Lượt xem của khách bị giới hạn

[Trinh thám] [Truyện Hoàn] Trâm I: Nữ hoạn quan - Châu Văn Văn

Trạng thái
Không mở trả lời sau này.
[Trinh thám] [Truyện Hoàn] Trâm I: Nữ hoạn quan - Châu Văn Văn

Tam Thất

nhân chi sơ, tính bản thiện
Tham gia
13/4/19
Bài viết
1,705
Điểm cảm xúc
1,399
Điểm
113
Xe ngựa băng qua con phố rộng thênh thang của Trường An rồi dừng lại ở Ngạc vương phủ.

Hoàng Tử Hà vừa theo Lý Thư Bạch xuống xe, ngẩng lên đã thấy Ngạc vương Lý Nhuận đứng ngay trước cổng. Vẫn nguyên dáng vẻ thanh tú thoát tục, gương mặt y tươi cười, dáng vẻ ôn nhu cao quý. Đường nét gương mặt vốn hơi yếu đuối, song được nốt ruồi son giữa trán tôn lên, tức thì trở nên rạng rỡ tươi tắn, rành rành là một mỹ nam.

Lý Nhuận mỉm cười gật đầu với Hoàng Tử Hà rồi bước tới nghênh đón Lý Thư Bạch, “Hôm nay chẳng phải Tứ ca nghị sự với Hải Thanh vương của Hồi Hột tại cung Đại Minh ư? Sao rảnh rỗi tới chơi vậy?”

“Có việc gì quan trọng đâu, chỉ làm theo thông lệ mà thôi. Ông ta tặng cho ta một chuỗi tràng bằng tử đàn vàng, ta nghĩ chắc đệ thích, nên đem đến tặng.”

“Đúng là Tứ ca hiểu đệ nhất!” Lý Nhuận vui vẻ đón lấy, dùng đầu ngón tay vân vê từng hạt một, đoạn mời mọc, “Tứ ca vào nhà chơi, gần đây đệ kiếm được thứ trà trời ban, mới ra năm nay đấy, lát nữa ta sẽ pha trà cùng thưởng thức.”

Lò đất hồng, cành thông mảnh. Cửa giả bốn bề sảnh đều mở toang, ngoài song lại dẫn một khe suối nhỏ, bày mấy hòn đá trắng, trồng một vạt thông thấp, đầy ý thơ tao nhã.

Hoàng Tử Hà bưng ly trà lên nhấp một ngụm, ngẩn đầu nhìn lên vách sảnh đương treo hai câu thơ của Vương Duy. Một câu là gió thông đùa nới dải, trăng núi soi gảy đàn(*). Một câu là trên đá xanh suối chảy, kẽ lá tùng trăng lùa(**)

(*) Trích trong bài Mời rượu Trương thiếu phủ.

(**) Trích trong bài Chiều thu trong núi.

Lý Thư Bạch bình phẩm, “Có thông, có suối, có đá, lại có khung cửa tròn như trăng, quả đã bước vào ý thơ của Ma Cật(*) vậy.”

(*) Ma Cật là tên chữ của Vương Duy.

Hoàng Tử Hà hiểu ngay y định mượn cớ nói đến chuyện gì, bèn thẽ thọt góp một câu, “Nếu có thêm đàn, thì mới đủ mười phần ý thơ.”

“Sùng Cổ nói phải, vừa hay chỗ đệ đang sẵn có một cầm sư.” Lý Nhuận gật đầu, đoạn sai người đi mời Trần Niệm Nương. Chẳng bao lâu sau, Trần Niệm Nương ôm đàn bước vào, trong lúc hành lễ, nhác thấy Hoàng Tử Hà, bà ta lộ vẻ mừng rỡ, khẽ gật đầu chào cô, “Dương công công.”

Bàn tay phải đang đút trong tay áo của Hoàng Tử Hà bất giác giật nảy lên, trong tay áo cô có một vật nho nhỏ được bọc bằng vải trắng. Cô bất giác lo ngại, nghĩ thầm, đây là viên ngọc có khắc tên bà mà Phùng Ức Nương đến chết cũng không rời đây.

Lòng cô thoáng thê lương song ngoài mặt vẫn tươi cười với bà ta, “Trần nương, bộ Hộ vẫn chưa tra được tin tức về lệnh sư tỷ, xem ra phải đợi ít lâu nữa.”

Trần Niệm Nương gật đầu, dung mạo bà ta đã tiều tụy đôi phần, song ngón đàn vẫn khiến người ta phải trầm trồ như thế, một khúc vạn khe hòa, thánh thót luồn qua rặng thông, lại qua dòng suối, làm người nghe quên hết thế tục.

Lý Thư Bạch tấm tắc, “Bấy nhiêu cầm sư trong giáo phường chẳng ai bì được Trần cầm sư.”

Lý Nhuận cười nói, “Đúng thế, giờ đây hẳn Trần cầm sư phải là quốc thủ rồi.”

Lý Thư Bạch điềm nhiên nhắc, “Sùng Cổ, ta nhớ lần trước ngươi nghe Trần cầm sư diễn tấu trở về, nhiều lần ngơ ngẩn thất thần, còn âm thầm đi tập đàn, hôm nay có dịp, còn không mau thỉnh giáo Trần cầm sư?”

Hoàng Tử Hà thực bội phục bản lĩnh nói dối không chớp mắt của y, vội thuận nước đẩy thuyền, giúp Trần Niệm Nương cất đàn vào túi, lại ôm hộ cả cây đàn về phòng. Lý Nhuận đãi Trần Niệm Nương như thượng khách, tiểu viện bà ta ở nằm bên mé Đông vương phủ, trong sân trồng đầy thúy trúc, thoáng mát mà u tĩnh.

Trần Niệm Nương ngồi xuống sửa lại mấy dây, miệng giảng giải, “Đàn là môn phải khổ công cả đời, ta thấy tiểu công công thường bận rộn, muốn dốc lòng học đàn e rằng rất khó. Nếu công công chỉ hứng khởi nhất thời thì học mấy khúc dễ gảy là đủ. Cung, thương, giốc, chủy, vũ và mấy loại thế tay, thế ngón đã học qua rồi chứ?”

Hoàng Tử Hà liền thỉnh giáo, Trần Niệm Nương cũng chỉ bảo cặn kẽ từng điều, chớp mắt mặt trời đã lên đến đỉnh đầu, người hầu của vương phủ cũng đưa đồ ăn tới cho họ.

Thấy Trần Niệm Nương ăn rất ít, Hoàng Tử Hà bèn khuyên nhủ, “Trần nương, gần đây bà có vẻ gầy quá, xin bà đừng quá lo âu, phải giữ gìn lấy thân thể. Tôi nghĩ Phùng nương nhất định cũng không muốn thấy bộ dạng tiều tụy thế này của bà đâu.”

Trần Niệm Nương ngẩng lên nhìn cô, gượng cười, “Đa tạ tiểu công công, song giờ đây ta không ăn ngon ngủ yên được, hễ nhắm mắt lại thấy gương mặt Ức Nương, chắc công công không hiểu được cảm giác ấy đâu. Mười mấy năm nay, hai tỷ muội nương tựa vào nhau, giờ Ức Nương để lại ta một mình, thực chẳng biết phải sống tiếp ra sao nữa.”

Hoàng Tử Hà bất giác vỗ nhẹ lên tay bà ta, chạnh lòng nhớ tới cha mẹ và người thân đã vĩnh viễn bỏ mình mà đi. Cùng một lứa bên trời lận đận, song cô lại chẳng thể giải bày nông nỗi, đành lặng lẽ nắm chặt miếng ngọc dương chi nhỏ trong tay áo.

Cô trả lại Trần Niệm Nương bức họa bà ta đưa lần trước, “Tôi đã cho người phỏng lại một bức, đem theo bên người rồi, biết đâu sau này còn có thể giúp bà tìm kiếm, bà thấy có được không?”

Trần Niệm Nương trân trọng cất bức họa đi, “Dĩ nhiên là được, ta còn phải cảm tạ công công ấy chứ.”

Hoàng Tử Hà lại hỏi, “Bà và Phùng nương thân thiết như thế, lẽ nào bà ta chưa bao giờ nhắc tới người nhờ vả bà ấy là ai ư?”

“Chưa từng. Ức Nương xưa nay chẳng giấu ta việc gì, song lần này lại nói đây là chuyện rất tốt, nhất định phải giúp người ta.”

Hoàng Tử Hà trầm ngâm hỏi, “Phùng nương và bà hẳn không có gì giấu giếm nhau, bà nghĩ xem có người bạn cũ nào khiến bà ta cao hứng như thế chăng?”

Trần Niệm Nương so lại dây đàn, thong thả đáp, “Thực không dám giấu, tuy chúng ta lớn lên bên nhau, lại cùng học nghệ, nhưng Ức Nương mệnh bạc, từng bị bán vào lầu xanh, may sao không lâu sau có vị khách chuộc thân cho, rồi theo người ta đến Dương Châu, về sau vì đại phu nhân trong nhà khắc nghiệt nên Ức Nương phải cầm một món tiền ra đi, mua một căn nhà nhỏ, vào Vân Thiều Uyển Dương Châu làm cầm sư. Còn ta vẫn ở Lạc Dương, mãi đến mấy năm sau nhận được thư, mới biết Ức Nương đang ở Dương Châu. Thư rằng, Niệm Nương, năm xưa lúc trẻ chúng ta từng thề sống chết có nhau, nay nếu có lòng, thì có thể nương tựa nhau đến già…”

Kể đến đây, Trần Niệm Nương cũng lã chã hai hàng nước mắt. Dẫu dung nhan chẳng cách nào trẻ lại song nước mắt vẫn trong veo, “Bấy giờ ta ở Lạc Dương, thường đến các nhà vọng tộc dạy đàn, cuộc sống không có gì phải lo lắng. Song nhận được thư Ức Nương bèn gói ghém mấy bộ đồ đơn giản nhất, xuôi Nam xuống Dương Châu. Ức Nương không bao giờ nhắc lại cuộc sống mấy năm trước đó, ta cũng không muốn nói đến quá khứ của mình, bởi chúng ta đều hiểu, giữa đôi bên không cần phải nói làm chi nữa.”

Bởi vậy, người bạn cũ của bà ấy, Niệm Nương cũng chẳng biết là ai ư?

Trần Niệm Nương thấy cô vẫn trầm tư, liền hỏi, “Tiểu công công, chuyện này có liên quan gì tới việc tìm kiếm Ức Nương không?”

Hoàng Tử Hà ngập ngừng một thoáng rồi gật đầu, “Có điều phía bộ Hộ chưa tìm thấy ghi chép, nên tôi định âm thầm tự tra xét xem, gần đây trong cung xảy ra vài việc, tôi và người của bộ Hình cũng như Đại Lý Tự có gặp nhau, nên tôi nghĩ không biết có thể nhân cơ hội này giúp bà tìm Ức Nương hay không.”

Trần Niệm Nương vái cô một vái thật dài, đoạn nói, “Đa tạ tiểu công công! Có gì xin cứ hỏi, nếu biết ta nhất định sẽ nói, đã nói nhất định sẽ nói hết.”

Hoàng Tử Hà vội đỡ bà ta dậy, “Theo tôi nghĩ, việc quan trọng nhất là tra xem người nhờ bà ấy vào kinh là ai.”

“Trước đây ta cũng muốn dò hỏi, nhưng mà…” Trần Niệm Nương nghẹn ngào, “Có điều, ta quả không có manh mối gì cả…”

Hoàng Tử Hà trầm ngâm, “Tôi nghĩ, người có thể nhờ vả một cầm sư thì thân phận hẳn là tương tự hoặc xuất thân tương tự như bà ấy, ít nhất cũng không phải khách khứa đến nghe hát mà nhiều khả năng là tỷ muội trong Vân Thiều Uyển, hơn nữa có lẽ đã rời khỏi Vân Thiều Uyển, nên mới gọi là bạn cũ.”

“Ồ, nếu về chuyện này thì ta nghĩ, có lẽ là… người mà Ức Nương quen biết trong giai đoạn chúng ta ly tán.” Trần Niệm Nương bấm đốt tay nhẩm tính, rồi cặn kẽ kể ra, “Ức Nương sống cùng ta bấy nhiêu năm, các mối quan hệ cũng rất đơn giản, sau khi đến Vân Thiều Uyển, những người Ức Nương quen thì ta đều quen cả. Bởi vậy ta nghĩ có lẽ là người bạn cũ quen biết trong mấy năm chúng ta xa nhau, ta không quen song tỷ ấy lại khá thân thiết, bằng không nhất định đã kể với ta là ai nhờ vả mình đưa con gái người bạn cũ lên kinh rồi.”

“Bà và Phùng nương mất liên lạc với nhau từ khi nào? Chẳng hay người biết chuyện khi ấy còn sống không?”

“Từ mười lăm năm trước rồi. Vân Thiều Uyển là phường ca múa, người đến kẻ đi tấp nập, hôm nay còn ngồi bên nhau cười cười nói nói, chớp mắt đã ai đi đường nấy, huống hồ là chuyện đã mười lăm năm. Những người già năm xưa giờ đa phần biệt tăm biệt tích rồi.”

“Song tôi nghĩ, mười mấy năm rồi còn có thể gửi gắm một việc quan trọng như thế, hẳn không phải người quen sơ, ít nhất thời ấy cũng từng xảy ra chuyện gì đó, nên đến giờ bà ấy vẫn ghi nhớ trong lòng.” Hoàng Tử Hà nghĩ ngợi, “Mười mấy năm nay, lẽ nào Ức Nương chưa từng nhắc đến với bà ư?”

Trần Niệm Nương trầm ngâm hồi lâu, chợt à lên một tiếng, “Vân Thiều Lục Nữ…”

Vừa nghe nhắc Vân Thiều Lục Nữ, Hoàng Tử Hà lập tức nhớ tới câu chuyện Cẩm Nô kể. Cô vội gặng, “Niệm Nương, bà nói rõ cho tôi nghe được không?”

“Đó là sáu tỷ muội đứng đầu các danh kỹ Dương Châu mười mấy năm trước, cùng dựng nên Vân Thiều Uyển, hai chữ ‘Vân Thiều’ lấy từ ‘Vân Thiều Phủ’ của Tắc Thiên hoàng đế(*) năm xưa. Đến nay trong Vân Thiều Uyển vẫn thờ thanh đoản kiếm năm xưa Tắc Thiên hoàng đế dùng để thuần phục ngựa đó.”

(*) Năm Như Ý thứ nhất (692) Võ Tắc Thiên đổi tên gọi “giáo phường” thành “Vân Thiều Phủ”. Đến thời Đường Trung Tông mới đổi lại là “giáo phường”.

Một phường ca múa lại đi thờ một thanh đoản kiếm, khiến Hoàng Tử Hà không khỏi tò mò, “Lưỡi dao của Tắc Thiên hoàng đế dùng khi thuần phục ngựa ư? Sao lại thất lạc đến tận Dương Châu?”

“Đại tỷ trong Vân Thiều Lục Nữ là hậu duệ của Công Tôn Đại Nương, năm xưa kiếm thuật của Công Tôn Đại Nương lừng danh thiên hạ, được Huyền Tông hoàng đế ban cho đoản kiếm đó. Sau loạn An Sử, đệ tử của Công Tôn Đại Nương là Lý Thập Nhị Nương lại truyền đoản kiếm ấy cho đồ tôn, chính là Vân Thiều đệ nhất nữ Giang Hoành Ba.”

“Vậy trong sáu người, Ức Nương thân với ai nhất?”

“Lúc ta tới thì chỉ còn đại tỷ Giang Hoành Ba mà thôi, nghe nói năm người kia trong mấy năm hoặc đã xuất giá hoặc đã bỏ đi rồi. Song thỉnh thoảng Ức Nương cũng nói, nếu năm xưa không nhờ Vân Thiều Lục Nữ thì tỷ ấy chẳng tài nào thoát nổi nhà tay lái buôn từng chuộc thân giúp. Hình như đại phu nhân của người đó muốn bán tỷ ấy đi, may mà các tỷ muội ở Vân Thiều Uyển mến tài nên ra sức điều đình với bà ta, mới chuộc thân được về. Chỉ đáng tiếc xuất giá xong, thỉnh thoảng lắm họ mới có thư gửi về, trừ đại tỷ Giang Hoành Ba và tam tỷ Lan Đại ra, ta chưa từng gặp những người khác. Bọn họ nổi danh trong chốn yên hoa, nhưng dẫu sao cũng xuất thân từ phường ca múa, ta nghĩ… khó lòng đặt chân được vào chốn danh gia vọng tộc.”

Hoàng Tử Hà lặng lẽ gật đầu, tuy vẫn không thể xác định được người nhờ cậy Ức Nương có phải một trong Vân Thiều Lục Nữ hay không, nhưng dẫu sao cũng có chút manh mối. Sực nhớ ra một chuyện, cô lại hỏi, “Phải rồi, Trần nương! Bà đến từ Vân Thiều Uyển, vậy có quen Cẩm Nô không?”

“Hẳn là quen rồi. Lần trước ta được vinh hạnh biểu diễn cho các vị vương gia xem cũng là nhờ Cẩm Nô giới thiệu, bằng không sao có thể gặp mặt quý nhân chứ?”

“Bà kể cho tôi nghe vài chuyện về Cẩm Nô được không?” Hoàng Tử Hà nắm lấy tay bà ta hỏi, “Ví như, cuộc sống lúc trước của cô ấy, thân thiết với những người nào, hoặc… các tỷ muội xung quanh thế nào chẳng hạn.”

Trần Niệm Nương vắt óc nghĩ ngợi, đoạn cau mày đáp, “Vân Thiều Uyển rất đông ca kỹ, có điều ta giỏi đàn mà Cẩm Nô thạo tỳ bà, hai ngón đó đều thuộc gác Băng Huyền nên ngày thường thi thoảng cũng gặp nhau, song chẳng qua chỉ gật đầu chào hỏi qua loa thôi. Tại Dương Châu, tài nghệ của cô ấy được coi là mười phần xuất chúng trong lớp trẻ, dáng người xinh đẹp, lại thích bày tiệc rong chơi, là kẻ ham vui nổi tiếng, con cháu nhà giàu hoặc quan lại giao du với cô ấy không biết bao nhiêu mà kể, song thân thiết hình như chẳng có ai. Chắc công công cũng biết, tuy Cẩm Nô sống phóng đãng song tính tình rất tốt, khéo ứng xử, lại nhiệt tình với người khác. Lần này ta lưu lạc trong kinh, cô ấy chẳng qua chỉ tình cờ đi ngang trông thấy, vậy mà tức tốc nhảy từ trên xe của Chiêu vương xuống hàn huyên, biết được tình cảnh bèn thuê giúp ta một căn phòng trọ dài ngày. Ta thấy trong giáo phường cô ấy cũng là người biết cư xử, còn về các tỷ muội ở Dương Châu hay ở đây thì ta không rõ.”

Hoàng Tử Hà đành tìm một chuyện chẳng mấy quan trọng hỏi tiếp, “Nghe nói sư phụ cô ấy tên Mai Vãn Trí, là một trong Vân Thiều Lục Nữ?”

“Chuyện này ta cũng chỉ nghe nói. Năm xưa tại Vân Thiều Uyển, Mai Vãn Trí được coi là đứng đầu về nhạc cụ, lúc Cẩm Nô năm tuổi được bà ta nhặt về, coi như con gái, về sau Mai Vãn Trí sinh một con gái tên Tuyết Sắc, mọi người đều nói bà ấy đối với Tuyết Sắc còn không bằng đối với Cẩm Nô.”

“Tuyết Sắc… Huyết Sắc(*)?” Hoàng Tử Hà nhẩm lại hai chữ này, đột nhiên trong nháy mắt, một tia chớp xẹt qua khiến đầu óc cô lạnh buốt, rồi lại nóng bừng lên.

(*) Trong tiếng Trung, hai chữ Tuyết Sắc và Huyết Sắc phát âm tương tự nhau

Trần Niệm Nương không hề nhận thấy biểu hiện khác lạ của Hoàng Tử Hà, chỉ nói, “Đúng vậy, Tuyết Sắc. Chồng Mai Vãn Trí là một họa sư họ Trình, rất đẹp, vẽ cũng rất giỏi, nhưng suy nghĩ không giống người thường. Người bình thường đặt tên hay chọn tên Hoa tên Yến, còn ông ta lại đặt tên cho con là Tuyết Sắc, khiến rất nhiều người nghe lầm thành ‘Huyết Sắc’, chỉ biết nhăn nhó cười khổ cho đứa con gái xinh đẹp của Mai Vãn Trí.”

Hoàng Tử Hà cảm thấy mây mù trước mắt mình đang từ từ tan ra, không kềm chế được chộp lấy tay Trần Niệm Nương gặng hỏi, “Trần nương, vậy Tuyết Sắc con gái Mai Vãn Trí giờ ra sao rồi?”

Trần Niệm Nương ngạc nhiên nhìn Hoàng Tử Hà, rõ ràng không hiểu tại sao đang nói về Cẩm Nô lại đột ngột quay sang hỏi chuyện Tuyết Sắc. Song bà ta cũng đành chiều theo, rù rì kể lại, “Đứa con gái ấy của Mai Vãn Trí, có thể nói là số vất vả. Chưa đầy năm tuổi thì mẹ qua đời, cha con dắt díu nhau về quê cũ ở Liễu Châu, song cha nó chẳng có nghề kiếm sống, vẽ tranh dù sao cũng không đủ kiếm ăn qua ngày, ông ta đã đói khổ lại thêm bệnh tật, cuối cùng khi nó mười tuổi, người cha nhắm mắt xuôi tay. Thân thích họ hàng trong nhà xưa nay vẫn lom lom dòm ngó như hổ đói liền xồ đến chiếm luôn nhà nó, khiến nó không chốn dung thân, bị người ta chà đạp. Về sau có mấy người khác trong Vân Thiều Lục Nữ biết cảnh ngộ của nó, mới gọi đến Dương Châu. Lúc nó đến ta đã ở Vân Thiều Uyển rồi, chỉ thấy một đứa bé mười ba tuổi, gầy gò bẩn thỉu, vậy mà có thể bôn ba ngàn dặm đến tận Dương Châu. Bấy giờ tất cả người ở đó đều ròng ròng nước mắt, nhớ lại năm xưa Mai Vãn Trí lộng lẫy xinh đẹp, diễm lệ cao sang như thế, chỉ để lại một đứa con gái, vậy mà lại lâm vào cảnh ngộ ấy…”

“Vậy Tuyết Sắc hiện giờ ở đâu?”

“Lan Đại đón nó đến ở với bà ấy, ta cũng chỉ thỉnh thoảng gặp nó ở Vân Thiều Uyển mà thôi, đa phần là vào dịp lễ tết, những khi Vân Thiều Uyển bận rộn, dàn ca múa hoặc hợp tấu thiếu một hai chân, nó thường theo Lan Đại tới giúp đỡ.”

“Ồ… cô ấy biết đánh đàn ư?”

“Biết, nó từng theo học Ức Nương một thời gian. Tay nó rất đẹp, xương ngón tay dài mà có lực, thực ra rất hợp học cầm sắt tỳ bà, song chẳng rõ vì sao lại học rất chậm, thiếu ngộ tính, mọi người đều than rằng tư thái phong hoa tuyệt đại năm xưa của Mai Vãn Trí coi như thất truyền.”

“Mai Vãn Trí là một đại mỹ nhân ư?” Hoàng Tử Hà lại hỏi.

“Ta chưa gặp bao giờ, có điều nghe nói là giai nhân tuyệt sắc!” Trần Niệm Nương nói như chém đinh chặt sắt. “Bấy nhiêu năm nay, trong Vân Thiều Uyển ngày ngày đều có những mỹ nhân xuất sắc, bản thân Tuyết Sắc cũng là mỹ nữ hiếm thấy, song Ức Nương luôn nói, Tuyết Sắc còn xa mới bì nổi mẹ mình. Nếu luận về mỹ mạo, chỉ Mai Vãn Trí mới được coi là diễm lệ rạng rỡ, lộng lẫy mê người - cái gọi là riêng có mẫu đơn là quốc sắc, chỉ mình bà ấy xứng thôi.”

“Ừm, tôi cũng nghe Cẩm Nô kể sư phụ cô ấy là mỹ nhân nghiêng nước nghiêng thành.”

“Lúc Mai Vãn Trí qua đời, Cẩm Nô mới chừng mười tuổi, song xưa nay ta vẫn nghe cô ấy kể chuyện sư phụ mình, không chỉ vì Mai Vãn Trí đã nhặt cô ấy về từ lúc năm tuổi, cứu mạng cô ấy, mà Cẩm Nô thực lòng sùng kính Mai Vãn Trí. Nghe nói khi rời Vân Thiều Uyển lên kinh, cô ấy đã ôm tỳ bà quỳ trước bức họa Mai Vãn Trí suốt nửa canh giờ.”

“Vậy Tuyết Sắc hoặc Mai Vãn Trí có tranh vẽ ư?” Hoàng Tử Hà hỏi.

“Mai Vãn Trí có, chồng bà ta là họa sư, nghe nói xuất thân nghèo khổ nhưng rất tài hoa. Năm xưa ông ta từng họa cho Vân Thiều Lục Nữ một bức Du xuân đồ, đủ cả sáu người, hiện do Lan Đại cất giữ.”

Hoàng Tử Hà lặng lẽ gật đầu, lại hỏi, “Tôi mượn xem bức họa ấy được không?”

Trần Niệm Nương đáp, “Khó gì đâu, hiện giờ Lan Đại cũng rời khỏi Dương Châu rồi, trước khi đi còn để lại địa chỉ ở Bồ Châu, để ta viết thư bảo Tuyết Sắc đem tranh đến, chỉ mất một hai ngày thôi.”

Hoàng Tử Hà mừng rỡ, “Thật ư? Vậy tốt quá rồi, nếu Tuyết Sắc có thể đích thân đem tranh đến, tôi nghĩ chuyện này ắt sẽ có bước tiến vượt bậc.”

“Được, hôm nay ta sẽ viết thư cho Lan Đại ngay.”

“Đa tạ Trần nương!”

“Phường ca múa ở Dương Châu…”

Trở về vương phủ, Hoàng Tử Hà liền thuật lại mọi chuyện cho Lý Thư Bạch, nghe xong y phải nhíu mày, “Sao lại dây dưa đến việc lâu đến thế, lại ở nơi xa như thế?”

“Tôi cũng không ngờ. Song xem xét đủ loại dấu vết thì dường như có liên quan thật.”

Họ vừa bàn luận về vụ án, vừa theo nhịp cầu cong cong bắc ngang dòng nước thong thả đi về phía hiên Tịnh Dữu. Lý Thư Bạch xưa nay không thích nhiều người đi theo hầu hạ, nên đám thị vệ hoạn quan đều đi xa xa phía sau, chỉ mình Hoàng Tử Hà và y thả bộ trên cầu.

Ngoái lại thấy trên bờ nước và trong cánh rừng, từng ngọn đèn lồng đã lần lượt thắp lên, ánh đèn, ánh trăng và ánh sao cùng rọi xuống mặt nước dập dềnh, lấp la lấp loáng, trông hai người như đi giữa trăng sao.

Bỗng nhiên, cả hai bất giác đều dừng chân giữa cầu, nhìn xuống vầng sáng mênh mông dưới nước. Gió đêm đã ấm dần lên, tiết trời cuối xuân đầu hạ quả là rất hợp lòng người.

Lý Thư Bạch quay sang nhìn Hoàng Tử Hà đứng phía sau cách mình chừng một bước, trông thấy trăng sao lấp lánh sáng rực trong mắt cô, y cũng không khỏi khựng lại một thoáng.

Đúng lúc này, có tiếng chân huỳnh huỵch trên bờ đột ngột phá tan bầu không khí tĩnh lặng. Một kẻ đang hối hả lao lên cầu, miệng la lớn, “Vương gia! Vương gia!”

Lý Thư Bạch đưa mắt nhìn sang, thấy đám thị vệ đã ngăn kẻ kia lại, bèn quay người đi về phía đó, chỉ thấy dưới ánh đèn có một người đương hốt hoảng đứng ngay tại đầu cầu, chính là Chu Tử Tần.

Lý Thư Bạch ra hiệu cho đám thị vệ để Chu Tử Tần lên cầu, bản thân y cũng quay người đi thẳng tới ngồi trong đình trên cầu, tỏ ý mời Chu Tử Tần ngồi rồi hỏi, “Xảy ra chuyện gì thế?”

Chu Tử Tần ngồi xuống chiếc ghế đá đối diện y, sợ sệt siết chặt hai nắm tay lại, ngập ngừng mãi.

Lý Thư Bạch cau mày hỏi, “Rốt cuộc là chuyện gì thế?”

“Tôi… Tôi có lẽ…” Chu Tử Tần nói, môi tái nhợt cắt không được giọt máu run lên bần bật, gã ngước nhìn Lý Thư Bạch, lại nhìn sang Hoàng Tử Hà, hồi lâu mới rặn ra được mấy chữ lí nhí, “Có lẽ… đã giết người…”

Lý Thư Bạch nhướng mày hỏi, “Có lẽ à?”

“Chính là… tôi không nói rõ ngay được, chuyện này Sùng Cổ cũng biết đấy, tôi thực sự không định giết họ mà!”

Hoàng Tử Hà kinh ngạc nhìn Chu Tử Tần, “Sao lại liên quan đến tôi nữa?”

“Vì nạn nhân chính là mấy tên ăn mày tối qua ta đã đưa đồ ăn đến cho đó!”

Chu Tử Tần vừa dứt lời Hoàng Tử Hà đã a lên một tiếng, buột miệng hỏi, “Là mấy người tối qua ư?”

Lý Thư Bạch liếc cô, đoạn trầm giọng nói, “Tử Tần, kể rõ đầu đuôi chuyện xem nào.”

“Vâng.” Chu Tử Tần căng thẳng hồi tưởng lại, rồi kể bằng giọng run run, “Tối qua Thôi đại nhân mời chúng tôi đến Chuế Cẩm Lâu uống rượu, tôi nghe nói có cả vị công công từng phá vụ án Bốn Phương nhà vương gia, đoán là Sùng Cổ nên cũng tới tham dự. Cuối bữa, thấy trên bàn có mấy món ăn mới động đũa qua loa, bèn đem gói lại cho mấy tên ăn mày kia. Trước đây tôi cũng thường làm vậy, xưa nay chưa từng xảy ra chuyện gì cả.”

Hoàng Tử Hà gật đầu, ý bảo lời kể của gã không có vấn đề gì.

“Sau đó, sáng nay tôi tỉnh giấc, nghe nói người của bộ Hình đang nghiệm thi bèn chạy tới xem, kết quả phát hiện… phát hiện người chết chính là mấy tên ăn mày tối qua!”

Hoàng Tử Hà hỏi, “Chắc gì đã là do đồ ăn chúng ta đưa đến có độc? Tối qua lúc ăn chúng ta có thấy gì lạ đâu.”

Chu Tử Tần căng thẳng tóm lấy tay cô đáp, “Không đâu, là thật đó! Mấy người đó quả thực trúng độc mà chết.Ta nhặt được chiếc lá sen gói đồ ăn hôm qua, lén đem về nhà kiểm nghiệm, kết quả phát hiện thấy dấu vết chất kịch độc… hơn nữa còn là loại độc rất hiếm thấy ở đây.”

Thấy Lý Thư Bạch liếc nhìn tay mình, Hoàng Tử Hà đành lẳng lặng rút tay lại, hỏi tiếp, “Là loại độc gì vậy?”

“Nhựa cây độc tiễn, mạn Nam Man thường gọi là ‘kiến huyết phong hầu’, nghe nói hễ trúng độc thì không đi được quá mười bước đã lăn ra chết, là một trong những thứ độc nhất trên đời.” Chu Tử Tần cau mày, “Ở kinh thành rất hiếm thấy thứ đó, trước đây ta cũng chỉ đọc trong sách mà thôi, người trúng độc này da thịt toàn thân sẽ thâm đen lại rồi thối rữa, râu tóc móng tay và răng đều rụng hết, không thể nhận diện được, cực kỳ đáng sợ.”

“Mấy tên ăn mày kia cũng bị thế ư?”

“Ừ, hiện giờ bộ Hình đã hạ lệnh, vụ án này rất đáng sợ, nhất định phải tra cho ra tên sát thủ tàn độc đó.” Môi Chu Tử Tần tái nhợt, hai vai run lên bần bật, “Nhưng Sùng Cổ, công công cũng biết mà, ta… ta thực sự không có ý hại người đâu!”

Hoàng Tử Hà cau mày, “Vấn đề là chúng ta không sao cả, vậy tại sao đồ chúng ta đưa đến lại đột nhiên dính chất độc được?”

“Hơn nữa… Hơn nữa còn do chúng ta chính tay gói lại, đích thân đưa đến nữa chứ!”

Lý Thư Bạch bỗng chen vào, “Ta thấy vấn đề quan trọng nhất là kẻ nào đã hạ độc vào đồ ăn của các ngươi?”

Hoàng Tử Hà gật đầu, “Bấy giờ ở đó có Thôi đại nhân, Vương Uẩn, hai chúng tôi, mấy viên quan trong Đại Lý Tự… cả Cẩm Nô nữa.”

Chu Tử Tần bấm ngón tay suy xét từng người một lượt, rõ ràng đều không thể đặt giả thiết họ là hung thủ, cuối cùng đành rầu rĩ ngẩng lên hỏi, “Sùng Cổ, công công bảo chuyện này liệu có tra đến chúng ta không?”

“Theo công tử thì sao?” Hoàng Tử Hà hỏi lại.

“Tối qua khi chúng ta đến đó, trên phố đã sắp giờ giới nghiêm nên không ai nhìn thấy cả, ta nghĩ có lẽ là… Chỉ cần chúng ta không nói ra, chắc không sao đâu nhỉ?”

“Sai nha xử lý thế nào tôi không biết, song nếu là tôi, đầu tiên sẽ cho điều tra những thức ăn còn sót lại trong dạ dày nạn nhân. Ăn mày hiếm khi được ăn mấy món ngon như vậy, nên hung thủ sẽ bị khoanh vùng là con cháu nhà giàu sang quyền quý. Đồng thời, lá sen bỏ lại hiện trường vẫn còn tươi, phần nhiều là do các quán rượu hay mua dự phòng, nếu là đồ ăn của người thường tự nấu, đều dùng lá sen khô gói lại, chứ mấy ai chuẩn bị sẵn lá sen tươi để gói đồ ăn? Phải biết địa thế kinh thành khá thấp, lại trũng, lá sen trong thành mới nhú thôi, lá sen các quán rượu thường dùng đều phải đặt sẵn từ ngư dân ở ngoại ô, sáng ra lúc đưa cá tôm đến tiện thể hái luôn, cũng xem như là hàng hiếm.”

“Vậy… Vậy có thể là cố ý đánh lạc hướng, nên mới dùng lá sen tươi gói đồ ăn…”

“Có thể. Nhưng trước khi xét đến khả năng đó, đám bổ khoái hẳn đã phải sục sạo hết các quán rượu lớn, sau đó chẳng mấy chốc sẽ moi ra công tử nhà Chu đại nhân Chu Tử Tần xưa nay không bao giờ bỏ phí đồ ăn, nắm được các món tối qua công tử gói đem về, chứng cứ xác thực, có thể lập tức trình lên xin chỉ thị có nên mời công tử đến nha môn uống trà hay không rồi?”

Chu Tử Tần tức thì ngồi phệt xuống ghế, mặt tái ngắt, mắt trợn trừng.

Hoàng Tử Hà bất lực hỏi, “Hằng ngày chẳng phải vẫn làm việc với thi thể đấy thôi, sao tôi không biết công tử sợ xác chết đến này nhỉ?”

Chu Tử Tần yếu ớt đáp, “Ta chỉ thích nghiên cứu thi thể, chứ đâu có thích biến người ta thành thi thể.”

Hoàng Tử Hà và Lý Thư Bạch vừa đưa mắt nhìn nhau thì Cảnh Hữu bước vào bẩm báo, “Vương gia, có Thôi đại nhân cầu kiến.”

Lý Thư Bạch hỏi, “Đại Lý Tự lại có chuyện gì tìm ta ư?”

“Bẩm, nghe nói là chuyện liên quan đến vụ án.”

Câu này khiến Chu Tử Tần đứng bật dậy, “Không, không thể nào, có phải hắn biết tôi ở đây không…”

“Tử Tần.” Lý Thư Bạch liếc gã.

Bấy giờ Chu Tử Tần mới tỉnh ngộ, nhận ra mình đã căng thẳng quá mức, dù Thôi Thuần Trạm biết gã là hung thủ, cũng không thể đến thẳng Quỳ vương phủ đòi người được.

Lý Thư Bạch quay sang nhìn Cảnh Hữu, hờ hững nói, “Mời Thôi đại nhân vào.”

Thôi Thuần Trạm rảo bước tiến vào, sau khi hành lễ với Lý Thư Bạch còn gật đầu chào hỏi Hoàng Tử Hà và Chu Tử Tần. Chu Tử Tầnđương nơm nớp, thấy hắn không quá chú ý đến mình, mới hơi vững dạ.

Nào ngờ Thôi Thuần Trạm đi thẳng vào đề, ngay câu đầu tiên đã nói, “Lần này đến cầu kiến, hẳn vương gia đã biết ý định của ty chức. Tử Tần, Dương công công, lẽ nào hai vị cũng biết rồi?”

Chu Tử Tần giật thót, lắp bắp, “Đệ, đệ biết rồi…”

“Ồ, vậy có phải đệ cũng nghe nói…” Hắn nhìn Lý Thư Bạch, ngập ngừng chốc lát mới tiếp, “Nghe nói thi thể vô cùng quái dị, da thịt toàn thân đen sạm thối rữa, không nhận được mặt mũi nữa…”

Sắc mặt Chu Tử Tần càng tái nhợt, run run nói, “Đệ, đệ đã thấy rồi…”

“Gì cơ, Thì ra đệ đã xem qua thi thể rồi à?” Thôi Thuần Trạm thoáng kinh ngạc, rồi nói với vẻ thâm thúy, “Xem ra danh tiếng Tử Tần đã lừng lẫy cả kinh thành rồi, ngay đến chuyện thế này, trong cung cũng báo cho đệ tới xem trước.”

Hoàng Tử Hà và Lý Thư Bạch nhìn nhau, đều cảm thấy có phần không đúng lắm. Song Chu Tử Tần vẫn đương hồn phi phách tán, chưa thoát được nỗi kinh hoàng vì bản thân là hung thủ, chỉ đờ đẫn gật đầu.

“Tuy đệ thường kiểm nghiệm thi thể, nhưng đây cũng là lần đầu thấy cảnh này nhỉ? Sự tàn độc của hung thủ quả là độc nhất vô nhị, xưa nay chưa từng có!” Thôi Thuần Trạm lắc đầu than, “Đừng nói đệ, đến cả ta nghe thấy tin này cũng ngẩn người ra. Đây hẳn là vụ án tàn nhẫn đáng sợ nhất tại kinh thành trong vòng mười năm trở lại đây ấy. Tử Tần, hình như đệ cũng nghiên cứu khá sâu về độc dược, có nhận ra được là loại độc gì không?”

Chu Tử Tần há miệng, song một lúc lâu cũng không thốt ra được nửa lời.

Hoàng Tử Hà đang định đạp chân gã thì nghe thấy Lý Thư Bạch bên cạnh thong thả lên tiếng, “Tử Tần đến tìm ta cũng vì việc này, cho rằng hung thủ đã dùng nhựa cây độc tiễn.”

Thôi Thuần Trạm gật đầu, “Ty chức biết ngay Tử Tần sẽ phát hiện được mà.”

Chu Tử Tần lại lộ ra vẻ nơm nớp, nét mặt như muốn nói “Tôi có liên quan đến chuyện này, là tôi có tật giật mình.”

Hoàng Tử Hà hậm hực trừng mắt nhìn cái gã chẳng nên thân ấy, thầm nhủ, chúng ta cũng là kẻ bị hại, sao lúc này ngươi không thể vờ làm bộ thản nhiên kia chứ? Nếu bây giờ bịdính líu vào, thì về sau làm sao điều tra tìm ra hung thủ thực sự được?

Trái lại, Lý Thư Bạch quay sang nhìn Thôi Thuần Trạm hỏi, “Phát hiện di thể Vương Nhược ở đâu vậy?”

Hoàng Tử Hà không ngờ y lại hờ hững hỏi một câu như thế, chẳng buồn rào đón mà đi thẳng vào đề, không khỏi nghiêng đầu nhìn sang, thấy nét mặt y tuy có phần nghiêm trọng song ánh mắt vẫn lạnh nhạt, chẳng mảy may xao động, khiến cô thấy lòng lạnh hẳn đi.

Câu này của Lý Thư Bạch vừa thốt ra, Chu Tử Tần lập tức nhảy dựng lên, “Gì, gì cơ? Vương Nhược… Vương cô nương vừa mất tích bí ẩn trong cung đã chết rồi ư? Còn tìm thấy cả di thể?”

Thôi Thuần Trạm ngạc nhiên nhìn gã, “Nãy giờ chẳng phải chúng ta đang nói chuyện này ư?”

“Đệ… chuyện đệ nói…” Chu Tử Tần khó mở lời, cứ lúng túng mãi không dám nói tiếp.

Hoàng Tử Hà đành đỡ lời, “Thực ra trước khi Thôi đại nhân tới, chúng tôi đang thảo luận về cái chết ly kỳ của mấy tên ăn mày trong kinh.”

Thôi Thuần Trạm xua tay, “Giờ ai còn quan tâm tới cái chết của mấy tên ăn mày được chứ! Thân thích của hoàng hậu mất tích rồi chết thảm trong cung, phen này Đại Lý Tự đừng hòng được yên thân!”

Chu Tử Tần lí nhí nói, “Ăn mày cũng là người mà, huống hồ lại là ba bốn mạng người… ai da!”

Là Hoàng Tử Hà đá gã một cái, ý bảo tạm thời đừng dẫn lửa tự thiêu. Gã đành ngậm miệng lại.

Thôi Thuần Trạm lại nói, “Vừa nãy các vị không thảo luận chuyện này, tai sao vương gia lại biết ty chức đang nói tới Vương cô nương?”

“Khắp thiên hạ này, còn chuyện gì khiến trong cung phải gọi người đến khám nghiệm, lại phái ngươi tìm ta trước nhất nữa chứ?” Lý Thư Bạch điềm nhiên giải thích.

Huống hồ từ lúc bước vào còn giấu đầu hở đuôi, ra sức tỏ vẻ rầu rĩ thông cảm, ai mà không biết đại nhân muốn biểu đạt cái gì chứ? Hoàng Tử Hà mắng thầm.

“Nói vậy là… Thì ra nãy giờ chúng ta ông nói gà bà nói vịt ư?” Cuối cùng Chu Tử Tần đã định thần lại, tử khí trên mặt cũng tan đi, con ngươi bắt đầu chuyển động.

Thôi Thuần Trạm gật đầu đáp, “Đúng thế, xem ra mọi người đều hiểu lầm rồi. Thảo nào, ta còn thấy lạ, sao đệ có thể đi khám nghiệm thi thể vương phi trước cả ta chứ?”

Trong bốn người, chỉ mình Hoàng Tử Hà bình tĩnh hỏi vào việc chính, “Xin hỏi Thôi đại nhân, di thể Vương cô nương được tìm thấy ở đâu vậy?”

“Kể ra chắc các vị không tin.” Thôi Thuần Trạm cau mày, “Đêm hôm qua, di thể đột nhiên xuất hiện ở gác Đông điện Ung Thuần cung Đại Minh.”

“Cái gì?” Chu Tử Tần lại nhảy dựng lên, “Cô ấy, cô ấy chẳng phải đã mất tích từ đó sao?”

“Đúng thế, bên đó vì xảy ra chuyện nên những đồ bài trí bên trong vẫn giữ nguyên. Sáng nay, các hoạn quan đến mở cửa ra, thình lình phát hiện thi thể Vương cô nương nằm trên giường, còn nguyên quần áo trang sức như lúc mất tích, song cả người đã đen sạm thối rữa, trúng độc mà chết.”

Hoàng Tử Hà cau mày im lặng.

Chu Tử Tần ngạc nhiên nói, “Quả là chuyện lạ trong thiên hạ… Rõ ràng người đã mất tích, sao đột nhiên lại xuất hiện, hơn nữa còn thần không hay quỷ chẳng biết biến mất, rồi lại thần không hay quỷ chẳng biết xuất hiện…”

“Đúng thế, tựa hồ trước giờ cô ấy vẫn ở đó, chưa từng mất tích vậy, chỉ là trong hai ba hôm ấy đã biến thành thứ gì đó chúng ta không trông thấy được.” Thôi Thuần Trạm lắc đầu than, “Vụ án này bắt tay vào e là khó đây…”

Lý Thư Bạch đứng dậy ra cửa gọi Cảnh Dục đến giúp y thay đồ, chuẩn bị vào cung đến điện Ung Thuần.

Hoàng Tử Hà cũng chỉnh đốn lại trang phục, nghi hoặc hỏi, “Trên đời sao có thể có thứ gì không nhìn thấy được chứ?”

Thôi Thuần Trạm cười đáp, “Hẳn là phải có, bằng không sao hơn hai trăm người tìm không ra?”

Chu Tử Tần vội nói, “Tôi về nhà lấy mấy món đồ, các vị nhất định phải đợi tôi nhé, cho tôi vào cung với!”

Lý Thư Bạch phớt lờ gã, xăm xăm đi thẳng ra ngoài, chỉ buông một câu, “Đừng nhiều chuyện, tốt xấu gì cũng là thiên kim nhà họ Vương, sao có thể để ngươi động dao kéo vào di thể chứ.”

Chu Tử Tần nằn nì, “Vậy tôi đi theo xem có được không?”

Lý Thư Bạch hất cằm về phía Thôi Thuần Trạm, “Đại Lý Tự của Thôi đại nhân chẳng phải thường nhờ người khám nghiệm hiện trường ư? Giờ nhờ thêm một lần có sao?”

Thôi Thuần Trạm lập tức vẫy tay với gã, “Đến đây, Tử Tần, xe ngựa của ta đậu ngay cửa ngách này.”
 

Tam Thất

nhân chi sơ, tính bản thiện
Tham gia
13/4/19
Bài viết
1,705
Điểm cảm xúc
1,399
Điểm
113
Hai cỗ xe ngựa dừng lại ở cửa mé Đông cung Đại Minh, xuống xe bước qua cửa là thấy điện Ung Thuần nằm một góc cung. Song cửa điện không mở ở phía này, họ phải men theo bức tường cao ngất rẽ sang phía Tây, hết tường phía Nam lại rẽ về phía Bắc đi tiếp. Bên đó mở một ô cửa ngách để người ra vào.

Điện Ung Thuần trước đây vốn dùng làm nhà kho trong cung nên rất kín cổng cao tường, chỉ mở một cửa ngách phía Tây và một cửa chính ở mặt Bắc. Nào ngờ vì kín đáo tối tăm nên những thư họa gấm lụa cất bên trong càng dễ mối mọt, đành phải bỏ cả đi, lại đặt hai hòn giả sơn thấp trong sân, hòng làm giảm bớt vẻ cứng nhắc của một gian nhà kho, chuẩn bị cho người vào ở.

“Ngờ đâu chỗ kín đáo nhất trong cung lại không phòng chống nổi một lời đồn. Ôi chao, quả là trời cao trêu người mà.” Thôi Thuần Trạm vừa nói vừa dẫn ba người vào trong, chợt họ nghe thấy tiếng ầm ĩ, dường như bên trong có người đang tranh luận.

Qua cửa là tới đại sảnh, liền trông thấy mấy người nhà họ Vương đang tranh cãi. Nhìn qua Hoàng Tử Hà đã nhận ra ngay Vương Uẩn, bên cạnh là cha y, Hình bộ thượng thư Vương Lân.

Chỉ nghe Vương Uẩn nói, “Vương Nhược là con gái họ Vương chúng ta, vốn đã định sẽ là Quỳ vương phi, lại là một thiếu nữ chưa xuất giá, muôn phần cao quý, sao có thể để ngỗ tác mổ xẻ thi thể chứ? Việc này nhất định không được!”

Vương thượng thư rầu rĩ đáp, “Con cũng biết đấy, cha con là thượng thư bộ Hình, về lý về pháp, người chết bất đắc kỳ tử đều phải kiểm tra di thể thật kỹ, huống hồ việc này liên can rất rộng, ảnh hưởng lớn như thế, nếu chúng ta không tra xét thêm, chẳng những khó ăn nói với triều đình mà còn không biết giải trình ra sao với Quỳ vương phủ nữa.”

“Lẽ nào vương phi tương lai bị người ta mổ xác khám nghiệm, soi ruột moi gan, lại làm Quỳ vương gia mát mặt ư? Chuyện này dù kẻ nào đồng ý, con nghĩ hoàng hậu cũng quyết không ưng thuận! Không tin bây giờ con sẽ đi tìm hoàng hậu.”

Vương Uẩn hùng hổ nói, chẳng hề nể mặt cha mình, đang định phất tay mà đi, chợt quay đầu trông thấy bọn Lý Thư Bạch đứng ngay hành lang đại sảnh, không khỏi sững người ra.

Hiếm hoi lắm mới thấy Lý Thư Bạch mỉm cười, đi về phía họ, miệng nói, “Kẻ hiểu ta chỉ có Vương Uẩn vậy, đương nhiên ta không đồng tình để ngỗ tác đụng vào di thể Vương Nhược, nên đã dẫn tới đây một nhân tuyển tốt nhất rồi.”

Bọn Vương Uẩn vội hành lễ tham kiến y. Lý Thư Bạch tỏ ý bảo Chu Tử Tần khám nghiệm thi thể, đồng thời giới thiệu, “Người này hẳn các vị đều biết, chính là công tử của Chu Tường Chu thị lang đại nhân, có nghề khám nghiệm, là ta bảo gã theo tới, cũng không dùng công cụ, chỉ quan sát xem nguyên nhân cái chết thôi.”

Vương Lân vội nói, “Vẫn là vương gia suy nghĩ chu đáo.”

Chu Tử Tần cáo lỗi với tất cả thân tộc nhà họ Vương rồi dẫn Hoàng Tử Hà vào gác Đông điện Ung Thuần.

Trong gác Đông, mọi thứ vẫn y nguyên như hôm xảy ra chuyện, tuy đã bị lục soát kỹ, song những kẻ lục soát đều tâm niệm rằng đây là hoàng cung nên sau khi tìm kiếm lại ra sức khôi phục nguyên trạng.

Nhưng thiếu nữ nằm giữa khung cảnh ấy, dung mạo đã thay đổi hoàn toàn. Trên mình nàng vận một chiếc áo vàng, tóc búi lỏng, chân xỏ đôi giày bằng lụa trắng, trang phục y như khi mất tích.

Song da thịt toàn thân đã tím tái thối rữa, máu đen lênh láng, chẳng nhận rõ được đường nét khuôn mặt, cũng không cách nào nhìn ra vẻ kiều diễm như đào như mận từ thi thể ấy nữa.

Hoàng Tử Hà lặng lẽ nhìn nàng, chợt trong đầu thoáng qua hình ảnh đóa khởi lưu ly cài bên mai nàng hôm ấy, hoa cùng người soi vào nhau.

Có điều, chỉ ngây ra một thoáng, cô đã mím môi bước đến bên giường, nơi thi thể đang nằm.

Chu Tử Tần kéo ghế ngồi xuống, rút trong người ra một đôi găng bằng da cực mềm cực mỏng đeo vào, đoạn cúi xuống, nâng mặt nàng lên nhìn kỹ.

Dẫu Hoàng Tử Hà đã trông thấy nhiều thi thể, cũng không cách nào bình tĩnh trước một gương mặt sưng phù, bê bết máu đen thế này, cô quay đầu đi, song vẫn không quên hỏi, “Chẳng phải công tử không mang dụng cụ ư? Đôi găng tay này cầm theo từ bao giờ vậy?”

“Sáng nay lúc ra cửa. Nghe nói ngoài phố có án mạng, hình như bị trúng độc chết, ta bèn vơ vội lấy nó, nào ngờ bấy giờ không dùng đến, mãi đến giờ mới dùng.” Chu Tử Tần vừa nghiêm nghị giảng giải cho cô, vừa cúi xuống xem xét kỹ thất khiếu thi thể, lại vạch miệng ra xem răng lưỡi, “Khi kiểm nghiệm thi thể trúng độc, đặc biệt là loại kịch độc thế này, lỡ như trong lúc kiểm nghiệm bị xây xước, máu độc sẽ dây vào, đến chừng đó thì gay to, bởi vậy buộc phải đeo găng tay.”

Hoàng Tử Hà không muốn nghe những điều này, bèn hỏi, “Người chết mặc quần áo của Vương Nhược, vậy dáng dấp và tuổi tác thì sao, có khớp không?”

“Người chết ước chừng mười sáu mười bảy tuổi, thân hình thon thả mảnh khảnh, cao khoảng năm thước bảy tấc. Con gái cao như vậy khá hiếm, nên về cơ bản có thể coi là trùng khớp. Chẳng hay trên người Vương Nhược có nốt ruồi đen hay vết bớt gì không?”

“Để tôi nhớ xem….” Cô vắt óc hồi tưởng lại những lần tiếp xúc với Vương Nhược trước đây, “Nốt ruồi hay vết bớt thì không có, nhưng hình như cổ tay phải có một đốm tàn nhang, công tử xem có không?”

Chu Tử Tần kéo tay phải của nàng lên quan sát rồi tiu nghỉu đáp, “Da dẻ đã đen sạm lại, không thấy được gì cả, đừng nói tàn nhang, ngay nốt ruồi e rằng cũng không nhìn ra được nữa đâu.”

“Ừm.” Hoàng Tử Hà nhìn đôi tay sưng phù đen sạm kia, rầu rầu nhớ lại lần đầu tiên gặp Vương Nhược, trong xe ngựa, từng trông thấy đôi tay ngọc ngà nhỏ nhắn của nàng lộ ra dưới tay áo. Giờ đây, trước đôi tay khiến người ta không dám nhìn thẳng vào này, ngực cô cũng hơi thắt lại, “Đôi tay.. sao lại sưng phù ra nông nỗi này? Tay cô ấy trước kia nhỏ nhắn mềm mại ai thấy cũng phải ngưỡng mộ đấy.”

“Nhỏ nhắn ư?” Chu Tử Tần cầm bàn tay sưng tướng lên, sờ từ lòng bàn tay đến các ngón một lượt, “Không thể nào, xương bàn tay cô ấy, so với các thi thể phụ nữ ta từng khám nghiệm có thể coi là khá to, dù gì trước đây cũng chẳng thể coi là nhỏ được.”

Hoàng Tử Hà ồ lên kinh ngạc, quan sát đôi tay đã sưng phù đen sạm kia, tồi huých khuỷu tay vào vai Chu Tử Tần, “Tháo găng tay ra cho tôi.”

Chu Tử Tần nghi hoặc nhìn cô, “Làm gì thế?”

Hoàng Tử Hà không đáp, chỉ hất hàm, nheo mắt, Chu Tử Tần lập tức ngoan ngoãn cởi găng tay ra đưa cho cô.

Tuy là loại găng da bó sát, nhưng găng tay đàn ông dù sao cũng khá to, Hoàng Tử Hà đeo vào lại thành hơi rộng, song cô bất chấp, cứ thế sờ nắn đôi tay thi thể, còn so cả với tay mình - hiện tượng sưng phù thường chỉ phình ngang chứ ngón tay không thể dài ra quá nhiều, song ngón tay xác chết so với đôi tay khá to từng được Trần Niệm Nương khen rằng rất hợp để gảy đàn của cô còn dài hơn một chút.

Chu Tử Tần lải nhải, “Công công xem, tuy là đàn ông, song tôi đoán chắc công công đã tịnh thân khi còn rất nhỏ, nên tay còn nhỏ hơn cả cô ấy.”

“Tịnh thân thì liên quan gì tới việc tay to tay nhỏ.” Hoàng Tử Hà thầm nhủ, rồi nắn nắn xương tay mình qua lớp găng, sao đó nắn sang xương đối phương. Tuy bàn tay đã sưng phù lên rất khó sờ thấy xương, song cô cứ lần mò nắn thử từng tấc một, cuối cùng cũng sờ thấy một cục cưng cứng, chứng minh cho câu nói của Chu Tử Tần - xương bàn tay người này không hề nhỏ.

Chu Tử Tần lo lắng bảo, “Sùng Cổ, đừng dùng lực mạnh quá, da thịt đã thối rữa ra rồi, nếu bị nắn cho nát thì không hay đâu…”

Hoàng Tử Hà nghe nói vội lỏng tay ra, đoạn lật bàn tay lên xem có bị mình nắn nát hay chưa. Còn may, mới chỉ rách một chút bên dưới bàn tay, nơi đó vừa khéo lại có một lớp da mỏng trắng bệch, tuy bị cô nắn rách, song không chảy máu.

“Cái này hẳn là một lớp chai mỏng, nên dù có rách cũng không vấn đề gì. Huống hồ da thịt toàn thân đã thối rữa, rách chút miếng chai cũng không ai để ý đâu.” Chu Tử Tần nói, đoạn quan sát kỹ vị trí vết chai, thấy nó nằm ở mép bàn tay phía dưới ngón út, không khỏi cau mày, “Lạ thật, bấy nhiêu năm nay, đây là lần đầu tiên ta nghiệm thi thấy vết chai ở đây đấy.”

“Ừ nhỉ, theo lý thì khi bàn tay dùng sức, lực sẽ tập trung ở gan bàn tay, chỗ mép ngoài bàn tay này là khó mọc chai nhất.” Hoàng Tử Hà cũng nhìn kỹ lại, thấy trên đầu ba ngón giữa bàn tay trái và ngón cái bàn tay phải da dẻ đều hơi cứng, nghĩ ngợi hồi lâu, làm ra đủ loại tư thế nào viết chữ, thêu hoa, giặt và hồ áo hay dùng chày đập áo, vẫn không kết luận được.

Chu Tử Tần nhận lấy đôi găng cô cởi ra, nhận xét, “Trừ điểm này ra thì chẳng có điều gì đáng để ý nữa cả. Cô gái này xuất thân không tồi, tóc và răng đều bóng loáng, thân thể cũng không có dấu hiệu làm việc nặng. Hiện giờ cô ta mặc đồ của Vương Nhược xuất hiện ngay trong điện Ung Thuần, lại không thể nhận rõ dung mạo, nếu chúng ta nói rằng không phải Vương Nhược thì dường như không đủ chứng cứ thuyết phục…”

Hoàng Tử Hà nhanh nhảu, “Để tránh đánh rắn động cỏ, công tử cứ ghi vào sổ khám nghiệm trước đi, nhưng không được nói thẳng ra, chỉ nói là người chết thôi.”

Hai người mở cửa, bước ra đại sảnh gặp những người đang đợi.

Chu Tử Tần hành lễ với mọi người rồi cầm hồ sơ khám nghiệm trong tay, nhưng chỉ chọn đọc lên mấy câu sơ lược, “Nghiệm thấy, người chết là phụ nữ, thân cao năm thước bảy tấc, diện mạo không rõ, da thịt toàn thân đem sạm phù thũng, máu đen vấy khắp người. Răng lợi đủ cả, tóc bóng mượt dài đến gót chân, toàn thân không có vết thương, hẳn do trúng độc mà chết.”

Vương Lân xót xa than thở, “Thực đáng hận, đáng hận quá! Ai ngờ cháu gái tôi lại chết oan chết uổng ngay giữa hoàng cung thế này…”

Phía sau, hai người huynh đệ của Vương Nhược từ Lang Gia tới chuẩn bị tham dự hôn lễ cũng buồn bã ra mặt. Người lớn hơn hỏi, “Chẳng hay nguyên nhân cái chết của tiểu muội ta là…”

“Chết vì nhựa cây độc tiễn.” Chu Tử Tần đáp.

“Cây độc tiễn ư…” Mọi người chưa ai nghe qua cái tên này, chỉ mình Vương Uẩn lên tiếng hỏi, “Lẽ nào là loại độc mà dân Nam Man vẫn gọi ‘kiến huyết phong hầu’?”

“Đúng thế, trong kinh rất hiếm thấy.” Có điều tối qua cũng có mấy người chết vì nó. Chu Tử Tần liếc Hoàng Tử Hà, thấy cô không có ý nói rõ với họ, đành ngậm miệng không nói tiếp nữa.

Chẳng bao lâu sau, hoàng hậu cũng đích thân đến. Nhìn từ cửa sổ vào, vừa trông thấy xác chết trên giường, hoàng hậu đã phải quay ngoắt đi, nữ quan Trường Linh phía sau vội đỡ ngay lấy mới khỏi ngã lăn xuống đất. Hoàng hậu loạng choạng bưng mặt đi thẳng, không nói một lời.

Trường Khánh dẫn theo một toán người ở hậu đình tới thu dọn di thể, cả đám cứ lẳng lặng mà làm. Lát sau, xe ngựa nhà họ Vương chở quan tài đi khỏi, Lý Thư Bạch còn đứng ở cửa cung đưa mắt nhìn theo.

Chu Tử Tần chạy về xe của Thôi Thuần Trạm, Hoàng Tử Hà kéo thớt ngựa đã chuẩn bị sẵn toan trèo lên, chợt nhìn qua cửa sổ, bắt gặp ánh mắt của Lý Thư Bạch trong xe, cô đành rụt chân khỏi bàn đạp, chui vào xe ngựa, chiếu lệ ngồi xuống chiếc ghế thấp mọi khi.

Xe ngựa chạy thẳng về phía phường Vĩnh Gia.

Dọc đường Lý Thư Bạch chẳng buồn nhìn cô lấy nửa con mắt, chỉ dùng ngón tay miết nhẹ lên chiếc bình lưu ly đựng con cá kia, khiến con cá nhỏ trong bình liên tục xòe cái đuôi như sa mỏng đuổi theo ngón tay y.

“Ta đã nghe kết quả nghiệm thi rồi, còn gì chưa nói ra không?”

Hoàng Tử Hà ngồi trên ghế thấp, chống cằm ngắm nghía con cá nhỏ, đáp lời, “Quả là chết vì nhựa cây độc tiễn, thời gian tử vong vào tối qua, song khác với mấy tên ăn mày kia, cổ họng của cô ấy không sưng phù bằng bên ngoài, bởi thế chất độc gây ra cái chết không phải được cho vào thức ăn, mà hẳn là thấm qua vết thương bên ngoài - nếu Chu Tử Tần được phép giải phẫu thi thể, có lẽ sẽ khẳng định được chắc chắn hơn.”

“Nếu là vết thương bên ngoài, thì bị thương ở đâu?”

“Đây cũng là một điểm lạ lùng, tuy toàn thân sưng phù rữa nát, song không có dấu vết bị thương bởi vật sắc nhọn. Theo sự biến màu của da thịt, thì khả năng lớn nhất là chất độc lan từ tay phải ra khắp toàn thân.”

“Tay phải ư?” Lý Thư Bạch ngẫm nghĩ, “Nhựa cây độc tiễn dây phải da thịt liệu có ngấm vào làm chết người không?”

“Không thể, bởi thế người chết trúng độc thế nào, vẫn chưa giải thích được.”

Ánh mắt Lý Thư Bạch chuyển từ con cá nhỏ sang mặt cô, đột nhiên hỏi, “Trước đây, khi cha mẹ ngươi qua đời, ngươi cải trang nam nhi trốn khỏi đất Thục, dọc đường… không ai nghi ngờ ngươi là nữ ư?”

Hoàng Tử Hà đương chống cằm ngắm cá cũng ngạc nhiên, chẳng hiểu sao y lại nhắc tới chuyện này, “Không có, từ nhỏ tôi cũng thường mặc đồ nam theo cha ra ngoài tra án, đã gặp đủ hạng người, dọc đường chạy trốn tuy vất vả khổ sở, song không có gì nguy hiểm.”

Y không đáp lại vẻ nghi hoặc của Hoàng Tử Hà, chỉ chăm chú nhìn cô. Thiếu nữ vận y phục hoạn quan đỏ rực gập gối ngồi trên ghế thấp, tay phải chống má, đăm đăm nhìn y, đôi mắt trong veo như hạt sương sớm đọng trên nhụy phù dung. Xe ngựa không ngừng tròng trành khiến đôi mi cô thỉnh thoảng lại chớp khẽ, cặp mắt như sương mai thoáng lay động tựa đóa sen rung rinh trước gió, thoáng chốc đã thấy hào quang rợp rợp.

Khóe môi thường mím chặt của y bất giác hơi nhếch lên.

Hoàng Tử Hà ngơ ngác sờ mặt, còn đương nghi ngại thì y đã quay đi, chẳng buồn uốn nắn thế ngồi quá giống thiếu nữ của cô, chỉ hỏi, “Trừ điểm này ra, trên thi thể còn dấu vết gì không? Nói cách khác, cái xác đó có phải Vương Nhược không?”

Hoàng Tử Hà thoáng ngạc nhiên, “Vương gia chưa từng thấy thi thể mà cũng nghĩ vậy ư?”

“Ta tin rằng bất cứ điều gì cũng có nguyên nhân. Cố ý dùng nhựa độc tiễn khiến thi thể thành ra kinh khủng như thế, không thể nhận rõ dung mạo, nhất định là muốn giấu giếm chuyện gì đó.”

“Vương gia đoán không sai, cái xác đó không phải Vương Nhược, vì tuy da dẻ đã không phân biệt được nữa, song xương cốt không thể làm giả được, xương bàn tay người đó to hơn Vương Nhược nhiều.” Hoàng Tử Hà giơ tay phải ra, lật lòng bàn tay lên nhìn, “Còn một việc nữa tôi nghĩ không ra, là vết chai phân bổ trên tay người đó - trên đầu ba ngón giữa tay trái, ngón cái tay phải và dọc theo mép bàn tay phải, chỗ này này…”

Cô trỏ lên tay mình cho Lý Thư Bạch xem, “Mép bàn tay bên dưới ngón út có một lớp chai mỏng, tuy thường ngày có thể không nhìn thấy, nhưng da chỗ này hơi cứng hơn các chỗ khác.”

“Thường làm động tác sử dụng tới vị trí đó, thực là hiếm thấy.” Lý Thư Bạch xòe bàn tay thon dài trắng trẻo của mình ra, rồi nắm tay lại, làm ra vài tư thế, vẻ trầm ngâm.

Hoàng Tử Hà vội hỏi, “Vương gia có manh mối gì chăng?”

“Vừa rồi, dường như có một động tác thoáng qua trước mặt, song giữa lúc vội vàng không nhớ ra được.” Y cau mày đáp, rồi buông tay ra, “Điểm lớn nhất của vụ án này hiện giờ, có lẽ là hai chữ ‘ẩn hình’.”

Hoàng Tử Hà gật đầu tán thành, “Gã đàn ông đột nhiên xuất hiện rồi biến mất trong chùa Tiên Du, Vương Nhược mất tích ngay trước mắt chúng ta, giữa vòng vây của lớp hộ vệ, thậm chí vết thương không tồn tại trên tay cái xác kia, đều là thứ không thấy được, cũng là câu đố ẩn hình nan giải.”

“Thực ra có lúc mọi chuyện cũng như trò ảo thuật vậy, chỉ là ra tay từ góc độ người thường không nghĩ tới mà thôi, rõ ràng là một màn kịch giản đơn, song người xem vì đầu óc không lắt léo nên không sao đoán được chân tướng. Còn một khả năng nữa là…” Lý Thư Bạch nói, đoạn cầm chiếc bình lưu ly trên bàn lên, soi ra cửa sổ.

Trong ánh nắng rọi qua rèm, bình lưu ly trong vắt cùng làn nước chớp mắt đã biến mất, giữa lúc ngỡ ngàng, Hoàng Tử Hà chỉ thấy trên tay Lý Thư Bạch là con cá nhỏ đang nhởn nhơ bơi lượn giữa không trung, chẳng khác nào ảo ảnh.

“Một khả năng nữa, chính là cô ta đang sờ sờ ngay trước mắt chúng ta, chỉ vì góc độ và cảm giác khiến chúng ta mất đi sức phán đoán, ngỡ rằng cô ta không tồn tại.”

Hoàng Tử Hà ngắm nghía con cá nhỏ, thở dài lẩm bẩm, “Trong số những vụ án tôi từng gặp đến giờ, chưa có vụ nào nhiều manh mối, manh mối rối rắm và khó bắt tay vào như vụ này.”

“Nào chỉ có thế. Ngươi cứ tiếp tục tra đi, rồi sẽ phát hiện mạch nước ngầm đằng sau vụ án này còn đáng sợ hơn gấp bội.” Lý Thư Bạch đặt chiếc bình lưu ly trong tay xuống bàn, khóe môi lộ ra nụ cười như có như không, “Vụ này liên quan đến cả thế lực mạnh yếu của hoàng hậu tại hậu cung và trong triều đình, sự vinh nhục thịnh suy của nhà họ Vương Lang Gia, sự tồn vong của chi họ Ích vương, bè đảng tàn dư của phản tặc Bàng Huân, thậm chí…”

Nói đến đây, y ngừng lời, chăm chú nhìn con cá, nét mặt rõ ràng vẫn bình thản như mọi khi, song lại toát lên một áp lực vô hình khiến Hoàng Tử Hà thấy ngực mình nghẹn lại, hít thở cũng khó khăn.

Nhìn gương mặt nghiêng nghiêng của y, cô thầm nghĩ, thậm chí gì chứ? Còn có thứ gì vượt lên cả những thế gia đại tộc, hoàng thân quốc thích, phản tặc dư nghiệt mà y vừa liệt kê ư? Thứ cao không thể với ấy, rốt cuộc là gì?

Lại nhìn con cá nhỏ xíu tưởng chừng chỉ dùng hai ngón tay là đủ bóp chết kia, cô chợt nhớ đến lần đầu tiên gặp Lý Thư Bạch, những lời y nói khi cô bình luận về nó…

Ngươi có biết chuyện này ngay cả đương kim hoàng thượng cũng nói rõ không thể can thiệp, vậy mà ngươi dám ôm vào người, còn nói rằng mình giải quyết được ư?

Hoàng Tử Hà chăm chú nhìn con cá nhỏ vô tri. Sinh vật luôn được Lý Thư Bạch đem theo bên mình này, rốt cuộc có lai lịch gì, liên quan tới bí mật thế nào?

Ánh mặt trời rọi qua rèm xe, chiếu lên mặt Lý Thư Bạch. Nhìn nghiêng, gương mặt y nét nào ra nét ấy, lộ rõ hình khối, không hề bị nhạt nhòa dưới nắng như chiếc bình lưu ly kia. Y ở phía sau ánh dương, gương mặt thường ngày thanh nhã hào hoa lại rạng rỡ cuốn hút khác thường, khiến người ta lóa mắt.

Cô ngồi giữa cỗ xe lắc lư tròng trành, lặng lẽ nhìn Lý Thư Bạch, chợt thấy lòng hoang mang trước ý trời thâm sâu khó đoán.

Quỳ vương phủ.

Gác Ngữ Băng.

Một tờ giấy dài bảy thước rộng một thước tám, bên trên viết chi chít những con chữ nhỏ trải ra trước mặt hai người.

“Đây chắc là hầu hết các manh mối trong vụ án này.” Hoàng Tử Hà nói.

Lý Thư Bạch đứng trước bàn, xem lần lượt từng điều.

Thân phận của Vương Nhược: thiên kim thế gia, song lại do một cầm sư ở Vân Thiều Uyển hộ tống lên kinh, hơn nữa từ nhỏ còn theo người ở giáo phường học những khúc nhạc diễm tình.

Cái chết của Phùng Ức Nương: người bạn cũ của bà ta là ai, vì sao lại chết trong đám dân U Châu lưu lạc, Vương Nhược có biết không.

Lời tiên đoán ở chùa Tiên Du: gã đàn ông kia sao có thể tùy tiện đi lại giữa vòng vây hộ vệ trùng trùng, gã có thân phận gì, quá khứ của Vương Nhược không thể để người khác biết mà gã ám chỉ là gì, mũi tên bắn chết Bàng Huân tại sao lại xuất hiện.

Điện Ung Thuần: kẻ ngang nhiên hành thích Vương Nhược ngay trong hoàng cung là ai, Vương Nhược đã biến mất trước mắt mọi người như thế nào, lai lịch và dụng ý của nửa thoi bạc xuất hiện bên dưới ly trà.

Cái chết của đám ăn mày trong kinh: có liên quan đến vụ án này không? Vì sao họ lại chết cùng lúc, thậm chí trúng cùng một loại độc với thi thể cô gái xuất hiện trong điện Ung Thuần.

Cái xác giả mạo: thân phận thực sự của cô gái này, vết thương gây trúng độc và vết chai kỳ lạ trên bàn tay, cái xác làm thế nào xuất hiện tại đúng nơi Vương Nhược mất tích, ai muốn dùng nó để giả mạo thi thể Vương Nhược.

Lý Thư Bạch xem một lượt rồi bỏ tờ giấy vào lò hương đốt đi, sau đó mới quay lại ghế ngồi, “Thử lý giải những người có động cơ và bị tình nghi xem.”

Hoàng Tử Hà ngập ngừng nói, “Nếu nhìn vẻ ngoài mà suy thì người đầu tiên chính là Kỳ Lạc quận chúa. Cô ấy có động cơ, việc cô ấy đem lòng ngưỡng mộ gia cả kinh thành đều biết. Cô ấy cũng có thời gian nữa, hôm Vương Nhược mất tích, cô ấy đang ở trong cung.”

Lý Thư Bạch cười, vẻ không để tâm, “Còn ai nữa?”

“Người thứ hai là Ngạc vương gia. Người đến chợ Tây học lấy ngón ảo thuật không biết có phải Ngạc vương hay không, tuy động cơ thu nhận Trần Niệm Nương có thể giải thích được, song dường như có hơi trùng hợp quá.”

“Người khác?”

“Thứ ba, tàn dư của loạn đảng Bàng Huân, mượn cơ hội này ra tay báo thù vương gia.”

“Ai nữa?”

Hoàng Tử Hà do dự hồi lâu mới đáp, “Những người bất đồng chính kiến với gia trên triều hoặc có ý lấn lướt gia.”

“Nói vậy thì có cả một đống kẻ tình nghi.” Lý Thư Bạch lại lộ ra vẻ mặt như cười mà không phải cười, thong dong hỏi, “Không còn ai khác ư?”

“Còn mấy phán đoán nữa, nhưng khả năng rất thấp, ví như kẻ thù của Vương Nhược ở Lang Gia hoặc của Phùng Ức Nương ở Dương Châu chẳng hạn.”

“Nhưng trong vụ này, những dấu hiệu nhằm vào ta vẫn nhiều hơn, đúng không?”

“Phải.” Hoàng Tử Hà gật đầu, “Vậy mới nói khả năng những kẻ gây thù chuốc oán với họ trước đây đuổi theo đến tận kinh thành là rất thấp, càng không thể ra tay trong cung được.”

“Liên quan đến chân tướng vụ án này, còn một khả năng nữa mà ngươi chưa nhắc tới.” Lý Thư Bạch ngả người ra lưng ghế nhìn cô, khóe môi hơi cong lên.

Hoàng Tử Hà ngạc nhiên, thầm duyệt lại tình tiết vụ án một lượt rồi hỏi, “Chẳng biết… tôi bỏ sót điều gì?”

“Chính là điều mà tất cả người trong kinh đều nhất trí, đây là do ma quỷ gây ra.” Lý Thư Bạch khoanh tay dựa vào ghế, nụ cười lạnh lẽo càng lộ rõ, “Không phải sao, Bàng Huân bị ta bắn chết, nhất định muốn thực hiện lời nguyền trên lá bùa kia lên ta, bởi vậy trước tiên mới để lại đầu mũi tên trong chùa Tiên Du nhằm đe dọa, sau đó lại cướp vương phi tương lai của ta đi giữa trùng trùng hộ vệ, cuối cùng đưa di thể vương phi đã chết thảm trở về chỗ cũ.”

“Không sai, nếu giải thích như vậy thì động cơ, cách thức, quá trình đều đầy đủ.”

“Nếu ngươi quả thực không tìm ra được chân tướng, thì cứ để Hình bộ và Đại Lý Tự kết án như vậy đi.”

Hoàng Tử Hà khẽ lắc đầu, “Tôi nhất định sẽ tra rõ chân tướng. Tên hung thủ này không những giết hại Vương Nhược mà còn liên lụy đến cả Phùng Ức Nương và bốn người ăn mày vô tội. Dù là vì Trần Niệm Nương, hay vì đám ăn mày không được bất cứ ai quan tâm, tôi cũng nhất định phải bắt được hung thủ. Huống hồ…”

Lý Thư Bạch nhìn cô, thấy vẻ mặt cô rất kiên định, ánh mắt không mảy may do dự, cặp mắt sáng rực chiếu thẳng vào y, giọng nói khàn đi vì mệt mỏi song vẫn cương quyết như chém đinh chặt sắt.

“Nếu không thể giúp vương gia phá vụ án này thì làm sao tôi về Thục rửa oan cho người nhà được?”

Lý Thư Bạch đương nhiên nhớ giao hẹn của Hoàng Tử Hà với mình, nên chẳng nói gì thêm nữa. Y chăm chú nhìn người thiếu nữ, song ánh mắt cô lại hướng ra phía chân trời xa tắp ngoài cửa sổ kia.

Dường như vừa nhớ ra điều gì, cô bỗng quay lại hỏi y, “Phải rồi, là bùa của vương gia giờ thế nào?”

“Ngươi đoán xem?” Y đứng dậy đến chỗ chiếc tủ phía sau lấy ra một hộp vuông nhỏ.

Chiếc hộp hoàn toàn không có khóa ngoài, song trên nắp lại có chín chín tám mươi mốt ô vuông xếp thành tám mươi ô chữ, bên trên viết những con chữ tán loạn.

Hoàng Tử Hà biết đây là khóa cửu cung, phải xếp tám mươi chữ kia vào vị trí chính xác mới mở được hộp, bằng không chỉ còn cách phá hộp.

Cô bèn quay đầu đi, giữ ý không nhìn Lý Thư Bạch sắp chữ mở hộp. Đợi chiếc hộp mở ra, Lý Thư Bạch thò tay vào trong rút ra một vật tròn tròn nho nhỏ thuôn thuôn. Y đặt vật hình bán nguyệt đó lên bàn. Nửa trên quả cầu có những vết nứt nho nhỏ, như quả trứng tỉa thành hình hoa sen, phần dưới đáy tròn tròn, tổng cộng có ba vành khuyên, trên mỗi vòng đều có những mấu lồi be bé.

“Mỗi vòng trên chiếc khóa ba vòng này đều có hai mươi tư mấu lồi có thể xoay chuyển, chỉ khi nào xoay tất cả vào đúng vị trí chính xác mới mở được hộp ra, còn nếu cố tình cạy thì thứ bên trong sẽ nát vụn.” Lý Thư Bạch vừa điều chỉnh những mấu ngầm, vừa nói.

Xem ra, Lý Thư Bạch cất giữ lá bùa kia rất kỹ.

Ba vòng bên dưới xoay đến đúng vị trí, Lý Thư Bạch đặt chiếc hộp lên bàn, giơ tay ấn nhẹ vào nắp hộp, cơ quan bên trong chiếc hộp tròn như búp sen bắt đầu hoạt động, cả chiếc hộp rời ra từng mảnh như một đóa sen bằng gỗ chợt nở bừng trước mặt hai người.

Giữa lớp lớp cánh sen, lá bùa nằm ngay ngắn.

Tờ giấy làm bùa dày dặn, hơi ngả vàng, rộng hai tấc, dài tám tấc, trên nền hoa văn quỷ quái, ba chữ “côi”, “tàn”, “góa” vẫn tươi rói như vừa mới viết.

Vòng tròn màu máu quanh chữ “côi” vẫn đỏ rực, song khoanh tròn vốn đỏ thẫm quanh chữ “góa” đã mờ đi, chỉ còn vết hồng nhàn nhạt, giống như chữ “tàn” khi trước vậy.

Hoàng Tử Hà ngạc nhiên ngẩng lên nhìn Lý Thư Bạch.

Y khẽ phất hai tay, lập tức chiếc hộp tròn đang mở bung lại lần lượt cụp từng lớp cánh vào như lúc ban đầu, trở thành một hình bán nguyệt thuôn thuôn.

“Rõ quá còn gì, cuộc hôn nhân này đã bị hủy, hình như ta lại vừa thoát khỏi một kiếp nạn bị nguyền rủa.”

Lý Thư Bạch hờ hững đặt chiếc hộp thuôn thuôn vào bên trong chiếc hộp vuông, sắp loạn khóa cửu cung trên nắp hộp lên, rồi cất lại vào tủ, dáng vẻ vẫn ung dung điềm tĩnh.

Hoàng Tử Hà hỏi khẽ, “Lá bùa này xưa nay vẫn được cất kỹ ở đây ư?”

“Chẳng biết có kỹ chưa, ít ra ta cũng cực hiếm khi tiết lộ cho ai.” Y thong thả đưa mắt nhìn cô, “Có thể nói rằng, sau khi rời khỏi Từ Châu, trừ ta ra, ngươi là kẻ duy nhất trông thấy đấy.”

Lòng Hoàng Tử Hà bỗng dấy lên một con sóng lạ lùng. Ngẩng lên bắt gặp ánh mắt y, thăm thẳm mà sâu xa, như đang nhìn cô, lại như không phải nhìn cô. Y đang nhìn thứ gì đó xa xôi mà hư ảo, lại có lẽ, chỉ đang nhìn một thứ gần trong gang tấc mà xa ngoài tầm tay với.

Hoàng Tử Hà bất giác quay đi, né ánh mắt y, nhìn ra ngoài song như trốn tránh.

Trong gác Ngữ Băng chỉ nghe tiếng thở khe khẽ của hai người, vài tiếng ve rè rè lẫn vào tiếng chim kêu ngoài cửa sổ, khiến người ta chợt nhận ra xuân đã tàn mà hạ vừa mới chớm.

Hoàng Tử Hà đến phủ họ Chu ở phường Sùng Nhân. Ông già gác cửa nghe tiếng gõ vội mở ra ngay.

“Lão bá à, báo hộ với tiểu thiếu gia nhà các vị là có người đến tìm nhé, cứ bảo tôi họ Dương.”

Ông già mở cửa hối hả đi liền, mấy người khác bèn mời Hoàng Tử Hà ngồi rồi rót trà cho cô. Hoàng Tử Hà thản nhiên uống trà, nghe họ tán gẫu.

“Đồ đạc sắp xếp cả rồi chứ?”

“Rồi rồi, chỉ còn tháng nữa là đến ngày lão gia rời kinh, mọi thứ đều đã sắp xếp chu toàn cả.”

“Có điều gần đây hình như tiểu thiếu gia không được vui cho lắm.”

“Phải đó, lúc trước, khi được hoàng đế bổ nhiệm làm bổ đầu ở Xuyên Thục, chẳng phải tiểu thiếu gia vẫn hớn ha hớn hở, mừng rỡ ra mặt ư, sao thoáng cái đã rầu rĩ giam mình cả ngày trong phòng, chẳng buồn ra khỏi cửa nửa bước thế?”

Đương chuyện trò rôm rả thì tiểu thiếu gia Chu Tử Tần im hơi lặng tiếng bấy nay theo lời họ nhảy chân sáo đi ra, “Sùng Cổ đến rồi à!”

“Tiểu thiếu gia!” Đám canh cổng lũ lượt đứng dậy chào hỏi.

“Được rồi, đi hết đi.” Chu Tử Tần tùy ý xua tay, đoạn túm lấy Hoàng Tử Hà hỏi, “Có phải vụ án có tiến triển gì mới rồi không? Phải không phải không phải không?”

Hoàng Tử Hà lắc đầu, “Tìm công tử thảo luận chút thôi.”

“Vào đây vào đây.” Gã kéo tay cô xăm xăm đi vào trong, “Ta nghe nói trời đương nóng dần lên nên cái xác kia dù đặt trong hầm nước đá cũng không cầm cự nổi, bắt đầu rữa nát ra, vì thế hoàng hậu phải chính miệng bảo Quỳ vương, quyết định đợi tròn bảy ngày nữa, sau ba ngày sẽ phát tang ngay.”

“Ừm”. Hoàng Tử Hà theo gã vào phòng ngồi xuống xong xuôi mới nhỏ giọng bảo, “Bởi vậy tốt nhất là chúng ta phải tra ra chân tướng trong vòng ba ngày, chứ đợi thi thể được chôn cất thì việc điều tra càng phiền phức.”

“Nói vậy thì mấy người ăn mày bị ta hại chết kia vẫn chưa có manh mối gì ư…” Chu Tử Tần rầu rĩ, “Nhưng một vụ án rắc rối phức tạp thế này, sao có thể tra ra trong ba ngày chứ? Ngay cả Hoàng Tử Hà mà ta hết sức hâm mộ cũng chưa chắc làm được đâu…”

Khóe môi Hoàng Tử Hà giần giật mấy cái rất khẽ, gần như không thể thấy được, cô ho khan một tiếng rồi nói, “Quỳ vương dặn nếu trong ba ngày không thể tra ra được, thì trước hết đành tuyên bố rằng cái xác đó không phải Vương Nhược, miễn là chưa đậy nắp áo quan thì không thể kết luận, chúng ta vẫn có thể tranh thủ thời gian điều tra tiếp.”

“Điều tra ư! Tra thế nào đây, phải bắt tay từ chỗ nào, khởi nguồn manh mối ở đâu, ta chẳng biết gì cả…” Chu Tử Tần gãi gãi đầu, nhăn nhó nằm bò ra bàn, “Ôi, lúc này mà có Hoàng Tử Hà ở đây thì tốt, cô ấy nhất định sẽ tìm được manh mối có giá trị nhất rồi bắt tay vào…”

Hoàng Tử Hà cảm thấy khóe môi mình lại giần giật. Khó khăn lắm cô mới trấn tĩnh được, vỗ nhẹ vào góc bàn, “Được rồi, tôi và Quỳ vương đã xem xét vụ án này một lượt, hơn nữa còn đề xuất một hướng mà chúng ta cần phải điều tra ngay bây giờ.”

“Hướng nào?” Chu Tử Tần ngẩng lên.

“Cảnh Húc đã đến Từ Châu điều tra việc đầu mũi tên bắn Bàng Huân kia mất tích rồi, tới lúc đó nếu biết được vì sao mũi tên nọ lại xuất hiện trong chùa Tiên Du, có lẽ sẽ trở thành một manh mối quan trọng trong vụ án này.” Cô nói, đoạn rút ra nửa thoi bạc, đặt lên mặt bàn, “Còn thứ này, chính là manh mối mà chúng ta ở đây phải điều tra.”

“Bạc à? Còn là nửa thoi?” Chu Tử Tần cầm nửa thoi bạc lật qua lật lại xem xét chữ bên trên rồi hỏi, “Công công thiếu tiền à? Ta cho vay nhé!”

Hoàng Tử Hà nghẹn cả họng, đành trỏ nét chữ phía sau thoi bạc, “Xem đi.”

“Phó sử Lương Vi Đống… Nội khố sứ thần Trương Quân Ích, đúc bạc hai.” Gã đọc lên rồi thắc mắc, “Có vấn đề gì đâu?”

“Nhưng, trong những thoi bạc mà kho bạc đúc ra suốt bao năm nay, không hề có tên hai người này.”

“Thế là bạc tự đúc? Hoặc là đồ giả?”

“Nếu tự đúc đương nhiên sẽ ghi tên chủ nhân, cần gì phải mạo xưng là kho bạc? Cũng không phải đồ giả, rõ ràng là bạc ròng.” Hoàng Tử Hà nắm chặt thoi bạc, nghiêm mặt nhìn gã, “Quan trọng nhất là, nửa thoi bạc này được tôi và Quỳ vương phát hiện ở gác Đông lúc Vương Nhược mất tích. Bấy giờ nó được một chiếc chén úp lên, đặt trên bàn, Quỳ vương gia uống trà mới phát hiện ra.”

Chu Tử Tần mừng rỡ, “Quỳ vương gia quả không khác gì ta, ngồi ngay bên cạnh thi thể bê bết máu đen như thế mà vẫn có thể ung dung thưởng trà, đúng là người có cái nhìn toàn cục.”

Hoàng Tử Hà không nhịn được bèn nhắc nhở, “Bấy giờ cái xác còn chưa xuất hiện, Vương Nhược mới mất tích thôi.”

Chu Tử Tần chẳng buồn để ý mấy tình tiết đó, chỉ cầm thoi bạc lên hỏi, “Vậy theo công công sau đây chúng ta nên đi đâu?”

“Đương nhiên là đến bộ Lại tra danh sách các quan viên xưa nay, xem có tra ra hai người này không.”

Tri sự trực ban hôm nay ở bộ Lại cầm mẩu giấy Hoàng Tử Hà đưa, nhìn hai cái tên Lương Vi Đống, Trương Quân Ích trên đó, vẻ mặt khổ não như ngậm bồ hòn.

“Hai vị, ta đề nghị hai vị đừng đợi làm gì, mười ngày nửa tháng tra ra được đã là may lắm rồi.”

“Mười ngày nửa tháng á?” Chu Tử Tần trợn tròn mắt, “Lâu thế cơ à?”

Tri sự giơ tay trỏ căn nhà hai tầng bảy gian trước mặt, “Kia kìa, đó là hồ sơ lưu trữ về tất cả các quan viên từ khi bản triều khai quốc đến giờ, tuy cũng đã mất mát một ít, nhưng vẫn còn nhiều thế đấy. Đó mới chỉ là phòng đầu tiên thôi, vì không chứa hết được nên phía sau còn xây thêm ba căn như vậy nữa.”

“…” Hai người đứng đờ ra, cảm thấy làm thế này quả không phải là cách hay.

“Làm sao đây? Có cách nào để nhanh chóng tìm ra người chúng ta cần giữa bấy nhiêu tư liệu không?” Chu Tử Tần hỏi.

Hoàng Tử Hà nghĩ ngợi, rồi đột nhiên đi tới trước mặt viên tri sự kia đề nghị, “Phiền đại nhân giúp tôi tìm hồ sơ về các quan viên trong vòng mười năm nay ở Từ Châu.”

“Từ Châu à? Tư liệu về quan viên nơi này hình như không nhiều lắm.” Tri sự nói, đoạn gọi một tên tiểu lại tới, tiểu lại dắt họ tới gian thứ tư căn thứ hai, mở cửa nói, “Đây chính là hồ sơ quan viên Từ Châu từ xưa đến nay.”

Nhìn những giá sách đầy phè xếp thành hàng bên trong, không gian giữa các giá gần như không đủ để lách mình vào nữa, Chu Tử Tần trợn tròn mắt, lẩm bẩm, “Ta vẫn thấy… công trình này lớn quá đi mất…”

“Cảm ơn, tôi sẽ tìm thử xem.” Hoàng Tử Hà buông một câu, đoạn nhấc chân bước vào phòng.

Chu Tử Tần thấy cô đi thẳng về phía giá để hồ sơ của quan viên năm Hàm Thông thứ chín, bưng xuống một đống tư liệu về năm Đại Trung thứ nhất, lật nhanh đến phần những ngụy quan được Bàng Huân phong tước và bị triều đình xử lý sau này.

Trong phòng hơi tối, dưới ánh sáng từ ngoài song chênh chếch rọi vào, những hạt bụi dày đặc bay tản mác khắp nơi. Chu Tử Tần quay lại nhìn Hoàng Tử Hà, phấn vàng xoa trên mặt cô nhạt hẳn đi dưới ánh mặt trời, khiến làn da trắng muốt như ngọc ngời lên giữa lớp bụi bay mù mịt, hàng mi dài mà dày như đôi cánh bướm phủ lên cặp mắt tựa sương xuân.

Chu Tử Tần bỗng chốc ngây người, thầm nghĩ, chắc hẳn Dương Sùng Cổ đã tịnh thân từ khi còn rất nhỏ, bằng không làm sao có thể thuần khiết, dịu dàng uyển chuyển từ trong cốt cách đến thế kia. Bao nhiêu năm qua, gã từng gặp rất nhiều hoạn quan yểu điệu như thiếu nữ, song theo nghiên cứu của gã về xương cốt con người, thân thể Dương Sùng Cổ luông toát ra cảm giác gì đó khác lạ. Chu Tử Tần chăm chú ngắm chiếc cằm tròn đầy, cần cổ mảnh mai và đôi vai mềm mại, thầm nghĩ, nếu một ngày nào đó Dương Sùng Cổ chỉ còn bộ xương, nhất định mình sẽ lầm đó là xương phụ nữ.

Hèn chi trong kinh vẫn đồn rằng, Dương Sùng Cổ gần đây rất được Quỳ vương sủng ái, ra ngoài thì cùng xe, về phủ thì cùng phòng…

Nhưng ngay lập tức, gã vội kìm hãm tất cả liên tưởng về tiểu hoạn quan và Quỳ vương lại, lật đật bưng một chồng tư liệu về những năm Đại Trung lên lật xem.

Trong phòng bỗng chốc im phăng phắc, chỉ nghe tiếng giở sách loạt soạt. Giữa bầu không khí yên tĩnh ấy, Chu Tử Tần không kìm được lại quay sang nhìn Hoàng Tử Hà. Chỉ thấy ngón tay cô liên tục đưa sang phải, mỗi lần nhìn lướt được cả mười hàng, điểm qua tên tuổi và ghi chép về từng người, cuối cùng ngón tay cũng dừng lại ở một mục, cô xem kỹ trước sau rồi thở phào nhẹ nhõm, đẩy cuốn sách trong tay tới trước mặt gã, “Xem này.”

Chu Tử Tần chụm đầu lại xem, thì thấy bên trên viết:

Bàng Huân đặt kho bạc, phong ngụy quan. Nội khố chủ sử Trương Quân Ích, phó sử năm người, Lỗ Ngộ Hãn, Đặng Vận Hi, Lương Vi Đống, Tống Khoát, Nghê Sở Phát. Quỳ vương đều xóa bỏ, sung tất cả vàng bạc tự đúc vào kho bạc.

Hoàng Tử Hà ngẩng lên bảo gã, “Xem ra, thoi bạc này là do Bàng Huân cho đúc trong lúc định tự lập làm vương.”

Chu Tử Tần cầm cuốn sách kia đập bộp một cái làm bụi bay mù mịt, kêu ré lên vừa mừng rỡ vừa kinh ngạc, “Thì ra chuyện này là do đám tàn dư của Bàng Huân gây ra!”

“Dù là dư nghiệt của Bàng Huân, thì lấy cái gì chả được, sao phải để lại thoi bạc?”

“Lẽ nào chúng để lại tiền mua mạng ư?” Chu Tử Tần xoa cằm ngẫm nghĩ, “Nhưng đường đường vương phi sao chỉ đáng giá mười lạng được?”

Hoàng Tử Hà chẳng buồn để ý đến gã, chạy đi mượn giấy bút chép lại đoạn viết kia rồi nói, “Mặc kệ thế nào, dù sao cũng là một manh mối, về bẩm vương gia trước đã!”

Chu Tử Tần theo cô bước ra khỏi bộ Lại, bấy giờ đã gần đến giờ Ngọ, gã xoa bụng than thở, “Đói quá đi mất, ta mời công công đi ăn nhé!”

Hoàng Tử Hà ngần ngừ, “Tôi còn phải về bẩm lại với vương gia cho sớm…”

“Vương gia một mình kiêm mấy chức, ngày nào cũng bận bịu, giờ này nha môn chưa nghỉ, sao có thể về phủ đợi công công được?” Chu Tử Tần nói, đoạn khăng khăng kéo tay cô đi về phía chợ Tây, không để cô phân bua gì nữa, “Đi đi đi đi, ta biết một quán ngon cực, thịt bò chủ quán đó làm rất tuyệt! Công công có biết tại sao không? Vì hắn ta thái thịt ngang thớ, nên khi nấu ra mùi vị rất ngon! Lại nói đến thịt, ta thấy giết người cũng giống như giết gà giết lợn vậy, khi xuống dao phải rất chú ý, nếu cắt ngang thớ, làm đức cơ thịt thì vết thương vạch ra sẽ nở bung như hải đường trên cành, còn nếu cắt dọc thớ thì vết thương sẽ như mây trôi nước chảy, máu chảy ra cũng sẽ chảy dọc, chứ không bắn tung tóe khắp nơi…”

“Máu có bắn ra hay không, chủ yếu phải xem có cắt vào mạch máu không.” Hoàng Tử Hà ngắt lời gã, đoạn bồi thêm, “Nếu công tử còn nói thêm một câu về mấy chuyện máu thịt ấy nữa thì tôi không ăn đâu.”

“Vậy nội tạng thì sao?”

Hoàng Tử Hà lập tức quay ngoắt người đi thẳng, Chu Tử Tần vội nắm vai cô kéo lại nài nỉ, “Được rồi, được rồi, ta xin thề, nhất định không nói nữa!”
 

Tam Thất

nhân chi sơ, tính bản thiện
Tham gia
13/4/19
Bài viết
1,705
Điểm cảm xúc
1,399
Điểm
113
Bánh canh thịt bò ở quán đó quả thực rất ngon, mỗi người đều ăn một bát to. Hôm nay trong tiệm không có khách khứa nào khác, ông bà chủ ngồi trong quán quan sát hai vị khách, một kẻ là công tử phong lưu còn kẻ kia là tiểu hoạn quan mày thanh mắt sáng, toát lên một vẻ đẹp khó phân rõ là nam hay nữ, vừa ăn vừa điềm nhiên nghe gã công tử kia huyên thuyên. Công tử nọ mặc bộ đồ sặc sỡ hoa lệ, đỏ rực phối với xanh biếc, trên người lại đeo mười bảy mười tám món trang sức, nào túi hương nào đá lửa nào dao găm nào ngọc bội nào kim bài nào mặt bạc, nhìn từ xa trông như một tên bán hàng rong.

Quả là một cặp đôi kỳ quái.

Ăn xong bữa, Hoàng Tử Hà bước ra khỏi quán, bên ngoài đang đông nghẹt người. Giữa đám đông, cô trông thấy một kẻ đang xăm xăm tiến bước, liền buột miệng kêu khẽ, “Trương Hàng Anh?”

Chu Tử Tần tò mò hỏi, “Ai vậy, công công quen ư?”

“Ừm… Gã từng giúp tôi, còn bị tôi làm liên lụy. “Cô thở dài nói, đoạn bất giác bám theo.

Chu Tử Tần chẳng hiểu mô tê gì, thấy cô lẳng lặng đi sau Trương Hàng Anh thì cũng không dám nhiều lời, hai người cứ thế từ từ theo đuôi Trương Hàng Anh giữa dòng người nhốn nháo.

Trương Hàng Anh xách một bao tải bê bết đất cát thong thả đi về phía phường Phổ Ninh. Hồi nhỏ Hoàng Tử Hà đã thông thạo hết đường sá trong kinh, còn nhớ trong phường Phổ Ninh có một cây hòe to đến một người ôm, nhà Trương Hàng Anh hình như ở gần đó.

Quả nhiên gốc hòe vẫn sum suê như trước, nhà Trương Hàng Anh nằm ngay bên cạnh. Giờ đang là đầu hạ, trên chiếc ghế đá dưới gốc cây có mấy người đàn bà vừa may vá vừa tán gẫu, nhìn đám nhỏ nhà mình nô đùa.

Hoàng Tử Hà đi chầm chậm về phía nhà Trương Hàng Anh, tuy tường nhà gã chỉ cao ngang thắt lưng cô, song bên trên lại cắm một bức rào cây cao đến đầu người, vừa khéo che khuất thân hình cô. Cô nhìn qua khe hở cành lá, thấy Trương Hàng Anh dốc ngược bao tải ra,bên trong là một nắm thảo dược mới hái, đem trải phơi trên phiến đá xanh trong sân.

Một bà lão cạnh đó trông thấy cô bèn hỏi, “Vị đại nhân này tìm ai vậy?” Bà ta không nhận ra trang phục hoạn quan, ngỡ rằng Hoàng Tử Hà là quan sai, liền tươi cười hỏi, song chỉ dám liếc qua Chu Tử Tần một lần rồi thôi, như sợ mù mắt vì những vàng ngọc châu báu đeo đầy người gã.

Hoàng Tử Hà vội đáp, “Tôi là bạn của Trương Nhị ca, tới thăm xem dạo này tình hình thế nào.”

“Ồ, Tiểu Nhị nhà họ Trương ấy à? Chẳng phải nó bị Quỳ vương phủ đuổi đi ư, giờ theo phụ việc cho cha nó ở Đoan Thụy Đường, gọi là học nghề, thực ra nghe nói là chạy vặt, có lúc thiếu dược liệu còn phải theo người ta vào núi hái thuốc cơ đấy.” Người già hay chuyện, chỉ một lát đã tông tốc kể ra hết, “Trước đây nghe nói ở vương phủ nó phạm lỗi, nên bị đánh ba trăm côn đuổi về, hai vị còn đến tìm làm gì...”

“Hai mươi côn.” Cô ngán ngẩm, lời đồn quả là khoa trương, chịu ba trăm côn thì sống sao nổi nữa?

“Ồ, tóm lại là bị đuổi về, nhất định là phạm lầm lỗi lớn rồi, có người còn bảo...” Bà lão hào hứng kể, rồi làm bộ thần bí hỏi dò, “Nghe nói có liên quan đến cái chết của Quỳ vương phi hả?”

Hoàng Tử Hà càng khó nói nên lời, “Đâu có, lúc gã đi thì còn chưa tuyển Quỳ vương phi mà.”

Bà lão bèn lắc đầu than thở, “Ôi chà, tiểu tử ngoan như thế, mặt mũi lại sáng sủa thân hình cao ráo, bằng không làm sao vào được đội nghi trượng của Quỳ vương? Là vì cao ráo nên mới được chọn vào đó! Lúc nó mới vào, mọi người đều ngưỡng mộ lắm, nào ngờ được mấy tháng đã bị đuổi về.”

Hoàng Tử Hà đứng ngẩn ra một lát rồi nói khẽ, “Cũng chẳng có chuyện gì to tát đâu, nói không chừng Quỳ vương phủ lại gọi về thôi.”

“Còn có chuyện đó ư? Nhưng mọi người đều nói Quỳ vương gia rất nghiêm, sao có thể để một kẻ từng mắc lỗi quay về chứ?” Nói đoạn, bà lão nhìn quanh, nói nhỏ với vẻ thóc mách, “Ôi chao các vị không biết chứ, láng giềng chúng tôi lúc trước có đến mười mấy nhà đều nhờ người mai mối muốn gả con gái cho nó, giờ thì hay rồi, cả mối đang bàn tính cũng lặn mất tăm. Đại nhân biết không, còn không bằng tiểu tử nhà tôi, đi theo Lưu sư phó học làm mộc, giờ đã sắp ra nghề rồi đó!”

Hoàng Tử Hà lặng thinh hồi lâu rồi quay người đi thẳng ra ngoài. Bà lão còn hỏi với theo, “Đại nhân không vào ư? Hôm nay nó ở nhà đó.”

“Không cần đâu, cảm ơn bà.” Hoàng Tử Hà đáp rồi bước đi, còn nghe bà lão sau lưng lẩm bẩm, “Người này đẹp thực, lại có phần nhang nhác con gái, y như một tiểu công công trong cung vậy.”

Chu Tử Tần không nhịn được bật cười khùng khục, nhưng Hoàng Tử Hà chẳng còn lòng dạ nào mà chấp gã nữa. Trừ phường Phổ Ninh, dọc đường họ diễu qua hết phố lớn ngõ nhỏ, mãi khi ra tới đường Chu Tước, cô mới định thần lại bảo Chu Tử Tần, “Hôm nay đa tạ công tử giúp tôi đến bộ Lại điều tra, tiếp theo nếu có manh mối nào, chúng ta lại tiếp tục nhé.”

Chu Tử Tần thấy cô rầu rĩ bèn vỗ vai an ủi, “Được rồi mà, người bạn kia của Sùng Cổ tên là gì... Trương Hàng Anh phải không? Đừng lo, ta sẽ giải quyết giúp cho.”

Hoàng Tử Hà ngạc nhiên ngẩng lên nhìn gã.

“Tốt xấu gì ta cũng ở kinh thành này mười mấy năm, chí ít cũng quen vài người trong sáu bộ. Gần đây, có một huynh đệ bảo ta rằng, mã đội ở ty Phòng vệ trong kinh đang muốn tuyển thêm người. Công công cũng biết đấy, trong các nha môn thì mã đội là oai nhất, mỗi ngày cưỡi ngựa tuần tra trên phố hai vòng, mặc đồng phục lại đeo đao, có cả đám đàn bà con gái tựa cửa nhìn lén, sợ gì chẳng tìm được vợ. Huống hồ lương tháng cũng khá, rõ ràng là một việc béo bở, bao nhiêu người đang vắt óc ra nghĩ cách đi cửa sau đấy, nếu không phải người bạn kia của công công anh tuấn đĩnh đạc, đường hoàng cao lớn thì ta đâu dám giới thiệu!”

“Thực không?” Hoàng Tử Hà mừng rỡ hỏi.

“Đương nhiên rồi, thủ lĩnh mã đội trong ty Phòng vệ ở kinh thành là bạn thân của ta, cứ để ta lo!” Chu Tử Tần vỗ ngực cam đoan, “Đợi phá xong vụ này, ta sẽ dẫn công công tới gặp đội trưởng Hứa Tùng Vân.”

“Đa tạ công tử nhé!” Hoàng Tử Hà vô cùng cảm động, ngẩng đầu bảo gã, “Nếu thành công thì muốn báo đáp thế nào cứ nói!”

“Ha ha, đến lúc đó cứ để ta được thoải mái huyên thuyên trong lúc ăn là được rồi.” Thấy Hoàng Tử Hà lộ vẻ ngượng nghịu, gã lại giơ tay vỗ vỗ lưng cô, cười nói, “Đùa thôi, thực ra chỉ là chút chuyện vặt, đáng kể gì đâu, dù sao công công cũng là người ta tôn kính thứ hai chỉ sau Hoàng Tử Hà, có chuyện cần làm cứ bảo ta là được!”

Hoàng Tử Hà bị gã vỗ cho suýt thì hộc máu, khóe môi giần giật mấy cái mới rặn ra được một nụ cười, “Đã vậy đợi vụ án này kết thúc, tôi sẽ đãi tiệc mời công tử trên Chuế Cẩm Lâu, đến chừng đó công tử nói gì tôi cũng rửa tai lắng nghe!”

“Cũng phải chờ công công có tiền đã chứ, nghe nói mới vào làm trong Quỳ vương phủ không lâu, đã được phát lương tháng rồi ư?” Gã hỏi, lại dùng ngón cái xỉa xỉa vào ngực mình, “Có điều tiểu gia ta trong nhà vừa khéo có hai bọc tiền, cần thì cứ tới tìm, ta có thể nuôi ngươi tha hồ ăn uống...”

“Người của Quỳ vương phủ cần ngươi nuôi từ lúc nào vậy?” Bên cạnh họ, có người thình lình xen vào. Áp lực vô hình toát ra từ giọng nói băng giá đó khiến Hoàng Tử Hà thấy da đầu tê dại cả đi, ngoảnh lại nhìn, quả nhiên là Lý Thư Bạch.

Xe ngựa của y đang đỗ ngay đầu phố, bản thân y vén rèm lên nhìn họ, vẻ mặt lạnh nhạt như thường, chẳng nhìn ra điều gì khác lạ, song Hoàng Tử Hà vẫn thấy ánh mắt y có vẻ không vui, đành cúi đầu, lặng lẽ nhích lại gần vị vương gia thâm sâu khó dò kia một chút.

Chu Tử Tần vô tâm vô tính nào có nhận ra, còn tươi cười gật đầu chào Lý Thư Bạch, “Khéo quá, vương gia cũng đi qua đây ư?”

“Ta tiễn sứ thần Đột Quyết đến dịch trạm nghỉ rồi quay về, vừa khéo gặp hai người.” Lý Thư Bạch tiện miệng đáp.

Dịch trạm cách đây rất xa, nhưng Chu Tử Tần nào có nhận thấy, lại trỏ Hoàng Tử Hà nói vói Lý Thư Bạch “Vương gia xem, tên Sùng Cổ này cười lên rất đẹp, cứ như gió xuân hây hẩy, đào mận rộ hoa, thế mà bình thường cứ xị cái mặt ra, nếu không phải vương gia ngẫu nhiên ngang qua chắc chẳng nhìn thấy được đâu. Về sau vương gia bảo Sùng Cổ cười nhiều vào nhé.”

Hoàng Tử Hà cảm thấy mặt mình sắp co rúm cả lại - rõ ràng là một nụ cười gượng gạo, rõ ràng Quỳ vương trông thấy thì sắc mặt liền tối sầm như mây đen vần vũ, vậy mà Chu Tử Tần vẫn không nhận ra, đúng là có mắt như mù.

“Vậy sao?” Lý Thư Bạch liếc Hoàng Tử Hà. “Có chuyện gì vui mà khiến kẻ cau có như Dương Sùng Cổ lại tự nhiên mỉm cười vậy?”

“Không có gì, chỉ là... Chu công tử vừa giúp tôi chút việc thôi.” Hoàng Tử Hà vội đáp.

Lý Thư Bạch thấy Chu Tử Tần gật đầu, cũng không tiện gặng hỏi thêm, chỉ sầm mặt nhìn Hoàng Tử Hà, “Hôm nay đến bộ Lại có thu được gì không?”

“Hôm nay chúng tôi có phát hiện lớn!” Chu Tử Tần hào hứng nói, kéo tay Lý Thư Bạch toan bàn luận chuyện vụ án ngay giữa đường. Hoàng Tử Hà thực hết cách, đành đằng hắng khẽ. Chu Tử Tần vẫn không hiểu, còn ngơ ngác quay lại nhìn cô.

Lý Thư Bạch trỏ quán rượu phía sau, bấy giờ Chu Tử Tần mới sực hiểu, “Không được không được, chúng ta không thể đứng giữa đường nói chuyện này được!”

Lý Thư Bạch xuống xe, ba người bước vào quán rượu, tìm một gian phòng yên tĩnh trên tầng hai.

Một bình trà xanh, bốn đĩa điểm tâm. Đợi những người khác lui xuống cả, Chu Tử Tần mới hạ giọng nói, “Vẫn là Sùng Cổ tinh tường, đoán được thoi bạc kia có liên quan tới Bàng Huân nên ngay từ đầu đã nhằm vào đám ngụy quan được Bàng Huân phong tước, quả nhiên một đòn trúng phắp, thoi bạc này đúng là xuất phát từ kho bạc được Bàng Huân cho đúc riêng ở Từ Châu.”

Lý Thư Bạch trầm ngâm nhìn tờ sao chép được Hoàng Tử Hà trình lên.

Còn Chu Tử Tần lại nhìn cô bằng ánh mắt ngưỡng mộ, “Sao Sùng Cổ đoán được thoi bạc này liên quan đến Bàng Huân?”

“Nhìn những vết đen trên thoi bạc, tôi nghĩ hẳn là mới được đúc mấy năm gần đây. Loại trừ khả năng bạc giả và người dân tự đúc, bên trên lại có chữ ‘nội khố’, vậy thì cũng có thể là do kẻ rắp tâm làm phản đúc nên. Mà gần đây trong đám phản tặc, có thể phát triển đến mức dựng kho đúc bạc, thì chỉ có mình Bàng Huân.”

“Nói đúng lắm! Sao ta chẳng nghĩ ra nhỉ?” Chu Tử Tần vỗ tay bồm bộp, luôn miệng than thở đã để lỡ mất thời cơ phá giải nghi vấn.

Hoàng Tử Hà lại nói, “Hiện giờ chỉ không rõ loại bạc này lúc trước đã được đúc bao nhiêu thỏi, tuồn ra ngoài bao nhiêu? Nếu quá nhiều, thì lại chẳng biết tra từ đâu nữa”

“Không nhiều đâu, Hơn nữa còn có số lượng cả rồi.” Lý Thư Bạch lạnh nhạt xen vào, “Lúc Bàng Huân dấy binh mưu phản, vì gấp gáp nên chưa kịp bắt tay xây dựng kho và phong ngụy quan. Mãi tới khi ta liên hợp với sáu đại tiết độ sứ bao vây Từ Châu, hắn mới ngang nhiên phong quan ban tước, hòng mua chuộc lòng người, đồng thời cũng cột chặt họ vào với mình để tránh lòng quân tán loạn. Bởi vậy kho bạc cũng chỉ thành lập chưa lâu, hơn nữa lại liên tiếp thất bại tháo lui nên chưa đúc được nhiều bạc. Sau khi Bàng Huân chết, ta tiến vào đóng quân ở Từ Châu, xem sổ sách thấy mới đúc được cả thảy năm ngàn sáu trăm nén bạc lớn nhỏ. Trong đó bạc hai mươi lạng tổng cộng có tám trăm thoi hoàn chỉnh, hầu như toàn bộ vẫn còn được cất trong phủ. Ta bèn sai người nấu chảy luôn bảy trăm chín mươi tư thoi ngay tại đó, chỉ để lại năm thoi làm vật chứng mà thôi. Tang vật đã bị tiêu hủy, không còn những thoi bạc khác nữa đâu.”

Hoàng Tử Hà nhạy bén nắm bắt ngay được vấn đề bên trong, liền hỏi, “Thoi bạc hai mươi lạng cuối cùng còn sót lại thì sao?”

“Nếu năm thoi bạc vật chứng mà bộ Hình cất giữ vẫn còn thì xem ra thoi cuối cùng chính là đây.” Y đặt nửa thoi bạc được phát hiện trong điện Ung Thuần sau khi Vương Nhược mất tích xuống bàn, thong thả nói, “Đây chính là thoi bạc hai mươi lạng duy nhất bị mất khi kiểm kê tội chứng của Bàng Huân.”

Chu Tử Tần gãi đầu, dường như còn bối rối hơn, “Thoi bạc duy nhất thất lạc trong đợt kiểm kê ở Từ Châu, sao lại xuất hiện trong điện Ung Thuần cung Đại Minh? Hơn nữa lại chỉ có nửa thoi là sao? Xem ra, sau khi lần ra lai lịch thoi bạc này, chúng ta lại càng rơi vào bí ẩn sâu xa hơn thì có.”

“Đúng vậy, vụ án này càng đi sâu dường như lại càng liên quan tới Bàng Huân - hoặc có kẻ tìm đủ mọi cách khiến chúng ta cảm thấy có liên quan tới Bàng Huân.” Hoàng Tử Hà nói.

Lý Thư Bạch không tán đồng cũng chẳng phản đối, chỉ đậy ly trà trước mặt lại rồi đứng dậy, “Hôm nay đến đây thôi, về nhà cái đã. Tử Tần, ngươi đến bộ Hình xem năm thoi bạc vật chứng kia còn đó không. Sùng Cổ lo sắp xếp lại xem còn manh mối nào có thể tra xét nữa không.”

“Được!” Chu Tử Tần là kẻ miệng nói tay làm, bất chấp giờ đã quá Ngọ, các nha môn đều đã nghỉ trưa, gã vẫn chuẩn bị chạy tới gõ cửa bộ Hình điều tra - dù sao gã cũng quen thuộc bên đó, còn đánh bạn với mọi người.

Hoàng Tử Hà theo Lý Thư Bạch lên xe về Quỳ vương phủ. Dọc đường Lý Thư Bạch chỉ nín lặng, không nói năng gì, cũng chẳng buồn nhìn cô. Hoàng Tử Hà thấy ngột ngạt kinh khủng, đành trơ mặt ngồi trên ghế, vắt óc đoán xem mình hay kẻ nào đã đắc tội với vị đại gia này. Nếu là người khác thì tại sao y lại bày ra bộ mặt này cho mình xem. Nếu là mình, thì vì nguyên nhân gì...

“Hả?” Hoàng Tử Hà thầm chột dạ, đương nhiên cô không dám nói là việc của Trương Hàng Anh, vội lấp liếm. “Là... chút việc cỏn con thôi, bởi thế tôi không dám phiền đại giá vương gia, đành bàn bạc vói Chu Tử Tần. Gã vừa có thể giúp tôi giải quyết, lại khỏi kinh động đến vưong gia.”

Lý Thư Bạch thấy cô không định kể thật vớỉ mình, bèn lạnh lùng chốt hạ, “Không sao, dù gì ta cũng chẳng hơi đâu quan tâm đến ngươi.”

Hoàng Tử Hà thở phào một hơi, song cảm nhận rõ rệt thái độ bực dọc của y, nên vẫn căng thẳng đợi y nói tiếp.

Nào ngờ suốt dọc đường y chẳng mở miệng thêm lần nào nữa, chỉ chăm chú giở đọc công văn. Y đọc rất nhanh, một lần nhìn được mười hàng, tiếng giở sách loạt soạt khe khẽ, quả thực chẳng buồn ngước mắt liếc cô lấy một cái.

Hoàng Tử Hà đương thở phào, chợt nhác thấy trên những công văn đó là văn tự dị tộc, nhìn ngoằn ngoèo rối rắm như sách trời, đoán chắc là tiếng Thổ Phồn, không khỏi phục y sát đất.

Suốt quãng đường nhấp nhổm như ngồi trên đống lửa, về đến vương phủ, bước xuống xe đã thấy cả đám Cảnh Hữu đứng đón trước cửa, đợi chủ nhân sai bảo.

“Gọi Cảnh Dục đến đây.” Lý Thư Bạch chỉ buông gọn lỏn một câu rồi đi thẳng về phía gác Ngữ Băng.

Hoàng Tử Hà khó khăn lắm mới dám thở ra một hơi, rón rén bước lùi, chuẩn bị về phòng mình, nào ngờ Lý Thư Bạch như có mắt sau lưng, chẳng buồn ngoảnh đầu, chỉ ném lại hai chữ, “Đi theo.”

Cô nhìn quanh, phát hiện y nói mình, đành siết chặt lòng bàn tay đầy mồ hôi, cun cút đi theo, thầm nhủ, Hoàng Tử Hà à Hoàng Tử Hà, ngươi đã chọn lấy người chủ khó hầu hạ này thì bất kể thế nào cũng phải theo y, lên núi đao xuống chảo dầu, hễ y ra lệnh, đều phải nghe theo!

Cảnh Hữu đã sắp xếp đâu vào đấy, trong gác Ngữ Băng đầy đủ cả trà nước điểm tâm, khói từ lò hương bảng lảng bốc lên, rèm cửa bằng trúc tơ buông rủ, che gần hết ánh nắng bên ngoài.

Thị nữ bưng chậu vàng đến cho Lý Thư Bạch rửa tay, sau đó lại dâng lên một chiếc khăn bông trắng muốt, y nhận lấy lau tay, cử chỉ ung dung, không hề để lộ mảy may tâm trạng. Hoàng Tử Hà đứng một bên, hầu Lý Thư Bach phê duyệt công văn.

Mất một lúc Cảnh Dục đến, Hoàng Tử Hà thở phào nhẹ nhõm, cảm thấy một mình mình quả khó mà gánh nổi áp lực nặng nề này.

“Dương Sùng Cổ đến đây bao lâu rồi?” Lý Thư Bạch hỏi thẳng vào đề.

Cảnh Dục đáp ngay, “Bẩm, tổng cộng ba mươi bảy ngày, hơn một tháng rồi.”

“Lương tháng vẫn chưa phát à?”

“Theo lệ, trong phủ phải đến rằm mới phát lương, lần trước lúc phát lương, vì hắn mói đến, nên chỉ phát hai lạng bạc chào mừng.”

Bạc chào mừng, đương nhiên Hoàng Tử Hà theo lệ phải đặt hai bàn rượu làm quen với mọi người trên dưới trong phủ, sớm đã tiêu sạch bách rồi. Quy củ đối nhân xử thế này cô đâu phải không biết, cũng không thể không biết. Hoàng Tử Hà bất lực oán thầm, làm tiểu hoạn quan trong vương phủ thực chẳng dễ dàng gì, tuy được nuôi ăn nuôi ở nuôi mặc, song từ khi trốn khỏi Thục, cô đã bán hết trâm vàng lấy tiền lên kinh, kết quả chút tiền còm còn lại rơi mất trong lúc bị y đá xuống hồ sen, bằng không cô đâu đến nỗi cứ ra khỏi cửa là phải ăn chực nằm chờ người khác? Nhiều nhất cô cũng chỉ mua được một bát bánh canh thôi!

Cảnh Dục lại nói, “Mấy hôm nay nô tài cũng định xin vương gia chỉ bảo, chẳng hay cấp bậc của Dương Sùng Cổ trong phủ phải sắp xếp thế nào?”

Đây rồi, nhắc đến việc đãi ngộ mình rồi! Hoàng Tử Hà bỗng thấy kích động hẳn lên. Từ nhỏ đến lớn cô chưa bao giờ thiếu tiền, dăm ngày ba bận cha mẹ lại cho tiền tiêu vặt, dành dụm dần cũng được một món rủng rỉnh. Cô vẫn luôn ngưỡng mộ huynh trưởng và đám sai dịch bổ khoái bổ đầu trong nha môn, bởi bấy giờ cô chỉ là một cô gái, dù giúp nha môn phá giải rất nhiều nghi án nhưng vẫn không thể trở thành một trong số họ, không thể đến giờ thì điểm danh, đến tháng thì lĩnh tiền, có một biên chế cố định trong cơ cấu tự vận hành. Song hiện giờ cô đã trở thành một... hoạn quan có nghề nghiệp ổn định, đời này chẳng cần dựa vào gia đình hay lang quân cũng vẫn nuôi sống được bản thân mình, có thể đến tháng lĩnh lương. Tuy hơi khó nghe nhưng, hoạn quan cũng coi là... quan đấy chứ?

Lý Thư Bạch ngẩng lên khỏi xấp công văn, liếc qua Hoàng Tử Hà, ánh mắt có vẻ hí hửng như muốn nói “đợi mãi cuối cùng cũng có cơ hội rồi”.

Ngay lập tức, Hoàng Tử Hà nghe lòng dấy lên một dự cảm không lành.

Lý Thư Bạch thủng thẳng nói, “Trên dưới vương phủ xưa nay đều coi trọng công bằng, nếu không điều luật còn tác dụng gì nữa?”

Cảnh Dục gật đầu, “Vương gia nói rất phải. Vậy Dương Sùng Cổ tạm thời xếp làm hoạn quan hạng bét, thức dùng hằng ngày đều được cấp phát như mọi người, đợi đến năm sau xét xem biểu hiện rồi mới thăng chức”

“Chuẩn y.” Lý Thư Bạch nói gọn lỏn, như thể bản thân hết sức nghiêm chỉnh, hoàn toàn chỉ tiếp thu ý kiến người khác vậy.

Hoàng Tử Hà cảm thấy bất an dữ dội, không nhịn được hỏi Cảnh Dục, “Xin hỏi Cảnh Dục công công, hoạn quan hạng bét trong phủ đãi ngộ thế nào?”

Cảnh Dục nhìn cô, tỏ vẻ thông cảm, song không nói năng gì.

Lý Thư Bạch đang phê duyệt công văn, chẳng buồn ngẩng lên, bình thản đáp, “Thứ nhất, hoạn quan hạng bét, khi chưa được người khác cho phép thì không được nói chen, lên tiếng hay hỏi han, vi phạm trừ lương một tháng. Thứ hai, đãi ngộ của hoạn quan hạng bét nằm ở điều thứ ba mươi mốt quyển thứ tư trong luật vương phủ, ngươi không biết chứng tỏ ta sai ngươi học luật vương phủ ngươi không làm được, không hoàn thành nhiệm vụ, phạt lương ba tháng. Thứ ba, hoạn quan hạng bét không được lén lút cho nhận đồ hay qua lại thăm nom người ngoài, vi phạm trừ lương một năm.”

Cảnh Dục nhìn cô bằng ánh mắt thông cảm, tỏ vẻ lực bất tòng tâm trước việc cô bị phạt mười sáu tháng lương chỉ vì một câu nói.

Hoàng Tử Hà trợn trừng mắt, há hốc miệng.

Lần đầu tiên, cô thấy dao động dữ dội về quyết tâm đặt cược mọi thứ để đi theo kẻ này! Làm chủ mà ỷ thế khinh người bụng dạ nhỏ mọn ngang ngược ngông cuồng, nhất định không phải một người chủ tử tế!

Bầu không khí trong gác Ngữ Băng càng thêm nặng nề.

Cảnh Dục tinh ý lập tức lui ra.

Hoàng Tử Hà chìa tay bảo Lý Thư Bạch, “Đưa nửa thoi bạc kia cho tôi.”

Lý Thư Bạch ngước lên nhìn cô. “Lại phát hiện manh mối gì ư?”

“Không có.” Cô cương quyết nói. “Tôi không xu dính túi, nghèo đến nỗi ra ngoài tra án không mua nổi một tô bánh canh, nếu lăn ra ngất xỉu trên phố e rằng không thể dốc sức cho vương gia nữa. Huống hồ tôi hễ đói là đầu óc rối cả lên, không thể điều tra đoán án được. Bởi thế, để vụ án chóng ngày phá được, tôi quyết định cầm vật chứng đi tiêu phứt cho rồi”

Lý Thư Bạch nhìn cô, khóe môi cong lên như cười mà không phải cười. Y thong thả mở tủ, rút ra một thẻ bài nhỏ, quăng lên bàn, “Cầm lấy cái này.”

Hoàng Tử Hà cầm lên, nhận ra đó là một kim bài nhỏ, chỉ to chừng nửa bàn tay. Mặt phải khắc đầy hoa văn quỳ long, còn rập nổi bốn chữ “Đại Đường Quỳ Vương”. Mặt trái là bốn chữ “Thừa lệnh đúc thành”, in cả con dấu của hoàng đế và mấy chữ “Nội Đình phụng lệnh ngự chế”.

Hoàng Tử Hà cầm nó bằng ba ngón tay, nghi hoặc nhìn Lý Thư Bạch.

Lý Thư Bạch lại tiếp tục cúi đầu xem công văn, điềm nhiên nói, “Lệnh tín này thiên hạ chỉ có một chiếc, có thể dùng ở tất cả nha môn châu phủ, giữ cẩn thận đấy, kẻo mất là phiền to.”

“Ồ?” Hoàng Tử Hà vẫn chần chừ, không hiểu ý y.

Thấy cô vẫn ngơ ngác, y bèn cao giọng, “Ngươi là người của ta, về sau gặp phải chuyện gì cũng không được nhờ kẻ khác giúp đỡ. Lẽ nào trên đời này còn việc gì ta không thể giải quyết cho ngươi ư?”

Hoàng Tử Hà nhìn gương mặt cúi xuống của y, chỉ thấy nét mặt hững hờ như mây trôi gió nhẹ, không bộc lộ mảy may tâm trạng. Giọng nói tựa băng va ngọc chạm ấy chẳng bợn chút tình cảm nào, phong thái hào hoa phong nhã cũng không hề rối loạn, rõ ràng là Quỳ vương Lý Thư Bạch mà cô vẫn biết. Song lúc này tại gác Ngữ Băng, giữa ánh mặt trời bị bức rèm trúc tương phi rây thành từng sợi chỉ vàng, trong tiếng ve kêu ra rả lúc xa lúc gần, khi đáy lòng cô đang râm ran cuộn lên từng luồng hơi nóng, y bỗng như rất khác.

Có lẽ thấy cô đứng đờ ra bất động quá lâu, cuối cùng y cũng ngẩng lên nhìn. Còn chưa kịp cất tiếng, tay cô đã lỏng ra, kim bài rơi xuống nền gạch xanh đánh keng một tiếng, phá tan bầu không khí yên lặng.

Cô cuống quýt ngồi thụp xuống nhặt, kín đáo hít một hơi thật sâu rồi mới run rẩy đứng lên.

Lý Thư Bạch nhìn cô, “Sao, không vừa ý à?”

“Không, không, tôi chỉ là... quá kinh hãi trước sự ưu đãi này đấy thôi.” Đôi má trắng như ngọc của cô ửng lên một lớp phấn hồng nhàn nhạt, như cách rèm ngắm hoa đào, chỉ thấy sắc thắm mơ màng lan tỏa.

Ánh mắt y dừng ở cô hồi lâu, cảm thấy tập công văn trong tay thực chán ngán vô vị, y bèn bỏ xấp giấy tờ ấy xuống, đứng dậy bước đến bên cửa sổ, ngắm nhìn trời xanh bên ngoài.

Trời cao lồng lộng, xanh ngắt một màu. Vài đám mây mỏng như lụa nhàn nhạt phết ngang không trung, thấp đến mức tưởng chừng giơ tay ra là chạm được.

Y bỗng bàng hoàng, cảm thấy đám mây ấy cũng đồng thời phết ngang qua cuộc đời quạnh hiu trống trải của mình. Giống như thiếu nữ thông minh trong sáng hệt bầu trời tháng Năm kia một ngày thình lình xen vào vận mệnh của y, làm y chẳng kịp đề phòng.

Từ nay về sau, đối đầu cũng được, gắn bó cũng xong, đời này của y đã định là cứ đi qua nhau, cứ lãng quên nhau là tốt nhất.

Y giơ tay lên, như thể bầu trời tháng Năm bên ngoài quá chói làm mắt y nhức nhối, rồi quay lại, đứng ở chỗ ngược sáng đó mà nhìn Hoàng Tử Hà, “Lệnh tín này tạm thời cho ngươi mượn, đợi vụ án kết thúc rồi tính.”

Hoàng Tử Hà gật đầu vâng dạ, đoạn nhăn nhó ngó kim bài trong tay, dè dặt hỏi, “Vương gia, tôi hỏi một chuyện được không?”

Y chỉ nhìn cô.

“Các quán rượu lớn bé, phu lao động và dân chúng bình thường trong kinh có nhận ra lệnh tín này của Quỳ vương không?”

Y hừ mũi hỏi lại, “Hửm?”

“Chính là... Ý tôi là...” Cô ngập ngừng, do dự một hồi, song cuối cùng vẫn hỏi thẳng, “Có thể dùng cái này... mua chịu ở các quán rượu tiệm bánh phản thịt quầy hàng rong không?”

Lời vừa thốt ra, đến một kẻ lạnh nhạt như Lý Thư Bạch cũng phải thấy khóe môi giần giật. Y trừng mắt nhìn cô, tỏ vẻ không muốn tiếp tục thảo luận chủ đề dung tục này nữa, quay người ngồi xuống chiếc sập thấp bên cạnh, đoạn trỏ chỗ đối diện.

Hoàng Tử Hà ngoan ngoãn quỳ xuống trước mặt y. Trước kẻ chỉ ba câu đã trừ phăng của cô mười sáu tháng lương, cô dám không ngoan ngoãn nghe lời ư?

Y tự rót một ly trà cho mình rồi thong thả nói, “Điều ta sắp nói rất nghiêm trọng, nên không thể nói trước mặt Chu Tử Tần. Nhưng ta nghĩ ngươi nhất định phải biết nếu muốn điều tra vụ này. Vì nó liên quan mật thiết với vụ án.”

Hoàng Tử Hà gật đầu, nín thở nhìn y.

Lý Thư Bạch dùng ba ngón tay thon dài trắng trẻo nâng ly trà men xanh ướt rượt, mát lạnh như ngọc giữa ba ngón tay.

“Thực ra nửa thoi bạc kia... Khi kiểm kê số bạc Bàng Huân tự đúc đã đủ tám trăm thoi bạc hai mươi lạng, cũng tức là, không có thoi bạc hai mươi lạng nào thất lạc cả. Có điều về sau thiếu một thoi là vì bị ta tiêu mất.”

Hoàng Tử Hà ngạc nhiên, bàn tay bưng ấm trà khựng lại giữa lưng chừng, miệng lẩm bẩm, “Không phải chứ, thì ra Quỳ vương gia cũng thiếu tiền ư?”

Lý Thư Bạch liếc Hoàng Tử Hà, rồi chẳng buồn để ý đến cô nữa, chỉ tiếp tục câu chuyện mình muốn kể, “Chuyện xảy ra khi tấn công vào phủ Bàng Huân. Chỉ hiềm trước đó khi trông thấy thoi bạc kia ta lại không liên tưởng tới việc này.”

Còn đương ngẫm nghĩ thì vị đại gia đang làm mặt lạnh kia cuối cùng cũng lên tiếng, “Giúp cái gì?”

Nghe y mào đầu, Hoàng Tử Hà biết có lẽ y sẽ kể tỉ mỉ, bèn rót cho mình một chén, lại đi đến trước bàn sách nhón một miếng điểm tâm nhẩn nha ăn.

Chuyện đã ba năm, song trí nhớ của Lý Thư Bạch cực tốt, vẫn có thể kể rõ ràng từng câu, không bỏ sót chi tiết nào.

Năm Hàm Thông thứ mười, sau khi Lý Thư Bạch bắn chết Bàng Huân, binh lính giữ thành cũng tan tác hết, lòng quân rệu rã, lũ lượt bỏ thành đầu hàng. Chưa đến nửa canh giờ, thành Từ Châu đã bị phá, quân triều đình tiến vào truy quét tàn binh. Trước đó Lý Thư Bạch đã hạ lệnh, kẻ nào mượn cớ truy quét cướp bóc tàn sát bách tính sẽ bị giết không tha, nên các binh sĩ tỏa đi khắp phố đều rất thần tốc, chưa đầy hai canh giờ, Lý Thư Bạch đã tiến vào phủ đệ Bàng Huân.

“Có lẽ vì quân triều đình đến quá nhanh, trong phủ vẫn còn mấy tên loạn đảng ấn nấp, hòng dựa vào địa thế phản kháng đến cùng, có điều chẳng mấy chốc đã bị quét sạch.”

Y kể rất qua loa, song Hoàng Tử Hà lại nghĩ thầm, còn chưa dẹp xong loạn đảng đã xông thẳng vào đại bản doanh địch, rốt cuộc là gia can đảm hơn người hay là hữu dũng vô mưu ham lập công mà sơ ý đây? Hoặc có lẽ... bấy giờ người này chẳng hề để tâm đến chuyện sống chết của mình?

Có điều cô chẳng đủ gan nói ra những lời này, chỉ im lặng nghe y kể tiếp.

Trên đường truy đuổi một tên loạn đảng trốn chạy, Lý Thư Bạch một mình xông vào mảnh sân có tường ngăn rất dày, chợt nghe thấy tiếng khóc xé ruột của phụ nữ.

Y đứng bên ngoài nhìn qua cửa sổ, chỉ thấy một tráng hán đang tóm lấy một thiếu nữ yếu đuối đầu tóc rũ rượi, nắm tóc cô lôi xềnh xệch ra ngoài, vừa lôi vừa mắng, “Lát nữa lên xe, lão tử sẽ đem ngươi cùng mấy rương vàng bạc này chạy đến nơi trời cao vua xa, tha hồ hưởng thụ một đời không hết.”

Nói đến đây, nhìn Hoàng Tử Hà đang ăn điểm tâm, Lý Thư Bạch bèn lược đi một mớ những lời khó nghe tiếp theo của kẻ kia, chỉ kể, “Tráng hán nọ cao lớn khác thường, mặt mũi hung tợn, thiếu nữ yếu đuối chỉ đứng đến ngực hắn ta, dù liều chết vùng vẫy cũng không sao thoát được, chỉ còn nước gào khóc thảm thiết, bị hắn lôi xềnh xệch ra cửa.”

Bấy giờ Lý Thư Bạch đứng ngoài cửa sổ chứng kiến sự việc, song thuộc hạ của y không tìm thấy cửa, tường lại quá dày quá cao không thể đột nhập, y đang nghĩ hẳn tên kia đã chuẩn bị xe ngựa, định quay về sai thuộc hạ chặn đường hắn thì trông thấy một bóng người loạng choạng lao ra, là một thiếu nữ dong dỏng cao. Cô này cũng đầu tóc rũ rượi, mặt đầy bùn đất, không nhìn ra nổi dung mạo ban đầu, hai tay giơ một thanh cời lò bằng sắt, đâm thẳng vào lưng tráng hán.

Tiếc rằng tên đó da dày thịt béo, thiếu nữ mới đến tay yếu, lại không biết là nên đâm vào chỗ hiểm, dù dùng hết sức cũng chẳng đâm sâu được, chỉ làm tên kia đau đớn chút xíu, không đủ để hắn buông thiếu nữ yếu đuối kia ra ngược lại còn bị hắn gầm lên tung một cước đá trúng ngực, cả người văng đập vào góc tường, hộc ra một búng máu.

Tên hung tợn còn chưa hả giận, xồng xộc chạy đến định đánh cô cao, cô yếu bèn cố sức níu hắn lại, song không sao giữ nổi, chỉ thấy hắn rảo bước đi về phía cô cao bấy giờ đã ngã lăn xuống đất, vung nắm đấm to bằng bát giấm đấm vào bụng cô ta.

Lý Thư Bạch lập tức giương cung lắp tên, thầm trách mình vừa rồi lơ đãng, có lẽ không kịp cứu thiếu nữ kia nữa.

Hoàng Tử Hà đã quên bẵng cả ăn uống, ngồi thẳng người lên, nhìn Lý Thư Bạch không chớp mắt, sốt sắng hỏi, “Sau đó thế nào?”

Lý Thư Bạch nãy giờ vẫn bưng ly trà, lúc này mới thong thả hớp một ngụm, kể tiếp, “Đúng lúc ta lắp tên xong, nhìn lại vào sân thì nghe thấy tiếng la thảm của tên kia.”

Thiếu nữ yếu đuối đang nắm chặt một thoi bạc, góc thoi còn dính máu, co rúm trong góc tường run lẩy bẩy. Thì ra, giữa lúc ngàn cân treo sợi tóc, cô ta đã vơ được một thoi bạc trong rương đập vào đầu tráng hán. Hắn ôm gáy nổi trận lôi đình, tát bốp vào mặt cô gái làm cô ta đập mạnh vào tường, vẫn giữ khư khư thoi bạc trước ngực

Tráng hán tóm lấy cổ áo cô ta, vung tay toan giáng thêm một bạt tai nữa, đúng lúc ấy, cô cao nãy giờ vẫn co quắp trong góc tường lại vung thanh cời lò lao đến,tên kia nghe thấy tiếng gió phía sau, vừa quay lại thì thanh sắt đã đâm ngay vào mắt phải. Cùng lúc, mũi tên trong tay Lý Thư Bạch cũng bắn trúng mắt trái hắn.

Trong tiếng la thảm của tráng hán, cô yếu cầm thoi bạc đập điên cuồng vào đầu hắn. Hắn giơ chân đạp cô lăn ra đất, bản thân hắn cũng huơ tay múa chân loạn xạ rồi ngã lăn ra, không dậy nổi. Cô cao tức thì lao đến dùng thanh cời đâm khắp người hắn từ mặt đến bụng chẳng biết đến mấy trăm nhát, khiến hắn co rúm lại rồi cuối cùng không động đậy gì nữa.

Hai thiếu nữ khắp người bê bết máu ném hết đồ vật trong tay xuống đất, run rẩy bò đến ôm chặt lấy nhau nhìn về phía cái xác. Bấy giờ họ mới phát hiện thì ra ở mắt trái hắn có một mũi tên.

Cả hai sợ hãi thở dốc rồi hớt hải nhìn quanh, cuối cùng trông thấy Lý Thư Bạch bên kia cửa sổ.

Lý Thư Bạch nói vọng vào, “Đừng lo, chúng ta tới tiêu diệt loạn đảng, các cô cứ đợi trong đó, ta sẽ vào xử lý.”

Cô cao hoảng loạn trỏ về bên phải Lý Thư Bạch, y tiến sang hơn mười bước thì thấy một cánh cửa ngách, cài móc khóa, liền rút kiếm cạy khóa, sau đó đá bật cửa ra xông vào.

Có lẽ hai người kia sợ hãi quá độ nên vẫn ôm chặt lấy nhau run lẩy bẩy.

Lý Thư Bạch tự nhìn lại trang phục mình, thấy bộ áo gấm mới lấm tấm vài vết máu, bộ dạng cũng không quá mức dữ tợn, song ánh mắt họ nhìn y lại đầy kinh sợ.

Lý Thư Bạch hiểu họ đã khiếp hãi quá độ, bèn bước đến ngồi xuống trước mặt hai người, nhìn thẳng vào họ hỏi, “Các cô là ai? Sao lại ở đây, còn bị hạng người này bắt giữ?”

Vẻ mặt y dịu dàng, đường đường là bậc tôn quý lại hạ mình ngồi xuống trước hai thiếu nữ lôi thôi nhếch nhác, dáng vẻ ôn hòa điềm đạm như dòng suối chảy giữa rừng sâu, dịu giọng an ủi họ.

Hai thiếu nữ kia hằng ngày đều thấy đám tàn quân hung ác, lúc nào cũng thấp thỏm chẳng biết mình sẽ bị hà hiếp thế nào, vừa rồi trải qua nạn giặc cướp, nay gặp thiếu niên áo gấm này, cảm giác chẳng khác nào nắng xuân rọi chiếu vạn vật, nhất thời cảm thấy những chuyện lúc trước như đã lùi xa lắm, cũng bớt phần cảnh giác hơn.

“Là... là công tử cứu chúng tôi ư?” Thiếu nữ cầm thoi bạc cất giọng khàn khàn hỏi, bờ môi run lên như lá khô trước gió, sắc mặt tái mét xám xịt.

Lý Thư Bạch rút một mũi tên sau lưng ra, so với mũi trên mắt trái gã kia. Vì y đã dùng hết những mũi tên có khắc danh hiệu, giờ phải dùng sang loại tên bình thường của binh lính, hai cô thấy hai mũi tên giống nhau, liền quỳ sụp xuống đất bái tạ Lý Thư Bạch. Cả hai nước mắt lã chã, nghẹn ngào nói không ra tiếng.

Thiếu nữ dong dỏng cao nãy giờ vẫn chằm chằm nhìn y không nói năng gì, thiếu nữ nhỏ nhắn hơn xem chừng lại khá bạo dạn, vội lên tiếng cảm tạ, “Đa tạ ân nhân cứu mạng, tiểu nữ họ Trình.” Lại trỏ người bên cạnh giới thiệu, “Đây là tỷ muội khác họ với tôi, tên gọi Tiểu Thi. Vì cha mẹ đều đã qua đời nên chúng tôi phải lặn lội từ Liễu Châu đến đây nương nhờ cô cô...”

“Sao các cô lại rơi vào tay loạn đảng?”

Cô gái họ Trình thổn thức đáp, “Do loạn Bàng Huân nên khi chúng tôi đến nơi thì cô cô đã chạy nạn tới nơi khác. Chúng tôi bất hạnh gặp phải loạn đảng, bị bắt đến đây giam lại cùng một tốp thiếu nữ khác. Mấy ngày trước nghe nói đại quân triều đình đã đến dưới thành, sắp tiêu diệt loạn đảng, nên chẳng kẻ nào đoái hoài đến chúng tôi nữa. Nào ngờ hôm nay chúng lại kéo tới tranh nhau vàng bạc, rồi giành giật các cô gái, còn nói... Nói cái gì mà trừ cái đó ra, nếu trên đường không có lương thực thì thịt thiếu nữ mười mấy tuổi coi như cũng mềm ngon...”

Kể đến đây, Lý Thư Bạch khẽ đặt ly trà trong tay xuống, vẻ trầm ngâm.

Hoàng Tử Hà đang nghe đến đoạn gay cấn, vội hỏi, “Sau đó thế nào? Những thiếu nữ bị bắt đi ấy?”

“Ta nghe kể cũng choáng váng, lập tức đứng dậy đi thẳng ra ngoài, toan dẫn người đuổi theo những cô gái bị bắt đi kia.”

Theo hướng cô gái họ Trình chỉ, Lý Thư Bạch chạy ra cổng, trông thấy một cỗ xe ngựa đậu gần đó. Y tháo ngay một thớt ngựa tung người nhảy lên, chợt ngoảnh lại, thấy cô ta đương ròng ròng nước mắt, lệ rơi đến đâu, làn da trắng nõn như ngọc lộ ra đến đó.

Tuy cặp mắt cô đã sưng húp lên như hai quả đào thối, gương mặt đầy kinh sợ, song nhìn hình dáng, rõ ràng là một đôi mắt phượng tuyệt đẹp. Tiểu Thi vẫn ôm chặt lấy cô, mặt mũi cũng thanh tú. Lý Thư Bạch thầm nghĩ, hẳn vì hai cô này là mỹ nữ nên mới bị bắt đến đây. Xinh xắn thế này ở một nơi hỗn loạn như Từ Châu, chẳng biết sẽ gặp phải bao nhiêu phiền phức nữa.

Có lòng muốn giúp bọn họ, song lại canh cánh về những thiếu nữ bị bắt đi, y đương do dự thì đúng lúc binh lính bên ngoài đã kéo đến, nhất loạt hành lễ với y, “Tướng quân.”

Hoàng Tử Hà ngạc nhiên, “Ô? Sao lại gọi gia là tướng quân?”

Lý Thư Bạch giải thích, “Vì bấy giờ ta được triều đình phong là Bình Nam tướng quân, đương nhiên binh lính sẽ gọi theo chức vụ trong quân doanh.”

Lý Thư Bạch sai các binh sĩ dỡ vàng bạc trên xe xuống kiểm kê. Lại lệnh cho một đội kỵ binh đi truy kích đám loạn đảng bỏ chạy. Đợi tốp kỵ binh đi khỏi, y mới hỏi hai cô gái, “Các cô định thế nào?”

“Chúng tôi định đến Dương Châu, cô cô có nhắn lại rằng đã đến đó.” cô gái họ Trình đáp.

Lý Thư Bạch liền hỏi họ có cần điều binh sĩ hộ tống không, nhưng cả hai cô đều lộ vẻ sợ hãi, lắc đầu quầy quậy, đáp rằng không muốn đi cùng với quan binh. Lý Thư Bạch nghĩ họ từng bị loạn đảng bắt bớ, sợ quân đội và binh lính lắm rồi nên cũng không ép, chỉ bảo họ nhặt thoi bạc và que cời dưới đất lên, “Đây là hung khí giết người, các cô nhớ phải dọn dẹp hiện trường đấy. Thoi bạc này có thể đem đổi thành lộ phí, cứ cầm lấy đi.”

Trên thoi bạc dính bê bết máu và não, chỗ đỏ chỗ trắng. Nghe Lý Thư Bạch nói vậy, Tiểu Thi chần chừ vươn tay toan cầm, song còn chưa chạm đến đã phục xuống nôn khan. Cuối cùng cô gái họ Trình đành xé một miếng vải từ cái xác làm lót tay, bọc lại mà cầm, song không dám nắm chặt.

Lý Thư Bạch vừa kéo cương, cỗ xe liền lao đi vun vút. Hai cô gái cứ nắm chặt lấy càng xe ngồi bất động, mặc cho cỗ xe tròng trành rung lắc.

Chạy một mạch đến ngoại thành Từ Châu, bạt ngàn đồng hoang um tùm cỏ dại, song trên đường cái quan vẫn tấp nập người qua lại. Đó đều là những kẻ phải trốn vào thôn làng trong núi, sợ bị Bàng Huân bắt lính, hiện giờ nghe nói Bàng Huân đã chết, liền mừng rỡ quay về.

Dọc đường xe ngựa tròng trành khiến hai thiếu nữ mềm nhũn cả chân, không xuống xe nổi nữa. Lý Thư Bạch bèn giơ tay đỡ họ xuống xe, còn dặn họ phải theo đường cái quan mà đi, không được rời khỏi đường lớn, để khỏi xảy ra chuyện.

“Có điều, hai cô đã có thể đi từ Liễu Châu đến Từ Châu, giờ lại cùng đến Dương Châu, chắc cũng không khó khăn gì?”

Cả hai đều nhìn y, lặng lẽ gật đầu.

Lý Thư Bạch cũng không hỏi han thêm nữa, thúc ngựa quay đầu đi thẳng.

Cỗ xe vừa lăn bánh, đột nhiên phía sau có người đuổi theo, nắm lấy dây cương, ngước lên nhìn Lý Thư Bạch.

Chính là thiếu nữ họ Trình, gương mặt bê bết bụi đất, cặp mắt trong veo nhìn thấu đáy, tựa hồ vẫn có phần e sợ. Lý Thư Bạch cúi xuống hỏi, “Có chuyện gì ư?”

Cô mím môi, lần tìm trong ngực áo hồi lâu rồi rút ra một cây trâm, liều lĩnh nhón chân giơ lên trước mặt Lý Thư Bạch.

“n công, đây là tín vật định tình năm xưa cha tôi tặng mẹ tôi, sau khi bị bắt, tôi chẳng còn gì hết, chỉ có mỗi cây trâm này là vật quan trọng nhất. Ngày sau, người có thể đem tới Dương Châu tìm tôi, tên của cô tôi là Lan Đại.”
 

Tam Thất

nhân chi sơ, tính bản thiện
Tham gia
13/4/19
Bài viết
1,705
Điểm cảm xúc
1,399
Điểm
113
Lan Đại.

Nghe thấy cái tên này, Hoàng Tử Hà lập tức ngồi thẳng người dậy, lộ vẻ kinh ngạc.

Lý Thư Bạch nhìn cô, “Làm sao?”

“Cái tên này… Cái tên này là…” Hoàng Tử Hà kích động đến mức nói không nên lời.

Lý Thư Bạch nhận xét, “Lan Đại. Cái tên này khá đẹp, song lại có ý vị phong trần, đương nhiên là của một người con gái trong chốn yên hoa.”

Hoàng Tử Hà kích động đáp, “Nhưng… Nhưng đây là tên của một trong Vân Thiều Lục Nữ, xếp hạng thứ ba đó!”

Lý Thư Bạch nhướng mày, “Sao, lại liên quan tới Vân Thiều Uyển Dương Châu ư?”

“Vâng, gia kể tiếp đi, về sau thế nào?” Hoàng Tử Hà giục.

“Đương nhiên ta không đi tìm cô ta, càng không tới Dương Châu tìm một cô gái lầu xanh. Bởi thế, ta cúi đầu nhìn cô ta nói, ta chỉ tình cờ cứu cô mà thôi. Ngày sau ta sẽ không đi tìm cô, cũng không muốn nhận đồ của cô. Nếu cây trâm này rất quan trọng với cô, thì mau cất nó đi đi.

Song cô ta vẫn khăng khăng không chịu bỏ tay xuống, nhất định giơ cây trâm đó lên trước mặt ta, chĩa đầu nhọn về phía mình, quay đầu kia về phía ta. Đó là một cây trâm sương lá.”

Hoàng Tử Hà lại ồ lên hỏi, “Sương lá à? Trông thế nào?”

“Thân trâm dài chừng bốn tấc, đầu trâm là một khung lá có tơ bạc quấn quanh, các đường gân đều tinh xảo, ở giữa chạm rỗng, nhìn sống động như thật. Bên trên chiếc lá nọ còn khảm hai hạt trân châu nhỏ nhìn như hạt sương.”

“Bằng bạc ư?”

“Phải, ta nhớ không sai đâu.” Lý Thư Bạch đáp, đoạn hỏi, “Ta không hiểu nhiều về trang sức của phụ nữ, nhưng cảm thấy cây trâm bạc đó rất giống cây trâm vàng mà Vương Nhược để lại khi mất tích. Chẳng rõ loại trâm hình gân lá này có phải rất thịnh hành hay không?”

“Không hề, trâm cài bình thường, dù dùng vàng bạc chế thành hình lá, nhưng thường là cả chiếc lá chứ không chỉ có gân. Thiết kế cây trâm tinh xảo đặc biệt như thế, tôi cũng mới thấy lần đầu. Nếu theo lời gia kể, lại còn giống nhau như đúc, thì nhất định bên trong phải có liên quan.”

“Xem ra hai cô gái ta gặp năm xưa có dính dáng đến chuyện này.”

“Tôi cũng nghĩ thế.” Đoạn cô lại hỏi, “Vương gia nhận cây trâm ư?”

“Cây trâm bạc ấy hả?” Lý Thư Bạch bình thản kể, “Không hề. Cô ta thấy ta không đưa tay ra nhận, bèn ném luôn vào khoang xe, sau đó quay đầu bỏ chạy. Bấy giờ trời đã ngả chiều, ánh hoàng hôn chiếu vào cây trâm làm ta lóa cả mắt. Ta bèn giơ tay nhặt nó lên rồi tiện thể quăng xuống bên đường.”

Hoàng Tử Hà chống cằm nhìn y, không hề chớp mắt.

Y hờ hững liếc cô, “Sao hả?”

“Dù định vứt thì vào thành vứt cũng không muộn, vương gia vội gì chứ?”

“Vứt sớm vứt muộn, thế nào chẳng là vứt?” Giọng Lý Thư Bạch vẫn điềm nhiên, “Huống hồ bấy giờ ta thấy cô Tiểu Thi kia đang nhìn mình. Bởi thế khi ta ném trâm đi, nhất định cô ta sẽ nhặt lấy đem trả lại cô Trình.”

“Nếu là tôi, không bao giờ tôi kể với bạn mình rằng món đồ cô tặng người ta, chỉ chớp mắt đã bị người ta ném đi.” Hoàng Tử Hà nói, “Bằng không, cô ấy sẽ càng thê thảm đáng thương hơn.”

“Ta không có hứng nghiên cứu cách ứng xử giữa phụ nữ với nhau.” Lý Thư Bạch cười.

Hoàng Tử Hà chẳng muốn thảo luận vấn đề khó hiểu ấy với hạng người phũ phàng lạnh nhạt lại máu lạnh này nữa. Cô rút cây trâm trên đầu, họa hình cây trâm sương lá lên bàn.

Lý Thư Bạch nhìn chiếc mũ sa không còn trâm để cố định trên đầu cô, hỏi, “Không sợ rơi à?”

Hoàng Tử Hà liền đưa tay lên giữ, “Không sao.”

“May mà hiện giờ ngươi cải trang làm tiểu hoạn quan, lỡ cải trang làm Sa di trên chùa, còn cầm trâm vạch vẽ sao được nữa?”

“Có mõ còn gì.” Cô vội đáp, ánh mắt thẫn thờ nhìn một điểm trong không khí, chẳng rõ đương nghĩ gì, bàn tay vẫn vô thức cầm cây trâm vẽ loạn trên bàn, nhìn kỹ mới thấy đang vẽ hình nửa thoi bạc kia. Vừa vẽ, cô vừa lẩm bẩm, “Thoi bạc khi trước là do thiếu nữ kia cầm, về sau có phải vì họ có hai người, nên mới chia làm hai nửa không?”

“Thứ này từng được dùng làm hung khí, theo lẽ thường có khi họ đã đem đổi thành bạc vụn rồi.”

“Cũng có thể...” Nói đến đây, Hoàng Tử Hà lại nhìn y,“Vương gia còn nhớ hình dáng hai thiếu nữ ấy không?”

“Hai người bọn họ đều cố tình để đầu tóc rũ rượi, tro bụi đầy đầu, mặt bê bết bùn đất, cả người lại loang lổ vết máu, ta và họ chẳng qua chỉ gặp nhau một chốc một lát, không có ấn tượng gì cả. Huống hồ bấy giờ họ mới mười ba mười bốn tuổi, sau khi trưởng thành con gái sẽ thay đổi rất nhiều, đến giờ có khi họ đứng ngay trước mặt ta cũng không nhận ra đâu.”

“Ừm...” Hoàng Tử Hà gật đầu, nào ngờ chiếc mũ sa trên đầu vừa lay động đã rơi xuống.

Lý Thư Bạch nhanh tay nhanh mắt tóm lấy, đoạn cau mày ném vào tay cô, “Ta đã bảo hay là ngươi đóng giả hòa thượng đi mà?”

Cô lặng thinh giơ tay giữ tóc, chợt một lọn tóc rũ xuống trước mặt, cô vừa thẹn vừa giận bèn tóm lấy quấn hai vòng quanh búi tóc, rồi chỉnh lại mũ mãng.

Lý Thư Bạch khinh khỉnh nhìn cô, “Ta chưa từng thấy ai hễ nghĩ ngợi là phải vạch vẽ lung tung như thế cả.”

“Giang sơn dễ đổi, bản tính khó dời mà...” Cô đành lí nhí đáp.

Y cười khẩy, “Sao lại có người có thói quen đó chứ?”

“Biết làm sao được... Trước đây theo cha tôi ra ngoài tra án, có việc cần tính toán thường không tìm được giấy bút, bấy giờ còn mặc đồ con gái mà, luôn có một hai cây trâm trên đầu, bèn rút ra vạch lên mặt đất, thế là rõ cả vụ án. Về sau tôi không bỏ được thói quen ấy, luôn cảm thấy phải vạch vạch mấy cái mới nghĩ thông được.”

“Về sau thì sao?”

“Về sau cái gì?”

“Chính là cây trâm ngươi vạch lên nền đất đó.” Y rất để ý những chuyện nhỏ nhặt thế này.

Hoàng Tử Hà ngơ ngác nhìn y, “Thì rửa sạch lau khô cắm lại lên đầu là được mà.”

Lý Thư Bạch “ồ” một tiếng, thấy cô vẫn nhìn mình chờ câu trả lời, liền đáp, “Khi ta gặp Chu Tử Tần lần đầu tiên gã đang ôm một bao hạt thông và lạc ngào đường, vừa say sưa ngồi cạnh thi thể trong nghĩa trang xem ngỗ tác nghiệm thi, vừa lăng xăng lấy hộ cái này cái kia nữa.”

Hoàng Tử Hà hỏi, “Vương gia dùng từ say sưa để chỉ việc gã ăn hay nghiệm thi?”

Lý Thư Bạch liếc cô, “Ngươi thấy sao?”

“Tôi cảm giác được mà.” cô nói khẽ.

“Bấy giờ nghe nói con gái Hoàng Mẫn rất giỏi phá án, lại là thần tượng của Chu Tử Tần, cảnh tượng đầu tiên hiện lên trong tâm trí chính là một cô gái ngồi bên cạnh thi thể ăn hạt thông và lạc ngào đường.”

Hàng mi Hoàng Tử Hà bất giác nhướng lên, “Giờ thì sao?”

“Ta rất mừng, ngươi chẳng qua chỉ thích vạch vẽ lung tung, hơn nữa còn biết phải rửa sạch cây trâm sau khi vạch xuống đất.”

Hoàng Tử Hà rầu rĩ nói, “Đừng gộp chung tôi vào với Chu Tử Tần.”

Lý Thư Bạch điềm nhiên nói, “Nhưng dường như ngươi chính là mục tiêu gã theo đuổi.”

“Đó chẳng qua là ảo tưởng về một thứ chưa từng thấy thôi, giống như người ta luôn cảm thấy phong cảnh đằng xa đẹp hơn, giấc mộng hồi nhỏ mới là đẹp nhất. Thực ra nếu Chu Tử Tần biết tôi chính là Hoàng Tử Hà, nhất định sẽ vừa bực bội vừa khó chịu, không chừng cuối cùng mộng tưởng bấy lâu nay cũng sụp đổ.”

Nghe cô nói, khóe môi Lý Thư Bạch thoáng cong lên thành một nụ cười. Y gật đầu, “Có lẽ. Bởi thế ngươi cứ làm một tiểu hoạn quan trước mặt hắn thì tốt hơn.”

“Đúng vậy... Tốt nhất đừng phá vỡ mộng tưởng của Chu công tử.” Hoàng Tử Hà gật đầu, chợt cảm thấy một luồng sáng xói vào mắt mình, cô vội giơ tay che mắt, phát hiện ra là nắng đã xiên ngang.

Thì ra bàn bạc hồi lâu, đã gần đến hoàng hôn. Cô vội cáo lui, rời khỏi gác Ngữ Băng đi về phòng mình.

Hành lang quanh co, nhà cao cửa rộng. Hoàng Tử Hà buông thõng tay áo, bàn tay vô thức siết chặt tấm lệnh tín Đại Đường Quỳ Vương kia, ngẩng đầu trông thấy ráng chiều rơi rớt cuối trời, lòng bỗng trào lên một niềm thương cảm.

Cha mẹ người nhà đã chết được nửa năm mà hung thủ vẫn mịt mù tăm tích, vụ án trước mắt lại khó mà tra xét, muôn ngàn manh mối, chẳng biết ngày nào mới vén được bức màn bí mật

Lần đầu tiên, cô sinh lòng hoài nghi chính mình. Cô thầm nhủ, Hoàng Tử Hà, nếu cứ thế này thì cả đời ngươi có cơ hội cởi bỏ bộ đồ hoạn quan, khoác lên người xiêm y nữ nhi, kiêu hãnh nói với mọi người trên đời rằng, ta họ Hoàng, ta là một cô gái, ta chính là Hoàng Tử Hà nữa hay không?

Cả đêm trằn trọc suy diễn ra đủ loại khả năng song không cách nào giải thích được Vương Nhược biến đi đằng nào, cái xác thân phận không rõ ràng kia lại từ đâu xuất hiện.

Bởi thế hôm sau lúc trở dậy, Hoàng Tử Hà bước đi loạng choạng hẳn, chưa kể đầu đau như búa bổ, thắt lưng mỏi như dần. Cô ngồi xuống bàn soi gương, thấy sắc mặt mình tái nhợt, chẳng khác nào bóng ma.

Nhưng có sao, dù gì hiện giờ cũng đang là một tiểu hoạn quan, ai thèm để ý một tiểu hoạn quan có giống ma hay không chứ. Cô đành cam chịu, đi lấy nước rửa mặt chải đầu rồi xuống nhà bếp ngó nghiêng. Bà phụ bếp vừa nhác thấy cô liền tươi cười niềm nở, dúi cho cô mười bảy mười tám cái nem, “Dương công công, chúc mừng chúc mừng nghe nói cuối cùng vương gia cũng ban danh phận cho rồi phải không?”

“Phụt...” Hoàng Tử Hà đang nhai miếng nem trong miệng, tức thì phun ra, “Danh phận... gì cơ?”

“Sáng nay trong phủ đã bàn tán xôn xao, nói rằng hiện giờ công công đã được đưa vào biên chế vương phủ, trở thành một hoạn quan chính thức rồi nha.”

“Ồ...” Cô lặng lẽ cầm một chiếc nem nữa đưa lên miệng, lúng búng hỏi, “Là hoạn quan hạng bét hả?”

“Ô, sao lại gọi là hạng bét, phải gọi là sơ cấp, công công tiền đồ vô lượng mà!” Bà phụ bếp hớn hở nói, “Mấy năm trước Tùy Châu gặp nạn đói, rất nhiều người không còn đường sống, bèn tự thiến hòng làm hoạn quan mà không được đâu! Công công nhìn tôi này, ở nhà bếp hai chục năm nay, vẫn là chân chạy vặt tạm thời, không được vào danh sách gia nô. Vậy mà công công mới đến một hai tháng đã trở thành hoạn quan thuộc biên chế vương phủ rồi.”

Hoàng Tử Hà chẳng biết nói sao, thì ra làm một tên hoạn quan trong vương phủ cũng có nhiều người ghen tị đỏ cả mắt như vậy, nếu mình phí phạm chức danh quý báu này thì thực đáng tiếc quá.

Cô đang vừa đối đáp với bà phụ bếp vừa ăn sáng thì nghe bên ngoài có người gọi, “Dương Sùng Cổ, Dương Sùng Cổ đâu rồi?”

Cô húp vội một hớp bơ đặc rồi thưa, “Tôi ở đây!”

“Vương gia lệnh cho ngươi mau tới hiên Xuân Dư, có người đợi.”

Sáng sớm ngày ra, ai đã đến tìm cô nhỉ?

Hoàng Tử Hà hối hả chạy đến hiên Xuân Dư, nhận ra Trần Niệm Nương đang ôm đàn đứng đợi.

“Trần nương, sao lại đích thân tới tìm tôi thế này?” Cô ngạc nhiên bước đến nghênh đón, đỡ lấy cây đàn trong tay bà ta, đoạn giúp bà ta đặt lên kỷ đàn.

Trần Niệm Nương cười đáp, “Đương nhiên là do công công học đàn không chuyên tâm, hai ba hôm chẳng thấy đến lần nào, ta đành phải tới đây tìm.”

“Trần nương à, thực rất xin lỗi.” Rõ ràng biết bà ta nói đùa, song Hoàng Tử Hà vẫn xin lỗi rối rít, “Dạo nàytôi bận quá, cứ chìm đắm trong đủ việc thế tục, quên cả tiếng thanh tao rồi.”

Ta cũng có nghe nói Quỳ vương phi quả là phúc mỏng, vốn dĩ đang được muôn người ngưỡng mộ, nào ngờ chớp mắt lại chết thảm như thế, đồn rằng di thể tang thương đến không nỡ nhìn, thực khiến người ta đau xót mà.” Trần Niệm Nương vừa so lại dây đàn vừa than thở.

Hoàng Tử Hà thầm nghĩ, Trần nương, bà đâu biết thi thể Ức Nương của bà cũng thê thảm khôn xiết, khiến người ta xót xa nào kém cái xác vô danh kia.

Nhìn gương mặt cúi thấp của Trần Niệm Nương, cô chợt thấy thôi thúc muốn trao miếng ngọc dương chi lấy được trong mình Phùng Ức Nương ra, nói với bà ta rằng, Ức Nương đã chết rồi, bà đừng ở đây tìm kiếm chờ đợi nữa. Song nhìn tóc mai Trần Niệm Nương chỉ trong dăm ngày đã lốm đốm sợi bạc, cô lại không sao thốt nên lời.

Trần Niệm Nương cúi đầu, thuận tay gảy nửa khúc Bái tân nguyệt. Dường như cả không gian bên trong bên ngoài phòng đều thánh thót ngân lên theo tiếng đàn của bà ta, cảm giác như màn đêm tĩnh lặng theo về.

Hoàng Tử Hà cảm thán, “Tiếng đàn của Trần nương quả là thiên hạ vô song.”

“Sao có thể chứ!” Trần Niệm Nương đặt hờ đôi tay lên dây đàn, ngẩng đầu chậm rãi nói, “Nếu bàn về nghề đàn ta chẳng qua chỉ mới là chạm ngõ, bằng Cẩm Nô vậy thôi.”

Hoàng Tử Hà tiện miệng hỏi, “Trần nương gần đây có gặp Cẩm Nô chăng?”

“Không có, đây cũng là nguyên nhân hôm nay ta tới tìm công công.” Bà lo lắng nói, “Hôm qua ta đến Hữu giáo phường ở phường Quang Trạch tìm Cẩm Nô, thì nghe nói đã nhiều ngày nay cô ấy không đến giáo phường.”

“Ồ?” Hoàng Tử Hà ngạc nhiên, “Không tìm thấy Cẩm Nô ư?” Câu Cẩm Nô nói hôm trước cô vẫn canh cánh trong lòng, còn định mượn cớ tới tìm nàng dò hỏi nữa.

“Ừm. Đằng giáo phường rất nhiệt tình, cho mở cửa phòng cô ấy tìm kiếm. Nào ngờ mấy món quần áo trang sức mà cô ấy thích đều biến mất, cả cây tỳ bà do sư phụ tặng mà cô ấy trân trọng nhất cũng bị đem đi. Người trong giáo phường đành giậm chân bực bội, nói rằng có lẽ lại vừa mắt gã lông bông nào đó nên bỏ theo gã rồi. Nghe nói từ sau thời Huyền Tông, việc quản lý của giáo phường ngày càng lơi lỏng, những năm gần đây, chuyện thế này chẳng phải hiếm hoi gì.”

“Cô ấy cũng... mất tích rồi ư?” Hoàng Tử Hà không khỏi kinh ngạc, thêm cả Cẩm Nô thì đây đã là người thứ ba vô cớ biến mất rồi.

Trần Niệm Nương vội đáp, “Đúng thế, hôm qua ta đợi cô ấy mãi mà không được cũng đâm lo. Ta cảm thấy dù cô ấy bỏ theo ai thì tình hình cũng không như thế, cô ấy chỉ thân thiết với mỗi Chiêu vương mà thôi, ta đã khuyên ngăn mấy lần, song cô ấy không nghe...”

“Trần nương đừng cuống, bà kể tỉ mỉ cho tôi về chuyện Cẩm Nô đi, đặc biệt là động tĩnh của cô ấy mấy ngày trước khi mất tích ấy.” Hoàng Tử Hà vội bê một chiếc ghế lại ngồi xuống bên cạnh bà ta.

Trần Niệm Nương than thở, “Ta hỏi kỹ người ở giáo phường thì họ nói lần cuối cùng gặp Cẩm Nô là buổi tối ba hôm trước, sắp đến giờ giới nghiêm, cô ấy ngà ngà say trở về, nghe nói là đến Chuế Cẩm Lâu uống rượu.”

Hoàng Tử Hà gật đầu, “Hôm ấy tôi cũng ở đó, bấy giờ vì cô nương họ Vương ở trong cung xảy ra chuyện nên cả đám người mượn cớ bàn luận vụ án, kéo nhau đi ăn.Chẳng biết ai gọi Cẩm Nô đến, hình như cô ấy cũng thích náo nhiệt, tối hôm đó cô ấy rất hăng hái, còn giúp chúng tôi gói anh đào lại nữa - có điều đôi tay cô ấy giữ gìn hết sức cẩn thận, rõ ràng xưa nay không phải làm gì, bị cuống anh đào đâm phải mà cũng xuýt xoa trách móc.”

“A đầu này là thế đấy, khẩu xà tâm Phật, tính tình rất tốt song nói năng hơi khó nghe.” Trần Niệm Nương nói.

Hoàng Tử Hà lại hỏi, “Trần nương, lần trước bà bảo sẽ viết thư cho Lan Đại, giờ đã có hồi âm chưa?”

“Vội gì chứ, dù Lan Đại nhận được thư lập tức bảo Tuyết Sắc lên kinh ngay thì cũng phải mất mấy ngày, sao giờ đã đến được?”

Hoàng Tử Hà im lặng lắng nghe bà ta than thở, chợt xen vào một câu, “Tuyết Sắc hẳn phải gọi Lan Đại là cô cô nhỉ?”

“Đúng vậy, Lan Đại và Mai Vãn Trí là tỷ muội, đương nhiên là cô cô của Tuyết Sắc.” Trần Niệm Nương gật đầu, “Lan Đại xếp hàng thứ ba trong sáu người, đứng đầu về vũ điệu ở Dương Châu, mấy điệu Lục yêu, Hồi ba, Xuân oanh chuyển, nghe nói là thiên hạ vô song.”

Hoàng Tử Hà lại hỏi, “Chẳng rõ Trần nương còn nhớ không, năm xưa Tuyết Sắc một mình đến Dương Châu ư? Hẳn còn có một thiếu nữ đi cùng chứ?”

Trần Niệm Nương “à” lên một tiếng, “Nói mới nhớ, bấy giờ Tuyết Sắc đi cùng Tiểu Thi. Nghe nói cha mẹ Tiểu Thi đều chết trong chiến loạn, kết nghĩa tỷ muội với Tuyết Sắc ở Từ Châu, đôi bên thề sống chết có nhau, nên cùng tới Dương Châu.”

Hoàng Tử Hà lẳng lặng gật đầu, sau khi kiểm chứng được suy luận của mình, cô lại đâm ra bối rối, không biết suy luận ấy có giúp ích gì cho vụ án này hay không, chỉ lờ mờ cảm thấy, đó rõ ràng là một manh mối quan trọng mà mình chưa bao giờ dò ra được.

Một vụ án cũng như một gốc đại thụ, phần phía trên lớp đất mà người ta nhìn thấy được, vĩnh viễn chỉ là một bộ phận nhỏ, bên dưới bao giờ cũng có những đoạn rễ khổng lồ chằng chịt đan cài vào nhau, nếu không nhổ bật lên thì mãi mãi không biết đươc hình dạng thật sự chôn sâu dưới đất kia.

Nhắc đến Tuyết Sắc và Tiểu Thi, dường như Trần Niệm Nương lại nhớ ra chuyện gì đó, cứ thần thờ nhìn gốc cây lẻ loi ngoài cửa sổ hồi lâu, rồi bỗng ròng ròng nước mắt.

Hoàng Tử Hà vội vỗ nhẹ vai bà ta, nhỏ giọng an ủi, “Trần nương, bà đừng quá đau lòng.”

“Sao có thể không đau lòng kia chứ... Thực ra ta cũng biết, Ức Nương không trở về được nữa rồi” Trần Niệm Nương đờ đẫn nói mà nước mắt lăn dài, “Đêm qua ta lại mơ thấy Ức Nương, thân hình trong suốt như lưu ly lơ lửng trước mắt ta. Ức Nương nói: Niệm Nương, hoa thơm bao độ, cảnh đẹp dễ tàn, ngày sau chỉ còn một mình muội lênh đênh giữa cõi đời thôi... Ta giật mình tỉnh dậy, chỉ thấy gió đùa bóng trúc ngoài song, lời Ức Nương nói trong mơ vẫn văng vẳng bên tai. Ta biết Ức Nương đã không còn trên đời nữa rồi...”

Hoàng Tử Hà thấy lòng trống rỗng, cô rút trong tay áo ra một chiếc khăn lau nước mắt cho Trần Niệm Nương, nào ngờ một vật nho nhỏ bọc bằng giấy cũng lăn ra theo. Bao giấy nọ tựa như có mắt, lăn ngay đến trước mặt Trần Niệm Nương. Trần Niệm Nương nhận lấy chiếc khăn Hoàng Tử Hà đưa, cầm lên chặm nước mắt, khuỷu tay tỳ ngay lên bao giấy.

Đầu óc đang không tỉnh táo, bà ta cũng không cảm giác được cánh tay mình bị cấn.

Hoàng Tử Hà thoáng do dự, cảm thấy tiếp tục giấu giếm chuyện này cũng chẳng được tác dụng gì, bèn rút bao giấy nhỏ từ dưới khuỷu tay Trần Niệm Nương đưa cho bà ta, “Trần nương mở cái này ra đi.”

Trần Niệm Nương bưng mắt nghẹn ngào hỏi, “Cái gì vậy?”

Hoàng Tử Hà không đáp, chỉ nhìn bà ta.

Trần Niệm Nương chần chừ, rồi chậm chạp giơ tay mở tờ giấy trắng bọc bên ngoài.

Bên trong lộ ra một miếng ngọc trắng muốt, trong veo không tì vết, tuy chỉ bằng móng tay, song nhỏ như vậy lại càng thêm lung linh khả ái.

Tay Trần Niệm Nương run lên bần bật, bà ta vội giơ viên ngọc soi ra ánh sáng, trông thấy chữ “niệm” khắc trên đó.

Nắng từ cửa sổ rọi vào, khiến chữ “niệm” càng rạng ngời, lấp lóe ánh vàng, làm người ta chói cả mắt.

Trần Niệm Nương nhắm nghiền mắt lại, tựa hồ đã bị chữ “niệm” nhỏ bé kia làm lòa mắt, từ nay không thể thấy bất cứ thứ gì trên đời nữa.

Thật lâu, thật lâu. Bà mới run run hỏi, “Tìm, tìm được ở đâu vậy?”

“Trong đám dân lưu vong U Châu chết vì bệnh dịch có một thi thể chừng bốn mươi tuổi. Không như những người khác, bà ta trúng độc mà chết. Nhưng khi chúng tôi tìm đến, thi thể bà ấy đã được hỏa táng, chỉ còn lại viên ngọc này.” Cô không nói bọn họ tìm được nó trong bụng Phùng Ức Nương, sợ Trần Niệm Nương bị choáng váng quá độ.

“Hơn hai mươi năm trước, ta với Ức Nương vẫn còn là thiếu nữ, chưa có tên tuổi, tài nghệ cũng chưa có gì xuất chúng, phải dành dụm mãi mới mua được hai miếng ngọc dương chi, chia ra khắc lên hai chữ 'ức' và 'niệm', trao cho nhau. Bấy giờ còn nói, cả đời nương tựa, vĩnh viễn bạn bầu...” Trần Niệm Nương nắm chặt miếng ngọc, nói đến đây, đã khóc lặng đi.

Hoàng Tử Hà lặng lẽ ngồi cạnh bà, nhìn những tia nắng xuyên qua khe cửa rọi lên mặt Trần Niệm Nương, khiến những sợi bạc bên mai cùng mấy nếp nhăn nhỏ trên mặt càng hằn rõ, đâu còn là người phụ nữ xinh đẹp mặn mà cô gặp tháng trước.

“Là kẻ nào, kẻ nào đã giết Ức Nương?” Trần Niệm Nương chậm rãi hỏi.

Hoàng Tử Hà hít sâu một hơi, đoạn lắc đầu đáp, “Trước mắt vẫn chưa biết được. Nhưng tôi nghĩ việc này có liên quan đến vụ án cô nương họ Vương mất tích.”

“Cô nương họ Vương ư?”

“Chính là Quỳ vương phi mấy ngày nay người ta vẫn bàn tán xôn xao đấy.”

Trần Niệm Nương nắm chặt miếng ngọc trong tay, đờ đẫn gật đầu.

“Tôi đã tra được, con gái người bạn cũ mà Ức Nương hộ tống lên kinh chính là Vương Nhược, con gái nhà họ Vương. Thực ra tôi từng gặp Ức Nương ở chỗ Vương Nhược một lần, đã biết chuyện này từ lâu, có điều bấy giờ sợ bà đau lòng nên không dám nói ra.”

Trần Niệm Nương hoang mang, “Song hiện giờ, nghe nói Vương Nhược đã chết....”

“Đúng vậy, tôi nghi ngờ cái chết của Ức Nương có liên quan đến cái chết của Vương Nhược. Chân tướng vẫn chưa phơi bày, tôi cũng chưa có manh mối gì cả.”

“Có thể tra ra chân tướng sao?” Trần Niệm Nương ngẩn ngơ lẩm bẩm.

Hoàng Tử Hà đáp, “Ít nhất, tôi cũng sẽ dốc hết sức mình.”

Trần Niệm Nương rời vương phủ trong trạng thái thẫn thờ ngơ ngẩn. Bấy giờ đã sắp đến trưa, Hoàng Tử Hà tiễn bà về xong, vừa quay vào trong vừa mải ngẫm nghĩ vụ án nên bước hụt, suýt nữa ngã nhào, khó khăn lắm mới vịn được một gốc cây để trụ vững lại.

Mấy người canh cửa vội vã phủi ghế mời cô ngồi, còn rót cho cô một ly trà. Bên cạnh là mấy tên hoạn quan rảnh rỗi đang tán gẫu, cô cũng thấy miệng khô rang, bèn ngồi xuống cạnh họ, uống ừng ực hết ly trà, lại rót thêm chén nữa.

Lư Vân Trung, hoạn quan phụ trách quét dọn hiên Duyên Hi tuổi mới hai mươi, rất ưa những chuyện vụn vặt trong nhà ngoài ngõ, thấy Hoàng Tử Hà ngồi xuống bèn huých huých cô, háo hức hỏi, “Này này, Sùng Cổ nói xem, ngươi hay qua lại đằng nhà họ Vương nhất, có cảm thấy cái chết của Vương cô nương lần này là tổn thất lớn nhất của nhà họ trong mấy năm trở lại đây không?”

Hoàng Tử Hà ngẩn ra, còn chưa kịp hiểu tên này đang nói gì, “Hở?”

“Không phải à? Sau loạn Hầu Cảnh, nhân tài nhà họ Vương Lang Gia rơi rụng cả, nhất là mấy đời nay chẳng có gương mặt nào xuất chúng, tiếng nói trên triều không còn trọng lượng, cả nhà duy trì được uy thế chỉ nhờ vào hai vị hoàng hậu người trước kẻ sau, song nghe nói hiện giờ họ chẳng còn cô gái nào xuất sắc nữa đâu. Khó khăn lắm mới nảy ra một cô tàm tạm được chọn làm Quỳ vương phi, giờ lại chết mất. Đó, giờ không bấu víu vào Quỳ vương phủ nhà ta được nữa rồi, sau này chỉ dựa vào một mình Hình bộ thượng thư Vương Lân cáng đáng thôi.”

Bên cạnh có người chen vào, “Chẳng qua vì là nhà họ Vương nên mới bị nói sa sút, chứ người ta vẫn còn một hoàng hậu một thượng thư đương triều kia mà.”

“Đâu nào, từ khi triều ta mở nước đến giờ, nhà họ Thôi ở Bác Lăng đã có đến hơn ba mươi tể tướng, ngươi xem họ Vương Lang Gia phong quang vô hạn triều trước thì sao? Dù cộng thêm cả họ Vương ở Thái Nguyên, hiện giờ cũng chẳng bì được họ Thôi đâu.”

Hoàng Tử Hà làm thinh uống trà, bụng bảo dạ, thúc phụ của Thôi Thuần Trạm là Thôi Ngạn Chiêu cũng vang danh trong triều, phong thái rất xứng đứng đầu trăm quan. Nếu không có gì bất ngờ, hẳn nhà họ Thôi lại sắp có thêm một tể tướng nữa rồi.

“Vậy cũng đỡ rồi, ngươi coi họ Tạ ở Trần quận xem? Sau loạn Hầu Cảnh, bọn họ gần như bị diệt môn kia.” Lại có người xen vào.

Rồi có người khăng khăng phản đối, “Cũng không hẳn, nếu họ Vương sa sút đến thế thì vương gia đâu thể kết thân với họ? Phải nhớ rằng họ Vương vẫn còn đích tôn Vương Uẩn kia kìa, người này thực là văn nhã phong lưu, luận tướng mạo, luận khí chất, tuy không bì được Quỳ vương gia nhà ta song cũng là nhân vật cực kỳ xuất sắc. Huống hồ vương gia cũng khá thân thiết với y, thường cùng nhau ra ngoài, quả là nhật nguyệt cùng tỏa sáng, lần nào cũng khiến thiếu nữ kinh đô phải nhao hết ra đường, chen nhau xem mặt đấng trượng phu hoàn mỹ vào hàng nhất nhì thiên hạ.”

Nói cũng phải, nghe đồn Vương Uẩn có phong phạm đại gia, lại thêm văn võ song toàn, chưa hết, hai tháng trước y còn dẫn theo binh mã ty Phòng vệ trong kinh truy bắt thổ phỉ ở ngoại ô, giành được toàn thắng, tiêu diệt tất cả bọn chúng rồi quay về!”

“Ồ, chuyện này ta cũng biết.” Lư Vân Trung nói, đoạn ra hiệu cho mọi người chụm đầu lại gần, hạ giọng thật thấp, làm bộ thần bí kể, “Nghe nói đám thổ phỉ này có liên quan đến Bàng Huân! Là một toán tử sĩ dưới trướng hắn tụ lại, hòng lẻn vào kinh thành ám sát Quỳ vương gia!”

Quả nhiên tin này khiến tất cả đều kinh ngạc, “Ôi cha... Sao chúng ta chỉ nghe nói là thổ phỉ thôi mà?”

“Đương nhiên là triều đình cố ý bưng bít rồi! Thuộc hạ của Bàng Huân bị giết từ ba năm trước còn khơi lại đống tro tàn, chuyện này lộ ra há chẳng làm rối loạn lòng người ư? Bởi thế, hữu đô úy Vương Uẩn của ty Phòng vệ kinh thành vừa nghe nói là lập tức dẫn người mai phục ở ngoại ô, nửa đêm đón địch, trong nháy mắt đã giết sạch bọn chúng, bộ Binh cho chôn ngay tại chỗ, chỉ nói là giết một toán thổ phỉ thôi!”

“Ồ? Vậy sao ngươi biết được?”

“Ha ha, đại ca đây có người quen trong bộ Binh mà...” Lư Vân Trung dương dương tự đắc, “Đừng quên Tiền Đại ở đối diện nhà tiểu đệ của Tứ thẩm ta làm ở bộ Binh, chính là người phụ trách chôn cất thi thể lần đó đó!”

“Ai biết mà quên!” Tất cả cùng cười nhạo.

“Nếu Vương Uẩn thực sự lợi hại như thế, tại sao con gái nhà họ Hoàng đã hứa hôn từ nhỏ lại nhất quyết cự tuyệt y?”

“Ồ... chuyện này thì...”

“Phải đấy, nghe nói vì không muốn về với Vương Uẩn, cô ta đã hạ độc giết chết cả nhà! Gả cho Vương Uẩn đáng sợ đến thế à?”

“Cái đó... có thể là cô ta bị điên!”

“Bất kể cô ta có điên hay không, ta chỉ biết về sau Vương Uẩn chắc sẽ khó lấy vợ.”

“Sợ gì chứ, cùng lắm thì chọn một nhà gia thế kém hơn chút thôi! Đổi lại là ngươi, cao lớn hoành tráng như thế, đã lấy được vợ chưa hả?”

Giữa tiếng cười ha hả của mọi người, Hoàng Tử Hà đành cười hùa theo. Đợi họ cười chán, chuyển sang câu chuyện ngồi lê đôi mách tiếp theo, cô mới bưng ly trà trong tay lên nhìn chằm chằm hoa văn men đen trên đó, hồi lâu chẳng hề cử động.

Những chuyện cô vẫn nén chặt trong lòng, qua lời đàm tiếu vô ý của người khác, chẳng khác nào nước ao tù bị khuấy động, nổi lên toàn những vẩn đen.

Cha mẹ qua đời đã hơn nửa năm, vụ án kéo dài càng lâu thì càng khó phá giải, hy vọng lật ngược bản án cũng càng xa xôi.

Mà điều duy nhất cô có thể làm bây giờ chỉ là nỗ lực tháo gỡ vụ án hiện tại, có vậy mới đủ tư cách để được Lý Thư Bạch hỗ trợ, giành lấy cơ hội lật lại bản án gia đình, rửa sạch oan khuất cho mình.

Thấy cô lặng thinh, Lư Vân Trung bèn xích lại bắt chuyện, “Sùng Cổ, lúc cô nương họ Vương kia mất tích, ngươi cũng ở đó hả?”

Hoàng Tử Hà gật đầu.

Lư Vân Trung hỏi ngay, “Nghe nói ngay trước mắt một ngàn tám trăm binh sĩ, Quỳ vương phi đột nhiên tỏa ra một làn khói xanh rồi biến thành tro bụi bay mất phải không?”

Hoàng Tử Hà toát cả mồ hôi, lời đồn hình như quá phóng đại rồi thì phải?

“Rõ là nhảm nhí.” Cô đành đáp.

“Đúng thế, ta đã bảo không thể nào mà.” Bên cạnh có người chen vào, “Nghe nói đã phát hiện di thể rồi, cả người nghi ngút khói đen, trong vòng ba trượng xung quanh, ai hít phải đều chết cả! Sao có thể biến thành tro bụi bay mất được?”

Hoàng Tử Hà càng không còn lời nào để nói. Cô đành đáp, “Hình bộ và Đại Lý Tự đang điều tra, trước khi quan phủ kết án, tất cả phán đoán đều là đoán bừa, mong mọi người đừng tin vào lời đồn nhảm, kẻo lại nghe sai đồn bậy.”

Dù cô nói vậy cũng chẳng ai buồn để tâm, chỉ hỉ hả lục vấn, “Nghe nói sau khi Vương cô nương qua đời, Triệu thái phi lại muốn hứa gả Kỳ Lạc quận chúa cho Quỳ vương gia, có thật không?”

Hoàng Tử Hà không nhịn nổi nữa, đành chắp tay bảo mọi người, “Xin lỗi các vị, vụ án này còn đương trong vòng thẩm tra, tất cả đều phải đợi chân tướng rõ ràng mới công bố được.” Sau đó lại đem bộ Hình và luật vương phủ ra răn đe, bảo những người không can dự đều không được suy luận bừa bãi, để tránh tung tin đồn nhảm ảnh hưởng đến người vô tội. Người của vương phủ càng phải giữ mồm giữ miệng, cẩn thận thị phi.

Mọi người đều vào làm trước Hoàng Tử Hà, đa số còn giữ chức cao hơn cô, song cô đương là tâm phúc của vương gia, lại được tham dự điều tra vụ này, bởi thế ai nấy đều vâng dạ nghe lời, không dám phản bác.

Hoàng Tử Hà lại nhất loạt rót trà cho tất cả để cảm tạ, nức nở khen loại trà này thơm mát đã khát, sau đó lấy cớ bận việc đi trước.

Cô ra khỏi vương phủ, đứng trước cổng ngẩng đầu lên trời cao, lại tẩn mẩn nghĩ đến vụ án phức tạp. Còn đương mải suy tư, chợt nghe tiếng chuông leng keng rồi một cỗ xe ngựa từ trên phố lừ đừ chạy đến, dừng ngay trước mặt.

Cô ngoảnh ra nhìn, thấy người trên xe đã bước xuống chào hỏi, “Dương công công.”

Quả là không phải oan gia không gặp mặt, chẳng mấy khi cô đứng ở cổng, nay vừa đứng thì kẻ tới thăm lại chính là Vương Uẩn.

Vì đang cư tang Vương Nhược nên hôm nay y ăn vận rất giản dị, chỉ khoác một chiếc áo đơn trắng bằng tơ mỏng rất hợp thời tiết, cổ và tay áo điểm xuyết hoa văn kỷ hà xanh biếc, đơn sơ mà thanh nhã. Miếng ngọc bội trắng đeo bên mình được buộc bằng dây tơ màu lục, tay cầm một chiếc quạt gấp nan ngọc xanh, bên trên họa một nhánh trúc thanh tao, càng tỏ rõ cốt cách cao quý được hun đúc nhờ vọng tộc đã có cả trăm năm lịch sử.

Hoàng Tử Hà vốn vẫn xốn mắt mấy bộ quần áo xanh đỏ lòe loẹt của Chu Tử Tần, nay nhìn phục sức của Vương Uẩn thì không khỏi than thầm, cùng là thế gia công tử, sao giữa người với người lại khác nhau trời vực?

Thấy chóp mũi Hoàng Tử Hà lấm tấm mồ hôi, Vương Uẩn tiện tay trao cây quạt cho cô, “Ta định tìm vuơng gia thông báo việc ma chay của Vương Nhược. Vừa hay lại gặp Dương công công, vậy phiền công công dẫn ta vào tham kiến vương gia.”

Hoàng Tử Hà thấy cây quạt của y cứ chìa ra trước mặt, bản thân quả thực cũng hơi nóng liền nhận lấy, vừa quạt vừa gật đầu, “Mời vào.”

Lúc hai người bước vào, đám canh cổng đã thôi huyên thuyên, có điều trông thấy nhân vật trong câu chuyện ngồi lê đôi mách của mình xuất hiện ngay trước mặt, ai nấy đều chột dạ, vội vã đứng dậy hành lễ.

Vương Uẩn chẳng biết nội tình, chỉ đưa mắt nhìn thoáng qua bọn họ rồi tươi cười theo Hoàng Tử Hà đi về phía hiên Tịnh Dữu.

Cảnh Dục và Cảnh Hữu đang đợi sẵn ở tiền sảnh, vừa uống trà vừa nói chuyện tầm phơ. Thấy Vương Uẩn đến, Cảnh Hữu vội mời ngồi, còn Cảnh Dục đứng dậy băng qua sân đi bẩm với Quỳ vương.

Chẳng bao lâu sau, Lý Thư Bạch đích thân ra đón, mời y vào phòng.

Hoàng Tử Hà đang ngần ngừ, không biết có cần theo vào không thì thấy Lý Thư Bạch đi đến giữa sân chợt ngoảnh lại liếc mình, cô đành lúc cúc chạy theo.

Hai người ngồi xuống trước song Tây, Cảnh Hữu mang lò đun trà ra sân, Hoàng Tử Hà tự giác bày mấy ly trà sạch sẽ lên rồi lui ra giúp Cảnh Hữu thêm cành thông vào lò.

Ở bên khung cửa, Vương Uẩn nói, “Gần đây tiết trời bắt đầu nóng nực, vương gia cũng biết đấy, thi thể A Nhược lại không được dễ coi gì, bởi vậy hôm qua người trong họ đã họp lại bàn bạc, cho rằng ba hôm nữa là nhất tuần, chúng tôi chuẩn bị đậy nắp quan tài đưa về quê, để sớm ngày an táng. Tuy rằng gấp gáp nhưng cũng chẳng còn cách nào khác, hiện giờ đành xử lý như thế mà thôi.”

Lý Thư Bạch thoáng trầm ngâm, “Đã chọn được chỗ chôn chưa?”

Vương Uẩn lộ vẻ cảm thương, “A Nhược còn trẻ, lấy đâu ra đất chôn? Trước mắt mới bàn rằng lấy tạm mảnh đất sắp sẵn năm ngoái cho bà cô của muội ấy trong nghĩa địa gia tộc. Còn như bia mộ, đã sai người về quê thuê khắc gấp rồi.”

Lý Thư Bạch nói, “Tiểu muội ngươi dẫu sao cũng đã nhận sính lễ của Quỳ vương phủ, ba ngày nữa ta sẽ đích thân tới bái tế.”

“Đa tạ vương gia.” Vương Uẩn cảm kích.

Nhà họ Vương đang gấp rút lo tang ma, công việc bộn bề nên Vương Uẩn chỉ uống xong ly trà đã phải vội vã cáo từ.

Thấy bóng áo trắng thanh khiết của Vương Uẩn băng qua bụi ngọc trâm trước sân, Hoàng Tử Hà vội cầm cây quạt đuổi theo, “Vương công tử, quạt của công tử đây.”

Y quay lại mỉm cười với cô, “Không dùng quạt lò ư?”

“Không có không có.” Cô vội xòe ra cho y xem, “Công tử nhìn này, tôi sợ lấm tro bếp nên vẫn nhét trong ngực áo.”

“Mùa này còn phải đun trà, thảo nào công công đầm đìa mồ hôi.” Vương Uẩn không giơ tay ra nhận, chỉ cúi đầu nhìn cô, “Công công cứ cầm lấy mà dùng.”

“...” Hoàng Tử Hà vẫn khăng khăng chìa cây quạt cho Vương Uẩn, song y đã quay lưng bỏ đi, chỉ xua tay nói, “Công công giữ lấy, lần sau trả ta cũng được.”

Hoàng Tử Hà đứng giữa mảnh sân đầy ngọc trâm, vô thức giơ chiếc quạt đã mở sẵn ra quạt quạt mấy cái, tự dưng càng thấy nóng nực hơn.
 

Tam Thất

nhân chi sơ, tính bản thiện
Tham gia
13/4/19
Bài viết
1,705
Điểm cảm xúc
1,399
Điểm
113
Mất một lúc cô mới ngoảnh lại, thì bắt gặp Lý Thư Bạch đang chằm chằm nhìn mình từ trong cửa sổ. Chẳng biết y đứng đó đã bao lâu, thấy cô ngoái đầu, y hơi hất cằm, ý bảo cô vào.

Hoàng Tử Hà vội gấp quạt lại, bước vào hiên Tịnh Dữu.

Phòng ốc yên tĩnh, ngan ngát mùi trà. Cảnh Hữu đốt ít hương Băng Tiết, khiến cửa sổ lồng hương mát rượi.

Lý Thư Bạch ra hiệu cho cô ngồi xuống chiếc ghế đối diện. Nhìn qua song cửa thấy Cảnh Hữu đã rời sân, Hoàng Tử Hà liền đi thẳng vào đề, “Xem ra trong ba ngày nhất định phải phá được vụ án này, vì một khi thi thể bị đưa ra khỏi kinh an táng là sẽ mất luôn một chứng cứ quan trọng.”

Lý Thư Bạch chậm rãi gật đầu, “Trước hết ngươi cứ ra sức điều tra đi, nếu cuối cùng vẫn không được thì giao hết cho ta, dù sao cũng không thể để họ an táng được.”

Hoàng Tử Hà vâng dạ, lại nói, “Sáng nay Trần Niệm Nương tới tìm, tôi nghĩ nếu không có rủi ro gì thì trong ba ngày chắc chắn phá được vụ án này.”

“Lý Thư Bạch “ồ” lên một tiếng, nheo mắt nhìn cô, “Thật ư? Hôm nay Trần nương nói gì mà tiến triển nhanh thế?”

“Thứ nhất, tôi ngờ rằng cái xác đó....” Theo thói quen, cô lại giơ tay lần tìm cây trâm trên đầu. Thấy cô đặt tay lên tóc rồi từ từ bỏ xuống vẻ bất đắc dĩ, khóe môi Lý Thư Bạch thoáng cong lên, y rút trong ngăn kéo ra một chiếc hộp gấm dài đặt lên bàn, dùng hai ngón tay đẩy đến trước mặt cô.

Hoàng Tử Hà nghi hoặc nhìn y, “Gì vậy?”

“Ngươi mở ra xem.”

“Có liên quan đến vụ án ư?” Cô cầm lên hỏi.

Lý Thư Bạch quay sang ngắm con cá nhỏ đang lặng lẽ bơi lượn trong bình lưu ly trên bàn, nói bằng giọng lạnh nhạt và bực bội, “Cứ coi là thế đi, để cho ngươi tiện phá án.”

Hoàng Tử Hà mở hộp gấm ra, chỉ thấy một cây trâm nằm trên lớp lót bằng tơ gấm. Cô ngỡ ngàng cầm lên xem, thấy cây trâm dài chừng năm tấc, thân trâm bên dưới bằng bạc, phần đầu bằng ngọc chạm hình cỏ thông tâm lá cuốn, ngoại trừ hoa văn đẹp đẽ tinh xảo thì không có gì khác cả, rất thích hợp với một tiểu hoạn quan trong vương phủ như cô.

Nhưng vừa cầm lên tay, cô liền cảm thấy trọng lượng không đúng lắm, vội nhìn kỹ lại, lập tức phát hiện ra mấu chốt. Cô ấn vào chiếc lá cỏ thông tâm dưới cùng, chợt nghe cạch một tiếng, cây trâm bạc bên ngoài tách ra để lộ một cây trâm bạch ngọc khá mảnh bên trong, cầm vào tay thấy mát mẻ ấm áp, ánh ngọc ẩn vào trong.

Hoàng Tử Hà ngước lên nhìn Lý Thư Bạch, chần chừ hồi lâu mới dè dặt hỏi, “Là... tặng cho tôi ư?”

Lý Thư Bạch “ừm” một tiếng, vẫn không nhìn cô, giọng lạnh tanh, “Lúc nào cũng giơ tay sờ trâm, đến lúc sờ thấy lại không dám rút, trông rõ ngứa mắt. Hơn nữa nếu tóc ngươi xổ ra sẽ rất dễ bị phát hiện là nữ, sau này cũng khó xử lý.”

Hoàng Tử Hà dường như chẳng lọt tai những lời lạnh nhạt của y, cũng chẳng để tâm y bảo ngứa mắt với mình. Cô chăm chú nhìn y, nói với vẻ chân thành mà trịnh trọng, “Đa tạ vương gia, đây là thứ hiện giờ tôi cần nhất đấy.”

Thấy Hoàng Tử Hà cất chiếc hộp đi, Lý Thư Bạch bèn nhắc, “Chẳng biết tay thợ có hiểu ý ta không, cũng không rõ ngươi dùng hằng ngày có tiện không nữa.”

“Tôi vừa xem rồi, rất tiện lợi, thợ làm thực khéo.”

Lý Thư Bạch lại gợi ý, “Không dùng thử sao biết?”

“A...” Bấy giờ Hoàng Tử Hà mới hiểu y muốn gì, bèn đưa tay lên giữ tóc, trước tiên cắm cây trâm Lý Thư Bạch tặng lên, sau đó rút cây trâm vốn có bên trong ra, búi tóc vẫn nguyên vẹn.

Cô lại nắm lấy đầu cây trâm, ngón tay lần theo hoa văn cỏ thông tâm, vừa nắm vừa ấn xuống chỗ lá cuốn, tức thì cây trâm ngọc bên trong bật ra, cây trâm bạc bên ngoài vẫn y nguyên, búi tóc không hề suy suyển.

“Rất tiện dùng, tốt lắm.” Hoàng Tử Hà khen, lại giơ hai tay lần đến chỗ cây trâm bạc vừa tách ra, cắm trâm ngọc vào, cách một tiếng đóng lại.

Hoàng Tử Hà vui sướng ra mặt, mải mê vuốt ve cây trâm trên đầu, mặc cho mỗi lúc giơ tay lên đôi cổ tay nõn nà lại phơi hết ra ngoài. Cô nhoẻn cười với Lý Thư Bạch, “Đa tạ vương gia! Về sau tôi có thể suy luận phá án ở bất cứ đâu, bất cứ khi nào rồi.”

“Tốt nhất là bỏ cái thói đó đi.” Lý Thư Bạch nói.

Hoàng Tử Hà cũng chẳng lấy thế làm điều, lại rút cây trâm ngọc ra, “Nghe Trần Niệm Nương kể xong, tôi cảm thấy vụ án này nổi lên hai điểm rất quan trọng.”

“Thế ư?” Lý Thư Bạch rót một ly trà đẩy tới trước mặt cô.

Hoàng Tử Hà mải nghĩ đến vụ án, cũng không để ý lễ nghi, bèn nhận lấy uống một hớp rồi điểm trâm xuống mặt bàn, nhìn chằm chằm vào Lý Thư Bạch, “Cái xác xuất hiện trong điện Ung Thuần không phải là Vương Nhược.”

“Ừ, lần trước ngươi đã nhắc đến điểm nghi vấn này rồi.”

“Nhưng lần này đã khẳng định được: người chết là Cẩm Nô. Hẳn là vương gia cũng gặp rồi, chính là thiếu nữ chơi tỳ bà ở giáo phường vẫn thân thiết với Chiêu vương ấy!”

“Khẳng định rồi ư?”

“Về cơ bản có thể khẳng định rồi. Trước đây tôi vẫn không hiểu lắm về vết chai kỳ lạ trên tay phải cái xác. Mép bàn tay bên dưới ngón út vì sao lại có một lớp chai mỏng, rốt cuộc thường làm việc gì mới hay chà xát vào chỗ đó? Giờ nghĩ lại thì, chính là khi dùng móng gảy tỳ bà, phần cuối móng cấn vào mép bàn tay dưới ngón út, lâu ngày da thịt chỗ đó bị ma sát nhiều, tạo thành một lớp chai mỏng.”

“Nghe có lý đấy, nhưng nhạc sư tỳ bà dưới gầm trời này nhiều như thế, sao ngươi có thể khẳng định đó là Cẩm Nô?”

“Vì hiện giờ Cẩm Nô đã mất tích, mà lúc cô ta mất tích thì cái xác kia cũng xuất hiện ở điện Ung Thuần.”

Lý Thư Bạch khẽ gật đầu, “Còn chứng cứ nào đanh thép hơn không?”

“Còn.” Cây trâm trên tay Hoàng Tử Hà vạch một mũi tên trên giấy, lại viết bên cạnh mấy chữ: phường Sùng Nhân, “Đêm Cẩm Nô mất tích, những đồ ăn ở Chuế Cẩm Lâu mà Chu Tử Tần gói lại đem về đã đầu độc chết mấy tên ăn mày.”

Chu Tử Tần từng hớt hải đến tìm vì việc này, đương nhiên Lý Thư Bạch còn nhớ. Y gật đầu, “Lần đó ta nhớ các ngươi nói Cẩm Nô cũng có mặt.”

“Phải, những đồ ăn tôi và Chu Tử Tần đưa đến cho đám ăn mày, chúng tôi đều ăn cả, mọi người trên tiệc chẳng ai làm sao. Chúng tôi cũng tận mắt nhìn thấy đám ăn mày dùng tay bốc ăn. Như vậy có hai khả năng, một là lá sen bọc đồ ăn có vấn đề... Nhưng Chu Tử Tần nói độc tính của nhựa cây độc tiễn rất mạnh, lá cây dính phải sẽ đen sạm, mà lá sen bấy giờ đều mới rửa, còn non xanh, không thể dính độc được.”

Lý Thư Bạch gật đầu, “Vậy khả năng kia là tay các ngươi có độc.”

“Đúng thế, bấy giờ có ba người chạm tay vào. Tôi không sao, Chu Tử Tần cũng bình yên vô sự, vậy khả năng duy nhất là chất độc bắt nguồn từ tay Cẩm Nô.” Hoàng Tử Hà thở dài, “Cô ấy xưa nay hoạt bát phóng khoáng, vậy mà hôm ấy cứ phàn nàn về chuyện cuống anh đào đâm vào tay. Thực ra, đó hẳn là do đã tiếp xúc với nhựa cây độc tiễn, độc tính phát tác làm hai tay tê dại đi rồi. Bằng không đôi tay giữ gìn chừng nào, da thịt mỏng manh ra sao, cũng đâu thể bị cuống anh đào đâm được?”

“Lẽ nào nhựa độc tiễn dính phải tay cũng thấm qua da làm chết người ư?”

“Nghe nói là không thể. Bởi vậy tôi vẫn có một điểm không hiểu, là Cẩm Nô trúng độc lúc nào. Tay cô ấy không có vết thương, chất độc hình như lại không vào theo đường miệng. Huống hồ hôm đó cô ấy luôn ở bên cạnh chúng tôi, vậy mà lúc sắp đi khỏi lại trúng độc... Dựa vào độc tính kiến huyết phong hầu, tuyệt đối không thể có người ngang nhiên hạ độc trước mặt chúng tôi được. Bởi vậy cô ấy trúng độc ra sao, trúng lúc nào, tôi vẫn chưa nghĩ ra.”

“Song ít nhất thì thân hình phù hợp, đặc điểm bàn tay phù hợp, cái chết phù hợp, hẳn có thể khẳng định được rồi.” Lý Thư Bạch gật đầu, đoạn gạt ngay vấn đề sang một bên, hỏi tiếp, “Điểm thứ hai mà ngươi nói là gì?”

Hoàng Tử Hà lại dùng trâm ngọc vạch mũi tên thứ hai lên giấy, trỏ về hai chữ: Từ Châu, “Đúng như vương gia phán đoán khi trước, chuyện này quả thực liên quan tới hai cô gái gia cứu ở Từ Châu.”

“Hở?” Lần này Lý Thư Bạch ngạc nhiên ra mặt.

“Bởi thế tôi và Trần Niệm Nương đang đợi một người vào kinh, chỉ cần cô ta đến nơi, vụ án này có thể giải quyết dễ dàng.”

“Người nào vậy?”

“Trình Tuyết Sắc. Cũng chính là cô gái họ Trình được gia cứu ở Từ Châu. Tôi đang đợi cô ta đem một bức họa đến. Tôi nghĩ, cô ấy chính là chứng cứ thuyết phục nhất trong vụ án này.”

Vẻ mặt cô hết sức nghiêm trang, giọng điệu cũng quả quyết, rõ ràng đã có dự liệu trước.

Lý Thư Bạch ngước mắt nhìn Hoàng Tử Hà. Nắng len qua rèm, lồng lấy thân hình làm cả người cô sáng bừng lên, sáng đến mức tưởng chừng soi rọi được hết thảy ô trọc đen tối đang lẩn lút trên đời.

Lý Thư Bạch ngả người ra lưng ghế, thở dài nói, “Vậy thì tốt, hy vọng món tiền cược ta đặt vào ngươi có thể làm ta hài lòng.”

“Tôi nhất định không để vương gia thất vọng.” Dù sao, nếu muốn lật lại bản án của gia đình thì vẫn phải trông vào kẻ này, bởi thế Hoàng Tử Hà lập tức bày tỏ sự tận tụy.

Tiếc rằng Lý Thư Bạch chẳng buồn để ý đến sự tận tụy đó, chỉ hỏi, “Tiếp theo ngươi định ra tay từ đâu?”

“Tìm kiếm từ chỗ Cẩm Nô, nhân giờ còn sớm, tôi sẽ tới chỗ ở của Cẩm Nô tại ngoại giáo phường(*) điều tra, xem có thấy manh mối gì không.”

(*) Giáo phường xuất hiện sớm nhất vào những năm Vũ Đức dưới thời Đường Cao Tổ (618 - 626), được gọi là nội giáo phường, do Thái Thường Tự quản lý. Dưới thời Võ hậu (684 - 704), một độ đổi tên thành Vân Thiều Phủ. Thời Đường Trung Tông (năm 705) lại khôi phục tên cũ, đến năm Khai Nguyên thứ hai (714) lại đặt thêm bốn ngoại giáo phường, hai ở Lạc Dương, hai ở Trường An, còn quy định giáo phường sẽ do giáo phường sử, giáo phường phó sử được cung đình phái tới coi sóc, không chịu sự quản lý của Thái Thường Tự nữa.

“Định dùng danh nghĩa gì để điều tra?”

Hoàng Tử Hà thoáng trầm ngâm rồi đáp, “Nói rằng tôi là hoạn quan ở vương phủ, vương gia nhà tôi từng trao cho Cẩm Nô một thứ quan trọng nên giờ tôi đến để tìm.”

Lý Thư Bạch lạnh lùng, “Không được lôi lệnh tín ra đâu đấy.”

Hoàng Tử Hà hành lễ cáo lui, “Vương gia yên tâm đi, tôi chỉ cần nói là người của vương phủ, mọi người đều sẽ ngầm hiểu là Chiêu vương.”

“Hừm.” Lý Thư Bạch thấy cô đã lui ra, còn hỏi thêm, “Không ăn cơm tối à?”

“Không, còn nấn ná nữa thì lúc về sẽ gặp giới nghiêm mất.” Cô lại nghĩ ngợi một thoáng rồi ngoái đầu nói, “Để khỏi phải dùng tới lệnh tín của vương phủ, tôi xin được tăng thêm hai mươi đồng vào kinh phí tra án.”

Lý Thư Bạch kinh ngạc, “Hai mươi đồng đó dùng làm gì vậy?”

“Buổi tối về vương phủ phải thuê xe.”

Lý Thư Bạch nhìn cô, vẻ mặt phức tạp. “Sao ngươi lại khánh kiệt đến mức này?”

“Vì hoạn quan hạng bét Dương Sùng Cổ từ sau khi theo vương gia đến giờ không xu dính túi, nghèo khổ vô cùng.” Cô đáp ngay, không chút hổ thẹn.

“Sao không bảo Cảnh Dục dẫn đến phòng thu chi ứng trước?”

“Đợi phê duyệt xong xuôi chắc phải đến tháng sau, chừng đó thì tôi đã lĩnh lương mới rồi, nước xa đâu cứu được lửa gần!”

Lý Thư Bạch nhướng mày, gương mặt luôn thản nhiên trước mọi sự cuối cùng cũng lộ vẻ bất lực và bực bội. Y mở ngăn kéo, rút ra một cái túi ném cho cô.

“Đa tạ vương gia!” Hoàng Tử Hà mau mắn bắt lấy, quay người chạy thẳng.

Thành Trường An dưới triều Đại Đường có hai ngoại giáo phường, các nghệ nhân tỳ bà cầm sắt đều ở ngoại giáo phường phía Tây tại phường Quang Trạch, cách phường Vĩnh Gia nơi có Quỳ vương phủ không xa.

Hoàng Tử Hà chạy đến nơi. Vì trong giáo phường có đủ cả nhạc công, vũ công, kỹ nữ, nên ngoài cửa cũng có một bà lão ngồi cắn hạt dưa, thấy cô đến bèn giơ tay ngăn lại hỏi, “Tiểu công công tìm ai vậy?”

Hoàng Tử Hà vội hành lễ đáp, “Xin lỗi bà, tôi muốn vào trong tìm Cẩm Nô.”

“Ai da, hôm nay thực là khéo quá, hết người này lại tới người kia tìm Cẩm Nô.” Nói đoạn, bà ta giũ sạch vỏ hạt dưa trên áo đứng dậy hỏi, “Không phải công công cũng cho Cẩm Nô mượn thứ gì đó, giờ nghe nói cô ấy bỏ trốntheo người ta nên đến lấy lại chứ?”

Hoàng Tử Hà kinh ngạc ồ lên, “Lúc trước đã có người đến rồi ư?”

“Còn không ư, là một cô gái đẹp như tiên trên trời ấy, lão nương cả đời chưa thấy ai đẹp đến thế cả.” Bà lão lải nhải nói hoài không thôi. “Dung mạo ấy dáng dấp ấy, dù là người trong tranh bước ra cũng còn thua bề lộng lẫy sinh động kia.”

“Bà có biết tên họ cô ấy không?” Hoàng Tử Hà vội gặng.

“Không biết, dầu gì cũng không phải chỉ biết nói suông như công công đâu, người ta còn cầm cả thư Cẩm Nô viết cho năm xưa đến đấy! Lão nương cũng biết chữ mà!”

Thấy bà lão này không hề có ý để mình vào, Hoàng Tử Hà đành cười lấy lòng, rút một phần kinh phí trong túi ra dúi cho bà ta, “Bà xem này... Tôi cũng chỉ phụng lệnh mà đến đấy thôi. Vương gia nhà chúng tôi giao cho Cẩm Nô cô nương một vật rất quan trọng, giờ biết tin cô ấy bỏ đi, đang nổi trận lôi đình kia kìa, chuyến này nếu tôi không lấy được đồ về, có khi vương gia sẽ tống cổ tôi đi mất.”

“Ôi chao, vậy thì không được, lão nương bình thường rất thương người, đâu nỡ nhìn người ta chịu khổ.” Bà lão nhét đĩnh bạc nhỏ vào ngực áo xong, tức thì tươi cười niềm nở, “Đến đây đến đây, để ta chỉ cho công công phòng của Cẩm Nô, là gian thứ ba ở dãy thứ hai đầu phía Đông kia kìa, chưa đầy một canh giờ nữa là chúng ta phải đóng cửa bấm khóa, công công tìm mau mau đi.”

Hoàng Tử Hà cười đưa đà, luôn miệng vâng dạ rồi rảo bước đi tới gian thứ ba dãy thứ hai đầu phía Đông. Vừa tới nơi, cô đã thấy cửa phòng Cẩm Nô mở toang, hai tiểu a đầu đang đứng trước cửa tán gẫu.

Hoàng Tử Hà liền bước đến hỏi, “Hai vị, xin hỏi cô gái đẹp như tiên vừa nãy đâu rồi?”

Hai tiểu a đầu ngoái lại nhìn Hoàng Tử Hà, quan sát bộ đồ hoạn quan trên người cô một lượt, đoạn cười hỏi, “Ngươi ở đâu vậy? Bên nội giáo phường? Hay là công công trong phủ các vương?”

“Vương gia nhà ta có gửi món đồ ở chỗ Cẩm Nô cô nương, giờ cô ấy lại bỏ đi, nên vương gia sai ta đến tìm, tuy chẳng phải vật hiếm lạ gì, song cũng là thứ vương gia từng nâng niu...” Hoàng Tử Hà khẩn khoản nói, “Nghe nói lúc trước cũng có một cô gái tuyệt đẹp tìm tới đây ư?”

“Chứ gì nữa, Cẩm Nô vốn dĩ đã đẹp lắm rồi, ai ngờ còn một tiểu muội đẹp đến nhường ấy.” Tiểu a đầu bên trái nói, đoạn ngó vào trong dẩu môi, “Chẳng phải cô ta nói qua nhà bên mua ít đồ lặt vặt ư? Sao vẫn chưa về?”

“Đúng thế, tôi đang háo hức muốn xem bức tranh kia của cô ta.” A đầu còn lại cau mày.

Hoàng Tử Hà kinh ngạc hỏi, “Bức tranh gì thế?”

Chính là bức tranh vẽ sáu người con gái nào đó, nghe đâu Dương Châu có mấy nghệ nhân ca múa nhạc nhờ ngộ được đạo lý về ca về nhạc trong bức tranh đó, cuối cùng trở thành truyền kỳ một đời đấy.”

Hoàng Tử Hà bật cười, “Vân Thiều Lục Nữ ư?”

“Đúng thế đúng thế, công công cũng biết à? Nhưng công công là tiểu hoạn quan, lại không học nhạc học múa, cũng muốn ngắm bức tranh đó để ngộ đạo ư?”

“…” HoàngTử Hà không khỏi nghẹn họng, thầm nghĩ chẳng biết lời đồn quái dị kia từ đâu mà ra. Cô đoán mỹ nữ mang bức tranh đến nhất định là Trình Tuyết Sắc, không khỏi kinh ngạc trong lòng, chẳng hiểu sao Trần Niệm Nương không cùng cô ta tới tìm mình trước.

Hai a đầu đợi hồi lâu, thấy người vẫn chưa về, bèn nhấp nhổm muốn đi. Hoàng Tử Hà bèn hỏi, “Ta có thể vào phòng Cẩm Nô không?”

“Được được, từ khi cô ấy đi, những món đáng tiền và quan trọng chắc đều đã mang đi, những thứ để lại cũng bị người trong phường chia nhau cả rồi, kẻ nào kẻ nấy nói thì hay lắm, nào là giúp Cẩm Nô thu dọn này kia, thực ra đều tự lấy về dùng. Tôi thấy bên trong đến tám phần là chẳng còn gì hết.”

“Nói thì nói vậy, song cũng nên thử vận may một phen.” Hoàng Tử Hà nói, đoạn từ biệt bọn họ, bước vào trong nhìn quanh một vòng.

Phòng Cẩm Nô bày biện rất trang nhã, trên cửa sổ hoa chăng một lớp the mỏng màu hồng mân côi, giữa phòng trong phòng ngoài có một bức rèm châu ngăn cách. Từ cửa chính đi vào là sảnh nhỏ, ánh đèn từ sau song hoa hắt vào, thì ra giáo phường đã lên đèn.

Ngay dưới cửa sổ lại đặt một kỷ một sập, trên kỷ bày mấy món đồ chơi, trong bình sứ cắm hai cành thạch lựu, giờ đã héo khô, cánh hoa và lá rụng đầy bàn.

Cô ngồi xuống chiếc ghế nhỏ bên cạnh, vừa suy ngẫm về vụ án vừa đợi Trình Tuyết Sắc.

Trời càng tối, ánh đèn ngoài song rọi vào lại càng sáng. Trình Tuyết Sắc vẫn không trở về.

Cuối cùng Hoàng Tử Hà không đợi nổi nữa, quyết định tra xét trước xem sao. Cô đứng dậy, bước đến bên ngăn tủ, mượn ánh đèn bên ngoài hắt vào, mở tủ ra xem.

Quả như lời hai a đầu kia nói, nhũng thứ tử tế bên trong đã bị cuỗm hết cả, chỉ còn mấy bộ quần áo bị bới tung.Lại lục tìm bàn ghế giường sập, cũng chẳng thu được gì. Cô gái mà mọi người kể rằng vừa mới bước vào, có lẽ đã lấy đồ bỏ đi rồi.

Hoàng Tử Hà trầm ngâm đi lại trong phòng, săm soi tất cả ngóc ngách, cuối cùng trông thấy thứ gì đó lấp lánh trong góc phòng, hắt sáng lấp lóe dưới ánh đèn bên ngoài chiếu vào.

Cô bèn nằm bò ra đất, với tay vào góc nhà bên dưới giàn hoa, cầm lấy vật phản quang nọ.

Là nửa thoi bạc.

Xấp xỉ bằng nửa thoi tìm thấy trong điện Ung Thuần, từ vết chặt và độ sáng đủ chứng minh nửa thoi này có thể ghép cùng nửa thoi kia thành một thoi bạc hoàn chỉnh.

Cô vội nhét nửa thoi bạc vào ngực áo, sau đó lại lục soát trong phòng thêm lượt nữa, xác định không bỏ sót thứ gì mới bước ra cửa.

Hớt hải chạy ra kịp trước khi giáo phường đóng cửa, Hoàng Tử Hà một mình đứng trước phường Quang Trạch nhìn quanh, thành Trường An đã sắp đến giờ giới nghiêm, bốn bề vắng lặng, chẳng tìm đâu được một cỗ xe để quay về.

Cô bất lực thở dài, rảo bước đi về phía Quỳ vương phủ.

Các hộ trong kinh đã im phăng phắc, chỉ nghe tiếng trống đóng cổng từ tháp canh vọng lại, từng tiếng từng tiếng âm vang cả màn đêm. Cô guồng chân chạy qua phố lớn ngõ nhỏ trong kinh, phường Quang Trạch nằm ở Bắc thành, gần cung Đại Minh và cung Thái Cực, song chẳng lấy gì làm ồn ã, cô gần như có thể nghe được tiếng chân mình vang vang trên đường.

Phía sau vọng đến tiếng người quát hỏi, “Ai vậy? Muộn thế này còn ở đây làm gì?”

Hoàng Tử Hà ngoái lại trông thấy tên lính tuần tra đang đuổi tới, bèn giải thích, “Tôi là hoạn quan ở Quỳ vương phủ, vì có việc dằng dai lâu quá nên giờ mới vội chạy về.”

Nghe nói là người của Quỳ vưong phủ, thái độ đối phương tử tế hẳn lên, lại hỏi, “Có công văn hay thư tay gì chứng minh không?”

“Không cần thư tay, ta biết người này. Là Dương Sùng Cổ Dương công công ở Quỳ vương phủ.” Đằng sau có người nói.

Nghe giọng nói, Hoàng Tử Hà bất giác thở dài, quay lại khom lưng hành lễ, “Vương đô úy.”

Hữu đô úy Vương Uẩn ở ty Phòng vệ kinh thành, hôm nay có nhiệm vụ tuần tra bên này.

Vương Uẩn ngồi trên lưng ngựa, từ trên cao nhìn xuống cô, song không hề tỏ vẻ cao ngạo, trái lại sắc mặt rất ôn hòa, giọng nói điềm đạm, “Dương công công, chiều nay còn thấy nhàn tản đứng trước cửa vương phủ ngắm trời đất, sao đến tối lại tất bật tới tận bây giờ?”

“Ừm... Tôi tính sai tốc độ của mình, cứ nghĩ sẽ về kịp trước giờ giới nghiêm.” Xem ra cô đã nấn ná trong phòng Cẩm Nô quá lâu.

Vương Uẩn gật đầu, ra hiệu cho các hộ vệ tuần tra cứ đi theo lộ trình ban đầu đến các con phố khác, sau đó giơ tay vỗ vỗ vào mông con ngựa đang cưỡi, “Lên đây, ta đưa công công về vương phủ.”

“A… Không cần đâu, đại nhân bận bịu việc công, đâu dám phiền đại nhân đưa tôi về.” Cô gượng cười hành lễ rồi hối hả đi tiếp.

Tiếng vó ngựa lộp cộp đằng sau, Vương Uẩn vẫn đi theo.

Cô quay lại nhìn y, còn y thì nhìn thẳng ra trước, ôn hòa đề nghị, “Gần đây trong kinh không được yên ổn lắm, để ta đi cùng công công.”

“Đa tạ... Vương đại nhân.” Cô khó nhọc nặn ra mấy chữ ấy, rồi nín thinh.

Phố dài vắng tanh, những ngọn đèn nơi góc phố lặng lẽ tỏa sáng trong đêm. Thỉnh thoảng lại một cơn gió ùa tới lay động ngọn lửa, đèn đuốc của cả thành Trường An dường như đều lay lắt trong gió, thoắt sáng thoắt tối, chập chờn tựa sóng gợn, bao trùm lấy kinh thành.

Hai người đi về hướng Quỳ vương phủ. Vương Uẩn cưỡi ngựa, Hoàng Tử Hà đi bộ, con ngựa được huấn luyện rất cẩn thận, tính tình cũng ôn hòa, cứ thong thả cất bước mà đi, trước sau vẫn cùng một nhịp với Hoàng Tử Hà.

Họ buớc qua đèn lửa dập dềnh như sóng, băng qua những con đường rộng rãi thẳng tắp ở Trường An. Muôn lầu ngàn gác sáng rực dưới đèn đêm, giữa thành thị phồn hoa nhất trần đời này.

Phương Vĩnh Gia là nơi tập trung nhiều vương công quý tộc, thỉnh thoảng lại nghe tiếng đàn ca từ mấy nhà đang có tiệc vui, gió đưa tới tai họ tiếng ngân của ca nữ dịu dàng nũng nịu, “Bóng ngô đồng ngoài rèm châu ấy, sương dợm rơi tay biết trước rồi.. ”

Hoàng Tử Hà đang nghĩ vơ nghĩ vẩn, chợt nghe Vương Uẩn cười nói, “Còn chưa đến mùa hạ, sao đã có sương thu rồi?”

Hoàng Tử Hà ngây người một thoáng mới hiểu y đang nhắc tới khúc hát kia. Bèn bình luận, “Ý hợp là được, ngoại vật quan trọng gì.”

Y nghiêng đầu nhìn cô, “Ừm, là ta quá câu nệ vào ngoại vật rồi.”

Dù sao cũng đã lên tiếng, Hoàng Tử Hà liền hỏi, “Quan tài Vưong cô nương ít hôm nữa phải đưa về Lang Gia, mấy ngày nay hẳn đô úy rất bận, sao còn trực đêm?”

“Gia đình lớn mà, chỉ cần sắp xếp ổn thỏa là sẽ có người thực hiện, không cần phải trông nom luôn luôn.” Vương Uẩn đáp, đoạn ngước lên nhìn màn đêm trước mặt, “Huống hồ ta rất thích màn đêm ở Trường An, yên tĩnh mà sâu xa hơn ban ngày nhiều, lầu gác lung linh ánh đèn khác chi lầu quỳnh gác ngọc, song cảnh sắc ẩn giấu bên trong ra sao thì con người ta không tài nào thấy hết được.”

“Thân ở bên trong đương nhiên sẽ quanh co mất phương hướng, chỉ thoát ra mới thấu tỏ thôi.”

Vương Uẩn mỉm cười nhìn cô, “Dương công công nói phải lắm, người ngoài nhìn vào tự nhiên sẽ rõ ràng.”

Ánh đèn lúc xa lúc gần mơ hồ soi lên nụ cười của y, nụ cười dường như còn chứa đựng một hàm nghĩa khác mà cô chưa rõ được.

Hoàng Tử Hà chợt thấy ê ẩm cả hai hàm răng. Đối xử với hoạn quan thế này không bình thường chút nào. Y đã nhận ra cô, hay vẫn còn hoài nghi? Nếu về sau phải đề phòng, thì nên đề phòng từ đâu đây?

Cô cúi gằm mặt, không dám nhìn y thêm nữa, chỉ đáp, “Tôi sắp đến nơi rồi, mời Vương đại nhân về thôi.”

“Được, lần sau đừng quên bẵng thời gian, nấn ná bên ngoài lâu như thế nữa.” Nói đoạn, Vương Uẩn ghìm cương dừng ngựa giữa đường, đưa mắt nhìn theo bóng cô đi xa dần.

Hoàng Tử Hà rảo bước chạy đến cửa ngách ở góc Tây Bắc Quỳ vương phủ, gõ cửa bước vào. Lúc khép cửa lại, cô còn ngoái đầu nhìn về phía Vương Uẩn.

Y vẫn ghìm ngựa nhìn cô, trong màn đêm, dưới ánh đèn, vẻ mặt ấm áp ôn hòa như gió xuân.

Cũng chẳng rõ y ghìm cương đứng đó bao lâu, sau lưng chợt có một người cưỡi ngựa thong thả đến gần, “Uẩn nhi, khi nào con về? Trong nhà nhiều việc lắm.”

“Con về ngay đây.” Vương Uẩn quay đầu ngựa, theo cha về nhà, “Cha, hôm nay sao cha lại đích thân ra ngoài?”

Vương Lân thở dài đáp, “Hoàng hậu triệu kiến gấp, ta có thể không đi ư?”

Vương Uẩn lặng lẽ gật đầu, hai người hai ngựa, chầm chậm thả nước kiệu.

“Việc giao cho con đã làm xong chưa?”

“Thưa, đã giải quyết.” Y bình thản đáp, “Dùng thuốc làm tiêu tan ít máu thịt, chắc hẳn không ai nhận ra được nữa.”

“Đích thân ra tay ư?”

“Đương nhiên không, con tìm một người đáng tin cậy.”

“Đáng tin cậy ư?” Vương Lân lạnh lùng nói, “Trên đời này chỉ người chết mới có thể coi là đáng tin mà thôi.”

“Vâng, để con lựa dịp.”

Hai người lặng thinh không nói gì nữa. Phủ đệ họ Vương đã thấp thoáng đằng xa.

Cả hai bước vào, đám gác cửa dắt ngựa cho họ, hai cha con men theo hành lang quanh co, đi thẳng vào nhà trong

Ngọn đèn lồng bên trên viết một chữ “Vương” ngang bằng sổ thẳng tỏa ánh hồng xuống mặt đất, khiến tòa phủ đệ quạnh quẽ cũng ấm lên đôi phần.

Vương Lân đang đi, chợt thong thả dừng bước giữa màn đêm, quay lại nhìn Vương Uẩn.

Vương Uẩn không hiểu ra sao, cũng nhìn cha. Vương Lân nhìn đứa con trai đã cao hơn mình cả nửa cái đầu, lộ vẻ an ủi xen lẫn cảm thương, “Uẩn nhi... thực ra ta không muốn tay con vấy máu.”

Vương Uẩn mím môi hồi lâu mới đáp, “Con là người nhà họ Vương, phải đứng hàng đầu để che chắn tất cả gió mưa cho nhà họ Vương, chết cũng không tiếc.”
SPONSORED / ĐƯỢC TÀI TRỢ
Vương Lân vỗ mạnh vào vai con trai, khen ngợi, “Con giỏi lắm... Tiếc rằng đời này nhà họ Vương chỉ được một mình con.”

“Tỷ tỷ tuy là nữ nhi, song kiên nghị quả cảm, giờ lại ngồi trên ngôi hoàng hậu, vì nhà họ Vương chúng ta, e rằng tỷ tỷ còn vất vả hơn con nhiều.” Vương Uẩn nói.

Vẻ mặt Vương Lân bỗng trở nên phức tạp, ông ta cau mày hồi lâu mới gật đầu, “Đúng thế, dẫu sao đó cũng là người nhà họ Vương...”

Vương Uẩn lại nói, “Nếu A Nhược không xảy ra chuyện, cũng sẽ là Quỳ vương phi xuất sắc.”

“Đúng thế, mấy đứa con gái họ Vương đời này đều tầm thường cả, chẳng ai xuất sắc được như nó, khiến Quỳ vương gia thoạt nhìn đã xiêu lòng.” Vương Lân than thở, “Trước đây khi bệ hạcòn là Vận vương, được mời tới nhà ta dự yến, cũng ưng tỷ tỷ con ngay. Đủ thấy trên đời này vĩnh viễn chỉ có dung mạo tuyệt sắc là có thể hấp dẫn người ta thôi.”

Vương Uẩn nghe cha than thở, nhìn lên lồng đèn đỏ rực treo dưới mái hiên, bất giác lại nhớ đến Hoàng Tử Hà, nhớ lại ba năm trước lúc cô mới mười bốn tuổi, y len lén theo sau, trông thấy vóc dáng cô mềm mại mà trong sáng, mảnh mai đỏ thắm như mùa hoa mới chớm.

Vẻ trong sáng ấy khiến y phải lục lọi trí nhớ. Hoàng Tử Hà thời ấu thơ trong ký ức y từ từ quay đầu lại, sau đó…

Dung mạo hợp làm một với Dương Sùng Cổ. Biến thành một người.

Hoàng Tử Hà và Dương Sùng Cổ, một thiếu nữ mười ba mười bốn, một hoạn quan mười bảy mười tám; một yểu điệu, một thanh thoát; một trắng trẻo nõn nà, đường hoàng tự tin, ngời ngời xuân sắc giữa ngự uyển năm xưa, một yếu ớt gầy gò, nét mặt xanh xao, cẩn thận dè dặt bên cạnh Quỳ vương.

Rõ ràng là một tiểu hoạn quan trong vương phủ, chẳng hiểu sao hết lần này sang lần khác cứ làm y liên tưởng đến Hoàng Tử Hà, hơn nữa ngay lần đầu tiên gặp mặt, y đã thấy là lạ. Lẽ nào chỉ vì cả hai đều giỏi phá án, hơn nữa dung mạo viên hoạn quan còn nhang nhác người trong cáo thị?

Y từng kín đáo phái người đi điều tra thân phận Dương Sùng Cổ, thì thấy lai lịch rõ ràng minh bạch cả, là người từ Cửu Thành cung chuyển sang Quỳ vương phủ, chữ ký lúc mới vào cung cũng còn nguyên – có điều bấy giờ Dương Sùng Cổ chưa biết chữ, chỉ vẽ một vòng tròn lên giấy mà thôi.

Còn cả một bằng chứng thép, chính là Quỳ vương Lý Thư Bạch.

Nghi ngờ thân phận Dương Sùng Cổ, khác nào mạo phạm Quỳ vương.

Nghĩ tới vị hôn thê từng mang lại cho mình vô vàn nhục nhã, Vương Uẩn bỗng ngấn ngơ. Bấy giờ cha y lại dặn dò “Uẩn nhi, nhà họ Vương sa sút đến độ này, e rằng tổ tiên nơi suối vàng cũng thấy hổ thẹn... Tất cả hy vọng bây giờ đều gửi gắm vào con đó. Dù con không thể khôi phục lại vinh quang năm xưa của nhà ta, thì ít nhất cũng không thể để thế lực họ Vương trong triều bị bẻ gãy được!”

Vương Uẩn nghiêm trang gật đầu, “Nhà chúng ta hiện giờ, trong cung có hoàng hậu, ngoài triều lại có cha, cũng không coi là yếu thế.”

“Con sai rồi, thực ra ngoài triều và trong cung, người họ Vương có ảnh hưởng lớn nhất không phải là ta và hoàng hậu đâu.” Vương Lân mỉm cười, không khỏi đắc ý, “Con quên ư, còn một người nữa đủ sức khuấy đảo thiên hạ, thay triều đổi đại kìa. Có điều mọi người đều quên rằng, người ấy cũng họ Vương.”

Vương Uẩn cúi đầu làm thinh, hồi lâu mới đáp, “Dạ.”

“Ít hôm nữa, đợi quan tài Vương Nhược đi rồi, con phải tới thăm hỏi đấy, kẻo người ta lại quên bẵng gia tộc mình.” Vương Lân nghĩ ngợi chốc lát lại nói tiếp, “Người ấy thích nuôi cá, nhớ mang theo mấy con. Cá màu đỏ là tốt nhất.”

“Chẳng biết nhà bếp còn đồ ăn không nữa?”

Về đến vương phủ, Hoàng Tử Hà thấy ruột gan cồn cào. Suốt ngày hôm nay, trừ mấy cái nem bữa sáng và dăm cốc trà bữa trưa, cô toàn chạy vạy bên ngoài, chưa được một hạt cơm nào vào bụng, giờ đã đói đến hoa cả mắt.

Cô ôm bụng lần đến nhà bếp xem thử thì thấy lò nấu nguội ngắt, không một bóng người.

“Làm sao qua được hôm nay đây...” Hoàng Tử Hà chỉ hận sao mình không hỏi dò Lỗ thẩm xem đồ ăn thức uống cất ở đâu, để đến nỗi bây giờ không có bà ta thì chẳng tìm được gì để ăn.

Khó khăn lắm mới moi ra được hai cái bánh hấp khô queo trong chạn bát. Hoàng Tử Hà mỗi tay một cái, vừa ăn vừa đi về phòng mình ở chái bên.

Đến cửa, Hoàng Tử Hà đã thấy trong phòng sáng đèn. Ngạc nhiên rảo bước vào tới nơi, cô kinh ngạc đến mức suýt tuột tay làm rơi hai chiếc bánh.

Người đó, người thong dong tự tại thắp đèn đọc sách giữa đêm đó, chẳng phải Quỳ vương Lý Thư Bạch thì còn là ai?

Hoàng Tử Hà cứ thế đứng chôn chân trước cửa. Lý Thư Bạch ngẩng lên trông thấy cô, bèn ngoắc tay gọi lại. Cô nắm chặt hai chiếc bánh hấp mới cắn được mỗi chiếc một miếng, dè dặt bước vào hỏi, “Vương gia... nửa đêm đến đây, có gì sai bảo?”

Y không đáp, chỉ khẽ hất cằm về phía hộp cơm bên cạnh.

Cô do dự bưng hộp cơm, mở nắp, nhấc những thứ bên trong ra.

Một chén cháo quý phi, một đĩa bánh quẩy mật, một bát bạch long diệu(*), một suất trợ đầu xuân(**), còn cả tôm nướng và tuyết anh nhi mà cô thích nhất, đều nóng hôi hổi.

(*) Thịt sống lưng đã được dần kỹ.

(**) Chim cút quay

Cô liếc Lý Thư Bạch, thấy y chẳng buồn để ý đến mình, lập tức ném hai cái bánh hấp trong tay đi, cầm hai đôi đũa ngà trong hộp lên, trước tiên bày một đôi trước mặt Lý Thư Bạch, còn một đôi giữ lại, găm ngay lấy một con trợ đầu xuân.

Trợ đầu xuân là món ăn rộ lên gần đây ở kinh thành, nguyên liệu cũng không có gì lạ, chẳng qua là chim cút quay. Có điều gia vị phải nêm nếm thật vừa, độ cháy cũng phải vừa tới, lại thêm hiện giờ cô đang đói rã ruột, chỉ trong nháy mắt đã ngấu nghiến xâu xé hết hai con chim cút, bấy giờ mới thở phào nhẹ nhõm, trở lại tốc độ bình thường, bắt đầu nhẩn nha nhai nuốt.

Lý Thư Bạch buông cuốn sách trên tay xuống, hỏi, “Có tiến triển gì không?”

Hoàng Tử Hà không đáp, chỉ lấy nửa thoi bạc trong ngực áo đặt lên bàn, “Tìm thấy trong phòng Cẩm Nô đấy.”

Lý Thư Bạch cầm lấy lật qua lật lại xem xét tỉ mỉ.

Mặt sau thoi bạc khắc hai hàng chữ. Hàng thứ nhất là: Đặng Vận Hi, Tống Khoát. Hàng thứ hai là: mươi lạng chẵn.

Hoàng Tử Hà lại lấy trong ngăn kéo giường ra nửa thoi lúc đầu, đưa cho y.

Hai nửa khớp vào nhau, hợp thành một thoi bạc hoàn chỉnh. Hàng chữ ở mặt sau cuối cùng cũng đầy đủ, là: Phó sử Lương Vi Đống, Đặng Vận Hi, Tống Khoát, nội khố sử thần Trương Quân Ích, đúc bạc hai mươi lạng chẵn.

Lý Thư Bạch đặt hai nửa thoi bạc xuống, ngẩng lên nhìn cô, “Tìm thấy ở đâu?”

“Dưới kệ hoa trong phòng cô ta.”

“Không thể nào.” Lý Thư Bạch quả quyết nói.

“Có đấy, phòng cô ta đã bị nhiều người lục lọi xáo trộn, kệ hoa sờ sờ ra đó, đáng lẽ không thể sót lại nửa thoi bạc.” Hoàng Tử Hà uống một hớp cháo quý phi rồi mới tiếp, “Bởi vậy, hẳn là Trình Tuyết Sắc vừa rời khỏi đó để lại.”

“Trình Tuyết Sắc?” Lý Thư Bạch hơi biến sắc mặt “Cô ta vào kinh rồi ư?”

“Phải, song tôi chưa gặp được cô ta, chỉ nghe người ở giáo phường nói có một cô gái xinh đẹp tuyệt trần mang theo một bức họa đến phòng Cẩm Nô. Nhưng khi tôi tới, cô ta đã đi rồi.”

“Để vuột mất, cũng đành chịu vậy.” Lý Thư Bạch cau mày hỏi tiếp, “Sao Trần Niệm Nương không báo cho ngươi?”

“Có lẽ Cẩm Nô và Trình Tuyết Sắc khá thân thiết nên cô ta tới tìm Cẩm Nô trước chăng?” Hoàng Tử Hà trầm ngâm chốc lát, lại nói, “Song Trần Niệm Nương hẳn rất sốt sắng về việc của Ức Nương, nói thế nào cũng sẽ lập tức dẫn cô ta tới chỗ tôi.”

Lý Thư Bạch gật đầu, “Dẫu sao Trần Niệm Nương cũng đang ở Ngạc vương phủ, ngày mai chúng ta có thể tới tìm bà ấy.”

“Ngoài chuyện đó ra, hôm nay tôi xem qua địa thế ngoại giáo phường, phát hiện được một nơi. Bấy giờ trời tối quá mất rồi, không tiện tìm kiếm, sáng mai ta đến, nhất định sẽ có phát hiện.”

“Xem ra mai ngươi lại bận rộn cả ngày rồi.” Thấy ánh nến leo lét, y bèn gập sách lại, cầm cây kéo bên cạnh lên, cắt bớt sợi bấc đèn đã cháy đen, xoăn tít, khêu ngọn đèn trên bàn sáng thêm.

Dưới ánh nến chập chờn, cả căn phòng yên lặng như tờ. Hoàng Tử Hà đang mải ăn, chợt ngẩng lên thấy Lý Thư Bạch chăm chú nhìn mình, không khỏi khựng lại một thoáng.

Lý Thư Bạch rời mắt nhìn ra chỗ khác, thong dong cầm đôi đũa ngà lên khêu mấy mầm giá trên đĩa tuyết anh nhi, bỏ vào chiếc bát trước mặt.

Hoàng Tử Hà ngập ngừng hồi lâu, cuối cùng mới khó nhọc lên tiếng, “Đa tạ... vương gia phần cơm cho tôi...”

“Không phải tạ.” Y ngắt lời, lại nhìn cô một lúc thật lâu mới chậm rãi nói, “Xưa nay ta vẫn tin rằng, ngựa phải no bụng thì chạy mới nhanh.”

Khóe môi cô giần giật mấy cái, thốt lên, “Vương gia thực nhìn xa trông rộng.”

“Thế nên ngày mai phải chạy nhanh nữa lên, nhớ là nhà họ Vương sắp đưa Vương Nhược về Lang Gia rồi đấy.”

“Vâng...” Nhắc đến họ Vương, cô lại nhớ tối nay vừa gặp Vương Uẩn, bèn nắm chặt đôi đũa, ngây ra nhìn ánh đèn chập chờn một lát, cuối cùng vẫn khôn hồn không kể lại, để khỏi lôi thôi thêm.

Dù thế nào chăng nữa, cũng chỉ là một lần gặp tình cờ mà thôi, đâu liên quan tới vụ án.

Sáng hôm sau trời quang mây tạnh, bầu trời đầu hạ lồng lộng xanh biếc, sáng đến chói mắt.

Khi Hoàng Tử Hà theo lời hẹn đến chuồng ngựa gặp Lý Thư Bạch, y đã cưỡi một thớt ngựa đen khỏe mạnh, đương chạy nước kiệu để vận động gân cốt.

Hoàng Tử Hà đứng bên tường rào nhìn Lý Thư Bạch, hôm nay y vận một chiếc áo mỏng màu tím nhạt, ánh sáng lưu chuyển làm nổi nền vải dệt đầy hoa văn liên châu(*) xanh sẫm giữa nền trời lam khói, càng toát lên vẻ thanh cao mà xa cách.

(*) Những hình tròn nhỏliên tiếp nhautrong một vòng tròn lớn. Đại khái có thể hình dung như một chuỗi hạt.

Thấy cô đi đến, y liền ghìm cương vung roi trỏ tàu ngựa đằng sau, “Chọn một thớt đi.”

Hoàng Tử Hà nhìn ngó rồi dắt con ngựa trắng lần trước ra, nhảy lên yên. Lần trước khi đến tìm Chu Tử Tần, cô đã cưỡi một con khác, và dắt theo con này. Con ngựa này tính tình ôn hòa, biết nghe lời, phi cũng nhanh, dọc đường vẫn theo sát phía sau cô đến tận phủ họ Chu, không hề chểnh mảng nên cô rất ưng.

Lý Thư Bạch tỏ vẻ tán thưởng mắt nhìn của cô, bèn giới thiệu lúc dẫn cô chạy ra ngoài, “Con ngựa tốt đấy, trước đây ta thường cưỡi, tên là Na Phất Sa.”

“Tên nghe lạ quá.”

“Trong tiếng Đại Uyển, Na Phất Sa nghĩa là tính tình cao quý ôn nhu. Xưa nay nó rất nghe lời, dễ bị người ta tiếp cận thuần phục, bởi thế cũng dễ quên chủ mình là ai.” Lý Thư Bạch cau mày, chừng như nhớ đến vài việc từ thời xửa xưa nào đó, song ngay lập tức lại giơ tay vỗ vỗ vào con ngựa đen vừa rắn rỏi vừa ngạo mạn của mình, “So với nó, con Địch Ác này tốt hơn nhiều.”

“Địch Ác ư?”

“Nghĩa là 'ban ngày', theo tiếng Đại Uyển. Có điều nhìn dáng vẻ nó, gọi là Địch Ác không sát lắm.” Y thúc ngựa chạy lên thềm, ra khỏi cổng phủ đi về hướng Tây, Hoàng Tử Hà cũng chẳng hỏi y định đi đâu, chỉ lẳng lặng chạy cách y nửa thân ngựa.

“Địch Ác rất ương ngạnh, mới đầu ta phải mất ba bốn đêm mới thuần phục được, dằng dai tới tảng sáng ngày thứ năm nó mới chịu phép, khuỵu gối trước mặt ta.” Lý Thư Bạch thản nhiên kể,“Đời này sẽ không còn một ai cưỡi được nó nữa.”

Hoàng Tử Hà quan sát Địch Ác, còn đang ước lượng xem mình có bao nhiêu khả năng cưỡi được thì thấy cặp mắt dưới hàng mi dài của nó liếc qua, rồi nó tung vó đá về phía cô, độc, chuẩn, vững vô cùng, nháy mắt đã trúng bụng Na Phất Sa. Na Phất Sa hí lên đau đớn, chồm chân tới trước khiến Hoàng Tử Hà suýt nữa ngã nhào, cô tức giận giơ chân đạp mạnh về phía Địch Ác.

Địch Ác bị đá trúng cổ, toan nổi giận thì thấy Lý Thư Bạch ghìm cương, nó đành ngoan ngoãn chạy chậm lại, song hơi thở vẫn phì phò phả ra đằng mũi, rõ ràng hết sức ấm ức.

Thấy bộ dạng hậm hực của Địch Ác, Hoàng Tử Hà dùng roi trỏ nó cười phá lên.

Từ khi gặp biến cố, hằng ngày cô vẫn rầu rĩ không vui, đây là lần đầu tiên phá lên cười, khiến Lý Thư Bạch thoáng kinh ngạc, bất giác quay sang chăm chú nhìn cô hồi lâu.

Lúc này đây, dưới ánh mặt trời đầu hạ, gương mặt cô rạng rỡ vô ngần, tựa hồ tất cả nắng trên thế gian đều lấp lánh trên vầng trán trong sáng của cô, chói ngời đến mức khiến người ta lóa mắt.

Y vội quay mặt đi, không dám nhìn cô thêm nữa.

Hoàng Tử Hà không hiểu đầu cua tai nheo gì, tròn xoe mắt nghi hoặc nhìn Lý Thư Bạch. Y khẽ hắng giọng ra lệnh, “Đi, đến Ngạc vương phủ.”
 

Tam Thất

nhân chi sơ, tính bản thiện
Tham gia
13/4/19
Bài viết
1,705
Điểm cảm xúc
1,399
Điểm
113
Ngạc vương Lý Nhuận vẫn tiếp bọn họ trong gian trà thất bài trí tinh xảo quá độ, nghe Lý Thư Bạch nói muốn gặp Trần Niệm Nương, y kinh ngạc thắc mắc, “Vì sao?”

“Có vài chuyện nhỏ muốn hỏi bà ấy.”

Lý Nhuận bất lực đáp, “Thực vô duyên, Trần Niệm Nương đi mất rồi.”

“Gì cơ? Trần Niệm Nương đi rồi?” Hoàng Tử Hà kinh ngạc thốt lên. Lý Thư Bạch liếc cô, đoạn hỏi Lý Nhuận, “Đi khi nào vậy?”

“Hôm qua. Bà ta gói ghém đồ đạc rời khỏi Ngạc vương phủ, không từ mà biệt, chỉ để lại một phong thư, để đệ bảo lấy cho hai người xem.”

Bức thư của Trần Niệm Nương lập tức được đưa tới, nói là thư, thực ra chỉ là một tờ hoa tiên trắng, bên trên viết vỏn vẹn mấy chữ.

Ngạc vương điện hạ chứng cho,

Từ khi được vương gia thu nhận, thường ghi nhớ đại ân đại đức, cả đời khó quên. Có điều hiện giờ tâm nguyện đã hoàn thành, từ nay rời kinh, không ngày gặp lại. Sau này núi cao sông dài, chúc vương gia điện hạ phúc thọ dài lâu, thiên thu vạn tuế.

Trần Niệm Nương khấu đầu.

Nét chữ rất thanh tú, có điều hơi tháu, cảm giác như viết vội. Lý Thư Bạch xem qua một lượt rồi đưa cho Hoàng Tử Hà.

Ánh mắt cô dừng lại trên mấy chữ “tâm nguyện đã hoàn thành”, trầm ngâm hồi lâu mới trao trả Ngạc vương, “Đã vậy về sau chắc cũng rất khó gặp được Niệm Nương. Tiếc rằng tài đàn của tôi chưa tinh, vẫn còn muốn học hỏi thêm ở bà ấy.”

Ngạc vương mỉm cười, “Đâu có sao, nội ngoại giáo phường rất nhiều cầm sư, cũng chẳng thiếu cao nhân. Phải rồi, hôm qua là rằm, lúc đệ theo lệ vào cung thỉnh an thái phi, Trần Niệm Nương có gửi lời nhờ đệ tâu rằng, thái phi thích nhất tỳ bà, năm xưa trong Vân Thiều Uyển ở Dương Châu có một bức họa Vân Thiều Lục Nữ, có người nói bên trong hàm chứa nhiều đạo lý về tỳ bà, nếu thái phi thích, mấy ngày nữa bà ta sẽ đến trình lên cho thái phi thưởng lãm. Có điều hôm nay đệ vào cung tâu lên, thì thái phi chỉ cười nói, một bức họa có gì hay mà xem, rồi từ chối.”

“Khi đệ từ trong cung trở về thì Trần Niệm Nương đã đi rồi ư?” ,

“Vâng, bới thế nếu thái phi thích xem, đệ thực chẳng biết lấy đâu ra bức họa ấy nữa”, Lý Nhuận cười nói. Y quả là tốt tính, mỗi khi cười lên, gương mặt đều rạng rỡ thoải mái, rõ ràng không hề để bụng chuyện Trần Niệm Nương.

Lý Thư Bạch gật đầu nói, “Người đã đi rồi, không tìm được nữa, hôm nay lại để đệ đích thân pha trà, phải thực lòng cảm tạ.”

“Nói gì thế, Tứ ca đến chơi, đệ cầu còn không được nữa là.”

Hai người khách sáo thêm mấy câu rồi Lý Thư Bạch dẫn theo Hoàng Tử Hà ra khỏi cửa.

Mãi tới khi bóng dáng Lý Nhuận đứng ngoài cửa tiễn chân bị bỏ lại xa tít cuối trời, Lý Thư Bạch mới ghìm cương, cùng Hoàng Tử Hà dừng ngựa ở đầu phố hồi lâu.

Cả hai trông thấy trong mắt nhau đủ mọi suy đoán về việc này.

Lý Thư Bạch hỏi, “Hôm qua ngươi nói muốn đi tra xét chỗ nào?”

“Con kênh bên ngoài phường Quang Trạch. Giờ hẵng còn sớm, bên đó chắc sẽ có người ra xách nước, để chiều thì hơn.”

Lý Thư Bạch gật đầu, ngẩng lên trầm ngâm chốc lát rồi quay đầu ngựa chạy về hướng Tây, “Chúng ta đến chợ Tây.”

Hoàng Tử Hà khẽ vung roi phết nhẹ vào mông Na Phất Sa, “Ơ? Lần này lại đi xem ảo thuật ư?”

Y không đáp, chỉ hỏi, “Ngươi cảm thấy nghi vấn lớn nhất và khúc mắc nhất trong vụ án này là gì?”

Hoàng Tử Hà nói ngay, “Vụ án này tuy lằng nhằng rối rắm, song theo tôi thấy, nghi vấn lớn nhất chính là Vương Nhược làm cách nào biến mất ngay giữa điện Ung Thuần vững như thành đồng, giữa vòng vây của hơn hai trăm hộ vệ. Rõ ràng chỉ trong một chớp mắt, vừa bước vào gác Đông đã biến mất được ngay, rốt cuộc là thủ đoạn gì?”

“Đúng thế, sự biến mất của Vương Nhược chính là mấu chốt của vụ án này, nếu phá giải được câu đố ấy, có lẽ vụ này sẽ sáng tỏ.” Lý Thư Bạch thả lỏng cương, mặc cho hai thớt ngựa đi chầm chậm, tiếp tục nói, “Gần đây ta cũng nghĩ tới vấn đề này, cảm thấy có lẽ vì màn ảo thuật chứng kiến ở chợ Tây lần trước ảnh hưởng đến chúng ta quá nhiều, thấy trong lồng có cơ quan làm con chim biến mất, nên chúng ta luôn nghĩ theo hướng trong điện Ung Thuần có cơ quan hoặc đường hầm.”

“Nhưng lối suy luận của con người luôn là thế mà, một người đang sống sờ sờ, trong một căn phòng hầu như không có đồ đạc gì, có mấy chỗ có thể ra vào đây? Bên trên là khung vuông trang trí để treo đèn lồng, đừng nói không có cửa trên mái, mà thậm chí còn chẳng có xà nhà. Bốn bức vách thì hai mặt là tường đất kiên cố, không một khe hở, còn một mặt trổ cửa thông sang đại sảnh. Bấy giờ cửa điện mở toang, chỉ cần có người bước ra thì đừng nói thị vệ canh cổng, ngay đám hoạn quan chầu hầu trong điện cũng sẽ trông thấy. Mặt tường cuối cùng trổ một ô cửa sổ, bên ngoài có thị vệ canh giữ, xác định không có bất cứ ai ra vào. Còn lại bên dưới, đường ngầm hoặc hầm bí mật, chúng ta cũng chưa phát hiện được.”

Lý Thư Bạch kết luận, “Thế mà người cứ khơi khơi biến mất ngay trong gian phòng bốn phương tám hướng đều được vây bọc kỹ càng như lồng chim thế đấy.”

“Phải, sau đó mấy ngày, lại xuất hiện một thi thể không nhận rõ được diện mạo, song không phải người mất tích.”

Trong lúc to nhỏ bàn tán, hai người đã đến chợ Tây.

Cả hai buộc ngựa ở chỗ quản chợ rồi hòa vào dòng người ồn ã, chậm rãi tiến bước.

Chợ Tây vẫn phồn hoa náo nhiệt như thế, hàng hóa ngồn ngộn, kỳ trân dị bảo, rượu quý Lan Lăng, gái Hồ mắt biếc. Phong thái xa hoa do đương kim hoàng thượng khởi xướng đang lan tỏa khắp thành Trường An.

Chủ tiệm bán cá vẫn ngồi đó cho cá ăn, chẳng buồn ngó ngàng đến khách khứa. Lý Thư Bạch mua ít thức ăn cá như lần trước, quay lại thấy Hoàng Tử Hà đang nhìn mình bằng ánh mắt phức tạp, vốn cũng lười giải thích, song ra đến cửa vẫn bảo, “Con cá kia thích ăn loại này, gần đây hình như béo lên.”

Hoàng Tử Hà cảm thấy khóe môi mình hơi giần giật, liền nói, “Chúng ta lại đằng kia xem cặp đôi diễn ảo thuật đi.”

Đôi phu thê nọ quả nhiên vẫn diễn ảo thuật bên đường, lần này là trò biến trứng gà thành gà con, tuy Hoàng Tử Hà thoạt trông đã biết là ngón thay kèo đổi cột, nhưng nhìn đám gà con lông mượt chạy nháo nhác dưới đất, cô vẫn thấy đáng yêu vô vàn, vội giúp họ bắt chúng lại bỏ vào lồng.

Tới khi đám đông tản đi hết, người đàn bà nhoẻn miệng cười với cô, song ánh mắt lại liếc về phía Lý Thư Bạch, “Lần này lại muốn học trò gì ư?”

Hoàng Tử Hà đáp, “Trò biến mất con chim học lần trước vẫn chưa dùng được, không thuần phục được chim, đúng là bó tay! Không biết các vị có trò gì đơn giản dễ làm hơn lần trước không?”

Người đàn bà phì cười, ngoái lại gọi chồng, đem cái lồng kia ra đây, cả miếng vải nữa, đúng rồi, miếng vải đen ấy.”

Nói đoạn thị giũ giũ tấm vải, nhằm chứng tỏ đây là một tấm vải đen không giấu gì cả, sau đó đem phủ lên chiếc lồng trống không, ngẩng lên nhìn Hoàng Tử Hà, không cử động, cũng không trò chuyện, chỉ cười cười.

Hoàng Tử Hà biết đây là mánh khóe trong nghề, đương nhiên không dễ gì truyền thụ cho mình, bèn chìa tay về phía Lý Thư Bạch - đừng phí lời, tiền lương tháng này của hoạn quan hạng bét vẫn chưa được phát đâu.

Hoàng Tử Hà vừa đưa mắt Lý Thư Bạch đã hiếu ý ngay, tiện tay rút trong túi ra một nén bạc nhỏ đưa cho cô.

Người đàn bà vừa nhận tiền đã rạng rỡ mặt mày, tay phải tóm lấy một con gà con đưa lại gần chiếc lồng chim phủ vải đen, tay trái khẽ kéo tấm vải đen ra, trước ánh mắt chăm chú của Hoàng Tử Hà và Lý Thư Bạch, thị nhét con gà con vàng óng vào. Đoạn xòe bàn tay như gảy tỳ bà, rút ra khỏi lồng, tỏ ý hai tay tôi đều trống không cả.

Sau lưng thị, tấm vải đen hơi máy động, xem ra con gà đã chui vào lồng chim rồi.

Người đàn bà cười với họ, rồi kéo soạt tấm vải đen phủ bên ngoài ra, chỉ thấy trong lồng trống không.

Hoàng Tử Hà vô thức xách cái lồng lên xem xét kỹ càng, song bên trong không có gì cả, hơn nữa chiếc lồng này chế tác rất thô sơ, có cơ quan cũng chẳng biết cài vào đâu.

Người đàn bà cười nói, “Cái lồng này không hề xử lý gì cả, con gà kia cũng mới nở trong trứng ra, chưa được huấn luyện. Hơn nữa, mánh khóe này rất giản đơn, bất kể là ai, chỉ cần biết bí mật bên trong thì đều học được cả.”

Hoàng Tử Hà và Lý Thư Bạch nhìn nhau, ánh mắt đồng thời xoáy vào miếng vải trong tay người đàn bà. Bên trong tấm vải đen, một thứ gì đó đang động đậy.

Người đàn bà diễn trò cười cười, giũ tấm vải ra, chỉ thấy mặt trong tấm vải có một túi nhỏ, con gà vàng óng kia đang thò đầu ra từ miệng túi, ngơ ngác nhìn bọn họ đầy vẻ vô tội.

Hóa ra chỉ là một mánh khóe đơn giản như thế, Hoàng Tử Hà không khỏi phì cười, lẩm bẩm, “Ra là vậy…”

Chưa dứt lời, trong đầu cô đã lướt qua vô số cảnh tượng…

Lời tiên đoán của gã đàn ông thình lình xuất hiện tại chùa Tiên Du; tên thích khách không thấy tăm tích ở gác Bồng Lai; cây trâm sương lá rơi dưới ngọn giả sơn; điện Ung Thuần được tầng tầng lớp lớp hộ vệ canh giữ... Tất cả đều được một sợi dây vô hình xâu lại, quanh co ngoắt ngoéo, dồn dập ập đến trong đầu cô.

Cảm giác thấu tỏ thông suốt làm Hoàng Tử Hà chấn động, cứ thuỗn cả người ra.

Thấy vậy, Lý Thư Bạch liền giơ tay vỗ nhẹ vai cô nào ngờ cô không mảy may phản ứng. Y đành kéo tay cô, quay người đi thẳng.

Bàn tay cô nhỏ nhắn mà mềm mại, hệt như con chim câu nho nhỏ ngoan ngoãn nằm trong tay y.

Bỗng nhiên, y thấy lòng bàn tay mình hơi rịn mồ hôi.

Hoàng Tử Hà đờ đẫn theo Lý Thư Bạch đi đến dưới một gốc du mới thở ra, câu đầu tiên là, “Tôi phải đi tìm Chu Tử Tần.”

Lý Thư Bạch chậm rãi buông tay cô, cau mày hỏi, “Ngươi nghĩ ra cái gì?”

“Tôi muốn kiểm chứng suy luận của mình, nên cần Chu Tử Tần giúp đỡ.” Cô đáp, đoạn ngẩng lên nhìn y, “Vương gia muốn về phủ trước ư?”

Lý Thư Bạch hừ một tiếng trước thái độ qua cầu rút ván của cô, chỉ nhả hai chữ, “Không về.”

“Vậy vương gia có muốn cùng tôi đi tìm Chu Tử Tần không?”

Vẻ mặt lạnh nhạt, Lý Thư Bạch quay ngoắt người đi tìm ngựa của mình, “Dù sao cũng rảnh, đi thì đi”

Tên gác cửa Chu phủ vừa thấy bọn họ liền tươi cười chào hỏi, “Dương công công đến đấy ư? Còn vị này là...”

Hắn chỉ cười cười gật đầu chào Lý Thư Bạch. Lý Thư Bạch vẫn ngồi nguyên trên ngựa không xuống, bảo Hoàng Tử Hà, “Ngươi vào đi, ta ở bên ngoài đợi.”

Hoàng Tử Hà liền tung người xuống ngựa, tiện tay buộc vào cột đá bên cửa. Tên gác cửa niềm nở mời, “Thiếu gia đã dặn, về sau công công đến cứ vào thẳng nhà, nào, để tiểu nhân dẫn đường cho.”

Hoàng Tử Hà cảm tạ rồi đi theo hắn. Thẳng một mạch đến tận góc gần hoa viên thì thấy một mảnh sân bò đầy sắn dây.

Cổng vào sân mở toang, hai tên hầu đang ngồi dưới giàn nho chơi bắt dây, loáng thoáng nghe thấy tiếng Chu Tử Tần gọi, “Ta bảo... A Bút A Nghiễn, các ngươi lại đây đỡ giúp ta một chút được không?”

“Thiếu gia, không phải chúng tôi không muốn giúp, mà tại thứ đó trông ghê quá, chúng tôi không dám động vào!” Hai tên hầu chẳng buồn ngẩng lên, cứ chăm chú vào sợi dây đỏ trên tay.

Tiếng quát tháo của Chu Tử Tần vang ra tận ngoài cửa, Hoàng Tử Hà cũng nghe rõ mồn một, “Hai đứa láo toét, cứ chúi vào chơi cái trò đàn bà ấy, không chịu tới giúp thiếu gia đây... ôi da, xương cốt ta gãy hết cả rồi…”

Dường như đã quen với cảnh này, tên gác cổng điềm nhiên cười với Hoàng Tử Hà rồi chuồn thẳng. Hoàng Tử Hà xăm xăm bước vào sân, gọi với vào bên trong, “Chu Tử Tần mau ra đây, có việc gấp!”

Giọng Chu Tử Tần từ trong phòng truyền ra, mừng rỡ như được đại xá, “Sùng Cổ, cứu ta với! Mau lên… cấp cứu cấp cứu! Mau tới giúp ta một tay!”

Hoàng Tử Hà liếc hai tên hầu vẫn thản nhiên chơi bắt dây, rồi bước vào căn phòng nơi phát ra tiếng gọi, thấy Chu Tử Tần đang bị hai người bằng đồng một nam một nữ ép vào giữa, đau đớn nằm bò dưới đất, song hai tay vẫn ôm chặt một chiếc đầu lâu không chịu buông.

Cô chẳng hiểu là chuyện gì, đành bước vào kéo hai người đồng hình thù kỳ quái sang một bên. Người đồng tương đối đặc ruột nên rất nặng, làm cô mệt phờ phải ngồi xuống nghỉ một lát.

Hôm nay Chu Tử Tần mặc một bộ áo gấm Thục nền xanh biếc thêu hoa thược dược màu tím khói, phối với thắt lưng đỏ thắm, dù đang nằm bò dưới nền đất bụi bặm cũng rực rỡ chói cả mắt. Gã lồm cồm bò dậy, vuốt ve chiếc đầu lâu mừng rỡ nói, “May mà chưa hỏng, bằng không ta xót chết mất. Đây là cái sọ hoàn chỉnh của một người trẻ tuổi ta phải bỏ hai mươi lạng mới nhờ người tìm được đấy, công công xem đường cong hoàn mỹ đầy đặn, hàm răng đều tăm tắp trắng bóc, hốc mắt sâu hoắm...”

Hoàng Tử Hà không nhịn được ngắt lời, “Sao công tử lại thành ra thế này?”

Chu Tử Tần xót xa vuốt ve chiếc đầu lâu trong lòng, đáp, “Lúc cầm cái đầu lâu lên, ta trượt chân ngã, hai người đồng bị chấn động cũng đổ sập xuống. Để bảo vệ cái đầu lâu bảo bối, ta đành dũng cảm quên mình lao tới cứu lấy nó, may mà hồi trước không bảo người ta làm đặc ruột, bằng không chẳng phải hôm nay đã bỏ mạng dưới chúng rồi!”

Hoàng Tử Hà nhìn chiếc đầu lâu hoàn mỹ trắng toát trong lòng Chu Tử Tần, càng thấu hiểu sâu sắc vì sao công tử nhà thị lang dung mạo tuấn tú thân hình khỏe mạnh tính tình cởi mở này đến giờ vẫn chưa định việc hôn nhân - có cô gái nào muốn tranh giành vòng tay lang quân với một chiếc đầu lâu kia chứ. Có lẽ đây cũng là nguyên nhân khiến gã bị quăng vào một xó hẻo lánh nhất trong nhà.

“À phải, Sùng Cổ tìm ta có việc gì thế?”

“Công tử còn nhớ mấy tên ăn mày chết bởi nhựa cây độc tiễn không?”

Chu Tử Tần tức thì ôm chiếc đầu lâu nhảy dựng lên “Đương nhiên rồi! Ta... làm sao quên được chứ! Ta nhất định phải tra ra nguyên nhân cái chết của bọn họ!”

“Tôi đã có vài manh mối, nếu công tử muốn biết thì giúp tôi một việc này đi.” Hoàng Tử Hà bảo gã đặt chiếc đầu lâu xuống rồi đứng dậy ra ngoài, “Nhớ thay một bộ áo vải thô gọn gàng vào, càng cũ nát rách rưới càng tốt, đừng mặc cái áo xanh đỏ lòe loẹt này!”

Chu Tử Tần lấy một thớt ngựa trong phủ, rồi ba người thúc ngựa chạy thẳng về phía Đông Bắc thànhTrường An.

Mới đi được mấy bước, Chu Tử Tần đã kéo cương ngựa chạy đến gần Hoàng Tử Hà, “Sùng Cổ, có phải đã tra rõ được cái chết của mấy người ăn mày kia rồi không?”

“Ừ, đã có manh mối rồi. Chỉ cần đợi một người xuất hiện là đủ.” Hoàng Tử Hà gật đầu quả quyết.

“Đợi một người à? Ai thế?” Chu Tử Tần vội hỏi, “Có phải là người rất quan trọng không?”

Hoàng Tử Hà khẽ gật đầu, “Nếu suy đoán của tôi không sai, chỉ cần người đó đên đây thì vụ án làm khó chúng ta bao ngày nay về cơ bản sẽ phá giải được.”

“Là người nào mà có vai trò quan trọng thế?” Chu Tử Tần kinh ngạc nhìn cô.

Hoàng Tử Hà chỉ cười cười đáp, “Thực ra mới là suy nghĩ ban đầu của tôi thôi, còn chưa thấy người đâu mà.”

Chu Tử Tần nghi hoặc nhìn cô, Hoàng Tử Hà cũng không nói thêm nữa, mặc cho Chu Tử Tần tự suy đoán. Địch Ác tính tình nóng nảy, luôn giành chạy đầu tiên, Na Phất Sa theo sát phía sau, còn con ngựa của Chu Tử Tần đành ngoan ngoãn đi sau cùng.

Ba thớt ngựa nối đuôi nhau men theo đường phố Trường An mà đi. Chu Tử Tần đột nhiên vỗ đầu la toáng lên từ phía sau, “Ta biết rồi! Ta biết người sắp đến mà công công nói là ai rồi!”

Hoàng Tử Hà kinh ngạc ngoảnh lại nhìn gã, chỉ thấy Chu Tử Tần một tay ghìm cương ngựa, tay kia vẫy vẫy liên hồi, mắt sáng rực nhìn cô, đầy vẻ hào hứng, “Có phải là một thiếu nữ không?”

Hoàng Tử Hà thoáng ngạc nhiên, “Đúng thế.”

“Thiếu nữ mười sáu mười bảy?”

“Phải.”

“Một thiếu nữ mười sáu mười bảy vô cùng xinh đẹp!”

“Hẳn là... rất đẹp.” Điểm này Hoàng Tử Hà cũng không chắc chắn lắm.

“Quả nhiên ta đoán trúng rồi!” Chu Tử Tần mừng rỡ tóm chặt lấy tay áo cô hỏi, “Vậy, khi nào thì Hoàng Tử Hà đến?”

“…Hả?” Cô ngạc nhiên nhìn gã, nói không nên lời.

“Là công công nói đó, một thiếu nữ xinh đẹp mười sáu mười bảy tuổi, hễ đến đây sẽ làm sáng tỏ được vụ án này, ngoại trừ Hoàng Tử Hà còn có thể là ai chứ?”

Lý Thư Bạch cưỡi ngựa đi phía trước, không hề ngoái đầu, song Hoàng Tử Hà vẫn thấy hai vai y rung rung, như thể đang gắng nén nhịn để khỏi phá lên cười.

Cô câm nín, chí biết ngẩng đầu nhìn trời.

Thực không dám tưởng tượng khi Chu Tử Tần biết trước mặt chính là Hoàng Tử Hà, liệu có đánh rơi tròng mắt hay không nữa.

Khi đến gần cung Thái Cực, họ bèn bỏ ngựa xuống đi bộ, tìm đến một con hẻm vắng vẻ.

Chu Tử Tần ngoái lại nhìn ba thớt ngựa phía sau, hỏi, “Ngựa của chúng ta sẽ không sao chứ?”

Lý Thư Bạch vẫn xăm xăm đi tới, tiện miệng đáp, “Có Địch Ác ở đó, kẻ nào muốn trộm ngựa, trước hết phải chuẩn bị tinh thần bỏ lại một chân.”

Hoàng Tử Hà và Chu Tử Tần nhìn nhau, đều thấy khóe môi người kia hơi giần giật.

Hoàng Tử Hà dẫn hai người kia đến phường Quang Trạch, nơi có ngoại giáo phường rồi dừng lại.

Chu Tử Tần vừa kéo kéo bộ đồ đang mặc (vốn mượn của tên làm vườn), vừa theo Hoàng Tử Hà đi dọc bờ kênh, nghi hoặc hỏi, “Sùng Cổ... nơi này hình như hơi xa chỗ mấy tên ăn mày kia chết thì phải...”

“Công tử đừng làm người ta chú ý, nhìn kia kìa.” Phường Quang Trạch nằm bên ngoài cửa Phượng Hoàng của cung Thái Cực, Hoàng Tử Hà đứng từ xa nhìn về phía lối ra vào giữa cung thành và ngoại giáo phường, tính toán lộ trình ngắn nhất rồi lại vòng sang một chỗ cây cỏ um tùm không ai để ý ngay cạnh đó, quan sát dấu tích xê dịch mấy hòn đá xung quanh, đoạn chỉ dòng nước chảy qua bảo Chu Tử Tần, “Nhảy xuống đi.”

Chu Tử Tần trợn tròn mắt, “Sùng Cổ à, một là hiện giờ còn chưa đến mùa đi bơi, hai là ta không giỏi bơi cho lắm…”

“Không cần giỏi, nước ở đây không sâu đâu, công tử chỉ cần xuống đó mò lấy một thứ lên là được.”

Lý Thư Bạch ngẩng đầu thưởng ngoạn phong cảnh xung quanh, cứ như không nghe thấy cuộc đối thoại của hai người.

Chu Tử Tần lại hỏi, “Sùng Cổ làm rơi thứ gì xuống thế? Để ta gọi người đến vớt lên cho.”

Hoàng Tử Hà ngắt lời gã, “Tôi muốn tìm một vật chứng, có liên quan tới cái chết của mấy tên ăn mày kia.”

Cô chưa dứt lời, Chu Tử Tần đã bắt đầu cởi quần áo.

Lần này đến lượt Hoàng Tử Hà ngẩng đầu ngắm trời, Lý Thư Bạch đứng bên điềm nhiên nói, “Đã bảo ngươi mặc quần áo rách nát rồi, ngươi còn cởi làm gì?”

“Ô, đúng nhỉ...” Chu Tử Tần lại khoác mớ giẻ rách lên người, “Vương gia, Sùng Cổ, nếu lần sau phải xuống nước, xin hai vị cứ nói trước, tôi sẽ đi nhờ kẻ nào giỏi lặn.”

“Đừng nói nhảm nữa, việc này nhất định phải giữ kín, không thể để người ta biết được.” Hoàng Tử Hà duỗi hai tay ra áng chừng độ dài một cây tỳ bà, “Chắc là một vật bằng chừng này, có lẽ sẽ được bọc kín, dù sao cũng lớn chứ không nhỏ đâu, công tử tìm thử xem.”

“Được.” Nói đoạn Chu Tử Tần nhảy ùm xuống nước, ngụp đầu lặn tìm.

Lý Thư Bạch đứng trên bờ ngước mắt nhìn trời cao mây trắng cùng những cây du cây hòe xanh um, cảm khái “Sắc trời bóng mây, khói xanh tan hết, cảnh sắc đẹp thực.”

Hoàng Tử Hà tìm một phiến đá tương đối bằng phẳng bên bờ ngồi xuống, cảm thấy giọng điệu vừa đe nẹt vừa dụ dỗ của mình với Chu Tử Tần ban nãy càng lúc càng giống Lý Thư Bạch, Iòng không khỏi dâng lên một niềm thương cảm.

Chẳng bao lâu sau, Chu Tử Tần từ đáy nước ngoi lên thở hồng hộc nói “Con kênh này sâu quá, nước lại bẩn nữa, bên dưới toàn là bùn lầy với cỏ nước, mò tìm khó lắm. Hay để ta gọi mấy người đến soát kỹ cả vùng nước quanh đây xem?”

“Không được.” Hoàng Tử Hà ngồi xổm trên bờ, nghiêm túc đáp, “Chẳng phải đã nói từ đầu rồi ư, để khỏi đánh rắn động cỏ, chuyện này chỉ hai người chúng ta từ từ tìm thôi.”

Chu Tử Tần nhăn nhó vịn hai tay vào bờ, ngẩng lên nhìn cô, “Nhưng con kênh này dài như vậy, bảo một mình ta lặn ngụp mò tìm một thứ còn chưa biết là thứ gì thì khác nào mò kim đáy biển.”

“Đừng lo, dựa theo lộ trình, phương hướng và nơi cất giấu thì chỗ này hẳn là lựa chọn hàng đầu của hung thủ, tôi cảm thấy chắc chắn nó sẽ ở đây.”

“... Chỗ này rõ ràng cách sông Khúc Giang nơi đám ăn mày chết rất xa, có bắc tám cây sào cũng không với tới...” Chu Tử Tần còn đương càu nhàu thì Hoàng Tử Hà đã vươn tay phải ra ấn đầu gã xuống, làm Chu Tử Tần ngụp đầu xuống nước, những lời định nói đều hóa thành một chuỗi bọt nước ùng ục, chìm vào dòng kênh.

Chu Tử Tần đập tay đập chân lặn xuống chốc lát, lại nhớn nhác trồi lên, “Dương Sùng Cổ tên khốn này, chẳng dặn dò người ta câu nào cả, chân ta bị rong rêu quấn vào mất rồi!”

“Hả? Không thể nào?” Hoàng Tử Hà cũng cuống cả lên, “Xin lỗi xin lỗi, công tử đưa tay đây, tôi kéo lên.”

“Quấn chặt lắm, nặng chết ta mất…”Chu Tử Tần vừa nói vừa ra sức đập chân, Hoàng Tử Hà tóm lấy tay gã kéo lên, hai người một kéo một leo, hồi lâu Chu Tử Tần mới giằng ra khỏi vật nặng vướng vào chân, bò được lên bờ.

Cả hai đều mệt lử, ngồi bệt xuống đất thở hổn hển.

“Rong rêu gì mà chắc thế? Công tử cao lớn vậy mà suýt nữa bị kéo xuống rồi.”

“Đừng nhắc đến nữa, nặng chết mất, cứ quấn lấy chân ta như vải ấy. Bấy giờ ta nhìn xuống nước chỉ thấy một bóng đen to thế này này...” Chu Tử Tần giơ tay làm tư thế một vòng ôm, “Không gỡ ra được...”

Hoàng Tử Hà nhìn độ lớn mà gã miêu tả, lại ngẫm nghĩ áng chừng độ lớn vừa nãy mình miêu tả.

Chu Tử Tần tức thì ngây ra.

Hoàng Tử Hà nhìn gã, gã nhìn Hoàng Tử Hà, hai người nhìn nhau hồi lâu, Chu Tử Tần mới đứng phắt dậy nhảy ùm xuống nước, ngụp đầu lặn xuống.

Hoàng Tử Hà đang chuẩn bị đón lấy thứ gã mò vớt được thì Chu Tử Tần đột ngột ngoi lên la lớn, “Mau! Mau lên! Có phát hiện lớn!”

“Phát hiện gì thế?” Hoàng Tử Hà nhìn Lý Thư Bạch, thầm tính xem có bao nhiêu khả năng y chịu xuống nước giúp một tay.

Vừa nãy nước đục quá nên ta chỉ lờ mờ thấy một cái bóng, giờ cặn bẩn lắng xuống cả, ta mới thấy rõ! Không chỉ một cái bọc đâu! Còn có một cái xác!”

Lời vừa dứt, Lý Thư Bạch cũng kinh ngạc hỏi, “Cái xác ư?”

“Đúng thế, hơn nữa lại là xác không đầu, tôi nhìn rõ mồn một, không sai đâu!”

Thứ quấn lấy chân Chu Tử Tần quả nhiên là một cái bọc. Bên trong có một cây tỳ bà, hai bộ quần áo, một hộp trang sức và một tảng đá lớn.

Đồng thời cũng kéo được từ dưới nước lên một xác nữ không đầu, bị buộc vào một tảng đá khác. Chu Tử Tần cắt dây buộc tảng đá, kéo cái xác lên bờ.

“Mệt chết đi được.” Gã bò lên nằm vật ra vạt cỏ bên bờ thở hồng hộc.

“Tảng đá cũng không nặng lắm, sao mấy thứ này lại chìm xuống được nhỉ?” Hai người kia không buồn bận tâm đến gã, đã ngồi thụp xuống cạnh thi thể xem xét.

Cái xác bị ngâm trong nước không lâu, da dẻ đã trắng nhợt song còn chưa trương phềnh. Mình vận một chiếc váy lụa mềm mại đẹp đẽ, vòng eo thon thả và tay chân mảnh mai cho thấy đây là một thiếu nữ trẻ trung yểu điệu.

“Tử Tần, ngươi khá am hiểu về thi thể, phân tích cái xác này xem.” Lý Thư Bạch quay sang bảo Chu Tử Tần.

Chu Tử Tần nằm dài dưới đất, tiếc rẻ nói, “Sớm biết có thi thể thì hai vị phải nói trước chứ, tôi không đem theo dụng cụ.”

Hoàng Tử Hà vội giải thích, “Tôi cũng đâu có biết, cứ tưởng chỉ có cái bọc thôi.”

Chu Tử Tần thở dốc bò dậy đến gần thi thể, kiểm tra sơ qua một lượt.

“Người chết là nữ, còn trẻ, cao chừng năm thước ba tấc, thân hình... rất đẹp, trong số các thi thể tôi từng khám nghiệm, cô ấy có thể xếp vào hạng nhất. Số đo hoàn hảo, thêm một phân thì quá dài, bớt một phân thì quá ngắn…”

“Nói vào việc chính đi.” Lý Thư Bạch ngắt lời gã.

“Được thôi, cô ấy bị chặt đầu trước khi ném xuống kênh. Hiện trường vụ án chắc hẳn cách đây không xa, hung thủ tay lão luyện giàu kinh nghiệm. Xem này, vết cắt trên cổ bằng chằn chặn, gọn ghẽ sắc ngọt, tôi nghĩ muốn tìm hiện trường vụ án này hẳn là rất khó. Một kẻ nhiều kinh nghiệm như vậy hẳn sẽ xóa sạch toàn bộ dấu tích, huống hồ gần đây đều là cây bụi cỏ hoang.”

“Ừm… xác nữ không đầu, muốn tìm hiểu lai lịch cũng khó lắm.” Hoàng Tử Hà vừa nói vừa cầm cây tỳ bà trong bọc lên xem. Dây đàn đã đứt cả, có điều đóa mẫu đơn khảm xà cừ bên trên vẫn còn nguyên vẹn, tươi rói dưới ánh dương.

Chính là Thu lộ hành sương, cây tỳ bà bất ly thân của Cẩm Nô, do sư phụ Mai Vãn Trí tặng.

Trong hộp trang sức có khá nhiều châu báu nữ trang, chế tác vô cùng tinh xảo. “Rõ ràng là đồ của Cẩm Nô.” Hoàng Tử Hà chăm chú nhìn đóa hải đường kết bằng sa mà Cẩm Nô cài bên mai trong lần gặp đầu tiên, sau đó đậy hộp trang sức lại, lật xem hai bộ đồ ướt sũng kia.

“Là Cẩm Nô ư? Nếu vậy thì rất có khả năng.” Chu Tử Tần trầm ngâm hỏi, “Có khi nào cô ấy bị người ta lừa đi theo, nhưng khi đến chỗ hẹn thì kẻ đó lại ra tay sát hại, lần lượt buộc đá vào thi thể và tay nải rồi ném xuống kênh không?”

“Theo tôi thấy hình như không phải. Những thứ này hẳn không phải Cẩm Nô tự thu vén.” Hoàng Tử Hà nhặt lấy mấy bộ đồ, nhận xét, “Tuy chọn toàn quần áo đẹp nhất, song chỉ có áo ngoài, không có áo trong. Một cô gái muốn ra ngoài, lẽ nào chỉ mặc áo ngoài hay sao?”

“Có lý lắm...”

“Bởi thế hung thủ tiện tay nhặt lấy mấy bộ đồ hòng ngụy trang thành Cẩm Nô bỏ trốn.”

“Vậy còn cái xác?”

“Cẩm Nô cao chừng năm thước rưỡi, công tử nói cái xác này chỉ có năm thước ba, đương nhiên không phải Cẩm Nô rồi.”

Chu Tử Tần vẫn còn mù mờ, “Nhưng sao có thể trùng hợp như vậy, tại sao tự nhiên nó lại xuất hiện ở đây?”

Hoàng Tử Hà liếc gã, “Công tử nghĩ tại sao?”

Chu Tử Tần nhìn cô, rồi lại nhìn sang Lý Thư Bạch, chợt à lên một tiếng, “Là hung thủ cố ý đem tới giả làm Cẩm Nô?”

“Ừ, Cẩm Nô thực sự...” Hoàng Tử Hà điềm tĩnh nói, “Hiện giờ hẳn đang nằm trong quan tài của Vương Nhược rồi.”

Chu Tử Tần giật nảy mình, “Cái gì, cái gì cơ? Ý công công là...”

“Đúng vậy, có kẻ đã dùng thi thể Cẩm Nô giả mạo thành Vương Nhược, hòng mượn sự xuất hiện của cái xác đó khép lại vụ án vương phi mất tích.”

“Thật đáng ghê tởm!” Chu Tử Tần trợn trừng mắt, “Nhưng sao hung thủ lại chọn Cẩm Nô, còn hãm hại cô ấy chết thảm như thế?”

“Vì vóc dáng đôi bên tương tự nhau, dù sao Vương Nhược cũng rất cao, con gái bình thường đều thấp hơn cô ấy nửa cái đầu, ví như thi thể này vậy, tuy mất đầu, song chúng ta vẫn có thể ước lượng chiều cao của cô ấy. Thi thể một nhạc công dù sao cũng không quan trọng như thi thể vương phi, quan phủ sẽ không để ý chuyện này, hơn nữa ngâm lâu trong nước ắt sẽ trương phềnh lên, chỉ cần phát hiện chậm mấy ngày thì sẽ rất khó đoán đưọc chiều cao” Hoàng Tử Hà giải thích, đọan gói cây tỳ bà và các vật dụng lại, đưa cho Chu Tử Tần cầm, “Vật chứng trước hết cứ gửi lại chỗ công tử đi, bên tôi nhiều người lắm tai mắt, không tiện.”

“Ừ, được thôi.” Chu Tử Tần chẳng ngại nước bùn vẫn rỏ tong tỏng, ôm lấy bao vải hỏi, “Còn cái xác này?”

Hoàng Tử Hà ho khan một tiếng, “Hay là… công tử xem có mang về bên nhà được không?”

“Công công thấy có được không?” Chu Tử Tần hỏi.

Lý Thư Bạch đành giải quyết, “Báo ngay cho Thôi Thuần Trạm, cứ nói ngươi phát hiện một cái xác nữ không đầu và một tay nải. Về sau Đại Lý Tự phán đoán thân phận cái xác thế nào, ngươi đừng có can thiệp. Còn nữa, nhớ bọc kỹ tất cả vật chứng, nếu sáng mai chúng ta gọi, ngươi phải lập tức đem tới đấy.”

“Được rồi.” Nói đoạn Chu Tử Tần nhăn mặt nhờ Hoàng Tử Hà đi báo cho Thôi Thuần Trạm, mình ở lại trông tay nải và cái xác.

Hoàng Tử Hà và Lý Thư Bạch chui ra khỏi bụi cây ven bờ, men theo con đường vắng đi đến gần thôn xóm, trông thấy vài người đang ngồi dưới bóng cây bên đường tán gẫu.

Hoàng Tử Hà bèn trỏ về phía bờ kênh la lên, “Bên kia vừa vớt được xác người kìa!”

Tức thì mấy người vô công rỗi nghề nọ nhao nhao bật dậy, kẻ chạy đến xem náo nhiệt, kẻ đi gọi người, kẻ hò hét đòi báo quan, loạn hết cả lên.

Hoàng Tử Hà và Lý Thư Bạch đi đến giữa con hẻm vắng, thấy Địch Ác và Na Phất Sa đang nhàn nhã gặm cỏ. Thực ra ngựa bị đóng hàm thiếc rất đáng thương, chẳng gặm được mấy cọng cỏ, song hai con ngựa vẫn nhằn đi nhằn lại dăm cọng cỏ dại trong góc tường.

Hai người nhảy lên yên, bấy giờ Hoàng Tử Hà mới phát hiện ra Lý Thư Bạch chỉ khoanh tay đứng nhìn mà quần áo cũng dính phải một vệt bùn một vệt nước, trông loang loang lổ lổ. Có điều cả hai chẳng ai để tâm, chỉ mải cưỡi ngựa thong thả vừa đi vừa rời rạc chuyện trò.

Hoàng Tử Hà hỏi, “Cảnh Húc đã gửi tin từ Từ Châu về chưa?”

“Gửi rồi, đầu mũi tên đó biến mất đúng vào lúc dư đảng của Bàng Huân hoành hành tại vùng phụ cận Từ Châu.”

“Nghe nói khi đầu mũi tên biến mất, chiếc hộp pha lê đựng nó vẫn còn nguyên khóa, chỉ hiềm vật bên trong đã không cánh mà bay, có thực không?”

“Thực đấy. Sau khi đến Từ Châu, Cảnh Húc đã tra kỹ một lượt, thẩm vấn tất cả binh lính canh giữ thành lâu khi ấy, phát hiện dư đảng Bàng Huân mua chuộc đám thủ vệ, tay giữ hòm tay phá khóa, ngụy trang thành chuyện quỷ thần.”

Hoàng Tử Hà trầm ngâm, “Chuyện xảy ra ở tít Từ Châu, trong nháy mắt đã lan truyền khắp kinh thành, hơn nữa còn được thêm mắm giặm muối thành chuyện quỷ thần, xem ra đằng sau nhất định có người thao túng, lại cố ý chằng chuyện Bàng Huân vào, hòng che giấu dụng tâm thực sự của mình.”

Lý Thư Bạch thản nhiên nói, “Nhưng y không biết như vậy chỉ tổ giấu đầu hở đuôi, khéo quá hóa vụng.”

“Đúng vậy, xem ra lại có thể kiểm chứng thêm một suy đoán nữa rồi.”

Hai người vừa nói vừa cưỡi ngựa diễu qua khắp các phường trong thành Trường An.

Dưới bầu trời xanh ngắt, bảy mươi hai phường trong thành Trường An thảy đều ngay ngắn, sừng sững giữa gió bụi. Nắng đầu hạ đã hơi nóng nực, rọi sáng mồ hôi lấm tấm trên cổ Hoàng Tử Hà, bấy giờ đương vận một chiếc áo kép. Cô bèn giơ ống tay lau đi, vừa lững thững tiến về phía bóng hòe bên đường, vừa trầm tư nghĩ tới vụ án.

Lý Thư Bạch chìa cho cô một chiếc khăn tay trắng gấp tư, cô nhận lấy lau qua một lượt mới định thần lại, quay sang nhìn y.

Dưới bóng hòe, gương mặt y như phủ một vầng sáng nhàn nhạt. Nắng tháng Năm lọc qua kẽ lá rồi chảy xuống như tơ vàng, lung linh biến ảo. Giữa quầng sáng mờ áo lung linh ấy, cô trông thấy nét mặt y, ngoài vẻ lạnh nhạt thường ngày còn phảng phất một nét gì khác lạ, thời gian giữa hai người như trôi chậm lại.

Hoàng Tử Hà cúi đầu, lặng lẽ thả nước kiệu song song với y. Đến gần phường Vĩnh Gia, cô đột nhiên lại quay đầu ngựa, thúc Na Phất Sa chạy thẳng về phía Bắc.

Lý Thư Bạch đuổi theo cô, “Đến điện Ung Thuần?”

“Phải, chờ tôi xác nhận lại chi tiết cuối cùng thì vụ án này có thể làm sáng tỏ.”

“Đã tra rõ tất cả rồi ư?” Y thoáng kinh ngạc. Tán hòe đã thưa dần, bóng râm cũng lùi lại phía sau, ánh nắng chan hòa trên mình họ. Lý Thư Bạch nhìn sang, thấy Hoàng Tử Hà như ngập trong hào quang rạng rỡ, không phải hào quang sinh ra từ hoàng hôn đang buông, mà sinh ra từ trong chính con người cô.

Y thoáng ngẩn ngơ, cứ đăm đăm nhìn Hoàng Tử Hà không rời mắt. Chỉ thấy cô chạy thẳng vào cửa điện, băng qua đại sảnh, men theo con đường lát gạch xanh, ngồi xuống một nơi trước nội điện, trỏ một hòn giả sơn, “Tôi nhặt được cây trâm sương lá của Vương Nhược ở đây.”

Lý Thư Bạch chậm rãi gật đầu. Lại thấy cô giơ tay gữử cây trâm bạc trên đầu, ấn vào chiếc lá cuốn, rút ra cây trâm ngọc bên trong, vạch một đường trắng mờ nhàn nhạt lên nền gạch.

“Đại sảnh này, nội điện này, ở giữa là giả sơn. Nơi đây…” Cây trâm của cô vẽ một vòng tròn quanh hòn giả sơn, khoanh lấy điểm cao nhất, “Chính là chỗ cây trâm Vương Nhược bị rơi.”

Lý Thư Bạch trỏ dãy hành lang ở đại sảnh, “Đây là chỗ chúng ta đứng.”

“Đúng thế, trên hành lang đại sảnh, cứ mười bước lại có một người, không rời mắt khỏi cửa nội điện. Dưới cửa sổ đều có thị vệ canh chừng, mắt không rời khung cửa.” Cô ngắt một chiếc lá cạnh đó, lau sạch cây trâm trong tay rồi khéo léo cắm trở vào cây trâm bạc, ngẩng đầu nhìn Lý Thư Bạch, cong môi lên, nở nụ cười trong sáng, “Án này đã kết thúc rồi.”

Lý Thư Bạch lặng thinh đứng dậy nhìn quanh. Hoàng hôn bắt đầu trùm xuống nơi này, bóng chiều sắp nuốt trọn ánh ngày.

Hai người bước ra khỏi điện Ung Thuần, lên ngựa theo cửa ngách rời khỏi cung Đại Minh. Gần đến Quỳ vương phủ, Lý Thư Bạch mới đột ngột hỏi, “Nói vậy là đã có thể khẳng định cái xác trong điện Ung Thuần là Cẩm Nô rồi ư?”

Giọng cô nhẹ tênh, “Vâng, đã xác định được rồi.”

“Thế còn cái xác mới xuất hiện?”

“Tôi cũng đã đại khái suy luận xong.” Cô quay sang nhìn y, vẻ như đã dự liệu trước, “Căn nguyên của tất cả những chuyện này, đều từ hai thiếu nữ vương gia cứu được ở Từ Châu ba năm về trước.”

Lý Thư Bạch ghìm cương cho Địch Ác dừng lại, chẳng nói chẳng rằng, nghĩ ngợi hồi lâu giữa khí trời đầu hạ.

Lâu thật lâu, y mới nhướng mày, ngoái lại nhìn cô bằng cặp mắt sâu thẳm mà tịch mịch, khẽ hỏi, “Lẽ nào lại là… người đó?”

Hoàng Tử Hà gật đầu đáp, “Ngoài người đó ra, những kẻ khác đều không có bất cứ cơ hội nào.”

Lý Thư Bạch cau mày, “Nếu thực là vậy, hẳn triều đình Đại Đường lại được dịp dậy sóng.”

“Không hề gì, xưa nay bản triều đều rất khoan dung, không phải sao?” Hoàng Tử Hà thở dài, chậm rãi nói.

Lý Thư Bạch trầm ngâm hồi lâu, đoạn hỏi, “Nếu ta khuyên ngươi buông tay, ngươi thấy sao?”

Hoàng Tử Hà lặng thinh, khẽ cắn môi nhìn y, “Chuyện này vốn dĩ khởi nguồn từ vương gia, nếu vương gia muốn tha, tôi cũng chẳng có ý kiến gì.”

“Nhưng... Lẽ nào như vậy là xong ư?” Y cưỡi trên lưng Địch Ác, ngẩng lên nhìn vòm không vòi vọi, cao xa không thể với tới, đoạn thở dài. Ánh mắt y thăm thẳm, tựa hồ muốn nhìn thấu tận nơi cao nhất, muốn trông thấy cảnh trí thâm sâu nhất trên bầu trời, “Chôn vùi một bí mật như vậy, ngươi có thấy không cam lòng chăng?”

“Chẳng liên quan gì đến bí mật cả.” Hoàng Tử Hà nhìn theo ánh mắt y, “Tôi chỉ muốn nói ra chân tướng, đòi lại công đạo cho Phùng Ức Nương, cho Cẩm Nô, cho cả những người ăn mày đã thiệt mạng ở phường Sùng Nhân mà thôi.”

Lý Thư Bạch nín lặng, đăm đăm nhìn những đốm nắng lọt qua kẽ lá một lúc rồi chậm rãi lên tiếng, “Thực ra, nếu kẻ đầu sỏ là người đó thì không chừng lần này ngươi vạch trần chân tướng, lại là cơ hội tốt cho ngươi.”

Hoàng Tử Hà ngạc nhiên mở to mắt nhìn y. Y cũng ngoái lại nhìn cô, vẻ mặt xa xăm mà ôn hòa, “Ta sẽ giúp ngươi hoàn tất việc này. Cứ thành thực nói ra tất cả những gì ngươi biết, bất kể thế nào, ta cũng sẽ giữ tính mạng cho ngươi.”

Cô hơi ngẩng lên nhìn y. Đúng lúc này, Địch Ác và Na Phất Sa đã về đến Quỳ vương phủ thân thuộc, mừng rỡ cọ cổ vào nhau. Hai người trên yên thành ra xáp lại, gần đến nỗi cảm giác được cả hơi thở của nhau.

Hoàng Tử Hà vô thức kéo Na Phất Sa tách ra, cách y chừng nửa thước, nói khẽ, “Đa tạ vương gia.”

Dưới ánh tịch dương, bóng hai người đổ dài thành hai đường thẳng, rõ ràng gần sát bên nhau, song trước sau vẫn tồn tại một khoảng cách không thể lấp đầy.
 

Tam Thất

nhân chi sơ, tính bản thiện
Tham gia
13/4/19
Bài viết
1,705
Điểm cảm xúc
1,399
Điểm
113
Những dải phướn trắng toát bay phất phơ trong gió giữa cơn mưa dầm, tiền giấy bay trắng xóa sân như tuyết, tiếng đám đạo sĩ lầm rầm đọc chú vãng sinh, hòa cùng tiếng bọn Nhàn Vân khóc lóc, không khí buồn bã tiêu điều bao trùm cả phủ họ Vương.

Lúc Lý Thư Bạch dẫn Hoàn Tử Hà tới, việc tang sự của nhà họ Vương Lang Gia đã bắt đầu.

Linh vị Vương Nhược đặt chính giữa linh đường, phía trước bày nhang đèn và đồ cúng. Tuy Vương Nhược đột ngột qua đời, song Vương Uẩn là người cực kỳ tháo vát, làm việc đâu ra đấy, thời gian gấp rút mà vẫn lo liệu đầy đủ lễ cúng tế đàng hoàng.

Lý Thư Bạch cùng Hoàng Tử Hà thắp hương trước linh vị xong xuôi, cả nhà họ Vương lại hành lễ cảm tạ y. Y vội trả lễ, đoạn bảo Vương Uẩn, “Việc xảy ra quá đột ngột, mấy ngày hôm nay chắc đô úy phải vất vả lắm.”

Hôm nay Vương Uẩn vận một chiếc áo đơn bằng tơ trắng, bên ngoài khoác một lớp áo xô, dù sao người chết là một tiểu muội trong họ cũng chẳng thân thiết mấy, nên tuy ngoài mặt ủ dột nhưng không quá bi thương, chỉ đáp ngắn gọn, “Trách nhiệm thôi mà.”

Linh đường toàn tiếng nức nở của đám thị nữ, bầu không khí rất nặng nề. Lý Thư Bạch đưa mắt nhìn, thấy cổ áo quan đen sì đã được đậy kín, rõ ràng không định để khách viếng nhìn mặt người quá cố lần cuối. Gương mặt biến dạng như vậy, kể ra cũng không cần thiết nữa thật.

Hoàng Tử Hà đứng sau lưng Lý Thư Bạch, cảm nhận rõ rệt y cũng như mình, đều đang suy tính xem phải lên tiếng ra sao cho hợp lẽ để ngăn việc di chuyển thi thể này ra khỏi kinh thành.

Đúng lúc họ chuẩn bị lên tiếng thì tên gác cửa lao vào, nhớn nhác chạy đến trước mặt Vương Uẩn, gắng gượng lắm mới sắp xếp lời lẽ cho trôi chảy được, “Thiếu… thiếu gia! Bệ hạ và hoàng hậu đến phúng viếng!”

Vừa nghe thấy tin này, đừng nói Hoàng Tử Hà mà cả Lý Thư Bạch cũng kinh ngạc. Hoàng hậu dẫu sao cũng là người nhà họ Vương, đến viếng tiểu muội thì còn hiểu được, nhưng bệ hạ cũng đến, là vì lẽ gì?

Vương Uẩn vẫn thản nhiên như không, rõ ràng đã biết trước.

Trông thấy trên dưới cả nhà họ Vương bỗng chốc quên hết đau buồn, ai nấy lũ lượt chỉnh đốn áo mũ ra cửa nghênh giá, thậm chí mấy kẻ ít tuổi còn lộ vẻ mừng rỡ, Hoàng Tử Hà sực hiểu ngay.

Chẳng trách trong cung vẫn đồn đại, tính tình hoàng đế ôn hòa mềm mỏng, so ra thì hoàng hậu còn có uy hơn, phàm những điều hoàng hậu cầu khẩn, hoàng đế đều nhất nhất ưng thuận, xưa nay chưa hề làm trái. Ví như lần trước muốn huy động ty Phòng vệ đến điện Ung Thuần hợp sức với thị vệ Quỳ vương phủ canh gác cho Vương Nhược, hoàng hậu cũng chỉ cần nói một câu, bệ hạ liền phê chuẩn. Trong kinh có lời chê cười rằng, “Bệ hạ chuộng Cao, hoàng hậu Trọng Võ.” Ứng xử của hai người này với nhau, chính là phiên bản của Cao Tông và Võ hậu.

Nay dù hoàng hậu muốn mời bệ hạ cùng tới bái tế để nâng thanh thế nhà họ Vương thì cũng chẳng phải việc gì khó khăn, chắc chỉ cần nói một câu là đủ.

Đế hậu lần này đến đều cải trang, chỉ đem theo mấy chục người hầu hạ. Cả hai vận thường phục trắng, hoàng đế đội mũ trắng, hoàng hậu cài một đóa hoa châu trắng ngà, có tua dài đung đưa theo nhịp bước, mặc một bộ đồ trắng, càng làm nổi bật mái tóc đen huyền, đôi mắt tựa điểm sơn, bờ môi to son nhàn nhạt, trông như thần tiên phiêu diêu trong bức họa, quá sức mỹ lệ, làm lu mờ mọi vật xung quanh.

Đế hậu cùng tới trước linh đường, hoàng hậu thắp một nén nhang cho Vương Nhược còn hoàng đế tìm Hình bộ thượng thư Vương Lân hỏi thăm về tiến triển vụ án, được biết đến nay vẫn chưa có manh mối, liền tỏ vẻ không vui, “Trong cung Đại Minh xảy ra việc như vậy, quả là chưa từng có xưa nay. Khanh thân là thượng thư bộ Hình, lại là trụ cột nhà họ Vương, nhất định đã dốc nhiều tâm tư vào vụ này, không đến nỗi cuối cùng lại lần nữa thành án treo nhiều năm chứ hả?”

“Thưa vâng, ty chức và Thôi đại nhân ở Đại Lý Tự vẫn liên hệ với nhau luôn, trước mắt Thôi đại nhân cũng bó tay.” Vương Lân là thân quyến của người chết, theo luật không thể chủ trì phá án, bởi thế Thôi Thuần Trạm mới trở thành người phụ trách.

Hoàng đế xua tay ra hiệu cho Vương Lân lui xuống, chợt ngẩng lên trông thấy Lý Thư Bạch, bèn tươi nét mặt, làm hiệu bảo y theo mình ra ngoài.

Hoàng Tử Hà đi sau Lý Thư Bạch, theo hai người ra đến ngoài linh đường, thoát khỏi khói hương nghi ngút, bỗng thấy dễ thở hơn hẳn.

Hoàng đế hỏi, “Tứ đệ, việc của Vương cô nương lần này, đệ nghĩ thế nào?”

Lý Thư Bạch đáp, “Vận mệnh vô thường, trời hay tạo ra những việc nằm ngoài dự liệu của con người.”

Hoàng đế đưa mắt nhìn y, lại tiếp, “Trẫm ở trong cung cũng nghe được rất nhiều lời đồn đại, còn nói chuyện này có liên quan tới Bàng Huân, ý đệ thế nào?”

Lý Thư Bạch lắc đầu, “E rằng chưa hẳn.”

“Ồ? Có phải Tứ đệ đã nắm chắc vụ này rồi chăng?”

“Hằng ngày thần bận rộn nên cũng chưa phát hiện được gì, chỉ là Dương Sùng Cổ hoạn quan của thần đã có vài suy đoán.” Lý Thư Bạch ngoái lại ra hiệu, Hoàng Tử Hà vội khom người hành lễ.

Hoàng đế vẫn còn nhớ, “Dương Sùng Cổ là tiểu hoạn quan lần trước đã phá vụ án Bốn phương phải không? Chỉ bằng mấy câu nói của người khác mà có thể phá giải chuẩn xác vụ án như thế, quả là một nhân tài! Chẳng hay lần này hắn lại có phát hiện gì?”

“Theo hắn thấy thì việc này liên quan rất rộng, thời gian từ mười sáu năm trước đến nay, địa vực từ Trường An đến Dương Châu, không phải mấy lời vắn tắt mà khái quát được.”

Hoàng đế lộ vẻ ngạc nhiên, “Trước đây nghe đồn là thuộc hạ của Bàng Huân báo thù, trẫm đã kinh ngạc lắm rồi, giờ xem ra dường như còn sâu rộng hơn ư?”

“Thưa vâng. Hơn nữa, kẻ chủ mưu còn gây liên lụy đến thế gia vọng tộc lâu đời, thậm chí còn có thể gây ảnh hưởng đến cả triều đình và hoàng gia.”

Hoàng đế trầm ngâm nhìn vào linh đường, chậm rãi nói, “Chẳng qua là cái chết của một cô gái, vậy mà đằng sau ẩn giấu nội tình lớn đến vậy ư? Chuyện này nhất định không thể phán xử sai được.”

“Thần đệ không dám.”

Hoàng đế ngoảnh lại nhìn Hoàng Tử Hà, ánh mắt đầy ngụ ý.

Không sao chép, chỉnh sửa, repost dưới mọi hình thức

Trong linh đường, khói hương bảng lảng, không khí bi thương.

Một trăm linh tám hồi chú vãng sinh do hai mươi tư vị đạo sĩ tụng niệm đã hoàn tất, đạo trưởng tay phải cầm kiếm gỗ đào, tay trái cầm chuông vàng khẽ rung, cao giọng ra lệnh, “Trời đất tối tăm, Ngũ Đế ban lệnh, hô mưa gọi sấm, thần quỷ tuân theo. Lập tức khởi hành, lặn lội đưa quan, oán hận giải trừ, máu hoen xóa hết, thanh liên định tuệ, thần hồn vĩnh an. Cấp cấp như luật lệnh.”

Tám tên gia đinh khỏe mạnh đã đợi sẵn xung quanh nhất tề dạ ran, cầm dây thừng bước lên toan buộc quan tài khênh ra cửa.

“Đợi đã.”

Thình lình, một giọng nói cất lên trong sảnh, tuy không vang dội, song mọi người đều nhận ra nó bắt nguồn từ đâu. Giữa bầu không khí im phăng phắc, mọi ánh mắt đều đổ dồn Lý Thư Bạch. Vì kính sợ y, những tiếng xì xào lập tức nín bặt.

Y bước vào linh đường, giơ tay vuốt nhẹ lên quan tài, lại rút trong tay áo ra một chiếc vòng bạch ngọc nạm vàng, nói, “Đây vốn là nữ trang ta chuẩn bị để tặng vương phi vào ngày thành hôn, nào ngờ Vương Nhược bị người ta ghen ghét đến nỗi ngọc nát hương tan ngay giữa vòng vây các hộ vệ. Chuyện này quỷ quái vô cùng, đương nhiên sức người không thể làm được, ta vẫn biết Vương Nhược bị ta liên lụy nên mới bị oan hồn Bàng Huân hãm hại. Vì thế, ta muốn nàng đem theo chiếc vòng này xuống địa phủ, để người đời đều biết, tuy Vương Nhược lúc sinh thời chưa trở thành thê tử của ta, song sau khi chết, ta vẫn muốn thề hẹn cùng nàng!”

Ai nấy không khỏi kinh ngạc, chẳng ngờ một kẻ vẫn có tiếng lạnh nhạt vô tình như Quỳ vương, lại nặng tình nặng nghĩa đến thế với vương phi tương lai đã chết thảm.

Vương Lân vội đáp, “Đa tạ Quỳ vương hậu ái, họ Vương Lang Gia cảm kích không thôi! Chúng tôi sẽ mở quan ngay…”

“Tấm lòng của Quỳ vương thực khiến người ta cảm khái.” Một giọng nói khác chậm rãi vang lên ngắt lời Vương Lân.

Cũng như chủ nhân, giọng nói này ôn nhu thuần hậu, khiến người ta được tắm trong gió xuân. Vương Uẩn bước ra khỏi đám đông, hành lễ với Lý Thư Bạch, “Song hiện giờ thi thể A Nhược đã không kham nổi nữa, e rằng không thể đeo chiếc vòng này của vương gia được.”

Lý Thư Bạch thản nhiên nói, “Ta đã chọn trong cả đống trang sức lấy một chiếc này, kiểu vòng khóa, mở ra đóng vào thoải mái, chắc sẽ đeo được thôi.”

Nói đoạn, y đưa chiếc vòng cho Hoàng Tử Hà, “Vương Nhược trong ký ức của ta là một mỹ nhân đẹp như đào như mận, ta không muốn thấy bộ dạng hiện giờ của nàng.”

Khóe môi Hoàng Tử Hà giần giật, xem ra nhiệm vụ sờ bàn tay cái xác cuối cùng lại rơi vào cô rồi.

Thấy trong sảnh im phăng phắc, Vương Uẩn cũng không khăng khăng phản đối nữa. Mấy tên gia nô nhấc nắp áo quan lên, hé ra một khe hở dài chừng một thước để Hoàng Tử Hà luồn tay vào.

Hoàng Tử Hà siết lấy chiếc vòng ngọc nạm vàng, nín thở luồn tay vào, sau đó nắm chặt cánh tay đã rữa nát của cái xác.

Giờ đương lúc đầu hạ, thi thể đang phân hủy, chạm vào như sờ phải bùn nhão. Hoàng Tử Hà nghiến răng nắm lấy cổ tay dấp dính nhũn nhẽo, quay sang nói với Lý Thư Bạch, “Vương gia, nô tài có lời muốn thưa.”

“Nói đi.” Lý Thư Bạch điềm nhiên cho phép.

Song Hoàng Tử Hà không được nhẹ nhõm ung dung như y, cô buông tay cái xác ra, đi đến giữa sảnh quỳ xuống thưa, “Khởi bẩm bệ hạ, trong lúc đeo vòng, nô tài phát hiện vài điểm khả nghi. Chuyện này quan hệ trọng đại, liên quan đến cả việc trong cùng, nô tài xin thánh thượng cho tất cả những người không liên quan lui ra, để tránh đồn thổi làm chuyện lộ ra ngoài.”

Hoàng đế cân nhắc chốc lát rồi gật đầu đồng ý.

Vương Lân cau mày, vẫy tay ra hiệu cho tất cả nô bộc lui xuống.

Mọi người trong sảnh lũ lượt rút lui, chỉ còn lại đế hậu, Vương Lân, Vương Uẩn, Lý Thư Bạch và Hoàng Tử Hà.

Hoàng Tử Hà lại nói với những kẻ đang lui ra, “Nhàn Vân, Nhiễm Vân, hai người các ngươi ở lại.”

Nhàn Vân Nhiễm Vân đều kinh ngạc, ngơ ngác quay lại nhìn cô.

Hoàng Tử Hà không nhiều lời với họ nữa, tiến ra đứng giữa sảnh đường, đặt tay lên nắp áo quan nói rành rọt, “Bẩm hoàng đế bệ hạ, hoàng hậu điện hạ, theo nô tài thấy, thi thể này e rằng không phải cô nương nhà họ Vương!”

Mọi người buột miệng “ồ” lên. Hoàng hậu đang ngồi cũng kinh ngạc đứng bật dậy.

Lý Thư Bạch ra chiều ngạc nhiên, khẽ mắng, “Không được nói nhảm, thi thể được đưa từ trong cung về phủ họ Vương, suốt quá trình đều có người bảo vệ sao có thể biến thành người khác được?”

Vương Lân vội hùa theo, “Đúng vậy, mấy ngày nay trong linh đường đều có người trông nom, hơn nữa pháp sự vẫn tiên tục được tiến hành, sao thi thể lại thay đổi được? Huống hồ dạng thi thể như vậy, còn ai có thể ngụy tạo được chứ?”

Hoàng Tử Hà đáp, “Vương đại nhân tha tội, nô tài cho rằng, ngay từ lúc xuất hiện trong cung, cái xác này đã không phải thi thể của Vương cô nương rồi.”

Vương Lân tức tối định nói thêm, song Vương Uẩn đứng sau đã cau mày, giơ tay chạm khẽ vào khuỷu tay cha, lập tức Vương Lân giật mình kinh hãi, đưa mắt nhìn về phía đế hậu, không nói gì nữa.

Hoàng đế tỏ vẻ nghi hoặc, chăm chú quan sát cỗ quan tài, trầm tư nghĩ tới những lời Lý Thư Bạch vừa nói với mình về căn nguyên cái chết của Vương Nhược.

Duy chỉ hoàng hậu vẫn điềm tĩnh, chậm rãi hỏi, “Ngươi tên Dương Sùng Cổ ư?”

“Thưa vâng, nô tài Dương Sùng Cổ là hoạn quan trong Quỳ vương phủ.”

“Trước đây nghe nói ngươi đã phá được vụ án Bốn phương, xem ra cũng là hạng thông minh biết phá án. Thử nói xem, tại sao cái xác này lại không phải Vương Nhược?”

“Bẩm điện hạ, trước đây nô tài phụng mệnh giảng giải cho Vương Nhược cô nương luật lệ trong phủ, từng tiếp xúc nhiều lần, còn nhớ bàn tay cô ấy rất nhỏ nhắn. Song bàn tay cái xác này lại lớn hơn tay cô ấy nhiều.”

“Ngươi biết thân thể Vương Nhược đã phù nề lên vì trúng độc chết chứ?”

“Sưng phù chỉ là cơ thịt bên ngoài, chứ xương cốt không thể to ra được. Xương bàn tay cái xác này rõ ràng to hơn tay Vương Nhược rất nhiều.” Hoàng Tử Hà đứng thẳng dậy nói tiếp, “Bấy giờ người nghiệm thi cho Vương Nhược chính là tiểu công tử Chu Tử Tần nhà Chu thị lang, chắc chắn nắm rất rõ về xương bàn tay cái xác này, bệ hạ và điện hạ có thể triệu Chu công tử đến hỏi về kết quả nghiệm thi hôm ấy.”

Hoàng hậu nghe vậy thì trầm tư suy nghĩ, trong khi Vương Lân nói ngay, “Dương công công, giờ tốt để di quan sắp qua rồi, công công cứ ngăn trở như vậy, chẳng lẽ là cố tình làm khó nhà họ Vương chúng ta? Huống hồ, di thể A Nhược xuất hiện ngay tại nơi A Nhược mất tích, thân hình lứa tuổi y phục trang sức đều trùng khớp. Bàn tay A Nhược vì trúng độc mà sưng phù lên cũng là lẽ thường, nay công công suy đoán như vậy, lẽ nào muốn A Nhược không được chôn cất, chết không nhắm mắt ư?”

Hoàng hậu nghe nói cũng gật đầu thở dài, “Giờ tốt không thể để lỡ được. Dương công công, A Nhược gặp phải bất hạnh này đã đủ khiến người ta đau lòng lắm rồi, ngươi việc gì phải gây thêm chuyện nữa?”

“Nô tài không dám.” Hoàng Tử Hà cúi đầu thưa, “Chỉ là thi thể đã có điểm khác lạ, nô tài cảm thấy vẫn nên tra xét cho rõ hơn, để tránh vàng thau lẫn lộn.”

“Sùng Cổ nói có lý lắm.” Lý Thư Bạch cuối cùng cũng can thiệp, “Không phải thần bao che cho hoạn quan nhà mình, song việc này đã có nghi vấn, nhà họ Vương Lang Gia lại là vọng tộc cả trăm năm nay, trong nghĩa địa tổ tiên có vô số anh linh, sao có thể chôn cất một cái xác không rõ lai lịch được? Chi bằng gọi Chu Tử Tần đến nghiệm chứng lần nữa, nếu quả thực không phải thì cũng tốt, ít ra chứng tỏ Vương Nhược vẫn còn hy vọng đang sống trên đời, chẳng rõ ý các vị ra sao?”

Hoàng hậu cau mày đưa mắt nhìn hoàng đế, hoàng đế xua tay nói, “Cho triệu Chu Tử Tần.”

Vì Hoàng Tử Hà có dặn, nên Chu Tử Tần đã thu thập mọi thứ liên quan, lần này chuẩn bị tương đối đầy đủ. Gã cầm tập hồ sơ lần trước, theo sau là hai tên tùy tùng A Bút A Nghiễn hì hục khiêng một chiếc rương khá nặng.

Chu Tử Tần hành lễ với đế hậu rồi hào hứng cầm hồ sơ nghiệm thi lần trước lên đọc, “Cùng Dương Sùng Cổ nghiệm thi xong, thảo dân đã ghi lại tỉ mỉ mọi điều. Kiểm nghiệm cho thấy, người chết là nữ, mình cao năm thước bảy tấc, dung mạo không rõ, da thịt toàn thân sạm sụa phù nề, cả người đầy máu đen. Răng lợi đầy đủ, tóc mượt dài đến gót chân, trên mình không có vết thương, hẳn là trúng độc mà chết. Ngoại trừ những điều đó, còn ghi lại những vấn đề không thể phán đoán như xương cốt khá to… Song bấy giờ chưa có chứng cứ nên thảo dân không dám nói ra.”

Đến đây, Chu Tử Tần gập hồ sơ lại, nói, “Từ khi Sùng Cổ lưu ý rằng bàn tay người chết hình như hơi to, thảo dân vẫn canh cánh chuyện này, bèn tìm hỏi khắp các ngỗ tác già trong kinh thành và danh y khoa xương, theo cả đồ tể đến lò mổ học tập nghiên cứu nửa ngày, còn giúp hội từ thiện xử lý những cái xác chết đường chết chợ, rồi được một bệnh nhân hấp hối đồng ý cho giải phẫu xác sau khi ông ta chết…”

Gã kể lể một tràng khiến hoàng đế không chịu nổi, đành mở kim khẩu, “Đi vào trọng điểm!”

“Vâng, kết hợp với kinh nghiệm bấy nay, thảo dân phát hiện nơi tiếp giáp, hướng phát triển của cơ thịt, mạch máu và xương khớp đều có quy luật cả, bởi thế sau khi có được bộ xương, chỉ cần khôi phục lại theo đường hướng phát triển của da thịt thì có thể hoàn nguyên hình dáng người chết. Tuy cơ thịt phần đầu rất phức tạp, trong thời gian ngắn thảo dân còn chưa nắm chắc được, song khôi phục lại xương cốt trên tay thì không vấn đề.”

Hoàng đế chẳng muốn nghe gã dông dài thêm nữa, bèn giơ tay ra lệnh, “Ngươi cứ chuẩn bị cho tốt, đừng lề mề quá, trẫm đang đợi đấy.”

Chu Tử Tần rút ra khẩu trang đã tẩm giấm tỏi và găng tay mỏng, đưa cho Hoàng Tử Hà một bộ.

Hoàng Tử Hà lẳng lặng nhận lấy, thầm nghĩ, tay tôi vừa rồi đã sờ vào da thịt cái xác, tuy sau đó có rửa tay – dùng hết nửa cân đậu tằm của nhà họ Vương – nhưng có còn cần đeo găng tay nữa hay thôi?

Song thấy Chu Tử Tần chính thức cần mình hỗ trợ, Hoàng Tử Hà đành đeo vào, giúp gã nâng cánh tay cái xác lên, để gã sờ nắn thật kỹ xương tay, vẽ ra hơn một trăm điểm và mấy chục đường thẳng.

Đế hậu và những người khác đã lui ra chính sảnh dùng cơm.

Chu Tử Tần mở hòm, kéo một ngăn ra, bên trong là một nắm đất sét vàng ệch đã cứng lại, gã dựa theo những đường những điểm trên giấy, nhanh nhẹn nặn ra từng chiếc xương một, lại cắt mấy sợi thép mảnh nối lại. Sau đó tiếp tục lấy ra một loại đất sét khác mềm hơn, vừa xoa vừa nắn thành từng sợi từng mảng đắp lên khung xương bằng đất sét, cuối cùng đợi nó hơi khô lại thì rút mấy mảnh sa trắng mỏng, cắt ra bọc bên ngoài, dùng keo bong bóng cá dán lại.

Gã đặt bàn tay giả trước mặt Hoàng Tử Hà, đầy vẻ đắc ý, “Thấy thế nào?”

Hoàng Tử Hà cầm lên xem thấy bàn tay thon dài, ngón tay không thô tháp nhưng có lực, bên dưới lớp sa trắng mỏng thấp thoáng sắc vàng, cực kỳ giống tay người thực, nếu nhìn từ xa có khi còn lầm, hơn nữa đáng quý nhất là giống hệt bàn tay Cẩm Nô mà trước đây cô từng thấy.

“Quả là tuyệt kỹ!” Hoàng Tử Hà tán thưởng.

“Đâu dám! Đã nói rồi thôi, ta muốn trở thành ngỗ tác bậc nhất thiên hạ, để Hoàng Tử Hà phải có cái nhìn khác về ta!”

Hoàng Tử Hà vội quay mặt đi, nuốt hết những lời khen ngợi vào bụng.

Vương Uẩn đích thân đưa cơm trưa tới, món chính là bánh anh đào, kết hợp với bốn món nguội hai món nóng cùng một bát canh lớn. Giờ đang mùa anh đào, bánh anh đào rất ngon. Hoàng Tử Hà ăn hai cái, thấy Vương Uẩn cứ đăm đăm nhìn mình, bèn sờ tay lên mặt hỏi, “Mặt tôi dính vụn bánh ư?”

Y lắc đầu đáp, “Ta cứ ngỡ các vị nuốt không trôi kia đấy, nào ngờ chẳng những nuốt trôi, mà còn ăn ngon lành như thế.”

“Nếu thêm ít thịt thì tốt quá, ta không có thịt là không vui.” Chu Tử Tần vừa ăn vừa nói, khiến kẻ xưa nay lịch thiệp điềm tĩnh như Vương Uẩn cũng phải đổi sắc mặt. Y quay sang nhìn cỗ quan tài và bàn tay giả, “Là do ta sơ ý, lần sau nhất định sẽ làm nhiều cho công tử.”

Hai người ăn quáng ăn quàng, một lát có người vào báo, đế hậu đã dùng bữa xong xuôi, truyền Chu Tử Tần đem đồ đạc sang sảnh tiệc.

A Bút và A Nghiễn không dám oán thán nửa lời, lại khiêng chiếc rương nặng trịch kia đến sảnh tiệc của nhà họ Vương. Hoàng Tử Hà gọi Nhàn Vân tới, hai người cùng đến phòng Vương Nhược ở lúc trước, lấy một chiếc vòng.

Sảnh tiệc nằm ở nhà chính, thoáng đãng tráng lệ, cửa son huy hoàng, rộng phải đến năm gian phòng. Chính giữa sảnh đặt hai ghế trên, một cái bên trái, một cái bên phải, trải đệm gấm thêu mẫu đơn vàng, đã có đế hậu an vị. Bên dưới bày hai hàng mười hai chiếc ghế, Lý Thư Bạch và Vương Lân ngồi đầu mỗi hàng, Vương Uẩn đứng sau lưng cha. Những kẻ không liên quan khác đều đã lui xuống.

Hoàng Tử Hà mượn Vương Uẩn một chiếc mâm, đặt lên bàn tay giả do Chu Tử Tần làm trình đến để đế hậu xem xét. Chu Tử Tần cũng đặt tay mình lên bàn tay giả kia để so sánh, “Mời các vị xem, độ dài bàn tay này không kém bàn tay một người đàn ông như thảo dân là bao, có điều xương tay nhỏ hơn, ngón tay mảnh mai hơn đôi chút mà thôi. Rõ ràng đôi bàn tay này phải lớn và có lực hơn tay những cô gái bình thường khác. Hơn nữa, đầu ngón tay trái và mép dưới bàn tay phải lại có vết chai mỏng lâu năm.”

Hoàng Tử Hà quay sang hỏi Nhàn Vân và Nhiễm Vân, “Hai người qua đây chứng minh xem, tay của cô nương nhà các ngươi to nhỏ thế nào?”

Cả hai lúng túng nhìn nhau, cuối cùng Nhàn Vân lên tiếng, “Có lẽ… có lẽ cũng xấp xỉ, nô tỳ không rõ lắm…”

Vương Uẩn trầm giọng ngắt lời, “Nói thật đi!”

“Vâng…” Nhàn Vân giật bắn mình vội đáp, “Tay cô nương rất thon thả mềm mại. Trước đây lúc đến dạy cô nương lễ tiết trong cung, Tố Khởi cô cô cũng phải khen tay cô ấy…”

“Dù các ngươi không nói thì vẫn có chứng cứ trực quan hơn đây.” Hoàng Tử Hà giơ chiếc vòng mới lấy từ chỗ Vương Nhược ra, rồi từ từ nắn bàn tay giả thành dạng khum khum như tư thế đeo vòng, đoạn ấn chiếc vòng vào. Lớp đất sét mềm mại dưới màng sa mỏng bị thít chặt đến biến dạng, song vẫn không đeo lọt chiếc vòng.

Hoàng Tử Hà bèn giơ chiếc vòng lên, nói, “Vòng của vương phi… à, của Vương cô nương, không lồng được vào bàn tay này.”

Mọi người đưa mắt nhìn nhau. Vương Uẩn phản ứng nhanh nhất, lập tức lên tiếng, “Cái xác này không phải biểu muội ta, vậy nhất định còn có nội tình. Thứ nhất, không biết hiện giờ A Nhược đâu rồi? Thứ hai, cái xác đột ngột xuất hiện này là ai?”

“Vương cô nương ở đâu, người khác biết, chứ nô tài không biết.” Hoàng Tử Hà đặt lại bàn tay giả vào mâm, giọng rành mạch, “Nô tài chỉ biết thân phận cái xác bị nhận nhầm là Vương cô nương đây thôi.”

Sảnh đường lặng phắc như tờ. Hoàng Tử Hà quay sang hỏi Chu Tử Tần, “Căn cứ vào kích thước khung xương vừa phục dựng, công tử nhắc lại vài chi tiết về đôi tay của cái xác đi.”

Chu Tử Tần gật đầu, giơ bản phác thảo khung xương mới vẽ hồi nãy lên nói, “Bàn tay cái xác dài năm tấc năm phân, xương ngón tay thon dài, hơi thô hơn những cô gái bình thường. Đầu ba ngón giữa tay trái, ngón cái tay phải và dưới mép bàn tay phải có một lớp chai mỏng vì quanh năm bị cọ xát.”

“Đầu ngón tay bàn tay trái, mép dưới bàn tay phải là những chỗ người thường rất ít mọc chai, chỉ duy nhất một hạng người có đủ, chính là nghệ nhân tỳ bà.” Hoàng Tử Hà làm động tác tay trái nhấn dây đàn, tay phải đeo móng gảy, “Bởi thế, đầu ngón bàn tay trái sẽ có vết chai mỏng, còn ngón cái và mép dưới bàn tay phải chính là nơi đeo móng gảy, bị ma sát nhiều, đương nhiên sinh chai.”

Vương Lân cau mày hỏi, “Những người gảy tỳ bà dưới gầm trời này rất nhiều, dựa vào đâu mà xác định thân phận một nghệ nhân đã không thể nhận rõ diện mạo như vậy?”

“Việc này muốn biết có khó gì.” Hoàng Tử Hà xòe tay mình ra, chậm rãi giải thích,“Thứ nhất, ở ngoại giáo phường gần đây vừa khéo có một nghệ nhân tỳ bà mất tích. Thứ hai, tay nải của cô ấy đã được phát hiện bên ngoài giáo phường, bên trong chỉ có mấy chiếc áo khoác và trang sức, rõ ràng không phải do cô ấy tự sắp xếp. Thứ ba, cũng là điểm quan trọng nhất, cô ấy cũng trúng nhựa cây độc tiễn mà chết.”

Chu Tử Tần ồ lên kinh ngạc, “Nghệ nhân mà công công nói chính là Cẩm Nô ở ngoại giáo phường ư! Nhưng… Cẩm Nô chết vì trúng độc à?”

“Đúng thế, Cẩm Nô từng có lần vào cung, còn kể cho hoàng hậu và Triệu thái phi nghe chuyện quá khứ của mình, bấy giờ chúng nô tài đều thấy tay cô ta, quả thực là to hơn những cô gái bình thường.”

“Nhưng như vậy cũng không thể chứng minh cái xác chắc chắn là cô ấy. Hơn nữa thi thể cô ấy đã được tìm thấy rồi, chính là ở bên cạnh tay nải… Hơn nữa, cái xác đó không có dấu hiệu trúng độc, mà là bị người ta chặt đầu.”

“Không, cái xác mất đầu không phải Cẩm Nô đâu. Thi thể Cẩm Nô đã bị đem mạo xưng là của Vương cô nương rồi. Tối đó Cẩm Nô gặp Thôi đại nhân, nô tài và Chu Tử Tần cùng mấy người khác trên Chuế Cẩm Lâu. Khi tiệc tàn, chúng nô tài gói mấy món ăn đưa đến phường Sùng Nhân cho mấy tên ăn mày, kết quả đám ăn mày đó đều trúng độc chết. Thứ độc họ trúng, chính là nhựa cây độc tiễn.”

Chu Tử Tần kinh ngạc đến líu cả lưỡi, “Gì cơ? Cái chết của mấy người ăn mày lần trước cũng lên quan tới chúng ta… liên quan tới vụ án này hả?”

Sợ gã lại huyên thuyên giải thích, rước vạ vào thân, Hoàng Tử Hà vội ngắt lời, “Nói chính xác ra là cái chết của mấy tên ăn mày đó có liên quan tới Cẩm Nô. Bởi chất độc được hạ vào chính đĩa anh đào mà bấy giờ Cẩm Nô gói lại, khi đó cô ấy cũng nói tay mình ngưa ngứa, song lại cho là bị cuống anh đào đâm phải. Thực ra, nguyên nhân thực sự là bấy giờ cô ấy đã trúng độc, hơn nữa còn làm dây sang đĩa anh đào kia, gián tiếp hại chết mấy người ăn mày!”

Chu Tử Tần vội hỏi, “Bấy giờ Cẩm Nô cùng ngồi ăn với chúng ta, không hề rời khỏi, thức ăn cũng giống chúng ta, sao chẳng ai hề hấn gì, mà cô ấy lại trúng kịch độc?”

“Vì cô ấy là nghệ nhân tỳ bà.” Hoàng Tử Hà thở dài, “Chẳng rõ công tử có nhớ không, trước khi gảy đàn, cô ấy đã thử dây rồi cằn nhằn cuối xuân lắm mưa làm dây tỳ bà ẩm thấp, khiến thanh âm không được trong. Cuối cùng cô ấy lấy ra một hộp phấn hương thông, nhón hai dúm thong thả thoa lên dây và trục đàn, đúng không?”

Chu Tử Tần gật đầu.

“Bởi thế chỉ cần hung thủ trộn vài mảnh trúc hoặc mấy vụn gỗ hơi cứng đã tẩm độc vào bột phấn, trong lúc Cẩm Nô nhón phấn thoa đàn, đương nhiên sẽ bị mảnh trúc mảnh gỗ vụn rạch vào da tay hoặc găm vào kẽ móng tay. Những vết thương ấy rất nhỏ, lại thêm kịch độc khiến cô ấy không cảm thấy đau, chỉ thấy tê tê ngưa ngứa mà thôi. Song nhựa độc tiễn được gọi là kiến huyết phong hầu, dù chỉ ngấm một chút thôi thì thời gian kéo dài cũng sẽ lan đi khắp toàn thân. Về đến ngoại giáo phường, Cẩm Nô rơi vào hôn mê rồi chết đi trong vô thức, thân thể sưng phù, không nhận ra được dung mạo nữa, vừa khéo có thể đem giả mạo di thể Vương cô nương, để Vương cô nương thực sự nhân đó mà bỏ trốn, từ nay vĩnh viễn biến mất trong mắt người đời.”

Ai nấy xôn xao, hoàng đế cũng sửng sốt hỏi, “Vì sao hung thủ phải phí bao nhiêu tâm sức lấy một thi thể khác giả làm Vương Nhược? Còn Vương Nhược, sao lại biến mất ngay giữa cung đình? Mục đích ở đây là gì thế?”

Hoàng Tử Hà vội thưa, “Vừa rồi nô tài mới phá giải câu đố đầu tiên, tức là thi thể Vương cô nương rốt cục là ai. Hiện giờ tất cả dấu vết đều đã bị vạch trần, cái xác này không phải Vương cô nương mà là Cẩm Nô. Xin bệ hạ điện hạ cho phép nô tài vạch rõ bí ẩn thứ hai, tức Vương cô nương biến mất ra sao, bị đổi thành Cẩm Nô thế nào.”

Lý Thư Bạch bỗng lên tiếng, “Tử Tần, vừa nãy phải phục chế tay giả và làm chứng, vất vả cho ngươi quá, chắc ngươi cũng mệt rồi, lui về nghỉ ngơi đi.”

Chu Tử Tần ngơ ngác, “Nhưng Dương Sùng Cổ còn chưa vạch trần bí ẩn mà...”

Lý Thư Bạch không nói nữa, chỉ nheo mắt nhìn gã.

Chu Tử Tần tuy đơn thuần nhưng không hề ngốc nghếch, bắt gặp ánh mắt Lý Thư Bạch lập tức hiểu ra ngay, vội thu dọn đồ nghề rồi thưa, “Thảo dân cáo lui!”

Đợi Chu Tử Tần đi khỏi, Hoàng Tử Hà đóng chặt cửa lại, hoàng đế mới khẽ gật đầu, “Chuyện này trẫm cũng nghe hoàng hậu nói qua, quả là kỳ lạ vô cùng. Một người đang sống sờ sờ bỗng dưng biến mất ngay giữa vòng vây các thị vệ, thực là chuyện lạ xưa nay.”

Hoàng hậu cau mày giận dữ, “Nhất định là dư đảng của Bàng Huân, không còn nghi ngờ gì nữa!”

Hoàng Tử Hà lắc đầu thưa, “Vụ này dằng dai bấy nhiêu ngày, những lời đồn đại như Bàng Huân tác quái chỉ là do hung thủ tung hỏa mù mà thôi, thực ra truy đến cùng thì Bàng Huân chẳng liên can gì tới vụ việc cả! Còn hung thủ thực sự, như nô tài đoán, đang ở ngay trong sảnh đường này thôi!”

Mấy câu này nói ra rành rọt, khí phách, khiến người nghe thảy đều kinh hãi, vội ngồi thẳng dậy như bị kim châm.

Hoàng hậu cười nhạt, “Càn rỡ, lẽ nào ngươi muốn ám chỉ hung thủ chính là người nhà họ Vương chúng ta?”

“Nô tài không dám, nô tài chỉ dựa trên công sức điều tra nhiều ngày nay mà đưa ra phán đoán duy nhất có thể giải thích mọi chuyện thôi. Còn về hung thủ, nô tài chỉ xét đến sự thực, không cân nhắc gì khác cả.”

“Nếu không phải do Bàng Huân mà do một kẻ trong số chúng ta gây ra, thì ngươi muốn nói ai?” Vương Lân nhìn quanh mấy người trong sảnh, ngờ vực hỏi, “Lúc trước, A Nhược mất tích ngay trước mắt các binh lính ty Phòng vệ và cận vệ Quỳ vương phủ. Ngươi có thể không tin người trong cung, hoặc không tin binh mã do con ta dẫn đến, nhưng bản thân ngươi cũng là người của Quỳ vương phủ, phải tin mấy hộ vệ kia chứ?”

Lý Thư Bạch cau mày lên tiếng, “Vương thượng thư đừng lo, Dương Sùng Cổ không có ý này đâu.”

Hoàng Tử Hà ôn tồn nói, “Lúc Vương cô nương mất tích, nô tài và Quỳ vương gia cũng có mặt tại đó, tận mắt chứng kiến, chính tai nghe thấy, đích thân cảm nhận. Bởi thế nô tài hết sức tin tưởng các vị ở ty Phòng vệ kinh thành, cũng như tin Quỳ vương gia và bản thân nô tài vậy.”

“Được rồi, mọi người bình tĩnh đi.” Hoàng đế giơ tay trấn an tất cả, “Trước hết cứ nghe Dương Sùng Cổ trình bày phán đoán của hắn đã, đợi hắn nói xong, nếu mọi người còn chỗ nào nghi ngờ thì hỏi lại cũng không muộn.”

“Đa tạ bệ hạ.” Được cho phép, Hoàng Tử Hà cũng chẳng để tâm đến những người khác nữa, chỉ khom người hành lễ với hoàng đế, đoạn phân tích, “Vụ án Vương Nhược mất tích đương nhiên phức tạp khó đoán, song trước khi mất tích, còn xảy ra một việc khiến người ta khó hiểu hơn. Lúc Vương cô nương nghỉ ngơi trong gác Bồng Lai, tại sao lại có kẻ mạo hiểm hành thích cô ấy giữa một nơi nguy hiểm như thế? Huống hồ khi nô tài nghe thấy tiếng động ở phòng trong, lập tức chạy vào xem thì tên thích khách nọ đã mất tăm mất dạng. Bên ngoài gác Bồng Lai là đất bằng, không có vật gì che chắn, vậy mà nữ quan Trường Linh chỉ nhanh hơn nô tài một bước còn trông thấy bóng đen nhảy qua cửa sổ chạy mất, nô tài chậm hơn một bước mà đã mất tăm tích, lẽ nào trên đời có cách khiến người ta biến mất trong nháy mắt hay sao? Sau này, nô tài ngẫm nghĩ mãi mới phát hiện ra, tác dụng duy nhất của tên thích khách chính là khiến hoàng hậu điện hạ phải ra tay, chuyển Vương cô nương đến điện Ung Thuần.”

Hoàng hậu cười nhạt, “Nói vậy thì ta thương yêu A Nhược, muốn bảo vệ Quỳ vương phi cho triều đình và cho Quỳ vương lại là sai ư?”

“Nô tài không dám, nô tài chưa hề nói hành động của điện hạ là sai. Bấy giờ Vương cô nương ở giữa trùng vây, thành ra lại thúc đẩy cho vụ án này phát sinh. Vì trong cả hoàng cung, điện Ung Thuần thoạt trông thì chặt chẽ nhất, song trên thực tế lại chính là sân khấu đã được thiết kế sẵn, rất thích hợp để biểu diễn một màn Vương Nhược mất tích.”

Nói đoạn cô rút trong tay áo ra một tờ giấy mỏng gấp nhỏ, trải rộng trước mặt mọi người, ra là bản đồ điện Ung Thuần mà cô chuẩn bị từ trước.

Hoàng Tử Hà ấn vào cây trâm bạc trên búi tóc, rút cây trâm ngọc bên trong ra, vạch lên mặt giấy, trình bày với mọi người trong sảnh, “Điện Ung Thuần vốn dĩ được dùng làm nhà kho, bốn bề là tường cao không thể phá hủy, hơn nữa điện hạ lại xin bệ hạ điều động hai trăm binh mã vây bọc xung quanh, bao nhiêu là người như thế cũng tạo thành cục diện rồng rắn hỗn tạp, khiến tình cảnh thêm rối loạn. Vương Nhược trước khi mất tích còn cố ý rời khỏi phòng bước ra cảm tạ vương gia, khiến nô tài và vương gia đều đổ dồn mắt nhìn theo cô ấy quay về phòng, sau đó biến mất tại một nơi nghiêm ngặt nhất an toàn nhất, không có khả năng biến mất nhất.”

Cây trâm của cô vẽ một vòng tròn quanh gác Đông chính giữa bản đồ, thể hiện đây là vị trí trung tâm của vòng vây canh gác, “Sau khi Vương Nhược mất tích, nô tài vẫn nghĩ mãi không sao hiểu nổi, vì sao mình chính mắt nhìn thấy Vương Nhược bước vào gác, vậy mà chỉ trong nháy mắt cô ấy đã biến mất, rốt cuộc cô ấy đã làm gì để tránh được ánh mắt mọi người, giấu trời qua biển mà biến mất?”

Cả sảnh đường lặng phắc như tờ, ngay cả Lý Thư Bạch đã biết trước nội tình, cũng chăm chú lắng nghe cô phá giải âm mưu chính của vụ án này.

“Sau đó thực ra chúng ta vẫn luôn bị lừa. Dù nghĩ tới cả trăm vạn khả năng, cũng không cách nào biết được cô ấy đã biến mất khỏi điện Ung Thuần ra sao. Cho đến một ngày, nô tài được gợi ý bởi một người diễn trò trên phố chợ Tây, mới phát hiện ra chân tướng của vụ án này. Thực ra không phải Vương Nhược biến mất một cách bí ẩn tại gác Đông, mà ngay từ đầu, Vương Nhược không hề bước vào trong gác!”

Vương Lân lạnh lùng lên tiếng, “Song lão phu nghe nói, cả Quỳ vương và ngươi, rồi mấy chục tên hộ vệ canh giữ lúc đó đều chính mắt trông thấy A Nhược bước vào gác Đông, giờ ngươi lại nói A Nhược chưa hề bước vào, khác nào bảo lúc ấy bấy nhiêu người đều bị ảo giác hay sao?”

“Không phải là ảo giác. Chẳng rõ Vương thượng thư có để ý hay không, sau khi điện Ung Thuần được sửa sang từ nhà kho thành phòng ở, để thay đổi bố cục vuông vắn cứng nhắc, người ta đã cố ý đặt một hòn giả sơn tại sân giữa gần nội điện, cũng chính là nơi ngăn cách nội điện và đại sảnh?”

“Song hòn giả sơn đó rất thấp, chỉ có một hai chỗ đá cao ngang đầu người mà thôi, lẽ nào như vậy cũng giở trò được ư?”

“Chỉ cần một nơi che khuất đầu người là đủ.” Hoàng Tử Hà điềm tĩnh nói, “Thực ra, trò ảo thuật này chỉ cần trong nháy mắt là thành công rồi, vì theo cách sắp xếp thị vệ tại hiện trường của Vương Uẩn đại nhân, thì phía sau giả sơn không có ai cả. Người duy nhất có thể trông thấy phía sau hòn giả sơn chính là hai tên thị vệ đứng bên ngoài gác Đông, song lại được dặn phải quay mặt về cửa sổ và cửa lớn. Trong tình hình đó, cái gọi là mọi người chứng kiến Vương Nhược trở vào gác Đông, thực ra chỉ là trông thấy bóng lưng cô ấy mà thôi.”

“Mọi người đều thấy bóng lưng cô ấy còn chưa đủ ư?”

“Dĩ nhiên không đủ rồi. Vì cái gọi là biến mất trong nháy mắt đó, chỉ cần một tích tắc là hoàn thành.” Cây trâm của Hoàng Tử Hà trỏ vào hòn giả sơn, “Giữa đại sảnh và nội điện là một hòn giả sơn thấp tè, có một con đường lát gạch xanh uốn lượn xuyên qua. Tảng đá ở đây là cao nhất, vừa vặn che khuất được thân hình năm thước bảy tấc của Vương Nhược. Bởi vậy, chỉ cần một cô gái vận quần áo giống Vương Nhược, búi tóc và mang trang sức tương tự nấp sẵn sau hòn giả sơn, khi Vương Nhược đi đến chỗ hòn đá cao nhất kia thì khom lưng ngồi thụp xuống, còn người kia đứng thẳng dậy bước ra khỏi hòn giả sơn, tráo đổi lẫn nhau trong nhát mắt, Vương Nhược bước vào nội điện trước ánh mắt mọi người lúc này đã biến thành một người khác!”

Hoàng Tử Hà ngoái lại nhìn Nhàn Vân và Nhiễm Vân đương run rẩy quỳ sụp xuống đất, chậm rãi nói, “Bấy giờ kẻ đi theo Vương Nhược đi ra gặp Quỳ vương gia là Nhiễm Vân, bởi thế kẻ giả trang làm Vương Nhược đợi sẵn phía sau giả sơn đương nhiên là Nhàn Vân rồi.”

“Hoang đường!” Vương Lân cười khẩy, “Suy luận của Dương công công sắc sảo ghê, chỉ nhìn một màn diễn ngoài đường mà liên hệ ngay được đến vụ án. Nhưng công công không để ý đến chênh lệch chiều cao hơn nửa cái đầu giữa Vương Nhược và Nhàn Vân ư? Vương Nhược cao hơn những cô gái bình thường nhiều, lẽ nào Vương Nhược từ sau hòn giả sơn bước ra, chỉ trong nháy mắt đã lùn đi nửa cái đầu mà không ai chú ý?”

“Muốn thay đổi chiều cao có khó gì, nhất là đối với phụ nữ. Ngoài phố có bán giày đằng vân, đế giày bằng gỗ độn cao nhất cũng phải đến năm sáu tấc, làm Nhàn Vân cao thêm nửa cái đầu cũng chẳng có gì khó cả. Hơn nữa khi Nhàn Vân bước vào điện, nô tài để ý thấy cô ta vấp phải ngưỡng cửa, rõ ràng là vì không quen đi loại giày này. Còn một chứng cứ thuyết phục hơn là, Nhàn Vân sau khi vào điện không lâu lại đi ra, bưng hộp cơm đến nhà bếp nằm ở cửa ngách. Nô tài đoán chắc hẳn cô ta đã đốt hết y phục và giày cải trang tại đó. Tiếc rằng cô ta kinh nghiệm còn non, lại quá hoảng hốt, nên đã để lại chứng cứ, về sau chúng nô tài tìm được trong bếp lò nửa miếng gỗ cháy sém có hình như móng ngựa, chính là phần gót giày sót lại!”

Lý Thư Bạch thấy Vương Lân cứng họng, bèn lên tiếng hỏi, “Vậy ngay sau khi xảy ra chuyện, mọi người đã bắt đầu lục soát cả điện Ung Thuần, bấy giờ Vương Nhược ở đâu?”

“Rất đơn giản, lúc ở sau hòn giả sơn, cô ấy đã thay sang y phục cung nữ hoặc hoạn quan được chuẩn bị sẵn giấu trong kẽ đá. Khi mọi người đổ xô đến giả sơn tìm cây trâm sương lá, cô ấy bèn ra chiều mình là người trong cung chạy tới tìm giúp, cứ thế rời khỏi giả sơn.”

“Vô lý, lẽ nào trông thấy một kẻ giống hệt Vương Nhược ngay ở đấy mà không ai nghi ngờ?” Vương Lân lại quát hỏi.

“Nào có ai để ý. Vì Trường Linh nữ quan của điện hạ chẳng mấy chốc đã xuất hiện, còn dẫn theo một tốp cung nữ và hoạn quan. Cô ấy để lại mấy người trong điện giúp tìm kiếm, rồi dẫn theo mấy người tới bẩm báo với điện hạ - mà trong số những người đi theo cô ấy, có Vương Nhược. Sau khi rời khỏi điện Ung Thuần đang náo loạn cả lên, Vương Nhược chẳng khác nào chim bay về rừng, cá bơi ra biển, không thấy tung tích nữa. Huống hồ sau đó các thị vệ canh giữ điện Ung Thuần cũng được rút đi hết, chỉ còn vài hoạn quan và cung nữ già trông coi, một kẻ có tai mắt và có người giúp đỡ trong cung thì hoàn toàn có thể đưa thi thể vào cung, đặt vào gác Đông mà thần không hay quỷ không biết.”

Mọi người nín thinh nghe Hoàng Tử Hà trình bày, không khí trong sảnh đường bỗng chốc im lặng như tờ.

Hoàng đế nghiền ngẫm những lời cô phân tích, ánh mắt nửa vô tình nửa cố ý hướng về phía hoàng hậu, song hoàng hậu lại cúi mặt nhìn xuống hoa văn màu bạc trên xiêm y của mình, chậm rãi hỏi, “Nghe giọng điệu Dương công công, hình như đã đoán được kẻ chủ mưu rồi phải không?”

“Nô tài to gan, nô tài… vốn không muốn suy luận như thế. Song với đủ mọi mánh khóe trong vụ này, trừ người đó ra, không còn ai đủ khả năng thực hiện nữa cả.” Hoàng Tử Hà ngẩng lên nhìn thẳng vào hoàng hậu, ánh mắt trong veo, không mảy may sợ hãi, “Dù vì chuyện này mà phải đắc tội với một thế lực mạnh ngoài sức tưởng tượng, nô tài cũng phải nói ra tất cả chân tướng mình phát hiện được, từ đầu đến cuối.”

Mọi người trong sảnh đều biến sắc mặt, ngồi bất động, chỉ riêng hoàng đế vẫn ôn hòa gật đầu, “Nếu đã vậy, ngươi mau nói xem kẻ đứng đằng sau thao túng vụ án Vương Nhược mất tích này, rốt cuộc là ai?”

“Thực ra, dựa trên các dấu vết kể trên, các vị cũng có thể đoán được rồi. Thứ nhất, người này có thể quyết định trước địa điểm gây án, chuyển Vương Nhược đến điện Ung Thuần. Thứ hai, trước khi có chuyện, người này cũng có thể điều động các đại cung nữ và hoạn quan trong cung như Trường Linh, Trường Khánh. Thứ ba, sau khi xảy ra chuyện, lại có thể sai Trường Linh đưa Vương Nhược đi. Thứ tư, sau khi Cẩm Nô chết, có thể dễ dàng đưa thi thể cô ấy vào điện Ung Thuần.”

Trong lúc nói, Hoàng Tử Hà cụp mắt xuống đất, không nhìn một ai. Song đáp án đã rõ rành rành, “Về người đứng đằng sau thao túng, nô tài xin kể trước một chuyện, đây chính là khởi đầu của mọi sự. Vào ngày Vương Nhược đến chùa Tiên Du cầu phúc, có một gã đàn ông bí hiểm thình lình xuất hiện trước mặt chúng nô tài, xách theo một chiếc lồng chim, còn diễn một trò ảo thuật. Hắn ta cảnh cáo Vương Nhược rằng, dù thế nào cũng đừng hòng che giấu nổi quá khứ, rồi biến mất đầy bí ẩn ngay giữa chùa Tiên Du được bảo vệ nghiêm mật. Chính vì sự xuất hiện của hắn ta, mới dẫn đến hàng loạt những sự kiện sau này.”

Hoàng đế gật đầu, “Chuyện này trẫm cũng có nghe, quả là kỳ quái. Theo ngươi thấy gã đàn ông trong chùa Tiên Du từ đâu mà đến, làm sao mà đi, gây ra tất cả những việc đó nhằm mục đích gì?”

“Theo nô tài thấy, chùa Tiên Du tường cao sân sâu, hôm đó lại không đón khách dâng hương, còn có các hộ vệ của Quỳ vương phủ phái tới. Bấy giờ nô tài vẫn đi vào ngõ cụt, cứ mãi nghĩ xem kẻ bí ẩn ấy rốt cuộc từ đâu tới, mà không ngờ rằng, thực ra hắn vốn tới cùng mình, trước sau vẫn ở ngay bên cạnh. Khi chúng nô tài tách khỏi đám tùy tùng và hộ vệ, hắn chỉ cần khoác bộ cánh ngụy trang lên là có thể đường hoàng ra mặt, muốn biến mất cũng rất dễ, chỉ cần trốn ra hậu điện, cởi bộ đồ hóa trang ném vào lò hương thiêu hủy, sau đó men theo lùm cây rậm rạp mọc bên đường núi để đi xuống, rồi quay lại gặp chúng nô tài lần nữa, trước những người khác, là được… Mà bấy giờ, người đầu tiên xuất hiện chính là Vương đô úy, Vương Uẩn.”
 

Tam Thất

nhân chi sơ, tính bản thiện
Tham gia
13/4/19
Bài viết
1,705
Điểm cảm xúc
1,399
Điểm
113
Kết luận của Hoàng Tử Hà chẳng khác nào sét đánh giữa trời quang, khiến mọi người đều sửng sốt.

Trong lúc ai nấy đều kinh ngạc trợn trừng mắt, Vương Uẩn lại yên lặng nhìn Hoàng Tử Hà, gương mặt thoáng xao động tựa như mặt nước lăn tăn gió xuân, rồi lập tức bình lặng lại. Y hỏi, giọng trầm thấp và bình tĩnh, “Dương công công, ta không hiểu câu vừa rồi có ý gì?”

Hoàng Tử Hà nhìn thẳng vào Vương Uẩn, không hề chùn bước trước thái độ của y, “Ý tôi là, kẻ bí hiểm xuất hiện trong chùa Tiên Du chính là Vương đô úy cải dạng. Hơn nữa, để phòng sơ sẩy, khi đến chợ Tây mua đạo cụ diễn trò, đô úy còn cố ý hóa trang một đặc điểm rất dễ ghi nhớ, hòng đánh lạc hướng điều tra, có thể nói là cẩn thận vô cùng. Tiếc rằng khéo quá hóa vụng, đô úy lại sơ ý để lộ hành tung, ở khâu then chốt nhất.”

“Khâu then chốt nào cơ, ta chẳng hiểu gì cả?” Vương Uẩn không giận, trái lại còn mỉm cười, thần sắc vẫn ung dung tự tại. “Theo phán đoán vừa rồi của Dương công công, nếu kẻ trong chùa Tiên Du hôm ấy không để lộ mặt thật, thì bất kỳ thị vệ thị nữ nào chẳng làm được, sao công công cứ khăng khăng là ta?”

“Vì đô úy khéo quá hóa vụng, vốn định dẫn dắt bản án theo hướng oan hồn Bàng Huân quấy nhiễu phá hỏng hôn sự, ai ngờ đầu mũi tên khắc chữ Đại Đường Quỳ Vương mà đô úy bỏ lại trước bệ thờ hôm đó, cuối cùng lại vạch trần thân phận đô úy!”

Gương mặt ung dung tự tại của Vương Uẩn rốt cuộc cũng hơi biến sắc, y nhìn chằm chằm vào Hoàng Tử Hà, “Đầu mũi tên đó sao lại liên quan tới ta?”

“Quỳ vương đã phái Cảnh Húc đến Từ Châu điều tra, đầu mũi tên đó là do dư đảng của Bàng Huân mua chuộc vệ binh canh giữ thành lâu trộm đi. Nó biến mất không lâu, lại có một đám dư đảng Bàng Huân xuất hiện ở châu phủ gần đó, chạy một mạch lên phương Bắc, cuối cùng mất tích ở ngoại ô thành Trường An. Tuy trong kinh có rất nhiều lời đồn đại, song nô tài nghĩ các vị ngồi đây hẳn đều biết rõ nguyên nhân.”

Lý Thư Bạch điềm nhiên hỏi, “Có phải ngươi muốn nói tới việc tháng Ba năm nay, ty Phòng vệ được tin có thổ phỉ xuất hiện ở ngoại ô, hữu đô úy Vương Uẩn bèn dẫn quân ra nghênh chiến, tiêu diệt hết bọn chúng?”

“Thưa vâng. Song sau khi đám tàn binh nọ bị tiêu diệt, đầu mũi tên mất tích cũng không thấy ở đâu cả, mấy ngày sau thì xuất hiện tại chùa Tiên Du. Vương phi tương lai của Quỳ vương phủ đến chùa Tiên Du cầu phúc, đương nhiên không thể điều động người của ty Phòng vệ kinh thành, bởi thế bấy giờ chỉ có đội hộ vệ của Quỳ vương phủ đi theo đô úy. Nói cách khác, khả năng quân phòng vệ kinh thành nhặt được đầu mũi tên nọ không nhỏ, khả năng binh lính của vương phủ giả thần giả quỷ trong chùa Tiên Du cũng không nhỏ, song sở hữu được đồng thời cả hai khả năng đó, thì chỉ có một mình Vương đô úy mà thôi!”

Vương Uẩn cau mày toan phản bác, song lại phát hiện ra mình chẳng có lý lẽ gì nữa cả, chỉ biết thốt lên, “Dương công công… quả là liệu sự như thần.”

Vương Lân sững người bất động, ngơ ngẩn nhìn đứa con trai.

Hoàng đế liếc sang, thấy Hoàng hậu đăm đăm ngó Hoàng Tử Hà với nét mặt cứng đờ, bèn nắm lấy tay hoàng hậu, chỉ thấy lạnh băng, bèn ấp luôn hai tay hoàng hậu vào tay mình, an ủi, “Đừng lo, Vương Uẩn là biểu đệ của khanh, thì cũng là biểu đệ của trẫm, bất luận ra sao, trẫm cũng sẽ săn sóc cho y.”

Hoàng hậu ngoái đầu lại, môi he hé chừng như định nói gì, song một hồi lâu thật lâu, hoàng đế cũng chỉ nghe thấy bốn tiếng lí nhí, “Đa tạ bệ hạ.”

Trong khi đó, Lý Thư Bạch nghiêm trang hỏi lại Vương Uẩn, “Nói vậy là mọi chuyện đều do ngươi làm ư? Loan tin oan hồn Bàng Huân đòi mạng là ngươi, khiến Vương Nhược biến mất cũng là ngươi?”

“Phải… tất cả đều do tôi.”

Kẻ thừa nhận, chính là Vương Uẩn.

Y đưa mắt nhìn Hoàng Tử Hà rồi quay lại về phía đế hậu, quỳ xuống thỉnh tội, “Vi thần xin bệ hạ giáng tội, chuyện này… tất cả đều do vi thần nhất thời nảy ý, dẫn đến hành động sai trái, gây ra cục diện như ngày hôm nay, vi thần tội đáng muôn chết!”

“Hở?” Hoàng đế cau mày hỏi, “Vì sao ngươi lại muốn hại Vương Nhược?”

Vương Uẩn đáp, “Vi thần cảm thấy từ hôm được tuyển làm vương phi, A Nhược phản ứng rất khác lạ. Sau khi tra hỏi kẻ hầu người hạ, thần mới biết thì ra cô ấy đã có ý trung nhân ở Lang Gia, hơn nữa bọn Nhàn Vân từng phát hiện cô ấy lén lút ước hẹn, định đến ngày thành hôn sẽ làm náo loạn, gây ra một trận phong ba. Vi thần… liên tưởng đến sự việc khủng khiếp mà vị hôn thê Hoàng Tử Hà của thần gây ra lúc trước, cảm thấy hậu quả thực không sao tưởng tượng được, bèn quyết định phá hỏng mối nhân duyên này.”

Nghe y nhắc tới tên mình, tim Hoàng Tử Hà bất giác đập thình thịch.

Chợt thấy Vương Uẩn ngoái lại nhìn mình, cô đành ra sức kiềm chế bản thân, quyết không để nét mặt làm lộ bí mật. Duy có đôi tay giấu trong tay áo âm thầm nắm chặt lại, móng găm vào lòng bàn tay, cảm giác nhoi nhói nhắc nhở cô, giúp cô gắng gượng giữ bình tĩnh.

Lý Thư Bạch liếc Hoàng Tử Hà, thấy vẻ mặt cô vẫn thản nhiên như không, y bèn cúi đầu ngắm miếng ngọc rủ nơi tay mình.

Chỉ nghe Vương Uẩn phân trần, “Bấy giờ Vương Nhược đã là vương phi do Quỳ vương gia đích thân tuyển lựa, thần biết không thể hối hôn được nữa, đành âm thầm ra tay. Vì năm xưa Quỳ vương dẹp loạn Bàng Huân, uy chấn thiên hạ, thần nghĩ rằng có thể vin vào đó, bèn cố ý bày ra chuyện oan hồn Bàng Huân làm loạn, hòng đánh lạc hướng mọi người. Các nữ quan và hoạn quan của hoàng hậu hiểu được cái khó của nhà họ Vương, nên đều bằng lòng giúp thần. Hoàng hậu không hay biết gì cả, mong bệ hạ rộng lòng minh xét.”

Hoàng Tử Hà nghe xong, cau mày ngẫm nghĩ một thoáng rồi hỏi lại, “Trên canh thiếp của Vương Nhược đã có sai sót ngay từ đầu, cũng là do đô úy làm ư?”

“Sai sót gì?” Vương Uẩn nhất thời ngớ ra.

“Trên canh thiếp định thân viết rằng, Vương Nhược là con gái chi thứ tư ngành thứ của nhà họ Vương Lang Gia, sinh vào giờ Mão hai khắc, ngày 30 tháng Mười nhuận năm Đại Trung thứ mười. Song thực tế tháng Mười nhuận năm Đại Trung thứ mười chỉ có hai mươi chín ngày, không có ngày 30. Chữ ‘nhuận’ cũng là được viết thêm vào sau.”

“Đây là sơ suất của ta.” Vương Uẩn gật đầu thở dài, “Khi trông thấy canh thiếp của Vương Nhược, phát hiện ngày sinh của cô ấy chính là ngày giỗ của mẫu phi của Quỳ vương, theo lý không thể dự tuyển được, ta bèn tài khôn viết thêm một chữ ‘nhuận’ vào chỗ trống. Ty Thiên giám nể mặt hoàng hậu cũng không tra lại, cứ thế phê duyệt là ngày lành rồi cho dự tuyển. Bấy giờ ta còn lấy làm mừng, cho là may mà thành công. Nào ngờ lại khởi nguồn cho nhiều rắc rối.”

“Vậy còn cái chết của Cẩm Nô?”

Vương Uẩn ngẩng lên nhìn Hoàng Tử Hà, cô đang đứng ở nơi sáng nhất, thân hình lồng bóng chiều cứ thế sáng bừng lên, không tì vết, không bợn nhơ, khiến Vương Uẩn chợt có cảm giác không dám nhìn thẳng vào. Y đành nhắm mắt, đáp, “Cũng do ta vạch ra. Trước hết ta phao tin đồn nhảm, sau đó nhân lúc điều động binh mã ty Phòng vệ thì kín đáo đưa Vương Nhược đi. Để trừ sạch hậu hoạn, ta lại đánh thuốc độc Cẩm Nô vì cô ấy có thân hình suýt soát Vương Nhược, cuối cùng đưa thi thể vào điện Ung Thuần…”

Giọng điệu Vương Uẩn hết sức bình thản, như đang tường thuật một chuyện chẳng hề liên quan đến mình, “Thật không ngờ cuối cùng chân tướng lại bị vạch trần, Dương công công liệu việc như thần, chẳng chi tiết nào thoát khỏi mắt thần của công công.”

“Nếu vậy thì, đại nhân nói tôi nghe.” Hoàng Tử Hà nhìn y, hỏi rành rọt từng chữ một, “Đại nhân hạ độc vào hộp phấn hương thông của Cẩm Nô lúc nào?”

“Lúc mọi người không đề phòng, ở Chuế Cẩm Lâu. Sau đó ta lại bám theo, đợi Cẩm Nô ngã gục thì đưa vào cung, đặt trong gác Đông điện Ung Thuần.”

“Đại nhân nói dối!” Hoàng Tử Hà lạnh lùng lật tẩy Vương Uẩn, “Cẩm Nô hết sức trân quý hộp phấn hương thông ấy, luôn đem theo bên người, còn nói rằng từ khi được ban thưởng vẫn cất ngay trong áo. Từ đầu đến cuối đại nhân đều ngồi đối diện Cẩm Nô, xin hỏi có cơ hội nào để hạ độc?”

Vương Uẩn không đáp, cau mày quay mặt đi.

Hoàng Tử Hà gật đầu, “Trong vụ án này, những gì Vương đô úy làm chỉ là sửa đổi canh thiếp lúc ban đầu và rung cây dọa khỉ trong chùa Tiên Du mà thôi, mọi việc về sau đô úy không hề nhúng vào, có muốn ôm trọn cũng phí công thôi. Kẻ chủ mưu thực sự, chính là…”

Nói đến đây, Hoàng Tử Hà thoáng ngập ngừng.

Ánh mắt cô lướt qua đế hậu và hai cha con họ Vương, rồi nhìn đến Lý Thư Bạch.

Lý Thư Bạch nhận ra một thoáng nao núng và phân vân trong đôi mắt trước giờ không mảy may sợ hãi của Hoàng Tử Hà, cho thấy cô đã hiểu rằng sau những lời này, có lẽ không chỉ là chân tướng mà rất có thể bản án tử hình đang chờ đợi mình.

Y chậm rãi gật đầu với cô, vẻ mặt bình thản ung dung như khi nói, “Bất kể thế nào, ta cũng sẽ giữ tính mạng cho ngươi”, thoạt nhìn có vẻ hời hợt nhẹ nhàng, song ẩn chứa đằng sau là một lời hứa hẹn chắc chắn.

Hoàng Tử Hà đặt tay lên ngực, nỗi do dự từ từ rút đi theo tứ chi, thần trí bỗng trở nên sáng suốt lạ thường, chẳng còn lưỡng lự, cô hít vào một hơi thật sâu, rồi nói rành rọt, “Dù Vương đô úy bất chấp tất cả hòng bảo vệ hung thủ thực sự, dù hiện giờ vinh hoa của cả nhà họ Vương đều dựa vào người này, thì chân tướng vẫn là chân tướng, một trăm một ngàn kẻ chịu tội thay, cũng không sao che giấu được vết máu trên tay người đó!”

Ánh mắt Hoàng Tử Hà dừng lại ở hoàng hậu.

Hoàng hậu Vương Thược, mỹ nhân khuynh quốc, dẫu hiện giờ chỉ vận đồ trắng, trang điểm nhạt, vẫn toát lên nhan sắc mê hồn, lặng lẽ ngồi trên sảnh, đường hoàng như một đóa mẫu đơn nở rộ trong buổi chiều lặng gió.

“Người đứng phía sau thao túng tất cả, chính là hoàng hậu.”

Cả sảnh im phăng phắc.

Hoàng đế từ từ buông tay hoàng hậu, ánh nhìn trở nên xa lạ.

Nhàn Vân và Nhiễm vân quỳ sụp dưới đất, người run bần bật, không dám ngẩng lên.

Vương Lân tái mét mặt, chòm râu cằm rung rung.

Chỉ mình Lý Thư Bạch vẫn bình thản như thường, vừa nghịch miếng ngọc rủ nơi tay vừa điềm nhiên hỏi, “Dương Sùng Cổ, mạo phạm hoàng hậu điện hạ là tội gì, ngươi có biết không?”

“Tội chết.” Hoàng Tử Hà đáp không nghĩ ngợi.

“Vậy mà ngươi còn dám nói xằng?”

“Bẩm vương gia, mọi điều nô tài nói đều có chứng cứ xác thực, không một câu nào xằng bậy, cũng không dám nói càn.”

“Dương công công!” Cuối cùng hoàng hậu cũng lên tiếng, giọng nói hơi khàn, song vẫn đầy uy nghi của bậc bề trên cao cao tại thượng, “Nói thử xem mối liên hệ giữa ta và vụ án này đi! Điều đầu tiên ta muốn biết là, ta và A Nhược tình như tỷ muội, tại sao lại phải khiến cô ấy mất tích trước ngày thành hôn, rơi vào cảnh không rõ sống chết như hiện giờ?”

“Đúng vậy, điện hạ và Vương Nhược rất thân thiết, bất cứ ai chứng kiến đều phải xúc động trước tình cảm thân mật cực kỳ hiếm có của một người ngự ở ngôi cao đến thế. Bởi vậy khi tai nghe mắt thấy, nô tài hết sức kính trọng.”

“Thế nên?” Hoàng hậu nhếch môi.

“Mười hai năm trước điện hạ đã vào cung, bấy giờ Vương Nhược chắc mới chừng bốn năm tuổi, lúc trước nô tài chỉ nghĩ, hai tỷ muội cách biệt nhiều tuổi như thế, điện hạ hình như là con của tiểu thiếp dòng chính, quan hệ đối với con gái của chi thứ tư đáng lẽ phải rất xa cách, dù có quý mến, chẳng qua cũng chỉ là máu đào hơn ao nước lã mà thôi, tại sao điện hạ lại quan tâm săn sóc Vương Nhược hơn mức bình thường như vậy?”

“A Nhược là một gương mặt xuất sắc trong đám con gái họ Vương hiện nay, dĩ nhiên ta phải xem trọng.” Hoàng hậu gượng gạo chống chế.

Hoàng Tử Hà cũng chẳng tranh cãi đúng sai, chỉ cúi đầu nói tiếp, “Vì thế, nô tài bắt đầu xem xét đến vấn đề thứ tư, chính là nguyên nhân khiến người phải để Vương Nhược mất tích, phá hỏng cuộc hôn nhân này.”

Hoàng hậu cười nhạt, hơi hếch cằm lên, tựa hồ không thèm nhìn cô.

Hoàng Tử Hà cũng chẳng để tâm, tiếp tục nói, “Nô tài bắt đầu nghi ngờ thân phận của Vương Nhược từ khi dạy cho cô ấy luật lệ trong vương phủ. Ngày ngày kề cận, nô tài đã phát hiện ra những khúc nhạc Vương Nhược học từ nhỏ không phải dạng phong nhã lịch thiệp dành cho hoàng hoa khuê nữ, mà toàn những khúc nơi ngõ liễu tường hoa.

Vương Lân hậm hực phản bác, “Đó là do nhà họ Vương quản giáo con cháu không nghiêm, liên quan gì tới hoàng hậu điện hạ?”

“Đúng vậy, song đồng thời, trên đường từ hoàng cung trở về, nô tài may mắn được Vương cô nương cho đi nhờ xe một quãng. Trên xe ngựa, nô tài đã gặp một người đàn bà tuổi trạc tứ tuần, tuy không theo cô ấy vào cung, nhưng chắc vẫn đợi sẵn trên xe ngựa.” Hoàng Tử Hà quay sang nhìn Nhàn Vân và Nhiễm Vân, “Ta hãy hỏi các ngươi, nhũ mẫu đi theo Vương cô nương từ quê Lang Gia đến, các ngươi có biết không?”

Hai người sợ sệt nhìn nhau, không dám lên tiếng.

Hoàng hậu lạnh lùng bảo, “Có sao nói vậy!”

Nhàn Vân và Nhiễm Vân sợ hãi, cùng lúc gật đầu. Hoàng Tử Hà lại hỏi, “Nhũ mẫu họ gì tên gì, bây giờ đi đâu rồi?”

Nhàn Vân do dự đáp, “Bà ấy… nô tỳ nghe cô nương gọi đâu như là Phùng nương, song ở chung chưa được bao lâu thì bà ấy về quê, nên cũng không rõ lắm…”

“Thật ư? Về quê rồi à?” Hoàng Tử Hà rút trong tay áo ra bức họa Trần Niệm Nương và Phùng Ức Nương đã nhờ người ta vẽ phỏng lại, hỏi, “Các ngươi có nhớ hình dáng Phùng nương không?”

Nhàn Vân và Nhiễm Vân run rẩy trỏ vào Phùng Ức Nương trên bức họa.

“Người trong tranh này tên gọi Phùng Ức Nương. Bốn năm tháng trước, bà ta nhận lời gửi gắm của cố nhân, đưa con gái của người đó vào kinh, từ bấy bặt tin.”

Chỉ vài lời ngắn gọn, vỏn vẹn mấy chữ, mà khiến mọi người có mặt đều lờ mờ nhận ra uẩn khúc, sắc mặt bất giác cau có hẳn đi. Con gái của cố nhân. Chỉ có thể là một người.

“Vì Phùng Ức Nương đi mãi không về, nên sư muội thân thiết của bà ấy, Trần Niệm Nương, chính là vị này…” Hoàng Tử Hà trỏ vào Trần Niệm Nương, “… từ Dương Châu lên kinh tìm người, tình cờ gặp Cẩm Nô. Cẩm Nô từng tiến cử bà ta vào cung, song bệ hạ điện hạ và thái phi đều không thích cổ cầm, nên bà ta cũng chưa thể dựa vào thế lực trong cung để tìm Phùng Ức Nương. Về sau bà ta được Ngạc Vương vời về, khi nô tài cầm bức họa này đến bộ Hộ hỏi giùm bà ta thì không tìm được tung tích Phùng Ức Nương, vì nhà họ Vương không hề ghi tên bà ta vào danh sách nhân khẩu trình lên bộ Hộ.”

Vương Lâm sầm mặt, “Thời gian đó quá bận bịu, hơn nữa bà ta chẳng bao lâu đã quay về, nên không đến bộ Hộ trình báo.”

“Có thực bà ấy đã về Lang Gia rồi không?” Hoàng Tử Hà chẳng kiêng dè gì Vương Lân, thẳng thừng kể tiếp, “Thực không may, ở bộ Hộ, nô tài đã gặp được một tiểu lại vừa đi xử lý thi thể đám dân lưu vong U Châu về. Hắn cho biết trong đó có một người giống hệt Phùng Ức Nương trên bức họa, còn nhớ nơi mày trái cái xác có một nốt ruồi đen.”

Chân mày Vương Lân nhiu nhíu. Nhàn Vân và Nhiễm Vân bắt đầu rên rỉ.

Hoàng Tử Hà chẳng để tâm đến phản ứng của họ, vẫn tiếp tục kể, “Không sai, người có nốt ruồi bên mày trái, chết trong đám lưu dân lưu vong U Châu, chính là Phùng Ức Nương. Đêm đó nô tài và Chu Tử Tần đã đến bãi tha ma, tìm thấy một miếng ngọc bội trong người Phùng Ức Nương, chính là tín vật bà ta trao đổi với Trần Niệm Nương, lúc hấp hối vì độc phát, bà ta đã đã nuốt miếng ngọc vào bụng, quyết không rời nó, cũng nhờ thế, chúng nô tài mới xác minh được thân phận cái xác.”

Mọi người trong sảnh đều kinh hãi tột độ, Lý Thư Bạch lên tiếng, “Theo ngươi, nguyên nhân cái chết của Phùng Ức Nương là gì?”

“Đương nhiên là tại cô con gái cố nhân mà bà ta hộ tống kia. Nguyên nhân cái chết của bà ta, cô ấy là người biết rõ nhất.”

Vương Lân hạ giọng, song không nén nổi nỗi tức giận lộ ra qua giọng điệu, “Dương công công, nhà họ Vương chúng ta không thù oán gì với ngươi, vậy mà ngươi cứ luôn miệng nhắc con gái cố nhân của một ca kỹ Dương Châu, hình như định ám chỉ ai ư?”

“Đúng vậy, người nô tài ám chỉ, chính là Vương Nhược.” Hoàng Tử Hà thẳng thừng đáp, vạch trần bức màn đậy điệm chẳng chút nể nang.

Lần này, ngay cả hoàng hậu cũng tái mặt, gắng giữ cho tay khỏi run lên, gằn giọng, “Tên tiểu hoạn quan nhà ngươi có biết, không bằng không cớ mà đặt điều nói bậy sẽ phải chịu tội thế nào không? Nhà họ Vương là đại gia tộc đã mấy trăm năm, trước khi mở miệng, ngươi phải cân nhắc lời lẽ cho cẩn thận!”

Hoàng Tử Hà cúi đầu, ”Điện hạ bớt giận, hôm nay nô tài vạch trần vụ án, tức là đã quyết đặt cược tính mạng rồi. Còn vì sao điện hạ muốn Vương cô nương biến mất, những gì nô tài phân tích tiếp theo đây, có lẽ còn đại nghịch bất đạo hơn cả việc vạch trần thân thế của Vương cô nương.”

“Được lắm, vậy ngươi nói tiếp đi!” Hoàng hậu giận dữ nói, gương mặt kiều diễm đã hơi tái đi, toát ra vẻ quật cường mà cao ngạo.

Hoàng Tử Hà cúi lạy, “Lúc còn ở cạnh Vương Nhược, có lần nô tài đã nghe cô ấy lo lắng hỏi rằng: Vương Chí phi tử của Hán Cảnh Đế vốn đã sinh hạ một con gái ngoài dân gian, sau lại giấu giếm việc thành hôn mà bước vào phủ thái tử, cuối cùng còn lên ngôi thái hậu, nếu hành vi của Vương Chí bị phát hiện, có phải sẽ gây ra họa lớn không?”

Hoàng hậu nhìn chằm chằm vào Hoàng Tử Hà, đôi môi tái nhợt đi, chẳng khác nào cánh hoa tàn héo. Mất một lúc lâu mới cất tiếng, “A đầu này thực ngu ngốc, sao có thể bàn luận chuyện như vậy với người khác chứ!”

Không khí trong sảnh càng thêm nặng nề. Hoàng đế ngả người ra lưng ghế, gương mặt xưa nay vẫn ôn hòa giờ đanh lại, xám ngoét. Song người không hề lên tiếng ngăn câu chuyện, chỉ đưa mắt nhìn ra ngoài cửa sổ như đang ngắm khung cảnh bên ngoài, lại như đang nhìn vào một thế giới hư vô xa xăm nào đó.

Giữa sảnh đường lặng phắc, giọng Hoàng Tử Hà vẫn lạnh lùng đến mức vô tình, cuối cùng cũng vạch trần sự thực kinh khủng, “Bấy giờ nô tài cũng từng nghi ngờ, có phải Vương Nhược đã xuất giá rồi ém nhẹm đi để dự tuyển vương phi hay không. Nhưng về sau nô tài phát hiện ra, cô ấy nói tới một người khác.”

Hoàng hậu lạnh lùng nhìn cô, khẽ giơ tay ngăn cô nói tiếp, đoạn quay sang nhìn hoàng đế ngồi bên, gượng cười, “Chẳng lẽ bệ hạ lại dung túng cho kẻ này tiếp tục nói càn nói bậy hay sao?”

Ánh mắt hoàng đế lướt qua Hoàng Tử Hà, rồi từ từ dừng lại ở hoàng hậu.

Cả sảnh đường im phăng phắc. Ngoài song là bóng cây xanh um đầu hạ, lác đác tiếng ve trong tán lá.

Giọng hoàng đế hết sức chậm rãi, như gần lại như xa, “Đã nói đến đây rồi mà còn ngừng, thể nào về sau cũng nảy sinh nhiều nghi ngờ khúc mắc. Chi bằng chúng ta cứ nghe cho hết rồi xét xem câu chuyện có lý hay không, sau đó mới cân nhắc trị tội, khanh thấy sao?”

Gương mặt kiều diễm của hoàng hậu chỉ nháy mắt đã xám ngoét, như bông hoa bị mưa gió hồi đêm dập vùi tan tác. Vì những lời này, cho thấy trong lòng hoàng đế đã nhen nhóm nghi ngờ.

Hoàng hậu từ từ bỏ tay xuống, song lưng vẫn thẳng, giữ nguyên dáng ngồi hoàn mỹ, đường đường phong thái mẫu nghi thiên hạ, kiêu hãnh không ai bì kịp.

Ánh mắt Vương Lân nhìn Hoàng Tử Hà đã trở nên thâm độc mà căm hận, rõ ràng nếu được quyết định, nhất định ông ta sẽ thẳng tay giết chết cô ngay lập tức.

Vương Uẩn vẫn lặng lẽ đứng đó, gương mặt trắng trẻo nho nhã thoáng nét thảng thốt và buồn rầu. Nhìn tên hoạn quan có dung mạo y đúc lại giỏi rút tơ bóc kén đánh thẳng vào yếu huyệt như vị hôn thê của mình, y bất giác mím môi.

Lý Thư Bạch đưa mắt nhìn Hoàng Tử Hà. Cô gật đầu, ra dấu mình vẫn ổn, rồi tiếp tục nói, “Câu hỏi thứ tư là vì sao hoàng hậu điện hạ lại muốn Vương Nhược mất tích. Câu trả lời là vì có hai người xuất hiện và một người chết. Người đầu tiên xuất hiện là Vương Uẩn Vương đô úy. Đô úy giả thần giả quỷ ở chùa Tiên Du, vốn định khiến Vương Nhược thấy khó mà lui, nào ngờ lại kinh động đến hoàng hậu. Vương đô úy không hiểu sự tình, cứ ngỡ Vương Nhược chỉ là một cô gái mạo danh thế thân do Vương thượng thư tìm về mà thôi, chuyện này đương nhiên càng ít người biết càng tốt, nên hoàng hậu và Vương thượng thư đã che giấu cả Vương đô úy. Song Vương đô úy lại tự ý hành động, giấu giếm hoàng hậu và Vương thượng thư, nhất định các vị không thể nào ngờ được, manh mối đầu tiên khiến mọi chuyện bại lộ lại bắt nguồn từ con cháu các vị.”

Vương Lân nín lặng, Vương Uẩn thì nhìn vào một điểm hư vô giữa không trung, nghe cô phân tích.

“Người thứ hai xuất hiện, chính là Cẩm Nô. Cẩm Nô và nô tài từng gặp mặt vài lần, cô ấy luôn canh cánh nhớ nhung sư phụ Mai Vãn Trí đã qua đời từ lâu. Trong lòng cô ấy, người đó là niềm kiêu hãnh và mộng tưởng lớn nhất đời này. Nhưng cô ấy không ngờ, mười hai năm sau, tại Trường An cách Dương Châu hàng ngàn dặm, ở một nơi phồn hoa bậc nhất trên đời – gác Bồng Lai của cung Đại Minh, cô ấy tái ngộ người mà mình ngỡ rằng không thể nào gặp lại nữa. Chính là Mai Vãn Trí, sư phụ của cô ấy!”

Tay hoàng hậu run run, song người vẫn quật cường hếch cằm lặng thinh.

“Bấy giờ Cẩm Nô đứng cạnh nô tài, tái mét từ đầu đến chân, nhưng nô tài cứ ngỡ cô ấy bàng hoàng vì quen Vương Nhược, ngờ đâu bí mật mà cô ấy nhận ra còn vượt xa, còn đáng sợ hơn tưởng tượng của nô tài. Cô ấy trông thấy sư phụ mình đứng ở ngôi vị cao nhất mà một nữ nhân có thể đạt được trong thiên hạ, lộng lẫy huy hoàng, nghiêng thành nghiêng nước. Song thân phận của bà ta đã không còn là nhị tỷ Mai Vãn Trí ở Vân Thiều Uyển năm xưa nữa!”

Hoàng hậu nhếch mép cười giễu cợt, lạnh lùng lên tiếng, “Dương công công, Cẩm Nô đã chết rồi. Đó gọi là chết không đối chứng, nếu ngươi không trình được bất kỳ bằng chứng nào, trước sau đưa ra toàn suy đoán suông thì ta chỉ có thể coi đây là những lời vô căn cứ. Cúi xin bệ hạ đừng nghe mấy chuyện bịa đặt, phải trị tên hoạn quan này tội đại bất kính!”

Thấy lưng hoàng hậu run lên, gương mặt phẫn hận cùng cực, hoàng đế chỉ giơ tay vỗ nhẹ ra ý an ủi, song chẳng nói năng gì, vẫn chăm chú quan sát Hoàng Tử Hà, vẻ trầm ngâm.

Vương Lân phất tay áo, quỳ xuống trước mặt hoàng đế đau đớn tâu, “Bệ hạ! Nhà họ Vương chúng thần là danh gia vọng tộc, phát tích ở Lang Gia, các nhà dòng dõi hiện nay chẳng ai hơn được. Huống hồ hoàng hậu là con gái dòng đích, kề cận bên mình đế vương suốt mười hai năm, là bậc mẫu nghi thiên hạ làm vẻ vang cho cả gia tộc. Tên hoạn quan nhãi nhép này chẳng hiểu vì sao lại muốn ngậm máu phun người, đặt điều xằng bậy, ám chỉ hoàng hậu thân phận bất chính, cúi xin bệ hạ đừng nghe hắn nói năng càn rỡ nữa, hãy trị hắn tội đại bất kính, cắt lưỡi tùng xẻo để răn đe kẻ khác!”

“Vương thượng thư nói sai rồi!” Lý Thư Bạch nghịch chiếc quạt trong tay, ngả người ra lưng tựa ghế, vẻ thong dong nhàn tản, “Bệ hạ đã nói, nếu phán đoán của hắn có chỗ không thỏa đáng, nhất định sẽ trừng trị, song hiện giờ tất cả những gì hắn nói đều có căn cứ, bằng chứng xác đáng cả. Theo ta thấy, Vương thượng thư cứ bình tĩnh, nếu thượng thư cho rằng lời hắn nói hoang đường nhảm nhí, thì sau đây có thể phản bác, bệ hạ thánh minh sẽ xét theo công đạo, phân rõ trắng đen, thưởng phạt rành mạch, không để bất cứ ai chịu oan cả.”

Hoàng đế gật đầu, “Đúng thế, Vương ái khanh nghe hắn nói hết xem sao? Là thật hay giả, trẫm tự biết phân biệt, quyết không nhân nhượng ai đâu.”

Vương Lân nghe giọng hoàng đế đã có phần lạnh lùng, trong lúc nói lại không hề nhìn hoàng hậu, lòng bất giác trỗi lên một cơn ớn lạnh đầy tuyệt vọng.

Hoàng Tử Hà tiếp tục, “Cẩm Nô ắt phải chết, vì cô ta đã lén thấy thiên cơ. Cẩm Nô biết nếu mình tiết lộ sẽ chẳng còn chốn dung thân, nên chọn cách che giấu, hy vọng có thể dùng tấm lòng kính yêu và lưu luyến dành cho sư phụ để lay chuyển bà ta. Song cô ấy đã thất bại. Sau hôm Vương Nhược mất tích, Cẩm Nô nhận được bộ đồ bảo dưỡng tỳ bà mà hoàng hậu ban thưởng, trong đó có móng ngọc, dây đàn và phấn hương thông. Hôm trên điện nô tài cũng lấy làm lạ, hoàng hậu xưa nay tỏ vẻ không thích ca múa, sao lại am hiểu việc bảo dưỡng tỳ bà? Thậm chí còn ban thưởng đồ chuyên dụng cho Cẩm Nô, thực khiến người ta không sao ngờ nổi. Cẩm Nô hoan hỉ đón nhận quà tặng của vị sư phụ xa cách lâu ngày, còn trân trọng cất hộp phấn hương thông vào ngực áo, có ai ngờ nó lại là một đạo bùa lấy mạng!”

Gương mặt kiều diễm vô song của hoàng hậu tái đi, nhưng miệng vẫn cười nhạt, “Hoang đường, mười mấy năm trước mười mấy năm sau cái gì chứ! Ta mới gặp nhạc công đó một lần, tiện thể ban quà gặp mặt, trước khi ban thưởng có theo lệ xem qua. Sao ngươi không nói cô ta giao du với đủ hạng người, nào biết đã kết oán với ai trong cung, trong giáo phường? Làm sao chắc chắn được người ta hạ độc vào hộp phấn thế nào cơ chứ?”

“Khi Nội Đình ban thưởng, để phòng nhầm lẫn hoặc tham ô, xưa nay đều do ba người trở lên nhận lĩnh, giám sát lẫn nhau, lại đưa cho người ban thưởng xem qua, rồi ba người cùng đi đưa. Tuy phiền phức, song cũng chứng tỏ những người khác tuyệt đối không thể ra tay được. Hơn nữa nô tài tin rằng, nếu bệ hạ đích thân tra xét, hẳn sẽ biết hoàng hậu điện hạ có từng lấy riêng hộp phấn kia đi kiểm tra hay không. Ngoài ra, Cẩm Nô cực kỳ trân quý những thứ hoàng hậu ban tặng, hôm đó tại Chuế Cẩm Lâu, chúng nô tài đều tận mắt thấy cô ấy rút hộp phấn và móng ngọc được ban từ trong ngực áo ra, còn nói từ khi nhận vẫn cất hộp phấn ấy ở đó, xin hỏi người khác làm sao có cơ hội hạ độc?”

Hoàng hậu chỉ cười nhạt, cằm bạnh ra.

“Đây là hai người xuất hiện trước mặt hoàng hậu. Còn người chết, chính là Phùng Ức Nương. Cái chết của bà ấy thúc đẩy việc thân phận Vương Nhược bại lộ, đồng thời cũng khiến nô tài phát hiện ra người đứng sau tất cả, tức cố nhân đã nhờ bà ta hộ tống Vương Nhược vào kinh, rốt cuộc là ai.”

Mọi người đều lặng thinh, bầu không khí nặng nề mà ngột ngạt, đáp án đã ở ngay cửa miệng, chỉ là tất cả đều không thể, cũng không dám thốt ra.

“Đến bây giờ, hẳn cũng không cần nô tài nhiều lời nữa. Cố nhân của Phùng Ức Nương chính là thánh thủ tỳ bà Mai Vãn Trí, xếp hàng thứ hai trong Vân Thiều Lục Nữ, cũng chính là sư phụ của Cẩm Nô, được cho là đã qua đời mười hai năm trước, từng thành hôn và sinh hạ một cô con gái ở Dương Châu.” Giọng Hoàng Tử Hà trầm thấp mà bình tĩnh, càng toát ra sự lạnh lẽo vô tình, “Con gái bà ta tên là Trình Tuyết Sắc, cũng có thể đổi tên khác, gọi là Vương Nhược.”

Hoàng hậu vẫn ngồi ngay ngắn, ánh mắt băng giá, nhìn Hoàng Tử Hà, song không lên tiếng.

“Sự xuất hiện của gã đàn ông trong chùa Tiên Du như lời cảnh báo Vương Nhược về quá khứ của mình. Sự xuất hiện của Cẩm Nô kẻ biết rõ thân phận Vương Nhược và hoàng hậu, cộng thêm Phùng Ức Nương vừa bị hoàng hậu giết chết… Tất cả đã khiến hoàng hậu hiểu ra rằng, lai lịch không thể tiết lộ của Vương Nhược đã bị người ta phát giác, dù cô ấy suôn sẻ bước vào vương phủ thì về sau cũng còn rủi ro rình rập, không chừng có một ngày bị vạch trần thân phận, kết cục thế nào thật không thể tưởng tượng nổi. Bởi vậy để bảo vệ Vương Nhược, cũng là bảo vệ cả nhà họ Vương, Vương Nhược đành phải biến mất, mà câu chuyện âm hồn Bàng Huân xuất hiện tại chùa Tiên Du cùng tin đồn xôn xao cả kinh thành chính là trận hỏa mù tuyệt nhất do hoàng hậu tương kế tựu kế tung ra.”

“Hừ, rặt những phỏng đoán vô căn cứ!” Cuối cùng hoàng hậu cũng lạnh lùng lên tiếng.

Hoàng Tử Hà gật đầu, “Điện hạ đã nói vậy, nô tài cũng chẳng biết làm sao. Tiếp theo đây nô tài còn một suy đoán khác, bắt nguồn từ mười hai năm trước và kết thúc vào hôm qua, nó còn mờ mịt mông lung hơn hết thảy các phỏng đoán nãy giờ, nhưng cũng đáng sợ hơn hết thảy. Nghe xong, có lẽ điện hạ sẽ không thể chấp nhận được, nhưng nô tài vẫn muốn nói cho người biết, tất cả tâm cơ của người, cuối cùng lại tạo thành hậu quả khủng khiếp nhất.”

Hoàng hậu cười nhạt, chẳng buồn nhìn Hoàng Tử Hà, thái độ đầy miệt thị.

Hoàng Tử Hà cũng chẳng lấy thế làm điều, chậm rãi nói rành rọt từng chữ, “Trần Niệm Nương từng kể với nô tài một câu chuyện từ mười hai năm trước. Trong sáu người lập ra Vân Thiều Uyển, thì nhị tỷ Mai Vãn Trí với ngón đàn tỳ bà mê hoặc lòng người đã biến mất trong một đêm, chỉ để lại một con gái tên gọi Trình Tuyết Sắc. Bất kể Tuyết Sắc căn vặn thế nào, thì người cha họa sư nghèo khó của cô ấy cũng chỉ nói rằng, mẹ đã chết rồi. Tuyết Sắc theo cha về Liễu Châu, hai cha con sống trong cảnh nghèo túng kham khổ đến năm cô ấy mười tuổi thì người cha qua đời. Chỉ còn một thân một mình, gia sản cũng bị cướp mất, Tuyết Sắc đành sống giữa sự ngược đãi của đám họ hàng hám lợi. Mãi đến ba năm trước, tam tỷ Lan Đại ở Từ Châu ngẫu nhiên biết tin Tuyết Sắc, bèn viết một bức thư cho cô ấy, nói rằng nếu cần giúp đỡ có thể đến Từ Châu nương tựa mình. Rất lâu sau, chuyển qua tay bao nhiêu người thì Tuyết Sắc đang sống giữa tuyệt vọng mới nhận được lá thư đó, vậy là cô gái mười bốn tuổi rời khỏi Liễu Châu, một thân một mình lên đường đến Từ Châu.”

“Câu chuyện thứ hai khởi nguồn từ Quỳ vương gia đây.” Hoàng Tử Hà ngập ngừng, đưa mắt nhìn Lý Thư Bạch, thấy y khẽ gật đầu mới tiếp tục kể, “Ba năm trước, Bàng Huân mưu phản, Quỳ vương phụng lệnh đến Từ Châu liên thủ với sáu tiết độ sứ tiến hành chinh phạt. Ngày công phá Từ Châu, gia từng giải cứu hai thiếu nữ mười ba mười bốn bị thuộc hạ của Bàng Huân bắt giữ. Một trong hai cô họ Trình, kể rằng mình tới nương tựa người cô là Lan Đại, nào ngờ đến đây mới nghe nói Lan Đại vì chạy loạn Bàng Huân đã dời nhà sang Dương Châu. Cô Trình tặng Quỳ vương một cây trâm sương lá bằng bạc, song Quỳ vương không để tâm đến người không rõ lai lịch làm gì, bởi thế đợi cô ấy đi khỏi, gia ném luôn cây trâm đi. Hơn nữa họ lại bôi đất cát lên mặt để người ta không thấy được dung mạo thật, nên Quỳ vương không nhớ được nét mặt họ.”

Kể xong đoạn này, thấy mọi người đều trầm tư ngẫm nghĩ, hoàng hậu cũng mím chặt môi lặng thinh, Hoàng Tử Hà bèn nói tiếp, “Trên đây là hai mẩu chuyện do người khác thuật lại, còn tiếp theo là phỏng đoán do nô tài tự suy đoán ra bằng cách kết hợp những manh mối điều tra được, không có ai làm chứng cả. Đương nhiên, nếu các vị không đồng tình, hoàn toàn có thể coi là nói bừa. Mấy tháng trước, trong cung bắt đầu rục rịch tuyển vương phi cho Quỳ vương. Đúng lúc này, Phùng Ức Nương ở Vân Thiều Uyển nhận được một phong thư của cố nhân, nhờ bà ta hộ tống con gái mình lên kinh. Cô gái đó chính là Trình Tuyết Sắc. Phùng Ức Nương chẳng hề cân nhắc tại sao cố nhân không nhờ các tỷ muội ngày trước như bọn Lan Đại. Tuy nhiên vì từng hàm ơn người ta, bà bèn lặn lội đi lên phương Bắc, sau khi đón người ở Bồ Châu thì đưa thẳng cô ấy lên kinh. Cũng đến lúc này bà ta mới biết, cố nhân năm xưa giờ đã ngồi trên ngôi cao vời vợi. Có lẽ bà ấy cũng từng mừng rỡ, nhưng sau cùng, khi bụi bặm rơi rớt hết, Quỳ vương phi được quyết định, thì bà ấy cũng nhanh chóng biến mất khỏi cõi đời. Một con cờ không quan trọng, lại biết điều không nên biết như vậy, đã được định sẵn là sẽ bị vứt bỏ. Cùng lúc ấy, sư muội Phùng Ức Nương là Trần Niệm Nương lên kinh tìm người. Song một người ở đầu đường xó chợ, kẻ ở cửa rộng nhà cao, giữa cả trăm vạn người trong kinh thành, hai bên rốt cuộc vẫn lỡ mất nhau. Cẩm Nô tiến cử bà ta tới biểu diễn cho đế hậu, song không được hoan nghênh cho lắm, vì thế mà phải lùi bước, rồi được mời vào phủ Ngạc vương. Ngạc vương giới thiệu bà ta đến bộ Hộ tìm người, nhờ đó nô tài mới biết Phùng Ức Nương đã bị hãm hại mà chết. Về sau, nô tài trao di vật của Phùng Ức Nương lại cho Trần Niệm Nương, bà ta cũng nhận lời giúp nô tài tìm một bức họa hiện giờ đang ở trong tay Lan Đại, còn yêu cầu phải do chính Tuyết Sắc đưa đến Trường An. Đó chính là bức họa Vân Thiều Lục Nữ do Trình họa sư người bạn kết tóc xe tơ của Mai Vãn Trí năm xưa vẽ cho sáu người bọn họ. Tài họa tuyệt đỉnh, người trong tranh đều sinh động như thật, thoạt nhìn là nhận ra ngay. Hôm kia Trình Tuyết Sắc nhận được tin, đã mang bức họa từ Bồ Châu đến Trường An. Song chính vì thế mà cô ta rước lấy họa sát thân, sau khi tranh bị cướp, người cũng trở thành thi thể không đầu vô danh dưới con kênh ở phường Quang Trạch!”

Hoàng hậu cười nhạt, “Đúng là suy đoán vớ vẩn, vừa rồi ngươi nói mấy tháng trước Tuyết Sắc được Phùng Ức Nương đưa đến Trường An, giờ lại thành mấy ngày trước một mình từ Bồ Châu đến Trường An. Chẳng lẽ trên đời lại có hai Tuyết Sắc?”

“Đúng là có hai người.” Hoàng Tử Hà nhìn hoàng hậu, giọng điệu như thương xót, lại như bi ai, “Ở Từ Châu, Quỳ vương đã cứu được hai thiếu nữ tuổi xấp xỉ nhau. Trên đường lưu lạc, họ đã gặp gỡ, nương tựa vào nhau mà đến Từ Châu, không tìm được người thân lại rơi vào vuốt quỷ, chẳng tiếc mạng mình để bảo vệ lẫn nhau, quả là đồng sinh cộng tử. Cuối cùng cả hai đều đến Dương Châu, về sau lại theo Lan Đại rời đến Bồ Châu. Thiếu nữ còn lại, tên là Tiểu Thi.”

“Vậy trong hai người một trước một sau tiến kinh, rốt cuộc ai mới là Trình Tuyết Sắc thật?” Hoàng Tử Hà nhìn chằm chặp vào hoàng hậu, nói rành rọt từng chữ, “Nô tài chỉ kể hai chuyện nhỏ thế này thôi. Chuyện thứ nhất là, hồi Vương Nhược còn chưa mất tích, một hôm nô tài đến phủ nhà họ Vương, thấy cô ấy đang ngủ trong phòng, gặp ác mộng hay sao mà trong lúc mê man cứ lẩm bẩm một cái tên: Tuyết Sắc, Tuyết Sắc!”

Hoàng hậu liền run bắn người lên, sắc mặt cũng tái nhợt đi một cách đáng sợ, khiến mọi người đều phải rùng mình.

Song Hoàng Tử Hà vẫn làm như không thấy, chỉ hít vào một hơi rồi kể tiếp, “Chuyện thứ hai là, hôm Cẩm Nô vào biểu diễn cho điện hạ xem, trông thấy Vương Nhược đã buột miệng, ‘Không thể nào… Nếu là như vậy, Quỳ vương phi sao có thể là cô ta…’ Điện hạ nghĩ coi, ngay cả Cẩm Nô cũng biết con gái ruột của sư phụ mình là ai, vậy mà người mẹ năm xưa đã vứt bỏ cô ấy lại không hề phát giác bên cạnh mình là Tiểu Thi, một kẻ chẳng có quan hệ máu mủ gì.”

Hoàng hậu đờ ra như tượng gỗ, không mảy may phản ứng, gương mặt kiều diễm từng khuynh đảo chúng sinh giờ đầy vẻ chết chóc, mắt mở trừng trừng nhưng hoàn toàn lạc tròng.

Cả sảnh lặng phắc như tờ. Trước con mắt bao người, vị hoàng hậu thường ngày đoan trang uy nghi giờ đã gục ngã triệt để chỉ vì hai câu nói của Hoàng Tử Hà.

“Có lẽ điện hạ không bao giờ ngờ được, Phùng Ức Nương mà người tùy tiện xóa sổ lại có một tỷ muội gắn bó sống chết là Trần Niệm Nương. Cẩm Nô từng kể, Trình Tuyết Sắc lớn lên rất giống người, bởi vậy khi trông thấy Tuyết Sắc và bức họa cô ấy đem đến, Trần Niệm Nương hiểu ra ngay ai là con gái của cố nhân, rồi ai là cố nhân đã nhờ vả Phùng Ức Nương lên kinh, và cuối cùng Phùng Ức Nương chết vì lẽ gì. Bởi thế bà ta không đưa Tuyết Sắc tới gặp nô tài như đã hẹn, mà để Tuyết Sắc ở lại chỗ Cẩm Nô, cố ý loan tin trong bức họa Vân Thiều Lục Nữ có ẩn chứa đạo lý về đàn ca, định lợi dụng miệng lưỡi các nghệ nhân giáo phường và cả Ngạc vương gia để đưa tin này lan truyền vào cung. Điện hạ sẽ không đời nào để người ta nhìn thấy bức họa này, vì trong đó có một người chính là điện hạ. Còn Tuyết Sắc, sau khi được Quỳ vương gia cứu ở Từ Châu, với tính tình quật cường cố chấp, cô ấy đã đợi gia từ năm mười bốn đến tận mười bảy tuổi. Khi người mẹ tưởng rằng đã chết nhờ Phùng Ức Nương đưa cô ấy vào kinh, nói sẽ sắp xếp cho cô ấy cuộc sống tốt đẹp nhất, thì cô ấy vẫn muốn tiếp tục đợi. Đồng thời, có lẽ bị ảnh hưởng bởi việc cha sớm qua đời trong cảnh túng thiếu, bản thân phải trôi dạt lênh đênh, cô ấy đã sinh lòng oán hận, đổ tất cả tội lỗi lên đầu người mẹ vứt bỏ mình từ nhỏ. Tuyết Sắc bèn bàn bạc với Tiểu Thi, dù sao mười hai năm không gặp, nhất định mẹ không nhận ra con nữa, mà Phùng Ức Nương chỉ mới gặp qua bọn họ một lần vào năm mười bốn tuổi lúc lưu lạc đến Dương Châu, cũng làm sao nhớ mặt Tiểu Thi? Bởi vậy cô ấy để Tiểu Thi thay mình vào kinh, có lẽ còn hy vọng Tiểu Thi sẽ tìm được vị tướng quân năm xưa đã cứu hai người bọn họ. Nhưng họ không sao ngờ được, mẹ của Tuyết Sắc giờ đã mang thân phận khác, mà người Tiểu Thi được sắp xếp gặp mặt lại chọn đúng cô ấy giữa bao người, chính là ân nhân đã cứu họ khi xưa, cũng là nguyên nhân khiến Tuyết Sắc kiên tâm ba năm chờ đợi!”

Im lặng như tờ. Tĩnh mịch như chết.

Hoàng Tử Hà cất cao giọng, vạch trần đến vết sẹo cuối cùng, “Cô gái mà điện hạ sai giết hại đêm đó ở Trường An rồi vứt xác xuống kênh thay cho Cẩm Nô, mới là con gái ruột của người. Trình Tuyết Sắc!”

Hoàng hậu vẫn bất động, ngồi đờ ra đó, lâu thật lâu sau, từ đôi mắt trợn trừng lạc tròng kia bỗng lăn dài hai hàng nước mắt. Người cắm hai tay vào búi tóc, run bần bật bưng lấy đầu, như thể không làm vậy thì đầu sẽ nổ tung mất.

Cuối cùng hoàng hậu cũng mở miệng, giọng khàn đặc, “Ngươi nói dối… Ngươi… nói láo…”

Hoàng Tử Hà đứng im, nhìn người phụ nữ khuỵu ngã trước câu nói của mình, cảm thấy trong lòng trào lên một cảm giác hỗn tạp, thương xót hòa lẫn với căm hận, tựa hồ những người chết dưới tay hoàng hậu như Cẩm Nô, như Phùng Ức Nương, như Tuyết Sắc và cả đám ăn mày ở phường Sùng Nhân đều đang ở trong huyết mạch cô, rít lên những tiếng oán hờn, khiến cô mất kiểm soát, vô tình cũng bị lây nhiễm tâm trạng của họ.

Hoàng hậu cứ lẩm bẩm nhắc đi nhắc lại mãi hai chữ, “Nói dối… nói láo!”

Mấy lời gọn lỏn hoàng hậu thốt ra khiến nét mặt hoàng đế cũng xám xanh, người bấu chặt lấy tay ghế, dụng lực quá mạnh nên mấy đốt ngón tay đều trắng bệch ra.

Gương mặt vốn diễm lệ của hoàng hậu méo mó hẳn đi, người vừa ôm siết lấy đầu vừa nghiến răng cười khẩy như đã hóa điên. Trên khuôn mặt quỷ quái gắng gượng nặn ra nụ cười ấy, từng giọt nước mắt lã chã rơi xuống. Lúc này đây, người phụ nữ luôn điềm tĩnh đoan trang nọ đã suy sụp hoàn toàn, “Nói càn nói bậy, rõ ràng là nói càn nói bậy!”

Vương Lân vừa cuống vừa sợ, tái mét mặt ra hiệu cho Nhàn Vân và Nhiễm Vân bước lên giữ lấy hoàng hậu, rồi vội vã thỉnh tội với hoàng đế, “Bệ hạ, e rằng tên hoạn quan này đã yểm bùa hoàng hậu, mới khiến người nói năng lảm nhảm như thế! Hoàng hậu là con gái thứ của chi trưởng nhà họ Vương Lang Gia, sao có thể xuất thân từ kỹ viện ca vũ gì chứ…”

“Vương Lân!” Trước vẻ điên loạn tuyệt vọng của hoàng hậu, mặt hoàng đế lạnh đi như phủ sương, mắt trừng trừng nhìn Vương Lân, người chậm rãi gằn giọng, “Thú thật đi. Ngươi hãy kể lại rõ ràng mọi chuyện từ mười hai năm trước xem! Nếu trẫm tra ra một chữ giả trá, sẽ khiến cả nhà họ Vương các ngươi không bao giờ được ra làm quan nữa.”

Vương Lân ngoái lại, thấy hoàng hậu đã từ từ tỉnh ra nhưng vẫn ngây người, như hối hận về hành vi luống cuống vừa rồi, lại vẫn như chìm trong cơn bi ai cuồng loạn. Lòng chợt dâng lên một nỗi kinh hoàng khó tả, ông ta chỉ biết phủ phục dưới đất, cất giọng khàn khàn run rẩy tâu, “Bệ hạ, thần tội đáng muôn chết, không dám xin bệ hạ dung tha, chỉ mong bệ hạ giáng tội một mình thần, đừng trừng trị cả nhà họ Vương. Chuyện này đều do thần một tay sắp đặt thao túng, ngay cả hoàng hậu… bấy giờ cũng bị thần bức ép!”

Hoàng đế vỗ trán ngắt lời, “Ngươi khỏi phải bào chữa cho kẻ khác, cứ khai thực đi!”

“Vâng…” Vương Lân phủ phục dưới đất, áp trán lên nền gạch xanh lạnh ngắt, giọng nói tuyệt vọng mà thê lương, “Bệ hạ, năm xưa sau loạn Hầu Cảnh, nhà họ Vương hao tổn nguyên khí, con cháu tan tác cả. Đến mười hai năm trước, họ Vương chỉ còn lại bốn năm cháu trai mà kẻ duy nhất có triển vọng chính là Uẩn nhi nhà thần, thứ hai chính là người năm xưa kề cận bệ hạ, Vận vương phi Vương Phù…”

Hoàng đế trầm tư chốc lát, đoạn nói, “Trẫm vẫn nhớ, tiếc rằng nàng bạc mệnh, chỉ ở bên trẫm hơn nửa năm đã qua đời.”

“Bấy giờ bệ hạ vẫn là Vận vương, theo lệnh tiên hoàng đến sống tại Thập Lục Trạch. Sau khi A Phù qua đời, nhà họ Vương đau đớn khôn xiết, lại không muốn để mất ngai vị vương phi, cho rằng bệ hạ có thể vì A Phù mà ghé mắt cân nhắc những lựa chọn khác trong họ, bèn mời bệ hạ đến dự tiệc, trong bữa tiệc lại cho mấy tiểu thư ra bái kiến.”

Hoàng đế gật đầu liếc sang bên, thấy hoàng hậu ngồi đờ đẫn như tượng gỗ, chẳng nói chẳng rằng, mở to đôi mắt hoang mang nhìn mình. Hoàng hậu đã tỉnh táo trở lại, song biết rõ sự tình bại lộ không thể giở trò gì được nữa nên chỉ đăm đăm nhìn hoàng đế, trong mắt có vẻ vật nài van vỉ, cũng có vẻ bi thiết sầu thương, nước mắt nhòe mi, chẳng nói nửa lời. Suốt mười hai năm nay người phụ nữ này đã bầu bạn bên người từng bước đi đến ngai vàng, đóa mẫu đơn trắng tinh khôi đã có dấu hiệu ngả vàng như bị vò nát, khiến hoàng đế vừa giận dữ vừa xót xa, cuối cùng không nhịn được đành nghiến răng quay đi, không muốn nhìn nàng nữa.

“Hôm ấy, mấy tiểu thư lớn nhỏ của nhà họ Vương đều xuất hiện trước mặt bệ hạ, song bệ hạ vẫn thản nhiên như không, chúng thần biết bên cạnh bệ hạ đã có Quách lương viện(*), chính là Quách thục phi hiện giờ, mà nhà họ Vương trừ A Phù ra chẳng còn cô gái xuất chúng nào nữa, bệ hạ không vừa mắt những người khác cũng là lẽ thường. Bấy giờ… hoàng hậu mới được người ta giới thiệu đến, chỉ nói là con gái nhà lành gặp khi sa sút, đương ở trong phủ nhà thần dạy mấy tiểu thư học tỳ bà. Chúng thần… bèn mời ra tấu cho bệ hạ nghe một khúc để kết thúc yến tiệc.” Vương Lân chua chát nói, “Nào ngờ bệ hạ thoạt trông thấy đã xiêu lòng, bèn hỏi vi thần đây là con gái chi thứ mấy của nhà họ Vương, thần… lúc ấy chẳng hiểu ma xui quỷ khiến thế nào, lại đáp là con thứ chi trưởng, tên Vương Thược…”

(*) Danh xưng dành cho tiểu thiếp của thái tử thời Đường. Hàm chính tứ phẩm, vai vế dưới lương đệ, một thái tử có thể đặt đến sáu vị lương viện.

“Nhưng khi nàng bước vào phủ của trẫm thì tất cả hộ tịch văn thư đều đầy đủ cả, không giống như được ngụy tạo.” Hoàng đế lạnh lùng nói.

“Vâng. Thực ra trước đây nhà họ Vương quả thực có một Vương Thược, vốn ốm yếu nên được gửi vào đạo quán, bấy giờ mới qua đời, nhưng chưa kịp chỉnh sửa, trên hộ tịch vẫn ghi là sống ở Lang Gia. Thần… Thần thấy bệ hạ yêu thích cô ấy như vậy, chỉ muốn tìm một người thân thế thanh bạch dâng lên, cũng không có gì to tát, miễn đưa những kẻ đã biết thân phận cô ấy về Lang Gia là được. Nếu nhà họ Vương nhân đây lại có được một vị vương phi, thì đối với một gia tộc đang dần suy vi, quả là việc mừng vui khôn xiết. Nghĩ vậy, thần bèn bàn bạc với hoàng hậu, hoàng hậu cũng… ưng thuận.”

“Không có gì to tát ư…” Hoàng đế giận quá mà phải bật cười, quay sang hoàng hậu, “Có điều các ngươi không ngờ trẫm lại yêu thương nàng ta đến thế. Mười hai năm nay, nàng từ một thừa huy(*) trong vương phủ, đến chiêu nghi trong cung, rồi quý phi, cuối cùng còn sinh được hoàng tử, trở thành hoàng hậu!”

(*) Cũng là một danh xưng dành cho tiểu thiếp của thái tử. Hàm chính lục phẩm, vai vế thấp hơn lương viện, một thái tử có thể có mười vị thừa huy.

Hoàng Tử Hà đã lùi về sau lưng Lý Thư Bạch, vẫn quan sát hoàng hậu.

Mười hai năm đời người vần chuyển, rộng bước đường mây, từ một người chơi tỳ bà đến giờ là hoàng hậu, từng bước đều gian nan, song đã là thứ đánh cắp thì dù sao cũng phải hoàn trả, chẳng biết sau đây sẽ gặp phải kết cục thế nào.

Vương Lân thẳng người lên, nước mắt vòng quanh tâu bày, “Thần… bấy giờ quả thực không sao ngờ được… lại có ngày hôm nay! Từ khi bệ hạ đăng cơ, thần đã không thể chợp mắt, đến lúc sách phong hoàng hậu, thần càng ăn không ngon ngủ không yên, mấy năm nay bị giày vò ngày đêm, chỉ sợ sự tình bại lộ. Thần nghĩ, cuộc sống của hoàng hậu điện hạ e rằng cũng chẳng khá hơn thần là bao. Bệ hạ, thần tội đáng muôn chết, nhưng xin bệ hạ niệm tình hoàng hậu bị thần bức ép, lỡ cưỡi lên lưng cọp khó lòng trèo xuống, không tự ý quyết định được nữa…”

“Không cần nói nữa.” Hoàng đế khẽ giơ tay phải lên ngăn Vương Lân nói tiếp, “Nếu các người thực sự bất an đến vậy, tại sao sau mười hai năm, còn muốn diễn lại một màn thay mận đổi đào tương tự? Các người cho rằng trẫm dễ bị gạt thế ư?”

Vương Lân tức thời rùng mình toát mồ hôi lạnh, run lên cầm cập, không dám nói nữa.

Hoàng hậu nãy giờ vẫn lặng lẽ ngồi một bên, cuối cùng cũng nhẹ nhàng lên tiếng, giọng khàn đặc nhưng rành mạch, “Đời này kiếp này, gặp được bệ hạ là may mắn lớn nhất trong đời thần thiếp. Mười hai năm nay, dù ngày đêm nơm nớp, sợ bệ hạ biết được chân tướng sẽ căm ghét, song suốt quãng thời gian tham sống sợ chết ấy, đâu phải thiếp không thầm lấy làm may mắn?”

Nói đến đây giọng hoàng hậu nghẹn ngào run rẩy, ngước lên nhìn hoàng đế, nước mắt lã chã lăn dài, như những hạt minh châu lấp lánh trên bờ má ngọc, “Bệ hạ… Mười hai năm nay, tuy sống trong thâm cung quạnh quẽ, nên cạnh là hổ sói chực chờ, song bệ hạ đối đãi với thần thiếp còn hơn cả vợ chồng thường dân ân ái, thiếp được may mắn như vậy, nên cũng vọng tưởng sắp xếp cho đứa con gái bên ngoài cung của mình một chốn ấm thân như thế. Chỉ nghĩ trước giờ mắc nợ nó, lần này coi như trả nợ. Thiếp đã định sau khi Tuyết Sắc xuất giá, sẽ quên hết mọi chuyện trước đây, dốc lòng hầu hạ bệ hạ, dù tan xương nát thịt, nước sôi lửa bỏng cũng chẳng nề…”

Hoàng Tử Hà và Lý Thư Bạch nhìn nhau, đều đọc thấy suy nghĩ lộ ra trong mắt người kia. Cả hai đều biết, từ khi hoàng hậu triệu con gái về bên mình, tức là nối lại liên hệ với cuộc đời khi trước, không cách nào cắt đứt được nữa.

Song họ chỉ là người ngoài cuộc.

Họ có thể không bị mê hoặc, không bị lay động, song người mười hai năm nay ngồi cùng xe ngủ cùng giường với hoàng hậu không khỏi bị thuyết phục. Vì hoàng hậu nắm rõ nhược điểm của hoàng đế, biết rõ phải làm thế nào để níu kéo người.

Chỉ trong nháy mắt, người phụ nữ phát điên phát cuồng vì chính tay giết chết con gái mình đã biến mất. Hiện giờ người ở trên sảnh đây vẫn là Vương hoàng hậu nổi danh “trọng Võ”, kiều diễm, tàn nhẫn, từng cử chỉ hành động, từng cái cau mày nhoẻn cười đều được tính toán kỹ càng, xưa nay không bao giờ lãng phí, không bao giờ thất bại.

Nhìn hoàng hậu mắt đỏ hoe, lệ tuôn lã chã, hoàng đế không ngăn nổi lòng trào lên một nỗi cảm thương. Bao năm nay, họ cùng nhau chia ngọt sẻ bùi, nắm tay nhau nhìn ngắm muôn dân thiên hạ. Hoàng đế vẫn nhớ lần đầu tiên gặp mặt, nàng ôm tỳ bà che nửa mặt hoa, cũng nhớ ngày mình đăng cơ, nàng cười rạng rỡ như hoa nở, còn nhớ cả lúc mình ôm con trai mới sinh vào lòng, nàng mỉm cười mệt mỏi…

Nàng dường như đã biến thành một phần trong đời mình, nếu thiếu đi nàng, cuộc đời mình có lẽ sẽ không toàn vẹn nữa.

“A Thược…”

Cuối cùng hoàng đế đứng dậy, đi lại gần hoàng hậu, từng bước một, chậm rãi mà nặng nề, “Vừa nãy, nàng luống cuống quá.”

Hoàng hậu đăm đắm nhìn hoàng đế đang đi về phía mình, vẻ thê lương đau đớn lan dần trên mặt, đoạn cúi đầu thưa, “Vâng…”

“Nàng là con gái thứ chi trưởng nhà họ Vương, ở bên trẫm đã mười hai năm, cũng làm hoàng hậu nhiều năm rồi, trước giờ vẫn đoan trang điềm tĩnh, sao đến hôm nay trước linh cữu người thân lại đau xót quá độ, đến nỗi bị quỷ hồn mê hoặc, nói năng lung tung như thế?”

Hoàng hậu sững sờ hồi lâu, từng giọt lệ chầm chậm lăn dài trên má. Lúc này đây, hoàng hậu đã không còn là kẻ kiêu hãnh cao vời, nghiêng thành nghiêng nước nữa, bất luận thật hay giả thì cũng đã yếu ớt bơ vơ, bỗng như bị rút hết sức lực, chỉ biết quỳ sụp nắm lấy gấu quần hoàng đế, che mặt khóc không ra tiếng.

Hoàng đế nắm tay kéo dậy. Hoàng hậu tái nhợt mảnh mai, thân hình run lên từng chập, song cuối cùng nhờ vịn vào hoàng đế, lại đứng lên trước mặt mọi người. Hoàng hậu sánh vai đế vương, tuy gương mặt còn ngấn lệ, song vẫn toát ra vẻ ngạo nghễ hình thành sau nhiều năm đứng trên muôn người.

Hoàng Tử Hà lạnh lùng quan sát người phụ nữ tính toán chuẩn xác mọi cử chỉ và biểu lộ cảm xúc này, không khỏi nghĩ thầm, có lẽ vừa nãy khi điên cuồng luống cuống, hoàng hậu lại giống một người sống hơn, song cũng chỉ trong khoảnh khắc ấy mà thôi.

Hoàng đế miễn cưỡng nắm lấy tay hoàng hậu, tuy khá gượng gạo, song rốt cuộc vẫn nắm chặt. Người lướt mắt qua mặt Vương Lân, Vương Uẩn và Lý Thư Bạch, cuối cùng dừng lại ở Hoàng Tử Hà, chậm rãi nói, “Chuyện này về sau nếu còn có người nhắc đến một câu nửa chữ…”

Người ngừng lại thật lâu, rồi buông nốt nửa câu, nặng tựa ngàn cân, “Tức là xúc phạm thể diện hoàng gia, mưu đồ làm khó dễ triều đình!”

Mọi người trong sảnh đều nín thít, không ai dám lên tiếng.

Hoàng đế đưa tay vén gọn tóc cho hoàng hậu, “Về nghỉ ngơi nhé, trẫm sẽ bảo thái y tới xem bệnh cho nàng. Hôm nay nàng đau đớn quá độ đâm ra điên dại mà thôi, có biết không?”

“Vâng… thiếp biết.” Hoàng hậu chần chừ đáp khẽ.

“Đi thôi.”

Nói đoạn, đế hậu nắm tay nhau bước ra, y như lúc đến, có điều bước chân hoàng hậu hơi loạng choạng, hoàng đế phải dìu từng bước. Trước khi ra khỏi cửa, hoàng đế ngoái lại nhìn Nhàn Vân và Nhiễm Vân, ra hiệu cho Vương Uẩn.

Vụ án đã phơi rõ chân tướng lại yên ắng kết thúc thế này, Hoàng Tử Hà không khỏi cảm thấy một nỗi bi ai man mác cũng như buồn bã khó tả.

Lý Thư Bạch ngoái đầu nhìn cô, chẳng nói chẳng rằng đi thẳng ra ngoài.

Hoàng Tử Hà theo sau y, cùng ra khỏi sảnh đường.

Khi ngang qua Vương Uẩn, cô nghe thấy tiếng y, khẽ như hơi thở, vang bên tai mình, “Tại sao?”

Tim giật thót, cô vội quay lại nhìn y.

Vương Uẩn xưa nay ôn hòa nhã nhặn như đi giữa gió xuân, lúc này đang đứng bất động, nhìn chằm chặp vào cô bằng cặp mắt sâu thăm thẳm. Giọng y trầm thấp mà rành rọt, hỏi rõ từng câu từng chữ, “Nhà họ Vương chúng ta, rốt cuộc có điều gì không phải, vì sao… hết lần này đến lần khác phải ép ta như vậy?”

Hoàng Tử Hà cảm thấy ánh mắt y như đang truy bức mình, lồng ngực bỗng lạnh buốt đi. Song cô chỉ nghiến răng đáp, “Tôi không hiểu đại nhân có ý gì. Tôi chỉ biết, công đạo thiên lý ở trong lòng người. Bất luận kẻ chết đi là ca nữ hay ăn mày, bất luận hung thủ là đế vương hay tể tướng, tôi chỉ muốn nói ra sự thật mình tra được, để không thẹn với lòng.”

Dứt lời, cô quay ngoắt đi, lao ra khỏi cửa như chạy trốn.

Vào khoảnh khắc bỏ chạy ấy, cô mới sực nghĩ, cái gọi là “hết lần này đến lần khác” có ý gì?

Lẽ nào, tính cả việc trước kia cô không chịu về nhà họ Vương, biến y thành trò cười cho cả kinh thành?

Hoàng Tử Hà thầm kinh hãi, toát mồ hôi lạnh. Song ngay lập tức, cô lại phủ định giả thiết đó. Cô từng khiến Vương Uẩn hứng chịu nhục nhã như thế, nếu phát giác ra cô là Hoàng Tử Hà, y nhất định phải vạch trần thân phận cô từ lâu, sao có thể dung túng cô đến bây giờ?

Dù y có nhận ra thực, thì cũng còn Lý Thư Bạch sờ sờ ra đó, chắc gì y dám lật tẩy cô.

Huống hồ nhận ra thì đã làm sao? Chẳng bao lâu nữa cô sẽ rời kinh về Thục, đến lúc đó, sau khi tra rõ vụ án gia đình mình, cô có quay lại hay không, cũng rất khó nói.

Bất luận thế nào, từ nay về sau, nhất định phải thận trọng hơn mới được. Còn hiện giờ cô đang rã rời cả người, chẳng lòng dạ đâu mà quan tâm tới chuyện này nữa.

Ngoài cổng phủ đã vang lên tiếng khóc lóc thảm thiết, đó là thi thể Cẩm Nô, chiếu theo kế hoạch cũ, được đưa về khu mộ nhà họ Vương ở Lang Gia, chôn cất rình rang.

Hoàng Tử Hà vô thức dừng bước, đứng ngây ra dưới gốc tùng bên cánh cổng cao cao, thẫn thờ nhìn cỗ quan tài đen kia hồi lâu.

Lý Thư Bạch ngoái lại hỏi, “Sao thế?”

Hoàng Tử Hà lặng thinh hồi lâu mới buồn bã đáp, “Tôi đang nhớ tới Cẩm Nô.”

Năm năm tuổi, nàng vừa lạnh vừa rét, suýt chết ngoài phố. Gió thổi tung rèm xe của Mai Vãn Trí, vừa vặn trông thấy đôi tay Cẩm Nô, Mai Vãn Trí bèn bế về nhà. Lý do là: Cẩm Nô, đôi tay này của con sinh ra để gảy tỳ bà, ông trời sinh con ra chỉ vì một việc ấy thôi.

Năm hai mươi tuổi, trong cung Đại Minh Trường An, nàng đàn một khúc nhạc do sư phụ dạy, bằng chính cây tỳ bà do sư phụ tặng. Chất độc trong hộp phấn hương thông sư phụ ban xuống, theo đôi bàn tay nàng ngấm vào người, cuối cùng đã kết thúc một sinh mệnh được Mai Vãn Trí kéo dài thêm mười lăm năm.

Hoàng Tử Hà đứng lặng dưới gốc cây, khẽ hỏi, “Kết cục thế này… có tính là không có kết cục không?”

“Ai bảo không có? Để hung thủ biết mình đã chính tay giết chết con gái, từ nay về sau, vĩnh viễn phải sống trong ác mộng, cũng coi như hình phạt nặng nhất rồi.” Lý Thư Bạch nói, đoạn lắc đầu, “Có điều, năm xưa bà ta đã đang tâm rời bỏ con gái còn thơ, thì lần này nhất định cũng mau chóng gạt bỏ được cô ta khỏi tâm trí thôi. Một người phụ nữ có thể sống ung dung giữa cung đình như thế, ắt cả đời không biết mùi thất bại.”

“Còn Trần Niệm Nương, dù đã khiến kẻ thù phạm phải tội giết con, coi như báo thù thành công, song có lẽ cả đời này cũng phải sống trong giằng xé lương tâm.” Hoàng Tử Hà nói khẽ, “Hoàng hậu dù sao cũng là phận liễu yếu đào tơ, phải không nào? Dù bà ấy lợi hại đến đâu, cũng không sao ngăn nổi mình suy sụp và rơi lệ vì đứa con gái đã mất.”

Ánh dương lọt qua tán lá xanh um, đổ bóng lốm đốm xuống hai người bọn họ.

Làn nắng ôn hòa ấy khiến Hoàng Tử Hà nghĩ đến vị hoàng đế nổi danh nho nhã hiền hậu kia.

Bấy giờ, ở bên ngoài linh đường, khi Lý Thư Bạch nhắc đến vụ án, đồng thời ám chỉ hung thủ có thể là hoàng hậu, hoàng đế chỉ liếc nhìn cô rồi ngắm nghiền mắt lại chậm rãi nói, “Nếu giữ được thể diện hoàng gia, không để người ngoài hay biết, thì hoàng hậu phạm pháp, trẫm đương nhiên cũng cần biết chân tướng, đồng thời sẽ trừng phạt.”

Mười hai năm cùng ăn cùng ngủ, ân ái như vợ chồng thường dân, vậy mà cũng không trụ nổi trước lời đồn đại xôn xao trong kinh thành “Bệ hạ chuộng Cao, hoàng hậu chuộng Võ”. Chẳng có hoàng đế nào dung thứ cho mình và hoàng hậu ở vào những địa vị ấy.

Phu thê nhà trời, đế hậu cung son.

Hoàng Tử Hà ngẩng nhìn ánh dương lồng lộng trên đầu, ngơ ngẩn hồi lâu.

Lý Thư Bạch liếc cô, “Còn không vui ư?”

Hoàng Tử Hà không đáp, chỉ nhìn lại y.

“Hoàng hậu tính tình cứng cỏi, mấy năm nay nhiều lần can thiệp triều chính, lại thường lạm dụng hình phạt, bệ hạ cũng không ngăn được. Lần này ngươi giúp đỡ bệ hạ, trừng trị hoàng hậu như thế, xem như có công rồi.”

“Bệ hạ thực sự tin lời tôi nói, rằng tôi là họ hàng xa của nhà họ Hoàng ư?”

“Tin hay không có gì quan trọng, bệ hạ đã hứa, ít hôm nữa sẽ hạ chỉ cho điều tra lại vụ án oan của nhà ngươi. Đến lúc đó, ta sẽ đích thân dẫn ngươi về Thục.”

Giọng y bình thản, song Hoàng Tử Hà nghe lại thấy muốn nghẹn thở.

Đất Thục, chính là nơi chôn cất cha, mẹ, người thân của cô.

Giờ đây cô sắp được quay về đó, lật lại bản án kia, rửa sạch mối oan cho mình, tìm ra hung thủ.

Một cảm giác vừa sảng khoái vừa chua xót từ từ dâng lên trong lòng, khiến cô choáng váng, cứ đứng ngây ra trước mặt y giữa trời đầu hạ.

Cũng chẳng rõ là mừng rỡ, hay là cảm thương.
 

Tam Thất

nhân chi sơ, tính bản thiện
Tham gia
13/4/19
Bài viết
1,705
Điểm cảm xúc
1,399
Điểm
113
Chiều hôm ấy, trong cung truyền tin ra, Vương hoàng hậu đau đớn vì tiểu muội trong họ qua đời mà thành bệnh, được đưa tới cung Thái Cực tĩnh dưỡng. Mọi việc trong cung sẽ do Triệu thái phi và Quách thục phi xử lý thay.

“Từ khi Cao Tông và Võ hậu chuyển tới ở cung Đại Minh, cung Thái Cực vẫn bỏ không, chỉ để mấy vị thái phi lớn tuổi ở. Hiện giờ Vương hoàng hậu bị đưa tới cung Thái Cực sống một mình, nghe nói là vì cái chết của Vương Nhược không lành, nên hoàng hậu mới bị hoàng đế tống đi cách ly, cũng coi như đẩy vào lãnh cung.”

Lư Vân Trung Lư tiểu công công ở Quỳ vương phủ xưa nay luôn hứng thú với những chuyện thâm cung bí sử, hào hứng bình luận tình hình thiên hạ ngay giữa lúc các hoạn quan dùng bữa tối.

“Trên đời làm gì có chuyện hoàng hậu chuyển đến biệt cung chứ!”

“Hừm, ngươi đừng có nói, Hán Vũ Đế và Trần A Kiều chẳng phải tiền lệ đấy ư?”

“Theo ta thấy nhà họ Vương lần này gay go rồi!”

Hoàng Tử Hà thản nhiên dọn bát đũa rồi đứng dậy đem đến nhà bếp.

“Này này, Sùng Cổ, hôm ấy chẳng phải ngươi theo gia sang nhà họ Vương bái tế Vương Nhược cô nương đó ư? Ngươi mau kể xem, nghe nói hôm ấy hoàng hậu khóc lóc tóc tai rũ rượi, mặt mày tái nhợt, có đúng không?”

Hoàng Tử Hà à một tiếng, thong thả nói, “Đúng thế, hoàng hậu điện hạ rất đau lòng.”

“Nghe nói ngươi còn đeo vòng cho các xác ở linh đường hả? Ôi chao… đúng là khiến chúng ta phục sát đất đấy!”

“Ừm.” Phớt lờ ánh mắt kính sợ của mọi người, Hoàng Tử Hà thờ ơ gật đầu, rồi đột nhiên nhớ ra một chuyện, “Gia nhân nhà họ Vương có nói gì khác không? Lời đồn trong kinh thế nào?”

“Không có gì, chẳng phải vụ này do ngươi phá ư? Hai a đầu của Vương cô nương câu kết với dư đảng Bàng Huân, hại chết cô ấy. y, người ta chẳng đồn là ngươi phá vụ này đó à? Kể lại tỉ mỉ tình tiết cho chúng ta nghe mau!”

“… Đại khái là thế, có gì để kể đâu.” Nói đoạn cô bưng bát đũa hối hả quay đầu đi thẳng. Nực cười, cô đâu phải thần tiên, làm sao trong nháy mắt bịa ra được câu chuyện Nhàn Vân Nhiễm Vân giết hại Vương Nhược chứ?

Hoàng Tử Hà đưa bát đũa đến nhà bếp, vừa bước ra, đã bị đám gác cửa gọi lại.

Đại hoạn quan Trường Khánh của hoàng hậu muốn gặp.

Tuy đã lưu lạc đến tận cung Thái Cực, Trường Khánh vẫn giữ nguyên tư thế của một đại hoạn quan hạng nhất hạng nhì trong cung, cằm hơi hếch, nhìn người bằng hai lỗ mũi, “Dương công công, hoàng hậu điện hạ triệu kiến, nói rằng có người muốn trò chuyện với ngươi.”

“Ồ, vâng, xin công công đợi cho một lát.” Hoàng Tử Hà không dám chậm trễ, vội chạy về phòng thay đồ, đi được nửa đường, cô dừng bước nghỉ ngợi, cuối cũng vẫn rẽ vào báo với Lý Thư Bạch một tiếng.

Tiết trời đang nóng dần lên, dạo này Lý Thư Bạch thường ở đình Chẩm Lưu cạnh hồ Lâm.

Lúc Hoàng Tử Hà đến, y đang ngồi một mình nhìn ra hồ. Lá sen cao thấp xòe trên mặt nước, ánh đèn lồng mới thắp tỏa ra mờ ảo, làm mặt lá như đọng tuyết hay khói mỏng.

Hoàng Tử Hà đứng từ xa nhìn y, còn đang nghĩ xem có nên quấy rầy hay không, thì phát hiện y đã ngoảnh lại nhìn về phía mình.

Cô bèn cúi mình hành lễ, chuẩn bị đi khỏi thì thấy y khẽ giơ tay, làm hiệu bảo cô lại gần.

Hoàng Tử Hà đứng từ xa nhìn y, còn đang nghĩ xem có nên quấy rầy hay không, thì phát hiện y đã ngoảnh lại nhìn về phía mình.

Cô bèn cúi mình hành lễ, chuẩn bị đi khỏi thì thấy y khẽ giơ tay, làm hiệu bảo cô lại gần.

Hoàng Tử Hà thoáng do dự, song tính ra thì vẫn phải trông vào y để được phát lương, bèn chạy đến.

“Sắp tối rồi, định đi đâu đấy?”

“Hoàng hậu phái Trường Khánh tới triệu kiến tôi, nói có người muốn gặp.”

“Ồ.” Lý Thư Bạch bình thản đáp, đoạn xua tay ý bảo cô đi. Song khi cô vừa quay người, chợt thấy bị đá mạnh vào khoeo, tức thì chân phải tê dại rồi xiêu đi, cả người mất thăng bằng, ùm một tiếng, ngã lộn đầu xuống hồ sen.

May sao hồ sen không sâu, Hoàng Tử Hà lại biết bơi, cô vùng vẫy bò dậy, đứng giữa đống lá sen ngẩng lên nhìn Lý Thư Bạch, hậm hực hỏi, “Tại sao?”

Y chẳng nói chẳng rằng, chỉ khoanh tay đứng trên bờ nhìn cô.

Hoàng Tử Hà hằm hằm vuốt gương mặt nhớp nháp bùn lẫn nước, giẫm vào mấy phiến đá Thái Hồ bên bờ trèo lên, vừa vắt ống tay áo tong tỏng nước vừa cáu kỉnh, “Vương gia có ý gì vậy? Thế này thì tôi phải tắm rửa thay đồ mới vào cung được, lại dằng dai lâu quá…”

Chưa nói dứt câu, cô liếc thấy vạt áo Lý Thư Bạch lay động, lập tức nhảy sang bên cạnh, chuẩn bị né cú đá của y, nào ngờ cú đá này Lý Thư Bạch lại quét ngang, nhảy sang bên cũng chẳng tránh được, lại bị đá ngã xuống hồ.

Mặt hồ sóng sánh, bọt nước bắn tung tóe rồi đổ rào rào xuống những lá sen quanh đó, lá sen đọng nước lay động dập dềnh bên người cô, khắp hồ loang loáng ánh nước, tạo thành vô vàn đốm sáng cứ chập rồi tách trước mắt Hoàng Tử Hà.

Lý Thư Bạch đứng trên bờ, tủm tỉm cười, gió đêm lùa vào tà áo lụa mỏng xanh biếc một màu trời nước, toát ra khí chất cao quý thanh nhã thực khiến người ta mê mẩn.

Song Hoàng Tử Hà chỉ thấy kẻ này hiểm ác vô cùng. Cô đứng giữa làn nước đục ngầu, bên đám lá sen rách nát, quên cả gỡ những rong rêu thủy tảo dính trên mặt trên đầu, lóp ngóp lội vào bờ, song không trèo lên mà ngẩng đầu trừng mắt nhìn y, “Tại sao?”

Lý Thư Bạch khom người nhìn cô, tựa hồ hết sức thích thú trước bộ dạng lôi thôi lếch thếch này, nét cười hiếm hoi lồ lộ nơi khóe mắt, “Tại sao cái gì?”

“Hết lần này đến lần khác đá tôi xuống nước, vui lắm sao?”

“Vui chứ.” Lý Thư Bạch trơ tráo gật đầu, “Vụ án hóc búa bao nhiêu ngày, hôm nay lại được phá giải trong một buổi sáng, đương nhiên phải tìm vài trò giải trí.”

Hoàng Tử Hà thấy mình sắp nổ tung vì tức giận, “Trò giải trí của vương gia là nhìn tôi ngã xuống nước hai lần ư?”

Lý Thư Bạch thu lại nụ cười, “Dĩ nhiên không phải.”

Đoạn y ngoắc ngoắc tay, ra hiệu cho cô leo lên. Hoàng Tử Hà thở hồng hộc vịn vào phiến đá Thái Hồ, trèo lên bờ lần nữa, còn chưa kịp mở miệng, thậm chí chưa kịp đứng vững đã nghe tiếng gió bên tai, cô chỉ thấy cảnh vật trước mắt bỗng đảo lộn cả lên, thân hình chợt lạnh buốt, bên tai vang lên tiếng rơi tõm xuống nước và tiếng bọt nước bắn tung tóe, cùng tiếng hét vô thức của mình – cô biết, mình lại một lần nữa rơi xuống hồ.

“Phải ba lần mới đã.”

Hoàng Tử Hà giận điên người, gắng lắm mới tóm được đám lá sen mà đứng dậy, rút chiếc khăn tay lõng bõng nước lẫn bùn lau qua bùn dính trên mặt, lườm y một cái rồi chẳng nói chẳng rằng, bước thấp bước cao quay sang bờ bên kia hồ sen, rồi theo bậc thềm đi lên.

Tiết trời đầu hạ vẫn còn hơi se se khiến cô rùng cả mình, tự biết phải mau mau về tắm nước nóng, bằng không ắt sẽ cảm lạnh.

Liếc thấy Lý Thư Bạch đang men theo bờ hồ tiến lại phía mình, song lúc này cô vừa giận vừa uất, bèn lờ đi coi như không thấy, quay ngoắt người rảo bước đi thẳng.

Giọng nói chậm rãi của y vang lên, “Nhàn Vân và Nhiễm Vân đã chết rồi.”

Bước chân cô liền khựng lại, ngây người một thoáng rồi quay phắt lại nhìn y.

Lý Thư Bạch đứng phía sau cô, vẫn bình tĩnh như thường.

“Bởi thế, một tiểu hoạn quan như ngươi hôm nay có mất tích trong cung Thái Cực thì cũng chỉ như một hạt bụi, khẽ thổi là bay thôi.”

Hoàng Tử Hà đứng đờ ra trước hồ sen, gió mang theo hơi nước thổi tới, khiến cô thấy hơi lạnh thấm dần vào người. Cô không nhìn y nữa, chỉ cúi đầu bất động nhìn những chiếc lọng xanh lô nhô cao thấp dưới hồ.

“Cảnh Dục.” Lý Thư Bạch cao giọng gọi.

Cảnh Dục từ bên ngoài khung cửa tròn bước vào, thấy Hoàng Tử Hà bê bết bùn, nước rỏ tong tỏng, không khỏi kinh ngạc liếc mắt nhìn, “Vương gia.”

“Đi nói với Trường Khánh rằng Dương Sùng Cổ sẩy chân rơi xuống nước, giờ tối rồi, e rằng chỉnh trang xong thì đã quá muộn, không tiện quấy rầy hoàng hậu.”

Cảnh Dục vâng dạ, lập tức đi khỏi.

Hoàng Tử Hà cắn môi hỏi, “Vậy còn mai?”

“Mai ấy hả? Ngươi sẩy chân rơi xuống nước, lẽ nào lại không cảm mạo” Chẳng lẽ còn có thể vào cung để lây cho hoàng hậu hay sao?” Lý Thư Bạch bình thản đáp, “Đợi ngươi bình phục hẳn cũng phải mất một hai tháng, đến lúc đó hoàng thượng hoàng hậu cũng biết ngươi là kẻ giữ miệng kín như bưng, hẳn lòng nghi ngại sẽ giảm đi.”

Hoàng Tử Hà ấp úng hồi lâu mới ngượng ngập nói, “Đa tạ vương gia.”

Dứt lời, cô thấy lòng thê lương khôn tả. Thói đời thật trớ trêu, tên khốn đá mình rớt xuống nước đến ba lần, vậy mà mình còn phải cung kính cảm tạ y.

Lý Thư Bạch nhìn bộ dạng lướt thướt thảm hại của Hoàng Tử Hà,không nhịn được buột thốt, “Ngươi…”

Hoàng Tử Hà ngước lên, đợi y căn dặn.

Song y khựng lại một khắc rồi quay đầu nhìn những lá sen trên hồ, giơ tay ra hiệu cho cô lui xuống.

Hoàng Tử Hà như trút được gánh nặng, vội khom người hành lễ lui ra.

Cả người ướt sũng, cô lần đến nhà bếp xách hai thùng nước nóng, tắm rửa sạch sẽ rồi lau qua quýt mái tóc vừa gội, đổ vật người xuống giường.

Thời gian này phải liên tục chạy Đông chạy Tây, lúc nào cũng canh cánh trong lòng về vụ án, quả thực mệt mỏi vô cùng. Bởi vậy vừa nằm xuống kê đầu lên gối, cô liền ngủ thiếp đi.

Chẳng biết ngủ mất bao lâu, cô chợt nghe tiếng gõ cửa khe khẽ.

Thói quen cảnh giác hình thành trong mấy tháng bôn ba lặn lội khiến cô mở bừng mắt, nhỏm dậy nhìn quanh phòng, chỉ thấy tối như bưng, hẳn là đêm đã khuya lắm.

Cô khoác áo trở dậy mở cửa, thấy Lý Thư Bạch đứng ngay trước cửa, tay trái cầm một ngọn đèn, tay phải xách một hộp cơm nhỏ. Dưới ánh đèn vàng cam ấm áp, gương mặt hoàn mỹ lạnh lùng bỗng như êm dịu hơn.

Thấy cô sững người, y cũng chẳng buồn để ý, chỉ đặt hộp cơm lên bàn, “Cũng tốt, khỏi cần ta phải gọi.”

Tuy kinh ngạc đến sững sờ, song đó chỉ là phản ứng vô thức của cơ thể, thực ra Hoàng Tử Hà vẫn chưa tỉnh hắn, cô mơ màng nhìn y, vội vã buộc túm mái tóc rối bù vì vừa ngủ dậy lại, nhìn ra sắc trời tối đen bên ngoài hỏi, “Giờ là lúc nào rồi?”

“Giờ Tý hai khắc.” Y mở hộp cơm, lấy một chén gì đó nâu sẫm đưa tới trước mặt cô, “Canh gừng, uống đi.”

Cô giương đôi mắt kèm nhèm cau mày nhìn y hồi lâu, cuối cùng mới nhận ra một điểm phi lý, “Quỳ vương gia, nửa đêm canh ba đích thân đến tìm tôi… Chỉ để đưa một bát canh gừng?”

“Dĩ nhiên không phải.” Y đáp, quay ngay người bước ra ngoài, tiện tay khép cửa lại, “Mặc quần áo vào đi, có người đến thăm đấy.”

Người có thể khiến Quỳ vương gia nửa đêm canh ba đích thân tới gọi Hoàng Tử Hà, đương nhiên không phải hạng tầm thường.

Mỹ nhân dưới đèn, đẹp như đào mận.

Thiếu nữ vận trang phục cung nữ thông thường đứng trước mặt họ. Tiếc rằng đóa hoa tươi thắm ngày nào nay đã bị ăn mòn bởi đau buồn và sầu thảm. Nàng ngẩng lên nhìn họ, bên mai còn cài cây trâm sương lá, lấp lánh dưới ánh đèn.

Vương Nhược. Hay nói cách khác, là Tiểu Thi.

Hoàng Tử Hà nhất thời ngẩn ra. Tiểu Thi lẳng lặng gập người xuống bái chào họ, xiêm y mềm mại sẽ quét trên mặt đất, âm thầm như một đóa hoa lìa cành chẳng cần gió thổi.

“Tiểu Thi cảm tạ ơn cứu mạng năm xưa của vương gia.”

Lý Thư Bạch chỉ gật đầu.

Tiểu Thi cứ quỳ dưới đất không đứng lên, nhìn y bằng cặp mắt trầm tĩnh mà bi ai, trong đôi mắt ấy như cuộn trào muôn niềm ngàn ý, song chẳng thốt nổi nửa lời.

Mãi một lúc lâu sau, nàng mới cất giọng khàn khàn, “Tôi bấy lâu nay vẫn ở trong cung Thái Cực… Nơi đó bị bỏ hoang, gần như không có người ngoai lai vãng, càng không ai biết tôi là ai. Mãi cho đến hôm nay, hoàng hậu tới bảo tôi rằng, nếu không phải tại tôi thì Tuyết Sắc đã không chết.”

Tiểu Thi buồn rầu nói, cúi đầu quỳ dưới đất, câm lặng đến mức gần như không hít thở.

Hoàng Tử Hà chậm rãi nói, “Tất cả đều do trời xui đất khiến, cái chết của Tuyết Sắc… không thể coi là tại cô được.”

Gương mặt tái trắng của Tiểu Thi đã chẳng còn sắc hồng điểm xuyết, thay vào đó là vẻ nhợt nhạt lạnh băng. Nàng nhìn cô bằng ánh mắt yếu ớt, không có mảy may sinh khí, “Nhưng tôi thấy hoàng hậu điện hạ nói phải, nếu không có tôi, Tuyết Sắc sẽ không chết…”

Hoàng Tử Hà phản bác, “Nhưng nếu không có cô, ba năm trước Tuyết Sắc đã không còn trên đời nữa rồi.”

Nghe vậy, Tiểu Thi cũng chẳng tỏ vẻ nhẹ nhõm hơn, trái lại càng cúi gằm đầu, cuối cùng gần như phủ phục xuống đất. Áp trán lên mu bàn tay đặt trên mặt đất, giọng nàng nghèn nghẹn, “Nếu không có Tuyết Sắc, tôi đã không còn trên đời này nữa rồi. Trong đám loạn quân, chúng tôi nương tựa vào nhau, rồi cùng đến Dương Châu, đến Bồ Châu. Lan Đại cô cô coi chúng tôi như con ruột, tôi cũng cùng Tuyết Sắc theo cô học đàn học múa. Tuy học hành chẳng tới đâu, song ba năm nay, chúng tôi sống rất hạnh phúc, nếu… nếu Phùng nương không xuất hiện, thì đến tận bây giờ, cũng vẫn rất hạnh phúc…”

Lý Thư Bạch vẫn hững hờ.

“Hôm nay hoàng hậu nổi giận nhiếc móc, nói tôi tham luyến hư vinh, vọng tưởng thay thế Tuyết Sắc, đến nỗi gây sai lầm. Nhưng thực ra, tôi và Tuyết Sắc không hề biết thân phận hiện giờ của bà ấy, ngay cả Phùng nương lúc đến đón chúng tôi cũng không hay biết…” Tiểu Thi bưng mặt run run nói, nước mắt ứa ra lăn dài qua kẽ tay nhỏ xuống, không sao ngăn nổi. “Bấy giờ cả nhà Lan Đại cô cô đã đi Trương Dịch… Tuyết Sắc nghe người canh cửa chuyển lời rằng mẹ cô ấy nhờ người tới đón lên kinh hứa hôn, bèn bàn bạc với tôi, nói hiện giờ không muốn gả chồng. Huống hồ năm xưa mẹ cô ấy tham luyến vinh hoa, vứt bỏ hai cha con, cha cô ấy vì thế mà đau buồn thành bệnh, mới ngoài ba mươi đã qua đời. Bởi vậy cô ấy không muốn gặp lại mẹ! Song tôi khuyên rằng, hiện giờ chúng tôi ở chung với Lan Đại cô cô, tuy cô cô nhiệt tình giúp đỡ, nhưng xuất thân của chúng tôi như vậy, muốn tìm tấm chồng tử tế cũng chẳng dễ dàng gì. Nếu mẹ có thể kiếm cho cô ấy một đám tử tế, thì cũng tốt… Nào ngờ Tuyết Sắc nắm lấy tay tôi nói, ‘Hay là thế này, dù sao mẹ đã vứt bỏ muội từ năm năm tuổi, Phùng nương cũng chỉ gặp chúng ta ở Dương Châu một lần từ hồi mười ba mười bốn, bấy giờ mới từ Từ Châu đến, mặt mày lấm lem đất cát, ai biết mặt chúng ta bây giờ đâu. Tỷ cứ nhận là muội, theo Phùng nương lên kinh, nếu quả có đám tốt, tỷ được gả vào nhà tử tế thì thực may mắn.’ Sau đó… Sau đó… Sau đó cô ấy rút bên người ra thoi bạc năm xưa Quỳ vương gia cho chúng tôi, chặt làm đôi rồi đưa tôi một nửa nói, ‘Lấy vật này làm chứng, hy vọng tỷ lên kinh có thể nghe ngóng giúp muội tin tức về người đó, xem hiện nay y đang ở đâu. Ba năm rồi, sao y không cầm cây trâm tới tìm muội? Dù y đến Dương Châu, người của Vân Thiều Uyển cũng sẽ báo với y Lan Đại cô cô đang ở Bồ Châu mà…’ Bấy giờ tôi rất muốn nói với cô ấy rằng, cây trâm đó đã bị đối phương vứt bỏ ngay khi cô ấy vừa quay đầu đi rồi. Tôi âm thầm cất giữ giúp cô ấy suốt ba năm nay, định khi nào cô ấy xuất giá mới trả lại. Song tôi biết nếu nói vậy, nhất định Tuyết Sắc sẽ rất đau khổ nên lại nghĩ, hay khoan nói vội, cứ đem đến kinh thành rồi trao trả cho mẹ cô ấy.”

Nói đến đây, Tiểu Thi thẫn thờ hồi lâu mới cắn môi kể tiếp, “Sau đó, tôi đến nhà họ Vương, vừa gặp hoàng hậu, tôi đã biết hai đứa gây ra sai lầm lớn mất rồi. Chúng tôi đâu ngờ mẹ cô ấy giờ đây đã đứng trên muôn người, cứ tưởng… cứ tưởng bà ấy chẳng qua tái giá với một nhà buôn hoặc một viên quan nhỏ mà thôi. Nhưng, nhưng mà tôi không dám mở miệng! Sau khi đã biết thân phận bà ấy, biết được câu chuyện thâm cung bí sử liên quan rất nhiều người này, nếu tôi lại nói mình không phải Tuyết Sắc, há chẳng phải tự tìm đường chết? Tôi dâng lên hoàng hậu cây trâm sương lá, bà ta càng không nghi ngờ thân phận của tôi, bèn tiết lộ với tôi rằng Quỳ vương đang tuyển phi, mà trong nhà họ Vương hiện giờ không có cô gái nào xuất sắc, bảo tôi có thể dùng thân phận con gái chi thứ tư đi ứng tuyển. Bấy giờ tôi còn mừng thầm, nghĩ rằng nếu trở thành vương phi, cố nhiên vinh hoa phú quý hưởng không hết, nhất định có thể nhờ thế lực vương phủ tìm kiếm ân nhân của chúng tôi, cũng chính là người trong lòng Tuyết Sắc. Nhưng, nhưng khi tôi được dẫn vào nội điện, trông thấy Quỳ vương gia…”

Môi Tiểu Thi run bần bật, cổ họng nghẹn lại, hồi lâu không thốt nên lời. Mãi về sau, nàng mới ngưng bặt thổn thức, “Tôi đã biết rằng ý trời trêu ngươi, mọi sự đều hỏng cả rồi.”

Giọng nói khó nhọc đó, giữa đêm khuya thanh vắng, nghe càng thêm thảm thiết. Gió đêm chợt mạnh hẳn lên, ánh đèn lồng chênh chao dữ dội, loang ra từng lớp trên mặt nàng, khiến gương mặt bỗng méo mó đầy quái dị, khiến người ta kinh hãi.

“Tôi không thể nói ra bí mật giấu trong lòng, bởi thế đêm nào cũng gặp ác mộng, thấy cái kẻ cướp đoạt người yêu của Tuyết Sắc như mình không được chết yên lành… Song tôi lại không cách nào kìm được suy nghĩ xấu xa, ảo tưởng một ngày mình bay lên cành cao, trở thành Quỳ vương phi được người người ngưỡng mộ…” Nàng quỳ rạp trên mặt đất, móng tay bấu vào nền gạch gãy nứt cả ra, nhưng dường như chẳng hề đau đớn, “Tôi cũng từng nghĩ, sau khi về Quỳ vương phủ, chỉ cần không để Tuyết Sắc chạm mặt Quỳ vương là được, tôi nhất định sẽ tìm cho cô ấy một người đàn ông tốt nhất dưới gầm trời này…”

Hoàng Tử Hà nhìn sang Lý Thư Bạch, thấy y chỉ mải ngắm chiếc đèn lồng xoay tròn trong gió, gương mặt trơ trơ không lộ vẻ gì.

Bất giác cô thầm nghĩ, lãng phí bao nhiêu giày vò đau đớn và quyến luyến vào một gã đàn ông hoàn toàn không có mảy may cảm giác với mình, rốt cuộc có ý nghĩa gì chăng?

Giống như ngọn đèn lúc xa lúc gần trong khu vườn này vậy, dẫu huy hoàng xán lạn đến đâu, cũng chẳng ai biết nó từng phủ bóng xuống đóa hoa mỹ lệ nào giữa đêm khuya ấy?

“Mấy ngày đó tôi ăn không ngon ngủ không yên, cuối cùng vô tình tiết lộ bí mật trong lúc gặp ác mộng, chẳng rõ Phùng nương đã phát hiện thực hay chưa, song bà ấy ắt sinh nghi. Tôi biết một khi chuyện này lộ ra, thì cái mạng của tôi… hẳn sẽ mất ở Trường An. Đúng lúc này hoàng hậu lại âm thầm cử người đến hỏi tôi thấy Phùng nương có đáng tin cậy hay không. Tôi… tôi cũng chẳng rõ ma xui quỷ khiến thế nào, lại lắc đầu…”

Quả nhiên là hoàng hậu sai người hạ độc, giết chết Phùng Ức Nương, rồi ném xác vào giữa đám dân lưu vong U Châu, ngụy trang thành chết vì dịch bệnh.

“Sau đó hoàng hậu giúp cô hạ độc Phùng Ức Nương và xử lý thi thể hả?”

Tiểu Thi khóc đến gần như ngất lịm, nói không nên lời, chỉ có thể miễn cưỡng gật gật đầu.

Hoàng Tử Hà thầm thở dài, bước đến đỡ Tiểu Thi đang khóc lóc dưới đất dậy, khẽ an ủi, “Cô đứng dậy đi, hoàng hậu điện hạ giữ lại mạng cho cô là may mắn lắm rồi.”

Lý Thư Bạch lúc này mới lên tiếng hỏi, “Bà ta bảo ngươi về sau phải tự xử thế nào?”

Tiểu Thi mở tay nải bên cạnh, run rẩy nhấc ra một chiếc hũ nhỏ. Nàng ôm nó vào lòng, vuốt ve hồi lâu mới ngẩng lên nhìn họ, “Đây là tro cốt của Tuyết Sắc, tôi muốn đưa cô ấy về Liễu Châu, chôn cất bên cạnh cha cô ấy. Từ nay về sau, tôi sẽ giữ mộ cho cô ấy đến chết, ngày ngày chăm sóc, mãi không chia lìa.”

Hoàng Tử Hà đứng trước mặt nàng, nhìn những sợi tóc mai xổ ra bên má, lay động trong làn gió từ ngoài cửa lùa vào, tựa cánh lục bình không ràng không rễ, chẳng quay lại được đường cũ, cũng chẳng tìm thấy nẻo sau.

Lý Thư Bạch rút trong ngăn kéo ra hai thoi bạc đặt xuống trước mặt nàng, “Cầm lấy đi.”

Tiểu Thi nhìn hai thoi bạc gần bằng nhau, đáp khẽ, “Tuyết Sắc thường nói với tôi, nếu có một ngày gặp được gia, khi gia rút cây trâm ra, cô ấy sẽ lấy ra thoi bạc này, đây cũng coi như… tín vật định tình của hai người. Lúc ở trong điện Ung Thuần, tôi biết mình chẳng còn cách nào ở bên cạnh vương gia nữa, ngay cả Tuyết Sắc e rằng cũng… mãi mãi không thể. Bởi thế tôi mới bỏ lại nó ở đó, nghĩ rằng nếu gia thực sự còn nhớ chúng tôi thì khi trông thấy, có lẽ sẽ láng máng có ấn tượng…”

Hoàng Tử Hà thở dài, cầm nửa thoi còn lại lên nói, “Còn nửa thoi này, là do cô gái đến ngoại giáo phường để lại, cũng chính là thứ chứng minh thân phận Tuyết Sắc. Có lẽ tôi đến chỉ sau khi cô ấy bị tập kích trong gian nhà đó không lâu, cách một khắc ngắn ngủi, vậy mà cuối cùng vẫn để lỡ mất.”

“Tất cả đều là số mệnh.” Tiểu Thi cầm thoi bạc lẩm bẩm, “Là số mệnh của cô ấy, là số mệnh của tôi, cũng là số mệnh đã định sẵn từ mười hai năm trước.”

Chỉ vì một người con gái thay đổi vận mệnh của mình, bắt đầu rời khỏi quỹ đạo cuộc đời, làm biến đổi số mệnh biết bao nhiêu người.

Sau khi tiễn Tiểu Thi, Hoàng Tử Hà cứ thế đứng nhìn theo cỗ xe cung đình lặng lẽ chạy về phía ngoại ô thành Trường An, băng qua đêm khuya vắng lạnh vì lệnh giới nghiêm, đi về phía một tương lai xa xăm không sao biết được.

Vừa quay người vào cổng phủ, cô phát hiện Vĩnh Tế và Trường Khánh vốn đưa Tiểu Thi đến đang đứng chắn ngang đường, làm động tác mời cô lên xe, “Dương công công, hoàng hậu có lệnh, bất kể đêm khuya đến đâu, bất kể công công đang làm gì, bất kể có rơi xuống nước nhiễm lạnh thật không, cũng phải vào cung yết kiến.”

Đến rồi, đây hẳn là điềm sắp ra tay.

Hoàng hậu biết rõ là nếu Tiểu Thi, kẻ giữ vai trò mấu chốt trong vụ án đến xin gặp, cô mất định sẽ ra mặt, bởi thế bèn cho người phục sẵn ở đây!

Cô nhăn mặt, vô thức nhìn về phía Lý Thư Bạch.

Lý Thư Bạch thản nhiên gật đầu, ý bảo cô cứ đi theo họ.

Hoàng Tử Hà tròn xoe mắt, nín lặng nhìn y, dùng ánh mắt kêu gào: Hoàng hậu muốn làm tôi biến mất khỏi cõi đời đó!

Y chỉ đáp lại bằng ánh mắt “yên tâm, bình tĩnh”, khiến Hoàng Tử Hà chẳng biết nói sao. Cuộc đời bất hạnh, tình người ấm lạnh, kẻ vừa được cô giúp giải quyết một vụ án hóc búa, sao hiện giờ lại qua cầu rút ván, trơ mắt nhìn hoàng hậu ra tay với cô chứ?

Vĩnh Tế và Trường Khánh vẫn đang nhìn cô chòng chọc. Cô đành gồng mình quay ra.

Lúc đi ngang qua Lý Thư Bạch, cô nghe thấy y nói nhỏ, “Thân phận thật.”

Hả? Hoàng Tử Hà cứ ngỡ mình nghe lầm, vội quay sang nhìn y, song y vẫn thản nhiên như không, thậm chí chẳng buồn nhìn cô thêm nữa, chỉ hờ hững buông một câu, “Đêm khuya đường xa, cẩn thận nhiễm lạnh.”

Thân phận thật?

Là ý gì?

Hoàng Tử Hà theo đám người rời vương phủ, cùng Vĩnh Tế và Trường Khánh lên xe đi đến cung Thái Cực, dọc đường không ngừng vắt óc suy nghĩ.

Thành Trường An đang giới nghiêm, chỉ có tiếng vó ngựa và bánh xe lộc cộc vang vọng trên con đường thênh thang, tựa hồ cũng vang vọng trong lồng ngực cô.

Cô nghĩ đi nghĩ lại ý tứ ba chữ nọ, song nghĩ mãi cũng chỉ thấy có lẽ Lý Thư Bạch bảo cô cam chịu, chết rồi là hết. Tên khốn này, đúng lúc quan trọng, lẽ nào y hoàn toàn không định cứu cô ư?

Đúng lúc cô suýt tóm lấy thành xe khóc òa lên thì Vĩnh Tế đã dài giọng xướng, “Dương công công, đến cung Thái Cực rồi, xuống xe thôi!”

Đầu cô tê dại đi, song cũng chẳng biết làm sao, đành theo y xuống xe.

Cung Thái Cực bỏ không cả trăm năm nay lạnh lẽo vô cùng, chẳng khác nào lãnh cung trong truyền thuyết.

Giữa đêm khuya, chỉ thấy hậu cung xa xa chìm trong bóng tối, lác đác vài lồng đèn trước điện Lập Chính soi sáng cả cánh cửa và hành lang sơn son.

Hoàng Tử Hà theo sau Vĩnh Tế và Trường Khánh, từng bước tiến vào điện Lập Chính.

Cỏ xanh mượt mà len lỏi chồi ra giữa những hàng gạch xanh, những nhành dài nhất thậm chí còn lấp cả mắt cá, giẫm chân lên thấy bồng bềnh mềm mại, không có cảm giác vững chãi. Đèn đá trước cửa điện đã loang lổ nhẵn thín vì mưa gió mài mòn, lộ rõ vệt rêu xanh dưới ánh đèn.

Sen đá từ trên mái bò xuống, lớp sơn đỏ bong tróc trên cột, đều khiến người ta cảm thấy cung điện này đã lâu chưa được dọn dẹp kỹ càng. Dù hùng vĩ hoa lệ đến đâu thì cũng vẫn là một chốn bị lãng quên, ít người lai vãng.

Tôi tớ của hoàng hậu đều tháo vát, buổi chiều mới dọn đến, mà hiện giờ điện Lập Chính đã được quét dọn sạch sẽ, bài trí vừa mắt dễ chịu.

Đã tảng sáng, song hoàng hậu còn chưa đi nghỉ, người ngồi trên chiếc sập ở hậu điện, có lẽ đang đợi cô. Đám cung nữ dâng cháo tuyết lạc đã ninh kỹ cùng bốn món ăn kèm khác. Vương hoàng hậu thong thả dùng bữa, dáng điệu bình thản, tao nhã mà khoan thai, tựa hồ đã quên bẵng tên tiểu hoạn quan vừa triệu từ vương phủ đến đang đứng bên dưới, thấp thỏm đợi xử lý.

Ăn xong bữa khuya, dọn sạch bàn đi, hoàng hậu súc miệng, cạn hết một chung Cố Chử Tử Duẩn(*) rồi mới thong thả hỏi, “Dương công công có cảm thấy cung Thái Cực này đêm dài đằng đẵng, quá hiu hắt lạnh lẽo chăng?”

(*) Một loại trà xuất xứ từ núi Cố Chử ở Chiết Giang, thường được đem tiến vua, do búp trà khi còn tươi có màu tím nhạt, mặt sau lá non cuốn lại như búp măng, nên thành tên. Cố Chử Tử Duẩn có thể hiểu là măng tím ở vùng Cố Chử.

Hoàng Tử Hà đành nhắm mắt đáp, “Nếu lòng còn sôi nổi thì đi đâu cũng thấy náo nhiệt, còn như lòng đã lạnh thì nơi nào chẳng cô tịch.”

Hoàng hậu ngước mắt lên nhìn cô, giọng trầm thấp dịu dàng, “Dương công công, giờ ta phải chuyển đến cung Thái Cực, đều là do ngươi ban cho. Lòng như tro tàn cũng là ngươi một tay tạo nên. Chẳng hay ta phải ban thưởng thế nào, mới khỏi phụ ơn huệ sâu dày công công dành cho ta đây?”

Nghe thấy ý tứ trong lời lẽ của hoàng hậu, Hoàng Tử Hà chỉ thấy như có lửa đốt trong lồng ngực, mồ hôi lưng vã ra đầm đìa. Cô vừa vắt óc nghĩ tới ý nghĩa của cái gọi là “thân phận thật”, vừa đáp, “Điện hạ ngày nay chuyển sang cung mới, dù chỉ để khởi đầu cho may mắn thì cũng nên tử tế với nô tài, rộng lượng khoan dung…”

“Khoan dung ư?” Vương hoàng hậu khẽ nhếch môi, song ánh mắt vẫn lạnh băng, “Trước đây lúc nói xằng nói bậy ở nhà họ Vương, ngươi có nghĩ đến việc khoan dung với bản cung chăng?”

Vậy còn hoàng hậu? Khi lần lượt trừ khử hết người quen cũ, người thân và người yêu thuở trước, tàn nhẫn máu lạnh như thế, hoàng hậu có bao giờ ngờ đến ngày này chăng? Hoàng Tử Hà nghĩ thầm, song không dám nói ra miệng, đành cúi đầu đứng đó, trơ mắt nhìn một giọt mồ hôi trên trán nhỏ xuống nền gạch xanh dưới chân, hồi lâu cũng không thấm vào được, để lại một vệt thẫm rất dễ thấy.

Hoàng hậu nhìn quanh rồi nói, như đang lẩm bẩm một mình, “Huống hồ, trong cung điện này, lấy đâu ra may mắn? Năm xưa Trưởng Tôn hoàng hậu qua đời ngay tại đây, dù xa hoa lộng lẫy thật đấy, nhưng luôn có người chết cả.”

Hoàng Tử Hà dán mắt nhìn giọt mồ hôi đang từ từ loang ra dưới chân mình, gượng đáp, “Trưởng Tôn hoàng hậu thông tuệ hiền thục, được Thái Tông hoàng đế kính yêu suốt kiếp, điện hạ đương nhiên cũng có thể như bà ấy, được sủng ái một đời.”

“Hừ… giờ nói gì cũng muộn rồi, Dương công công à. Nếu từ đầu ngươi lanh lợi được bằng phân nửa bây giờ, hẳn đã biết có những chuyện nên nói, có chuyện không nên nói, có những chuyện quyết định cả sinh mạng của ngươi!”

Lời hoàng hậu vang vọng bên tai cô như sấm rền, khiến cô sực hiểu. Thân phận thật, thân phận thật ư, tên Lý Thư Bạch chết giẫm, hóa ra y muốn nói thế!

Trong nháy mắt, từ tinh thần đến tâm linh thông suốt hẳn, cô liền quỳ thụp xuống đất, dập đầu lạy hoàng hậu, đoạn thưa, “Xin điện hạ nghe một câu này của nô tài, chỉ một câu thôi, nói xong dù hôm nay có chết ở đây, nô tài cũng cam tâm tình nguyện!”

Hoàng hậu cười nhạt, chậm rãi hỏi, “Câu gì?”

Hoàng Tử Hà nhìn quanh, không đáp.

Hoàng hậu thong thả giơ tay lên ra hiệu cho mọi người lui ra đợi bên ngoài, sau đó lạnh lùng nhìn cô, chẳng nói chẳng rằng.

Hoàng Tử Hà lại dập đầu lạy hoàng hậu một lạy, rồi mới ngẩng đầu lên hỏi, “Nô tài tự biết mình cầm chắc cái chết, dù chết lúc nào ở đâu cũng có khác gì nhau? Chỉ không biết điện hạ định tội gì cho nô tài?”

“Còn cần định tội nữa ư?” Hoàng hậu khinh miệt nhìn cô, như nhìn xuống con sâu cái kiến, “Ngươi biết được bí mật lớn nhất của bản cung, đã tính là tội chết hay chưa?”

“Đương nhiên là tội chết.” Hoàng Tử Hà cung kính đáp, đoạn ngẩng đầu nhìn lên, “Song hôm nay nô tài có một câu muốn tâu lên hoàng hậu điện hạ, biết đâu sau khi nghe rồi, điện hạ lại thấy chuyện này vẫn có cơ hội vãn hồi.”

“Nói.”

Hoàng Tử Hà nghe tiếng tim mình đập như trống làng, tự biết tính mạng chỉ trông vào một câu này, mong sao lời khuyên của Lý Thư Bạch phát huy tác dụng.

Cô hít vào một hơi thật sâu, khẽ đáp, “Nô tài vẫn nhớ, ba năm trước lúc mười bốn tuổi, lần đầu tiên được điện hạ triệu kiến, bấy giờ điện hạ từng bảo nô tài rằng, nếu ta có con gái, chắc cũng trạc tuổi ngươi, cũng sẽ đáng yêu thế này.”
SPONSORED / ĐƯỢC TÀI TRỢ
Ánh mắt hoàng hậu nhìn cô bỗng đờ ra, sắc mặt cũng phức tạp hẳn lên dưới ánh đèn. Làm thinh hồi lâu, người mới ngập ngừng hỏi, “Ngươi… là kẻ ba năm trước…”

Cô quỳ rạp xuống, “Tội nữ Hoàng Tử Hà, khấu kiến hoàng hậu điện hạ.”

Hoàng hậu lạnh lùng hỏi, “Ngươi biết rõ ta căm ghét ngươi, chỉ muốn ngươi chết, tại sao lại tiết lộ điểm yếu của mình cho ta?”

“Bí mật của điện hạ đã được bệ hạ khoan dung, nô tỳ tin rằng đế hậu tình cảm sâu đậm, chẳng bao lâu sẽ lại nồng nàn quấn quýt như xưa. Song bí mật này lại là việc trọng đại can hệ đến sự sống chết của nô tỳ. Nô tỳ nguyện giao cả tính mạng mình vào tay điện hạ, ngày sau nếu lo ngại nô tỳ gây điều bất lợi với người, thì chỉ cần buông một câu là đủ khiến nô tỳ chết đi hàng vạn lần, chẳng cần điện hạ đích thân ra tay.”

Hoàng hậu im lặng quan sát vẻ mặt nghiêm trang của cô hồi lâu mới từ từ đứng dậy đến bên song cửa, trông ra ánh đèn leo lét phía ngoài. Nét mặt nhìn nghiêng của người rất đẹp, như một đóa mẫu đơn trắng muốt lặng lẽ nở rộ trong đêm.

Hoàng Tử Hà câm lặng theo dõi, thầm ước tính xác suất trở mặt của hoàng hậu. Mồ hôi sau lưng vẫn chưa khô, hơi lạnh thấm vào da thịt khiến cô tê tái.

Chẳng biết bao lâu sau, cô mới nghe thấy giọng hoàng hậu, không nhanh không chậm, không nặng không nhẹ, vẫn ung dung thấp trầm như thế, vang vọng trong điện, “Có phải ngươi cho rằng chỉ cần giao tính mạng vào tay ta, ta sẽ nể tình ngươi còn có chỗ dùng được mà cho qua hết những việc ngươi mạo phạm ta lúc trước hay không?”

“Hoàng Tử Hà không dám!” Cô ngước lên nhìn hoàng hậu, thành khẩn đáp, “Song nô tỳ nghĩ, điện hạ hẳn biết rõ chuyện Thái Tông hoàng đế và Ngụy Trưng, cũng như cái tình giữa Võ Hậu và Thượng Quan Uyển Nhi ngày trước. Việc đời biến đổi, thù nhà nợ nước còn cải thiện được, miễn là nô tỳ có thể phục vụ cho điện hạ, thì chuyện xưa có quan hệ gì đâu?”

Hoàng hậu chậm rãi đi đến trước mặt Hoàng Tử Hà, nhìn xuống kẻ đang quỳ mọp dưới nền đất, ánh mắt lướt dọc người cô từng tấc, từ đầu xuống vai, xuống eo rồi xuống nữa, thật lâu sau, người phụ nữ trước giờ vẫn cứng cỏi kiên cường bỗng thở dài thườn thượt, đoạn nói, “Đã vậy, ta cứ nắm lấy cái mạng ngươi trước đã. Nếu ngày sau ngươi không chịu nghe ta sai khiến, ta hẵng thu lại cũng chẳng muộn.”

“Đa tạ hoàng hậu điện hạ khai ân!” Hoàng Tử Hà dập đầu, cảm thấy mồ hôi lạnh túa ra từ tất cả các lỗ chân lông trên cơ thể. Song cô chẳng dám lau đi, chỉ bất động cúi đầu vâng dạ.

Hoàng hậu chẳng buồn để ý tới cô, trầm tư hồi lâu mới hạ giọng, “Hoàng Tử Hà, Hoàng Tử Hà… Xét ra thì, ngươi cũng có công với bản cung.”

Hoàng Tử Hà ngạc nhiên mở to mắt nhìn hoàng hậu.

“Nếu không có ngươi, có lẽ cả đời ta cũng không biết Tuyết Sắc đã chết, càng không biết nó lại… chết bởi tay ta.” Hoàng hậu nghiến chặt răng, cuối cùng cũng khó nhọc rặn ra được mấy chữ đó, đoạn thở dài, “Nếu không nhờ ngươi vạch trần, chắc phải tới khi chết xuống suối vàng gặp con, ta mới biết mình đã gây ra tội nghiệt sâu dày như thế. Bấy giờ, ta thực không biết còn mặt mũi nào nhìn nó nữa không…”

Hoàng Tử Hà nín lặng nghĩ, vậy bà lấy mặt mũi nào xuống âm phủ gặp lại Cẩm Nô vẫn kính bà như trời, yêu bà như mẹ, gặp lại Phùng Ức Nương vì muốn đền đáp ơn bà năm xưa mà chẳng nề ngàn dặm bôn ba hộ tống con gái bà lên kinh?

“Thôi đi… Còn tính toán gì nữa.” Hoàng hậu trở lại sập ngồi xuống, kéo một chiếc đệm gấm tựa người bên cửa sổ, ngẩng đầu nhìn dòng Ngân hà sáng rực bên ngoài, ánh đèn lồng đã lụi cả, chỉ còn dòng ngân hà treo ngược vắt ngang qua phía trên cung Thái Cực, từng đốm sáng nhỏ nhoi như những hạt bụi li ti trút xuống bầu trời.

Rồi tiếng hoàng hậu lại cất lên, từng chữ từng từ như chắt ra từ tim phổi, kiên định mà lạnh lùng, “Ta đã có thể từ giáo phường bước lên ngai vị cao nhất trong cung Đại Minh thì cũng sẽ có một ngày từ lãnh cung quay trở lại! Triều Đại Đường này, trên đời này, kẻ có thể lật đổ ta, còn chưa ra đời đâu!”

Hoàng Tử Hà quỳ trước mặt hoàng hậu, lòng ngổn ngang bao cảm xúc, nhất thời chẳng biết nói gì.

Dưới ánh đèn leo lét, giữa cung điện cổ xưa lạnh lẽo hoang vu, người phụ nữ cứng rắn ấy ngồi ngắm sông Ngân ngoài cửa sổ, trong một khắc chợt đưa tay lên bưng mặt, cũng lau sạch những thứ sắp lăn xuống vào lòng bàn tay.

Đồng hồ nước tí tách nhỏ giọt, đêm dài đến đâu cuối cùng cũng sắp qua, sao sáng lung linh, sắp đến lê minh.

Hoàng Tử Hà lặng lẽ dập đầu với hoàng hậu, đang định đứng dậy lui ra, lại nghe giọng người vang lên trầm thấp, “Hoàng Tử Hà, ngươi đã bao giờ rơi vào cảnh ngộ tuyệt vọng, đến mức cảm thấy chi bằng chết quách cho rồi chưa?”

“Thưa rồi… Tuyệt vọng là khi cha mẹ và người nhà nô tỳ đều qua đời, nô tỳ bị quy là hung thủ, bị truy nã khắp nơi. Song nô tỳ không nghĩ đến cái chết, mà dù có chết, nô tỳ cũng không muốn đeo theo tội danh giết hại cả nhà!”

“Nhưng ta quả thực đã từng… có lúc nghĩ đến cái chết.” Hoàng hậu lặng lẽ ngả người nằm xuống sập gấm, tấm áo lụa bảy lớp hoa lệ huy hoàng phủ lên thân mình, tơ lụa lượt là vây bọc, mái tóc đen tuôn dài như suối buông xõa xung quanh. Nhưng gương mặt trắng muốt thì lộ rõ tiều tụy cùng mệt mỏi.

“Ngươi… đã bao giờ gặp Tuyết Sắc chưa? Có phải nó rất giống ta không?”

Hoàng Tử Hà lắc đầu, “Đáng tiếc, cô ấy và nô tỳ người trước kẻ sau lỡ mất nhau ở ngoại giáo phường, chưa từng gặp mặt.”

“Ừ… Ta cũng không bao giờ còn cơ hội nhìn dáng vẻ trưởng thành của con gái nữa.” Hoàng hậu thở dài nói khẽ, “Lần cuối cùng ta trông thấy Tuyết Sắc, nó mới qua sinh nhật năm tuổi. Bấy giờ ta hai mươi ba tuổi, mà Kính Tu – chính là Trình Kính Tu luôn miệng khẳng định không để tâm việc ta xuất thân từ phường ca múa, lại nói con gái lớn lên ở nơi này tất không hay, muốn ta cùng y rời đi.”

Hoàng Tử Hà không hiểu vì sao hoàng hậu lại kể những chuyện này với mình. Nhưng thấy xung quanh lặng phắc như tờ, giữa cung điện vắng vẻ, dưới đêm dài đằng đẵng, không trông được lối trước, cũng chẳng thấy đường sau, cô ngước lên nhìn Vương hoàng hậu, bất giác sinh lòng trắc ẩn, chăm chú nghe người kể tiếp.

“Vân Thiểu Uyển tuy là kỹ viện, nhưng chỉ ca múa chứ không phải lầu xanh. Các tỷ muội đều bán nghệ nuôi thân, hết sức tự trọng. Nhưng sau mấy lần tranh cãi với Kính Tu, ta cũng đàng thuận theo y, dẫn con gái cùng y lên phương Bắc, đến kinh thành thử thời vận. Bởi y cho rằng ở Trường An rộng lớn, tài vẽ của mình nhất định sẽ có người thưởng thức. Tiếc rằng đường đi rất rối ren, lính tráng giặc cướp làm loạn, tiền bạc ta gom góp bao năm đều tiêu tán hết. Lúc đến được Trường An, chúng ta đã cạn tiền, đành thuê một túp lều ở tạm. Thoạt đầu Kính Tu cũng ra ngoài thử vận may, song y không quen biết không quan hệ, ai chịu tiến cử? Chẳng bao lâu, vì bị ghẻ lạnh ở khắp nơi, y đã vỡ lẽ, không chịu ra ngoài nữa, chỉ ngồi ở nhà oán trời trách đất. Thời ở Dương Châu, Kính Tu phong lưu hào phóng, hàng ngày chỉ cần vẽ tranh tiêu khiển, đối xử với ta cũng rất dịu dàng, nên tình cảm đôi bên mặn mà hết sức. Song vừa đến Trường An, gia đình nghèo khó trăm sự khổ, ta chợt phát hiện, thì ra người đàn ông ta tìm được, đến năng lực sinh tồn còn chẳng có. Bấy giờ Tuyết Sắc lại sinh bệnh, sống trong túp lều lạnh lẽo ẩm thấp đó, ngay cả cây trâm sương lá mà Kính Tu tặng ta làm vật định tình cũng phải đem cầm. Chúng ta ăn đói mặc rét, cơm áo còn chẳng đủ, nói gì đến việc chữa bệnh cho con… Ta ôm Tuyết Sắc chạy khắp các tiệm thuốc, song vì không có tiền nên có quỳ trước của tiệm khóc lóc van nài cũng chẳng ai để mắt. Kính Tu chạy đến lôi ta về, nói ta làm bẽ mặt, ta chỉ còn cách cả đêm ôm ấp con gái, lau người cho nó, trơ mắt nhìn nó thở khò khè, nhìn sắc trời ngoài song sáng dần lên… Bấy giờ, cũng là một đêm dài thế này, tình cảnh giống hệt, tưởng đâu chỉ cần nhắm mắt lại là sẽ buông bỏ được hết thảy tuyệt vọng…”

Chuyện đã mười hai năm, song bây giờ thuật lại, hoàng hậu vẫn cảm thấy tê tái thấu xương, thấy cõi lòng sâu kín bị rạch nát. Người phủ phục trên gối, mở to cặp mắt hoang mang thất thần, lời lẽ buột miệng mơ hồ mà hỗn loạn, như thể chỉ nói cho mình nghe.

“Tuyết Sắc phúc to mạng lớn, cuối cùng cũng vượt qua được, song Kính Tu lại vì uất ức mà ngã bệnh. Thấy cả nhà sắp bị đuổi ra đường vì không trả nổi tiền thuê căn lều rách, ta đành giấu Kính Tu một mình đến chợ Tây tìm cơ hội. Ta vẫn nhớ như in bấy giờ là mùa đông rét mướt, những chiếc lá hòe lần lượt lìa cành rơi xuống lề đường. Có một người đàn bà chừng năm sáu mươi tuổi mặc áo thô màu nâu rách nát ngồi ở cửa chợ Tây xin ăn. Bà ta ôm cây tỳ bà cũ nát đã tróc sơn loang lổ, cất giọng khản đặc hát một khúc Trường tương thủ sai lời lạc điệu. Mái tóc vừa bết vừa rối bù xõa xuống vai, càng làm nổi bật gương mặt lem luốc nhăn nheo như rêu khô chồng chất trên khối đá đã bị xói mòn. Song chẳng có cách nào khác… Tấm áo rách trên mình bà ta không che nổi cơn gió lạnh như dao cắt, bàn tay lạnh đến nứt toác, bờ môi khô nẻ tím tái, trục cây đàn tỳ bà kia cũng đã lâu không so lại, dây đèn xiêu vẹo, làm sao gảy ra được một khúc ra hồn?”

Cuối cùng, từ đôi mắt thẫn thờ của hoàng hậu cũng tuôn hai hàng lệ. Người bưng mặt nghẹn ngào, “Ngươi không hiểu được… nỗi tuyệt vọng trong lòng ta bấy giờ đâu. Hôm ấy, ta đã đứng trước mặt người đàn bà nọ rất lâu. Buổi chiều lạnh lẽo âm u như sắp mưa, chợ Tây cũng vắng ngắt. Ta nhìn bà ấy, tựa như trông thấy chính mình ba mươi năm sau, từ một đóa hoa rạng rỡ đầu cành, trở thành một nắm bã đậu khoác áo rách thều thào… Không nơi nương tựa, nghèo đói bệnh tật, cuối cùng tê tái mà thê lương chết ở đầu đường, da thịt âm thầm rữa nát, chẳng ai hay biết ta từng sở hữu dung mạo và tài hoa khiến bao người phải ganh tị…”

Hoàng hậu thở dài, run rẩy hít một hơi thật sâu, đoạn khó nhọc tiếp, “Kể từ buổi chiều hôm ấy, ta đã vứt bỏ tất cả ngây thơ, hiểu ra rằng cái gọi là tình yêu, khi đối mặt với hiện thực thì chẳng chịu nổi một đòn. Thứ ta thực sự cần không phải là cùng Kính Tu sống chết có nhau, mà là tiếp tục sống, hơn nữa còn phải sống thật đủ đầy sung sướng, vĩnh viễn không bao giờ phải ôm tỳ bà ăn xin ở chợ Tây!”

Hoàng Tử Hà lặng lẽ nhìn hoàng hậu.

“Đúng lúc ấy, ta gặp một người bạn cùng học nghệ năm xưa. Cô ấy vốn ngốc nghếch vụng về, dung nhan cũng chẳng lấy gì làm đẹp đẽ, thường hay gảy sai, học hơn ba tháng vẫn không đàn xong một khúc. Nhưng cô ấy lấy được một người buôn trà, vận áo gấm mới tinh, bên mai gài một đóa hoa vàng thật lớn, đầu cắm bảy tám cây trâm mành mành, trông trọc phú ghê gớm, song vẫn lộng lẫy hơn ta cả trăm lần. Cô ấy ngồi trên xe ngựa, thấy ta đi bộ bên đường bèn gọi lại, tỏ vẻ thông cảm pha lẫn khoa trương, hỏi han ta sao lại lưu lạc đến nỗi này, còn hỏi ta có cần giúp đỡ, tìm cho một chân dạy tỳ bà hay không. Bấy giờ cô ấy còn chẳng buồn xuống xe, ngồi trên cao nhìn xuống cười nhạo, song ta vẫn thấy mình may mắn, bởi đã đi đến bước đường cùng, nếu không có cô ấy, ta cũng chẳng biết tiếp theo đây mình sẽ đi về đâu nữa. Cô ấy dẫn ta đến nhà họ Vương Lang Gia, giới thiệu rằng ta là họ hàng xa, vì cha mẹ qua đời nên lưu lạc đến kinh thành. Nhờ ngón đàn tỳ bà khiến mọi người thán phục, ta được giữ lại, bèn quay về sắp lấy mấy bộ quần áo, đưa cho Kính Tu chút tiền vừa được người bạn kia tiếp tế, dặn rằng khi nào phát lương tháng sẽ đưa thêm.” Giọng hoàng hậu đầy buồn bã, khẽ đến gần như không thể nghe thấy, “Lúc ấy, ta thậm chí không nói với y mình sắp đi đâu. Tuyết Sắc ôm lấy chân ta khóc lóc, ta đành nghiến răng bế thốc nó lên đặt vào lòng Kính Tu. Y chỉ lặng thinh nhìn ta. Ta ra khỏi cửa, y vẫn không nói không rằng. Ta không nhịn được ngoảng lại nhìn chồng con, song chỉ thấy Kính Tu ôm Tuyết Sắc ngồi trên giường, ráng chiều rơi rớt chiếu vào mắt y, ánh mắt trống rỗng của y cứ đăm đăm nhìn ta, đăm đăm nhìn ta, mãi đến bây giờ, vẫn rành rành trước mặt…”

Giọng nói càng lúc càng khẽ, tưởng chừng không nghe thấy nữa. Song ánh mắt lại bừng bừng một ngọn lửa đen tối, khiến người ta rúng động.

Hoàng Tử Hà không khỏi buột miệng, “Chắc hẳn lúc lìa xa Tuyết Sắc, điện hạ cũng rất đau lòng.”

“Phải, song khi đã được sung sướng, ta lại chẳng ngó ngàng gì đến nó.” Hoàng hậu đưa mắt nhìn cô, mỉm cười lạnh lùng, “Ta dạy đàn ở nhà họ Vương không lâu thì Vận vương tới chơi, vào khoảnh khắc ôm tỳ bà bước ra, ta trông thấy trong mắt vương có gì đó sáng rực lên. Lúc còn ở Dương Châu, rất nhiều người cũng nhìn ta như vậy, ta đều phớt lờ, song lúc ấy, chẳng hiểu sao, ta đột nhiên, thoáng… chỉ do dự một thoáng, rồi ta nhoẻn cười với vương, ngẩng lên với dáng vẻ đằm thắm mà Kính Tu yêu thích nhất. Quả nhiên, chẳng bao lâu sau, Vương Lân tới tìm ta bàn bạc, nói rằng Vận vương ngộ nhận ta là con gái nhà họ Vương, bảo ta cứ đâm lao theo lao mà vào vương phủ. Lão vốn lực bất tòng tâm trước sự lụn bại của nhà họ Vương, đúng là có bệnh thì vái tứ phương, nào biết ta xuất thân từ chốn phong trần, càng không hay ta đã có chồng có con, lại dám tìm ta bàn bạc. Nghe Vương Lân nói, ta cứ như chìm vào giấc mộng, trước mắt lóe lên hình ảnh bà già chơi đàn ở chợ Tây, gương mặt đen đúa ấy, bờ môi héo úa ấy, đôi tay khô xác ấy… Ta bèn nhận lời ngay! Bấy giờ ta tự nhủ, giống như loài thiêu thân lao vào lửa, dù có chết, ta cũng nhất định phải chết ở một nơi xán lạn huy hoàng! Việc đời thực hoang đường, mười hai năm nay, ta sống trong cung như cá gặp nước, hạnh phúc đủ đầy hơn ai hết. Ta âm thầm trừ khử người bạn năm xưa tiến cử ta vào nhà họ Vương, chỉ trong mấy năm đã làm Quách thục phi thất sủng, từ dung hoa đến chiêu nghi, lên quý phi rồi đến hoàng hậu. Nghiễm nhi của ta tuy là con thứ năm của bệ hạ, song lại được phong làm thái tử. Ta biết đời này, nơi thích hợp nhất dành cho ta chính là cung đình! Đứng trên ngôi cao, được muôn người bái lạy, dù ta không có người yêu và con gái thì có làm sao? Ta vẫn sống huy hoàng tráng lệ, khiến người trong thiên hạ phải khao khát kia mà!”

Hoàng Tử Hà nói khẽ, “Nhưng con gái lại không muốn vào kinh gặp mặt người, dù người có được tất cả, song hai tay vấy đầy máu tươi của thân thích, tỷ muội và đệ tử, lẽ vào lòng không thấy bi ai hay hổ thẹn ư?”

“Hổ thẹn? Bi ai?” Đôi mắt lạnh lùng cứng cỏi của hoàng hậu thoáng qua một tia ảm đạm. Song ngay lập tức, người đã hếch cằm, cười nhạt liếc cô, “Mười hai năm trước, ta cũng từng ngây thơ lãng mạn như ngươi, cho rằng bên cạnh có chồng có con, dù nghèo đói bệnh tật vẫn là hạnh phúc mỹ mãn. Tiếc rằng… Tiếc rằng người có thể thay đổi, lòng có thể già đi, chỉ có cuộc sống là phải vật lộn để vượt qua từng ngày! Khi ngươi đứng trước bước đường cùng, ắt sẽ hiểu ra tất cả!”

Hoàng Tử Hà làm thinh hồi lâu, lại hỏi, “Bởi thế, về sau người cũng không hề gặp lại Trình Kính Tu và Tuyết Sắc ư?”

“Không hề. Sau khi quyết định bước vào Vận vương phủ, ta bèn nhờ người bạn học kia chuộc cây trâm sương lá ra, đưa đến cho họ cùng lộ phí, nói với họ rằng Mai Vãn Trí đã chết rồi, không cần tìm nữa.”

Hoàng Tử Hà im lặng đợi kể tiếp, song dường như hoàng hậu chẳng muốn kể thêm nữa, cứ ngẩn ngơ nằm duỗi người trên sập, giữa cung điện huy hoàng, thẫn thờ chìm vào hồi tưởng, thật lâu, thật lâu sau mới cúi nhìn xuống, mỉm cười thê lương. “Đúng thế, Mai Vãn Trí đã chết rồi. Từ đó trở đi, cô ta vừa sợ vừa hận tỳ bà, không bao giờ đụng đến nữa. Trên đời này chỉ còn Vương Thược, sống giữa thâm cung, cẩm tú phồn hoa, hạnh phúc hơn ai hết. Dù chết, ta cũng sẽ chết giữa gấm lụa lượt là, nhà cao cửa rộng. Đời này, ta đã đi đến tột đỉnh phồn hoa, muốn gì được nấy rồi.”

Giọng điệu thê lương khôn xiết, song không giấu nổi vẻ ương ngạnh.

Hoàng hậu không muốn nói thêm gì nữa, nên khẽ xua tay, cho Hoàng Tử Hà lui ra.

Có điều khi cô đứng dậy đi khỏi, lại nghe thấy hoàng hậu nói nhỏ phía sau, “Lời ta nói ba năm trước, là thật đấy.”

Cô ngạc nhiên ngoái lại, nhìn về phía người phụ nữ lạnh lùng quyết liệt kia. Hoàng hậu trầm tư cất tiếng, “Bấy giờ ta thấy ngươi vận chiếc áo màu ngân hồng ánh nhũ, giữa ngày xuân phơi phới, yêu kiều tiến lại, như đóa đậu khấu mới nảy đầu cành, rung rinh trong gió. Ta chợt nghĩ, nếu Tuyết Sắc ở cạnh ta lúc này, hẳn nó cũng xinh đẹp như thế.”

Đêm ở cung Thái Cực, tĩnh mịch mà lạnh lẽo.

Hoàng Tử Hà men theo con đường lúc đến, chầm chậm rời khỏi cung điện đìu hiu ấy.

Những ngôi sao trên trời lần lượt đổi rời, đèn đuốc dọc đường ra đều đã tắt cả, tiếng côn trùng nỉ non rả rích không ngừng vang vọng giữa màn đêm yên tĩnh.

Hoàng Tử Hà ngẩng đầu nhìn trời, chỉ thấy vô vàn những vì sao.

Nếu nói số mệnh mỗi người ứng với một ngôi sao thì trong khoảnh khắc này, dường như vận mệnh mọi người đều chỉ là một đốm sáng nhỏ nhoi không đáng kể. Người sống trên đời chẳng khác gì rơm rác, dù sao sa như mưa, trút cả xuống đồng hoang, cũng chỉ vụt qua trong thoáng chốc, đổi được câu than thở của người ngàn vạn năm sau mà thôi.

Cô đi đến cửa cung Thái Cực, cửa ngách từ từ hé mở để cô bước ra.

Dưới bầu trời sao, giữa đêm thanh vắng, có một bóng người dong dỏng đứng đó. Y nhìn cô bước ra, vẻ mặt thản nhiên, song vào khoảnh khắc nhận ra cô, đáy mắt y tựa hồ lăn tăn gợn sóng.

Hoàng Tử Hà dừng chân, nhất thời bối rối.

Y bèn tiến lại phía cô, giọng nói vẫn lạnh lùng xa cách, “Ngây ra đó làm gì? Đi thôi.”

“Vương gia…” Hoàng Tử Hà luống cuống thốt, ngẩng lên nhìn những đường nét ngời ngợi dưới sao, khẽ hỏi, “Vương gia vẫn đợi tôi từ bấy ư?”

Y quay mặt đi chỗ khác, “Tiện đường ngang qua.”

Hoàng Tử Hà nhìn ra màn đêm Trường An đang giới nghiêm, không khỏi nhoẻn cười.

Lý Thư Bạch phớt lờ cô, quay người đi về phía xe ngựa.

Hoàng Tử Hà lật đật chạy theo sau, nghĩ ngợi một thoáng, không nhịn được lại hỏi, “Lỡ như… tôi chỉ nói lỡ thôi nhé, lỡ như tôi không hiểu được ý vương gia mà bị giết thật, chẳng phải vương gia uổng công đứng đợi hay sao?”

Lý Thư Bạch chẳng buồn ngoái lại, chỉ đáp, “Thứ nhất, hoàng hậu giờ đã thất thế phải vào lãnh cung, sao dám ra tay giết kẻ vạch trần thân phận bà ta như ngươi? Nếu làm vậy bà ta phải ăn nói thế nào với bệ hạ?”

Hoàng Tử Hà nghĩ bụng, mình chưa từng sống nơi cung đình, đương nhiên không biết chuyện này. Huống hồ, nếu chắc chắn không sao, thì việc gì vương gia phải ba lần đá tôi ngã xuống nước, việc gì phải đứng đây đợi suốt đêm?

“Vậy… còn thứ hai?”

“Thứ hai…” Cuối cùng Lý Thư Bạch phải ngoảnh lại, lườm cô rất sắc. Giữa đêm thanh vắng, cơn gió lộng lặng lẽ lướt qua hai người. “Nếu ngay cả ám hiệu ấy ngươi còn không hiểu được, thì đã chẳng phải Hoàng Tử Hà.”

Hoàng Tử Hà bất giác mỉm cười.

Thoát được đại nạn, đêm thực dịu dàng. Hai người ngồi trong cỗ xe lắc lư, nhằm hướng Quỳ vương phủ.

Chiếc chuông vàng trên xe đung đưa, con cá nhỏ màu đỏ lặng lẽ ngủ dưới đáy bình lưu ly, như một đóa hoa âm thầm chìm trong làn nước.

Ánh đèn trên phố theo cửa xe chầm chậm lọt vào, rồi lại chầm chậm trôi ra.

Trong xe thoắt sáng thoắt tối, bóng người khi tỏ khi mờ, thời gian âm thầm lặng lẽ.

Ánh sáng dập dềnh như ngưng đọng giữa khoảng không hai thước ngăn giữa hai người

Lúc này đây, tại cổng thành Trường An, Tiểu Thi bưng tro cốt Tuyết Sắc cũng ngẩng đầu nhìn lên dòng Ngân hà mênh mang. Nàng ghì Tuyết Sắc vào lòng, òa lên khóc lạc cả giọng.

Cách đó hơn trăm dặm, Trần Niệm Nương hối hả bỏ trốn đang lặn lội giữa đồng hoang gió lạnh. Ngẩng đầu nhìn con đường mịt mù phía trước, dòng sông Ngân trên không lấp lánh muôn sao, từ nay, bà ta chỉ còn một thân một mình trên đời, thứ duy nhất còn níu giữ được, chỉ là hai miếng ngọc nho nhỏ trong tay mà thôi.

Cửu Châu muôn dặm…

Dưới ánh trăng sao…

Bao nhiêu âm thanh…

Đều bị đêm thâu chôn vùi hết thảy.

Hết.
 
Trạng thái
Không mở trả lời sau này.
Top