào.”

Ta thản nhiên nhét một miếng bông nhỏ vào tay Hoàng hậu, cô ta ngẩn ra, vội khum tay đón lấy, nắm chặt tay lại thu vào trong tay áo. Cử động này kín đáo mau lẹ chẳng ai hay biết, đến viên nữ cai đứng ngay đó cũng không nhìn thấy gì. Vì vụ án mà Hoàng hậu và Hoàng thượng nảy sinh mâu thuẫn, nhưng dù thế nào Thời Phượng Cần cũng là mẫu nghi thiên hạ, khi ra ngoài có lẽ chẳng ai dám lục soát cô ta.

Hoàng hậu tỏ vẻ hối hận nói: “Muội muội, đều tại bản cung hồ đồ, mới chớm nghe thấy vụ việc đã vừa cuống vừa đau, tưởng ngay muội muội phạm tội lớn, trong lúc tâm thần hoảng loạn đã phán đoán sai lầm. Thật là yêu càng sâu hận càng nặng, bởi tình nghĩa giữa chúng ta quá thân mật nên mới như vậy. Muội muội đừng trách bản cung nhé!”

Ta vội nắm lấy tay cô ta: “Thần thiếp sao dám trách nương nương? Thần thiếp gặp phải tai bay vạ gió, chỉ mong không liên lụy đến nương nương là tốt lắm rồi, há dám nghĩ suy gì nhiều?”

Hoàng hậu bèn nhìn quanh căn phòng một lượt, thử chạm tay vào chăn gấm, cau mày nói: “Lần trước bản cung đến thăm, đã căn dặn Ty Chế Phòng phải mang chăn loại đủ phân đủ lượng, sao bây giờ nhìn trông lại mỏng manh thế này?”

Chăn gấm vốn không mỏng, nhưng Hoàng hậu muốn tỏ vẻ trước mặt chúng nhân, đã thế ta đành phải phối hợp, cất lời khuyên: “Hoàng hậu nương nương, thần thiếp được người quan tâm, nằm trong ngục tối mà có chăn gấm để đắp, có áo bông để khoác, đã là vinh hạnh ngất trời. Ty Chế Phòng không hề chậm trễ, thần thiếp vô cùng hài lòng.”

Hoàng hậu lúc này mới khoát tay, cho nữ cai đang quỳ dưới đất thỉnh tội đứng dậy, lại tỉ tê dặn dò cô ta phải tận tình chăm nom, không được lười biếng... Viên nữ cai chỉ biết dạ vâng liên tục, Hoàng hậu thấy vậy mới thôi.

Ta xem chừng những kẻ đứng quanh, bao gồm cả viên nữ cai, gương mặt đều lộ vẻ cảm phục, biết mục đích hôm nay của Hoàng hậu đã đạt thành. Trước mặt mọi người, cô ta vẫn luôn là một Hoàng hậu đoan trang hòa nhã, dùng lời phục đức thiên hạ, chỉ vì bị ai đó ác ý xúi giục, trong lúc quá nóng giận mới đem nhốt ta vào Tông Nhân Phủ.

Về phía ta, lời muốn truyền đạt cũng đã gửi xong xuôi, muốn làm thế nào là việc của cô ta, chỉ mong Thời Phượng cần đừng như Ninh Tích Văn, vào lúc cấp bách nhất chạm phải Hạ Hầu Thần, bèn lúng túng như gà mắc tóc, quên hết mình định làm gì.

Chẳng mấy khi có được cơ hội tốt như vậy, ta nhất quyết sẽ không từ bỏ hy vọng. Tuy Hạ Hầu Thần đã nhúng tay vào, khiến kế hoạch vấp phải muôn trùng khó khăn, nhưng chỉ cần còn nước còn tát, ta nhất định phải thử.
 

Hoa Tử

Sưu tầm
Tham gia
24/9/19
Bài viết
10,570
Điểm cảm xúc
1,484
Điểm
113
Chương 15.1:
Sau khi Hoàng hậu đến thăm, ngay ngày hôm sau Lí Sĩ Nguyên đã có mặt, chắc hẳn có người đã đem tình hình hôm đó mật báo, ông ta thấy không có manh mối gì, bèn đến thăm dò trực tiếp xem sao. Ta dĩ nhiên không nói hớ nửa lời, chỉ cầu ông ta cho gặp mặt mẹ già một lần.

Hết lần này đến lần khác ta xin được gặp người không khỏi khiến Lí Sĩ Nguyên sốt ruột, tuy vậy ông ta vẫn rộng lượng đồng ý. Nếu ông ta đã truy ra người chết ở am ni cô trước đây không phải mẹ ruột của ta, dĩ nhiên cũng sẽ biết mẹ ruột của ta sống ở đâu, không cần ta nói ra địa chỉ cụ thể. Tiến trình tra án của ông ta đang như lạc phải mê cung, mãi chưa tìm ra cách đột phá, nên cũng muốn khai thác ở những nơi khác nhau, phía Hoàng hậu đã không được gì, có khi tìm hiểu gia đình ta lại lóe lên điều gì thì sao?

Ngày hôm sau, nữ cai đến nói với ta: “Nương nương, có mẫu thân người đến thăm ạ.”

Ta chỉnh trang lại y phục, quay ra cười với cô ta rồi đáp: “Lâu lắm rồi bản cung không gặp mẫu thân, hai bên chỉ liên lạc với nhau qua thư tín mà thôi. Ngươi nhìn xem bản cung ăn mặc thế này có lôi thôi quá không?”

Cô ta nhìn trước ngó sau, phút chốc bỗng ngây ra, sau mới cảm khái mà nói: “Tuy đầu chẳng trâm vòng, mặt không son phấn, mà nương nương vẫn kiều mị mê hoặc lòng người. Nô tỳ làm việc trong ngục lâu năm, từ tiền triều đến nay, từng gặp không ít phi tần phạm tội bị tống giam, nói lời thật lòng, tuy phẩm vị nương nương không cao lắm, nhưng cái khí độ bình thản ung dung, gặp nghịch cảnh mà không hề nao núng như nương nương, nô tỳ chưa từng nhìn thấy ở bất kỳ ai khác.”

Ta vuốt lại mái tóc đen, nói: “Ngươi khéo nói lắm.”

“Nô tỳ biết nương nương không tin, cho rằng ấy chỉ là lời tâng bốc, nhưng nô tỳ không phải kẻ thích xu nịnh. Nô tỳ rất có hảo cảm với nương nương, những lời thốt ra toàn là moi từ gan ruột cả.”

Ta chợt nghĩ vị nữ cai này là người biết điều, cớ gì phải làm cô ta mất hứng, liền tươi nét mặt: “Nói như vậy, mẫu thân ta nhìn thấy chắc sẽ không quá đau buồn xót xa phải không?”

Nữ cai ngục kia thở dài: “Phàm là người mẹ, thấy con mình phải nằm nhà ngục, có ai mà không đau lòng rơi lệ? Nương nương dẫu hồng hào xinh đẹp, mẫu thân của người sợ rằng vẫn cười không nổi.”

Ta liền hỏi: “Nghe ngươi nói, dường như cũng đã làm mẹ rồi?”

Gương mặt cô ta lộ vẻ dịu dàng rạng rỡ hiếm hoi: “Nô tỳ đã có hai con rồi ạ.”

Ta nghe thấy liền than: “Chắc ngươi cũng như mẫu thân ta, xem con cái mình như ngọc ngà châu báu mà nâng niu.”

Ta chưa bao giờ dám nói những khổ sở phải chịu trong cung cho mẫu thân nghe, bởi ta hiểu nếu biết, nỗi đau trong lòng bà sẽ còn lớn hơn ta gấp mười lần. Từ khi ta còn bé, đã được mẫu thân dùng mọi cách để bảo vệ, thậm chí đang tâm từ bỏ cả tình nghĩa ân ái phu thê, chịu mang tiếng điêu ngoa xảo trá cũng không than vãn nửa lời. Nếu bà biết ta phải quỳ giữa đêm gió tuyết mà giặt y phục, bị người ta tát túi bụi trong Ngự Hoa viên, suốt chục năm trời giằng co vùng vẫy giữa ranh giới sống và chết, trong lòng không biết sẽ bi thương đến chừng nào.

Ta cứ để mẫu thân tưởng mình ở trong cung an hưởng phú quý, sống đời sung sướng là tốt nhất.

Từ xa nhìn thấy bóng dáng mẫu thân bước vào, trên người mặc váy lĩnh màu xanh thẫm, áo ngắn cân vạt gấm hoa, búi tóc đơn giản gọn gàng, đai trán dệt bằng sợi bạc sít sao, chính giữa đính một viên ngọc phỉ thúy to bằng ngón tay cái, y phục không rạng rỡ, nhưng món đồ nào cũng là vật quý nhà giàu. Từ xa nhìn lại, gương mặt bà có vẻ ưu tư, nhưng rất ít nếp nhăn, da dẻ không thể căng mịn như thiếu nữ, nhưng cũng không đến nỗi bủng beo. Bà và Thượng Quan Thái hậu có lẽ xấp xỉ tuổi nhau, tuy không được hưởng phú quý bằng Thái hậu, nhưng tinh thần vẫn vô cùng minh mẫn. Ta thầm an lòng, xem ra mẫu thâm sống rất an nhàn, y như trong thư có nói.

Nhìn thấy ta, bà loạng choạng đi nhanh đến, a hoàn hai bên vội đỡ lấy, líu ríu mất một hồi. Khi vào đến phòng giam, cửa sắt chưa mở, bà đã thò tay qua song kéo ta vào lòng: “Con ơi, con có khỏe không?”

Lời ngoài chưa dứt, lệ trong đã đầm đìa, ta không kìm được cũng ươn ướt khóe mi, nữ cai mở cửa phòng giam: “Phu nhân, Lí đại nhân cho phép bà được vào phòng.”

Hai a hoàn dìu mẫu thân đi, bước qua song sắt tiến vào bên trong.

Ta đỡ bà ngồi xuống, nghe thoang thoảng tóc bà có mùi bột hoa gỗ, nhìn kỹ mới thấy trên đầu mẫu thân có sợi bạc, trong lòng không khỏi chua xót. Hóa ra tóc mẹ đã bạc nhiều lắm, mới phải dùng bột hoa gỗ nhuộm đen, bà trước nay kiên cường, trước nay đã quen ngậm đắng nuốt cay, ta gây ra họa lớn này, phải chăng đã khiến bà trằn trọc trắng đêm?

Ta vờ như không biết, cười nói: “Trông mẫu thân khỏe mạnh, con gái yên tâm rồi...”

Viên nữ cai mang bộ ấm trà bằng sứ do Thượng Cung cục biếu vào, lại tự tay rót ra chén, bày trước mặt chúng ta, xong xuôi đâu đấy bèn đứng ngay gần chỗ cửa sắt.

Mẫu thân thấy thế biết ngay hoàn cảnh hiện tại của ta không mấy dễ chịu, lại rơi nước mắt. Cả đời bà hiếm khi phải khóc, vậy mà vừa nhìn thấy ta thì lệ tuôn ròng ròng. Ta nắm chặt tay bà mà khuyên: “Mẫu thân, hồi phụ thân bị bắt cũng không thấy mẫu thân thế này, con gái trước nay phước lớn mạng lớn, huống hồ vụ án còn chưa thẩm tra xong, vẫn chưa biết kết quả thế nào, mẫu thân đừng nên đau lòng.”

Mẫu thân nắm lấy tay ta: “Con ơi, nay ta chỉ còn mình con, nhỡ xảy ra chuyện gì, ta thật không biết phải làm sao. Ngày xưa khi ở nhà ta luôn muốn lo cho con chu toàn, bởi từ nhỏ, con đã tỏ ra khác người, khiến ta lo âu vô cùng. Ta tính khí nóng nảy, thấy con bị người ta hiếp đáp chỉ biết ngầm mỉa mai nhiếc móc, lúc nào cũng làm phụ thân con bực mình. Vậy mà con chỉ đùa một câu là ông lại cười to sảng khoái. Ta vì đó mà đâm hổ thẹn, đôi khi không hiểu là ta bảo vệ con, hay chính con đang phải che chở cho ta... Con ơi, lúc này thân vùi ngục tối, biết phải làm sao? Chỉ trách ta vô dụng...”

Bà khẽ thì thầm tiếp: “Con ơi, mẫu thân dành giụm được món tiền không nhỏ, nếu có cách thật thì táng gia bại sản ta cũng cứu con ra.”

Ta thầm thấy tức cười, sau lại thấy xót xa, mẫu thân tưởng đây là vụ án bình thường ư? Án này liên can đến vận mệnh quốc gia, tiền bạc phỏng có ích gì?

Ta nói: “Mẫu thân đừng hoảng hốt, con gái vô tội, người ta có vu oan thế nào cũng là vô ích. Lần này con gái muốn gặp mẫu thân, chỉ để xem người ở ngoài ăn ở có thoải mái không. Con ở trong cung ròng rã hơn chục năm trời, hoàn cảnh phức tạp, nên chưa thể phái người đón mẫu thân vào cung chơi, mẫu thân có trách con không?”

Mẫu thân nghe thế cảm khái: “Con đừng coi ta như bà già nhà quê, ta cũng hiểu những điều lắt léo uẩn khúc bên trong đấy.” Bà liếc ra chỗ cửa sắt, trầm giọng, “Mẫu thân đoán được kết cục của bà ấy từ lâu rồi.”

Ta nói: “Mẫu thân, mẫu thân đang trách con gái nhẫn tâm?”

Bà lắc lắc đầu: “Bà ấy sớm đã không coi mẹ con ta là người thân nữa.”

Ta hóng ra ngoài song sắt, thấy nữ cai tuy ngoảnh mặt đi chỗ khác, nhưng hai tai vẫn dỏng lên nghe ngóng, liền nói: “Mẫu thân, con gái tuy bị giam trong ngục, nhưng vẫn còn nhiều người chăm sóc, vẫn ăn no mặc ấm, người đừng quá bận lòng.”

Mẫu thân nhíu mày, hếch hếch mũi ngửi: “Sống ở nơi thế này làm sao mà tốt cho được? Xem cái mùi này, chẳng kém gì chuồng lợn cả!”

“Mẫu thân, mẫu thân xem kìa, chỗ này dẫu sao cũng là nhà ngục, không thể yêu cầu cao quá được! Mẫu thân nhìn chăn gấm này, áo bông này, đều là do quý nhân trong cung biếu đấy. Con gái tuy mắc tội, nhưng được mọi người thương yêu, khổ sao nổi.”

Mẫu thân nhìn ta từ đầu đến chân, đoạn nói: “Con à, đừng nói dối ta nữa, tuy ta chưa sống trong cung bao giờ, nhưng đã từng nghe nói hậu cung là nơi thế nào. Chốn ấy nhiễu nhương gấp nhiều lần phủ họ Ninh ngày trước. Liệu có mấy người thật lòng với con? Mà thôi, đúng lúc ta mới thêu hai cái túi thơm, con để ở đầu giường cho khỏi mùi xú uế.”

Ta liếc nhìn nữ cai đứng ngoài song sắt, vẻ mặt hơi căng thẳng, đoạn mỉm cười đón lấy hai túi hương. Mẫu thân lại hỏi: “Lần trước con bảo mẫu thân thêu cho thứ này, còn dặn cho mấy loại hoa khô vào... Mấy thứ hoa ấy có tác dụng tránh ruồi tránh muỗi, nhưng chỉ nên đeo ở eo, chớ có đưa lên gần mũi, vì có mai ngũ sắc hơi độc đấy...”

Ta vội vã cắt ngang: “Mẫu thân, con gái tính vốn cẩn thận, sao có thể để hoa gây độc cho mình, người lo xa quá rồi.”

Nói đến đây, nước mắt bà lại ròng ròng: “Con ơi, biết làm thế nào bây giờ?”

Ta bèn khuyên: “Mẫu thân cứ an tâm ở nhà chờ tin, con gái thế nào cũng bình an thoát tội.”

Thấy hoa đăng đã thắp lên, trong phòng giam phải đốt đèn dầu mỡ trâu cho đỡ tối, nghe lời khuyên giải mấy hồi, bà mới lưu luyến rời đi.

Cầm trong tay hai chiếc túi thơm thủ công vô cùng tinh xảo, ta nghĩ thầm tay nghề của mẫu thân chẳng hề mai một chút nào. Thời thanh xuân, ngón nghề thêu thùa của bà nức tiếng đứng đầu Giang Nam, biết bao người bỏ ra vạn kim mà không mua nổi một món, vậy mà khi lấy chồng chỉ được làm thiếp, ánh huy hoàng thuở con gái dần trầm lắng như triều sớm. Ta từng hỏi bà, tại sao lại chọn gả cho cha, hai chị em cùng lấy một chống, phải chấp nhận làm lẽ là điều đương nhiên. Bà chỉ điềm đạm đáp: “Lúc ấy ta cứ như bị ma nhập, có biết gì đâu.”

Về sau ta nghe đám người dưới đồn đại mới biết vốn cha muốn cưới đại nương, nhưng mẫu thân ta vừa gặp đã yêu, sau nhiều lần tha thiết khẩn nài, ông mới đồng ý cưới cả hai chị em. Mẫu thân chẳng bao giờ nhắc về chuyện cũ, không biết có phải vì trong lòng đã hối hận tuổi trẻ nông nổi mà sai lầm cả đời?

Còn ta, chắc chắn sẽ không bao giờ để mình rơi vào tình thế ấy.

Mẫu thân đi rồi, mỗi lần cầm túi hương lên ngắm là mỗi lần ta lặng người ngẩn ngơ. Viên nữ cai thấy thế lấy làm cảm động, thường hay lựa lời khuyên nhủ. Dần dà hai bên nói chuyện thành quen, thi thoảng hỏi đến hai đứa con trai, gương mặt nữ cai liền trở nên dịu dàng khác lạ. Lòng ta thầm ngưỡng mộ, ta chưa bao giờ dám nghĩ mình sẽ sinh con trong cung, trước khi Hoàng hậu hoài thai long chủng, nếu ta lỡ có trước tất chỉ có đường chết. Ở tuổi ta, đám nữ nhân ngoài dân gian có người đã sinh bốn năm đứa trẻ, dẫu thích nhưng ta vẫn e sợ sẽ giẫm vào vết xe đổ của Sư Viên Viên. Trông đầu mày khóe mắt nữ cai rạng ngời hạnh phúc, ta không khỏi buồn bã thương tâm.

Nữ cai thấy thế vừa sợ vừa sực nhận ra điều gì, bèn khuyên: “Hoàng thượng rất mực thương yêu nương nương, nếu có thể thoát khỏi nhà ngục này, thế nào nương nương cũng được sủng ái trở lại, đến lúc đó còn lo gì chuyện con cái?”

Ta chỉ khẽ cười, không nói tiếp, uể oải nằm ra giường.

Đúng lúc ấy, có người đến báo: “Nương nương, Lí đại nhân xin được gặp.”

Ta ngồi dậy, hơi ngạc nhiên đáp: “Sao ông ta lại tới lúc này?”

Nữ cai nói: “Có lẽ vụ án có tiến triển gì nên đến báo cho nương nương mừng?”

Ta không màng tiếp lời, quay vào gương ngắm nghía lại mặt mũi rồi nói với kẻ kia: “Mời Lí đại nhân vào!”

Hôm nay Lí Sĩ Nguyên thần sắc có chút lo lắng, bước qua song sắt bèn hành lễ ngay, xong xuôi đang định cất tiếng, ta đã cướp lời: “Sao còn không mang ghế vào cho Lí đại nhân.”

Nữ cai đứng ngẩn ra một lúc mới chạy đem ghế đến.

Lí Sĩ Nguyên an tọa xong, thở ra một hơi nói: “Nương nương, hôm trước mẫu thân người đến thăm, đã nói những chuyện gì?”

Ta lấy làm khó hiểu đáp: “Ta được gặp mẫu thân là nhờ ơn Lí đại nhân phê chuẩn, chẳng lẽ đã xảy ra biến cố gì rồi?”

Lí Sĩ Nguyên vội nói: “Xin nương nương kể thật với hạ thần, người và mẫu thân đã nói với nhau những gì?”

Ta thấy vẻ mặt ông ta căng thẳng, cũng đâm sốt ruột: “Có gì đâu, chỉ hỏi thăm chuyện nhà. Mẫu thân ta sao rồi?”

Lí Sĩ Nguyên ngập ngừng một lát mới nói: “Nương nương, sau khi mẫu thân người ra khỏi ngục, trên đường về nhà đã bị người ta bắt mất, đến nay không rõ tung tích. Bản quan đã sai người lục soát toàn thành, nhưng không tìm ra manh mối gì.”

Mắt ta hoa lên, loạng choạng muốn ngã vật ra giường. Viên nữ cai vội chạy đến dìu, thì thầm khuyên nhủ: “Nương nương, không sao đâu, có Lí đại nhân ở đây, thể nào cũng đón được phu nhân trở về.”

Ta hoảng lên, bật dậy khỏi giường, nắm lấy ống tay áo của Lí Sĩ Nguyên: “Lí đại nhân, xin ông hãy mau mau tìm mẫu thân ta trở về, từ khi gia phụ qua đời, gia thế lụn bại, ta lại nhập hoàng cung, bà sống một mình bên ngoài, đơn độc khổ sở không nơi nương tựa, mới sung túc chưa được mấy ngày đã nghe tin ta gặp đại nạn. Lần này sợ rằng ta làm liên lụy mẫu thân mất rồi!”

Lí Sĩ Nguyên bị ta nắm lấy vạt áo, luống cuống không biết làm thế nào, càng không nỡ gạt ra: “Nương nương yên tâm, lão thần dù có liều cái mạng già, lật ngược cả kinh thành cũng phải giúp người cứu thoát mẫu thân, có điều...”

Ông ta nhẹ nhàng rút tay áo, ta chợt tỉnh ngộ, bèn buông ra, áy náy nói: “Bản cung thật là lỗ mãng... Ông nói có điều gì vậy?”

Lí Sĩ Nguyên nhìn ta, trong mắt lóe lên tia sáng: “Biết đâu khi gặp mặt nương nương và mẫu thân nói chuyện gì khả nghi, để ai đó nghe được nên mới...”

Ta hoảng quá, vội phủ nhận: “Không đâu, ta và mẫu thân chỉ thăm hỏi chuyện nhà, luôn luôn cẩn trọng giữ đúng phép tắc, không nhắc đến điều nào nhạy cảm. Huống hồ mẫu thân ta chỉ là một quả phụ bình thường, có biết gì đâu.”

Ánh mắt ông ta quét qua mặt ta, sắc bén như mắt diều hâu, rồi lập tức trở lại như thường, nói với ta bằng giọng điệu sốt ruột nóng như lửa đốt: “Nương nương, vậy lão thần xin cáo lui đến nha môn Đại Lý Tự xem xem đã có tin tức của lệnh tôn hay chưa.”

Ta bèn giục: “Lí đại nhân, nếu có tin gì xin hãy mau chóng báo cho ta ngay.”

Lí Sĩ Nguyên đi rồi, ta đi qua đi lại trong nhà giam chật hẹp, lòng như lửa đốt, sốt ruột ngóng chờ tin tức của ông ta. Mãi đến hoàng hôn, Lí Sĩ Nguyên vẫn bặt vô âm tín, nữ cai kia liền tới khuyên: “Nương nương, người hãy ăn gì đi đã, nếu có tin gì Lí đại nhân sẽ báo cho người ngay.”

Ta đáp: “Ngươi bảo làm sao ta nuốt được, nếu mẫu thân vì ta mà rơi vào nguy hiểm, ta có chết ngàn lần cũng không hết tội.”

Nữ cai rưng rưng cảm động, cứ quanh quẩn trong ngục chăm nom, gần như đêm ấy ta thức trắng, đầu vừa chạm gối là sực tỉnh, cho đến khi lỗ cửa sổ trên cao dần sáng tỏ, sắc hồng đánh tan màn đêm, ánh mặt trời từ ngoài song cửa sổ chiếu vào.

Ta gắng gượng ăn một ít cháo đặc, dẫu mệt lả ra, nhưng vẫn không tài nào ngủ được. Đúng lúc ấy ngoài ngục có người hô: “Lí đại nhân tới.”

Ta ngồi bật dậy, lẩm bẩm: “Có tin rồi sao?”

Nữ cai thấy dáng vẻ vừa mừng vừa lo của ta, bèn nói: “Nương nương, chắc là Lí đại nhân mang tin tốt đến, lần này nương nương có thể yên tâm được rồi.”

Ta cảm kích đáp: “Nhờ có ngươi ở bên mà bản phi cầm cự được qua đêm dài, bản phi thật không biết lấy gì báo đáp.”

Nghe ta nói vậy, người nữ cai cảm thấy hơi bối rối, tay chân cứ như thừa thãi, hồi lâu mới đáp: “Nô tỳ đâu đáng để nương nương nói vậy, nương nương là quý nhân nhà trời, nô tỳ hầu hạ người là lẽ đương nhiên.”

Ta nắm lấy tay cô ta, bàn tay thô ráp nứt nẻ, chắc hẳn thường ngày phải làm nhiều việc nặng: “Bản phi từ khi vào ở trong ngục, may nhờ có ngươi tận tình chăm sóc. Lúc ở trong cung ta đã quen với sự bạc bẽo ghẻ lạnh, không ngờ khi bị giam ở nơi tệ hại nhất lại có người chị em tốt như ngươi...”

Nữ cai đỏ hai con mắt, rưng rưng lệ, ta càng cảm kích bội phần, đúng lúc ấy có tiếng người lao xao từ cửa ngục vọng vào, Lí Sĩ Nguyên xăm xăm bước lại, đang định hành lễ theo lệ, ta vội nói: “Lí đại nhân không cần đa lễ, đã tìm được mẫu thân ta hay chưa?”

Lí Sĩ Nguyên đáp: “Nương nương, không hay rồi, hạ quan đã tra ra tin tức, lệnh tôn sau khi rời khỏi Tông Nhân Phủ lập tức bị ai đó trong cung đón về, chỉ biết đang ở trong cung...”

Ta vội nói: “Tội danh của bản cung chưa định, vì sao lại dính líu đến người thân của ta? Không được, ta phải xin Hoàng thượng thả mẫu thân ra.”

Lí Sĩ Nguyên lắc đầu nói: “Nương nương chắc chưa biết chuyện Tín vương mượn cớ Thái hậu mới mất, mười ngày trước đã hồi kinh, tỏ ý nhất định phải nghiêm trị hung thủ hạ độc Thái hậu. Nghe nói nơi lệnh tôn bị giam chẳng đâu khác chính là ở chỗ Tín vương...”

Ông ta quan sát sắc mặt của ta một lát: “Nương nương đừng quá tuyệt vọng, sự tình chưa chắc không có cơ chuyển biến. Chỉ cần nương nương kể thật với vi thần lần trước lệnh tôn đến đây, hai người đã bàn với nhau những gì?”

Ta lẩm nhẩm như nói một mình: “Tất cả là tại bản cung làm liên lụy đến mẫu thân, thật là hại mình hại người...”

Lí Sĩ Nguyên chăm chú nhìn ta, hỏi: “Nương nương, nếu lệnh tôn có nói gì lạ, nương nương nên thuật lại cho vi thần biết để xem có giúp ích được gì không?”

Ta lắc lắc đầu, đầy tuyệt vọng: “Lí đại nhân, cảm tạ ý tốt của ngài, nếu mẫu thân ta gặp bất trắc gì, ta thật chết không đáng tiếc...”

Lí Sĩ Nguyên khuyên giải cả nửa ngày, ta vẫn chỉ trầm ngâm không nói gì, hết lần này đến lần khác xin ông ta nghĩ cách cứu mẫu thân. Không còn cách nào khác, ông ta đành khuyên thêm vài câu, sợ có tin tức gì mới, bèn xăm xăm rời khỏi.

Liên tiếp mấy ngày liền, ta ăn không ngon ngủ không yên, càng lúc càng gầy ốm.

Nữ cai nghĩ ra cách sai người làm đủ món ăn vặt đẹp đẽ dâng lên, ta chỉ gắp mấy cái rồi thôi, cô ta sốt ruột bèn nói thẳng: “Nương nương, người cứ thế này không phải cách hay, chưa cứu được lệnh tôn ra ngoài thì người đã gục trước rồi.”

Ta đáp: “Chẳng biết bọn họ sẽ hành hạ mẫu thân ta thế nào. Mẫu thân vốn tính cứng rắn, nếu không nhịn được oan ức sợ sẽ...”

Ta nhận thấy mắt mình rớm lệ, giọt nước khẽ rớt xuống chiếc áo bông trắng tinh, chớp mắt đã bị hút cạn, chỉ để lại một vệt nước mờ đục.

Nữ cai có vẻ đồng cảm sâu sắc, ngồi xuống bên ta mà khóc.

Suốt hai ba ngày không thể an giấc làm cơ thể ta mệt mỏi rã rời. Đêm ấy vừa quay người nhắm mắt, hơi thiếp đi, đột nhiên bị ai bên cạnh lay dậy. Ta mở trừng mắt ra nhìn, thấy trời đã sáng bạch, đảo mắt sang, nữ cai đứng bên đầu giường, ta ngồi bật dậy, lòng ôm đầy hy vọng: “Có tin tức gì chưa?”

Cô ta lắc lắc đầu, bảo: “Nương nương, muội muội người sai cung nhân mang đồ đến...”

“Nó không đến ư?”

“Không ạ, chỉ có một tiểu thái giám thay mặt đến, đồ đem biếu toàn là thức ăn, mời nương nương xem qua...”

Trong giỏ trúc có hai cái bánh hồ, vài đĩa dưa cải, đơn sơ chẳng có gì, chỉ liếc qua là thấy hết. Ta biết phàm là những thứ mang biếu đều đã được cai ngục kiểm tra cẩn thận, bèn giở qua giở lại trước mặt cô ta.

Nữ cai bỗng dưng bật cười: “Nương nương yên tâm, mấy thứ này nô tỳ đã xem cả rồi. Muội muội của người cũng thật lạ, tỷ tỷ bị giam trong ngục bao nhiêu ngày chẳng thấy đến thăm một lần, hôm nay mới sai người đem biếu đồ đến, lại toàn những thứ thô lậu...”

Ta nhếch miệng khẽ cười, thò tay cầm một miếng bánh hồ trong giỏ lên: “Ngươi ăn quen những món đạm bạc nên thấy chán chứ với ta thứ này là của lạ, bao nhiêu năm không ăn đến rồi, vẫn là muội muội hiểu lòng ta.”

Nữ cai thấy ta mỉm cười, đâm ra ngây người, ta cố nhịn cười nhìn thẳng vào cô ta, chậm rãi bẻ miếng mánh hồ được nướng vàng ruộm, thơm nức mũi ra, nhặt lấy thứ bên trong ruột bánh, khẽ lắc một cái, cái lục lạc bằng vàng nhỏ xíu reo lên một tràng âm thanh trong veo, vang vọng trong phòng giam vắng lặng. Ngó thấy sắc mặt viên nữ cai thoáng cái trở nên tái mét, ta bèn vuốt nhẹ cái khóa trường mệnh trên có khắc hình ngũ tử đăng khoa[1], khẽ nói: “Túc nương, ta nghe mọi người đều gọi ngươi là Túc nương nên ta gọi theo luôn nhé. Vật này từ khi một đứa bé ra đời, đã đeo vào là không được cởi ra. Bởi theo tục lệ trong dân gian, cho đến khi đứa bé khôn lớn thành người, vật này sẽ phù hộ cho nó sống lâu trăm tuổi, không bao giờ được cởi ra. Món đồ này chế tác tinh xảo, hoa văn chạm trổ sinh động như thật, có thể sánh với thủ công trong cung, chắc phải tốn rất nhiều tâm huyết mới nhờ được người làm ra nó.”

[1] Năm đứa con cùng đỗ đạt.

Thân mình nữ cai lảo đảo chực ngã, nhìn ta bằng ánh mắt kỳ lạ, cứ như nhìn một con rắn độc. Ta khẽ than một tiếng: “Túc nương, bản phi làm thế này là bất đắc dĩ. Ai bảo quan hệ giữa ngươi và Lí đại nhân khăng khít quá. Ta biết chính ông ấy bảo ngươi giám sát ta, mấy hôm nay khiến ngươi đêm ngày không nghỉ, bản phi quả không nỡ.”

Túc nương cười khổ: “Hóa ra dáng vẻ lo lắng ưu sầu, ngày đêm không ngủ được của nương nương là diễn cả. Để nô tỳ đem báo lại với Lí đại nhân, làm ông ta lơ là cảnh giác. Trộng nghĩ chắc nương nương đã sắp đặt xong cả rồi?”

Ta cười cười, khẽ lắc cái lục lạc bằng vàng. Âm thanh phát ra sao mà trong trẻo vui tai, nếu đeo thứ này lên mình một đứa trẻ mũm mĩm, thì đáng yêu phải biết.

Ta nói: “Mấy ngày nay ngươi không về nhà rồi phải không? Tiếc cho hai đứa trẻ... Bản phi nghe người ta nói, một người mẹ vì cứu con mình, chuyện gì cũng dám làm, chẳng biết ngươi thì sao?”

Gương mặt Túc nương xám lại, vẻ thê lương, chỉ nói: “Lí đại nhân đã lầm, ông ta sai nô tỳ bảo vệ nương nương, không để người khác làm hại. Theo nô tỳ thấy, nương nương đâu cần ai bảo vệ, bất cứ lúc nào ở đâu, nương nương đều có cách tự bảo vệ mình.”

Ta ủ rũ đáp: “Túc nương, sống ở trong cung, có giờ nào phút nào không gặp nguy hiểm? Chắc ngươi cũng biết, bị đâm lén sau lưng so với đao thương trước mặt ghê gớm hơn nhiều. Vết sẹo trên tay ngươi là do luyện đao phải không? Ngươi đâu phải một cai ngục bình thường.” Ta khẽ lắc cái lục lạc, “Bọn họ phải nghĩ đủ mọi cách, mãi mới tìm được đến nhà của ngươi.”

“Nương nương nói đúng, một người mẹ để bảo vệ con mình, đích thực có thể làm mọi thứ. Nương nương muốn nô tỳ làm gì?”

Ở trong cung nhiều năm, ta đã quen nhìn sắc mặt đoán biết tâm ý, tính tình kẻ khác, chỉ cần nắm chặt điểm yếu của họ trong tay, những người này sẽ cam nguyện mặc ta sai phái. Phải mất gần mười ngày tiếp cận, dùng đủ mọi thủ đoạn, mới khiến cô ta lơi lỏng đề phòng, bộc lộ tâm sự thực lòng. Kiểu người như cô ta rất đặc biệt, giống như Khang Đại Vi vậy, tận trung đến chết không từ, dẫu có đem vàng bạc đến cũng chỉ phí công vô ích, nhưng những người này lòng trắc ẩn quá lớn, chỉ có cách lựa chỗ yếu của họ mà tấn công mới chiếm được ưu thế. Theo ta quan sát, chức vị quyền lực của Túc nương so với diện mạo hiện tại dường như lớn hơn rất nhiều.

Ta nói: “Bản phi không định làm khó ngươi, nhưng quả tình không còn cách nào khác. Ta sẽ không ép ngươi làm gì quá đáng, ngày mai khi có người đến ép cung, ngươi đừng báo cáo với thượng cấp ngay là được.”

Túc nương không ngờ ta tốn bao công sức chỉ để yêu cầu mình làm một việc quá đỗi đơn giản, đôi mắt ánh lên tia nghi ngờ nói: “Chỉ cần thế thôi ư?”

Ta đặt cái khóa trường mệnh vào tay cô ta. Túc nương cận thận vuốt ve, ấp vào lòng. Ta đáp: “Chỉ cần thế thôi. Ngươi nghĩ bản phi sẽ bắt ngươi làm gì? Trong quyền hạn của ngươi, việc này chắc không có gì khó khăn.” Ta chầm chậm nói thêm, “Với quyền hạn của ngươi, cũng chỉ thể làm đến thế.”

Cô ta khum tay cúi người hành lễ: “Được, chuyện này thì nô tỳ làm được.” Dừng một lát cô ta tiếp: “Nô tỳ không hiểu, Lí đại nhân phượng mệnh Hoàng thượng điều tra vụ án này, nương nương có cần phải làm thế không?”

Ta đáp: “Túc nương, nếu vụ án này đích thực có liên quan tới ta, ngươi nghĩ ta sẽ làm gì?”

Túc nương thất kinh, ánh mắt nhanh như chớp quét qua người kẻ đối diện từ đầu đến chân: “Chuyện này... không phải chuyện nô tỳ vọng bàn. Có điều Hoàng thượng và nương nương thâm tình quyến luyến, nô tỳ tin Hoàng thượng sẽ không bẻ cong sự thật.”

“Hoàng thượng là hoàng thượng, có rất nhiều việc không thể không làm, sao lại để chuyện của ta làm bản thân phải phiền não?” Ta nhìn thẳng vào Túc nương, “Ngươi yên tâm, ngày mai ngươi chỉ cần làm có bấy nhiêu thôi, ta tuyệt không khiến người ngươi vấy họa.”

Ta ngồi xuống bên giường, bật cười: “Bản phi còn phải ngủ đã, ngươi đứng đó canh chừng, đừng để ai vào quấy quả. Ngày mai giờ này ngươi làm xong việc, về nhà sẽ lại thấy hai đứa con đáng yêu chạy ra đón.”

Lần này ta chỉ nhắm mắt là thiếp đi, trong lúc mơ hồ nghe thấy tiếng Túc nương nói: “Nữ nhân này thật là...”

Ta không nghe rõ cô ta nói gì, chỉ cảm thấy giấc này ngủ thật ngon.

Ngày hôm sau tỉnh dậy, tinh thần ta vô cùng sảng khoái, hóa ra đây chính là cảm giác tỉnh dậy sau một giấc ngủ ngon. Chẳng rõ làm thế nào mà ta vượt qua được mấy ngày mấy đêm không ngủ nghỉ nhỉ? Có lẽ vì biết mình sắp sổ khỏi lồng vàng, nên sức chịu đựng đột nhiên nhảy vọt.

Vừa qua giờ mão, ta chải đầu rửa mặt xong bắt đầu dùng bữa sáng. Đằng đông vừa hừng lên, từ lỗ cửa bé tẹo của phòng giam nhìn ra, thấy băng tuyết đóng dày đã bắt đầu tan, vài mảng băng dưới sức nóng của ánh mặt trời rụng xuống đất, đây đó nghe tiếng lạo xạo xôn xao.

Ta ngủ rất ngon, còn Túc nương xem ra không được yên giấc cho lắm, vừa lo lắng cho đàn con, vừa lo lắng chuyện hôm nay. Dung nhan vốn tươi tắn mạnh mẽ giờ trông tiều tụy hẳn đi, ta vờ như không biết. Có lẽ trong bụng Túc nương đã coi ta như phường rắn rết, tấm chân tình ngày vào ngục sợ rằng hóa ra tro cả.

Ta vốn không có bằng hữu, sau này chắc cũng không. Cô ta đối xử tử tế, chăm sóc ta như vậy, nhưng mất rồi ta chẳng hề nuối tiếc, cái gọi là tình cảm chẳng khác chi gánh nặng, nào có công dụng gì khác?

Giờ mão ba khắc, có tiếng mở cửa sắt văng vẳng vọng vào. Túc nương căng thẳng nhìn sang, ta cầm tách trà trên bàn lên nhấp một ngụm, chợt nghe có tiếng rầm rập loảng xoảng càng lúc càng gần, vẻ như tiếng vỏ kiếm đụng vào giáp sắt xen lẫn tiếng bước chân.

Đoàn quân khí thế bức người xâm chiếm nhà ngục, không một ai dám lên tiếng ngăn cản, bởi có ai đó đã lên tiếng: “Phượng ý chỉ của Hoàng hậu nương nương, giao cho Tín vương thẩm vấn Ninh Vũ Nhu, không ai được phép cản trở.”

Đám binh lính này hành quân vội vã, giáp mũ chạm phải song sắt phát ra âm thanh rin rít ghê răng. Phòng giam trống trải vang vọng tiếng bước chân, ngọn nến ngày đêm luôn thắp sáng giờ xôn xao lay động, phản chiếu lên bức tường loang lổ những hình thù dữ tợn, ghê sợ.

Túc nương định hỏi ta rốt cuộc xảy ra chuyện gì, chợt nhớ lời hứa hôm trước, bèn ngậm miệng không nói gì.

Đoàn người nhanh như chớp đổ bộ vào phòng giam, cánh cửa sắt bị mở tung, giữa đám đông một người thân mang giáp nhẹ màu bạc, eo gài bảo kiếm, đầu đội giáp bạc, chính là phục sức của một vị phiên vương, những người xung quanh có lẽ là thủ hạ của ông ta.

Tay Tín vương cầm một thẻ giấy ngọc, chính là thứ Hoàng hậu ngày thường dùng để hạ chỉ. Y bước vào lồng sắt, những kẻ khác bèn vây lấy bốn phía, dĩ nhiên Túc nương bị ép ra khỏi phòng.

“Truyền ý chỉ của Hoàng hậu, Ninh Chiêu Hoa lập tức nhập cung...”

Ta quỳ xuống nhận chỉ, chờ y thu hồi cuộn giấy, mới đứng lên hỏi: “Mẫu thân của bản phi có phải đang ở chỗ các người không?”

Tay trái Tín vương đặt lên vỏ kiếm gài trước eo, nhìn ta lạnh lùng cười nhạt: “Ninh Chiêu Hoa phạm tội lớn như vậy, mà còn định mưu toan thoát thân? Ngươi không biết mẫu thân ngươi sớm đã khai nhận mọi chuyện, chỉ cần dẫn ngươi ra trước mặt Hoàng thượng đối chất, dù Hoàng thượng có lòng thiên vị sợ rằng cũng không giữ được tính mạng cho ngươi đâu.”

Ta thối lui mấy bước, người lảo đảo đứng không vững, nói: “Không thể nào, chắc chắn là các ngươi dùng nhục hình ép cung, mẫu thân ta chịu không nổi đau đớn mới phải khai khống.”

Tín vương sống lâu nơi biên ải, rất có khí chất của tướng lĩnh, thản nhiên nói tiếp: “Dĩ nhiên ngươi không nói với bà ta. Ngươi nhờ bà ta thêu túi hương để làm gì? Mẫu thân ngươi vì không hay biết gì nên mới khai ra tất cả. Bà ta còn tưởng làm thế có thể giúp ngươi thoát tội. Mai ngũ sắc có tác dụng xua đuổi côn trùng nhưng lại hơi độc, nghe nói sẽ khiến người ta mắc chứng tiêu chảy cấp tính... Bản vương nói vậy, ngươi đã rõ ràng cả chưa?”

Mặt ta xám như tro, nhìn Tín vương trân trối: “Nghe nói vương gia ở vùng biên cương phía đông nam ngày ngày trị quân nghiêm mật, rất được quân dân yêu mến, chắc sẽ không làm khó một bà quả phụ vô tri chứ?”

Tín vương lạnh lùng đáp: “Bản vương là hạng người gì, há lại làm như vậy? Mẫu thân ngươi giờ đang nghỉ ngơi trong cung, do muội muội ngươi chăm nom, ngươi còn gì chưa yên lòng nữa?”

Ta bèn gật gật đầu, y vẫy tay định phái người tiến tới trói lại áp tải đi, ta nói: “Vương gia việc gì phải lo sợ, bản phi trói gà không chặt, cứ để ta tự theo các người đi là được rồi.”

Tín vương hơi do dự, rồi cho đám quân lui ra.

Ta bước đến cạnh giường, như định với lấy cái áo bông vắt ở đó, bỗng dưng rút từ dưới chăn ra một con dao nhỏ sáng quắc, kề cổ họng, nhìn quanh một vòng, bắt gặp ánh mắt sắc lạnh của Tín vương, ta nói: “Vương gia, thần thiếp đã phạm tội lớn thế này, chẳng mặt mũi nào gặp Hoàng thượng, xin ngài chuyển lời với Hoàng thượng rằng, thần thiếp đa tạ hậu ân.”

Trong ngục những tiếng hô hoán vang lên không ngớt, ta thấy Túc nương đang luống cuống tìm cách ra ngoài, mấy lần đẩy đám thị vệ chen ra cửa mà không được.

Tín vương dù sống trong quân ngũ, đối diện với binh đao lửa đạn đã quen mà nhất thời cũng không biết làm sao, chỉ nhắc đi nhắc lại mỗi một câu: “Nương nương, sự việc chưa được làm rõ, người việc gì phải vậy?”

Ta nói với Tín vương: “Tín vương, chứng cứ đã rành rành như thế, thần thiếp còn lời nào để nói nữa.”

Con dao này đã được giấu trong chiếc bánh còn lại, một cái khóa trường mệnh đã khiến Túc nương mất ăn mất ngủ, quên bẵng việc tra xét cái bánh kia.

Dao đôi khi không cần lớn, chỉ cần bén nhọn là đủ.

Ta khẽ lắc cổ tay, cảm thấy một thứ chất lỏng nóng hổi từ cổ chảy xuống, có lẽ sắc đỏ tươi đã nhuộm đẫm áo quần. Trần nhà dần mơ hồ trong tầm mắt, chỉ nghe Túc nương gào lớn: “Mau gọi ngự y, nương nương, người không được chết! Hỏng rồi, không thấy mạch đâu nữa...”

Ý niệm cuối cùng còn lại trong tim ta chính là, mong mọi chuyện tiến hành thuận lợi.
 
Trạng thái
Không mở trả lời sau này.
Top