Lượt xem của khách bị giới hạn

[Trinh thám] [Trinh Thám] Mô Kim Quyết - Quỷ Môn Thiên Sư - Thiên Hạ Bá Xướng

Trạng thái
Không mở trả lời sau này.
[Trinh thám] [Trinh Thám] Mô Kim Quyết - Quỷ Môn Thiên Sư - Thiên Hạ Bá Xướng

Lười Biếng Vô Tận

Thanh Phong 37
Tham gia
5/4/19
Bài viết
21
Điểm cảm xúc
67
Điểm
13
Dịch: Đặng Nam

Tay thợ săn Đại Hổ sau khi chạy vào trong phối điện, liền ngồi im thin thít không cử động, hệt như một pho tượng sống vậy. Tôi đánh bạo tiến lên kéo vào vai hắn một cái, cả người hắn lập tức đổ ập ra sau, mặt ngửa lên trời, lúc này mới phát hiện ra trên mặt hắn nhung nhúc toàn dòi với dòi, da thịt đã sớm bị nát rữa từ bao giờ, một mùi hôi thối tởm lợm cũng ngay tức khắc xộc ra. Ba người chúng tôi sợ hết hồn, vội lui về phía sau hai bước, quáng quàng đưa tay lên bịt kín mũi miệng, sau đó mới cẩn thận cúi xuống quan sát kĩ hơn cỗ thi thể thối rữa kia, chỉ thấy dòi bọ bò đầy trên mặt, ngũ quan không thể nào phân biệt nổi. Nhưng rõ ràng là chúng tôi vừa mới cùng tay thợ săn này một trước một sau bám đuổi gắt gao chạy vào phối điện này, hắn tuyệt đối không thể nào nhanh như vậy đã có thể tìm ra được một cái xác rồi lại thay trang phục, giả làm hắn để lừa chúng tôi được! Tôi có thể khẳng định chắc chắn rằng cỗ thi thể đầy dòi kia tuyệt không phải của ai khác mà đích thực là của Đại Hổ, bởi vì tôi nhớ là Đại Hổ hắn có hai cái răng nanh sắc nhọn như nanh hổ, mặc dù da thịt đã bị thối rữa nát bét nhưng hai cái răng hổ kia vẫn còn có thể nhìn ra được.

Tuy phút trước còn sống rành rành, phút sau đã chết ngay tắp lự thì cũng chẳng có gì kỳ quái cả, mà điều đáng để băn khoăn là tại sao thi thể hắn lại bị thối rữa thành ra bộ dạng như bây giờ? Bình thường sau khi chết, cơ thể phải mất hai đến ba giờ sau mới bắt đầu cứng dần, lại phải đợi thêm vài ngày nữa mới có thể xuất hiện dòi bọ ăn xác thối. Phải chăng lúc chúng tôi gặp Đại Hổ ở thượng nguồn Hắc Thủy Giang, hắn đã là một người chết sẵn rồi? Một cỗ cương thi giả trang thành thợ săn thú, ban ngày ban mặt vào tận trong thôn tìm chúng tôi, còn nói đủ thứ chuyện trên trời dưới đất một hồi lâu, mới nghĩ tới đây thôi đã đủ khiến người ta nổi hết cả da gà vì ớn, không biết nó là từ trong tòa cổ mộ nào bò ra? Hoặc cũng có khả năng bên trong tòa Liêu mộ này có một loại thi trùng nào đó, Đại Hổ chính là bị loại thi trùng đó cắn phải nên mới lập tức biến thành ra như vậy? Bất quá cả ba người chúng tôi cũng bước vào phối điện này, đây cũng là một tòa trường điện đặt trên trục Bắc Nam, cũng chạy qua thông đạo được lát gạch đã bị lưu sa lấp kín, trừ tên thợ săn đang phơi thây trên đất này ra cũng không phát hiện thấy có bất kỳ dị trạng gì cả, không biết sau khi hắn chui vào trong này đã xảy ra biến cố gì?

Chúng tôi lúc ấy toàn là nói mò, suy đoán lung tung một trận. Cái tư tưởng mê tín thâm căn cố đế đã sớm ăn sâu vào trong đầu óc của Trăn Tử, nàng cho là tay thợ săn Đại Hổ kia kỳ thực là một cỗ hành thi. Tôi cùng Tuyền béo tặc lưỡi xem thường, người miền núi quả là đầu óc mê muội, mê tín một cách thái quá, nhưng mà kể ra cái suy nghĩ mê tín của họ cũng khá là có logic đấy chứ, truyền thuyết kể về cương thi tôi đã sớm nghe qua không ít, có câu là nhập thổ vi an, tức là người chết sau khi chôn xuống đất là coi như hết nợ với đời, tuy nhiên có một số người bị oan mà chết thành ra nhập thổ bất an, trở thành cương thi. Trong ngũ hành thì cương thi thuộc hành thổ, vì thổ có thể khắc được thủy, cho nên trong truyền thuyết dân gian thì cương thi sẽ mang đến hạn hán, vì vậy gọi là Hạn Bạt (Trans: Hôm trước có một bài nói về Tứ Đại Cương Thi thì Hạn Bạt là công chúa trên trời, chắc là có nhiều cách lí giải, các bạn nếu muốn có thể tìm đọc thử). Trên thân lông cứng mọc ra tua tủa, vô cùng hung ác, ban ngày núp kín ban đêm mới bò ra, bắt người sống hút hết óc, trăm năm làm Hung, nghìn năm thành Sát, sau khi hình thành đạo hạnh thậm chí có thể bay lên trời, chui xuống đất một cách dễ dàng, hút hết thủy mạch long khí. Lại bởi vì mộc có thể khắc thổ, để đối phó với cương thi phá quan tài bò ra, phía trên mộ phần phải lấy gỗ đào làm cọc đóng chặt xuống đất. Cho dù theo như truyền thuyết mê tín mà mọi người truyền miệng nhau bấy lâu nay thì cương thì ban ngày vẫn phải núp ở trong quan tài, nếu như nói tay Đại Hổ kia là một cỗ cương thi, hắn làm sao có thể đi tới đi lui giữa ban ngày ban mặt như vậy, mà hơn nữa cũng không ai phát giác ra trên người hắn có mùi hôi thối của thịt rữa, chẳng lẽ nguyên một cái xác chết trên người bám dầy dòi bọ đứng trước mặt mà chúng tôi lại không nhìn ra được sao? Tôi xem chừng bên trong địa cung tòa cổ mộ này nhất định là có thứ gì đó đã tác oai tác quái, làm sao có thể khiến một người đang sống rành rành chỉ trong chớp mắt đã hoàn toàn biến thành một đống thịt thối rữa bầy nhầy như này? Càng không giải thích được thì lòng càng không yên, nếu như không có cách nào sớm tìm ra chân tướng, chỉ sợ người kế tiếp chịu trận chính là một trong số chúng tôi! Tuyền béo mở miệng nói: “Tuy rằng chưa biết thứ gì đã khiến hắn trở nên như vậy, nhưng ở cái nơi quỷ quái âm u như này, chúng ta vẫn nên cẩn thận hơn!”

Nói xong hắn đem đèn bão treo trên súng săn đi một vòng xung quanh kiểm tra thử, ben trong trường điện hoàn toàn vắng vẻ lạnh lẽo, ngay đến một con chuột cũng không có, hắn tự nhủ: “Ở trong lòng núi đục khoét ra được một tòa đại điện như này nhưng thứ gì cũng không có, là cố tình xếp đặt như thế hay là con mẹ nó ăn no rửng mỡ đào ra cho vui?”

Lời này của Tuyền béo đã nói trúng đến điểm mấu chốt, táng chế thời cổ đại rất chú trọng đến chuyện cuộc sống sau khi chết, địa cung trong mộ lúc đầu được gọi là huyền cung, đến đời Thanh vì tránh phạm phải tục danh của thánh tổ Khang Hy nên mới đổi cách gọi thành địa cung, càng về sau thì càng có nhiều cách gọi, thích kêu là gì cũng được, tóm lại chủ yếu là muốn làm thành cung điện y như của chủ mộ lúc còn sống vậy. Nếu như không thể hoàn toàn làm giống y đúc thì ít nhất trên phương diện cách cục cũng phải tương tự phần nào, trong mộ phải chia thành tiền trung hậu - tam đại điện, hai bên có phối điện, không quan trọng là có cần thiết hay không nhưng vẫn phải có. Tôi vừa ngẩng đầu lên nhìn một cái, đèn pin cũng lia theo chiếu lên trên cao, liền phát hiện trên vách có chừng mười người, là đồng nam đồng nữ đã chết héo từ lâu, đóng thẳng vào vách đá, mỗi tay bưng một ngọn trường minh đăng, quần áo trên người đều đã mục nát, mắt mũi vặn vẹo khó coi, sắc mặt đen nhánh, ở trong mộ bất thình lình nhìn thấy mười cái xác chết như vậy, thật có thể dọa người ta chết khiếp, són đái ra quần!

Táng chế thời nhà Liêu đại khái cũng gần tương tự với các vương triều Trung Nguyên, tuy nhiên cũng có chút bất đồng, không hẳn là giống nhau hoàn toàn, bình thường thì sẽ đem những đồng nam đồng nữ tuẫn táng lột sạch da, rồi lấy những bộ da đấy đính lên cọc gỗ, giả thành hình người, gọi là nhân cọc, không nghĩ tới bên trong ngôi cổ mộ này lại có nhiều hài tử tuẫn táng theo như vậy. Đại Hổ chỉ trong nháy mắt đã trở thành một đống thịt rữa nhung nhúc dòi bọ như vậy, liệu có phải hay không là do những đồng nam đồng nữ này tác quái gây ra? Trăn Tử không dám nhìn lâu, núp kín ở sau lưng hai thằng tôi, tôi cùng Tuyền béo thì bạo dạn hơn, dùng đèn pin chiếu qua một lượt. Những đồng nam đồng nữ bị tuẫn táng theo chủ mộ này, tất cả đều là bị lột da ngay từ khi còn sống, sau đó bộ da được đính lên hình nộm bằng gỗ, rồi tô thêm mắt mũi. Hình nộm được đẽo ra từ từ gỗ cây nhãn, trăm năm không mục, sâu kiến cũng không làm gì được. Những người này đều là bị vạch một đường ở giữa sống lưng, rồi dùng dao nhỏ lóc dần da ra khỏi bắp thịt, bộ da sau khi đã lột hoàn chỉnh được gọi là “Cánh bướm”. Cho dù âm hồn không tiêu tan trở thành ác quỷ có thể hù chết được tên thợ săn này, vậy cũng không thể khiến cho thi thể hắn biến đổi nhanh như thế này được.

Cảm giác sợ hãi trong lòng chúng tôi càng mãnh liệt hơn, đồng thời cũng trở nên căm ghét đối với hành động tàn nhẫn này của tên chủ mộ, tại sao lại có thể nhẫn tâm bắt nhiều tiểu hài tử tuẫn táng theo mình thế chứ? Chúng tôi thật sự không nên nhất thời hấp tấp như vậy, khinh thường hai tên thợ săn kia, tùy tiện theo chúng chạy vào gian phối điện này để rồi bị tên Nhị Hổ kia giở trò hãm hại, lối vào duy nhất đã bị lưu sa lấp kín, lúc vào thì dễ chứ giờ muốn chạy ra thì mới thực sự là nan giải! Vừa nghĩ tới tên Nhị Hổ đã chạy mất, lại nhìn Đại Hổ đang phơi thây ở đây, có lẽ nào là do Nhị Hổ đã bày trò kim thiền thoát xác, đồng thời cũng là để chôn sống chúng tôi ở đây nhằm giết người diệt khẩu. Vậy có thể nói thi thể của Đại Hổ bị như thế kia không phải là do thứ gì đó trong mộ gây ra? Phải chăng người huynh đệ Nhị Hổ của hắn cũng là một hoạt thi có thể đi đứng nói cười như người sống sao?

Hết thảy mọi thứ phát sinh quá mức đột ngột, khiến tôi cùng Tuyền béo không thể nào tìm ra được nửa điểm đầu mối để có thể giải thích được những chuyện này, tuy nhiên có một câu nói của Trăn Tử lại khiến tôi phải để tâm suy nghĩ, nàng nói rằng tay Nhị Hổ không phải là hành thi. Tôi nghe những lời nàng nói cũng có chút ý tứ gì đó, tựa hồ rất có nguyên do, liền hỏi nàng tại sao nói tay Đại Hổ mà chúng tôi gặp lúc ở trong thôn là hành thi, còn tay Nhị Hổ này lại không phải? Trăn Tử nói những chuyện này nàng cũng chỉ là nghe từ một số người cao tuổi trong thôn đề cập đến một hai lần, trước kia từng có một phân mạch tà đạo như vậy, chuyên có những thủ đoạn đào mộ trộm cổ vật vô cùng khó lường, đồn rằng thứ bọn chúng sử dụng chính là yêu pháp, nhưng nghe nói sau này đều bị trấn áp rồi xử tử, tuy nhiên rất có thể vẫn còn một hai truyền nhân còn sót lại. Tôi cùng Tuyền béo nghe xong đều trợn mắt há mồm, hai tên chuột đất này có thể sử dụng yêu pháp gì chứ?

Theo như đám thợ săn trong thôn nói, từ rất sớm trước kia, trên thảo nguyên cũng có khá nhiều chuột đất xuất hiện, trong số bọn chúng có kẻ biết sử dụng tà thuật yêu pháp, có người nói đó là truyền nhân của Bạch Liên giáo, cũng có người nói là không phải. Trong đó có một chiêu thức khá kỳ quái được dùng lúc khai quan đoạt bảo, những tên chuột đất khác nếu như muốn móc lấy minh khí chôn theo trong mộ thì phải cạy bỏ lớp ván đóng quan tài rồi mới chui vào lấy đồ. Nhưng tên này thì lại niệm Phi Chử Chú, khiến cho người chết trong quan tài tự mình bò ra ngoài, mặc người khoắng sạch lấy minh khí bên trong, sau đó sẽ niệm chú lại một lần nữa để cho người chết bò trở lại như chưa có chuyện gì xảy ra. Mặc dù truyền thuyết này nghe có vẻ rất là tà môn, nhưng cơ hồ chưa có lấy một người nào từng thấy qua cả, không loại trừ trong câu chuyện này đa phần là người xưa nói quá lên để hù doạ nhau mà thôi.

Ngoài ra còn nói, hễ là những tay chuột đất mà biết sử dụng tà thuật yêu pháp, trước giờ mỗi khi ra ngoài hành sự đều không bao giờ đi một mình mà sẽ dẫn theo một người, người ngoài không biết nhìn vào còn tưởng đấy là hai huynh đệ một nhà, nào có biết đâu trong hai người này có một người sống và một người chết. Bọn chúng trước khi đổ một cái đấu nào đó, đều sẽ đi tìm một người có thân hình vóc dáng từa tựa với mình, đầu tiên là nghĩ cách đoạt mạng người ta, rồi lập tức lấy một chiếc kim đâm vào chính giữa đầu lưỡi xác chết nhằm phong bế hồn phách lại, dán tiếp bùa chú lên, vậy là liền có một bù nhìn bằng thịt hay còn gọi là hành thi. Hành thi này nhất cử nhất động đều nghe theo lời chủ nhân, ăn cơm nói chuyện sinh hoạt hệt như người sống. Tuy nhiên nếu như khoảng cách giữa hai người quá mười bước chân thì bùa chú sẽ mất tác dụng, hành thi lập tức lộ bị hủ mục thối rữa. Tại sao lại phải mất công làm một cỗ hành thi như vậy? Tất nhiên không phải là do quá rảnh rồi, mục đích thực sự là để cho hành thi giả làm mình cùng đồng bọn tiến vào đạo động, sau đó ở một bên ra tay giết người diệt khẩu, một mình tiến lấy minh khí trong mộ. Chuyện Trăn Tử nghe được cũng chỉ có đến đây là hết, bây giờ nghĩ lại, hai tay thợ săn kia tuyệt chẳng phải anh em gì cả, Nhị Hổ mới thực sự là chủ mưu còn Đại Hộ chỉ là hành thi hắn mang theo bên người mà thôi.

Tôi tất nhiên tin rằng bọn chuột đất vì muốn giết người diệt khẩu một mình nuốt trọn báu vật sẽ sẵn sàng giở mọi thủ đoạn, còn chuyện một người sống đem theo một người chết chạy nhảy tung tăng khắp nơi, trong giang hồ cũng không phải là không có sự tình như này, chưa chắc mọi chuyện đã hoàn toàn đều là mê tín, có lẽ thực sự có chút thủ đoạn nào nó, chẳng qua là chúng ta không biết rõ nội tình bên trong mà thôi. Tôi đem tất cả tình tiết sắp xếp lại một lần cẩn thận, bởi vì trước đó chúng tôi có làm lộ ra một số thông tin, khiến cho tay chuột đất kia mới mò tìm tới tận cửa, bày mưu để chúng tôi phải chạy tới đây đào lấy hoàng kim linh chi, ngay từ đầu hắn đã biết bên trong mộ cổ làm gì có thứ nào như thế, chẳng qua là lừa chúng tôi làm con tốt thí dẫn đường, giúp hắn tìm được lối vào bên trong toà Liêu mộ này. Sau đó chúng tôi từ chui qua phía dưới Kim Cương Tháp vào được trong mộ đạo, việc này khiến cho hắn lo sợ rằng chúng tôi sẽ đoạt được bảo vật trước hắn, nên mới dẫn dụ chúng tôi chạy vào gian phối điện này, rồi khởi động cơ quan trong mộ định dùng lưu sa chôn sống chúng tôi. Ba người chúng tôi không khỏi tức giận rủa thầm tên chuột đất này quá là độc ác, đáng tiếc lúc trước đã để hắn chạy mất, giờ có lôi cả mười tám đời tổ tông hắn ra chửi thì cũng chẳng được tích sự gì, đã dám làm những chuyện như này thì hắn sớm đã đếch cần thèm quan tâm đến tổ tông làm gì rồi. Chúng tôi vẫn nên đứng dậy tìm cách thoát thân ra khỏi đây thì hơn, bị bao vây trong không gian kín mít như này chẳng thì chầy cũng sẽ chết vì ngạt thở.

Tuyền béo lục soát trên người cái xác kia một lần, thứ gì cũng không có, ngay cả khẩu súng chim kia cũng là đồ hỏng, cậu ta không cam lòng ngồi chờ chết, bực bội xách xẻng công binh cố đào bỏ đống lưu sa chặn kín thông đạo. Tôi vừa nghĩ tới số đồng nam đồng nữ chôn theo đang treo lủng lẳng bên trong Trường Sinh Điện này, liền cũng muốn nhanh chóng thoát được ra ngoài, bất quá lưu sa càng đào càng nhiều, con đường lát gạch kia giờ đã trở thành tử lộ, đành gọi Tuyền béo cùng đến phía cuối gian phối điện dò xét tìm cửa ra thử xem. Lúc này đèn pinđã sớm hết điện, chỉ còn đèn bão là có thể sử dụng được, không biết đến bao giờ mới có thể chui ra được khỏi nơi đây nên cũng không nỡ dùng đuốc. Ba người chúng tôi lục lọi tới lui một hồi, những đồng nam đồng nữa kia hoàn toàn được đóng chặt vào phía trên vách điện, bên trong phối điện trống trơn chẳng có gì nữa cả. Tôi cảm thấy dường như mình đã rơi vào đường cùng rồi, không thể làm gì khác hơn đành ngửa mặt lên trời than thở: “Ít ra cũng có mấy tiểu quỷ này làm bạn cùng!”

Trăn Tử mặt trắng bệch, sợ hãi quay sang nhìn tôi: “Anh vừa nói gì thế?”

Tôi đáp: “Ba chúng ta bị bao vây trong này không tài nào thoát ra được, không phải vừa vặn làm bạn với mấy đứa trẻ này sao?”

Trăn Tử thấp giọng nói: “Phỉ phui cái miệng nhà anh, đừng có nói như thế, cẩn thận chúng nghe được thì lại tha hồ mà rắc rối!”

Tôi nói: “Cô không cần phải sợ, bọn họ ở trên trời nếu có linh thì nên phù hộ cho chúng ta thoát ra được khỏi đây, diệt trừ ác nhân nằm bên trong cỗ quan tài kia trả thù cho họ! Huống chi trên đời này căn bản làm gì có quỷ, tôi nói mấy lời này sợ quái gì chứ!”

Trăn Tử bỗng nhiễn trợn to mắt, nhìn thẳng vào thứ gì đó phía sau lưng tôi, lắp bắp nói: “Trên đời có quỷ?... Vậy phía sau lưng anh… là cái gì thế kia?”
SPONSORED / ĐƯỢC TÀI TRỢ

Vừa nghe Trăn Tử nói vậy, cộng thêm gương mặt hãi hùng không có nửa điểm gì là giả dối của nàng, một cơn lạnh buốt liền chạy dọc sống lưng tôi, rốt cuộc sau lưng tôi có thứ gì chứ? Lúc trước tôi đã nhìn khắp một lượt xung quanh đây rồi, ngoài chúng tôi ra chẳng còn thứ gì nữa cả, tại sao Trăn Tử lại đột nhiên nói như vậy? Tuyền béo đang dùng sức cố thử bậy tung bức tường đá phía cuối Trường Sinh Điện, chỉ có ngọn đèn bão trên tay tôi là nguồn sáng duy nhất, cũng chẳng chiếu được bao xa, nếu như Trăn Tử nói sau lưng tôi có quỷ thì nhất định thứ đó phải ở khoảng cách rất gần, nghe nàng nói như vậy lông mao trên người căng thẳng dựng đứng hết cả lên, thật cảm thấy đằng sau có thứ gì đó! Bất qua tôi không muốn bị mất thể diện trước mặt Trăn Tử, cả ngày nay lỡ miệng nổ to gì mà một đao chém chết lũ đầu trâu mặt ngựa, anh hùng cái thế diệt yêu ma, bây giờ thật thấy quỷ mà lại bị doạ cho té đái thì sau này còn biết ngẩng mặt nhìn ai? Thà để quỷ bóp chết chứ nhất định không thể để quỷ hù chết, trong lòng vừa động, tôi liền lập tức quay phắt người về phía sau nhìn thử, trong ánh đèn bão lờ mờ hiện lên một khuôn mặt đồng nữ tuẫn táng, da dẻ đen quắt lại, còn có thể loáng thoáng thấy qua lấm tấm những vết ban do thuỷ ngân gây ra, quần áo trên người mục nát, đứng thẳng đờ ngay phía sau lưng tôi.

Trong gian phối điện phía Tây này có tới tận mười mấy đồng nam đồng nữ tuẫn táng chôn theo chủ mộ, khi còn sống bị lột da một cách man rợ, lại bị đóng vào trên vách đá, tay bưng trường minh đăng, đứng cúi đầu, làm thành đội nghi trượng đi theo chủ mộ đến thế giới bên kia. Bởi vì vong hồn của mộ chủ sẽ được thăng thiên, cho nên đồng nam đồng nữ tuẫn táng theo đều phải đóng lên vách cao, cách mặt đất hơn một trượng có dư. Bất quá vị đồng nữ sau lưng tôi này, là bị rơi từ trên vách đá xuống, dường như đang cùng tôi mặt đối mặt! Trăn Tử vừa rồi đứng đối diện với tôi, đèn bão lại là do tôi cầm thành ra nàng chỉ loáng thoáng thấy quá hình bóng mờ mờ của cái xác này chứ chưa có nhìn rõ. Lúc này tôi quay cả người lại, đèn bão trong tay cũng quay theo, khuôn mặt của cái xác giờ hiện lên rõ như ban ngày, tôi mặc dù không sợ trời cũng chẳng sợ đất, thế nhưng cũng bị một phen bất ngờ, hít đầy một hơi khí lạnh, suýt nữa ngã ngồi ra đất, đứa bé gái này thế quái nào lại rơi xuống được vậy?

Trăn Tử bị doạ cho sợ mặt cắt không còn giọt máu, một câu cũng không thốt ra nổi nữa rồi. Tuyền béo xoay người lại, thấy trước mặt tôi có một xác chết đồng nữ, cũng lập tức kinh hãi, nghệt ra hỏi tôi: “Ôi giồi ôi bố Nhất ơi bố làm sao lôi cái xác này xuống được thế?”

Tôi cứng lưỡi: “Tôi nào có động gì đến nó, chính nó tự rơi xuống…”

Tuyền béo không đợi tôi nói hết: “Ai bảo nhà ngươi ăn nói lung tung bậy bạ, gì mà làm bạn với chả làm bè, nó không nhảy xuống tìm ngươi mới là lạ!”

Tôi giơ cao đèn bão chiếu vào khuôn mặt của cái xác, da thịt đã khô quắt lại, ngũ quan vặn vẹo, trên đỉnh đầu phía dưới búi tóc có một lỗ nhỏ, chính là vết tích cũ của đường rạch đầu tiên khi lột da, tựa hồ có thể nghe được tiếng kêu gào rách gan rách ruột của nó khi còn sống vậy. Nhưng xem chừng nó mới chỉ là đứa trẻ lên bảy hay lên tám mà thôi, tại sao lại có thể cao ngang bằng tôi cơ chứ? Tôi cúi đầu xuống nhìn một chút, liền bị doạ cho hết cả hồn lần nữa, hai chân của nó đang đung đưa hờ hững trên không, tuyệt không phải là đứng trên mặt đất.

Tôi trong lòng dứt khoát: “Ngươi cho rằng có thể hù chết được ông đây sao? Thách cả nhà ngươi dám làm gì luôn đó!” Vừa nghĩ, hai tay tôi vừa vươn ra phía trước, định bụng bẻ gãy cái đầu kia xuống cho bõ tức, nào ngờ vừa mới tiến lại gần, chợt nghe trong cổ họng nó phát ra một thứ tiếng kêu quái dị, đồng thời toàn thân nhào thẳng về phía người tôi, tôi vội vội vàng vàng lùi lại đằng sau thật nhanh, cái xác liền mất đà ngã ập xuống đất, đầu nó lăn một lèo tới góc gian phòng, từ chỗ cần cổ không đầu phun phì phì ra một dòng nước đen.

Tôi bị nó doạ thêm một phen suýt nữa thì đái ra quần, trống ngực vẫn đang đánh uỳnh uỳnh không thôi, trên trán ướt đẫm mồ hôi lạnh, đèn bão trong tay rơi đánh “choang" một tiếng rồi tắt ngóm. Tuyền béo vội vàng lục trong túi lấy ra một cây đuốc tẩm sẵn dầu, Trăn Tử cố nén nỗi sợ chạy tới đỡ tôi dậy. Ba người chúng tôi vô cùng lo lắng cẩn thận giơ ngọn đuốc chiếu qua, lúc này nhìn ra mới biết, thì ra xác của đứa bé gái này đã bị treo trên vách đá quá lâu nên cũng đã sớm hủ mục, lúc nãy không hiểu sao vừa khéo lại tuột xuống, nhưng quần áo vẫn còn mắc lại trên tường, thành ra mới treo lủng lẳng trước mặt khiến tôi tưởng nhầm, tiếng kêu quái dị vừa rồi chính là do tiếng vải bị xé rách do không chịu nổi sức nặng của cái xác mà gây ra. Tuyền béo ngạc nhiên: “Úi dồi, mặt cậu sao trắng bệch thế kia hí hí?”

Tôi tức giận nói: “Mặt tôi đây gọi là rạng rỡ như vầng Thái Dương, trắng bệch cái đầu nhà cậu!”

Tuyền béo cười khẩy: “Thôi đi ông tướng, sợ thì cứ nói thẳng ra! Tôi đã nói rồi mà, trên đời này làm quái gì có quỷ cơ chứ, chỉ có lòng người có quỷ thôi hahaha!”

Tôi cũng không có phản bác lại lời châm chọc của Tuyền béo, đúng như cậu ta nói, tôi đã tự mình doạ mình rồi. Nhưng không hiểu sao cái xác ấy vốn đã bị đóng chặt vào vách đá mấy trăm nghìn năm rồi, sớm không rơi xuống, muộn không rơi xuống, chẳng nhẽ lại là đợi chúng tôi đến rồi mới rơi xuống sao, tình cơ đến thế cơ à? Tuyền béo lại quay qua hỏi tôi: “Sao lại nghệt cái mặt ra nữa thế?”

Tôi đáp: “Tạm không nói đến việc có quỷ hay là không, đứa bé này lúc còn sống mạng khổ số khổ, bé thế đã bị đem đi lột da tróc thịt tuẫn táng theo chủ mộ thật là đáng thương, bất quá người chết thì như đèn tắt, ba chúng ta cũng chẳng có thể giúp nó được cái gì, thôi thì đừng để nó chết không toàn thây ở nơi này, tôi đi nhặt cái đầu của nó lại, cho nó yên tâm mà siêu thoát đầu thai!”

Tuyền béo và Trăn Tử cũng đồng tình với ý kiến của tôi, thấy vậy tôi liền cầm lấy ngọn đuốc đi tới góc phòng, sau đó cúi xuống nhặt lấy chiếc đầu lâu khô quắt, dưới ánh sáng của ngọn đuốc đang cháy phừng phừng, tôi chợt phát hiện ra hoa văn bảo tương hoa trang trí phía trên mấy viên gạch có gì đó sai sai. Tôi thầm giật mình, trước đem cái đầu xếp gọn gàng trở lại vào khúc thân, rồi nhanh chóng bước trở lại chỗ cũ, sau một hồi quan sát cẩn thận tôi liền lôi chiếc xẻng công binh cậy thử mấy phát, quả nhiên mấy viên gạch này có vấn đề thật, phía dưới chúng che dấu một cửa hang! Chúng tôi bị bao vây trong chỗ này cũng khá lâu rồi, đã sớm lục tung hết mọi ngóc ngách xó xỉnh nhưng chẳng tài nào tìm thấy được lối ra, nào ngờ nó lại nằm ngay phía dưới tầng mộ gạch này. Cửa động này nằm ở phía cuối góc gian Trường Sinh Điện, mấy viên mộ gạch phía trên bị lộn ngược lại, khiến cho hoa văn trang trí khác hẳn với gạch mộ xung quanh, nếu như cái đầu lâu kia không lăn tới tận chỗ này thì tôi cũng chịu chẳng thể nào nhận ra được, liệu đây cũng lại là một sự tình cờ nữa ư? Hay là do lúc trước tôi có nói “Nếu như bọn họ ở trên trời có linh thiêng thì đáng ra phải phù hộ chúng tôi đập tan được quan quách của tên chủ mộ, trả thù cho họ”? Động khẩu hướng thẳng xuống phía dưới, chỉ sâu chừng 3, 4 trượng nhưng cũng đủ khiến ánh lửa từ ngọn đuốc không thể nào chiếu được tới đáy, chúng tôi đành phải đánh liều bám dây thừng mà tụt xuống, không gian dưới đáy động khá là chật hẹp. Ba người cố ổn định lại thân người, dùng đuốc đi xung quanh kiểm tra một lượt, chỉ thấy khắp nơi toàn là xương khô, trên mỗi khúc xương đều có dấu vết của thuỷ ngân, tựa hồ như toàn bộ người ở đây là do uống thuỷ ngân mà chết.

Tôi thấy đáy động chất đầy xương khô, cảm thấy rất có khả năng nơi đây chính là một động chôn người câm. Tuyền béo không hiểu, mới hỏi: “Đào ra hẳn một cái động chỉ để chôn mấy lão câm thôi sao?” Tôi cũng chỉ là dựa trên phán đoán của bản thân mà thôi, những người thợ làm quan tài lẫn đám nô lệ khiêng quan vào địa cung vì để giữ bí mật đều sẽ bị cắt hết lưỡi, trở thành người câm, thậm chí để đảm bảo hơn nữa, trực tiếp tuẫn táng cùng chủ mộ. Nhưng không thể để những kẻ thấp hèn như này tuẫn táng trong địa cung được, vì vậy mới có động chôn riêng.

Nghe nói vào thời nhà Liêu lẫn nhà Kim, vì để đề phòng bí mật trong mộ bị truyền ra ngoài, đại đa số sẽ cho đào ra một cái động người câm phía dưới mộ đạo, bình thường rất sâu, có thể trực tiếp đem người ném xuống chết tươi luôn. Nơi nay có mấy chục bộ hài cốt khi còn sống từng uống thuỷ ngân tự vẫn, là cam tâm tình nguyện chết theo chủ mộ, hay là bị ép buộc không thể không nghe theo? Chúng tôi nhất thời không nghĩ ra, lại không tìm ra được con đường nào khác, đành dựa vào mấy lá gan lớn nhắm mắt nhắm mũi bước tiếp về phía trước. Mò mẫm mãi một hồi rốt cuộc cũng phát hiện, động người câm nằm phía dưới Tây phối điện này một mực thông tới Đông phối điện, hai bên bố trí cân đối, bên trong cũng có đồng nam đồng nữ tuẫn táng treo trên vách đá. Tôi liền leo lên trước, rồi thả dây xuống kéo hai người kia lên. Mấy người chúng tôi đi vào từ Tây phối điện nhưng lại từ Đông phối điện đi ra, cũng may lưu sa chỉ chặn kín lối vào Tây phối điện, còn lại các lối đi khác vẫn hoàn toàn bình thường.

Ba người lại lần nữa trở về cánh cửa có khắc cặp sư tử cõng bảo vật phía trước địa cung, thấy cửa đá đã bị đẩy ra một nửa. Tuyền béo đi vào bên trong nhìn quanh nửa ngày, chẳng thấy cái quái gì cả, có lẽ nào tay chuột đất kia đã khoắng sạch bảo vật rồi cao chạy xa bay từ lúc nào? Tôi thầm mắng hắn hạ thủ quá nhanh, thời gian chúng tôi bị vây khốn trong Tây phối điện mới chỉ ước chừng qua một canh giờ, mà hắn đã vét sạch chẳng để lại gì. Phía trên cánh cửa đá kia, chỗ hai con sư tử có thứ đồ gì đó tựa hồ một con ngươi, chỉ sợ cũng bị hắn cậy luôn mất rồi! Mấy món bảo vật chôn theo trong mộ bị hắn lấy đi thì cũng thôi, đằng này lại còn khiến chúng tôi ăn không ít khổ cực, nếu không phải phía dưới mộ đạo có động người câm, chỉ sợ chúng tôi đã sớm bị hắn chôn sống ở Tây phối điện, có thể thấy là hắn thực sự muốn lấy mạng của cả ba người, một khi để hắn chạy được ra khỏi ngôi mộ này, trốn vào trong rừng sâu thì đừng hòng tóm được hắn để hỏi tội.

Tôi cùng Tuyền béo vẫn chưa từ bỏ ý định trả thù, có lẽ tay Nhị Hổ này vẫn còn trốn ở trong địa cung. Nhìn tổng quát khắp một lượt bố trí bên trong toà Liêu mộ này, giống hệt như một chữ “Tệ" (币), ở gian tiền điện không hề có phối điện, chỉ trung điện mới có Đông, Tây phối điện mà thôi. Nếu như tiền, trung, hậu điện đều có phối điện thì được gọi là Cửu thất huyền cung, theo như táng chế là kiểu bố trí cho lăng mộ Hoàng Đế. Theo như những gì chúng tôi thấy bên trong toà cổ mộ này, tuyệt đối không phải là để chôn một vị Hoàng Đế nào cả. Chư Hầu cùng Vương Tước khi xây mộ thì chỉ được dùng Ngũ hoặc Lục thất huyền cung, tuy nhiên Thái Hậu lại được phép xây Cửu thất huyền cung, chỉ khác ở điểm là bốn gian phối điện được bố trí rải rác ở hai bên hậu điện để tránh phạm huý với lăng mộ của Hoàng Đế. Rốt cuộc toà Liêu mộ này có phải là dùng để chôn cất một vị Thái Hậu nào đó hay không, thì chỉ có một cách là tiến vào trong mộ chính mới có thể thấy rõ!

Ba người nóng lòng muốn báo thù, đồng thời cũng rất tò mò với thân phận thật sự của vị chủ mộ, liền nối đuôi nhau lách qua khe cửa đá hẹp đã được mở sẵn, phía sau cánh cửa là chín bậc thang đá, đều là được tạc từ loại đá thanh bạch vô cùng giá trị mà thành, trên mái đỉnh hình vòm cung có chạm trổ Ngũ phương Phật tổ hết sức tinh xảo, ở giữa là Thích Ca Mầu Ni Phật, phía Đông là Dược Sư Phật, phía Tây thì là A Di Đà Phật, phía Nam là Bảo Sinh Phật, còn cuối cùng ở phía Bắc là Bất Không Thành Tựu Phật, năm vị này còn được gọi là Ngũ Trí Phật, có thể chuyển hoá và tinh hoá năm loại phiền não của nhân gian là: vô minh, sân giận, tham muốn, ghen tị và kiêu mạn, xem ra chính điện có lẽ nằm ở ngay phía bên dưới. Súng săn trong tay Tuyền béo đã được lên nòng sẵn, tôi và Trăn Tử thì chia nhau mỗi người cầm một ngọn đuốc, từng bước một đi xuống bậc thang. Mọi người vừa đi vừa ngó nghiêng quan sát phía dưới, chỉ thấy tình hình bên trong mộ thất khác hẳn với những gì chúng tôi tưởng tượng. Trong điện có đặt tổng cộng ba cỗ quan tài, một lớn hai nhỏ, đặt trên ba bệ đỡ riêng gọi là bệ quan (Trans: Bệ đá để đỡ quan tài). Cỗ cự quách lớn nhất được tô một lớp chu sa đỏ thẫm, kết cấu đồng mộc, thật vô cùng hiếm thấy. Trên dưới tất cả có bốn thanh ngang, hai thanh dọc bằng đồng, lại được mạ một lớp vàng bên ngoài, tạo thành một bộ khung xa xỉ, gắn vào quách bản vừa to vừa dày, hoạ tiết trang trí trên mỗi tấm quách bản đều là dùng hoa văn phượng hoàng, ở giữa lại có các khớp mộng bằng đồng gia cố. Nhìn tổng thể, toàn bộ cỗ cự quách này ước chừng cao hơn hai mét, rộng gần ba mét, dài hơn bốn mét, phía dưới được đỡ lấy bằng mười hai cái chân thú bằng đồng mạ vàng, đặt trên bệ quan gọi là Tu Di Sơn (Trans: Theo vũ trụ quan của Ấn Ðộ cổ thì Tu-di là trung tâm của vũ trụ và là trú xứ của chư Thiên. Về núi Tu-di thì hai quan niệm vũ trụ của Bà-la-môn và Phật giáo giống nhau). Lại nhìn cái bệ quan này đi, cũng quá chừng là phô trương, bốn phía được vẽ bốn vị thần nữ, trong tay mỗi người chấp chưởng một loại pháp khí, xiêm y lộng lẫy rực rỡ, tư thái cao sang quý phái.
SPONSORED / ĐƯỢC TÀI TRỢ

Hai người kia không nhìn ra ý nghĩa của những hình vẽ này, nhưng tôi thì lại vô cùng sáng tỏ, đây chính là “Tứ Mẫu Tượng”, Tứ Mẫu bao gồm những gì? Thứ nhất là Khí Mẫu, tay cầm một túi vải lớn, bên trong cất giữ tiên thiên chân nhất khí, hình thành còn sớm hơn cả trời đất, chính là bản nguyên sinh ra vạn vật, hàng ngàn hàng vạn thế giới cùng với vũ trụ hồng hoang tất cả đều luân hồi bên trong nó; kế đến thứ hai là Phong Mẫu, tay nắm phong nang, bên trong cuồn cuộn tám loại thần phong lần lượt là: thao phong Đông phương, huân phong Nam phương, tiêu phong Tây phương, hàn phong Bắc phương, trường phong Đông Nam, dung phong Đông Bắc, cự phong Tây Nam và lệ phong Tây Bắc; thứ ba là Vân Mẫu, trên vai có ngũ sắc tường vân (Trans: Mây ngũ sắc), chính là do khí trời khí đất kết tinh lại tại thời điểm ban sơ khi mới hình thành nên núi non sông nước, ngũ sắc tường vân cùng với ngũ hành đối ứng với nhau, kim vân chủ phong, thanh vân chủ binh, bạch vân chủ tang, hắc vân chủ thuỷ, xích vân chủ hạn; cuối cùng là Vụ Mẫu, tay cầm vụ trướng, vụ trướng một khi được thi triển hết mức sẽ khiến cho trăm dặm ngập trong biển nước, trời đất rung chuyển, có thể nghịch chuyển càn khôn. Từ chi tiết Tứ Mẫu Tượng được vẽ bên trên bệ quan này cộng thêm với hoa văn trang trí hình chim phượng trên quách bản đã đủ để khẳng định một điều rằng: chủ nhân của ngôi cổ mộ chắc chắn là một người phụ nữ! Phía trước bệ quan có bày mấy hàng trường minh đăng, mỡ cá bên trong bát đèn dường như vẫn còn nhưng lửa thì đã tắt ngỏm từ lâu, nền gạch dưới chân đều là loại có khắc hoa văn bảo tương hoa.

Ba người chúng tôi trầm trồ thán phục mãi không thôi, trước kia mấy đứa nào đã từng được gặp qua cái quan tài nào vừa lớn lại vừa tinh xảo như thế này đâu cơ chứ, bèn nhanh chân cầm đuốc bước lại gần hơn để nhìn cho nó rõ, lúc ấy mới phát hiện ra một tấm quách bản ở dưới đáy quan đã bị kẻ nào đó cạy bỏ mất rồi. Tôi cùng Tuyền béo mới cùng nhau thò đầu nhòm thử vào phía trong, ngọn đuốc cũng giơ theo vào, nhờ có ánh lửa le lói hai thằng liền thấy hai chiếc đế giày dính chặt xuống đáy quan, nào phải ai xa lạ chính là của tên chuột đất kia! Tuyền béo dùng súng săn chọc chọc mấy cái, cặp chân kia không có một chút phản ứng nào, tựa hồ như hắn đã chết, thấy vậy cậu ta thử túm lấy định kéo ra nhưng cũng không được. Cả ba đều vô cùng ngạc nhiên vì ai cũng tưởng rằng tên chuột đất này đã sớm ôm bảo vật chạy trốn mất tiêu rồi, nào có ngờ hắn lại nằm chết ở bên trong quan tài như này? Không biết là để cho quỷ bóp cổ chết, hay là bị hù mà chết?

Ba người chúng tôi vẫn cảm thấy chưa hết hận, nhưng lại cũng chẳng làm gì được, lẽ nào mộ chủ thực sự đã vùng dậy bóp chết tên chuột đất kia? Lúc ấy mọi người đều không dám hành động thiếu suy nghĩ, trước tiên cứ lấy đuốc thắp lại mấy ngọn trường minh đăng để lấy chút ánh sáng đã, lập tức không gian bên trong gian mộ thất trở nên sáng sủa hơn khá nhiều, có thể nhìn ra chính điện của toà Liêu mộ này trải dài theo hướng Đông Tây nhưng lại hẹp về phía Nam Bắc, bốn vách tường xung quanh vẫn là được xây bằng loại gạch có hoa văn bảo tương hoa, đỉnh mộ phía trên có hình vòm như cái bát loa úp ngược, được trang trí bằng hình vẽ hàng ngàn hàng vạn tinh vân tinh cầu lấp lánh trên bầu trời đêm. Trên bức tường phía sau quan tài chính là một bức bích hoạ khổng lồ, gọi là “Thánh tung đồ". Bốn góc đại điện đều có một khoán môn nối liền với mộ thất, hoàn toàn phù hợp với bố cục cửu thất huyền cung được ghi chép lại trong cuốn “Lượng Kim Xích", chủ nhân của ngôi mộ này quả nhiên chính là một vị Thái Hậu của nước Đại Liêu xưa kia. Hai cỗ quan tài bên cạnh thì tương đối là nhỏ, đồ hình trang trí bên trên cũng không được hoa lệ như của chủ mộ, rất có khả năng là dành cho hai vị nữ quan tuỳ táng. Đồ đạc của tay Nhị Hổ kia vẫn vứt lông lốc dưới nền đất, gồm có một khẩu súng chim, một chiếc xẻng, ngoài ra còn có cả một cái túi da hươu khá to cùng một ngọn đèn bão đã hết dầu. Tuyền béo nhặt lấy khẩu súng chim đưa qua cho Trăn Tử, rồi quay sang mở thử cái túi da hươu ra xem, đồ đạc cất ở bên trong thật đúng là không ít, nào là búa đục, nào là nến thắp, nào là đèn pha công suất mạnh,... Cậu ta một bên vừa chọn lấy những thứ đồ hữu dụng để vào balo của mình, một bên vừa nói với Trăn Tử: “Cô em không cần phải nghe thằng cha Nhất khoác lác làm quái gì cho nhọc tai cả, hắn biết rõ thủ đoạn của tên chuột đất kia là do trước kia ông nội hắn cũng đã từng làm cái nghề này, còn trên những phương diện khác thì hắn cũng chẳng biết cái mẹ gì đâu, không tin cô cứ hỏi hắn xem thứ đồ chơi này là cái gì, dám cá là câm như hến ngay…” Nói xong cậu ta vênh mặt lôi từ trong cái túi da hươu ra một tấm giấy màu vàng đã cũ nát, đưa cho tôi cùng Trăn Tử nhìn, trên giấy có vẽ đồ án trông hệt như một cái nhãn cầu: “Hai người các cô các cậu đã thấy rõ chưa, trong toà cổ mộ này thật sự có một cái nhãn cầu như này đó, tên chuột đất kia chính là nhắm đến thứ đồ vật này!”

Tôi thầm nghĩ nếu quả thật như thế thì chuyện này quá sức kỳ quái rồi, tại sao lại có một cái nhãn cầu chôn theo bên người chủ mộ cơ chứ? Tay chuột đất kia chỉ vì muốn đoạt được thứ này thành ra bỏ luôn cái mạng lại, thật đúng là ứng với câu “người chết vì tiền, chim chết vì miếng ăn"! Nhưng mà nhãn cầu của người chết thì có tác dụng gì đây? Quan tài giờ đã được mở ra, vị Thái Hậu bí ẩn cùng đống bảo vật có giá trị liên thành đang nằm tất ở bên trong, ai có gan chui vào đoạt bảo?

Ba người ngồi xuống phía trước bệ quan gọi là Tu Di Sơn, chỉ cần ngẩng đầu lên liền có thể quan sát được bức bích hoạ vẽ trên tường, trong tiếng lòng của những kẻ ăn chén cơm chui hầm mộ khoét quan tài này, thường hay gọi những bức bích hoạ cuối mỗi ngôi cổ mộ là thánh tung đồ, bởi vì những bức bích hoạ được vẽ ở vị trí này nhất định là để miêu tả lại cuộc sống của chủ mộ khi còn sống. Bức thánh tung đồ này cùng với bức bích hoạ cửu vỹ hồ ly mà chúng tôi đã thấy trước kia khá giống nhau, chỉ khác cái là tinh xảo và nguyên vẹn hơn mà thôi, chính giữa vẫn là hình vẽ về một con hồ ly có chín cái đuôi. Tôi lúc ấy nào có biết, đế quốc Đại Liêu hùng mạnh ở vùng thảo nguyên do người Khiết Đan đứng lên làm chủ, lấy chim ưng cùng chó sói làm đồ đằng, tôn hồ ly thành linh thần. Tuy không biết những điều đó nhưng nhìn hình vẽ kia cũng có thể tưởng tượng ra được, nó chính là một loại biểu tượng tượng trưng cho địa vị của chủ nhân ngôi mộ này. Phía bên dưới hình vẽ về cửu vỹ hồ ly còn có một bức bích hoạ khác, nội dung hết sức ly kỳ. Chúng tôi càng xem càng cảm thấy giật mình, thứ trên bức bích hoạ này miêu tả hết sức chân thật, đó là một người phụ nữ dáng vẻ hệt như một loài ác quỷ, trên trán mọc ra một con mắt, đã bị người ta khoét ra, nhãn cầu bay lơ lửng giữa không trung. Ba người bất luận thế nào cũng không thể nghĩ ra nổi, tại sao trên trán người đó lại mọc ra một con mắt như vậy? Cứ cho đó là thiên lý nhãn đi chăng nữa, khoét ra rồi thì còn có tác dụng gì?

Trăn Tử hỏi: “Thật là doạ nguời quá đi, trên bức bích hoạ đó rốt cuộc là vẽ thứ gì thế?”

Tuyền béo đáp: “Cái này dễ mà có gì khó hiểu đâu, xã hội phong kiến xuyên suốt từ trước tới giờ chỉ gói gọn trong mấy chữ duy nhất - ăn thịt người, uống máu đồng loại. Hoàng Thái Hậu bản chất cũng là một tay địa chủ, thậm chí còn có thể coi là đại thủ lĩnh của đám địa chủ ý chứ, mụ ta không chỉ vơ vét, ngoạm sạch của cải xương máu nhân dân vất vả làm ra, mà còn dùng thủ đoạn tàn độc khoét mắt này để hãm hại một vị cung nữ xinh đẹp đáng thương.”

Trăn Tử nghe thế liền biết Tuyền béo đang nói linh tinh: “Cung nữ gì mà mọc cả mắt trên trán thế?”

Tuyền béo thật đúng là có thể nói méo thành tròn, nói tròn thành vuông: “Cung nữ mắt không mọc ở trên trán thì thấy thế quái nào được Thái Hậu cao cao tại thượng?”

Tôi bảo cậu ta chớ có đoán bậy linh tinh nữa, nội dung trên bức thánh tung đồ kia nhất định có liên quan tới những sự kiện quan trọng trong cuộc đời của chủ mộ khi còn sống, còn về phần cái nhãn cầu kia có ý nghĩa như thế nào thì tôi hãy còn chưa rõ, nhưng tên chuột đất Nhị Hổ chính vì nó mà bỏ mạng cho nên cần phải coi chừng trong này thật sự có quỷ! Tuyền béo bĩu môi: “Thôi ông lại mê tín quá rồi đấy Nhất ạ, tôi thấy tên Nhị Hổ này là ác giả ác báo, thần hồn nát thần tính tự mình đem mình hù chết! Chúng ta đừng nói suông nữa, cỗ quan tài kia đã được mở sẵn ra rồi, còn chờ gì mà không xem thử xem có cái mẹ gì dám nhảy ra hù chết ông đây nào?”

Trăn Tử gấp đến độ dậm chân bình bịch: “Hai anh chớ manh động, ngộ nhỡ chủ mộ bật dậy, còn không phải một tay bóp chết hai người các anh à?”

Tuyền béo cười khẩy: “Cô em lại coi thường hai thằng anh quá hehe! Bọn này nào có phải mấy tay gà mờ đâu? Muốn bóp là để yên cho nó bóp à?”

Tôi nói với cậu ta: “Cậu cũng đừng có mà to mồm, trong cỗ cự quách kia không chỉ có mỗi lão Thái Hậu già khọm đâu mà còn có cả tay chuột đất kia kìa, với cái bụng toàn mỡ của cậu thì chui thế quái nào vừa? Tốt nhất là cậu cùng Trăn Tử ở phía sau tiếp ứng, tôi đi vào trước nhìn một chút!”

Tuyền béo cho là tôi đang khoe tài, vẫn cố mà chui theo vào, nhưng múa may chán chê cả nửa ngày, làm mọi cách mà vẫn chẳng thể chui vừa, đành cụt hứng mà đồng ý thủ ở bên ngoài. Tôi chuẩn bị đồ đạc lại một chút, gỡ xuống thanh quân đao cùng với chiếc balo quân dụng, xiết chặt lại chiếc mũ da phòng tránh va đập trên đầu, một tay xách lấy ngọn đèn bão, một tay thì cầm chắc thanh đoản đao, nghĩ thầm trong bụng: tay chuột đất kia bò vào trong quan tài xong chết, có thể là bị thứ gì đó hù cho đứt mạch máu não hoặc có thể là bị chính chủ mộ bóp chết, không chui vào xem thử thì làm sao mà biết được, đành liều thôi! Ngay lập tức tôi đứng bật dậy, hít một hơi thật sâu, cúi đầu hạ eo cẩn thận bò vào bên trong.

Cỗ cự quách này lớn đến doạ người, nhưng bên trong lại còn có một chiếc quan tài khác, gọi là bộ quan. Trong khe hở giữa cự quan và bộ quan có bốn đồng nữ tuẫn táng theo, phía trên đỉnh quan tài có một người, hai bên mỗi bên một người, ở dưới cũng có một người nữa, tất cả đều ăn mặc theo lối cung nữ phục vụ trong cung. Hai cung nữ hai bên một người nâng thanh đồng kính, một người nâng thanh đồng, người trên đỉnh quan tài thì nâng thuỵ bài. Bên trong bộ quan lại có mấy tầng vải gấm, phía trên đặt đầy những đồng tiền vàng, bên dưới mới là thi thể của chủ mộ, tay chuột đất đã chết kia đang nằm sấp trên người bà ta. Tôi đành chống cùi chỏ xuống đỡ lấy cơ thể, từ mặt bên bò lổm ngổm về phía trước, còn trực tiếp bò qua thân người chết, cũng không phải là do tôi không sợ gì cả, mà là lời đã lỡ nói ra rồi, tên đã rời khỏi cung nào có quay lại được nữa, đã đến nước này rồi còn bò ngược ra thì chẳng hoá trở thành con rùa rụt đầu để cho Tuyền béo chê cười? Đèn bão tuy giơ ngay trước mặt nhưng tôi chỉ có thể quan sát được những thứ ở khoảng cách ngắn dưới tầm mắt, phía trước thế nào tôi cũng không rõ vì có ngóc được đầu lên đâu. Hơn nữa càng tiến về phía trước, ánh sáng từ đèn bão càng mờ mịt, không khí hủ lậu tích tụ lâu ngày cũng càng đặc sệt lại, tôi đành cố gắng nhịn thở, vất vả lắm mới thấy được tay Nhị Hổ mặt úp xuống dưới, nằm ngay bên cạnh chủ mộ, trong tay vẫn còn nắm chặt chiếc đèn pha, đây là loại đèn xách tay kiểu cũ dùng pin, từng được sản xuất với số lượng lớn trong nước những năm 50 - 60, loại đèn này đầu tiên được sử dụng trong công tác phá núi nổ hầm cho nên yêu cầu rất cao về khả năng chịu nhiệt và va đập, còn có thể điều chỉnh chùm ánh sáng mạnh yếu tuỳ theo nhu cầu thực tế, so với đèn bão dùng tốt hơn nhiều.

Tôi đưa tay nâng đầu Nhị Hổ lên nhìn, bóc bỏ mấy tấm cao da chó dính chặt trên mặt hắn, chỉ thấy một khuôn mặt trắng bệch như giấy, lông mày rũ xuống tận khoé miệng, ước chừng mới hơn ba bốn chục tuổi, hai mắt trợn tròn mồm miệng há hốc, toàn thân lạnh ngắt. Tướng mạo của hắn hoá ra hoàn toàn khác so với Đại Hổ, căn bản không phải là anh em ruột thịt như bọn chúng từng nói, xem ra cái danh xưng “Nhị Hổ” cũng là do hắn thuận miệng nói ra mà thôi, không biết lai lịch thật sự của hắn là kẻ nào? Tôi xem xét một lượt, trên người hắn không có bất kỳ vết máu nào, cũng không phải bị chủ mộ bóp cổ mà chết, mà là bị mắc vào đống vải liệm, cho nên mới không thể thoát được ra ngoài, nhìn như vậy hắn thật đúng là bị hù cho đến chết. Nhắc tới lai lịch chưa rõ của tên chuột đất này, hành tung quỷ bí, thủ đoạn âm hiểm, nếu không phải là dân lão luyện trong nghề, tuyệt sẽ không có hai bản lĩnh như thế. Phàm là người ăn cái chén cơm này từ người chết, hoặc là không tin vào quỷ thần ma mãnh, hoặc là có thủ đoạn còn quỷ dị hơn để đối phó, không biết gương mặt của lão Thái Hậu kia như thế nào mà lại có thể doạ chết được hắn? Tôi nổi lòng hiếu kỳ, đẩy nắp quan tài qua một bên, chỉ thấy bên trong mộ chủ đầu đội kim quan, gối đầu lên một chiếc gối ngọc mặt người thân cá, cổ đeo ba chiếc vòng ngọc kim ti, trên mặt đeo một chiếc mặt nạ hồ ly làm từ vàng nguyên chất, lại lấy mấy ngàn tấm vàng lớn nhỏ cùng những viên ngọc trai lấp lánh khảm thành văn sức trang trí, chính giữa có một viên lục bảo thạch sáng chói đến loá cả hai mắt.

Mặt nạ bằng vàng đã từng bị tên chuột đất gỡ ra, kim câu ngọc đái cũng rơi rụng hết cả. Tôi đặt đèn bão trong tay xuống, nhặt lấy chiếc đèn pha kia, vặn công tắc chiếu luồng ánh sáng thẳng vào tấm mặt nạ hồ ly trên mặt chủ mộ, rồi lại chiếu sang cái xác của hắn, phỏng đoán nguyên nhân khiến hắn phải bỏ mạng trong này. Dựa trên tình hình bên trong cỗ cự quách này không khó để nhìn ra, Nhị Hổ đầu tiên bò vào trong này, muốn đoạt lấy tấm mặt nạ bằng vàng đeo trên mặt chủ mộ, có thể là do hắn nghĩ tấm mặt nạ này đáng tiền hoặc hắn muốn gỡ ra để tiện moi lấy ngọc châu trong miệng, lúc đang hành động, không biết hắn đã thấy thứ gì đó đáng sợ nên mới co rụt tay lại, tấm mặt nạ lại rơi xuống trên mặt chủ mộ. Hắn vội vàng chui ngược ra ngoài, lại vướng phải đống vải liệm dày cộm, nhất thời mắc kẹt không thể thoát được, trong lúc kinh hoàng vì tưởng bị quỷ quấn chân, thành ra bị doạ sợ chết tươi? Nhưng nói như vậy có lẽ vẫn chưa ổn lắm, trong nháy mắt lúc hắn gỡ tấm mặt nạ xuống, thứ gì có thể khiến hắn sợ hãi đến như vậy? Mộ chủ dù cho thân phận có hiển hách vĩ đại như thế nào đi nữa, khi chết rồi ai cũng giống nhau, cùng lắm thi thể là được bảo quản tốt hơn, cùng với lúc còn sống trông không khác biệt là bao. Tên chuột đất này suốt ngày bò ra bò vào cả đống mộ cổ, người chết kiểu gì mà chẳng thừng thấy qua, đừng nói người chết mà dáng dấp vẫn giống người sống, kể cả là gặp cương thi lông dài cũng chưa chắc đã sợ đến như vậy, gương mặt phía dưới tấm mặt nạ của Đại Liêu Thái Hậu, liệu có thể kỳ quái đến nhường nào?

Mời các bạn đón đọc chương tiếp theo “Quỷ Môn Thiên Sư” đăng tại page Hội những người nghiện truyện của Thiên Hạ Bá Xướng
 

Lười Biếng Vô Tận

Thanh Phong 37
Tham gia
5/4/19
Bài viết
21
Điểm cảm xúc
67
Điểm
13
Dịch: Đặng Nam

Tôi trong lòng tự hỏi, vạn nhất chủ mộ quả thực là một con hồ ly đắc đạo thành yêu, vậy khi nhìn thấy khuôn mặt của nó liệu mình có bị hù cho đến chết giống như tên Nhị Hổ kia không? Nếu quả thật như vậy, chỗ này chẳng phải sẽ trở thành nơi táng thân của mình sao? Tôi bất luận như nào cũng không muốn chết một cách oan uổng như hắn, cùng nhau trở thành hai kẻ bồi táng theo chủ mộ! Hơn nữa, hồi tôi còn ở nông trường số 17 đã từng gặp qua một con đại hồ ly, nhất cử nhất động của nó đã vượt xa ngoài tầm hiểu biết của tôi cũng như mọi người, vậy mà nó mới mọc ra có được một cái đuôi thôi, thử hỏi xem con hồ ly có tới tận chín cái đuôi này đạo hạnh còn cao thâm đến nhường nào? Hết lần này đến lần khác, cái ý niệm hay là bỏ ngang giữa chừng không nhịn được cứ chạy qua chạy lại trong đầu. Nhưng rồi lại nghĩ đến câu nói kia của Tuyền béo - trên đời này vốn không hề có quỷ, chỉ có trong lòng người không yên, lúc này mới thật sự là sinh quỷ! Tôi tốt nhất không nên nghĩ nhiều quá làm gì, chỉ tổ tự mình hù dọa chính mình, càng nghĩ nhiều thì lại càng sợ, lại nói hồ ly chín đuôi cùng lắm thì vẫn chỉ tính là một con thú, có cái quái gì mà phải sợ chứ, hù làm sao chết được tôi! Trên núi, hàng năm thợ săn người ta bắt được không biết bao nhiêu là hồ ly, lột da nấu thịt suốt ngày nhưng nào đã thấy ai gặp phải báo ứng đâu, huống chi căn bản sẽ không có cái gì gọi là hồ ly chín đuôi, tôi không nên để cho mấy cái truyền thuyết mê tín làm cho sợ vỡ mật, huống chi ngày thường tôi còn hay to mồm khoác lác với người khác - sống chết nhẹ tựa lông hồng, ta đây oai dũng còn màng việc chi, đến chết còn chẳng sợ chẳng nhẽ giờ lại đi sợ một con hồ ly? Trong lòng tôi đã quyết, liền lập tức đưa tay ra giật lấy chiếc mặt nạ hồ ly trên mặt chủ mộ!

Tôi trợn to mắt nhìn về phía trước, dưới chùm ánh sáng chiếu ra từ chiếc đèn pha, là một gương mặt da thịt khô héo, mọc đầy lông xanh, mồm miệng há to, bộ răng rơi rụng gần hết, mặt mũi đại khái đã không thể nào nhận ra được nữa, quả thật hết sức kinh khủng, nhưng cũng không đến nỗi có thể khiến người ta bị sợ mà chết, hoặc giả ít nhất là vẫn chưa đủ để hù chết được tôi. Tôi hơi hẫng lại, tên chuột đất kia là thấy gương mặt này của chủ mộ mà bị hù chết? Lá gan bé tí như thế mà cũng dám tới nơi này trộm ộ? Nghĩ đi nghĩ lại thế nào cũng cảm thấy có gì đó không đúng!

Tôi lại cầm đèn pha chiếu khắp nơi một lượt, đồ vật chôn theo bên người chủ mộ quả thật không ít, hai bên tấm áo liệm vải gầm cùng chiếc gối ngọc được nhét đầy kim ngọc minh khí. Trên người tên chuột đất có một tờ giấy, bên trong vẽ một cái nhãn cầu, cộng với việc hắn chẳng hề động đến mấy thứ đồ bồi táng kia mà lại bò thẳng tới trước mặt chủ mộ gỡ bỏ tấm mặt nạ hồ ly ra, chứng tỏ mục đích của hắn chính là món minh khí có hình dạng nhãn cầu kia, liệu thứ đó có hay không ở trong miệng chủ mộ? Đổi lại là tôi cũng sẽ cho là như vậy, bất quá trên tay hắn không có, mà ở trong miệng chủ mộ cũng không có nốt, hiển nhiên là hắn đã vồ hụt mất rồi, thật sự trong tòa cổ mộ này có cất giữ một cái nhãn cầu gì đó sao? Tôi một mực từ đầu tới giờ vẫn không dám thở mạnh, chỉ sợ sẽ hít phải thi độc bên trong quan tài, rất nhanh cho tới lúc này đã không thể nhịn được nữa, đành phải trước bò ngược trở lại ra ngoài đã, tiện tay cắt bỏ luôn đống vải liệm đang quấn trên xác tên chuột đất. Hai người kia thấy tôi bò ra liền vội hỏi: “Tay Nhị Hổ kia chết như thế nào vậy? Lão thái bà nằm trong quan tài kia có phải là tá thi không?” Tôi dùng sức thở hổn hển mấy hơi rồi mới từ từ đem tình hình bên trong nói ra một lượt: hài cốt của mộ chủ đã sớm mục nát, tên chuột đất kia thì trừng mắt há mồm chết bất đắc kỳ tử, cũng không thấy bên người chủ mộ có thứ gì gọi là “nhãn cầu" cả!

Ba người chúng tôi cùng ngồi xuống bàn bạc một hồi lâu, tên chuột đất kia lai lịch không rõ ràng, chết rồi ngược lại còn dễ nói, còn đằng này về phần Lục Quân lại là thanh niên tri thức đi tham gia sản xuất, cậu ta chết một cách không minh bạch bên trong toà cổ mộ này, chúng tôi lại chẳng có bằng chứng gì cả sợ rằng lúc trình báo với cấp trên cũng chẳng ai thèm tin. Mộ thất phía trên giờ toàn là lưu sa, nói không chừng còn sắp bị sụp xuống, giờ có muốn dẫn người đi vào để điều tra cũng không hề dễ dàng. Thà hay là cứ lục soát thử trên người tên chuột đất xem biết đâu lại tìm được một chút chứng cứ, hoặc giả như mang được thi thể của hắn ra ngoài là tốt nhất, cũng tránh cho chúng tôi bị xử phạt oan ức, có khi lại còn được tính là lập công ý chứ. Sau khi mọi người đều đã thống nhất với chủ ý này, liền cùng nhau túm lấy hai chân của tên chuột đất, hợp sức cùng nhau đem thi thể của hắn kéo ra ngoài.

Dưới ánh sáng từ những ngọn trường minh đăng chiếu xuống khiến cho không gian bên trong mộ thất khá là sáng sủa, Tuyền béo cúi đầu quan sát: “Ngươi đang định đi đòi nợ thuê hay sao, con mẹ nó, chết rồi mà còn trợn mắt định doạ ai?”

Trăn Tử quay sang khoát tay với Tuyền béo một cái, nhẹ giọng nói khẽ: “Anh chớ có nói năng lung tung bậy bạ, chết mà không nhắm mắt, ấy là do oán khí hãy còn chưa tan!”

Tuyền béo đốp lại ngay: “Tôi đây cũng còn một bụng đầy oán khí này, chết rồi là còn quá tiện nghi cho hắn!” Nói xong cậu ta định thò tay xuống lục soát, nào ngờ chính vào lúc ấy, ngọn trường minh đăng chỗ bệ quan bỗng nhiên tắt phụt, đồng thời cái xác của tên chuột đất liền há to miệng. Ba người chúng tôi vội vàng lui ra phía sau hai bước, liền theo đó đèn đuốc bên trong mộ cũng dường như cùng lúc bị dập tắt, tối chẳng nhìn thấy gì.

Trong lòng tôi giật thót một cái: Đây chẳng phải là thấy quỷ sao? Người chết tự dưng há miệng là có ý gì? Còn có lời muốn nói ư?

Tuyền béo thấp giọng hỏi tôi: “Hai người các cậu vừa nãy có nghe thấy tên chuột đất nói gì không?” Tôi quay sang nhìn cậu ta, lúc nãy khi cái xác của tên chuột đất kia đột nhiên há miệng đích xác là tôi có thấy, nhưng lại không hề nghe thấy hắn nói gì cả, có lẽ nào hắn chưa chết hẳn? Tôi thử tiến gần lại, đang muốn nhìn thử xem chuyện gì vừa xảy ra thì bất ngờ từ trong miệng hắn bay ra một vật, tốc độ của nó quá nhanh khiến tôi không nhìn rõ là thứ gì cả, chỉ thấy lục quang chợt loé rồi lao thẳng về phía tôi. Mắt tôi còn chưa kịp nhìn ra nhưng từ trong miệng đã truyền tới một thứ cảm giác lạnh lẽo băng giá, tôi thầm than nhẹ một tiếng: “Bỏ mẹ rồi!” Đang định dùng sức khạc bỏ thì nó đã sớm chui xuống tận cổ họng, có muốn nôn ra cũng không được nữa rồi!

Tôi thất kinh, thứ này rõ ràng là một vật sống! Hai người Tuyền béo và Trăn Tử thì lại hoàn toàn không biết chuyện gì vừa xảy ra, bọn họ vẫn mải mê cắm đầu xuống đất tìm kiếm khắp nơi, lại còn quay sang hỏi tôi có thấy đâu không nữa chứ? Tôi lúc ấy toàn thân ngây dại, sợ run tại chỗ không biết làm sao, Tuyền béo thấy tôi không lên tiếng, xoay đầu lại hỏi: “Cậu làm sao mà mặt mày tái xanh tái mét thế kia? Có chuyện gì à?”

Trăn Tử cũng hỏi: “Anh lại làm sao vậy?”

Trong lúc tôi hãy còn đang ngẩn người, cái xác kia lại đột nhiên há miệng một lần nữa, tôi lấy đèn pin chiếu qua, lần này nhìn thấy từ trong cái miệng ấy bò ra mấy con thằn lằn toàn thân xanh lè, dài hơn hai tấc, hai mắt đỏ rực, nhanh chóng hướng về phía chúng tôi mà bò tới. Trăn Tử vội vàng vung mạnh chiếc xẻng công binh đập liên hồi, Tuyền béo ở bên cũng giơ chân lên cố gắng đạp bỏ, nhưng mấy con thằn lằn kia cũng thật là nhanh, mắt người căn bản là không thể nào bắt kịp chuyển động của chúng. Tuyền béo vừa một chân đạp xuống, một con thằn lằn đã “vèo” một cái chui tọt vào miệng cậu ta, một con khác thì vọt thẳng qua lỗ mũi. Thứ này toàn thân trơn nhẵn, trừ khi bịt kín thất khiếu bằng không nó thế nào cũng đều có thể chui vào. Trăn Tử đồng dạng bị một phen khiếp vía, xẻng công binh trong tay khua loạn xì ngậu. Đèn đuốc trong mộ hoàn toàn tắt ngóm, chỉ còn lại ánh đèn pha là vẫn sáng thành thử chúng tôi cũng không biết những con còn lại đã bò lên người Trăn Tử rồi hay là chui vào khe hở giữa các tấm mộ gạch. Lúc chúng tôi vẫn còn tay chân luống cuống thì từ trong quan tài truyền đến một trận âm thanh huyên náo, trong nháy mắt hơn trăm con thằn lăn xanh lét ào ào bò ra, trong miệng những chiếc lưỡi đỏ dài gần bằng cơ thể liên tục thè ra hệt như loài rắn. Ba người cả kinh thất sắc, lại loạn cào cào thêm một trận nữa. Cả một đàn thằn lằn xanh hệt như một cơn lũ hung hăng quét qua, bò nhanh dưới chân chúng tôi, thỉnh thoảng lại có mấy con đi lạc bò lên trên người, thẳng hướng hai lỗ tai với lỗ mũi mà chui vào. Chúng tôi không thể làm gì khác hơn ngoài việc một bên ra sức lấy chân giẫm đạp, một bên lấy tay gạt bỏ những con đang bò lên người, rồi chật vật cố gắng chạy ra khỏi căn mộ thất có chứa cỗ quan tài kia. Nhưng mọi chuyện nào đã xong, trong bụng từng cơn đau quằn quại cứ thắt lại, mọi người vội vàng dùng ngón tay đưa vào cổ họng móc ra, lúc trước đã từng nôn qua một lần ở trước bức bích hoạ cửu vỹ hồ ly, đến bây giờ mật đen mật vàng cũng đã móc hết ra rồi, nhưng rốt cuộc vẫn không thể nào nôn ra được những con thằn lằn quái ác kia.

Tôi giờ đã hiểu được tên chuột đất kia vì sao mà chết rồi, đồng thời cũng biết rõ tại sao những người mang quan tài tiến vào địa cung lại cam tâm tình nguyện nuốt thuỷ ngân tuẫn táng theo chủ mộ! Ý nghĩ này chỉ chợt loé lên trong đầu tôi, nhưng tôi hoàn toàn tin chắc vào phán đoán của mình. Nghe nói trước kia có một loại bùa chú “Đàm Tiên" (Trans: Đàm ở đây nghĩa là cái vò, cái hũ), là từ Tây Vực truyền tới, vì để tránh cho mấy tên chuột đất có thể hạ thủ dễ dàng, lúc hạ táng liền đem đàm tiên chôn cùng bên trong mộ, kẻ nào dám trộm mộ khai quan, đàm tiên sẽ nhắm thẳng vào kẻ đó, không chỉ đoạt lấy mạng sống của một mình hắn mà ngay cả già trẻ trong nhà cũng không tha một ai, chỉ đành trơ mắt chờ chết. Cái gọi là đàm tiên này, kỳ thực là trứng của thằn lằn được nuôi dưỡng bên trong một cái vò đất, gần giống như vu cổ, nhưng so với vu cổ thì lại độc ác hơn gấp nhiều lần, vu cổ chỉ hại một người còn cái này lại có thể diệt sạch cả một nhà một họ, chỉ có nuốt vào thuỷ ngân mới có thể diệt trừ.

Trước kia trong dân gian từng lưu lại một truyền thuyết, tương truyền có người lúc đang đào mộ phần hòng trộm lấy minh khí, thấy một con thằn lằn nhỏ màu xanh, chỉ trong chớp mắt đã không thấy đâu, sau đó trong nhà người này nối tiếp người kia lần lượt chết một cách kỳ quái, mọi người nói rằng là do người đó đã chọc phải một con thằn lằn thành tinh. Thứ này vô ảnh vô tung, tới lui lúc nào không ai hay biết, thừa dịp người này không chú ý liền chui vào trong bụng, từ từ cắn nuốt tim gan phèo phổi, sau đó làm ổ đẻ trứng luôn bên trong, chờ đến lúc người này hộc máu tươi mà chết, trong bụng toàn là máu vón thành từng cục. Sau khi gieo hoạ chết một người, nó lại tiếp tục từ xác người bò ra, tiếp tục tìm kiếm người tiếp theo trong nhà để gieo rắc cái chết. Chờ một nhà này chết hết không còn một ai, lại tìm để cả họ hàng anh em thân thích. Trong đám anh em thân thích ấy, có một lão đầu nọ biết được sự tình, sau đó phát giác thấy trong người có gì đó không đúng, liền gọi con trai đến rồi nói đầu đuôi ngọn ngành câu chuyện, dặn hắn lập tức trốn xa chừng nào tốt chừng nó, mai danh ẩn tích, ngàn vạn lần chớ có quay lại nơi này, còn lão sẽ ở lại chờ chết. Người con trai nghe theo lời cha, đem theo cả nhà cao chạy xa bay, qua chừng hai ba năm, một hôm nọ đang nằm trên giường lim dim chuẩn bị ngủ thì bất thình lình phát hiện thấy một con thằn lằn nhỏ toàn thân xanh lè hệt như những gì cha mình đã kể, hai chân sau của nó treo ngược trên xà nhà, con mắt đỏ rực nhay nháy nhìn mình chằm chằm, sợ quá liền vội bật dậy, hắn biết rằng cha mình đã bị chính con thằn lằn này hại chết, không ngờ rằng mình trốn đến tận nơi này rồi mà nó vẫn có thể tìm được tới cửa. Vội vàng dùng bột nếp bịt kín lỗ tai cùng lỗ mũi, trừ lúc ăn cơm uống nước còn đâu sẽ không bao giờ há miệng nói chuyện lấy một câu. Lo lắng đề phòng liên tiếp mấy ngày, bóng dáng của con thằn lằn thế nhưng vẫn bám sát không chịu buông. Một ngày nọ, lúc cả nhà đang ăn cơm, trước mặt bày một bát canh, chính lúc hắn đang định cúi đầu xuống uống, chợt thấy cái bóng của con thằn lằn hiện lên trên bát canh, nó đang ở trên xà nhà nhìn chằm chằm vào đống thức ăn trên bàn, liền biết ngay là nó muốn nhân cơ hội rơi vào trong đó rồi thuận lợi chui vào trong cơ thể mình. Hắn cũng là một người linh động nhanh trí, bảo vợ xới cho một bát cơm để một bên, rồi làm như vẻ sẽ ăn bát cơm đó, sau đó kín đáo liếc mắt quan sát, thấy bên trong bát cơm hơi động liền biết con thằn lằn tinh đã chui vào chờ sẵn, hắn vội vàng dùng một cái bát khác úp vào, lại lấy da trâu cùng bột hồ một tầng lại một lớp dán chặt lại, vừa hay lúc ấy trên bếp vẫn còn để một cái nồi hấp, lập tức vứt vào trong nồi, không ngừng tiếp thêm củi cùng thổi lửa liên tục, thẳng đến khi đốt hết sạch củi trong nhà mới thôi, cẩn thận mở nắp nồi hấp lấy cái bát mở ra nhìn thử, bên trong cái bát loang lổ thứ mủ máu màu xanh, chính giữa là một cái cục máu đỏ sậm, phía trên bất ngờ có ba đạo hoa văn lục sắc!

Có thể thấy rằng những người có nhiệm vụ mang quan tài tiến vào địa cung kia lúc trước đã bị buộc phải nuốt trứng thằn lằn vào trong bụng, cho dù kháng cự không nuốt thuỷ ngân để làm người tuẫn táng theo chủ mộ thì cũng sẽ chết rất thảm, thậm chí còn liên luỵ đến cả người thân họ hàng. Mà trên người mộ chủ cũng có loại trứng thằn lằn này, nó rất nhạy cảm với cả khí tức của người sống cho nên khi tên chuột đất vừa gỡ bỏ tấm mặt nạ xuống, nó liền từ trong miệng chủ mộ đi ra, lấy mạng kẻ dám to gan chui vào đây. Tôi trước khi bò vào trong quan tài đã đình chỉ hơi thở nên mới không làm kinh động đến con thằn lằn trên người tên chuột đất, mãi cho đến khi chúng tôi lôi xác hắn ra thì những thứ này cũng theo đó mà bò ra. Hắn chưa kịp chui ra khỏi quan tài thì đã toi mạng, có thể thấy rằng cái mạng nhỏ này của ba người chúng tôi cũng chỉ còn lại trong khoảnh khắc! Muốn giữ được mạng sống, vậy phải gấp rút nghĩ ra cách gì đó. Rạch một đường trên bụng, thò tay vào lôi nó ra? Hay đành nuốt thuỷ ngân tự tử?

Đương lúc trong đầu tôi từng đạo ý niệm xẹt qua, thì từ hai lỗ mũi bắt đầu có máu đen chảy xuống, Tuyền béo ở bên cạnh cũng gặp tình trạng y hệt, hai người chúng tôi bốn mắt nhìn nhau, liền đọc được trong ánh mắt của đối phương một nỗi thất vọng tràn trề: đáng ra không nên để Trăn Tử đi theo dẫn vào núi, là chúng ta đã làm liên luỵ đến cô ấy! Sự việc đã đến nước nay, còn làm gì được nữa? Nghĩ tới đây, tôi theo bản năng quay ra nhìn Trăn Tử, thấy sắc mặt nàng vẫn như thường không có gì khác cả, mới lên tiếng hỏi, thì ra lúc nãy tuy hỗn loạn như thế nhưng tuyệt nhiên vẫn không có con thằn lằn nào chui vào trong người cả!

Tôi cảm thấy chuyện này rất là kỳ quái, tại sao những con thằn lằn kia chỉ chui vào người hai thằng chúng tôi? Trăn Tử có điểm gì đặc biệt chăng? Bỗng nhiên tôi chợt bừng tỉnh, cảm thấy như bám được lấy tấm phao cứu sinh giữa cơn sóng lớn, vội vàng hỏi cô ấy viên cẩu bảo kia có còn giữ trên người không? Trăn Tử nghe vậy lập tức lục tìm trong túi lấy ra viên cẩu bảo đưa cho tôi. Cậu Tứ vốn là một tay thợ săn lão luyện trong thôn, mấy chục năm lăn lộn trên núi tổng cộng từng nuôi chín con chó săn, trong đó có một con sau khi chết từ trong bụng nó lấy ra được viên cẩu bảo này, nghe nói khi còn sống, con chó này chỉ cần nhảy lên một cái liền có thể đớp trúng chim chóc đang bay lượn giữa không trung, tính tình hết sức hung hãn, chính là bởi vì trong bụng nó có thứ này. Cẩu bảo giống như sỏi thận ở người, chỉ khác cái được kết tinh từ trong bụng chó, là vật chí dương, tuy nhiên không phải viên nào cũng được coi là thượng bảo, mà bên trên càng có nhiều tế văn, sắc xanh càng đậm thì lại càng có giá trị. Viên cẩu bảo này của cậu Tứ là loại vô cùng hiếm thấy, theo như những lời mê tín trong thôn thì hồ ly đạo hạnh dù có sâu đến nhường nào đi chăng nữa cũng đều phải sợ thứ đồ chơi này. Ở vùng hoang nguyên phía Tây khu Đại Hưng An Lĩnh, muỗi vằn nhiều không đếm xuể, sau mỗi cơn mưa lớn thường kết thành từng đàn từng đám bay ra, có thể trong nháy mắt biến người sống thành thây khô, nhưng chỉ cần trên người có đeo viên cẩu bảo như này thì không con nào dám lại gần cả. Chính là ứng với câu nói này - trên đời vạn sự vạn vật, có sinh thì tất sẽ có khắc! Cậu Tứ còn nói muốn đem vật này mang đến Bắc Kinh để hiến tặng cho Mao Chủ tịch, Trăn Tử vì lo lắng chúng tôi sẽ gặp phải cửu vỹ hồ ly cho nên trước khi đi mới chạy qua mượn tìm cậu Tứ mượn lấy.
Tôi không kịp nói nhiều lời, cầm lấy viên cẩu bảo đặt dưới đất rồi vung mạnh xẻng công binh xuống, đập vỡ tan! Trăn Tử kinh hãi kêu lên: “Aaa, ai cho anh đập vỡ nó chứ? Cậu Tứ mà biết được thì cả ba đứa mình đi đời nhà ma đó!”

Tôi trấn an cô ấy: “Bây giờ việc quan trọng nhất là giữ được cái mạng sống đã! Rồi tí nữa tôi sẽ móc lấy vài cái nhẫn vàng cho cô mang về đền cho cậu Tứ.” Nghe thế Trăn Tử cũng không có nói gì nữa, tôi tiếp tục đập thêm vài phát đến khi viên cẩu bảo giờ đã hoàn toàn chỉ còn là một đống bột vụn, phân cho hai người kia, kêu họ mau chóng nuốt vào. Chúng tôi ba người lần lượt nuốt xuống, sống hay là chết, nhất cử đều trông chờ vào nó! Trăn Tử mặc dù không có sao nhưng cẩu bảo kia đã bị đập vỡ, giờ mà để cho con thằn lằn nào đó bò vào được trong bụng ắt sẽ không sống được, cho nên cũng phải nhắm mắt nhắm mũi mà bỏ đống bột vào miệng nuốt đánh ực một cái.

Ba người nuốt vào thứ bột đá ấy, trong cổ truyền đến một cảm giác nóng ran chỉ trực trào ra ngoài, tôi cùng Tuyền béo thi nhau khạc ra một đống lớn máu đen cùng đờm xanh lét, vô cùng tanh hôi, thế nhưng trong người cảm thấy thoải mái hơn rất nhiều. Tôi thầm than vừa rồi thật nguy hiểm quá, nếu như không phải có Trăn Tử trước khi lên núi mang theo viên cẩu bảo thì chúng tôi giờ này đã sớm phải đi gặp các cụ rồi, cũng đồng dạng như Lục Quân vậy: chết một cách không minh bạch trong toà cổ mộ này! Đúng lúc ấy, bên kia Trường Sinh Điện vang lên những tiếng bước chân, xa xa liền trông thấy những ánh lửa đung đưa trên tay rất nhiều người đang chạy tới. Tôi trong lòng trầm xuống, nếu như đó là thủ hạ của tên chuột đất kia, ba người chúng tôi không chết vì đàm tiên thì cũng sẽ chết vì bị người giết!

Không nghĩ tới chờ đối phương tới gần nhìn thử, mười mấy người này, mỗi người tay cầm một ngọn đuốc, có cả súng bắn chim cùng với đinh ba nữa, tất cả đều là thanh niên tri thức đến Hắc Thuỷ Giang tham gia sản xuất như chúng tôi, còn có hai vị dân binh đi đầu, quan trọng hơn: Tiêm Quả cũng ở trong đó! Tôi cùng Tuyền béo lập tức hớn hở nghênh đón, ba người ở chỗ này gặp nhau đều là vừa mừng vừa sợ, nghe Tiêm Quả nói rõ ngọn ngành đầu đuôi mọi chuyện thì tôi mới biết, thì ra nàng đích xác là có bị rắn cắn, tuy nhiên không phải là loại rắn ngũ bộ kịch độc gì cả, không nghiêm trọng lắm, lúc ấy có một thợ săn trong thôn đi ngang qua liền đưa cho nàng gói thuốc trị độc, vết thương cũng không đáng ngại nữa. Về phần Lục Quân, rõ ràng cậu ta đã bị hai tên thợ săn giả danh mua chuộc, tìm đến Hắc Thuỷ Giang cố ý bịa ra một cái cớ như vậy để lừa tôi cùng Tuyền béo dẫn đường vào núi, bất quá Lục Quân chẳng qua cũng chỉ vì muốn tham chút tiện nghi nhỏ, không biết rằng hai tên kia thực ra lại là hai tên chuột đất, trong Liêu mộ cũng không hề có vật gì là hoàng kim linh chi tồn tại hết! Nhóm thanh niên cùng đội lại cứ tưởng cậu ta bị mất tích, chia nhau tìm khắp xung quanh, có người tìm tới tận thượng nguồn Hắc Thuỷ Giang, từ miệng cậu Tứ biết được Lục Quân cùng chúng tôi đi vào trong núi, nói là muốn tới toà cổ mộ nào đó ở Hắc Sơn Đầu đào ra hoàng kim linh chi, nguyên nhân chính là vì muốn cứu mấy người ở hạ nguồn bị rắn ngũ bộ cắn phải.

Năm 1969, cả nước luôn ở trong tình trạng sẵn sàng nổ ra chiến tranh, Hắc Sơn Đầu lại ở gần với đường biên giới, có người nhiều chuyện cho rằng tình hình này có gì đó không đúng, mới mượn người trong thôn mấy con chó săn, mời dân binh làm hướng đạo dẫn đường, một nhóm mười mấy người rồng rắn nhau kéo tới Hắc Sơn Đầu. Chó săn dựa vào mùi một đường đánh hơi tìm được lối vào đạo động, bọn họ từ đó đi xuống, thấy bức bích hoạ cửu vỹ hồ ly nứt ra, lại bò theo sa động phía dưới kim cương tháp mà tới, lúc này mới gặp ba người chúng tôi ở đây. Chó săn theo thói quen thường hay ở trong rừng săn đuổi dã thú, tuy nhiên lại chưa từng vào cổ mộ bao giờ, sau khi đi vào liền sủa điên cuồng không dứt, đám thanh niên tri thức cùng dân binh làm cách nào cũng không làm chúng ngừng sủa được. Dẫn đầu đoàn người là một vị đại ca, cao chừng gần một mét chín, đại danh xưng là Trịnh Quốc Trụ, biệt danh Cột Nhà, trong đám thanh niên có thể nói là phần tử hoạt động sôi nổi tích cực nhất, hắn bảo Trăn Tử trước đem mấy con chó săn này ra ngoài, sau khi đuổi Trăn Tử đi liền hướng đám thanh niên còn lại nói: “Trong này đều chôn bọn thủ lĩnh địa chủ, là kẻ thù của giai cấp nông dân chúng ta, phải đập tan nơi này không nương tay!”

Tôi vội lên tiếng ngăn hắn lại: “Ngàn vạn lần chớ ra tay lung tung, trong Liêu mộ này có bố trí cạm bẫy lưu sa!”

Nhưng tục ngữ có câu “nước đổ đầu vịt, điếc không sợ súng” quả là đúng, tên Cột Nhà kia đếch thèm nghe lời tôi khuyên ngăn, hắn vung cánh tay lên hô: “Hết thảy bọn phản động đều chỉ là những con hổ giấy!” Nói xong liền hung hăng cầm đinh ba tới trước bức tượng Phật Tổ đặt trên bàn thờ đá đâm thật mạnh, thoáng cái đã đem đầu Phật Tổ đập vỡ, mấy tay thanh niên tri thức lớn gan lớn mật khác cũng đi theo động thủ. Tôi thấy tình thế này không đúng, kéo Tiêm Quả lùi về sau mấy bước, chính vào lúc này, đại lượng lưu sa phía trên đỉnh mộ ầm ầm đổ xuống. Tôi cùng Tuyền béo lúc trước đã kinh qua một phen lưu sa mai phục, vừa nghe thấy tiếng ầm ầm truyền đến trên đỉnh đầu liền vội vàng kéo Tiêm Quả trốn vào phía sau đại môn dẫn tới địa cung, chỉ trong nháy mắt bên ngoài cánh cửa đá toàn bộ đã bị chôn vùi trong biển cát, mười mấy thanh niên tri thức đều bị chôn sống bên trong Trường Sinh Điện!

Cứ tưởng rằng đám thanh niên tri thức kia tới liền có thể giúp chúng tôi thoát được ra khỏi nơi này, nào ngờ lại lòi đâu ra tên Cột Nhà không biết sống chết kia! Đèn pin trong tay tôi đã rơi mất từ lúc nào, không gian xung quanh tối đen như mực, có giơ xoè bàn tay ra để trước mặt cũng chẳng thể nhìn rõ năm ngón, tiếng lưu sa trút xuống vẫn ầm ầm không ngừng bên tai. Ba người chúng tôi sống sót sau trận tai nạn bất ngờ, tinh thần mỗi người càng suy sụp và hoảng loạn hơn, toàn thân mệt mỏi rã rời. Đợi đến khi lấy lại được chút sức lực, tôi bật đi bật lại mấy lần chiếc đèn pha, cũng may chiếc đèn được làm theo tiêu chuẩn để sử dụng trong các mỏ than nên khá chắc chắn, sau vài lần thử cuối cùng chùm ánh sáng lại gay gắt chiếu rọi, tôi soi qua hai người kia kiểm tra xem họ có bị thương nặng không, thấy cả hai khắp người xây xát, dáng vẻ chật vật còn hơn cả tôi. Đám thanh niên tri thức tham gia sản xuất ở hạ nguồn Hắc Thuỷ Giang, cùng với hai dân binh trong thôn đi theo, toàn bộ đều bị lưu sa chôn sống, chỉ có duy nhất Tiêm Quả là may mắn thoát được. Dĩ nhiên còn có cả Trăn Tử lúc trước mang theo bầy chó săn ra khỏi cổ mộ, khả năng cao là cô ấy cũng bình an vô sự. Tôi phỏng đoán Trăn Tử sau khi chạy được ra ngoài, nhất định sẽ trở về trong thôn báo tin, nhưng lúc này đang mùa săn bắn, trong thôn mười mấy hai mươi ngôi nhà chỉ toàn người già và trẻ nhỏ, với chừng ấy người kéo tới cũng chưa chắc đã đào được hết tầng lưu sa đang chôn vùi mộ đạo này.

Tiêm Quả đến giờ vẫn còn hãi hùng, qua một hồi lâu mới dần tỉnh táo lại, ôm lấy hai đầu gối huhu trực khóc. Tôi cùng Tuyền béo cũng bị sốc mất một hồi, hai thằng trố mắt nhìn nhau, không nói một lời. May mắn là lúc này cũng không thấy đám thằn lằn xanh quái ác kia đâu, tôi bắt đầu hận mình tại sao không chạy ra ngăn bọn họ lại mà chỉ nhắc mồm suông, bây giờ thì hay rồi, không chỉ có đám thanh niên ở hạ nguồn chết hết mà ngay cả ba chúng tôi giờ cũng không còn đường nào để mà thoát ra, cái này gọi là toàn quân chết sạch! Tuyền béo mở lời khuyên tôi: “Haiz, Nhất à, thật sự cũng không thế trách cậu được, cậu còn không biết bản tính của tay Cột Nhà kia ư, hắn vốn là kẻ chỉ biết cậy mạnh, có bao giờ chịu nghe ai nói đâu! Huống chi bản chất của cuộc đấu tranh giai cấp chính là ngươi chết ta sống, không thể nào không có sự hi sinh được, cũng may Trăn Tử đã thoát được ra ngoài rồi, ba chúng ta dù có chết ở trong này thì vẫn có người biết tới, không tính là chết một cách không minh bạch!”

Tôi thở dài, người chết thì đã chết rồi, có làm gì cũng không thể cứu họ sống lại được nữa, việc bây giờ là mình phải mạnh mẽ đứng lên, nghĩ biện pháp đem hai người kia an toàn trở về. Nơi này không hề giống với Tây phối điện, thông đạo dẫn tới chính điện đã bị lưu sa lấp kín làm sao còn có thể thoát ra được. Bất quá rầu rĩ mãi thì cũng vô dụng, đối với chúng tôi mà nói, trong toà cổ mộ này vẫn ẩn chứa rất nhiều điều bí ẩn, không thấy không có nghĩa là không còn đường sống có thể đi, hơn nữa thi thể của tên chuột đất hãy còn để ở trước cỗ cự quách kia, chúng tôi sở dĩ lần này bị lừa tiến vào trong này hoàn toàn là do hắn, trước hết phải từ trên người hắn tìm ra thứ gì đó để có thể làm rõ thân phận người này! Đợi đến khi Tiêm Quả không còn sụt sùi khóc lóc nữa, tôi liền đem tình cảnh trước mắt nói rõ cho nàng biết. Tiêm Quả ở trong binh đoàn từng được trực tiếp huấn luyện quân sự, có dũng khí để đối mặt với nguy hiểm, cũng có cả quyết tâm vượt qua khổ cực, tôi không hề lo lắng nàng sẽ trở thành gánh nặng cho chúng tôi. Tôi cùng Tuyền béo vốn tưởng là từ trong toà Liêu mộ này tìm được gốc hoàng kim linh chi thì có thể cứu được Tiêm Quả một mạng, đến khi biết được rằng tên chuột đất kia đang bám theo phía sau vây khốn không cho chúng tôi thoát ra, cả hai thằng lúc ấy đều chỉ mong tin tức Tiêm Quả bị rắn độc cắn là giả, cũng không muốn cho nàng biết - chúng tôi là vì cứu nàng mà đâm đầu vào chỗ chết! Bản thân tôi cũng không nghĩ ra, tại sao khi đó trong đầu lại có ý niệm như vậy? Đến cuối cùng cũng không ngờ rằng, Tiêm Quả không hề làm sao hết, thế nhưng chính nàng cũng vì chúng tôi mà tiến vào toà Liêu mộ này. Hôm nay mộ đạo đã bị lưu sa chôn vùi hoàn toàn, chỉ sợ ba người chúng tôi đừng hòng mà thoát ra ngoài được, nghĩ đến việc thôi đều là do ý trời cả, bất quá rốt cuộc vẫn có thể nhìn thấy Tiêm Quả, cũng đủ khiến tôi cùng Tuyền béo hết sức phấn chấn.

Ba người chúng tôi chia lại trang bị, đèn pin cầm tay thì đã mất rồi, chỉ có chiếc đèn pha tôi nhặt được lúc chui vào bên trong quan tài là có thể sử dụng được, ngoài ra còn có một chiếc đèn bão, cũng là của tên chuột đất kia. Tôi đưa đèn pha cho Tiêm Quả giữ, còn đèn bão thì tự mình treo ở bên hông. Về phần vũ khí phòng thân thì có một khẩu súng kiểu 98, cùng một khẩu súng trường kiểu 22 đã cũ, loại súng này hay được người dân trong thôn cải chế lại thành súng săn. Khẩu súng săn được cải chế từ súng trường 22 vẫn do Tuyền béo chịu trách nhiệm sử dụng, lúc trước vì để tiện hành động trong không gian chật hẹp của quan tài, tôi đã đem thanh quân đao Quan Đông đặt ở trên đất, giờ phút này hẳn vẫn còn ở trong mộ thất. Vốn từ đầu chẳng ai nghĩ rằng chúng tôi sẽ bị mắc kẹt bên trong mộ như này, cho nên nước nôi đều đã uống hết, lương khô cũng chỉ còn lấy vài miếng, tôi cùng Tuyền béo cả ngày nay chẳng có cái mẹ gì để bỏ vào bụng, sớm đã đói đến mờ cả mắt, nhưng hiện giờ nuốt cái gì cũng không trôi. Chúng tôi sửa sang lại quần áo cùng giày mũ, dốc ngược giày đổ ra một đống cát vàng, lần nữa bước xuống những bậc cầu thang làm bằng đá thanh bạch, ánh mắt vừa đảo xuống phía dưới liền chợt đông cứng lại, miệng há hốc vì kinh ngạc: xác tên chuột đất đã biến mất tiêu!

Tôi bảo Tiêm Quả bật đèn pha lên chiếu một vòng xung quanh xem, mọi thứ bên trong mộ thất vẫn như cũ, duy nhất cái xác kia là không thấy đâu cả, thanh quân đao tôi để dưới đất cũng không thấy nốt! Tuyền béo nói: “Tên chuột đất kia trở thành tác thi rồi sao? Thế quái nào ngoảnh đi ngoảnh lại đã không thấy?”

Một mớ hỗn độn quay vòng vòng trong đầu tôi, nhất thời một suy nghĩ không đúng loé lên, không phải xác tên chuột đất kia trở thành tác thi, mà là do chúng ta quá thiển cận đâm ra sơ suất! Mọi chuyện giờ dường như hiện ra trước mắt tôi vô cùng sáng tỏ, tên chuột đất cơ bản là chưa có chết thật sự, có lẽ sau khi gỡ bỏ tấm mặt nạ trên người chủ mộ xuống, hắn liền phát giác bị thằn lằn xanh chui vào trong miệng, bất đắc dĩ phải thi triển “Cương Thi Công", nghe nói trước kia có một số tay trộm mộ lão luyện sở hữu thứ bản lĩnh, có thể khiến cho cơ thể mình tiến vào trạng thái chết giả, tứ chi cũng không bị cong gập, quả thật là một loại phương pháp bế khí quy tức khá hiệu quả, những con thằn lằn xanh kia chỉ tấn công người sống chứ không động đến người chết, hắn dùng chiêu này cùng lắm chỉ kéo dài được một đoạn thời gian, qua không được bao lâu nhất định sẽ không chịu được nữa, nếu như chúng tôi không kéo hắn từ trong quan tài ra thì hắn chắc chắn sẽ phải chết một cách thật sự! Tôi đoán rằng hắn nhất định vẫn còn trốn trong mộ thất, hoặc trừ khi hắn biến thành tro không tăm không tích! Tôi nhắc nhở hai người Tuyền béo và Trăn Tử không nên khinh thường mà lơ là mất cảnh giác, tên chuột đất này là một tên trộm mộ lão luyện, không chỉ vô cùng xảo trá mà thủ đoạn cũng hết sức cao minh, trong mộ tối lửa tắt đèn, phải đề phòng hắn trong bóng tối đâm cho chúng ta một nhát dao!

Tuyền béo nghiến răng ác độc nói: “Cứ thử đụng vào ông đây xem, một viên kẹo đồng luôn sẵn sàng ghim ngay vào sọ, con bà nó chứ, xem hắn còn giả chết được nữa không!”

Tôi bảo cậu ta: “Cậu bắn chết hắn rồi thì lấy ai mà tra khảo? Tốt nhất là nên bắt sống.”

Tuyền béo nói: “Không được bắn thì ít nhất cũng phải đập cho hắn răng rụng đầy đất, chứ không sao hả được cục tức này.”

Ba người trong mộ thất bắt đầu tiến hành kế hoạch tìm kiếm, tuy lối thông với trung thất đã bị lưu sa lấp kín, nhưng toà Liêu mộ này lại được xây dựng theo cách cục cửu thất huyền cung, tổng cộng có năm gian mộ thất ở phía sau, gian mộ thất dùng để đặt quan tài có quy mô vô cùng lớn, hai bên còn có bốn cái nhĩ thất. Chúng tôi trong tay chỉ có duy nhất một chiếc đèn pha, tầm chiếu sáng khoảng chừng gần mười bước chân, thành ra mọi người không dám phân tán, tôi rất nhanh ý thức được ở dưới tình huống như này, cơ hồ rất khó để tìm ra tên chuột đất kia, tốt hơn hết trước cứ thăm dò địa hình, rồi lại trong quan tài móc ra vài món trang sức tuỳ táng bằng vàng. Bởi vì thanh quân đao Quan Đông cùng viên cẩu bảo đều là báu vật áp đáy hòm của cậu Tứ (Trans: Khi nói đến áp đáy hòm ý chỉ thứ đó rất quý giá, thường được cất, giấu kỹ dưới tận đáy rương, đáy hòm), giờ chúng tôi lại làm mất sạch cả hai thứ đó, đến lúc tay không mà trở về thì rất là khó ăn khó nói, à mà đương nhiên là chuyện đó chỉ xảy ra khi mà chúng tôi còn có thể thoát được ra ngoài! Nơi đây vốn nằm sâu trong lòng núi, nếu như không còn lối thoát nào khác ngoài cánh cửa đá kia thì ba người chúng tôi chẳng mấy sẽ bị chết vì thiếu dưỡng khí.
Nhưng đến khi bước tới trước bức thánh tung đồ, mấy người liền phát hiện phía dưới bích hoạ cửu vỹ hồ ly đã bị kẻ nào đó đào ra một cái đạo động, thì ra phía sau bức tường này hoàn toàn trống không, tên chuột đất thừa dịp lúc chúng tôi chạy ra ngoài đã từ đây thoát ra ngoài, hơn nữa hắn nhất định sẽ không tay không mà chạy, tôi dám khẳng định rằng món đồ có giá trị nhất bên trong cổ mộ này đã bị hắn đoạn mất!

Theo như cách cục bố trí cửu thất huyền cung, cũng không phải hoàn toàn chỉ có chín gian mộ thất, nhưng những gian dư ra kia nhất định phải được giấu sau ám môn (Trans: Ám môn ý chỉ các cánh cửa được che đậy, nguỵ trang cẩn thận, rất khó để tìm ra). Ba người nóng lòng muốn tóm được tên chuột đất, ngay lập tức cắm đầu liều mình chui vào. Phía sau là một cái hang đá, vàng bạc ngọc khí chất đống như núi, hai bên vách tạc ra rất nhiều động nhỏ lõm vào trong, trong một cái động bày ra một chiếc vò làm bằng đất sét nung, bên trên vò có vẽ đồ hình mặt người hình thái hết sức quỷ dị. Hang đá dài hơn mười trượng, mười bước lại có một ngọn trường minh đăng, phía trên đỉnh đầu là một bức bích hoạ màu sắc rực rỡ. Trong Liêu mộ, cứ một đạo môn lại nối liền với một đạo môn, một mộ đạo này lại thông với một mộ đạo khác, tựa hồ như không hề có điểm cuối.

Chúng tôi một bên đốt lên hai ngọn đuốc, một bên bước dần về phía trước lần mò, chỉ thấy nội dung được miêu tả trong bức bích hoạ phía trên đỉnh hang đá là kể về chủ mộ - Thái Hậu Đại Liêu Quốc, lúc sinh thời tự cho mình là linh thần, chỉ cần các nhà quý tộc đại hộ dâng tặng đầy đủ vàng bạc châu báu, đến khi chết đi sẽ được linh thần dẫn lên thiên đường hưởng lạc. Cổ nhân tin rằng linh hồn của con người nằm ở tạng phủ, cho nên bên trong các vò đất kia toàn là nội tạng của những người có vọng tưởng thăng thiên trở thành tiên nhân. Hang đá nằm ở phía cuối ngôi mộ này, không khác nào một cái bảo tàng cất giữ di sản của cả một đế quốc từng một thời lừng lẫy trên vùng thảo nguyên bao la. Ba người chúng tôi nhìn đến xuất thần, chợt nghe phía trước truyền tới từng đạo tiếng vang, giống như có người nào đó đang cố gắng đẩy một cánh cửa đá. Thấy vậy, cả ba đều giật mình chạy nhanh về phía trước, chùm ánh sáng từ đèn pha chiếu qua, chỉ thấy tận cùng của hang đá này có một cánh cửa đá cao hơn đầu người. Bên trên cửa đá, hai bên một trái một phải đều vẽ một vị tướng quân tay cầm trường kiếm, râu ria xồm xoàm, thân mặc giáp trụ đang trấn cửa, chính giữa vẫn là đồ hình nhãn cầu mà chúng tôi đã thấy qua ở cửa đá dẫn vào mộ chính. Tên chuột đất mới vừa rồi còn nằm giả chết kia, bây giờ trên lưng đeo thanh quân đao của tôi cùng với một chiếc túi to, đang cố gắng đẩy một bên cửa đá ra. Hắn cũng phát giác có người đuổi theo phía sau, xoay đầu lại nhìn, một cặp mắt gian xảo sáng như đèn pha soi thẳng vào người chúng tôi. Người bình thường tuyệt không thể nào có được cặp mắt như vậy, cái này của hắn gọi là mắt cú mèo, nhãn lực khác với người thường, hơn nữa càng là chỗ nào tối tăm thì càng sáng rực.

Hang đá là một đường thẳng tuột, hai bên không hề có ngã rẽ nào khác, thành ra tên chuột đất chạy đến chỗ coi như đã rơi vào tử lộ. Tôi kéo tay bảo Tiêm Quả chớ đi lên, cứ ở lại cầm đuốc soi cho bọn tôi, sau đó tôi cùng Tuyền béo từng bước từng bước áp sát đối phương. Tuyền béo chỉ thẳng tay, nói: “Xú tặc kia! Còn không mau thúc thủ chịu trói?”

Tên chuột đất kia cũng nào phải tay vừa, ngoạc mồm chửi lại: “Con mẹ nó mấy thằng nhóc chúng mày mạng cũng lớn thật đấy, vẫn chưa có chết à!” Giọng nói của hắn vô cùng khó nghe, nghèn nghẹn giống như một con gà đang bị bóp cổ vậy. Vừa dứt lời chửi xong, hắn liền đưa tay quơ lấy một cái vò đất trên tường ném mạnh về phía chúng tôi. Tuyền béo vung súng săn lên đỡ lấy, đem vò đất đập vỡ tan tành, bên trong đều là tâm can phủ tạng moi ra từ trên xác người chết, đã bị phong kín suốt mấy trăm mấy nghìn năm sớm trở thành tro đen, thành ra khi vò đất vừa vỡ, đám tro bụi lúc này cũng được phóng thích ra ngoài, mù mịt khắp nơi. Tuyền béo là người đứng mũi chịu sào cho nên khắp mặt cùng cổ cậu ta hứng trọn tất cả, đồng thời trong miệng cũng tràn vào không ít. Tên chuột đất thừa dịp Tuyền béo không mở nổi mắt lập tức một đao bổ tới. Tôi vội bước lên phía trước, giơ xẻng công binh ra chặn lại đường đao của đối phương. Một đòn này song phương đều sử dụng toàn lực xuất kích, hổ khẩu của tên chuột đất liền nứt ra, khiến hắn không thể không buông tay vứt bỏ thanh quân đao xuống, còn tôi thì cũng chẳng khá khẩm hơn, hai tay bị chấn đến tê dại.

Tôi vốn là muốn bắt sống hắn, nhưng dưới ánh sáng yếu ớt lập lòe của trường minh đăng, khi tôi liếc mắt nhìn hắn liền thấy trong tay có một cái ấn tín chu sa bát quái, điều này khiến tôi không khỏi cả kinh. Tổ phụ tôi chính là vị Đại thiếu gia năm đó ở Lão Thử Lĩnh săn được một đầu huyền hồ, hơn nữa còn làm quen với một tên hỏa cư đạo chuyên vẽ âm dương bát quái, trong tay người này cũng có một cái dấu ấn hình bát quái, hai người bọn họ cùng nhau hợp tác định đổ lấy cái đấu nằm giữa dòng Quỷ Môn Giang, tổ phụ tôi thiếu chút nữa là phải bỏ mạng. Trong âm dương phong thủy trừ chính Đông, chính Tây, chính Nam, chính Bắc bốn phương hướng chính này ra, còn đem bốc góc chia thành Thiên, Địa, Nhân, Quỷ, gọi là tứ đạo môn. Phàm là người trong Quỷ môn, lòng bàn tay nhất định sẽ có một cái ấn tín bát quái vẽ bằng mực đỏ chu sa, tự xưng “Quỷ môn thiên sư”, sau thời kì giải phóng đã gần như trở nên tuyệt tích, không nghĩ tới tên chuột đất tôi gặp phải trong tòa Liêu mộ này lại chính là truyền nhân của quỷ môn thiên sư, cũng là một hỏa cư đạo nhân!

Lợi dụng lúc tôi thoáng ngẩn người vì bất ngờ, tên chuột đất kia đã xoay người bỏ chạy, liên tiếp đập vỡ mấy cái vò đất, nhất thời bụi đất tràn ngập khắp hang đá, buộc chúng tôi phải lui lại sau mấy bước. Hắn nhân cơ hội này cố gắng đẩy cửa đá phía cuối hang một lần nữa, hai cánh cửa chậm rãi mở ra, phía trên đỉnh hang lập tức có mấy đạo lưu sa ào xuống, trong khoảnh khắc ánh lửa bị dập tắt.

Tuyền béo vô cùng hận kẻ này, khạc từ trong miệng ra một cục đờm đen xì toàn bụi đất, súng săn giơ lên chuẩn bị khai hỏa, nhưng kiểu súng săn được cải chế từ súng trường cũ này thật sự là không thích hợp trong những tình huống đề cao sự cấp bách như này, cứ lúc cần là lại dở chứng im tịt một viên cũng không bắn ra nổi. Tên chuột đất thấy súng săn trong tay Tuyền béo bị hóc đạn, liền nhanh chóng chớp thời cơ lắc mình chui qua cửa đá. Tuyền béo há lại cho đối phương có thể thuận lợi bỏ chạy, cậu ta hét lên một tiếng rồi ầm ầm xông tới. Cùng lúc đó, lưu sa phía trên đỉnh hang mới chỉ chảy được quá đầu gối một chút, tôi cúi xuống nhặt lấy thanh quân đao mà tên chuột đất vứt xuống khi nãy, rồi kéo Tiêm Quả đuổi theo phía sau Tuyền béo. Tiến vào bên trong cửa đá nào ngờ lại là một cái hang đá thật lớn nữa, một tòa thạch đài ba mặt lơ lửng giữa không trung (Trans: Đọan này làm mình nhớ tới cái hang đá ở gần cuối tập Thần cung Côn Luân quá:v), bốn phía vách đá sừng sững uy nghiêm, ngẩng đầu không thấy đỉnh, cúi đầu không thấy đáy. Tên chuột đất kia vốn nhanh hơn một bước, nhưng còn chưa kịp đẩy cửa đá đóng lại hòng ngăn chặn chúng tôi thì Tuyền béo đã lao tới, cậu ta quay ngược khẩu súng săn, mạnh mẽ giơ báng súng lên nhắm thẳng đầu tên chuột đất đập xuống. Hắn ta thấy thế tấn công như vũ bão của Tuyền béo, không dám trực tiếp chống đỡ, chỉ biết lăn người sang một bên né tránh, thân pháp của hắn quả thật rất nhanh nhẹn và mềm dẻo, giống như một con lươn vây. Tuyền béo lần này đập vào khoảng không, sắp lao tới gần vực sâu vạn trượng, cơ thể cậu ta lúc này đang nghiêng về phía trước cho nên không kịp thu chân lại, thành ra chỉ còn cách là vội vàng đặt mông phịch xuống đất, lực lượng nghìn cân từ cái mông hạ xuống, liều mạng đem trọng tâm lui về phía sau, không nghĩ tới thạch đài treo lơ lửng một mình giữa không trung này đã có từ quá lâu rồi, phần rìa đã rạn nứt khá nhiều. Tuyền béo dùng sức quá mạnh đạp sụp một khối đá vụn, cũng may mắn cậu ta ứng biến nhanh chóng, lợi dụng phản lực từ cú đạp thuận thế lăn về phía sau một vòng. Tôi cùng Tiêm Quả vội túm lấy hai quai ba lô đang đeo trên lưng, lúc này mới có thể khiến cho cậu ta không rơi xuống dưới cùng đống đá vụn kia. Mà tên chuột đất thì lại không may mắn bằng, vừa rồi nhảy sang một bên né đòn công kích của Tuyền béo, vừa vặn đặt chân xuống phần rìa thạch đài rạn nứt, liền té ngã, tiếng kêu thảm thiết từ dưới đáy sâu vọng lên không dứt.

Lại nói, lưu sa ở hang đá phía sau vẫn tuôn ra không ngừng, chúng tôi không thể làm gì khác bèn cùng nhau hợp sức khép chặt hai cánh cửa đá lại, lúc này mới có thể ngăn cản được lưu sa bên kia chảy sang. Tôi đem chuyện mình phát hiện ra ấn tín bát quái của quỷ môn thiên sư trong lòng bàn tay tên chuột đất kia nói sơ qua cho Tuyền béo cùng Tiêm Quả nghe, bất quá dù cho thân thủ có nhanh nhẹn đến đâu mà từ trên này rơi xuống, người nào cũng đừng hòng sống được. Tro bụi trong miệng Tuyền béo vẫn chưa có hết, cậu ta nôn lên nôn xuống mấy lần, sau đó không ngừng chửi rủa tên chuột đất xấu số kia, lại quay sang than phiền hai người tôi và Tiêm Quả không xông lên cùng cậu ta thành ra không có bắt sống được hắn. Tôi liền bảo hắn ta đập vỡ biết bao nhiêu vò đất, bên trong cái nào cũng chứa đầy tro bụi, xông lên không chết cũng bị ăn đầy một bụng thứ kinh dị kia.

Tuyền béo nói: “Thật ra mùi vị cũng không có tệ đâu, các cậu cũng nên nếm thử một lần cho biết, ăn cứ như gan chiên ý!”

Tôi một bên cùng Tuyền béo cãi vã, một bên quan sát tình huống xung quanh, chợt thấy Tiêm Quả đang kinh ngạc nhìn lên phía trên cánh cửa đá, thì ra trên đó cũng có khắc đồ hình một cái nhãn cầu, liền hỏi cô ấy phải chăng nhận biết ra được ký hiệu này chăng? Tiêm Quả lắc đầu một cái, hỏi tôi đó là ký hiệu gì vậy. Tôi đáp: “Ký hiệu trên cánh cửa đá kia là đồ hình của một cái nhãn cầu!”

Tiêm Quả vẻ mặt phức tạp: “Nhãn cầu ư?”

Tôi nói: “Dựa theo những gì được mô tả trong bức thánh tung đồ, có một người đàn bà trên đỉnh đầu mọc ra một con mắt, sau đó bị người ta khoét ra, hình vẽ trên tờ giấy mà tên chuột đất kia mang theo cũng y hệt như thế này, chắc hẳn hắn cũng là muốn móc thứ minh khí này vì tưởng rằng đó là trân bảo có giá trị liên thành, nhưng tôi tìm bên trong quan tài của chủ mộ không hề thấy có thứ nào như vậy chôn theo cả.”

Tiêm Quả lại hỏi: “Làm gì có người nào lại đem theo một cái nhãn cầu để làm vật bồi táng chứ, hay là anh đoán nhầm?” Tuyền béo ở bên cạnh chỉ chỉ cái túi da hươu mà tên chuột đất lúc trước làm rơi: “Những món minh khí mà hắn móc ra được đều ở trong này, có khi nào lại có thứ đó không?” Nói xong cậu ta cầm lấy đèn pha trong tay Tiêm Quả, nhặt lấy cái túi mở ra nhìn thử bên trong, sắc mặt bất ngờ trở nên kinh hãi, vội vàng khép chặt túi lại.

Tôi cảm thấy bực bội trong lòng, tên chuột đất kia không biết đã móc ra được thứ gì? Làm sao lại khiến cho Tuyền béo sợ hết hồn như vậy? Những kẻ làm nghề trộm mộ đều là vì đoạt bảo phát tài, những thứ đáng tiền có thể móc ra gồm những gì? Ví như những món đồ bồi táng bên người vị Thái Hậu kia, thì có sừng tê giác, ngà voi,.. toàn những thứ chẳng có gì hiếm lạ, ngọc châu trong miệng long ly cũng không phải là không có, nhưng mấy thứ này thì có gì mà đáng sợ? Tôi tiến lên đón lấy cái túi mở ra, dùng đèn pha soi vào bên trong túi, liền cũng giật mình đánh thót một cái. Tên hỏa cư đạo kia thứ gì không lấy, ngọc ngà châu bóc không hề động đấy, mà lại đi móc ra cái xác nằm phía dưới chân chủ mộ! Bốn cái xác thị nữ tuẫn táng theo chủ mộ này, mặt nổi đầy ban độc thủy ngân, cung trang đã mục nát biến thành màu đen, ánh sáng vừa chiếu vào lập tức trở nên vô cùng kinh khủng khó nhìn. Tôi chỉ nhìn thoáng một cái, vội vàng đem cái túi khép chặt lại giống như Tuyền béo, không dám để cho Tiêm Quả nhìn thấy.

Không biết tên chuột đất kia rốt cuộc định giở trò gì, trong quan tài có biết bao kỳ trân dị bảo không móc, lại đem một cái xác tuẫn táng mang ra ngoài. Không nói đến những thứ khác, chỉ riêng tấm mặt nạ chế tác từ vàng xanh trên mặt chủ mộ đã là vật có giá trị bất phàm, bán đi không biết sẽ kiếm được bao nhiêu tiền chứ? Thử đặt vào xã hội cũ, năm khối ngân bảo là đã có thể mua được một mẫu đất tốt, như nào gọi là đất tốt? Đầu tiên mà nói thì miếng đất đó nhất định phải ở nơi có nước chảy qua, thứ hai là đất đai phải phì nhiêu màu mỡ; hai trăm ngân bảo liền có thể ở thành Bắc Kinh mua được một tứ hợp viện, như vậy tấm mặt nạ vàng xanh gắn đá quý kia giá trị bét nhất cũng phải mười nghìn ngân bảo! Tùy tiện móc ra một món bảo vật bồi táng, so với một cái xác thị nữ mục nát có phải đáng tiền hơn không? Thị nữ tuẫn táng theo chủ mộ liệu có tác dụng gì?

Mời các bạn đón đọc chương tiếp theo “Cái Đầu Kỳ Quái” đăng tại page Hội những người nghiện truyện của Thiên Hạ Bá Xướng
 

Lười Biếng Vô Tận

Thanh Phong 37
Tham gia
5/4/19
Bài viết
21
Điểm cảm xúc
67
Điểm
13
Dịch: Đặng Nam

Ba người thấy mộ đạo đã bị lưu sa lấp kín, nếu không muốn ngồi há miệng chờ chết thì chỉ có cách là phải động não mà suy nghĩ, quy mô của hang đá này xem chừng không hề nhỏ nên chưa chắc là đã không còn lối thoát nào khác, nghĩ vậy chúng tôi liền lập tức trèo từ trên vách đá gồ ghề lởm chởm leo xuống. Cái túi da bên trong chứa xác đồng nữ tuẫn táng vẫn nằm nguyên trên thạch đài như cũ. Động quật trông tựa như một cái giếng sâu, mấy người gắng sức mà leo, ước chừng xuống được hơn mười trượng thì hai chân liền chạm đất, một đám bụi mù mịt bốc lên khiến tôi không mở nổi mắt, cố sức mà ho, thì ra dưới đáy này, bụi đất trăm ngàn năm qua đã tích tụ thành từng lớp dày ứ lại. Ba người lần lượt leo xuống, Tuyền béo xung phong đi trước để mở đường, còn tôi cùng Tiêm Quả một tay cầm đèn pin, một tay xách đèn bão, vừa chiếu sáng vừa lục lọi xung quanh, chỉ thấy xác tên chuột đất nằm sõng soài dưới đất. Tuyền béo bước qua đá đá một hai phát, hắn rơi từ tít trên đỉnh xuống, xương cốt toàn thân đều đã vỡ vụn, đầu lún vào trong lồng ngực, chính thức chết đến nỗi có muốn chết lại cũng không được nữa rồi. Cậu ta đưa tay lục soát lại một lần trên người cái xác, cũng chẳng tìm được thêm thứ gì hữu dụng cả. Chúng tôi nguyên là muốn mang cái xác ra ngoài, lần này vào núi một hơi chết nhiều người như vậy, không tìm được một cái chứng cứ xác đáng thì nói chẳng ai tin, quýt làm cam chịu, ba người bị mang ra xét xử thì phiền to, nhưng mà đến Nê Bồ Tát qua sông còn khó giữ nổi thân nữa là chúng tôi tất cả giờ cũng đều mệt mỏi rã rời, ai còn sức mà khiêng cái xác kia đi theo được chứ? (Trans: Nguyên văn là “Nê Bồ Tát quá hà, tự thân nan bảo” - “Bồ Tát bằng đất sét qua sông, khó giữ nổi thân”, là một tục ngữ nói về việc đến tự bản thân mình còn chưa lo xong thì làm sao lo được cho người khác?).

Chúng tôi nóng lòng muốn thoát ra ngoài, thấy tìm trên người tên chuột đất chẳng có thứ gì hết, đành tiếp tục đi tìm đường ra. Ba người bật đèn pha lên, đem luồng ánh sáng chiếu men theo vách đá. Tuyền béo lúc này mới hỏi tôi: “Bên dưới cổ mộ thế nào mà lại có một cái động quật lớn như thế này hả Nhất? Liệu có gì đáng lo không?”

Tôi nhìn lên vách đá gồ ghề lởm chởm nghĩ nghĩ, từ trước tới nay dựa theo táng chế mà nói, nơi này đúng ra phải là động tuẫn táng, còn nếu mà suy xét trên phương diện âm dương phong thuỷ thì có thể “quán thông long mạch, dĩ thừa sinh khí”. Long mạch lấy nước làm chủ, không có nước thì không phải là chân long, sông ngầm chảy bên trên long mạch nói không chừng còn có thể đâm xuyên núi mà chảy ra, cái này có thể gọi là dồn vào tử địa rồi sau đó tái sinh! Mặc dù vẫn thường hay nghe người ta nói: “Thà đi mười bước xa chứ không đi một bước hiểm”, nhưng đôi khi có những lúc bí quá hoá liều, nếu như không đem chính mạng sống của mình ra mà đánh cược thì chưa chắc đã thành công, trên tay chúng ta có đèn pha cùng súng săn, ba người cùng phối hợp hỗ trợ lẫn nhau thì có gì mà phải sợ cơ chứ?

Tôi đang định đem những lời này nói ra, sắc mặt Tiêm Quả bỗng nhiên thay đổi, nói khẽ với tôi cùng Tuyền béo: “Các anh nghe thử…” Hai thằng tôi ngẩn ra khó hiểu, muốn hỏi lại xem cô ấy bảo nghe cái gì? Còn không đợi thằng nào mở miệng, chỉ nghe được vách đá phía Tây truyền đến một trận tiếng vang, giống như là tiếng người, bất quá âm thanh lại rất nhỏ, căn bản không nghe rõ được đang nói cái gì. Ba người toàn thân nổi da gà, bật dậy thật nhanh, mặc dù không nghe nội dung của đối phương, nhưng cái âm thanh nghèn nghẹt tựa như tiếng cổ gà bị bóp này ngược lại rất quen thuộc, rõ ràng đó là tiếng của tên chuột đất vừa mới ngã chết không lâu!

Chúng tôi đã kiểm tra kỹ thi thể của hắn khắp một lượt, từ trên xuống dưới thịt xương sớm đều đã nát nhừ, lúc này làm sao còn có thể nói chuyện được? Tôi lập tức hướng chùm ánh sáng đèn pha quay sang chỗ khác, nhưng lạ cái là trên vách đá phía Tây lại không hề có bất cứ thứ gì cả, tôi lại xoay người về phía sau chiếu lên thi thể tên chuột đất, cái xác vẫn ở nguyên chỗ cũ không nhúc nhích, vết máu hãy còn chưa khô. Chính lúc này, chẳng hiểu sao ánh đèn chập chờn vài cái rồi tắt phụt! Tôi dùng sức đập đập mấy cái lên thân đèn nhưng cũng chẳng được tích sự gì. Ánh sáng của đèn bão thì lại quá yếu, căn bản là không thể chiếu tới được phía trước thi thể. Tuyêtn béo nói muốn quay lại xem thử như nào, tôi vội ngăn lại bảo rằng chớ nên hấp tấp vội vàng, cứ đợi tôi thay pin xong đã rồi hãy xem nên làm thế nào tiếp theo. Tuyền béo hỏi tôi: “Tên chuột đất vẫn chưa chết hẳn ư?”

Tôi đáp lại: “Hắn rơi từ trên cao xuống như thế, đến hộp sọ cũng lún cả vào lồng ngực, chết trăm phần trăm không thể bàn cãi, đổi lại thành cậu thì còn có thể lên tiếng không?”

Tuy ngoài miệng nói là như vậy nhưng trong lòng tôi cũng đang cảm thấy có gì đó hết sức kỳ quái, mới vừa rồi rõ ràng còn nghe được tên chuột đất mở miệng lên tiếng, nếu như chỉ có một người nghe được thì còn có thể bảo là nhầm, đằng này cả ba lại cùng nghe thấy, người chết sao lại có thể nói được? Tuyền béo moi từ trong balo ra mấy viên pin, tôi nhận lấy rồi cẩn thận lắp lại vào, bật đèn lên, một chùm ánh sáng tiếp tục chiếu thẳng theo hướng cái xác đang nằm trên đất. Mông hắn hướng lên trên, đế giày quay về phía chúng tôi, xương đùi gãy nát lòi cả ra ngoài, như này mà còn chưa có chết à? Tiêm Quả nhắc nhở chúng tôi tiếng vang là từ vách đá phía Tây phát ra, không phải là từ chỗ cái xác. Tôi đi một vòng xung quanh quan sát, bố cục của hang đá này khá vuông vắn, chính giữa chỉ có một cái gò đất lớn, khả năng được đắp lại từ đất ngũ sắc. Liêu mộ bố trí dọc theo trục Nam - Bắc, tên chuột đất rơi từ trên thạch đài xuống chỗ hang đá hướng chính Nam, chúng tôi thì đang ở phía Bắc bên dưới vách đá, mà theo như phương vị của âm thanh vừa rồi mới truyền đến, đúng thật là ở bên hướng Tây. Vị trí phát ra tiếng nói cùng với thi thể của tên chuột đất lại là hai hướng hoàn toàn khác nhau, vậy chẳng phải là có quỷ rồi sao?

Tuyền béo nói: “Các cậu đừng có xoắn xít hết cả lên như thế được hay không? Có lẽ chỉ là âm thanh vọng lại thôi, cái động quật này sâu như vậy, khi chúng ta nói chuyện gây ra tiếng vang là điều đương nhiên rồi.” Tôi thì lại không ý với ý kiến này của Tuyền béo, tiếng vang kiểu quái gì mà quá nửa ngày mới truyền tới tai chúng tôi? Tên chuột đất kia là truyền nhân của Quỷ môn Thiên Sư, theo như những gì mà tôi biết, Quỷ môn Thiên sư là một nhóm người bàng môn tà đào, chuyên lấy cớ hàng yêu bắt quỷ, vẽ bùa niệm chú để nguỵ trang cho việc trộm mồ quật mả của bọn chúng, hành tung lén lút, thủ đoạn khó lường người thường không thể nghĩ tới. Năm đó tổ phụ tôi đã từng gặp qua một tên, không ngờ rằng đến đời tôi bây giờ lũ người này vẫn còn tồn tại, tuy nói thấy miếu nhỏ chớ có coi thường, bất quá bọn chúng có thể lợi hại được đến mức nào? Đều là con người, đều ăn hoa màu ngũ cốc mà lớn lên, mỗi người đều có hai vai cắm thêm một cái đầu, cũng chẳng mọc thêm đâu ra được ba đầu sáu tay, từ trên cao hơn mười trượng rơi xuống không thể nào không chết, quả thật có phép cải tử hồi sinh thì còn cần quái gì phải đi trộm mộ đoạt bảo nữa? Nhưng mà nói đi cũng phải nói lại, nếu như tên chuột đất đã chết hẳn, vậy thì tiếng nói chuyện vừa rồi là ở đâu ra?

Thường thì người đã chết rồi thì không thể nào mở miệng nói chuyện được, có khi chúng tôi đã thật sự nghe lầm rồi cũng nên, nghe thấy tiếng vang do thứ gì đó gây ra rồi lại nhận nhầm thành tiếng nói chuyện của tên chuột đất. Thử nghĩ lại mà xem, có quỷ thật thì cũng có làm sao cơ chứ? Người sợ quỷ ba phần thì quỷ phải sợ người hết bảy phần còn lại, tên chuột đất kia lúc sống chúng tôi còn chẳng sợ nữa là bây giờ đã chết quay đơ ra đó rồi. Tuyền béo vội vội vàng vàng rút cây súng săn chế từ súng trường kiểu 22 ra, khua khua trước mặt tôi ra chiều thúc giục. Tôi đang định để cậu ta bồi thêm một phát súng vào cái xác kia cho chắc cú thì bất ngờ lại nghe thấy đằng sau vang lên một trận vang nữa, tiếng vang không lớn lắm, bất quá không gian trong động xung quanh đều là một mảnh tĩnh mịch nên rất dễ để nhận ra đó là tiếng nói chuyện của tên chuột đất Nhị Hổ. Tình hình lúc này thực sự là quá quỷ dị, rõ ràng cái xác vẫn nằm nguyên ở chỗ cũ trước mặt chúng tôi, nhưng tiếng nói thì lại phát ra từ phía đằng sau, hơn nữa lại còn ở bên trên vách đá, ba người chúng tôi vừa nghe thấy, da đầu liền tê rần rần, lông tóc dựng thẳng đứng! Vẫn như lần trước, chẳng ai có thể nghe rõ đối phương đang nói cái gì. Tôi nhanh chóng xoay người lại, đèn pha trong tay cũng tức khắc hướng lên trên, mơ hồ chiếu phải một khuôn mặt trắng bệch như tờ giấy trắng, cặp lông mày rậm rạp vắt ngang qua đôi mắt, khoé miệng rủ xuống, trên đầu máu thịt be bét nát vụn, nhe răng trợn mắt trông vô cùng hung dữ, trong miệng lầm bầm ken két, quả nhiên chính là tên chuột đất kia!

Tuyền béo tay cầm súng săn định nổ súng, nào ngờ từ trên vách đá bụi đất rơi xuống rào rào, hắn vừa giơ tay ra gạt bỏ đám bụi, vừa nâng súng lên ngắm lại lần nữa, bất quá khuôn mặt kia đã biến mất. Tôi quét vội đèn pha sang hai bên nhưng cũng chẳng phát hiện được gì trên vách đá, tất cả đều trống trơn. Ba người chúng tôi sợ đến mức tái mét mặt, lòng bàn tay ướt đẫm mồ hôi lạnh. Tuyền béo hỏi tôi: “Cậu có nghe ra hắn đang nói gì không?”

Tôi hỏi ngược lại: “Cậu nghe ra?”

Tuyền béo gật đầu một cái, nhưng rồi lại lắc lắc: “Có lẽ là nghe nhầm…”

Tôi trong lòng trầm xuống, gặng hỏi: “Cậu rốt cuộc nghe được cái gì?”

Tuyền béo khẽ ghé sát vào tai tôi: “Tên chuột đất kia hình như nhắc đến gì mà Tiêm Quả…”

Tôi hỏi thêm: “Cậu chắc chứ?” Tuyền béo cũng không dám khẳng định chắc chắn, người chết có thể nói chuyện, đã thế còn nhắc tới Tiêm Quả, điều này quả thật không thể tưởng tượng nổi, có khi nào tên chuột đất này trong người có oán khí chưa chịu siêu thoát, biến thành quỷ tìm người chịu tội thay? Tôi bảo cậu ta chớ nói nhảm, hắn ta thì có oán khí gì, một khi đã làm cái nghề trộm mộ này thì phải biết “chim chết vì mồi, người chết vì tiền”, huống chi Lục Quân cùng bao thanh niên tri thức kia đều là do hắn hại chết, đem ra tử hình mười lần còn chưa hết tội, oan với ức cái gì? Bất quá tôi mới vừa rồi cũng nghe được tên chuột đất kia giống như gọi tên Tiêm Quả, chẳng qua là thanh âm quá thấp, tôi cũng không rõ mình nghe nhầm không nữa.

Tôi không muốn khiến cho Tiêm Quả sợ hãi lo lắng cho nên vẫn chưa nói gì cho cô ấy biết, lại nghĩ một chút, thi thể của tên chuột đất trước giờ vẫn nằm nguyên đằng sau, tại sao lại đột nhiên xuất hiện ở trên vách đá? Mà quan trọng là nó lên bằng cách nào? Nghĩ tới đây, tôi liền xoay người lại, giơ đèn pha chiếu về phía trước, hừ, cái xác vẫn còn ở đây mà.
SPONSORED / ĐƯỢC TÀI TRỢ

Tuyền béo gãi gãi đầu, nói: “Thật là kỳ quái, tên chuột đất này biết sử dụng thuật phân thân à?” Trong đầu tôi chợt loé lên một suy nghĩ, ý thức được tính huống diễn ra trước mắt có gì đó không đúng, ở tại vị trí chúng tôi đang đứng chỉ có thể thấy được hai chân cùng bóng lưng của hắn, mà đèn pha khi chiếu lên vách đá chỉ hiện ra là một khuôn mặt, trong chuyện này hẳn có điều khác thường. Tôi vẫy vẫy tay với hai người kia, cả ba cùng tiến lên phía trước mấy bước tới gần cỗ thi thể, lúc này mới nhìn thấy đó là một cái xác không đầu. Chúng tôi lúc trước khi mới từ trên thạch đài leo xuống đều đã xem qua, tên chuột đất này rơi từ trên cao xuống đập người xuống đất, đầu lún vào trong lồng ngực, thế mà bây giờ chẳng thấy cái đầu đâu. Ba người mặt nghệt ra nhìn nhau, cái xác vẫn nằm im ở đây không đậy, vậy cái đầu làm thế nào mà lại bay mất? Hơn nữa lại còn biết nói chuyện? Tôi trong đầu nghĩ không phải là hắn vẫn chưa chết hẳn đấy chứ? Gà mất đầu vẫn có thể sống được hơn nửa ngày đấy thôi? Nhưng ngẫm lại, người và gà làm sao có thể giống nhau, người mất đầu không chỉ không đi lại được, mà đầu lìa khỏi cổ cũng không thể nào mở miệng ra mà nói chuyện, đây rõ ràng là tà môn!

Ba người chúng tôi ngây người mất một lúc, lại nghe sau lưng có tiếng người nói chuyện, giống như tiếng gà kêu bị bóp cổ, khó nghe vô cùng, hơn nữa lại ở rất gần, từng chữ một đứt quãng truyền đến trong tai: “Mắc… lừa… mắc… lừa…” Tôi vô cùng kinh hãi, thi thể vẫn nằm ở phía trước, nhưng đầu đã bay đến sau lưng chúng tôi, còn mở miệng nói cái gì mà mắc lừa! Không biết là đang nói tới người nào? Mới vừa rồi tôi nghe thấy hắn nói đến Tiêm Quả, lẽ nào là nói tới cô ấy? Tiêm Quả không biết đã trêu chọc phải ai? Tên chuột đất kia bỏ mạng ở đây hoàn toàn là do hắn tự mình gây ra thì tự phải chịu, không trách được ai, tại sao cứ nhằm tới Tiêm Quả?

Ba người lập tức quay người lại, nhưng trên vách đá vẫn không có gì hết. Tôi hỏi thử Tiêm Quả trước giờ cô ấy đã từng gặp qua tên chuột đất kia bao giờ chưa? Tuyền béo nghe thấy thế liền tức giận: “Con mẹ nhà cậu Nhất ạ, ngay cả chiến hữu cách mạng vào sinh ra tử của mình mà cậu cũng nghi ngờ được ư?”

Tôi vội vàng xua xua tay, nói: “Đương nhiên là tôi hoàn toàn tin tưởng Tiêm Quả không có nửa điểm hồ nghi, tôi chẳng qua là cảm thấy chuyện này rất là kì quái, hắn ta sao cứ gọi tên cô ấy?” Tiêm Quả cau mày cố nhớ lại, nhưng hoàn toàn chẳng nhớ ra người này là ai.

Tuyền béo ra vẻ hiểu biết, vuốt cằm rồi nói: “Ui giồi không có gì cần ngạc nhiên hết, nói không chừng là do mấy con dơi gây ra, đầu của tên chuột đất bị bọn nó tha đi, một con Tây một con bay lượn loạn xạ cho nên mới tạo ra loạt vang mà chúng ta vừa nghe thấy!”

Tôi hỏi: “Cậu thấy trong này có dơi ư?”

Tuyền béo đáp: “Không nhìn thấy cũng chưa chắc đã là không có, ở trong cái hang đá tối mò mò như này ai nhìn ra được cái gì?”

Tiêm Quả tò mò: “Có thể ngậm được cả cái đầu người bay lên, vậy loài dơi này phải lớn đến chừng nào cơ chứ?”

Tôi cũng cảm thấy hết sức là khó tin trước cái giả thuyết này của Tuyền béo, tuy tầm chiếu sáng của đèn pha không soi được hết toàn bộ hang đá, nhưng từ lúc vào đến giờ chúng tôi đâu có cảm nhận được sự tồn tại của con gì? Tuyền béo nói: “Cậu vẫn còn không tin à? Mấy người thợ săn trong thôn già trẻ lớn bé ai mà không biết ở bên trong rừng sâu có một loài gọi là dơi gỗ, bọn này thường hay treo ngược mình ở trên cây cao giống như ma quỷ chết treo vậy, đầu con nào con nấy cũng to như cái đấu, cậu dám cam đoan rằng trong hang đá này không có ư?”

Tôi nói với cậu ta: “Nếu đã là nơi có dơi sống thì nhất định phải có dạ minh sa, cậu nhìn thử xem chung quanh chỗ này có tí dạ minh sa nào không?”

Tuyền béo: “Dạ minh sa là cái gì? Liên quan quái gì ở đây?”

Tôi đành giải thích cho cậu ta hiểu: “Dạ minh sa chính là cứt dơi chứ là cái gì! Trong hang đá này tôi không phát hiện thấy có dạ minh sa, chứng tỏ rằng nơi này không hề có con dơi nào cả!”

Tuyền béo bực bội: “Nếu không có cái gì thì tại sao cái đầu kia lại bay được lên tận vách đá? Cha tiên sư nhà nó, ma quỷ muốn lộng hành cũng không đến nỗi ồn ào như thế chứ?”

Tôi trước kia từng nghe tổ phụ tôi kể qua về một hình thức mãi nghệ giang hồ, đó là có thể tự mình chặt đầu xuống, rồi tung lên trên trời, chỉ trong nháy mắt đã bay đi xa hơn trăm nghìn dặm, sau đó lại hồi phục về vị trí cũ. Bất quá đây chẳng qua chỉ là một loại ảo thuật giang hồ sử dụng mánh khoé để che mắt người xem, tôi không tin đầu người sau khi lìa khỏi cổ lại có thể nói chuyện như người bình thường, cũng không biết được rốt cuộc là do thứ gì đang tác oai tác quái, bên trong hang đá khá tối, mà phạm vi chiếu sáng của đèn pha lại không đủ, tình cảnh hiện giờ vô cùng nguy hiểm, phải sớm tìm cách thoát thân mới được. Tôi rút thanh quân đao nắm chặt trong tay, bảo Tuyền béo cùng Tiêm Quả theo sát bên cạnh, vừa đi vừa giơ đèn pha tiếp tục tìm kiếm cửa ra. Theo như những gì ghi lại trong “Lượng Kim Thước", mộ huyệt tuy là nơi dành để chôn người chết nhưng lại tuyệt đối kiêng kỵ nhất một chữ “Tử”, cho nên không thể nào bịt kín hoàn toàn, nhất định phải lưu lại một lối thoát gọi là sinh môn, hang đá này nằm ở bên dưới địa cung, thế đi gần như thẳng đứng, bốn bề là vách đá lồi lõm góc cạnh, tựa hồ giống như một cái huyệt thiên nhiên, khả năng cao chính là sinh môn nhưng bị đất đá lâu năm vùi lấp. Nhờ ánh sáng từ chiếc đèn pha, chúng tôi phát hiện ra chính giữa hang đá có một cái gò đất cũng gồ ghề không bằng phẳng. Tuyền béo liền lấy xẻng công binh ra đào xuống mấy đường, bên trong gò đất liền dần dần lộ ra một vật, chúng tôi liền chụm đầu lại cùng quan sát, nào ngờ vừa nhìn tất cả chúng tôi toàn thân phát lạnh: cái đầu của tên chuột đất!

Tuyền béo liên mồm kêu trời kêu đất sao hôm nay lại xúi quẩy thế này, một chân nhấc lên định sút văng cái đầu kia cho hả giận. Tôi bảo cậu ta chờ một chút, trong lòng nghi vấn đầu của tên chuột đất tại sao lại chạy được đến chỗ này? Ở dưới ánh đèn pha cẩn thận quan sát, vật đó đích xác là một cái đầu người chết da thịt đã dần khô héo, bên trên phủ đầy bụi đất bẩn thỉu, tuy nhiên lại không phải là đầu của tên chuột đất. Lại tiếp tục dùng xẻng đào xuống, nguyên một cái gò đất tầng tầng lớp lớp đầu người xếp chồng chất lên nhau, trên bốn vách đá lồi lõm mấp mô kia toàn bộ cũng đều là đầu lâu người, chẳng qua đã nhiều năm tháng trôi qua, nếu như không gạt bỏ đi lớp bụi đất thì tuyệt nhiên sẽ không nhìn ra. Ba người đang giật mình vì những gì mới phát hiện được, lại chợt nghe từ phía sau truyền đến một loạt tiếng răng nghiến vào nhau ken két. Chúng tôi lập tức quay đầu lại thật nhanh, đập vào mắt mọi người là khuôn mặt trắng bệch như giấy của tên chuột đất gần trong gang tấc, sắc mặt thập phần kỳ quái, hai con mắt trợn ngược lên, nhe răng rít lên mấy tiếng khó nghe: “Mắc lừa… Không có… Trái cây… Không có trái cây…” Lúc này chúng tôi mới xác định được rốt cuộc lời tên chuột đất nói là gì, trong miệng hắn nhắc đến hai từ: “Trái cây”!

Những lời này của hắn khiến tôi cũng đoán ra được vài phần sự tình, hắn tới nơi này trộm mộ hòng đoạt lấy thứ “trái cây”, nhưng trong tòa Liêu mộ này lại không hề có thứ hắn muốn, không chỉ tốn công uổng sức, đã thế còn xui tận mạng hụt chân rơi xuống mà chết. Đầu của tên chuột đất tựa như âm hồn bất tán, mang theo oán khí tự mình lẩm bẩm. Chúng tôi toàn thân lông mao dựng đứng, đầu lìa khỏi sao tại sao lại có thể bay đến chỗ khác rồi nói chuyện như người sống? Thật ứng với câu nói kia của Tuyền béo - Ma quỷ lộng hành cũng không quá đáng đến mức này chứ! Đèn pha nãy giờ vẫn chiếu thẳng vào mặt tên chuột đất, có thể thấy mặt hắn đã trắng bệch như tờ giấy trắng, ngũ quan vặn vẹo, trong ánh mắt còn mang theo biết bao căm hờn oán hận.
SPONSORED / ĐƯỢC TÀI TRỢ

Mặc dù cha mẹ tôi đều là quân nhân, nhưng dù sao từ bé tôi cũng đã cùng tổ phụ lớn lên, cho dù không muốn thừa nhận nhưng trong tiềm thức của tôi ít nhiều cũng có chút suy nghĩ mê tín, cho nên tên chuột đất này ở chỗ tổ sư gia học được loại yêu pháp nào đó, chỉ còn mỗi đầu mà vẫn có thể nói chuyện, tôi thì lại chẳng biết bắt quyết niệm chú tróc quỷ hàng yêu, làm sao có thể đối phó với loại yêu đạo như này? Tuyền béo vốn là kẻ phổi bò chỉ thích động tay động chân chứ không thích giảng đạo nghĩa, gặp Ngọc Hoàng đại đế còn dám lên tiếng cười đùa bỡn cợt, chẳng thèm để cái đầu vào trong mắt, không nói hai lời liền giơ súng săn lên nổ đoàng một phát. Cây súng săn này được cậu ta mang từ Hắc Thủy Giang tới, vốn là súng trường kiểu 22 nhưng đã được sửa đổi đôi chút, người dân vùng Đông Bắc hay gọi súng này là “đồng pháo”. Thợ săn cùng đám thổ phỉ trong núi cơ bản là không biết được tên gọi chuẩn của các loại súng, lâu ngày quen miệng chỉ gọi theo biệt hiệu, tỷ dụ như súng lục Mauser gọi là “súng hộp”, súng chim bắn phát một thì lại gọi “thổ pháo”. Súng trường sau được sửa lại thành súng sắn, sử dụng loại đạn làm bằng cho nên mới có tên “đồng pháo”. Đừng xem thường loại súng trường kiểu 22 này, đây là những khẩu súng được tuồn ra từ Bắc thời kỳ chiến tranh hai nước Trung-Xô hãy còn đang căng thẳng, rơi vào tay thợ săn liền trở nên lợi hại hơn cả mấy loại hỏa súng đời xưa. Vật này năm đó cậu Tứ đã phải dùng tận ba tấm da gấu thượng hạng mới đổi được từ tay Mã Hồ Tử, bình thường vốn không nỡ đem ra dùng. Trong rừng sâu núi thẳm có loài heo rừng da thô thịt dầy, súng chim căn bản là bắn không có chết nổi, ngược lại còn dễ khiến nó nổi giận quay lại tấn công, mà răng nanh của bọn này so với móng vuốt gấu còn ghê gớm hơn. Tuy nhiên chỉ cần thợ săn có trong tay khẩu pháo này liền có thể một người một ngựa trực tiếp đối phó với heo rừng, uy lực trên thực tế không kém gì súng trường. Tuyền béo một phát súng này bắn ra, “ầm” một tiếng chói tai kèm theo khói súng sặc sụa, vọng đi vọng lại suốt theo chiều dài hang đá. Cứ tưởng rằng phát súng đó không thể nào lệch được, không ai có thể ngờ rằng đầu của tên chuột đất đột nhiên nghiêng sang một bên, vừa vặn tránh thoát được phát súng này, hắn nghiến răng nghiến lợi, trợn trừng mắt nhằm vào Tuyền béo.

Tuyền béo thấy phát súng này không trúng đối phương, lại thấy nó hướng về phía mình nhào tới, còn không kịp lên cò lắp đạn, đành phải né sang bên cạnh né đi công kích, mới né được một nửa cậu ta bỗng ý thức được rằng Tiêm Quả hãy còn ở sau lưng mình, lúc ấy chẳng kịp suy nghĩ nhiều, vứt khẩu súng săn trên tay xuống, hai tay giang rộng ôm chặt lấy đầu tên chuột đất! Dân Bắc Kinh hay nói rằng mười bảy mười tám tuổi hãy còn là trẻ con, khí lực cơ thể còn chưa phát triển đầy đủ, tuy nhiên phải xem là nói ai, chứ cái tên Tuyền béo một lần có thể ăn hết hơn ba mươi cái bánh bột ngô này, hai cánh tay lúc này gồng lên cuồn cuộn cơ bắp, tuy rằng vẫn chưa đủ để “bẻ gãy sừng trâu” nhưng so với người bình thường thì lợi hại hơn không biết bao nhiêu lần, cùng đầu tên chuột đất song phương đọ sức. Khuôn mặt kia càng ngày càng hiện rõ vẻ tức giận, trong miệng vẫn không ngừng lải nhải, càng nói càng trở nên mơ hồ không rõ nghĩa. Đèn pha trong tay tôi xao động theo nhịp giằng co, chỉ thấy phía dưới cái đầu có vật gì đó đen thùi lụi, to bằng cánh tay người, có thể tạm coi là một cái cổ chỉ có điều cái cổ này lại quá dài, thấy đầu không thấy được đuôi, giống như một con quái vật đầu người thân rắn.

Tiêm Quả ở đằng sau thấy Tuyền béo chật vật mãi vẫn chưa thể khống chế được cái đầu kia, bèn tiến lên muốn hỗ trợ, cô nàng nào biết được đầu tên chuột đất lại có một cỗ quỷ lực quái dị, hai người cùng nhau hợp lực nhưng vẫn không tự chủ được bị kéo giật về phía trước, lảo đảo mấy cái suýt ngã. Tôi vội vàng vung lên thanh quân đao, hung hăng một đường bổ xuống, lưỡi đao chém thẳng vào chỗ nối giữa đầu tên chuột đất với cái cổ kia. Thứ “thịt cổ" kia bỗng nhiên co rút lại về phía sau, mà Tuyền béo và Tiêm Quả thì đang đem toàn lực tóm chặt lấy cái đầu kéo về phía trước, chỉ nghe thấy từ trong miệng tên chuột đất phát ra một tiếng kêu kinh dị, cái đầu lại bị hai người bọn họ từ phần “cổ" gắng sức giật xuống. Trên khuôn mặt của hắn vốn trắng bệch như giấy giờ đã loang lổ toàn máu là máu, hai mắt trợn trắng, lại không nhúc nhích. Dường như đồng thời ngay lúc ấy, phía đối diện truyền đến loạt tiếng động lạ khiến người ta vừa nghe liền thấy rùng mình, da đầu nhất thời tê dại. Tôi lia đèn pha chiếu về phía trước một cái, chỉ thấy phần “cổ" sau khi bị giật ra khỏi đầu có vô số xúc tu thịt chảy ra máu tươi đầm đìa, phía trên còn dính cả khối óc hồng hồng đang phập phồng co bóp. Dưới ánh sáng đèn pha, toàn bộ mọi thứ hiện lên rõ ràng trước mắt chúng tôi khiến cho ai nấy đều là sợ hết hồn hết vía, vô thức bước lùi về phía sau vài bước. Tuyền béo giơ tay lên đem cái đầu trống rỗng của tên chuột đất ném ra xa, cả kinh nói: “Con mẹ nó chứ đấy là thứ quái quỷ gì thế?”

Tôi cùng Tiêm Quả cũng đều giống như cậu ta: chưa từng thấy qua thứ này bao giờ, hình dáng của nó giống như quái xà, không đầu không vảy, nửa giống như con khúc thiện, nửa thì giống ninh câu, vậy khúc thiện, ninh câu là gì? Đó là một loài giun đất khá là hiếm gặp, còn ninh câu là chỉ một loại cá chạch có biệt tài đào đất bới bùn. Nhớ khi xưa thời điểm lúc còn lăn lộn ở nông trường số 17, chúng tôi từng nghe qua mấy người dân du mục Mông Cổ nói tới - đám người già trong tộc vẫn tương truyền rằng, trên thảo nguyên kia có một loại quái trùng trông giống như khúc thiện, chuyên ăn tuỷ và hút não người, loại trùng này sau khi ăn não người có thể khiến miệng người chết nói được, có lẽ giống với thứ chúng tôi đang thấy bây giờ.

Động quật phía dưới toà Liêu mộ đích xác là một cái hố tuẫn táng, thủ cấp người chết chất như núi đã hấp dẫn loài quái trùng trên thảo nguyên Mông Cổ này mò tới. Vật này thân xác không có vảy, ước chừng to hơn cánh tay người lớn một chút, dài ít nhất phải một trượng, mọc ra mấy chục cái xúc tu máu, có thể quét qua quét lại trên mặt đất. Tên chuột đất rơi từ trên thạch đài xuống đây, chết chưa được bao lâu, liền bị đám xúc tu phía trước của con quái trùng đưa vào trong đầu, dường như có thể tạo ra liên kết cùng với tuyến thần kinh nằm trên đại não, bảo trì trạng thái nửa sống nửa chết, thậm chí còn có thể mở miệng lên tiếng, nhưng lời nói ra chỉ vỏn vẹn là vài ý niệm cuối cùng vụt qua trong nháy mắt trước khi chết. Những lời ấy rốt cuộc là có ý nghĩa gì tôi cũng chưa biết, với tình huống lúc đó tôi hoàn toàn không có cách nào đi tìm hiểu vì thời gian không có nhiều, bất quá mới chỉ thoáng ngây người ra một chút, đám xúc tu ghê tởm của quái trùng đã vươn tới trước mặt tôi. Tôi hoàn toàn không có đường lui, đành phải giơ thanh quân đao chém loạn, nào ngờ lưỡi đạo bị những sợi xúc tu thịt kia quấn lấy, tôi có cố thế nào đi chẳng nữa cũng không giữ lại được. Tuyền béo liền nhân cơ hội này nhanh chóng nhặt lấy khẩu súng săn, nạp đạn lên cò, nhắm ngay quái trùng mà bắn. “Đoàng" một phát, viên đạn găm thẳng vào người nó rồi nổ tung, máu đen văng khắp nơi.

Con quái trùng trúng phải phát đạn này vội co rụt người về sau, buông bỏ thanh quân đao, nhưng cùng lúc đó trên vách đá truyền đến một đợt vang soàn soạt, đảo mắt đã không thấy tung tích đâu nữa. Tôi chiếu đèn pha về phía mới phát ra tiếng, nhưng vẫn chậm hơn con quái trùng nửa bước, chỉ trong nháy mắt nó đã bò vòng ra đằng sau ba người chúng tôi, xúc tu thịt vươn ra cuốn lấy Tiêm Quả. Tôi cùng Tuyền béo nghe thấy tiếng kêu của Tiêm Quả, vội vàng xoay người giương đèn soi thẳng vào con quái trùng, Tuyền béo lại nã thêm một phát súng nữa, con quái trùng liên tiếp ăn hai viên đạn vào người, người bị thủng ra hai cái lỗ lớn, tuy không giết chết được nhưng cũng đủ khiến nó nếm mùi chật vật, hất bỏ Tiêm Quả ra, chui loạn khắp trong hang đá. Xung quanh đây có không ít con quái trùng khác, một hơi bị nó làm cho kinh lục tục bò ra.

Chúng tôi trên người chỉ có duy nhất một chiếc đèn pha và một cây đèn bão, cùng lắm chỉ chiếu được ra xa mấy bước, cơ hồ giống như đi trong đêm đen không khác biệt là bao, hơn nữa bằng vào khẩu súng săn cũ rích từ những năm 20 này, qua hai phát đạn vừa rồi của Tuyền béo đủ để chúng tôi nhận ra rằng: hoả lực của loại súng này chẳng thể giết chết dù chỉ là một con quái trùng, một khi rơi vào vòng vây của chúng, ai cũng đừng nghĩ đến chuyện toàn mạng mà thoát ra. Ba người vừa nghĩ đến cảnh bị quái trùng cắm xúc tu vào trong đầu thôn phệ não bộ, toàn thân phát lạnh, da đầu tê dại như có hàng nghìn con kiến bỏ qua, lúc ấy trong đầu chỉ tồn tại duy nhất ý niệm - mau trốn ra ngoài! Chúng tôi không muốn ngồi đây chờ chết, đang định dùng xẻng công bình đào ra một cái hang để thoát thân thì đột nhiên, chùm ánh sáng đèn pha thoáng một cái, chiếu lên một khuôn mặt nhỏ nhắn lấm tấm vết ban thuỷ ngân, trát một lớp phấn hồng khá sinh đẹp, hai con ngươi thế nhưng đã lún vào trong hốc mắt, hai bím tóc buộc gọn vắt trên đầu vai, đầu cài một chiếc trâm bạc, toàn thân chùm trong một chiếc áo choàng loè loẹt sặc sỡ, cổ đeo một khối trường sinh bài, hai chiếc chân nhỏ đi đôi giày vải thêu, đoán chừng nhiều lắm mới chỉ chừng sáu hay bảy tuổi gì đấy. Khuôn mặt nhỏ nhắn hiện lên trước mắt tôi này, chính là thị nữ tuẫn táng bên người chủ mộ trong quách đá, tên chuột đất tiến vào địa cung trộm mộ, bao nhiêu kỳ trân dị bảo như vậy không lấy, lại đem cái xác khô này bỏ vào trong túi vác ra ngoài, sau đó hắn rơi từ trên thạch đài xuống cái hang này chết tươi, lúc chúng tôi đi xuống vẫn thấy xác của thị nữ kia còn nằm ở trên thạch đài, cũng chẳng có ai thừa hơi mang xuống, bây giờ tại sao lại xuất hiện ở chỗ này?

Tôi lấy làm kinh hãi, lại đem đèn pha chiếu thử lại thì đã không thấy thị nữ tuẫn táng đó đâu nữa. Chuyện xảy ra bất thình lình như vậy, so với việc vừa rồi đầu tên chuột đất mở miệng ra nói chuyện còn kinh khủng hơn! Phong tục chôn theo người sống làm vật tuẫn táng đã được các vương triều phong kiến thực hiện suốt mấy nghìn năm lịch sử, có cái gọi là “sát tuẫn”, là đem người sống giết sạch toàn bộ sau đó chôn xác chết vào trong mộ huyệt; còn bình thường hay nhắc tới “hoạt tuẫn”, thì chính là chôn sống. Người xưa thường hay mê tín, tin rằng sau khi chết đi muốn thăng thiên phải có nam nữ đi trước mở đường, vì vậy bên người chủ mộ thường có nam nữ làm bạn, để giữ cho thi thể nghìn năm không bị hủ bại, phần lớn sử dụng cách “sát tuẫn”, móc sạch tim gan nội tạng rồi đổ vào đó chu sa hoặc thuỷ ngân. Thị nữ tuẫn táng bên người vị Thái Hậu kia chết ít nhất cũng vài trăm năm rồi, bị để trong túi da hươu vứt ở chỗ thạch đài, không có thứ gì di chuyển nó thì làm sao có thể đột nhiên xuất hiện trước mặt chúng tôi? Tôi bị nó doạ cho thất thần, bất qua Tuyền béo cùng Trăn Tử ở bên cạnh lại không thấy gì hết, Tuyền béo vỗ vỗ vai tôi hỏi: “Cậu thấy quỷ à mà sao mặt nghệt ra như thằng ngu thế? Còn không nhanh chóng thoát khỏi đây!” Tôi bị cậu ta gọi bất ngờ, lúc ấy mới hoàn hồn, lần nữa giơ đèn pin chiếu về phía trước, muốn nhìn xem cái xác thị nữ kia chạy đi nơi nào, chẳng lẽ thật sự thấy quỷ?

Ánh đèn hướng về chỗ thị nữ kia vừa mới xuất hiện, chỉ thấy trên vách đá hiện ra một lỗ thủng lớn, thì ra cái động tuẫn táng này vốn đã bị nứt toác ra từ lâu, trong các kẽ nứt nhét đầy đầu lâu người chết, mặc dù có quái trùng qua lại nhưng bùn đất lại quá dày nên căn bản là rất khó phát hiện, cho đến tận bây giờ lũ quái trùng bị kinh động chạy loạn khắp nơi, từ trong miệng mũi đống đầu lâu rối rít rơi xuống, chúng tôi phát giác nơi này có thể đi ra ngoài. Lúc ấy không kịp suy nghĩ nhiều, ba người xốc lại balo cùng tinh thần, gỡ bỏ đống đầu lâu, lăn một vòng bò vào trong chui ra ngoài. Kẽ hở bên trong vách đá này rất sâu, chúng tôi vừa bò được một chút, sau lưng đống đầu lâu đã đổ sụp xuống, lảo đảo bò về phía trước một hồi, thẳng đến khi vượt qua đoạn nham thạch chật chội, phía trước liền thông suốt trống trải, chúng tôi đi xung quanh nhìn một cái, thấy mình đang đứng ở đoạn địa cung sụp đổ, nứt ra phía dưới Hắc Sơn Đầu, vách đá cheo leo phía trên tầng tầng lớp lớp giống như những đợt sóng biển. Tôi phóng tầm mắt trông xuống phía dưới, chỉ thấy mây mù lượn quanh, vô cùng âm u tĩnh mịch, chùm ánh sáng của đèn pha xa xa không chiếu tới được, mà ở chỗ sâu như ẩn như hiện tựa hồ có ánh sáng!

Ba người vẫn chưa kịp hoàn hồn trước những biến cố vừa rồi, giơ vũ khí quay đầu cẩn thận nhìn quanh, cho đến khi chắc chắn rằng từ trong vách đá không có con quái trùng nào bò ra, lúc này mới dám buông lỏng tinh thần thở ra một hơi lớn. Tuyền béo luôn dương dương tự đắc mình là người không sợ trời cũng chẳng sợ đất, nhưng cậu ta lại rất sợ độ cao, thậm chí không dám nhìn xuống dưới, luôn miệng hỏi tôi bên dưới đi như nào, tại sao chỗ kia lại có ánh sáng phát ra? Tiêm Quả nói không nghĩ tới phía dưới ngọn núi lại có một khe nứt lớn như thế này, nhưng mà lại bị tầng sương mù trắng xoá ngăn trở nên nhìn không ra thứ gì đang phát sáng. Tôi bịt tai lại không nghe hai người họ nói chuyện nữa, tập trung suy nghĩ đến thị nữ tuẫn táng vừa mới thấy, càng nghĩ càng cảm thấy rợn tóc gáy, nếu như không phát hiện ra thị nữ kia thì hẳn tôi sẽ không chú ý đến vết nứt trên vách đá, đồng nghĩa với việc chúng tôi không thể nào tìm được đường ra. Nhưng nếu không phải là có quỷ thì tại sao thoáng một cái đã không thấy cái xác đâu nữa? Chẳng lẽ là để chỉ đường cho chúng tôi? Tên chuột đất tại sao lại mang theo cái xác ra ngoài? Còn cả câu nói kia mà hắn một mực nhắc tới là có ý gì? Hắn muốn nói tới người nào? “Trái cây” là cái quỷ gì chứ? Tôi nghĩ tới nghĩ lui, đầu óc trực như muốn nổ tung, giờ có hai cái đầu cũng chưa chắc đã nghĩ thông được, quay đầu hỏi Tuyền béo: “Lúc ở trong hang cậu có thấy cái xác đồng nữ nào không?”

Tuyền béo nói: “Tôi đã bảo cậu gặp quỷ cậu còn không tin, hay là đầu va vào đó chập chập cheng cheng rồi? Cái xác đồng nữ đấy vẫn vứt ở trên thạch đài, sao mà ở trong hang lại thấy được?”

Tôi không trả lời, nghĩ thầm: Cùng lắm thì khi nào thoát ra được khỏi đây đốt thêm nhiều vàng mã tí, chớ nên dây dưa tới cô hồn dã quỷ.

Ba người cùng ngồi xuống thảo luận một chút, lập tức nhận ra một số trở ngại trước mắt. Thứ nhất là vẫn bị kẹt cứng ở đây không ra được, hai là có đồ ăn nhưng lại không có nước, trong balo mỗi người đều nhét đầy lương khô làm từ bã đậu, đủ ăn hai ba ngày nữa, nhưng khổ nỗi cái thứ lương khô này vừa khô vừa cứng, muốn cho gia súc ăn thì cũng phải đập vụn ra trước, chúng tôi mặc dù cả ngày nay chưa có thứ gì bỏ vào bụng, nhưng lúc ở trong mộ thất đã ăn đầy một miệng đất cát, miệng khô môi rách, mở miệng ra nói khéo còn khè được ra cả lửa, lương khô bã đậu kia quả thực nuốt không trôi, càng bị giữ chân ở đây lâu đối với chúng tôi càng bất lợi, phải mau chóng lựa chọn được một phương án hành động hợp lý. Nếu như Trăn Tử chạy được ra khỏi cổ mộ, về tới thôn gọi được người đến cứu chúng tôi, chưa nói tới việc họ có thể đào ra được tầng lưu sa ở trong mộ kia không, chỉ tính riêng thời gian đi lại một chuyến này ít cũng phải mất hơn bốn năm ngày, chúng tôi bị bao vây ở trong khe nứt này, có chắp thêm cánh sau lưng cũng không thể bay ra được, xem ra phương án chờ người tới cứu viện là không khả thi, thấy phía dưới kia có ánh sáng, có lẽ có thể tìm được một con đường sống. Liền lập tức đứng lên hành động, bám vào vách đá dựng đứng, cẩn thận leo xuống một cách từ từ.

Không biết từ mấy nghìn mấy vạn năm trước, Hắc Sơn Đầu tách ra rồi lại lần nữa khép lại, tạo thành một khe hở vô cùng to lớn. Có một số chỗ vách đá quá dốc, mọi người đành phải thả dây thừng đu xuống. Qua hơn hai giờ đồng hồ vẫn chưa thể xuống được tới đáy, bất quá rốt cuộc cũng đã tới gần được quầng sáng kia, tầng nứt gãy ở giữa bị bao bọc bởi sương mù dày đặc, cách nhau hơn trăm bước vẫn không thể thấy rõ nguồn sáng kia, chỉ thấy rất lớn mà thôi. Từ nơi chúng tôi đang đứng nhìn lại, ẩn trong vách đá đen mịt mờ tựa hồ không tìm thấy thứ gì. Ba người thấy có nước suối từ trên vách đá chảy xuống, không nói nhiều liền uống no một bụng nước suối, lại đem bi đông quân dụng rót đầy nước vào. Tuyền béo từ trên cao leo xuống, hai chân sớm đã nhũn ra, lại chẳng thể ba hoa bốc phét được nữa, không thể làm gì khác hơn đành ngồi xuống trước đã, hỏi tôi cùng Tiêm Quả: “Các cậu có thấy cái gì không, tại sao từ trong khe nứt này lại có thể có ánh sáng? Đèn điện à?”

Tôi đối với suy đoán của cậu ta tỏ ra khinh thường, tuy nói “lầu trên lầu dưới, đèn điện điện thoại, cày ruộng không cần trâu, đốt đèn không cần dầu”, đây là mục tiêu phấn đấu của đất nước từ trước tới nay, nhưng dẫu sao cũng phải từng bước từng bước thực hiện, hôm nay đến nửa bước còn chưa bước ra được, tới Đại Hưng An Lĩnh lâu như vậy rồi cho tới bây giờ tôi vẫn còn chưa thấy qua đèn điện, chúng tôi đi tham gia sản xuất ở thôn làng, có một cái đèn pin cầm tay cũng không nỡ mang ra dùng, bình thường vẫn chỉ sử dụng đèn dầu, ở cái nơi rừng sâu núi thẳm khỉ ho cò gáy như này, bới đâu ra đèn với chẳng điện? Nếu như là huỳnh quang từ trong lòng đất thì cũng không sáng đến như vậy. Ba người đều cảm thấy mảnh ánh sáng kia rất quỷ dị, nhưng chẳng đoán ra được là thứ gì, không kiềm chế được lòng hiếu kỳ, lại leo xuống phía dưới một đoạn, rốt cuộc cũng chạm được tới đáy, chỉ thấy đại thụ cao chọc trời, sương khói mờ ảo, quả là một mảnh rừng khiến người ta phải sợ hãi. Ai mà chẳng biết “Mưa móc giúp cho mầm mạnh khoẻ, vạn vật sinh trưởng nhờ ánh dương”, cái khe hở này quanh năm không thấy mặt trời, vì sao lại có một mảnh rừng rậm?

***

Mời các bạn đón đọc chương tiếp theo “Thiết Bị Chiếu Sáng” đăng tại page Hội những người nghiện truyện của Thiên Hạ Bá Xướng
 

Lười Biếng Vô Tận

Thanh Phong 37
Tham gia
5/4/19
Bài viết
21
Điểm cảm xúc
67
Điểm
13
Dịch: Đặng Nam

Ba người đầu óc mơ hồ, hoàn toàn không lý giải được những thứ đang thấy trước mắt, đành ỷ vào lá gan lớn mà tiến về phía trước một hồi. Chẳng mấy chốc từ xa xa thấp thoáng hiện ra những nóc nhà, phòng ốc ngay ngắn vuông vức, chẳng ai ngờ được đó thế mà lại là một thôn làng sáng như ban ngày, cho dù có đốt trăm ngọn đèn dầu cũng không sáng bằng. Tôi trong đầu thầm nghĩ: Thật có một nơi xa xỉ dùng toàn đèn điện như này sao? Tuyền béo lúc trước chỉ là thuận miệng nói như vậy, không nghĩ tới cậu ta đoán bừa mà lại thành thật! Nếu như không phải sử dụng đèn điện thì làm sao cả thôn lại sáng được như thế?

Ba người núp ở phía xa quan sát cả nửa ngày, từ đầu đến cuối vẫn không thấy bóng dáng một ai, lại đến gần hơn một chút, liền thấy nhà nào nhà nấy đều bị rêu xanh bám đầy, lá mục cùng bùn đất bao phủ, chỉ có thể nhận ra đường nét đại khái, cũng không biết ánh sáng là từ đâu chiếu tới. Đối mặt với thôn dã nằm sâu trong lòng núi này, chúng tôi cũng chỉ có thể vô căn cứ mà suy đoán, có lẽ nơi đây giống như thế ngoại đoàn nguyên (Trans: Thế ngoại đào nguyên là nơi biệt lập với thế giới bên ngoài, nơi không có tranh đua, ganh ghét, chỉ có thiên nhiên và những con người hiếu khách), từ rất nhiều năm trước vì để tránh bị cuốn vào vòng xoáy của chiến tranh loạn lạc nên toàn bộ người dân đã rời thôn vào trong khe nứt trên Hắc Sơn Đầu ẩn cư, sau này mọi người đều chết hết nên mới biến thành bộ dạng như ngày nay. Bất quá các thôn dân từ đầu vốn đi vào từ khe nứt phía trên nhưng tại sao lại sống ở dưới này? Lại thử giả định một chút, cứ cho là họ đúng là sống ở trên kia thật, sau đó vì một biến cố gì đó khiến cho đất đá sụp đổ, thôn xóm cùng rừng rậm xung quanh toàn bộ rơi xuống nơi này, người thì chết hết trong khi đó cây cối vì sao vẫn còn sinh trưởng được bình thường như chúng tôi đang thấy? Rốt cuộc nguồn sáng kia là từ thứ gì mà ra?

Nguồn sáng to lớn ấy hiện trên đỉnh đầu, hình dáng giống một cột sáng, đoàn người chúng tôi tiến thân vào trong sương mù, hoàn toàn không nhìn ra đến tột cùng nguồn sáng đó là thứ gì. Tôi không dám lơ là, đem xẻng công binh trong tay đưa cho Tiêm Quả giữ phòng thân. Ba người đi vào trong thôn, thấy ở đầu thôn có bố trí mấy cái chòi canh gác dùng để phòng vệ, cả thôn kích thước không lớn lắm, ước chừng chỉ có mấy chục gian nhà, tám chín phần hầu như là được giữ gìn hoàn hảo. Trong đó đáng chú ý nhất là một gian nhà nằm ở chính giữa thôn, so với các gian nhà khác khéo phải lớn hơn gấp đôi. Tôi đánh mắt ra hiệu với Tuyền béo, ý bảo cậu ta cùng đi vào nhìn thử một chút!

Hai người lấy xẻng cạo bỏ lớp đất bùn bám trên cánh cửa, liền thấy cửa gỗ có dán một bức tranh Môn Thần, màu mực đã sớm bong đi hết, gian nhà này cũng không phải được xây hoàn toàn bằng gạch, mà là tường đất trộn bùn, xây thêm chút tường đá gia cố bên ngoài, trên nóc nhà dựng bằng một tầng gỗ tròn, lại lấy cỏ tranh rải lên, không khác là bao so với những ngôi nhà khác trên núi. Trên cánh cửa có một khoen sắt hình tròn, tôi tiến lên định đẩy ra nhưng thử mấy lần đều không được, có thể là cửa đã bị cài chốt khoá từ bên trong. Tuyền béo khệ nệ bê đến một tảng đá lớn, dùng sức ném một cái thật mạnh, đập vỡ cánh cửa. Tuy trong thôn khắp nơi đều có ánh sáng nhưng trong phòng lại là một mảnh tối đen, Tiêm Quả tay cầm đèn pha chiếu vào, chỉ thấy bụi đất cùng mạng nhện giăng đầy khắp nơi.

Đợi cho mùi xú uế bị phong bế lâu ngày bên trong tan hết, ba người lần lượt chui vào, chỉ thấy ở phòng ngoài có một cái bàn thờ, nằm ngổn ngang một góc, trên vách tường treo một bức hoạ, trong đó vẽ cảnh khôi đại tiên đang cưỡi trên lưng một cóc, đầu đội mũ chân đi giày, trong miệng ngậm một cái tẩu thuốc, tay bưng kim nguyên bảo, áo quần loè loẹt xanh xanh đỏ đỏ, hình tượng hết sức quỷ dị. Phía dưới bức hoạ là bài vị tổ tiên, trong góc nhà bày từng tầng từng hàng rất nhiều quan tài, kích thước khác nhau, nhưng chung quy tất cả đều không thể nói là to lắm, cái nhỏ thì chưa bằng một cái ngón tay, còn cái lớn nhất thì cũng chỉ cỡ cỡ hộp đựng giày, nhưng lại giống hệt quan tài vẫn hay bán trong tiệm, dưới đáy cũng được vẽ phúc tự liên hoa bằng chu sa, mấy bộ xương trắng nằm la liệt trên đất. Tuyền béo nói: “Thờ cái gì không thờ, lại đi thờ một con chuột nhắt? Đem nó tôn lên làm tổ tiên gia?”

Tôi cũng cảm thấy kỳ quái, dân gian xưa nay vẫn có tập tục thờ cúng cung phụng ngũ đại tiên gia, lần lượt là: “hồ, hoàng, bạch, liễu, khôi” (Trans: Hồ tiên là hồ ly, hoàng tiên là chồn vàng, bạch tiên là nhím, liễu tiên là rắn và khôi tiên là chuột), đây là loại sắp xếp dựa theo màu sắc. Ngoài ra còn có địa bát tiên, so với ngũ đại tiên gia thì nhiều hơn ba vị, trong đó cũng có chuột. Bởi vì loài chuột biết bơi cho nên trong thuỷ bát tiên cũng có nó nốt. Nhưng bất luận sắp xếp thế nào thì nó đều đứng hàng cuối cùng, dân gian vẫn thường hay thờ khôi tiên gia cũng không có gì là lạ, nhưng đặt cùng bài vị tổ tiên thì tôi chưa thấy qua bao giờ. Tôi đứng trước bức hoạ khôi đại tiên ngắm một hồi lâu, chợt bừng tỉnh nhận ra - đây là những người đi đào vàng!

Năm đó trong khe núi có rất nhiều người tham gia đãi cát đào vàng, đều là những kẻ lưu manh côn đồ có tiếng, nghèo mạt hạng đến nỗi trên đầu không có mái che, dưới chân không có đất dẫm, đến khi chết chỉ “đóng” được cái quan tài da chó, vậy cái gì gọi là “quan tài da chó"? Chính là ném xác lên núi cho chó hoang cắn xé, nằm trong bụng chó, há chẳng phải là quan tài bằng da chó sao? Nghe người già nói trong núi có mạch vàng, liền túm năm tụm ba thành một nhóm tiến vào núi, khiêng đào cào cuốc hùng hục bửa cả máu, cuối cùng nhiều lắm cũng chỉ kiếm được vài miếng vàng vụn bé xíu, phát tài hay không tạm chưa nói đến, cứ ba ngày hai bữa lại xảy ra án mạng vì vài mẩu vàng mà tàn sát nhau, thế là có người liền đề xuất không bằng mọi người tập hợp lại với nhau, dần dà lâu ngày hình thành nên Kim Bang, ỷ vào người đông thế mạnh cho nổ tung triền núi đào ra mạch vàng. Nhất là cho tới những năm cuối thời nhà Thanh, đám người này quy mô dần dần bành trướng, gì mà giang hồ đạo sĩ, thổ phỉ hồ tử, phạm nhân lưu đày, thậm chí còn có cả mấy tên da trắng Liên Xô, nói chung loại người gì cũng có, phần lớn là đám ô hợp, tên cầm đầu tự xưng là kim đầu. Chỉ có những kẻ đó ở trong nhà mới cung phụng hương khói khôi đại tiên, bởi vì khôi đại tiên giỏi đào hang, leo xà nhà, chui hầm, lội nước, chính là những thủ đoạn cần thiết đối với đám kim phỉ này. Hơn nữa theo như truyền thuyết dân gian kể lại, khôi đại tiên có thể biết trước tương lai, giúp người giàu sang, liền đem khôi đại tiên tôn làm thần tài gia, từ đó về sau người dân vùng Đông Bắc mới bắt đầu có tập tục thờ cúng như này. Dưới bức hoạ chân dung khôi đại tiên bày một loạt tổ tiên bài vị, đã nói rõ rằng những người đào vàng này là họ hàng đồng tông đồng tộc. Có thể đoán được, bọn họ ở trong núi tìm được mạch vàng, bởi vì quá tham lam nên đã cày nát cả ngọn núi, khoét rỗng lòng đất, không hề nghĩ tới bên dưới có một khe nứt sâu không thấy đáy, khiến cho cả toàn thôn sụp xuống, thôn dân cũng đều chết hết.

Ba người chúng tôi lại tiến vào phía trong, bên trong chia làm ba phòng nhỏ, hai bên là sương phòng, gian chính giữa đặt một cái giường đất, trên tường dán tranh Tết, cửa phòng phía Đông bị khoá lại, Tuyền béo một cước đá văng cánh cửa, chỉ thấy trong phòng cũng có một cái giường. Trên giường đất đặt một cỗ tử thi quần đỏ áo đỏ từ đầu tới chân, da thịt khô héo, tóc mọc dài che kín cả mặt, bất quá vẫn có thể nhận ra đây là một cô gái, dùng một sợi dây bền chắc trói ngược lại ra sau. Tôi không dám để cho Tiêm Quả nhìn thấy cảnh này, liền khép lại cửa, đi sang sương phòng phía Tây không khoá nhìn một cái, liền thấy phía dưới gầm giường có hai cái túi da đặt trong rương sắt lớn, một túi bên trong đựng mười mấy khối vàng tổ ong (Trans: Nguyên văn là “cẩu đầu kim”, nhưng mình search thử thì ra hình mấy cục vàng có lỗ như tổ ong nên tạm gọi như thế, các bạn có thể search 狗头金 để dễ hình dung), túi còn lại thì chứa toàn súng, có dài có ngắn, trừ súng của Liên Xô chế tạo còn có cả súng trường được tuồn ra từ kho quân dụng thời kỳ Đông Bắc vẫn bị quân Nhật chiếm lĩnh, bất quá phần lớn đều đã hoen gỉ mốc meo, cò súng kẹt cứng không bóp được nữa. Nằm trong rương còn có mấy khẩu súng lục cùng băng đạn lắp sẵn được bọc trong vải dầu, vuốt thử vẫn thấy lớp dầu bóng nhẫy, không khác gì súng mới, đây chính là khẩu Browning M1900, hay thường được gọi là “súng lục thương bài”, có nơi còn gọi thất liên tử hoặc thất âm tử, một băng bắn được liên tục bảy phát đạn. Trong rương niêm phong đựng đầy đầu đạn súng lục vàng óng, ngoài ra còn có rất nhiều thuốc nổ dùng để phá núi.

Có câu “Bạch tửu hồng nhân diện, hoàng kim hắc nhân tâm", đám người đào vàng sợ nhất là gặp phải thổ phỉ cướp bóc, lại ẩn cư ở trong rừng sâu núi thẳm, thậm chí bản thân cũng có thể nói là “kim phỉ", lâu nay vẫn luôn dũng mãnh nhanh nhẹn, không chịu sự quản thúc của quan lại, trong thôn có cất giấu súng là điều đương nhiên. Hơn nữa nhìn đống vũ khí này cũng đủ hiểu đám kim phỉ này giàu có đến mức nào, những năm đầu thời kỳ ấy, một cây súng trường đổi được hai con ngựa, một viên đạn trị giá hơn tám quả trứng gà, dù cho có là địa chủ đại hộ thuê vài tay súng về bảo tiêu cũng không mua được nhiều súng như thế.

Tôi cùng Tuyền béo, Tiêm Quả, mỗi người tự chọn cho mình một khẩu súng lục để phòng thân. Tuy khẩu “đồng pháo” kia của Tuyền béo hơi một tí là lại tắc đạn nhưng uy lực không hề nhỏ, cậu ta không nỡ vứt bỏ nên vẫn dứt khoát đem khoác trên lưng, rồi mở balo ra nhét vào mấy bọc thuốc nổ cùng vài băng đạn súng lục, lại còn muốn vét nốt chỗ vàng tổ ong kia. Cậu ta lý sự rằng lúc trước vì mải đuổi theo tên chuột đất, chưa kịp móc lấy mấy cái nhẫn vàng ở trong quách đá, lần này mang mấy khối vàng về tặng cho cậu Tứ, cậu lại chẳng cười không ngậm được mồm cả ngày ý chứ! Tôi hù doạ cậu ta: “Những kẻ đào vàng này có ai là không tham lam? Giờ chúng ta cầm theo vàng của người chết đi, chỉ sợ không ra khỏi được nơi này!”

Tuyền béo thế nhưng đếch thèm quan tâm: “Vàng tổ ong này là từ trong núi sinh ra, dựa vào cái gì không để tôi mang đi? Lại nói người chết rồi hoá thành ma thành quỷ thì cần vàng làm cái gì? Đem đi biếu Diêm vương à?”

Tôi đáp: “Cậu mang theo một khối là đủ rồi, từng ấy cũng phải đánh ra được chục cái nhẫn vàng, khe nứt này rốt cuộc sâu đến nhường nào chúng ta còn chưa rõ, hung hiểm không ít, mang nhiều vác nặng sẽ càng gây ra nhiều phiền toái hơn!”

Tuyền béo nói: “Còn có gì mà nguy hiểm cơ chứ? Tên chuột đất kia chẳng phải đã chết rồi sao?”
Tôi nói: “Trước chưa nói đến những nguy hiểm khác, cái chúng ta cần quan tâm bây giờ là những thôn dân này chết như thế nào?”

Tuyền béo vẫn chưa rõ ý tôi: “Cả thôn rơi vào trong lòng đất, ngã từ trên cao chết hết chứ sao nữa, đâu còn sống được?”

Tiêm Quả nghe ra được ý tứ trong lời của tôi, nói: “Cả thôn cùng với nền đất bên dưới cơ hồ vẫn giữ nguyên dạng, đồ đạc trưng bày trong nhà cũng không bị đổ vỡ xê dịch, cho nên sau khi rơi xuống các thôn dân chưa chắc là đã chết.”

Tuyền béo nói: “Bọn họ bị vây khốn ở chỗ này… chết đói chết khát ư?”

Tôi đáp: “Hai người có thấy đống xương trắng ở phòng chính ngoài kia không? Nếu như nói sau khi chết da thịt đều bị rữa nát hết, vậy quần áo trên người biến đi đâu mất rồi? Nếu như nói không kiếm được đồ ăn thức uống, thôn dân tại sao lại đóng kín cửa, trốn ở trong phòng không đi ra ngoài? Từ cách bày biện cũng như chỗ súng ống đạn dược kia, khoảng thời gian nơi này bị vùi lấp sụp xuống đây chắc cũng chưa quá lâu, cùng lắm chỉ khoảng năm sáu chục năm trước, bức bích hoạ khôi đại tiên trong phòng mực vẽ còn chưa bay hết, quần áo trên người tử thi hãy còn chưa bạc màu.”

Đây mới chỉ là ý thứ nhất, còn ý thứ hai, ánh sáng trước thôn cũng thật là cổ quái, nơi này là rừng sau núi thẳm tuyệt không có lấy một dấu chân người, bên dưới khe nứt đào đâu ra điện? Việc chúng tôi phải làm bây giờ là thu thập những gì hữu dụng rồi mau chóng rời khỏi nơi đây càng sớm càng tốt. Bất quá những thôn dân thờ phụng khôi đại tiên này, quanh năm suốt tháng ở trong núi đào đất tìm vàng, sau khi bị rơi xuống dưới này đều không thoát ra được, liệu chúng tôi nắm chắc được mấy phần hay kết cục rồi cũng như họ? Tôi bảo Tuyền béo cùng Tiêm Quả trước cứ ở lại chỗ này, vào trong gian chính nhìn một chút xem có đồ gì dùng được hay không, còn tôi thì một mình đi sang mấy nhà bên cạnh quan sát, nhà nào nhà nấy đều cửa đóng then cài như nhau, trong nhà đều là xương trắng, có thể thấy rằng thôn dân sau khi rơi xuống khe nứt cũng không có ngã chết, nhưng vì để trốn tránh điều gì đó cho nên toàn bộ cửa nẻo đều bị đóng chặt. Tường đất các thứ về cơ bản khá là chắc chắn, chỉ có nóc nhà là được lợp từ cỏ tranh, có thứ gì muốn chui vào trong nhà thì chắc chắn đều là từ trên đó đi xuống, thôn dân là bị những thứ đó ăn thịt!

Vốn từ đầu cứ tưởng ánh sáng là từ trong thôn phát ra, bây giờ mới phát hiện ra cái thôn này căn bản là chẳng có tí điện nào, mấy thập niên trước xảy ra biến cố mà sụp xuống khe nứt trong núi, lúc ấy đèn dầu vẫn là thông dụng nhất. Nơi này thế đi quanh co rối rắm, hai bên là vách đá thẳng tắp, chính giữa lúc rộng lúc hẹp, đất đá từ trên cao rơi xuống dần dần chất thành đống, có nơi cao vống lên, lại có nơi thấp hẳn xuống, mây mù tràn ngập, không biết thứ gì đang phát sáng. Đương lúc tôi vừa bước ra, ánh sáng từ trong rừng sâu đột nhiên biến mất, tôi chột dạ cảm giác có chuyện không ổn, lo lắng hai người kia gặp phải chuyện gì nguy hiểm, vội vã trở lại gian nhà lớn nhất trong thôn. Tuyền béo tìm được một cái chum lớn bên cạnh giường đất, bên trên có nắp đậy, còn dùng một khối đá lớn đè lên, mở ra nhìn một cái, trong chum có mấy chục bình đựng sáp thắp đèn dầu được bịt kín, bên trong là kình ngư cao chất lượng thượng đẳng, cái gọi là “kình ngư cao” chính là dùng mỡ cá voi chế biến thành, có thể đốt được rất lâu, lại không cay mắt, nhưng giá cả đặc biệt đắt đỏ, là thứ hàng có được từ thương nhân người Nhật Bản thời Mãn Châu, ở nơi rừng sâu núi thẳm như này chỉ có đám kim phỉ mới có khả năng dùng nổi. Tiêm Quả thì từ trong rương tìm được mấy quyển sách cũ nát, phần lớn đều bị ẩm ướt, lật mãi chẳng được trang nào, những quyển mở được bên trong ghi chép lại số vàng cả thôn đào được, số súng ống đã sắm, thậm chí còn ghi lại cả số người đã mua về làm nô lệ, gần như thành một cái phả hệ, bên trên ghi tên của chủ hộ.

Tôi hỏi Tiêm Quả: “Có tìm ra tấm bản đồ nào không?” Tiêm Quả lắc đầu bảo chưa thấy, những kẻ đào vàng này đối với vị trí của mạch vàng còn coi trọng hơn cả tính mạng của mình, tuyệt sẽ không lưu lại bất kỳ đầu mối nào. Chúng tôi lấy một ít kình ngư cao ra để thắp đèn dầu, mượn ánh sáng soi từng trang sách một nhưng đa số toàn là sổ sách kế toán với lại gia phả, chẳng có ích gì, bất quá cuối cùng cũng mở trúng một quyển nội dung ghi lại toàn bộ đại sự đã phát sinh trong thôn, mọi người cùng chăm chú đọc.

Thì ra năm đó có một tên kim phỉ vào trong núi đào huyệt để chôn ngựa, bất ngờ tìm được mạch vàng, liền lập tức trở về đem tất cả họ hàng chuyển đến nơi này, năm này qua năm khác đào vàng bên dưới thôn, hang đất càng khoét càng sâu, vàng càng đào càng nhiều, chẳng mấy chốc mà đã phát tài, giàu nứt đố đổ vách. Một lần nọ, thủ lĩnh đám kim phỉ này bỗng thấy ở sâu trong hang có bạch quang loé lên, bên cạnh người lại có một tên anh rể rất hay giở trò vuốt mông ngựa, nói cho hắn biết đây chính là điềm lành đại cát đại phúc, thứ đồ vật phát sáng kia có khả năng là “Kim vương thi y" trong truyền thuyết. Từ lâu đã có truyền thuyết kể lại rằng, trong chốn hoang sơn dã lĩnh vùng Đông Bắc xuất hiện một vị “Kim vương", thiên phú dị bẩm, có sở trường xem thế núi tìm mạch vàng, nơi nào có vàng đều không thoát khỏi ánh mắt của hắn, thật có thể nói là phú gia địch quốc, vì sau khi chết muốn được vũ hoá phi thăng, dùng toàn bộ kỳ trân dị bảo trong thiên hạ chế tạo thành một món bảo y làm áo liệm, đồng thời ra lệnh cho hậu nhân đem mình chôn ở trên mạch vàng. Tương truyền nếu như có thể đoạt được kiện bảo y này, không chỉ bảo đảm một đời vinh hoa phú quý, mà còn có thể chia đất phân cương, trở thành một phương nhân chủ đế vương. Thủ lĩnh kim phỉ tin là thật, để cho thủ hạ tiếp tục đào xuống sâu hơn hòng đoạt lấy kim vương thi y, từ đó đổi tên thành Cô Đạo Quả, tự phong là Thảo Đầu Thiên tử, còn phong cho vợ hắn làm Hoàng hậu nương nương, tên anh rể biết coi bói được làm Quốc sư, hai trưởng lão trong tộc lần lượt trở thành Tả hữu thừa tướng, những người giữ sổ sách là quan văn, giám công là võ tướng. Như người vẫn nói: không có quy củ không thành đất nước, thủ lĩnh kim phỉ sau khi xưng vương, đem tộc quy lập ra phải càng sâm nghiêm hơn trước, nếu như có người dám cất giấu vàng làm của riêng, hoặc là nói cho người ngoài biết thông tin về vị trí của mạch vàng, không chỉ bắt nuốt than nóng để cho kẻ đó từ nay về sau không thể nói gì được nữa, mà còn chặt đứt hai chân sau, trên người khoét ra vô số vết rạch, lột da rồi nhân lúc máu còn chưa khô bọc lên một tấm da sói, nhốt ở trong hầm ngục, hai bữa nửa ngày lại đem ra quất tới tấp một phen để làm gương cho mọi người. Đọc đến chỗ này, tôi cùng Tuyền béo và Tiêm Quả đồng thời nhớ tới con bái đã tập kích chúng tôi ở trước bức bích hoạ cửu vỹ hồ ly, tuy chưa thể xác định một trăm phần trăm, thế nhưng con “bái" đó hơn phân nửa là từ thôn này chạy trốn ra ngoài.

Lại đọc tiếp nội dung phía dưới, kim phỉ ở trong núi đào được một cái động vàng khá sâu, bên trong là một cái ổ chuột đông nhung nhúc, bọn chuột này không chỉ số lượng nhiều mà kích thước cũng rất lớn, hơn nữa còn dám cắn người. Suốt những năm cuối thời Thanh cho đến tận bây giờ, vùng Đông Bắc liên tiếp bùng phát mấy lần dịch chuột, dịch chuột không giống với các loại dịch bệnh khác, trừ tỷ lệ tử vong rất lớn ra, tính lây lan cũng cực mạnh, thường thường một lần chết là chết cả gia đình, vì phòng ngừa dịch bệnh tiếp tục mở rộng sang các vùng khác thì chỉ có cách là đem xác người chết đi thiêu chứ tuyệt đối không được chôn. Bên cạnh việc xử lý người bệnh còn phải lo đến việc diệt tận gốc nguồn bệnh, cho nên dân gian phát triển một loại thuốc chuột cực kỳ lợi hại, bài thuốc bí truyền có thể xưng là nhất tuyệt, thuốc chuột ở mấy vùng quan nội (Trans: chỉ miền Tây Sơn Hải Quan, Trung Quốc) chuột phải ăn vào mới chết, mà ở đây chỉ cần để ở góc nhà, bầy chuột chui qua khe tường vào nhà trộm lương thực, từ xa ngửi thấy mùi liền sẽ lập tức tắt thở, một đêm có thể hun chết đầy một bao tải chuột, thật phải nói là “trăm chuột trăm chết, một con không lọt”. Bất qua kim phỉ trước giờ vẫn luôn thờ phụng khôi tiên gia, một mực mê tín coi là thần tài, cho rằng đã chọc giận đại tiên gia, không dám hạ thuốc chuột, mà đi mua lấy một đại cô nương, bắt mặc áo đỏ quần đỏ, trói chặt tay chân lại rồi ném vào trong động, nói là cưới vợ cho đại tiên gia. Hơn nữa còn đẽo lấy rất nhiều quan tài cỡ nhỏ, phá núi đào hầm không tránh được việc phải dùng tới thuốc nổ, các thôn dân mang toàn bộ số chuột vô tình bị nổ chết gom lại đặt vào trong những cỗ quan tài tí hon ấy, đốt trường minh đăng đem hương khói thờ cúng chung một chỗ với bài vị tổ tiên. Trong thời kỳ loạn lạc ấy, thứ không đáng tiền nhất chính là mạng sống con người, một đại cô nương chỉ đổi được năm cân gạo lép. Người sống bị ném xuống sẽ trở thành thức ăn của bầy chuột, chỉ trong chớp mắt liền trở thành một đống xương trắng, không chỉ không khiến cho khôi đại tiên nguôi giận, mà ngược lại còn đưa tới nhiều chuột mò đến hơn. Mặc dù nội dung tiếp theo ra sao không được ghi chép lại nhưng tôi cũng đã phần nào mường tượng ra được - đám kim phỉ vì muốn tìm được kiện bảo y nên dốc sức đào càng ngày càng sâu, cuối cùng đào phải khe nứt trong núi, toàn thôn sụp xuống, người trong thôn bị bầy chuột gặm sạch sẽ chỉ còn sót lại xương trắng! Mà hôm đó lại đúng ngày trong thôn mua tới một người phụ nữ, mặc áo đỏ giày đỏ rồi lấy dây trói lại, chuẩn bị đến giờ làm lễ cưới vợ cho khôi đại tiên thì bất ngờ cả thôn liền sụp vào trong lòng đất. Ban đầu thôn dân lấy người sống để cung phụng khôi đại tiên, cũng không biết rằng bất cứ con gì một khi đã được cho ăn thịt người thì sẽ vĩnh viễn không muốn ăn thứ gì khác, rốt cuộc lại rơi vào kết cục giống như những người bị đem đi làm vật hiến tế kia, không phải báo ứng thì là gì?

Cái này quả thật chính là ứng với câu nói: “ác giả ác báo, thiện giả thiện lai”, ba người lúc này đều cảm thấy lạnh sống lưng, không biết bầy chuột ăn thịt người có còn quanh quẩn ở xung quanh đây không nữa, so sánh với toà Liêu mộ âm u kia, nơi thôn dã không có người sống này còn kinh khủng hơn. Tuyền béo hỏi tôi: “Này Nhất ạ, cặp đùi này của tôi đếch phải làm bằng sắt, từ tít trên vách đá kia leo xuống, xuống đến đây lại phải đi đi lại lại như vậy cả nửa ngày, tôi với cậu đều không chịu nổi nữa rồi, Tiêm Quả còn tệ hơn, không bằng ở lại đây nghỉ ngơi một chút. Căn nhà này dù gì bốn phía cũng có vách tường vững chãi, chỉ cần bịt kín lại nóc nhà bên trên thì sẽ không sợ có con chuột nào lọt vào được. Hơn nữa suốt một đường đi vào đến đây cũng chưa có thấy dù chỉ là một cái đuôi chuột. Các cậu dù cho đem trái tim để vào trong bụng thì trời cũng không sập xuống được đâu.”

Tôi mặc dù nóng lòng tìm đường thoát thân nhưng cũng không dám đi bừa, cả ba đều mệt đến lả cả người, bụng réo sôi ầm ầm vì đói, trên người hoàn toàn không còn một chút sức lực nào, ai cũng không biết tiếp theo còn phải đi mất bao nhiêu lâu nữa, có hay không sẽ gặp những tình huống không lường trước nổi, một khi đi được nửa đường kiệt sức không bước nổi tiếp, lại không tìm được chỗ nghỉ ngơi, vậy thật sự là rất nguy hiểm. Có lẽ nên nghe theo lời Tuyền béo, tạm dừng chân ở đây, ăn chút lương khô hồi phục chút khí lực, rồi thảo luận qua về bước kế tiếp phải đi thế nào. Bất quá mặc dù gian nhà chúng tôi đang ở là gian lớn nhất trong thôn, nhưng bên trên cũng chỉ là lấy cỏ tranh lợp thành mái, dùng thứ gì mới có thể chặn được bầy chuột ăn thịt người kia?

Tuyền béo nói: “Nhà này chia làm hai gian, đại môn rộng, nhị môn hẹp, gian tiền đường thờ cúng khôi đại tiên kia thì không ở được rồi, còn gian phía Đông và phía Tây trần nhà được đóng mấy tấm bạch dương, không phải vị kia vẫn nguyên vẹn không bị gặm thành xương trắng sao? Chúng ta tháo bỏ cánh cửa phía trước, chặn lại hai cánh cửa sau, rồi đến gian phòng phía Tây ở tạm, thứ gì cũng đừng hòng vào được.”

Tiêm Quả hỏi cậu ta: “Anh vừa mới nói cái gì? Trong gian phòng phía Đông vẫn còn có một người?”
Tuyền béo thuận miệng nói: “Có một cô nương áo đỏ… ” Tôi vội vàng ngắt lời cậu ta: “Trong thôn có nhiều người chết, mắt đã không thấy thì cứ coi như không có đi.”

Tiêm Quả nghe tôi nói như vậy, tựa hồ như đã đoán ra được điều gì đó, cũng không truy hỏi nữa, quay qua giúp chúng tôi chặn cánh cửa lại. Tôi dùng mắt ra hiệu cho Tuyền béo, hai người khiêng một chiếc rương nằm không đến gian phòng phía Đông. Tôi giơ ngọn đèn dầu lên, bước tới quan sát cỗ thi thể đang nằm trên giường đất một chút, trong đầu nghĩ: Tất cả mọi người trong thôn đều bị bầy chuột gặm chết, nhưng cô gái này lại là chết vì đói, bọn chúng không kéo vào trong này sao? Nghĩ đến đây, tôi cẩn thận suy xét thật kỹ khắp một lượt kết cấu bố trí của gian phòng này, bên trên có vài tấm gỗ bạch dương làm trần nhà, cũng phủ một lớp cỏ khô thật dày làm mái, bốn bức tường được làm từ đất, dán lên vài bức tranh Tết, không ngoài mấy loại như Thương vương, Ngưu mã thần,.., không nhìn ra điểm nào khác thường so với các phòng còn lại.

Tôi dứt khoát không nghĩ nhiều nữa, rút đoản đao ra cắt bỏ những sợi dây trói trên người nữ thi, chợt phát hiện ra những sợi dây đó thế mà lại là “ngũ quỷ chu sa thừng", là dùng năm sợi dây gai cho vào ngâm trong nước chu sa mà thành. Đừng nói là trói một người phụ nữ, cho dù có trói một đại hán vạm vỡ khoẻ mạnh đến mấy, chỉ cần dùng tới ba sợi là đã quá đủ rồi, khí lực có lớn hơn nữa cũng không thoát nổi. Mà tương truyền một khí bị ngũ quỷ chu sa thừng trói chặt ở trên người, sau khi chết biến thành quỷ cũng không thể thoát thân được. Kim phỉ đem người sống ném vào trong hang cho bầy chuột ăn, sẵn vốn mê tín, sợ rằng những cô gái này vì chết quá thảm sẽ hoá thành lệ quỷ quay lại báo thù, cho nên mới phải dùng ngũ quỷ chu sa thừng. Những sợi dây này vừa thô ráp lại vừa dẻo dai, còn thắt nút chết, cắt nửa ngày mãi mới đứt được, tôi cùng Tuyền béo đem xác nữ thi bỏ vào trong rương, đóng chặt nắp lại.

Tôi sở dĩ làm như vậy, thứ nhất là vì không muốn Tiêm Quả thấy được lại đâm ra sợ hãi, thứ hai là do thấy cô gái này quả thật đáng thương, bị đám kim phi đem ra mua bán như loài gia súc, chuẩn bị trở thành cô dâu của khôi đại tiên, tuy rằng đến cuối cùng không bị ném vào trong động làm mồi cho bầy chuột, nhưng phải nằm chờ chết với cái bụng rỗng tuếch, chỉ sợ cũng không dễ chịu lắm. Chúng tôi đặt cô ta vào trong rương cũng coi như một cái quan tài, tiếp theo ngàn vạn lần chớ có đẻ ra mấy con yêu bướm yêu trùng gì gì đó!

Hai người an bài mọi việc thoả đáng, đóng cửa gian phòng phía Đông lại, đem đèn dầu đặt lên trên giường đất đồng thời cũng chính là một chiếc bàn, ngồi xuống chia nhau lương khô ăn tạm chống đói. Cái gọi là lương khô, chẳng qua chỉ là mấy miếng bánh bột ngô để khô, đưa lên miệng cắn một miếng tưởng chừng như có thể làm gãy cả hàm răng, có ném cho chó chó còn chê nữa là người, bất quá đói đến mức này rồi không trôi cũng phải cố mà nuốt. Tôi nhồm nhoàm nhai vội mấy miếng bánh đậu, mở nắp bình nước dã chiến tu ừng ực một hơi dài, rốt cục cũng cảm thấy khá lên nhiều. Tiêm Quả không nhịn được tò mò, ngồi bên cạnh hỏi tôi: “Hai người các anh mới vừa rồi đi làm gì thế?”

Tôi biết cô ấy đã phát giác mọi chuyện, bởi vì lúc trước Tuyền béo đã lỡ miệng nói ra rồi, Tiêm Quả cũng không phải là không nghe rõ, chẳng qua là không dám hỏi trực tiếp, cho nên bây giờ tôi cứ việc nói thẳng: “Trong gian phòng kia có một cái xác phụ nữ, là bị kim phỉ mua về để làm cô dâu cho khôi đại tiên, chúng tôi đem xác để vào rương.”

Tuyền béo còn chen mồm vào, khẳng định chắc nịch một câu: “Cô yên tâm, không chui ra được đâu!”

Tuyền béo miệng cứ bô bô nói không chịu nghĩ chứ cậu ta cũng không có ác ý gì, bất quá dễ khiến người nghe cảm thấy sợ hãi, tôi không để cậu ta nói tiếp nữa, ba người ngồi quanh một vòng trên giường đất, thảo luận xem làm thế nào để thoát khỏi chỗ này. Chúng tôi đứng từ trên cao thấy trong khe nứt có một luồng ánh sáng phát ra, đến khi xuống tới nơi đi vào trong thôn lại chẳng thấy đâu nữa cả, xung quanh rơi vào một mảnh đen nhánh, cho dù có đầy đủ súng đạn cùng thiết bị chiếu sáng đi chăng nữa, chúng tôi cũng không dám đi linh tinh ở trong rừng rậm, ít nhất phải vạch ra được một phương hướng cụ thể rõ ràng. Trước mắt chúng tôi vẫn nên ở lại trong thôn, tuy nói toàn bộ thôn đây nơi đây đều bị bầy chuột ăn thịt, nhưng dẫu sao đó cũng là chuyện của mấy chục năm về trước, chúng tôi thẳng một đường đi tới nơi này cũng chưa có gặp qua một con chuột nào, nếu như bọn chúng muốn công kích người thì sớm đã lao ra tấn công. Trong thôn ít nhất cũng có gian nhà để trú ẩn, cùng với đèn dầu, kình ngư cao đầy đủ có thể cung cấp ánh sáng. Duy nhất có một việc khiến cho người ta không nghĩ ra, vẫn là tại sao nữ thi áo đỏ ở trong gian phòng phía Đông không bị bầy chuột động tới, thôn dân còn lại thì bị gặm sạch sẽ đến quần áo cũng chẳng còn. Ngẩng đầu ba thước có thần minh, cả thôn bị rơi vào trong khe nứt, toàn bộ tộc kim phỉ bị chuột ăn thịt, duy chỉ có người này vốn là người ngoài nên được bỏ qua, nói là gặp báo ứng cũng không có gì cường điệu, không tin cũng không được.

Tiêm Quả cũng cảm thấy kỳ quái: “Kim phỉ đào hang tìm vàng, trong hang lại không có thứ gì ăn được, tại sao lại kéo đến nhiều chuột như vậy làm ổ? Bọn chuột ăn thịt người là ai cũng cắn hay như nào, sao có người bị người không?”

Tuyền béo đáp: “Cô em muốn biết thì phải đi hỏi bọn chúng nó chứ hai anh đây biết thế quái nào được? Kỳ thực tôi đoán rằng bọn chuột này cũng không thông minh mấy đâu, các cậu xem não chúng nó to chừng nào, làm sao nghĩ ra được mấy cái chủ ý quái gở gì được cơ chứ? Chớ nên mê tín khôi đại tiên có gì mà đạo với chẳng hạnh, không phải đám kim phỉ kia suốt ngày thờ cúng đó sao, cuối cùng vẫn đều bị chính bầy chuột mình cung phụng ăn thịt!”

Ba người suy đoán lung tung cả nửa ngày, từ đầu đến cuối vẫn chưa tìm ra được điểm mấu chốt. Đầu tôi như muốn nổ tung, suy nghĩ này nối tiếp suy nghĩ kia, tất cả đều xoay quanh câu hỏi vì sao nữ thi trong gian phòng phía Đông kia lại không bị bầy chuột ăn thịt? Trong chuyện này nhất định phải tồn tại một nguyên nhân nào đó, những thôn dân kia và cô gái này khác nhau ở điểm nào? Tôi ngờ ngợ được rằng hình như mình đã bỏ qua một điểm nào đó vô cùng trọng yếu, nhưng lúc này cả người tôi chỗ nào cũng mệt mỏi rã rời, đầu óc tê liệt cơ hồ không thể nghĩ được cái gì nữa, cho nên tia suy nghĩ mong manh này liền bị vùi sâu vào một góc nào đó trong não hải, vô luận thế nào cũng không gợi lại ra được. Trước tiên hãy nói tới những điểm tương đồng, mọi gian nhà trong thôn đại khái đều giống hệt nhau, đèn dầu cùng giường đất, trần nhà lợp cỏ tranh, tường đất dán tranh Tết, cửa gỗ bạch dương. Chỗ bất đồng cũng rất rõ ràng, cô gái bị đám kim phỉ mua về để cưới vợ cho khôi đại tiên, không phải là người trong thôn, còn lại thôn dân đều làm kim phỉ, đồng tông đồng tộc, vậy thì như nào? Bầy chuột có thể phân biệt ai là người trong thôn và ai là người ngoài thôn sao? Hay là do cô gái đó trên người bị ngũ quỷ chu sa thừng trói chặt, mà bầy chuột thì lại sợ chu sa? Trước giờ chỉ nghe nói đến rắn sợ hùng hoàng chứ chưa thấy ai nói chuột sợ chu sa bao giờ, tuy rằng chu sa cùng thạch tín, hùng hoàng, phèn sống, từ thạch đều được xưng là ngũ độc, nhưng dùng chu sa để trừ tà quả thực cũng chỉ là chuyện mê tín mà thôi. Tôi cảm thấy vẫn là nên nhìn kỹ tình hình xung quanh một chút, chớ để xảy ra sai sót thì có hối cũng không kịp. Liền từ trên giường đất đứng dậy, cầm lấy ngọn đèn dầu kình ngư cao giơ lên, đẩy cửa đi vào trong hậu đường, lại mở cánh cửa gian phòng phía Đông ra, bước vào bên trong nhìn một cái, nhất thời lông tóc toàn thân dựng ngược lên - nữ thi lúc trước bị tôi cùng Tuyền béo đặt vào trong rương sắt, giờ phút này đang ngồi ngay ngắn ở trên đầu giường.

Người tôi như dại đi, trong thôn này ngoài chúng tôi ra hoàn toàn không còn người sống nào khác, mấy người chúng tôi nãy giờ vẫn ở trong Tây phòng, nữ thi bên gian này làm sao có thể tự mình thoát ra? Các thôn dân đều bị bầy chuột ăn tươi nuốt sống, nhưng lại không có một con nào chui vào trong phòng này, điều này thật sự là quá tà môn đi, tôi có phải hay không không nên cởi bỏ ngũ quỷ chu sa thừng trói trên người cô ta? Lúc này mồ hôi lạnh chạy dọc sống lưng, liền nhớ tới tổ phụ tôi khi còn sống từng dạy tôi một câu nói mà người hết sức tâm đắc, “một phần bản lĩnh chính phần lưỡi dẻo” hay là “luyện chân luyện tay không bằng luyện miệng” gì gì đó, một khi gặp phải tình huống nguy hiểm mà bản lĩnh lại không đủ dùng thì chỉ có thể trông chờ vào cái miệng, có câu nói “một lời chết người” chính là vì thế. Tôi trước dùng miệng lưỡi thử cùng cô ta tâm sự vài câu, nếu như hỏng việc thì cũng không cần phải gấp, chẳng phải vẫn còn hai cái chân để chạy sao? Nghĩ tới đây đầu óc tôi như được thả lỏng, tinh thần thoải mái, mở miệng nói: “Đại tỷ khổ cực, cũng không phải là do tôi đem tỷ đi trói lại mà là người ta, tỷ chớ nên giở trò quấy phá trước mặt thằng em này! Tôi luôn luôn tự nhủ đã làm người thì phải đàng hoàng tử tế, từ bé tới giờ chỉ nhằm đường thẳng đường lớn mà đi, không dối trá lừa lọc, không nhuốm bụi trần, lớn từng này tuổi chưa từng làm chuyện gì thất đức. Tôi là thấy tỷ đáng thương, bị bọn kim phỉ độc ác kia ép làm cô dâu đem dâng cho khôi đại tiên, sau khi chết lại không được chôn cất cẩn thận cho nên mới đem dây thừng cắt bỏ, đặt tỷ nằm tạm trong rương xem như là đã khâm liệm, chẳng nhẽ tỷ không muốn? Đã như vậy thì, tỷ đi đường tỷ, tôi đi đường tôi, chúng ta nước sông không phạm nước giếng!”

Mới nói được tới đó, bỗng nhiên một trận âm phong thổi qua, quần áo thốc lên soàn soạt, ngọn đèn dầu trên tay tôi lập tức tối dần, ánh lửa chỉ còn bé bằng cái hạt đậu, tối đến nỗi khiến cho người ta không mở mắt nổi, ngẩng đầu nhìn lên, nữ thi ngồi trên giường đất đang dùng ngón tay chỉ thẳng vào mặt tôi!

Mời các bạn đón đọc chương tiếp theo “Thiết Bị Chiếu Sáng (Trung)” đăng tại page Hội những người nghiện truyện của Thiên Hạ Bá Xướng &
 

Lười Biếng Vô Tận

Thanh Phong 37
Tham gia
5/4/19
Bài viết
21
Điểm cảm xúc
67
Điểm
13
Dịch: Đặng Nam

Tôi sợ hết hồn, lắp bắp nói: “Tôi nào có trêu chọc gì tỷ, cớ sao tỷ lại chỉ ngón tay vào mặt tôi?” Bỗng nhiên nghĩ tới cây đèn dầu đang cầm trong tay, phải chăng nữ thi áo đỏ đó không phải chỉ tôi mà là muốn chỉ vào cây đèn? Tôi trộm nghĩ: Cô ta muốn cây đèn này của mình à? Nửa đêm lại đi mượn đèn, có mỗi một cái cô mượn mất rồi thì tôi dùng bằng cái gì?

Lúc ấy tôi định lui ra, nhưng chợt phát hiện sau lưng thế nào mà lại là vách tường, giật mình một cái như tỉnh khỏi cơn mê, thì ra nãy giờ tôi vẫn ở nguyên trong Tây phòng, chưa bước nửa bước ra đến ngoài, lúc trước ngồi nói chuyện với hai người kia mãi một hồi lâu đâm ra vừa mệt vừa buồn ngủ, trong lòng tự nhủ chớ có ngủ quên nhưng cơ thể sớm đã không chịu nổi nữa rồi, bất tri bất giác chợp mắt lúc nào không hay, tình hình xảy ra trong mộng quá là quỷ dị, cây đèn dầu kia phải chăng có điểm nào đó đặc biệt? Tôi vội vàng muốn đứng lên, nhưng nhất thời đầu óc choáng váng xây xẩm, những hình ảnh quái dị cứ hiện lên như một bộ phim được tua lại, lúc thì là nữ thi ở gian phòng phía Đông kia, lúc lại là Lục Quân với cái đầu nát bét, hay cỗ hành thi bị dòi bám đầy mặt, con rết khổng lồ trên đỉnh mộ, Thái Hậu trong quách đá, đồng nữ tuẫn táng, con hồ ly đã dẫn chúng tôi chạy vào cổ mộ, tên chuột đất âm hiểm xảo trá, từng khuôn mặt không biết là người hay quỷ nối tiếp nhau vụt qua trước mắt tôi, xoay vòng vòng như một xoáy nước vô tận, mơ hồ nhìn giống đồ hình nhãn cầu được vẽ trên bức bích hoạ, tôi càng ngày càng bị cuốn sâu vào trong vòng xoáy, giống như là bị bóng đè, toàn thân trên dưới cứng đờ không thể cử động, miệng há to muốn nói nhưng nửa câu ú ớ cũng không thoát ra được, đúng vào lúc này, từ ngón chân bỗng truyền đến một loại cảm giác như bị thứ gì đó cắn xé! Tôi liều mạng giãy giụa điên cuồng, đột nhiên bật dậy được, chỉ nghe thấy tiếng bầy chuột đang gặm cửa vang lên không dứt bên tai, truyền đến từ cả cửa trước lẫn trần nhà. Hai chân tôi vẫn tạm thời chưa nhúc nhích được, không thể để im cho nó đem chân mình gặm thành xương trắng, bất quá con chuột này lớn kinh khủng, phải to ngang ngửa một con mèo, có lẽ nó đã sống được khá lâu cho nên dải lông trên sống lưng toàn bộ đều bạc trắng, lúc này đang ra sức cắn xé chiếc giày lính của tôi!

Thì ra mấy gian nhà trong thôn vốn không chắc chắn như chúng tôi vẫn tưởng, những con chuột ăn thịt người chỉ cần leo lên chóp tường, từ trên trần nhà gặm ra một cái lỗ lớn là đã có thể dễ dàng chui vào bên trong, con chuột đang cắn chân tôi chính là con đầu tiên mở đường xung phong, chung quanh tiếng chuột kêu chít chít cùng tiếng gặm gỗ phá cửa roàn roạt liên tục nện vào trong óc thật chẳng phải thứ gì dễ chịu, cũng không biết bầy chuột này rốt cuộc kéo tới bao nhiêu con nữa. Tôi vội vàng gọi Tuyền béo cùng Tiêm Quả đứng dậy, đồng thời tung người lên, giơ chân dùng sức hất một cái, đem con chuột kia đá văng ra ngoài. Hai người kia lúc này mới chợt bừng tỉnh, chỉ thấy trên nóc nhà lẫn dưới khe cửa liên tiếp có chuột bò vào, có con lao tới cắn đèn dầu, có con vồ tới hòng cắn người. Chúng tôi cũng không phải loại người mê tín, không hề tin vào khôi tiên gia gì gì đó, trước giờ chỉ thấy người đánh chuột chứ nào có thấy chuột gì mà lại dám đi cắn người? Ba người huy động mọi thứ có trong tay, xẻng công binh lẫn báng súng liên tục được giơ lên đập xuống, nhưng bầy chuột này không chỉ toàn thân lớn lên doạ người mà bản tính còn cực kỳ hung ác, hàm răng sắc bén, cửa gỗ cũng gặm nát, xẻng đập chẳng ăn thua!

Đúng vào lúc này, có một con chuột lớn phóng vọt nhảy lên bàn, lại không sợ bị bỏng, há miệng cắn vào cây đèn dầu. Một khi đèn tắt toàn bộ không gian trong phòng sẽ trở nên tối đen, chúng tôi hoàn toàn không thể đối phó với bầy chuột đang khắp nơi kéo đến kia được. Cũng may có Tuyền béo nhanh tay lẹ mắt, một xẻng vung lên liền đánh hạ được nó. Con chuột kia bị xẻng công binh đập cho một cái máu tươi phun tung toé khắp nơi, rơi xuống đất lộn mấy vòng, nhưng nó vẫn chưa hề từ bỏ ý định, tiếp tục xoay người đứng dậy hướng về phía bàn nhảy tới, Tuyền béo lao lên tung một cước, đem nó đá văng lên nóc nhà.

Đầu tôi như nổ “oanh" một tiếng, cuối cùng thì tôi cũng đã biết được lý do vì sao toàn bộ thôn dân lại bị bầy chuột ăn thịt rồi, tất cả đều là từ những cây đèn dầu mà ra! Có một con chuột chui vào trong phòng gặm giày của tôi chính là bởi vì lúc trước khi đang thắp đèn, tôi có sơ ý để vương một chút dầu lên trên mũi giày. Đèn dầu mà đám kim phỉ sử dụng ở trong thôn lẫn trong động đều là loại kình ngư cao thượng đẳng, đến cả nến cũng là làm từ kình ngư cao chứ không phải mỡ bò mỡ lợn thông thường, loại mỡ này chất lượng tuyệt hảo, thứ nhất đốt lên không làm người ta bị sặc, thứ hai lại không cay mắt, còn toả ra một mùi thơm thoang thoảng nhẹ nhàng, so với đèn dầu mà nông thôn hay dùng xịn hơn không biết bao nhiêu lần, nhưng không ai nghĩ tới chính nó lại hấp dẫn một bầy chuột đông như này kéo tới, bình thường người ta hay lấy kình ngư cao để châm đèn, dần dần khiến cho bầy chuột tưởng lầm, ở trong mắt bọn chúng thôn dân bây giờ chẳng khác gì mấy cây mỡ thịt di động, cho nên mới bắt đầu ăn thịt người, lâu ngày thành nghiện. Năm đó nhà cửa vườn tược rơi vào trong khe nứt, thôn dân cùng dầu đèn trong nhà đều bị bầy chuột chén sạch, mà nay chúng tôi châm dầu đốt đèn, chẳng khác gì mời gọi chúng đến. Còn như nữ thi áo đỏ trong Đông phòng kia, vì sao lại không bị bầy chuột động tới, nguyên nhân có lẽ là do trong đó không đốt đèn dầu. Tuy nhiên vẫn còn một khả năng khác có thể xảy ra, trước hết, nơi này ở sâu bên dưới khe nứt quanh năm âm u ẩm ướt, vậy tại sao cô ta sau khi chết lại khô quắt như thế được? Năm ấy binh hoang mã loạn, chiến tranh liên miên, lại ở nơi rừng thiêng nước độc rất hiếm khi có người qua lại như này, tìm đâu ra người để mua? Nói không chừng cái xác ấy là do kim phỉ đào ra từ trong một cái cổ mộ nào đó, thay áo đỏ treo đèn lồng giăng câu đối, tổ chức ra một cái đám cưới rồi ném vào trong động cho khôi đại tiên.

Tôi mới vừa rồi chợp mắt một chút, lại mơ thấy nữ thi áo đỏ tay chỉ cây đèn dầu, phải chăng là cô hồn dã quỷ muốn báo mộng? Hay là trong tiềm thức của tôi đã phát giác ra việc chính đèn dầu là nguồn gốc hấp dẫn bầy chuột mò đến? Tôi dù cho lá gan có lớn mấy đi chăng nữa cũng không dám nghĩ tiếp, chỉ thấy số lượng chuột chui được vào trong phòng càng ngày càng nhiều, vội vàng lên tiếng huýt sáo, tỏ ý bảo hai người kia cùng xông ra, vừa mới chạy tới trước cửa, chợt nghe một tiếng “ầm”, cánh cửa bị một thứ gì đó to lớn từ bên ngoài đẩy tung, một con chuột ăn thịt người còn lớn hơn cả con nghé trèo qua cánh cửa bị đẩy đổ bò vào, trên thân mọc ra hai cái đầu, một to một nhỏ, đôi mắt lấp loé giống như hồng bảo thạch.

Con chuột hai đầu tuy hành động chậm chạp, nhưng được cái ngu si thì tứ chi phát triển, ỷ vào cơ thể to lớn mà đẩy tung cánh cửa, có vài con nhỏ hơn nhảy vọt qua trước mặt nó đều lập tức bị cắn chết. Con chuột hai đầu hướng về phía chúng tôi một đường bò tới, tôi cùng Tuyền béo nhất thời bị nó đẩy ngã, hai cái đầu của nó chia ra hai hướng nhằm mỗi thằng mà cắn, hai chúng tôi vội vàng lăn một vòng về phía sau để né cú tấn công bất ngờ của nó. Tiêm Quả thấy tình hình bên này không ổn, xẻng công binh trong tay nhanh chóng vung lên đập bừa. Con chuột ăn một xẻng vào đầu, nhưng dường như chẳng thấm vào đâu so với nó, ngược lại còn quay đầu cắn chặt xẻng công binh. Một xẻng này Tiêm Quả đã dùng toàn lực mà thi triển, không còn sức đâu mà giật lại chiếc xẻng từ trong miệng con chuột hai đầu, lập tức bị nó kéo ngã, cái đầu còn lại nhe ra cặp răng cửa nhọn hoắt, hung hăng cắn về phía Tiêm Quả.

Giữa lúc ngàn cân treo sợi tóc, khẩu súng lục trong tay Tuyền béo bỗng nổ vang, “đoàng đoàng đoàng” liên tiếp ba phát súng bắn vào con chuột hai đầu, khiến nó phải rụt người lại về sau, nhả xẻng công binh ra. Tiêm Quả bên này tay vẫn túm chặt lấy cái xẻng đang cố gắng kéo ngược về sau, bị con chuột bất ngờ buông tha liền không tự chủ được lảo đảo mấy bước suýt ngã, cũng may va phải vách tường sau lưng. Con chuột hai đầu kia chỉ thoáng lui lại vài bước, tiếp đó hai đầu của nó liền phát ra một thứ âm thanh ghê rợn, lần nữa phá cửa mà vào. Ba người đều ở trong phòng, không gian chật hẹp, một khi nổ súng sẽ rất dễ ngộ thương đồng đội. Tôi cùng Tuyền béo nhanh trí, dùng chân đạp đổ cái chum bên cạnh giường đất, dầu đèn bên trong đổ tung toé khắp mặt đất. Bầy chuột trong phòng chen nhau bò lên, tranh nhau liếm dầu đèn. Tuyền béo đưa tay bắt lấy cây đèn trên bàn, đổ ụp lên đầu con chuột tinh kia, ngọn lửa lập tức bén tới rồi cháy bùng lên, đem bầy chuột lớn nhỏ đốt thành những quả cầu lửa, điên cuồng chạy toán loạn khắp phòng, từng tiếng kêu “chít chít” thảm thiết vang lên, toả ra một mùi hôi thối ghê tởm khiến người ta phải lợm giọng.
Tôi đem toàn bộ số dầu đèn dự trữ trong balo đổ ra, vẩy khắp xung quanh khiến cho những con đang bò sát gần ba người đều dính không ít dầu, nhất thời ngọn lửa bùng lên càng dữ dội hơn. Chúng tôi vội tranh thủ thời cơ chọc thủng lớp cỏ tranh lót trên trần nhà, vượt qua chóp tường thoát ra ngoài, bật đèn pha trốn vào trong khu rừng rậm bên ngoài thôn. Mấy người cắm đầu cắm cổ chạy loạn trong rừng một hồi, thẳng đến khi không còn thấy ánh lửa trong thôn đâu nữa, xung quanh tràn ngập sương mù, cũng không biết hiện tại đang ở nơi nào. Ước chừng năm đó, bầy chuột phải có số lượng nhiều hơn so với chúng tôi vừa gặp gấp trăm lần, sau khi không còn thức ăn lại bị vây khốn trong khe nứt này, bọn chúng chỉ còn cách quay ra tàn sát lẫn nhau, cho đến bây giờ cũng chẳng còn lại mấy, nếu không chúng tôi chưa chắc đã thoát ra được để mà chạy tới nơi này.

Ba người chúng tôi chạy liên tục một hồi lâu, sớm đã mệt đứt cả hơi, ngồi nghỉ một lúc mới cảm thấy đỡ hơn, đưa mắt quan sát xung quanh, chỉ thấy khắp nơi đều là đại thụ cao chọc trời, mặt đất bị một tầng lá mục thối rữa lâu năm phủ kín, lại có sương mù bốc lên dày đặc, rất khó để có thể phân biệt được Đông Tây Nam Bắc. Số đèn dầu lẫn kình ngư cao lấy được trong thôn lúc trước cuối cùng đều phải mang ra ném sạch, thứ có thể dùng để chiếu sáng được bây giờ chỉ có chiếc đèn pha cầm tay cùng chiếc đèn bão lấy được từ trong Liêu mộ. Ở trên núi còn có thể thông qua vị trí các chòm sao, dấu vết của động vật để xác định phương hướng, nhưng nơi này lại bị vùi lấp bên trong khe nứt trên núi, không chỉ không tìm được phương hướng cụ thể mà ngay cả bí thuật phong thuỷ tổ phụ tôi truyền lại cũng không mang ra sử dụng được. Trong đầu tôi mọi thứ loạn cào cào hết cả lên, cửa mộ dẫn xuống lòng đất nằm ở chính Bắc, khe nứt này lại chạy dọc theo trục Đông - Tây, lúc trước chúng tôi trông thấy luồng ánh sáng thần bí kia là ở phía Tây, vậy hẳn là nên tiếp tục đi về phía Tây. Nhưng nói thật, tôi cũng không biết nguồn gốc của luồng ánh sáng kia là thứ gì, tại sao lại lúc có lúc không, hơn nữa luồng ánh sáng kia quá lớn, cơ hồ xuyên thấu cả khe nứt, sâu trong khu rừng già này làm sao có thể kéo điện đến được, tuyệt đối sẽ không có thiết bị chiếu sáng nào lớn như thế!

Lại nói sau khi luồng ánh sáng kia biến mất, chúng tôi nếu cứ cố mò mẫm đi tìm, nói không chừng còn chẳng tìm thấy thứ gì, quanh đi quẩn lại có khi lại trở về chỗ cũ. Ngay cả khi thoát được khỏi nơi này thì những vấn đề mà tôi sẽ phải đối mặt sau đó cũng không phải là dễ dàng gì, đầu tiên là việc Lục Quân bỏ mạng bên dưới bức hoạ cửu vỹ hồ ly, sau là chuyện mấy người thanh niên tri thức tới tìm chúng tôi nhưng cuối cùng lại bị lưu sa chôn sống, lại không bắt được chủ mưu là tên chuột đất kia, nói mà không có căn cứ hay bằng chứng thì ma nào nó tin. Đang khi chúng tôi quanh quẩn một chỗ đắn đo suy nghĩ xem nên đi tiếp hay thế nào thì xung quanh bỗng nhiên sáng bừng lên, luồng ánh sáng kia lại xuất hiện trở lại, hơn nữa cách chỗ chúng tôi cũng không xa lắm, chẳng qua là ở trong sương mù nên nhìn không rõ. Sâu trong khu rừng im lặng như tờ, ba người bị luồng sáng to lớn kia chấn động, người nào người nấy đều là trợn mắt há mồm. Trong núi lớn đến một cái bóng đèn 20 Watts còn chẳng có, nào đã được thấy cái gì sáng khủng khiếp như thế này?

Tôi nói với Tuyền béo: “Để tôi đi lên trước nhìn một chút, vạn nhất nếu có tình huống nguy hiểm gì, hai người không cần đợi tôi, cứ nhanh chóng chia ra đột phá vòng vây, bảo vệ ngọn lửa cách mạng!”

Tuyền béo tỏ vẻ không đồng ý: “Cậu lại khoe tài rồi Nhất ạ, chúng tôi có thể chạy đi đâu mà phá vòng vây? Ba người chúng ta hiện tại chỉ như châu chấu đá xe, nếu thật có tình huống không đối phó nổi, người nào cũng đừng hòng chạy thoát được!” Trong lúc nói chuyện, đã có thể nhìn thấy thứ đồ vật phát ra luồng sáng kia, luồng sáng khổng lồ kia tựa hồ giống như một đám mây trên trời đi lạc xuống mặt đất vậy!

Ba người chúng tôi cả kinh, miệng há hốc nửa ngày chưa khép lại được, không thể nào hình dung được đây rốt cuộc cuộc là thứ gì, chẳng ai ngờ được trong khe nứt dưới lòng đất lại có một cái “cột điện" vừa cao vừa thẳng, đường kính của nó ước chừng phải đến mười người ôm mới xuể, toàn thân đều phát ra ánh sáng, một đầu chôn sâu xuống dưới đất, một đầu khác thông thẳng đến đỉnh núi phía trên, so với nó thì chúng tôi trông như ba con kiến hôi vậy. Thứ này căn bản vốn không thể nào xuất hiện ở nơi rừng sâu núi thẳm như này được, đừng nói là trong núi lớn, chúng tôi thậm chí lúc còn ở thành thị cũng chưa từng thấy qua, có nằm mơ cũng không nghĩ tới.

Tuyền béo vô cùng kinh ngạc và tò mò, đưa tay ra định sờ vào cột điện. Tôi liền chặn tay cậu ta lại: “Cái cột điện này hãy còn đang phát sáng, coi chừng điện giật lại giãy đành đạch chết tươi ra đấy!”

Tuyền béo đáp: “Đây là cột điện sao? Cậu định lừa ai đấy Nhất, đến đứa trẻ con cũng biết cột điện trông như nào, lại nói, các cậu đã thấy cái cột điện nào phát ra ánh sáng chưa?”

Tiêm Quả nói: “Hẳn không phải là cột điện đâu anh Nhất ạ, trước giờ nào có ai chế tạo được thứ thiết bị chiếu sáng lớn như thế này?” Chúng tôi cảm thấy lời của Tiêm Quả nói không sai, nếu như nói đây là một cái cột điện, vậy nó dùng để làm gì, cung cấp điện cho toàn bộ ngọn núi này? Hoàn toàn không cách nào tưởng tượng được, cung cấp điện cho cả một ngọn núi lớn là nhằm mục đích gì?

Tôi đánh bạo tiến lên sờ thử vào cây cột, từ lòng bàn tay truyền đến một cảm giác hơi âm ấm, vỏ ngoài xù xì, nhưng hoàn toàn không có dòng điện nào chạy qua, chỉ là ánh sáng vẫn liên tục phát ra từ nó, cường độ cũng không mạnh lắm. Có thể là Tiêm Quả nói đúng, đây quả thực không phải là một cái cột điện, bất quá chúng tôi lại không biết nên hình dung vật này như nào, nó đã vượt quá xa so với hiểu biết của cả ba người cộng lại.

Tuyền béo bước tới bên cạnh chỉ một cái: “Bên kia cũng có kìa!” Chúng tôi vội quay đầu lại nhìn, cách đó không xa cũng có một cái cột điện khác đang phát sáng, giống y hệt như cái chúng tôi đang thấy, cũng kéo thẳng tắp đến tận đỉnh núi, xuyên qua khe nứt, phát ra luồng bạch quang mà không ai có thể giải thích được. Phỏng chừng có một cái thôi cũng đã đủ khiến cho chúng tôi sợ đái ra quần rồi, đằng này lại xuất hiện thêm cái nữa, nghĩ nát cả óc cũng không biết đây là thứ gì?

Ba người cùng chạy đến gần, không chỉ xuất hiện thêm một cái này, mà phía trước còn có cái thứ ba, cái thứ tư, đến cái thứ… n, cái nào cái nấy giống nhau như đúc, chẳng qua là khoảng cách xa gần không đồng đều, phân bố rải rác, không tuân theo một quy tắc nào cả. Không thể hiểu nổi tại sao trong khe nứt này lại có nhiều cột điện đến thế, thứ này dùng để làm gì? Thứ duy nhất có thể xác định được chính là, cái gọi là cột điện này, so với thôn trang bị rơi xuống kia có niên đại còn sớm hơn, một bộ phận không nhỏ giống như bị khảm vào trong vách đá.

Cột điện đâm xuyên qua khe nứt, một phần chôn sâu dưới lòng đất, bên cạnh là rừng cây mọc dày đặc, cây cối bị rơi xuống tầng sâu dưới đáy, trăm nghìn năm qua không hề thấy qua ánh sáng mặt trời, thế mà đến giờ phút này vẫn không ngừng sinh trưởng, có hay không liên quan tới những cây cột điện này? Hay là sâu trong khe nứt có chôn giấu thứ gì đó? Lúc trước khi quan sát bức bích hoạ cửu vỹ hồ ly, tôi đoán rằng ắt hẳn phải có một món đồ thần bí đã hấp dẫn bầy hồ ly chui vào trong mộ cổ làm thành sào huyệt, tới chỗ này mới biết, từng cột điện phát sáng kia, có thể giúp cho cây cối bên trong khe nứt tiếp tục sinh trưởng phát triển, hồ ly có thể ở trong mộ né tránh bão tuyết cùng cái lạnh khắc nghiệt của Bắc Đại Hoang. Chúng tôi bây giờ chỉ còn cách là tiếp tục mò mẫm đi về phía trước dựa theo thế đi của khe nứt, một đoạn đường này vô cùng khó đi, không gian lúc rộng lúc hẹp, những chỗ rộng ít nhất phải hơn 1000 mét, nơi hẹp nhất cũng chừng 200 mét trở lên, hai bên vách đá dựng thẳng tắp tựa như được hàng trăm nghìn con dao đẽo gọt, có nơi còn cả thác nước chảy xuống. Chúng tôi lúc còn ở trong binh đoàn trấn thủ nông trường số 17 từng nghe dân du mục nói qua - nơi tiếp giáp giữa hoang nguyên và cánh rừng nguyên thuỷ, có một khe nứt sâu không thấy đáy, dân gian gọi là “âm dương phùng", một trăm nghìn năm mới xuất thế một lần. Một khi lỡ chân rơi vào, biến thành quỷ cũng không thoát ra được!

Ba người thất tha thất thểu bước từng bước nặng nhọc, cuối cùng đi tới một nơi, đường đi thu hẹp lại, chiều rộng giữa hai vách đá bất quá chưa tới năm mét ngang, vượt qua được đoạn khe nứt chật chội này, một không gian thông suốt rộng rãi liền hiện ra, thế nhưng khắp nơi đều là nước đọng, cao chưa tới đầu gối. Thì ra khe nứt lớn này chạy dọc theo hướng Đông Tây, địa thế phía Đông cao, phía Tây thấp, bề ngang ngày một thu hẹp, càng đi về phía trước thì càng sâu, thỉnh thoảng có thể gặp được xương thú, toàn bộ đều là từ trên cao rơi xuống té chết, ngẩng đầu lên cũng không thấy ánh mặt trời. Chúng tôi cố gắng tìm những phiến nham thạch cao nhô cao hơn mặt nước để đặt chân, đem cành khô gỗ khô nhặt đường ven đường làm thành bó đuốc, dùng để chiếu sáng phòng khi tới những nơi tối tăm cần dùng.

Tuyền béo ở phía trước mở đường, tôi cùng Tiêm Quả bám theo ngay sau lưng cậu ta, đang đi chợt cảm thấy phiến đá dưới chân có gì đó sai sai, thứ này không phải là nham thạch, bên trên mọc một lớp rêu dày, nhìn qua không có gì khác biệt so với những phiến đá khác, nhưng mà đôi giày lính chúng tôi đang đeo vừa dày vừa nặng, gót giày được chế tạo từ nhiều lớp da trâu, còn được đóng một vành sắt hình chữ “U”, phía mũi giày có ba mươi sáu chiếc đinh chống trượt, dậm chân bước một cái, gót sắt thế mà lại vang lên những tiếng “đang đang” trầm đục, giống như đạp phải một tấm sắt. Ba người thoáng sửng sốt, tại sao trong khe nứt lại có một cái vỏ sắt lớn như này?

Tuyền béo dùng xẻng công bình gạt bỏ rong rêu cùng bùn đất, quả thật là một cái vỏ sắt đã bị gỉ sét, hơn phân nửa chìm trong nước, xe tăng cũng không thể nào lớn đến như vậy, chưa thể nhìn ra là cái gì, bên cạnh có một cái khoá vô lăng dường như để mở cửa khoang. Ba người líu lưỡi không nói nên lời, tất cả những cây cột điện phát sáng kia đều nối đến chỗ này?

Mời các bạn đón đọc chương tiếp theo “Thiết Bị Chiếu Sáng (Hạ)” đăng tại page Hội những người nghiện truyện của Thiên Hạ Bá Xướng
 

Lười Biếng Vô Tận

Thanh Phong 37
Tham gia
5/4/19
Bài viết
21
Điểm cảm xúc
67
Điểm
13
Dịch: Đặng Nam

Tôi quan sát hồi lâu, trong hang động lộ ra một cái vỏ sắt đã gỉ sét lâu ngày, giống như một cái cửa khoang, thứ mà đáng ra chỉ có ở trên những chiếc chiến hạm, tàu chiến ngoài biển.

Tuyền béo nói: “Trong rừng sâu núi thẳm như này tàu chiến vào thế quái nào được?”

Tôi đáp: “Tôi làm sao mà biết được thứ này là từ nơi nào tới, đã thế đại bộ phận lại còn chìm trong nước nữa chứ.”

Tiêm Quả nói: “Có lẽ bên trên khe nứt hồi trước có một con sông, thứ này là từ bên trên rơi xuống, giống như cái thôn kia vậy…” Lời còn chưa nói hết, Tuyết béo đã nóng lòng lắm rồi, lập tức nhảy lên muốn đem cửa khoang mở ra, khoá vô lăng xoay mặc dù đã bị gỉ sét nặng nề nhưng lại không bị khoá chết ở bên trong, xoay xoay mấy cái là có thể mở ra được, bên trong tối om như mực, một mùi ẩm mốc mục rữa xộc thẳng ra ngoài.

Ba người chui qua cửa khoang, đèn pha trong tay đã được bật sẵn, chỉ thấy trong khoang thuyền có vài chiếc rương gỗ cực lớn, mốc meo từ lâu, nhưng vẫn có thể lờ mờ nhận ra được bên trên mỗi chiếc rương đều có một đồ hình giống hệt nhau - hình một vòng tròn phía trên thiếu mất một góc, chính giữa là một chữ “Ánh". Chúng tôi đoán rằng có lẽ đây chính là đồ hình của Mãn Châu Ánh Họa thời kỳ quân Nhật chiếm đóng vùng Đông Bắc, giống như việc đường sắt Mãn Châu hay được gọi tắt là “Mãn Thiết", “Mãn Ánh" là một đơn vị chuyên về quay phim chụp ảnh, có nhiệm vụ quay phim tài liệu dạng nhật ký chiến trường cho quân đội Nhật lúc bấy giờ.

Nghe nói năm đó quân Nhật chiếm lĩnh được vùng Đông Bắc, từng thành lập một đơn vị Mãn Châu Ánh Họa như vậy, sản xuất ra một số bộ phim tài liệu chiến trường, trong lứa thanh niên chúng tôi bấy giờ, không ít người đã được xem qua. Bất quá đồ đạc bên trong rương gỗ đã bị ẩm mốc làm cho hư hại, cũng chẳng phải thứ gì quý giá, chỉ là một ít máy quay phim lỗi thời cùng giá đỡ, đèn chụp. Rương gỗ bên cạnh có một bộ xương khô đang đeo một chiếc túi vải, tôi từ trong túi tìm được một chiếc la bàn hành quân, phía dưới đáy có một cái nắp, mở ra mới thấy bên trong trang bị hơn mười mấy cây diêm loại có thể chống được nước, trên đầu bọc một lớp phốt-pho, thiết kế vô cùng xảo diệu. Ngoài ra còn có một cuốn sổ ghi chép cũng là loại chống nước, tôi mở ra thử đọc sơ qua một lượt, bên trong chi chít toàn chữ là chữ ghi lại nhật ký hành quân, tôi đem la bàn nhét vào trong ngực, đang muốn nhìn kỹ một chút nội dung trong cuốn nhật ký, nước trong khoang thuyền bỗng nhiên dâng lên rất nhanh. Tuyền béo vội vàng gọi tôi: “Đi mau, con thuyền này sắp chìm rồi!”

Tôi thế nhưng không hề cảm thấy bên trong khoang thuyền có một chút rung lắc cả, hẳn không phải do con thuyền này đang chìm xuống, mà là trên núi có mưa lớn như trút nước, khiến cho nước đọng bên trong khe nứt nhanh chóng dâng lên cao. Ba người không kịp tìm kiếm thêm thứ gì khác, vội vàng chui ra cửa khoang, trèo lên tầng nham thạch ở chỗ cao ráo, đi về phía trước lại thấy một khe nứt chật hẹp khác, tối mù không một chút ánh sáng. Chúng tôi thấy khe nứt này vừa sâu vừa dài, thật không biết có điểm cuối hay không, mặc dù ai cũng nóng lòng muốn thoát khỏi nơi đây, nhưng các cụ đã nói rồi: dục tốc thì bất đạt, cho nên mấy người bèn quyết định dừng chân ngay dưới vách đá, ngồi xuống nghỉ ngơi cho lại sức. Mỗi người chia nhau ăn hai cái bánh đậu, lại thắp sáng đèn bão, mở cuốn nhật ký ra, ghé vào dưới ánh đèn cẩn thật lật xem từng trang một.

Nhật ký mặc dù được viết bằng chữ Nhật, nhưng trong đó phần lớn lại là chữ Hán, chúng tôi có đoán mò cũng hiểu được hơn phân nửa nội dung. Thì ra tên quỷ tử viết cuốn nhật ký này là một ký giả kiêm nhiếp ảnh gia của Mãn Châu Ánh Họa, lúc ấy ngoài hắn ra Mãn Ánh còn có vài tên nhân viên nữa, tuân lệnh cấp trên quay một bộ phim tài liệu về quân đội và viết bản tin tuyên truyền về thắng lợi vẻ vang của chủ nghĩa đế quốc, mục đích không có gì khác ngoài việc che đậy sự thật rằng đế quốc Nhật Bản vĩ đại trên chiến trường Thái Bình Dương đã bị đánh cho tan tác, triệt để đầu hàng, nhiệm vụ hằng ngày của hắn chủ yếu là vác máy đi quay và viết truyền tin. Vào thời điểm đó, những bộ phim tài liệu như vậy đều phải được ưu tiên chiếu trước trong các rạp chiếu bóng, có phim khoe ra vùng đất thiên đường do Nhật hoàng cai trị, có phim kể lại cuộc thảo phạt mã hồ tử của hoàng quân, mã hồ tử chính là tên để gọi đám thổ phỉ của người dân Đông Bắc. Tên nhiếp ảnh gia này được phân công đến một đội thảo phạt quân, nghe nói trong núi sâu có một đám kim phỉ, dựa vào địa thế hiểm trở của núi rừng mà nhiều lần kháng cự lại hoàng quân. Thế nhưng sau khi vào núi, thảo phạt quân không hề tìm được thôn kim phỉ, núi cao trước kia không ngờ giờ lại biến thành một con sông lớn, cái thôn kia có lẽ đã bị chìm sâu dưới đáy nước.

Đội quân kia trên danh nghĩa là vào núi tiễu phỉ giúp dân, nhưng thực ra là vì muốn dòm ngó mạch vàng trong núi. Thế nên bèn điều tới con sông này không biết bao nhiêu là tàu chiến các loại, sục sạo tìm kiếm khắp mọi ngóc ngách, cứ thế liên tục ba ngày, cuối cùng đến một cọng rác cũng chẳng mò lên được, đã thế con sông lại còn bất chợt phát sinh biến cố, toàn bộ nước sông bị hút xuống một cái huyệt động lớn, đội thảo phạt quân cùng đám tàu chiến tất cả đều bị rơi vào trong khe nứt. Thiêu thân đã lao vào lửa thì làm sao quay lại, đã rơi xuống đây cách nào mà trở ra? Trong cuốn nhật ký do tên ký giả kia để lại, có ghi chép khá đầy đủ và chi tiết những thông tin tình báo về đám kim phỉ, bao gồm việc kim phỉ cung phụng khôi đại tiên gia, ném người sống vào trong động vàng để hiến tế, ngay cả số lượng súng đạn trong thôn có bao nhiêu bọn chúng cũng biết, từ đó có thể thấy rằng đội thảo phạt quân này đã có chuẩn bị mà đến. Nhưng không một ai có thể nghĩ tới không chỉ không tìm được cái thôn đấy, mà ngược lại toàn bộ hạm đội tàu chiến lại bị rơi vào khe nứt trong núi. Khi đó vì bị dòng nước ngăn trở cho nên đội thảo phạt quân người Nhật chỉ có thể đi sâu tiếp vào bên trong, nhưng không hề tìm thấy thôn kim phỉ. Bọn chúng tình cờ phát hiện thấy trong khe nứt một bức bích nham, trên đó có vẽ đồ đằng mặt trời, tượng trưng cho một loài thực vật vô cùng to lớn. Những nhánh dây leo trải dài của nó có thể xuyên thủng đất đá, thông qua rừng rậm phía trên để hấp thụ ánh nắng mặt trời trong núi, rồi lại lần nữa nhờ vào những sợi dây leo đấy truyền dinh dưỡng vào lòng đất, từ đó khiến cho bên trong khe nứt xuất hiện cỏ cây, thậm chí mọc lên cả một cánh rừng rộng lớn.

Người cổ đại gọi chủng loại thực vật đặc biệt này là “thái dương toái phiến” (Trans: Mảnh vỡ của Mặt trời), chính là bảo tương hoa tương truyền trong kinh Phật, cho nên còn được gọi “Phật hoa”. Từ thời nhà Đường đến nay trong kinh Phật có ghi chép lại nhiều thông tin liên quan đến Phật hoa, trong đó nói rằng bảo tương hoa đứng thứ nhất trong 24 loại Phật hoa, là mảnh vỡ do Mặt trời tạo ra, có thể xuyên qua đại địa, vạn trượng quang minh, chiếu khắp thập phương thế giới, thường vẫn hay nói là bát phương nhưng thực ra còn phải kể đến hai phương trên và dưới nữa, trên chỉ trời, dưới chỉ đất. Truyền thuyết về bảo tương hoa đã từng theo các thuyền buôn vượt biển mà du nhập vào Nhật Bản, cho nên tên ký giả Mãn Ánh này cũng biết qua đôi chút. Lúc ấy đội thảo phạt quân đi phía trước để tìm lối ra cũng không trở lại nữa, những người còn sót lại hoặc chết hoặc bị thương nặng, tên ký giả này cũng nằm trong số những người bị thương, mắc kẹt lại bên trong chiến thuyền nửa chìm nửa nổi này, nhật ký đến đây là chấm hết. Tình huống về sau như nào không cần nói cũng hiểu, toàn bộ thảo phạt quân Nhật Bản đều chết hết, táng thân trong lòng đất.

Chúng tôi chợt như bừng tỉnh sau cơn mê dài, đồ hình được khắc trên bức bích họa chỗ cánh cửa đá không phải là nhãn cầu như mấy người vẫn lầm tưởng, mà là bảo tương hoa được ghi chép trong kinh Phật, những đạo quang mang tạo thành vòng xoáy xung quanh, chính là những sợi dây leo của bảo tương hoa vươn ra khắp bốn hướng tám phương. Mỗi sợi đều to khủng bố mấy chục người ôm không xuể thế kia, vậy không biết bảo tương hoa còn to lớn đến mức nào nữa?

Nếu như nói đồ hình nhãn cầu kia là để chỉ bảo tương hoa bên trong khe nứt, vậy thì thứ mọc trên đầu người phụ nữ được miêu tả trong bức bích họa kia là có ý gì? Bảo tương hoa có thể phát sáng lại mọc ra từ trên đầu ả ta? Tôi nhớ trước kia từng có truyền thuyết kể về thiên nữ bạt, thiên nữ bạt cao chừng gần hai đến ba thước, mắt mọc ra ở trên đỉnh đầu, đi qua nơi nào thì nơi đấy mặt trời chói chang treo cao ba ngàn trượng, ngàn dặm không một bóng mây, là lão tổ của hạn bạt. Khi Hiên Viên Hoàng đế vẫn còn tại vị, trong đám thủ hạ xuất hiện một tên loạn thần tặc tử, tên là Xi Vưu, hắn chẳng những là người sáng tạo ra đao kích đại nỏ, mà còn giỏi sử dụng sương mù, ỷ mình là vô địch thiên hạ, xúi giục bách tính trăm họ đứng lên tạo phản, đoạt lấy giang sơn của Hiên Viên Hoàng đế. Hai người đại chiến một trận ở vùng hoang sơn dã lĩnh bên ngoài Trác Lộc, Xi Vưu cho thả ra một đoàn sương mù dày đặc, đại quân của Hiên Viên Hoàng đế toàn bộ đều bị sương mù làm cho mê muội đầu óc, không tài nào phân biệt nổi phương hướng xung quanh, suốt ba ngày ba đêm vẫn chưa thoát ra được khỏi trùng vây của quân địch. Lúc này vừa hay Cửu thiên Huyền nữ hạ phàm, liền truyền cho Hiên Viên Hoàng đế cuốn Âm Phù Bí Sách, giúp ngài chế tạo ra được một loại xe, gọi là Chỉ Nam Xa. Trên xe có đặt một hình nhân bằng gỗ, dù cho bánh xe có di chuyển theo hướng nào đi chăng nữa thì ngón tay của hình nhân vẫn sẽ chỉ chính xác về hướng Nam, nhờ có cỗ bảo xa này mà Hiên Viên Hoàng đế đã đại phá được âm mưu của Xi Vưu. Tuy thua trận này nhưng Xi Vưu vẫn chưa hề từ bỏ dã tâm của mình, dưới trướng của hắn còn có hai tên thủ hạ đắc lực là Phong Bá và Vũ Sư, có thể hô phong hoán vũ, khiến cho đại quân của Hiên Viên Hoàng đế trong nháy mắt chỉ còn lại là một đám tàn quân. Ngài lúc này đành phải lần nữa thỉnh Thiên Nữ Bạt hạ phàm, Thiên Nữ Bạt có một loại bản lĩnh thông thiên chính là tạo ra nguồn sáng với nhiệt lượng lớn kinh khủng, so với năng lượng Mặt Trời toả ra không biết mạnh hơn gấp bao nhiêu lần, quả nhiên là khắc tinh của mưa gió, một lần nữa âm mưu của Xi Vưu lại bị phá vỡ, bản thân thì bị truy đuổi chém giết gắt gao. Máu huyết của Xi Vưu chảy ra vương vãi khắp nơi, biến thành Diêm Trì (Trans: Hồ muối) ở thành Bắc Khánh Dương Phủ, nay thuộc tỉnh Thiểm Tây. Nội dung được mô tả lại trong bức thánh tung đồ kia có lẽ chính là để chỉ Thiên Nữ Bạt, với một con mắt làm từ thái dương toái phiến nằm ở trên đỉnh đầu. Thứ đồ mà tên chuột đất muốn tìm kiếm khả năng cao là một loại quả do bảo tương hoa kết thành. Hắn ta ban đầu vốn tưởng rằng bảo tương hoa sinh trưởng ở trong Liêu mộ, nhưng cuối cùng vẫn không thể ngờ được rằng toàn bộ toà Liêu mộ này chỉ là lối vào bên ngoài mà thôi. Mặc dù dựa theo những ghi chép còn sót lại của đám lính Nhật kia đã giúp chúng tôi giải đáp được thắc mắc về những lời trăn trối cuối cùng của Nhị Hổ, nhưng nó đồng thời cũng dập tắt hết hi vọng của mọi người: trong khe đất này không thể tìm được lối ra!

Tuyền béo nói đám lính Nhật kia chỉ là lũ bù nhìn của chủ nghĩa quân phiệt thối nát, làm sao có thể so sánh cùng với chúng ta được? Cái gì mà lên chín tầng trời hái ánh trăng rằm? Thế nào là vượt năm đại dương bắt con sóng lớn? Đường đường là đấng nam nhi đầu đội trời chân đạp đất, cơ hội hãy còn ở ngay trước mắt, không xông lên đoạt lấy há chăng lại làm con rùa đen rụt cổ đánh trống thu quân? Các cậu nghĩ xem, hồng quân năm xưa viễn chinh hơn hai mươi lăm ngàn cây số vất vả biết nhường nào, quân địch thì vây khốn tầng tầng lớp lớp không có lối thoát, phi cơ đại pháo thì dí ngay sát sau đít, đến vỏ cây cũng không có mà nhai, leo núi tuyết vượt thảo nguyên, gặp bao nhiêu khó khăn gian khổ, chẳng phải cuối cùng cũng chạm tay tới được thành công đấy ư? Hơn nữa, kiểu quái gì mà chẳng chết, vươn cổ ra thì cũng chỉ một đao là hẹo mà rụt cổ lại thì cũng từng ấy đao là lên đường mà thôi, trái phải đều là chết, sợ hãi thì có ích gì? Cho dù có thể chạy thoát, lương khô nước uống chẳng có, sống lâu thêm được mấy ngày hay chết sớm thêm được mấy bữa thì khác gì nhau? Không bằng liều mình một phen, thử xem bảo tương hoa kia rốt cuộc là thứ gì, dân gian có câu gì ý nhỉ? Chết ở Hoa Hạ, thành quỷ cũng phong lưu!

Tôi với Tuyền béo chưa bao giờ có suy nghĩ tham sống sợ chết cả, chỉ là không muốn Tiêm Quả vì chúng tôi mà mất mạng một cách oan uổng. Tiêm Quả dường như nhìn ra được nét lo lắng hiện lên trên khuôn mặt chúng tôi, liền nói: “Lần trước lúc hãy còn ở nông trường số 17, gặp phải đàn sói dữ trong bão tuyết, chúng ta vẫn có thể kiên trì đến cùng đó thôi, tôi tin rằng lần này cũng vậy, chỉ cần mọi người đoàn kết nhất trí một lòng, nhất định sẽ thoát được ra ngoài!” Suy nghĩ trong đầu khẽ động, tôi chợt nghĩ ra một cách, những sợi dây leo vươn ra từ bảo tương hoa có thể đâm thủng được cả núi đá, trong túi chúng tôi vẫn còn một vài khối thuốc nổ, nếu như vào được trong huyệt động rồi cho nổ tung bảo tương hoa, nói không chừng lại có thể mở ra được một lối thoát, bất quá bảo tương hoa quá lớn, từng này thuốc nổ chưa chắc đã đủ dùng, cách này của tôi liệu có khả thi hay không còn phải chờ xem thế nào đã. Nhưng trước mắt mà nói, đây có lẽ là giải pháp và lối thoát duy nhất!

Ba người thương lượng xong xuôi, quyết định sẽ đi tới cùng, nhưng mực nước dâng lên quá nhanh, thế nước cũng dần biến thành những dòng chảy xiết đứng, có thể thấy trận mưa trên núi quả thực không phải là nhỏ. Địa thế trong khe nứt cao dần về phía Đông, thấp về phía Tây, nước đọng lại càng ngày càng cao, chẳng mấy chốc đã tạo thành một dòng sông ngầm. Chúng tôi vội vàng tăng tốc, hai tay bám lấy những sợi dây leo rủ xuống từ trên vách đá, chân dẫm vào những khối nham thạch chưa bị nước nhấn chìm, dè dặt tiến về phía trước một cách hết sức cẩn thận, chỉ sợ chẳng may trượt chân rơi xuống một cái, sẽ bị dòng nước chảy xiết cuốn trôi đi đâu cũng không biết nữa.

Mặc dù cả ba chúng tôi đều biết bơi cả, nhưng chẳng may trong lúc hoảng loạn giữa dòng nước, không cẩn thận để đầu va phải nham thạch, thì thôi xác định đi gặp hai đồng chí Lê-nin Các-mác dần là vừa. Ước chừng đi được ba trăm bước, từ địa thế chật hẹp của khe nứt bỗng lộ ra một thạch quật vô cùng rộng lớn, trông hệt như một cái đấu lộn ngược vậy, hai bên vách động dốc thẳng tắp, cách nhau hơn ba mươi trượng, góc cạnh rõ ràng, khe nứt giống như từng tầng sóng biển, được sắp xếp ngay ngắn chỉnh tề theo thứ tự, khiến người ta nghĩ ngay tới đây là một tác phẩm nhân tạo do ai đó tạo nên. Chúng tôi leo lên một mỏm đá lớn, dùng đèn pha chiếu về phía trước, chỉ thấy một biển nước mênh mông đen kịt hiện ra, tiếng nước chảy “rào rào rào rào" vang dội không ngớt bên tai, xem ra đường đi đến đây thế là hết rồi.

Tuyền béo bèn thò chân xuống nước xem thử sâu cạn ra sao, nếu như không quá sâu, chúng tôi vẫn có thể men theo mép nước mà đi tiếp, nào ngờ biển nước trông rộng lớn như thế, nhưng lại chảy xiết vô cùng. Cậu ta vừa mới duỗi chân ra, suýt nữa đã bị cuốn trôi vào trong dòng nước. Tôi và Tiêm Quả vội vàng lôi cậu ta lên trên mỏm đá, Tuyền béo lè lưỡi một cái: “Cha tiên sư nhà nó, ai biết được dòng nước bỏ mẹ này lại vừa sâu vừa xiết như thế chứ, nặng như tôi cũng chịu chết!”

Tiêm Quả nói: “Nước đọng đang dâng lên rất nhanh, cứ đợi mãi ở chỗ này cũng không phải là an toàn, hay ba người chúng ta bám lấy nhau rồi men theo mép đá mà đi, hẳn sẽ không bị nước xiết cuốn trôi đâu.”

Tôi nói: “Tôi đuối lắm rồi không còn mấy sức nữa đâu, thằng cha Tuyền béo kia nặng như thế, chân lại còn đi đôi giày quân dụng chắc trình trịch, một khi xuống nước rất khó mà đứng vững, có thể thấy khe nứt này chênh lệch rất lớn, nước chảy xiết quá sức tưởng tượng của chúng ta, cũng không biết phải đi đến lúc nào nữa, chúng ta tốt nhất chớ nên cầm cái mạng nhỏ này đem ra đánh cược một cách mạo hiểm như vậy.”
Tiêm Quả nói: “Thế nước càng ngày càng lớn, cứ chôn chân ở đây thì chỉ có con đường chết mà thôi, phải mau nghĩ cách đi chứ!”

Tuyền béo gắt: “Trong lòng cô có coi tôi ra cái gì không thế? Nam nhi sức dài vai rộng để làm cái gì? Không dám nói mấy chuyện to tát như xuống biển lớn bắt ba ba này nọ, nhưng trèo đèo lội suối tuyệt không thành vấn đề.” Vừa dứt lời, cậu ta liền vứt khẩu súng săn trong tay sang một bên, lấy xẻng công binh cạo bỏ bùn đất bám trên vách đá, định bụng sẽ trèo lên vách khe nứt bò dần về phía trước, nào ngờ cậu ta chợt khựng lại, ngạc nhiên thốt lên: “Đây là cái thứ quái quỷ gì vậy?”

Tôi cùng Tiêm Quả tiến lên xem thử, thấy trên vách đá quả thật có rất nhiều nham bích cổ xưa, là từng khuôn mặt quái vật dữ tợn, nửa người nửa quỷ, vây quanh một cái đồ đằng bảo tương hoa, bốn phía còn có vài nham bích tả cảnh chim bay cá nhảy khác, nội dung sắp xếp lung tung không hề tuân theo một quy tắc nào cả. Những nham bích chim cá kia cũng hết sức quái dị, có lẽ chính là hình thái nguyên thuỷ của chúng, những giống loài này khéo đã sớm tuyệt diệt từ lâu mất rồi. Tiêm Quả từng được nghe những tay thợ săn trong thôn kể lại, hang đá sâu trong núi thường hay có sơn quỷ qua lại, không biết liệu có phải là đám quái vật được vẽ lại trên các bức nham bích này hay không? Tuyền béo nói: “Cô em lại toàn nghe mấy lão ấy nói phét rồi, rừng sâu núi thẳm đến một bóng người còn chẳng có, bới đâu ra quỷ?”

Tôi đáp: “Tôi trước kia cũng cho là khu vực Hắc Sơn Đầu này toàn bộ đều là rừng rậm nguyên thuỷ không dấu chân người, nhưng nào ai nghĩ tới nơi này ấy thế mà lại có hẳn cả một toàn Liêu mộ khổng lồ, còn có kim phỉ thôn, cho nên nói trong khe nứt vạn năm không thấy ánh sáng mặt trời này xuất hiện gì mà sơn quỷ này nọ cũng không hề kỳ quái.”

Tuyền béo nói: “Cậu thật đúng là, như thế mà còn bảo là không kỳ quái? Cậu không nghe đám thợ săn Ngạc Luân Xuân nói sao? Sơn quỷ chính là cương thi trong núi, còn được gọi là sơn bạt, người sống hay người chết đều là thức ăn của nó cả. Nói cương thi ăn thịt người sống thì còn nghe được, đằng này lại còn ăn thịt người chết nữa, cương thi không phải là đã chết rồi sao? Người chết ăn thịt người chết thì còn ra cái thể thống gì? Cậu cũng được sinh ra dưới lá cờ đỏ cách mạng, tắm ánh mặt trời mà lớn lên, tại sao trong đầu đặc toàn tư tưởng mê tín dị đoan vậy, lại đi tin mấy cái truyền thuyết ba láp ba lếu này là thật!”

Tôi bất đắc dĩ nói: “Tôi chỉ mới nói đúng có một câu mà cậu đã sồn sồn hết cả lên là thế nào?”

Tuyền béo vẫn gân cổ lên nói: “Tôi đây không phải là vì lo lắng cho cậu sao? Thân là chiến hữu cách mạng cùng kề vai sát cánh, thấy ý thức tư tưởng của cậu bắt đầu lệch lạc, nếu như tôi không giúp cậu ghìm cương trước bờ vực, biết sai mà quay đầu, thì làm sao xứng với hai từ chiến hữu?” Trong lúc hai thằng tôi nói chuyện, mực nước vẫn nhanh chóng dâng cao.

Tiêm Quả nói: “Nơi này sắp chìm trong biển nước rồi, hai người các anh có thể để lúc khác hãy thảo luận vấn đề này được không?”

Tuyền béo nói với tôi: “Cậu nghe xem Tiêm Quả người ta ăn nói thế nào kìa, người ta không giục hai chúng ta đi mau, mà là hỏi nhẹ nhàng tình cảm xem hai ta có thể chờ lúc khác thảo luận hay không, cái này gọi là chiến hữu đối đãi với nhau ấm áp như mùa xuân vậy! Còn cái thể loại nhà cậu, người khác vừa mới chỉ ra vấn đề hòng giúp đỡ, còn chưa thèm phê phán câu nào, thì cậu đã sưng cái mặt gân cái cổ lên, cãi lại như mấy con mụ hàng tôm hàng cá ngoài chợ…” Tuyền béo là loại người chỉ sợ thiên hạ không loạn, gặp ai cũng giở cái giọng giáo huấn, một khi có người tiếp chuyện, cậu ta liền ngoạc cái miệng ra bắn như súng máy liên thanh, nói thâu đêm suốt sáng cũng không thấy mệt. Giờ mà đợi đến khi nước dâng lên cao, súng săn, thuốc nổ, lương khô, mồi lửa chúng tôi mang theo đều có thể bị ẩm không dùng được nữa, cho nên tôi nào có tâm tư cùng cậu ta đốp chát, bảo Tiêm Quả bám sát sau lưng tôi, đem đèn bão treo lên đầu súng, dẫn đầu đoàn người leo lên vách đá, vừa mới bước được một chân ra đã bị Tuyền béo lôi xuống, tôi nghĩ thầm: Thằng cha này hôm nay bị dở chứng à mà còn dông dài như thế, còn không mau không đi nhanh, muốn thành ma chết trôi cả lũ hay sao?

Nào ngờ vừa quay đầu lại, liền thấy sắc mặt hai người Tuyền béo cùng Tiêm Quả có gì đó không ổn, bọn họ đang ngửa đầu nhìn lên, đèn pin trong tay chiếu tới bên trên vách đá. Tôi thấy vậy liền biết ngay có chuyện không hay, cũng đúng lúc này, một mùi xác thối tởm lợm xộc thẳng vào hai cánh mũi, tôi vội vàng quay đầu lại, lập tức phát hiện một thứ toàn thân lông lá, cao chừng ba thước, tứ chi bám chặt lấy vách động, đang nhanh chóng bò qua chỗ chúng tôi.

Tốc độ của nó rất nhanh, chớp mắt một cái đã tới trước mặt tôi, treo ngược trên vách động, thứ này tuy trông đầu không lớn lắm nhưng khi nó vừa ngửa mặt lên, một khuôn mặt to đùng liền hiện ra, không có lông, loang lổ chỗ trắng chỗ đỏ, răng nanh trong miệng cái nào cái nấy đều sắc nhọn như dao, đôi mắt quái dị bắn ra kim quang lấp lánh khắp bốn phía, móng vuốt vươn ra định cào vào mặt tôi. Tôi giật mình kinh hãi, thì ra truyền thuyết sơn bạt là có thật, tuy nhiên không phải là do cương thi biến thành, đây có lẽ là một giống vượn núi nguyên thủy nào đó còn sót lại, tướng mạo hết sức kinh khủng, lại thêm toàn thân bốc mùi hôi thối như xác chết, hay qua lại nơi hang cùng ngõ hẻm trong rừng sâu núi thẳm, nên rất dễ bị người ta nhận nhầm là sơn quỷ.

Trong lúc tôi hãy còn đờ đẫn vì sợ hãi, móng vuốt của sơn bạt đã vồ tới, khoảng cách giữa tôi và nó quá gần, không tài nào né kịp. Móng vuốt của nó tựa như những cái móc sắt, ngay cả da thô thịt dày như lợn rừng cũng có thể một phát xé toạc. Tôi lúc ấy toàn thân run lên, xác định cái mặt này không giữ được nữa rồi, chưa hẳn là sẽ chết, nhưng mà đến mặt còn không còn thì sau này biết sống như nào đây? Nếu sớm biết sự tình sẽ thành ra như thế này, tôi đã dứt khoát cầm luôn cái mặt nạ bằng vàng ra khỏi địa cung, may ra còn chống đỡ được một nhát cào, nhưng ở đời làm gì có cái gọi là “sớm biết”! Mặc dù Tuyền béo phía sau còn có cây súng săn, nhưng khổ nỗi cậu ta lại đang đeo ở trên lưng, trong lúc vội vàng cấp bách cũng không kịp lấy xuống, cậu ta phồng mồm trợn má hét to làm bộ hăm dọa, cho rằng có thể khiến cho sơn bạt sợ chạy, tuy nhiên lại chẳng có tí tác dụng nào.

Lòng tôi cảm thấy tuyệt vọng vô cùng, đành chỉ biết nhắm mắt chờ chết, trong lúc ngàn cân treo sợi tóc, Tiêm Quả bỗng nhanh trí bật ngọn đèn pha trong tay, một luồng ánh sáng chói lòa rọi thẳng vào mặt sơn bạt. Nó rú lên một tiếng quái dị, suốt bao năm qua nó đã quen sống trong huyệt động tối tăm u ám, thị lực phát triển khác thường, cực kỳ nhạy cảm đối với ánh sáng, trong khi đó luồng sáng cực mạnh từ đèn pha lại chiếu tới ở khoảng cách quá gần, khiến nó nhất thời không thể mở nổi mắt, vội vàng thu móng vuốt lại che ở trước mắt. Tôi thầm kêu một tiếng: Hú vía! Tiêm Quả mặc dù cũng từng được học qua các khóa huấn luyện quân sự ở binh đoàn, nhưng tính cách cô ấy vốn như thuận, từ trước tới giờ mỗi khi gặp chuyện gì nguy hiểm thì đều có tôi cùng Tuyền béo, Lục Quân, ba người sẵn sàng che chở ở phía trước, không nghĩ tới lần này chính cô ấy lại cứu tôi một mạng trông thấy!

Nói thì chậm nhưng mọi chuyện diễn ra rất nhanh, nhân lúc sơn bạt rút tay về che mắt, tôi liền chớp thời cơ rút thanh quân đao ra, nhưng còn chưa kịp động thủ, Tuyền béo đã xông lên tấn công trước, cây xẻng công binh trong tay vung lên đập mạnh vào đầu, khiến cho sơn bạt phải hét lên một tiếng thảm thiết, rơi ùm xuống nước, chớp mắt đã bị dòng nước xiết cuốn đi nơi nào không rõ. Nước sông vẫn dâng lên không ngừng, mới đó mà đã ngập qúa bàn chân ba người. Chúng tôi đành trèo lên mỏm đá lớn hơn, cách mặt nước một khoảng chừng năm, ba trượng, chẳng mấy mà cũng sẽ bị ngập trong nước, không có lấy một chỗ dung chân.

Tuyền béo thấy dòng nước chảy xiết kinh người, lúc này mới hiểu được tình cảnh hung hiểm biết nhường nào, liên tục hối thúc: “Đi mau! Đi mau! Nước sắp ngập cả núi rồi!” Chúng tôi sau khi tiến vào trong khe nứt, vẫn luôn một mực đi về hướng Tây, mặc dù không biết đã đi được bao xa, nhưng tôi đoán chừng bên trên đã không phải là Hắc Sơn Đầu nữa rồi. Khe nứt kéo dài bên dưới lòng đất từ Đại Hưng An Lĩnh đến tận thảo nguyên hoang mạc phía Tây, vùng này địa thế trũng xuống, hết thảy bốn phía đều là đầm lầy ẩm thấp, phù sa hôi thối sâu không thấy đáy, một khi gặp phải trận mưa kéo dài liên tục mấy ngày liền sẽ biến thành một cái phễu lớn. Chúng tôi lại vừa vặn đứng ở nơi tương đối chật hẹp giữa các tầng đá nứt, từ trên vách động dù cho có đi nhanh hơn chăng nữa, cũng không nhanh bằng tốc độ chảy của sông ngầm, không thể không dính chút nước, nhưng nước sông lại chảy xiết vô cùng, tài bơi lội dù cho có khá đến mấy một khi rơi vào trong nước cũng đành bó tay. Tình hình lúc này vô cùng khẩn cấp, không còn thời gian để nghĩ ra một biện pháp nào khác hay hơn, chỉ có thể đi thêm được bước nào thì hay bước đó!

Tôi vẫy tay ra hiệu, gọi Tuyền béo cùng Tiêm Quả mau trèo lên, nào ngờ đèn pha vừa lia qua một cái, liền phát hiện vô số cặp mắt quái dị toả ra kim quang lấp lánh, thì ra quanh đây không chỉ có duy nhất một con sơn bạt, đếm sơ sơ trong tầm mắt cũng phải có ít nhất hơn chục con. Sơn bạt giống như vượn cổ, không thích sống ở những nơi bằng phẳng, quanh năm suốt tháng chỉ sống dưới lòng đất âm u ẩm thấp, rất sợ ánh sáng, có thể bò qua bò lại trên vách đá cheo leo hiểm trở tựa như giẫm trên đất bằng vậy, do thường ăn xác chết cho nên trên người lúc nào cũng bốc lên một mùi hôi thối kinh người. Bảo tương hoa sinh trưởng ở sâu trong địa mạch, không phải lúc nào cũng phát sáng, mà dựa vào chu kỳ ngày đêm, tuỳ theo dương khí hay âm khí mạnh nhẹ mà luân phiên chớp tắt. Lúc này bên ngoài mưa như trút nước, bảo tương hoa không thể phát sáng, khe nứt lại rơi vào một mảnh đen nhánh, khiến cho sơn bạt vốn trốn trong núi bây giờ đồng loạt đi ra! Ba người chúng tôi bị vây lại trên tảng đá, một bên là vách đá thẳng đứng, ba mặt là nước sông chảy xiết, căn bản không còn đường nào để lui, đành phải liều mạng chiến đấu với đám quái vật kia vậy.

Tuyền béo thì dùng súng săn của cậu ta, còn tôi cùng Tiêm Quả thì mỗi người một khẩu súng lục, bắn loạn xạ lên vách đá. Có mấy con sơn bạt bị trúng đạn, trực tiếp rơi thẳng xuống nước, lại thêm vài con mon men tiến gần cũng bị chúng tôi dùng xẻng công binh đập bay vào trong nước, đám sơn bạt còn lại rú lên những tiếng quái dị để gọi đồng bạn tới, tiếng sơn bạt gào thét tới lui bị vách đá phản lại hệt như tiếng ma kêu quỷ khóc, khiến con người ta không rét mà run. Nước sông càng ngày càng dâng cao, chớp mắt đã nhấn chìm tảng đá dưới chân, nếu không phải chúng tôi cố gắng bám víu lấy nhau thì đã sớm bị dòng nước xiết cuốn vào sông ngầm.

Cả ba vô cùng tuyệt vọng, thà bị sơn bạt ăn tươi nuốt sống còn hơn là bị nước sông cuốn đi, trong lúc nguy khốn bản năng cầu sinh trôi dậy, giãy giụa một hồi cũng chưa chắc đã bị chết chìm, bất quá đồ đeo trên người lại quá nặng, không bỏ xuống thì bơi giỏi đến mấy đi nữa cũng vô dụng! Nếu muốn không bị chết chìm, mấy thứ như mũ quân dụng, giày lính, xẻng công binh, vũ khí đạn dược, còn có bi-đông nước, thuốc nổ tự chế, thậm chí ngay cả lương khô cũng đều phải vứt bỏ. Không có những thứ này, nếu may mắn không bị chết chìm trong lòng sông thì cũng đừng hy vọng có thể sống sót mà thoát ra. Cũng chẳng phải là do tiếc rẻ cái gì, chỉ là ba chúng tôi nãy giờ vẫn còn đang phải lo đối phó với đám sơn bạt từ trên vách động kéo tới, căn bản không có thời gian mà tháo bỏ trang bị.

Trong lúc hỗn loạn, đèn pha trong tay đung đưa lên xuống vô tình chiếu tới mặt nước, tôi liền liếc thấy từ phía thượng du sông ngầm có một vật màu đen thùi lui trôi tới. Thì ra đó là một gốc cổ thụ trong cánh rừng nguyên sinh dưới lòng đất kia, ước chừng phải mấy người ôm mới xuể, chính giữa thân cây đã bị mục ruỗng khiến cho nó cứ lơ lửng trên mặt nước không thể chìm xuống được. Cơ hội trời cho như vậy không thể để vuột mất, thời gian lúc này là vàng là bạc, tôi không kịp do dự, vội gọi Tuyền béo một tiếng, đưa tay kéo lấy Tiêm Quả rồi cả ba cùng nhảy tới ôm lấy thân cây, sóng nước dập dềnh đẩy thân cây đi, nhanh chóng tiến sâu vào trong khe nứt, quay đầu lại nhìn chỉ thấy đám sơn bạt đã sớm bị bỏ lại tít phía sau. Ba người chúng tôi ai nấy đều cảm thấy kiệt sức, hổn hà hổn hền thở lấy từng hơi dài, toàn thân trên dưới ướt sũng như chuột lột, chẳng buồn nhúc nhích lấy một cái, đến nỗi tiếp theo là sống hay là chết, hết thảy đều giao phó cho ông trời mà thôi.
Đầu óc tôi mơ mơ màng màng, nhưng tay vẫn ôm chặt lấy khúc gỗ không dám buông, trong lúc mông lung rối bời chợt nhớ tới lúc tổ phụ truyền thụ lại quyển “Lượng Kim Xích” cho tôi như thế nào, nhớ tới khi hưởng ứng lời hiệu triệu thanh niên của Mao Chủ tịch lên núi về quê đến biên cương tham gia sản xuất, nhớ những ngày ở nông trường số 17 đào đất đắp hào gặm bánh ngô, cùng đồng đội gói sủi cảo, ngồi trên kháng đất nghe kể truyện “Biển tuyết mênh mông”, nhớ lại trận chiến với bầy sói hoang giữa cơn bão tuyết, để rồi bị một con hồ ly dẫn theo vào trong toà Liêu mộ này, nhớ cảnh tôi và Tuyền béo ở Hắc Thuỷ Giang trông ruộng dưa cùng tán phét,... Khúc gỗ trôi nổi bập bềnh trên dòng nước xiết đen ngòm lúc cao lúc thấp, cả người dường như bị ai đó tung lên không trung rồi lại lập tức ném xuống vực thẳm vật, ký ức trong đầu hết thảy đều trở nên hỗn loạn mơ hồ, tựa như tất cả đều chỉ là chuyện của kiếp trước, đã quá xa xôi.

Tôi cứ thế chìm dần vào trạng thái vô tri vô giác lúc nào không hay, phải qua một hồi lâu tinh thần mới bình tĩnh trở lại, tốc độ chảy của sông ngầm đã dần dần chậm lại, không còn mãnh liệt như trước. Tôi kêu Tuyền béo cùng Tiêm Quả ở phía trước mau mở đèn pha quan sát tình hình xung quanh, bốn phía đều là biển nước mờ mịt, hai bên vách đá cũng biến mất không thấy đâu nữa, dòng chảy tuy đã chậm hơn nhưng vẫn không ngừng đổ về phía trước. Tôi lấy la bàn ra xem xét phương vị, chỉ thấy kim la bàn vẫn luôn chỉ thẳng về hướng Tây. Trước mắt tạm có thể nói ba chúng tôi đã tìm được đường sống giữa vạn lối chết, chuyện trên đời trước giờ đều là trong cát có hung, trong hung có cát, người tuy có lúc nghịch thiên, nhưng thiên không tuyệt đường người, nếu nước sông không chảy mạnh, chưa chắc chúng tôi đã có thế vượt qua nơi sơn bạt trú ẩn. Đám quân Nhật năm đó, có lẽ toàn bộ đều bỏ mạng tại chỗ đấy.

Tôi nói với Tiêm Quả: “Lúc ấy thật đúng là nguy hiểm, may mà có cô nhanh trí dùng đèn pha chiếu vào mặt sơn bạt, nếu không giờ này tôi đã phải đi gặp đồng chí Mao Chủ tịch rồi!”

Tiêm Quả trong lòng vẫn còn sợ hãi: “Cũng may mà thoát nạn, tôi chỉ sợ vạn nhất…”

Tuyền béo chen cái miệng vào, nói: “Cô yên tâm đi, cậu ta thì có cái gì mà vạn nhất chứ, cái bản mặt tiểu nhân kia đến chó còn chê chẳng thèm liếc một cái, nói gì đến chuyện được Mao Chủ tịch gọi tới gặp mặt?”

Nói rồi cậu ta quay sang nói với tôi: “Nếu như dòng sông ngầm này chảy thông tới huyệt động nơi bảo tương hoa sinh trưởng, chúng ta bám lấy cây gỗ này xuôi dòng, vậy chẳng phải là không tốn công tốn sức cuốc bộ nữa rồi? Cậu bảo nếu cho nổ tung gốc rễ của bảo tương hoa thì thật sự có thể mở ra khe nứt phía trên ư?”

Tôi sợ cậu ta đắc ý quá mà đâm ra lơ là mất cảnh giác, liền nói: “Tôi không dám đảm bảo khe nứt này sâu đến chừng nào, cũng chẳng biết chính xác vị trí nơi bảo tương hoa sinh trưởng là ở đâu, huống chi một khi cho nổ nơi này, chúng ta chưa chắc đã có thể toàn mạng thoát ra.”

Tuyền béo ai oán nói: “Con bà cậu sao không nói sớm từ trước, biết thế tôi đã vứt mẹ đống thuốc nổ đi rồi, cậu có phải đeo một mả đồ đạc như tôi đâu mà biết nó nặng như thế nào, suýt nữa bị nó kéo chìm xuống đáy rồi, con mẹ nó chứ không chết đuối thì cũng chết chìm!” Tôi nghe lời này của cậu ta thật là ngứa tai, vài khối thuốc nổ kia thì nặng được bao nhiêu cơ chứ? Có chết chìm thì cũng là do khối vàng tổ ong mà cậu ta lúc trước sống chết phải mang theo!

Trên người Tuyền béo chính là chiếc balo quân dụng, phần lớn thợ săn ở vùng Đại Hưng An Lĩnh này đều sử dụng những trang bị do quân Nhật hoặc quân Liên Xô bỏ lại, chẳng hạn như giày lính, bi-đông nước, thậm chí còn có cả súng ống quân đao, vô cùng bền chắc hữu dụng, người Đông Bắc hay gọi là “kháng tạo”! Trang bị của quân Nhật đều được đặt tên theo niên hiệu, balo sản xuất năm Chiêu Hoà thứ mười ba thì được gọi là balo Chiêu Hoà mười ba, rất đơn giản và trực quan. Chiếc balo này của Tuyền béo không lớn lắm, sức chứa có hạn, cho dù có nhét đầy đồ thì cũng nặng được bao nhiêu cơ chứ? Huống chi bên trong balo lúc này cũng chẳng đựng gì nhiều, chỉ có vài băng đạn súng lục, mấy viên pin dự phòng dùng cho đèn pha, dăm ba miếng lương khô cứng hơn cả đá, chục viên đạn súng săn, một khối vàng tổ ong lớn, tất cả đều do Tuyền béo dọc đường nhặt đường, cũng đã tiêu hao không ít, lúc trước còn chẳng thấy cậu ta há miệng ra than lấy một chữ “nặng”. Cậu ta một lần có thể ăn hơn ba mươi cái bánh bột ngô, một cái balo nhỏ như vậy làm sao có thể khiến cậu ta cảm thấy nặng quá được chứ? Khi nước sông ngầm cuốn tới, thì lúc cậu ta nhảy từ trên mỏm đá xuống khúc gỗ mục, đã sớm phải bị sức nặng của balo kéo xuống đáy sông.

Tôi không thể không thừa nhận, đúng như Tuyền béo từ trước tới nay vẫn nói, tôi vốn là một người đa nghi. Thật đúng với câu: “Người nói vô tâm, người nghe hữu ý", cậu ta chỉ thuận miệng nói một câu như vậy, cũng đủ khiến tôi suy nghĩ rất nhiều, chẳng hiểu sao tôi cứ cảm thấy như có gì đó không đúng! Tôi quay đầu lại nhìn, chiếc balo đã bị Tuyền béo ném lại đằng sau, tôi muốn kiểm tra xem chiếc balo ấy có thực sự nặng như lời cậu ta nói hay không, nếu đúng là quá nặng thì có thể đem khối vàng kia vứt bỏ, bị vây khốn trong khe nứt tối tăm không có lấy một tia sáng mặt trời này, một khối vàng thì có tác dụng gì chứ, so ra còn chẳng bằng một khối lương khô! Nào ngờ tôi vừa đưa tay ra nhặt lấy chiếc balo, cự nhiên không thể nhấc nổi. Tôi nghĩ thầm, thế này chẳng phải kỳ quái quá rồi hay sao? Sao chiếc balo này lại nặng đến thế được cơ chứ? Bên trong rốt cuộc có chứa vật gì? Những thứ tôi có thể nghĩ tới đều không thể nặng như vậy, Tuyền béo nửa đường lại nhặt được thêm thứ gì sao? Hay là cậu ta “tiện tay" đem toàn bộ mấy khối vàng tổ ong trong thôn nhét vào trong balo? Đã nói với cậu ta biết bao nhiêu lần rồi - phải đấu tranh với bản thân, loại bỏ tư tưởng tham tài tham lợi ngay từ trong trứng nước, tại sao cậu ta vẫn không chịu nghe, tôi mà không ném hết đồ của cậu ta xuống nước, cậu ta hãy còn chưa biết cái gì gọi là kỷ luật kỷ cương! Nghĩ đến đây, tôi liền gia tăng thêm chút khí lực vào cánh tay, một lần nữa nhặt chiếc balo lên, thế nhưng nó vẫn không chịu nhúc nhích. Tôi cảm giác được không phải là do balo quá nặng, mà là có ai đó ở phía sau cũng đang túm chặt lấy nó, không muốn để tôi mang nó đi.

Số người tiến vào Liêu mộ quả thật không ít, Lục Quân bỏ mạng oan uổng dưới bức bích hoạ cửu vỹ hồ ly, tay thợ săn Đại Hổ thì biến thành hủ thi bên trong địa cung, đám thanh niên tri thức từ Hắc Thuỷ Giang chạy tới cứu viện cũng đều bị lưu sa chôn sống, Trăn Tử mạng lớn có lẽ đã chạy thoát được ra ngoài, tên chuột đất Nhị Hổ thì ngã gãy cổ mà chết trong hang động tuẫn táng, đầu lìa khỏi xác, chỉ còn tôi cùng Tuyền béo, Tiêm Quả, ba người một đường chạy được đến đây, làm gì còn ai sống sót nữa, vậy thì kẻ nào đang trốn đằng sau chiếc balo kia? Người đầu tiên tôi nghĩ tới chính là sơn bạt, nhưng ngẫm lại cũng không đúng, sơn bạt không thể nào nằm im bất động như vậy được! Lúc này tim tôi đập thình thịch, nhưng ngoài mặt vẫn cố giữ vẻ bình tĩnh như không, vạn nhất chỉ là quai đeo bị vướng vào đâu đó thì chẳng phải có cớ cho Tuyền béo cười tôi thối mũi à, tôi cũng không muốn cho cậu ta cơ hội lên giọng chỉ bảo. Nhưng nghĩ lại, không phải là do tôi khẩn trương nóng lòng quá mà nghi thần nghi quỷ, trông gà hoá cuốc, chẳng phải Tuyền béo cũng kêu rằng chiếc balo bỗng nhiên trở nên quá nặng? Lúc chúng tôi nhảy lên khúc gỗ mục, nhất định đã có thêm thứ gì đó bám theo!

Sau khi nguồn sáng duy nhất là “bảo tương hoa" biến mất, khắp nơi đều chìm trong bóng tối đen kịt như hũ nút, chỉ dựa vào ánh đèn pha rất khó để nhận ra có người bám theo phía sau hay không, từ khi con hồ ly giở trò ở nông trường số 17, chuyện lạ chúng tôi bắt gặp còn chưa đủ sao? Nghĩ đến đây, tôi liền bảo Tiêm Quả mau hướng đèn pha chiếu lại về phía sau, một tay nắm chặt thanh quân đao, một tay dùng sức mở chiếc balo ra, hai người kia không biết tôi muốn làm gì, còn chưa kịp để họ lên tiếng tôi đã giật toạc chiếc khoá kéo, ba người vừa nhìn thấy thứ lẫn trong balo, lập tức phát hoảng, sắc mặt ai nấy đều xám ngoét, không phải người sống cũng chẳng phải là sơn bạt, mà là đồng nữ tuẫn táng bên trong quan tài của chủ mộ!

Trong quan tài của Thái hậu nước Liêu kia có bốn đồng nữ tuẫn táng, đặt ở giữa quách đá bên ngoài và quan tài bên trong, hai bên mỗi bên một người, một người tay nâng bảo kính bằng đồng thau, một người tay cầm chuỷ thủ, trên nắp quan tài có một người bưng trường minh đăng, phía dưới còn có một đồng nữ khác nằm ngay dưới chân, trên cổ đeo một cái ngân bài, bên trên có ghi bốn chữ “tiếp tiên dẫn thánh". Bốn đồng nữ tuẫn táng này bất quá chỉ mới bảy, tám tuổi, trên người đều mặc trang phục của cung nữ. Nếu mà để nói kỹ thì rất là dài dòng, cho nên tạm không nhắc đến ba đồng nữ kia mà chỉ quan tâm đến người được đặt ở dưới chân chủ mộ này, theo như trong táng chế xưa thì được gọi là tiếp dẫn đồng nữ, là người dẫn đường cho chủ mộ, hai gò má cùng đôi tai đều được tô son đỏ chót, phục sức trên người có thêu hình vẽ hoa sen, đỏ xanh rõ ràng, chân nhỏ xỏ trong đôi hài như ý vân đầu lũ, phần lớn đã bị mục rữa chuyển thành màu đen. Tên chuột đất kia là vì một thứ kêu là “trái cây” mà tới, nhưng trong mộ thất cũng không hề có thứ này, biết bao kỳ trân dị bảo, vàng bạc châu báu hắn cũng chẳng thèm ngó ngàng tới, cũng không động đến ba đồng nữ kia, chỉ có đồng nữ tiếp dẫn này là được hắn mang theo ra ngoài, tôi hoàn toàn không nghĩ ra mục đích cuối cùng của tên chuột đất là cái gì.

Bên trong huyền cung, hai gian bảo điện Đông Tây đều có đồng nam đồng nữ tuẫn táng, là một nghi thức mở đường cho chủ mộ, số đồng nam đồng nữ tuẫn táng ấy không dưới mấy chục người, xung quanh quan tài cũng có bốn vị, vậy cái vị nằm dười chân chủ mộ kia có gì khác thường so với những người còn lại? Cái nghề trộm mộ này chuyên lấy đồ cổ bên trong hầm mộ, từ thứ lớn như tượng ngọc đến thứ nhỏ như tiền đồng ngậm trong miệng xác chết, ngay cả ván đóng quan tài cũng đáng giá chút tiền, nhưng lại chưa có ai dở hơi đi móc lấy xác chết mang về nhà làm gì cả, thắp hương thờ cúng cho vui à? Lui mười nghìn bước mà nói, nếu như quả thật có quỷ, chẳng lẽ lại chỉ có mỗi một tên tiểu quỷ này thôi sao, sau đó tên chuột đất rơi xuống hố tuẫn táng mà bỏ mạng, cái xác đồng nữ này bị hắn bỏ lại bên trên thạch đài, chúng tôi mặc dù đã mở cái bao tải ấy ra, nhưng mọi thứ vẫn không có gì khác lạ cả. Đến khi xuống được hang đá bên dưới, ánh sáng đèn pha vô tình lướt qua một cái, tôi rõ ràng đã thấy cái xác đồng nữ này xuất hiện ngay trước mặt tôi, nhưng lúc soi cho kỹ thì lại chẳng thấy đâu nữa. Mà cũng phải nói, nếu như khi ấy tôi không bước lại chỗ cái xác vừa mới xuất hiện để kiểm tra, chưa chắc tôi đã tìm được đường thoát ra ngoài. Trước tôi cũng không dám nói vị đồng nữ này âm hồn bất tán, chỉ cho chúng tôi một con đường sống, thậm chí không có cách nào để xác định liệu có phải là tôi nhìn nhầm hay không nữa. Lúc này xem ra, nó vẫn một mực bám theo sát phía sau chúng tôi!

Lúc Tuyền béo nhảy lên khúc gỗ mục, cái xác đồng nữ này từ phía sau níu lấy chiếc balo đeo trên lưng cậu ta, cho nên mới khiến cho nó bỗng nhiên trở nên nặng đến như thế! Tuyền béo lúc ấy nóng lòng chạy thoát thân, căn bản không có thời gian để suy nghĩ nhiều, sau đó thuận miệng nói một câu, mới khiến tôi chú ý tới. Khúc gỗ mục trôi nổi giữa dòng nước ngầm, chỉ có chiếc balo này là có thể trốn vào, nếu như không phải do tôi suy nghĩ cẩn thận, dứt khoát mở tung chiếc túi ra kiểm tra, sợ rằng đến giờ chúng tôi cũng không biết đến sự tồn tại của nó! Thật khiến cho người ta càng nghĩ lại càng cảm thấy đáng sợ, một cơn rùng mình truyền từ lòng bàn chân thẳng lên tận đỉnh đầu - tại sao đồng nữ kia lại muốn cùng chúng tôi thoát ra ngoài?

Tuyền béo giật mình, nói: “Con bà nhà nó, tại sao tôi lại đem tên tiểu quỷ ra theo thế này?” Tiêm Quả cũng bị doạ cho sợ tái mét mặt, đem đèn pha cầm trong tay ném ra. Tôi vội vàng nhặt lấy, chiếu thẳng từ đầu tới chân cái xác một lượt, ánh sáng từ đèn pha chiếu lên có để lại vết bóng phản chiếu lại đằng sau, chứng tỏ đây không phải là quỷ. Dáng dấp hình dạng của quỷ ra sao tôi cũng chưa từng được thấy qua, nhưng nghe nói ở dưới ánh đèn sẽ không để lại bóng, thường nói bên trên suy nghĩ là một tầng hữu hình vô chất, do oán khí cùng sát khí hoá thành, trước kia dân gian mê tín đều truyền miệng nhau như vậy. Mà cái xác đồng nữ trước mặt chúng tôi lúc này có thể nhìn thấy sờ được, nói như vậy hẳn không phải là quỷ. Bất quá nó đã chết được hơn nghìn năm rồi, hình hài đã sớm mục rữa, mặt mũi méo mó không thể nhìn ra, làm sao lại có thể cử động được? Thứ khiến cho tôi có cảm giác sợ hãi nhất chính là - đồng nữ tuẫn táng này vẫn còn có ý thức, ít nhất tôi thấy nó là cố ý trốn ở sau lưng chúng tôi, có quỷ mới biết nó muốn làm cái gì!

Tôi ngẫm nghĩ một lúc, tên chuột đất kia là truyền nhân của quỷ môn thiên sư, đôi mắt cú mèo tầm kim đoạt bảo đã sớm luyện thành thục, từ trong địa cung mang ra theo cái xác đồng nữ này chắc chắn phải có một nguyên nhân đó, người trong đạo môn phần lớn đều rất mê tín - muốn đắc đạo thành tiên thì phải trải qua cửu tử thập tam tai (Trans: 9 cái chết, 13 cái nạn), cái xác đồng nữ đã chết hơn nghìn năm này có phải hay không hấp thụ tinh hoa của long mạch, có thể thể tránh tai thoát nạn? Nếu như quả thật có chuyện như vậy, cớ sao tên chuột đất vẫn phải bỏ mạng một cách thảm thiết như vậy? Lại nói cái gì mà bị lừa, phải chăng là nói đến cái xác này?

Nghĩ tới đây, trong lòng càng cảm thấy sợ hết hồn hết vía, có phải hay không là do tên tiểu quỷ này giở trò gì đó, khiến cho tên chuột đất không thể tìm thấy thứ gọi là “trái cây" bên trong địa cung, hơn nữa còn chết oan uổng? Chúng tôi từ trong động tuẫn táng thoát được tới đấy, cũng không phải là do chưa đến lúc tận số, mà là tên tiểu quỷ này chỉ cho chúng tôi một con đường sống. Trong lúc nhất thời trong đầu tôi vô số ý niệm dồn dập kéo tới, Tuyền béo và Tiêm Quả cũng không suy nghĩ nhiều đến như vậy, chỉ thấy cái xác đồng nữ này trốn trong balo cũng đã đủ giật mình, đáng sợ nhất là không thể biết được ý đồ thực sự của tên tiểu quỷ này là gì? Nếu như nói nó cố ý hại người, trên đường nãy giờ không hề thấy nó quấy phá gì cả; nếu như nói nó muốn núp ở phía sau cùng chúng tôi chạy ra ngoài, vậy cũng không đúng, theo như dân gian mê tín - người chết không nên thấy tam quang, tam quang là từ để chỉ ba thứ sau: một là ánh nắng mặt trời, hai là ánh trăng và ba là ánh sao, thấy ánh nắng thì hồn phi phách tán, còn ánh trăng ánh sao thì là âm quang, thấy vào liền sẽ biến thành phi cương. Một cái xác đồng nữ tuẫn táng đã chết hơn nghìn năm bên trong mộ cổ, muốn mượn hơi ba người sống chúng tôi chạy ra ngoài, rốt cuộc nó muốn đi đâu? Người sau khi chết nhập thổ vi an, gặp phải đất dữ tức thành cương thi, đều bởi vì người ta có ba hồn bảy vía, hồn thiện mà vía ác, nhập thổ bất an là bởi vì phách vía hãy còn chưa siêu thoát, khiến cho thi thể không bị thối rữa, trăm năm thành hung, nghìn năm thành sát. Sống trên nghìn năm thì càng trở nên hung ác, ban ngày trốn trong huyệt mộ ban đêm mới lò dò bò ra, có thể nuốt mây giết rồng, chỗ nó đi qua nghìn dặm cỏ cây khô héo, đất đai khô cằn, có giăng thiên la địa võng cũng không cách nào tận diệt, chỉ có Phật tổ giáng thế mới có thể đem nó hàng phục.

Tuyền béo luôn miệng nói hắn không tin ma quỷ thần phật, nhưng lúc lên núi tham gia sản xuất, mấy loại chuyện mê tín này cũng đã được nghe không ít lần, huống chi cái xác đồng nữ kia lại đang ở ngay trước mặt hắn, khiến cho cậu ta muốn không tin cũng không được, cho dù lá gan có lớn đến mấy thì trong lòng vẫn không khỏi sợ hãi. Cái xác mặc dù không hề nhúc nhích cử động, nhưng mà cóc ghẻ nhảy đến chân không cắn cũng đủ khiến cho người ta giật mình rồi! Cậu ta trừng mắt một cái, lấy khẩu súng săn trên lưng xuống, xem ra là muốn cho tên tiểu quỷ này ăn no một băng kẹo đồng, rồi sau đó một cước đạp thẳng xuống sông!

Mời các bạn đón đọc chương tiếp theo “Thuỷ Quỷ Dưới Lòng Sông” đăng tại page Hội những người nghiện truyện của Thiên Hạ Bá Xướng
 

trucxinh0505

Xóm nhỏ phố núi
Thành viên BQT
Administrator
Chuyển ngữ
Tác giả
Tham gia
14/4/19
Bài viết
13,607
Điểm cảm xúc
5,132
Điểm
113
Chương 16: Thủy thủy dưới lòng sông
Dịch: Đặng Nam

Tuyền béo lăm lăm trong tay cây súng săn tự chế, muốn cho con tiểu quỷ trước mặt một viên kẹo đồng thẳng mặt, nào ngờ cả súng lẫn đạn đều đã bị ngấm nước sông, đúng cái lúc quan trọng lại tậm tịt không bắn được. Còn súng lục thì đã sớm hết sạch đạn từ lúc đối phó với đám sơn bạt kia, còn chưa kịp thay băng khác vào. Tôi bảo cậu ta chớ có nôn nóng, việc gì phải phí đạn như thế? Dù gì cái xác khô này cũng đã chết hơn nghìn năm rồi, có bắn thêm mấy chục phát đi chăng nữa thì cũng có để làm gì đâu? Nếu như đứa bé đồng nữ này thật có đạo hạnh, thì một cây súng săn cổ lỗ sĩ từ đời nảo đời nào rồi cũng làm gì được nó chứ. Tôi cảm thấy lai lịch của cái xác này rất là mờ ám, nó có ý tốt hay không còn chưa biết, nếu như không tìm ra được chân tướng rõ ràng của chuyện này, tương lai tất sẽ xảy ra hậu hoạn khó lường! Vì vậy, tôi liền bảo Tuyền béo thu thập lại chỗ lương khô, pin dự phòng, bật lửa bị tung ra lúc nãy nhét cả vào balo, vạn nhất rơi xuống sông ngầm thì có muốn khóc cũng không được. Tôi lại đưa đèn pha cho Tiêm Quả cầm, chùm ánh sáng hướng thẳng vào cái xác đồng nữ, đồng thời móc balo lấy ra một băng đạn, tra vào ổ súng lục. Tôi nhanh chóng xắn tay áo lên cao, thanh quân đao nắm chặt trong tay, hít một hơi dài đánh bạo tiến đến trước mặt cái xác, tôi là muốn xem xem rốt cuộc tại sao một cái xác khô nghìn năm như nó lại có thể cử động, bám theo sau chúng tôi được?

Tuyền béo ở phía sau nói: “Cậu cứ cẩn thận đấy, đừng để cái con tiểu quỷ kia nó bóp cho gãy cổ!”

Tôi đáp: “Đứa bé này cùng lắm mới chỉ ba, bốn tuổi, còn tôi sớm đã lên núi đao xuống biển lửa hừng hực sức trai, đi khắp trời cao đất rộng rèn luyện ý chí, sóng to gió lớn nào mà chưa từng thấy qua, những ngần này tuổi rồi còn sợ quái gì bọn trẻ con miệng còn hôi sữa mẹ này?”

Tuyền béo nói ngay: “Ngần này tuổi của cậu là bao nhiêu? Ba mươi còn chưa đến! Tên tiểu quỷ này chết không dưới nghìn năm, chỉ sợ đã sớm đắc đạo, cậu vẫn chớ nên coi thường!”

Không cần Tuyền béo nhắc nhở, tôi cũng không dám nóng vội mà hành động khinh suất, mặc dù trong lòng chẳng hề muốn mặt đối mặt với khuôn mặt lốm đốm thuỷ ngân kia một chút nào, nhưng tình huống lúc này không cho phép tôi được lùi bước, thôi thì đành nhắm mắt liều mình mà đưa chân, trước cứ lôi võ miệng ra đối phó thử đã, tôi hướng về phía cái xác, nói: “Không biết tên chuột đất kia nghĩ gì mà lại mang người theo từ trong mộ ra đây, ma xui quỷ khiến thế nào lại để cho chúng ta gặp nhau, có thể nói là giữa chúng ta xem như cũng có chút duyên phận đi, lúc ở trong động tuẫn táng cũng may nhờ có ngươi hiện thân chỉ dẫn, chúng ta mới có thể tìm được lối ra. Xem ý này của người có lẽ muốn theo chúng ta ra ngoài, bằng vào bản lĩnh này của ngươi chứng tỏ đạo hạnh cũng không thấp, nhưng mà ngươi có điều không biết, ngươi vốn được chôn trong mộ cổ đã nghìn năm, bên ngoài sớm đã có biết bao nhiêu biến cố long trời lở đất, kinh thiên động địa xảy ra, không còn như lúc người còn sống đâu. Ta nói cho ngươi nghe một tin tốt nè, giai cấp vô sản trên toàn thế giới đã cùng nhau vùng lên đấu tranh, phỏng chừng người xuất thân cũng từ gia cảnh bần hàn, mệnh khổ số khổ, nếu không cũng không đến nỗi phải làm đồ tuẫn táng bên cạnh chủ mộ. Hôm nay, ba ngọn núi lớn đè nén trên đầu dân chúng nghèo khổ đã bị sụp đổ, ngươi sống khôn thác thiêng, cũng đã có thể yên tâm mà nhắm mắt xuôi tay được rồi! Không bằng nghe ta khuyên một câu, nhân lúc còn sớm chớ có ra ngoài, nhân sinh vô thường, nếu đã chết rồi thì nên buông bỏ mọi thứ chấp niệm, trần quy về trần, thổ quy về thổ, nên lên trời thì lên trời, nên xuống đất thì xuống đất, có ra ngoài thì cũng chẳng có chỗ nào dành cho ngươi cả, có chăng thì là người ta đưa ngươi vào viện bảo tàng, rồi lại ụp một cái lồng kính lên trên, làm sao mà thoải mái bằng được trong này! Thuốc đắng thì giã tật mà lời thật thì khó nghe, chúng ta vất vả lắm mới gặp được nhau, tính tình đôi bên cũng hợp, cho nên ta mới muốn khuyên người vài câu, nghe lời ta thì không sao, còn nếu cả gan làm bậy, cả ba chúng ta quyết không tha cho ngươi đâu. Bản lĩnh của ngươi dù cho có lớn đến đâu đi chăng nữa, đối phó với ba chúng ta thì được, chứ làm sao đấu lại tám trăm vạn quân giải phóng!”

Tuyền béo thật không nghe nổi những gì tôi nói: “Ông nội bốc phét vừa vừa phai phải thôi chứ, từ lúc nào mà biên chế quân đội chúng ta lại có đến hơn tám trăm vạn quân thế?”

Tôi khoát tay bảo Tuyền béo chớ nên ngắt lời, tôi phí bao nước bọt từ nãy đến giờ chẳng qua cũng chỉ là muốn hù doạ con tiểu quỷ này mà thôi, không doạ cho nó một trận, nó chắc gì đã chịu từ bỏ ý đồ? Thế nhưng cái xác vẫn cứ nằm trơ trơ tại chỗ, mặc cho tôi ba hoa chích choè suốt cả nửa ngày cũng không thèm có lấy nửa điểm phản ứng lại. Tuyền béo nói: “Nhất này, có phải cậu tính sai rồi không, nãy giờ cậu nói tôi thấy tám phần là tự mình doạ mình, không bằng dứt khoát nhanh nhẹn, một cước đạp bay nó xuống sông làm mồi cho cá!”

Cậu ta nói sao mà nghe đơn giản quá, một cước đá chẳng may đá không trúng, lỡ bị nó cắn cho một cái thì biết làm thế nào đây? Đồng nữ tuẫn táng vẫn không chịu cử động, nhưng rõ ràng chính nó đã kéo cái balo của Tuyền béo lại, không muốn để cho chúng tôi phát hiện nó đang trốn ở phía sau mọi người, chuyện này quá là kỳ quái! Huống chi khúc gỗ mục bập bềnh lên xuống giữa dòng nước, ba người lớn chúng tôi đều phải nửa nằm nửa quỳ, trong khi đó đứa bé đồng nữ tuẫn táng lại chỉ là cái xác khô, làm sao có thể đứng thẳng mà không ngã? Tôi thầm nghĩ, những gì cần nói đều đã nói hết cả rồi, coi như cũng đã tận tình tận nghĩa, lại lịch của cái xác không rõ ràng, không đem nó ném bỏ xuống sông, sớm muộn gì nó cũng tác oai tác quái!

Quyết định chủ ý này xong, tôi tra lại thanh quân đao vào trong vỏ, hai tay nắm chặt lấy cán đao, chọc chọc vào người cái xác, muốn đem nó đẩy xuống dưới sông. Vào giờ phút này, không chỉ mình tôi nín thở hồi hộp, mà Tuyền béo cùng Tiêm Quả ở phía sau cũng rất khẩn trương căng thẳng, không ai dám thở mạnh. Tiêm Quả vẫn luôn chiếu đèn pha vào mặt đứa bé, Tuyền béo bên kia cũng đã sớm lên nòng súng lục, tuỳ thời có thể nổ súng, một tay lăm lăm xẻng công binh. Lúc này, vỏ đao trong tay tôi cũng đã đưa tới, sở dĩ tôi dùng vỏ đao chứ không dùng lưỡi đao là vì muốn lưu lại cho ba người một con đường sống, không muốn tổn hại thi thể của đứa bé, người xưa vẫn có câu - tiểu quỷ khó chiều, một khi bị tiểu quỷ quấn thân, cho dù không chết thì cũng phải lột da trả lại nó mới coi như xong chuyện. Vỏ đao vừa đưa quả, khuôn mặt khô đét kia đột nhiên giật giật, hai mắt trợn trừng!

Dưới ánh sáng đèn pha, hai con mắt nó hệt như hai cái hắc động, từ trong mắt bắn ra hai đạo quang mang. Tuy tôi đã có chuẩn bị từ trước, nhưng vẫn không ngờ rằng, cái xác đồng nữ tuẫn táng kia được chôn trong cổ mộ đã hơn nghìn năm, trên mặt lốm đốm những vết ban thuỷ ngân, da dẻ khô đét xám xịt, thân thể so với tiền đồng còn cứng hơn, ấy thế mà hai mắt vẫn có thể mở ra? Trong lúc tôi đang bị doạ cho ngây người, cái xác đồng nữ liền giơ tay bắt lấy vỏ đao, móng tay của nó rất dài, cào lên thành vỏ phát ra những tiếng ken két chói tai!

Tôi chửi thầm trong bụng một tiếng “Bỏ mẹ rồi", cương thi không giống với sơn bạt, càng mọc ít lông thì càng lợi hại. Từ xưa đến nay, vẫn thường hay nói đến hắc hung, bạch hung, “hung” là tên dân gian để gọi những cỗ tử thi mọc ra lông dài, thứ này tương đối dễ gặp, trăm năm thành hung nghìn năm hoá sát, một khi đạo hạnh đã tích luỹ đủ nghìn năm trở lên, mới có thể hiện ra nguyên hình, mặt mũi không khác gì người sống cả, hơn nữa còn có thể nói được tiếng người, thật khó có thể tin nổi!

Tử thi cùng với quan tài có trong toà Liêu mộ này không dưới một trăm thì cũng phải tên tám chục, tại sao chỉ có mình đồng nữ tuẫn táng này là có đạo hạnh? Nó có điểm gì đặc biệt chăng? Tôi từng nghe tổ phụ nói qua “cương thi nghìn năm trong mộ da thịt tựa như đồng giáp", súng săn súng máy gì cũng đều không thể tổn thương được nó, phải dùng đạo pháp mới có thể hàng phục! Đạo pháp là cái gì? Đạo môn có nhiều cách để đối phó với cương thi, tỷ như vẽ bùa niệm chú, hay dùng chén mực chu sa úp ngược lên đỉnh đầu cương thi, ngoài ra còn nghe nói dân trộm mộ có một món pháp bảo là âm dương ô có thể hàng phục được cương thi. Dân gian tục truyền rằng, cương thi cũng rất sợ đinh đóng quan tài, chính là loại đinh sắt lớn dài hơn một thước, niên đại càng lâu càng tốt, cương thi trăm năm sợ đinh quan tài nghìn năm, cương thi nghìn năm thì lại sợ đinh quan tài một nghìn hai trăm năm, cứ mỗi một đinh đâm trúng, cương thi lại bị rút mất trăm năm đạo hạnh, đinh thứ nhất khu phách, đinh thứ hai diệt hình, cho nên dân trộm mộ đều mang theo bên người một hai chiếc đinh quan tài cũ, đen sì sì. Đi ngoài đường mà gặp kẻ nào mang theo đồ nghề như thế, không cần phải hỏi cũng có thể khẳng định chắc chắn hắn ta là một tên chuột đất chuyên đào mồ quật mả. Lúc ở nông trường số 17, chúng tôi chẳng may gặp phải bão tuyết cùng với bầy sói hoang, con hồ ly già dẫn theo chúng tôi vào trong huyệt mộ, dọc theo mộ đạo liền phát hiện ra xác của một tên chuột đất, trên người hắn không chỉ có ngọc câu hộ thân mà còn có một chiếc đinh quan tài, xem ra chuyện này cũng không phải là đồn đại vớ vẩn. Tôi lúc này mới hối hận tại sao không rút lấy một hai chiếc đinh đóng quan tài bên trong mộ thất, có thứ đó rồi há còn phải sợ cái xác đồng nữ này nữa? Tôi không có chén chu sa hay đào mộc kiếm, cũng không biết vẽ bùa niệm chú, một khi bị cương thi vồ tới, làm sao có thể chống đỡ được đây?

Tôi vội vàng túm chặt vỏ đao kéo ngược lại, nhưng nó vẫn không chịu nhúc nhích. Khúc gỗ mục dập dềnh trên mặt nước, Tuyền béo ở phía sau lại bị tôi chắn mất tầm nhìn cho nên không dám tuỳ tiện nổ súng. Cậu ta nhất thời nóng lòng xông lên phía trước, cũng túm lấy vỏ đao, hai người ra sức lôi kéo, lúc này mới giật trở lại được, tuy nhiên do cả hai dùng sức quá mạnh, không kịp thu tay, thanh quân đao theo đà rơi tõm xuống sông ngầm, cả người cũng chao đảo suýt ngã theo. Tuyền béo xoay mình lên, súng lục trong tay ngắm thẳng vào đầu cái xác đồng nữ, khẩu Browning M1900 không phải chỉ dùng để trêu mèo doạ khỉ, loại súng này dùng đạn 7.65mm, cho dù có là cương thi đạo hạnh nghìn năm đi chăng nữa, một khi ăn trúng mấy viên “táo đen" vào đầu, cũng sẽ biến thành cái mặt tổ ong!

Nhưng cũng đúng vào lúc này, dòng sông ngầm bỗng nhiên chảy xiết trở lại, khúc gỗ mục đâm phải một khối nham thạch lồi ra trên mặt nữa, “răng rắc" một tiếng, cả một mảng gỗ to bị vỡ ra. Ba người chúng tôi đều không kịp đề phòng, ngay cả cái xác đồng nữ cũng bị hất tung lên giữa không trung. Tuyền béo giương súng đang định bắn cương thi nghìn năm, đột nhiên bị hất văng lên, suýt nữa rơi tòm xuống sông, đành phải vứt bỏ khẩu súng lục đang cầm trong tay, rồi dùng xẻng công binh ngoắc vào một cái chạc cây, nửa thân dưới đã bị rơi vào trong nước. Tôi cùng Tiêm Quả trông thấy tình huống nguy cấp của Tuyền béo, vội nắm lấy balo sau lưng cậu ta, liều mạng kéo cậu ta lên. Khe nứt đến đây chợt thắt lại như nút cổ chai, dòng chảy đột ngột chuyển hướng, nước xiết vô cùng. Ba chúng tôi ổn định thân hình, lại dùng đèn pha chiếu qua, chỉ thấy cái xác đồng nữ vẫn đang ở phía sau đối diện với mọi người, móng tay cắm chặt vào khúc gỗ mục, chậm rãi bò về hướng chúng tôi.

Ba người mặt đối mặt với đồng nữ tuẫn táng, sau lưng là phần đục khúc gỗ mục, thân mình ai nấy đổ nghiêng, nắm chặt lấy chạc cây không dám buông lỏng. Tuyền béo nhận lấy khẩu súng lục từ tay Tiêm Quả, bắn liền hai phát, khoảng cách song phương tuy gần, nhưng do khúc gỗ đang bị dòng nước xiết cuốn lấy thành ra lắc lư kịch liệt, hai viên đạn không biết đã lạc đi nơi nào. Trong ánh đèn pha chập chờn, khuôn mặt lốm đốm thuỷ ngân ban kia đã dí sát ngay trước mặt tôi! Lòng tôi phát lạnh, nhưng chỉ biết ôm chặt khúc gỗ không dám buông tay, sau lưng là Tuyền béo cùng Tiêm Quả, không có chỗ để cho tôi tạm thời né tránh, vội bảo Tuyền béo đưa tôi chiếc xẻng công binh của cậu ta. Xẻng vừa tới tay, tôi liền tiến lên nhắm ngay vào đầu đồng nữ tuẫn táng mà đập xuống. Nào ngờ nó lại lao lên, nhảy qua đỉnh đầu tôi. Tôi nhận ra nó muốn đánh về phía Tiêm Quả, một tay dùng xẻng công binh ngoắc vào chạc cây, một tay vươn lên, bắt lấy được cái chân của thây khô. Đôi chân nhỏ xíu của đồng nữ tuẫn táng xỏ trong đôi hài “như ý vân đầu lý", đây là một loại giày thêu của cung nữ, tại mũi giày có hoa văn trang trí hình mây cuộn, giống như chân đạp tường mây vậy, tuy nhiên do bị chôn trong mộ cổ đã trăm nghìn năm, giày thêu đã sớm mốc đen, văn sức bên trên đều không nhìn ra, sờ lên chỉ thấy thô ráp, dùng sức bóp một cái cũng sẽ vỡ vụn.

Mưa to như trút nước, những sợi dây leo của bảo tương hoa cũng không thấy phát sáng lại nữa, ánh sáng duy nhất bên trong sông ngầm giữa lòng khe nứt phát ra từ chiếc đèn pha trong tay Tiêm Quả, lúc ẩn lúc hiện, xung quanh một mảnh đen tuyền. Tôi đưa tay bắt được cái chân nhỏ, thầm nghĩ: Ông đây bắt được mày rồi nhé! Lập tức thuận thế kéo xuống một cái thật mạnh, muốn đem cái xác khô này ném xuống sông ngầm. Sông ngầm càng vào sâu càng chảy xiết, khắp nơi đều là xoáy nước. Đại La Kim Tiên ngã xuống cũng đừng hòng ngoi lên được. Bất quá người xưa mê tín có nói, cương thi chôn trong mộ, ngũ hành thuộc “thổ", thổ có thể khắc thuỷ, lão Long Vương dưới sông cũng không đấu lại được nó, thậm chí còn bị nó quay ngược lại hút hết thuỷ mạch.

Trong lúc tình thế nguy cấp, tôi không nghĩ được nhiều như thế, dốc hết sức quăng nó xuống, nhưng mới được nửa chừng, chợt cảm thấy nhẹ bẫng, trên tay chỉ còn lại chiếc giày thêu cùng bộ y bào, đồng nữ tuẫn táng sử dụng một chiêu ve sầu thoát xác, xoay người lộn một vòng, dừng lại ngay trước mặt tôi, một tay bám chặt thành gỗ, tay còn lại đưa lên đỉnh đầu xé toạc một cái không thương tiếc, da mặt liền bị lột xuống. Ba người chúng tôi không ngờ cái xác khô nghìn năm lại còn một chiêu như vậy, trong lòng không khỏi kinh hãi, ánh sáng đèn pha vẫn luôn chiếu lên mặt đối phương, chỉ thấy dưới lớp da khô đét là một lão già, mặt mũi quái dị, nhăn nheo như vỏ cây, hai mắt sáng quắc dị thường, thân cao không bằng đứa bé ba tuổi. Lão ta bị ánh sáng đèn pha làm cho chói mắt, đành phải đưa hai tay lên ngăn cản luồng sáng chiếu tới, trong lòng bàn tay rõ ràng có một bát ấn ký hình bát quái, vẽ bằng mực chu sa đỏ chót.

Đến lúc này tôi mới chợt hiểu ra mọi chuyện, kẻ vẫn lén lút bám theo phía sau chúng tôi suốt chặng đường, căn bản không phải là đồng nữ tuẫn táng, mà là một tên chuột đất! Trước đó có hai tên thợ săn, giả làm anh em, một người kêu Đại Hổ, người còn lại là Nhị Hổ, Nhị Hổ đích xác là một tên trộm mộ, còn Đại Hổ là hành thi hắn mang theo để che mắt mọi người. Hắn ta hành tung lén lút, luôn đeo một cái túi da hươu to trên lưng, tôi còn tưởng đó là đồ nghề của hắn, nhưng thực ra bên trong chính là lão chuột đất này, lão ta hẳn phải là sư phụ hoặc trưởng bối của Nhị Hổ, chắc chắn phải có kinh nghiệm phong phú hoặc bản lĩnh hơn người, Nhị Hổ trước sau đều nghe theo lời lão. Bất quá lão chuột đất này vóc người thấp bé, hơn nữa tuổi cũng đã cao, lại không muốn bị người ta nhận ra khuôn mặt thật, vì vậy luôn trốn ở trong túi, để cho Nhị Hổ cõng lão trên lưng đi khắp nơi.

Lão chuột đất nói với Nhị Hổ, trong toà Liêu mộ mộ có một loại “trái cây" gì đó, bảo hắn chui vào quan tài tìm. Lúc ấy vừa vặn tôi cùng Tuyền béo, Trăn Tử cũng đi vào quách thất. Lão ta thấy có người tới, liền lập tức trốn đi, không để cho chúng tôi nhìn thấy. Đợi đến khi chúng tôi quay lại chính điện nơi đặt quan tài, Nhị Hổ đã cõng theo lão chuột đất, trốn vào ám đạo. Lão nhận thấy lần này có không ít người tiến vào trong mộ, sợ có người phát hiện ra khuôn mặt thật của mình, trước khi trốn vào ám đạo, bèn móc ra một cái xác đồng nữ từ trong quan tài chủ mộ, tự mình đóng giả làm thây khô, vẫn để cho Nhị Hổ cho vào túi rồi cõng ra ngoài. Làm như vậy là để cho lỡ có ai đó mở cái túi ra, cũng sẽ lầm tưởng chỉ là một cái xác chết mà thôi. Ba người chúng tôi đuổi theo, thật đúng là bị lão ta doạ cho một vố, vẫn luôn thắc mắc tại sao tên chuột đất Nhị Hổ lại mang một cái xác đồng nữ ra làm gì, vì vậy liền đem cái túi đặt trên thạch đài không quan tâm tới nữa. Nhị Hổ này quả là một tên xui xẻo, chẳng may rơi xuống động tuẫn táng chết tươi đành đạch, lúc sắp chết vẫn còn đang oán trách - Mả cha lão già kia, trong mộ căn bản làm quái gì có thứ “trái cây” nào! Lão chuột đất giả làm đồng nữ tuẫn táng, bám theo phía sau chúng tôi một đường chạy ra khỏi Liêu mộ, chạy tới khe nứt có dây leo bảo tương hoa phát sáng này, không ngờ trời mưa to như thác đổ, nước lũ bất ngờ ập tới, chúng tôi bắt được một khúc gỗ mục, lênh đênh trên dòng sông ngầm, đến nước này rồi lão ta cũng không thể tiếp tục trốn tránh được nữa, đành phải xuất đầu lộ diện.

Lúc này nước sông có vẻ đã hơi hoà hoãn, tôi cắn răng, tay nắm chặt xẻng công binh, đang muốn một xẻng gạt phăng lão chuột đất xuống sông. Lão ta một bên giơ tay ngăn cản luồng sáng đèn pha chói mắt, một bên tung hoả mù, nói: “Chớ có động thủ! Lão phu có một bí mật kinh thiên động địa muốn nói ra cho các ngươi cùng biết!”

Chúng tôi đối với lão già này thì hận đến thấu xương, nếu không phải lão muốn vào trong Liêu mộ trộm bảo vật, xui hai thằng tôi đi hái gốc hoàng kim linh chi mọc bên trên bích hoạ cửu vỹ yêu hồ, thì Lục Quân đã không phải chết một cách oan uổng như vậy, những thanh niên trí thức kia cũng sẽ không vì tìm kiếm cậu ta mà bị lưu sa chôn sống trong mộ, tôi, Tuyền béo và Tiêm Quả sẽ không lạc vào khe nứt sâu dưới lòng đất này, rơi vào tuyệt cảnh vạn kiếp bất phục, không chết thì cũng rách da tróc vảy. Mà lão chuột đất giả thành đồng nữ tuẫn táng này chính là nguồn cơn của mọi tai hoạ từ trước đến giờ, cũng may chúng tôi còn chưa bị lão hù chết, có thù không báo không phải là quân tử, không đá lão ta xuống sông làm mồi cho cá, sao có thể nuốt trôi cục tức này! Tôi không cho lão ta có cơ hội giải thích, trực tiếp vung xẻng công binh, vừa muốn động thủ, lão ta chợt nói với tôi: “Người năm đó ở trên Lão Thử Lĩnh đả thiên đăng là gì của ngươi?”

Tôi nghe hắn nói ra những lời này, không kiềm chế được mà ngẩn người, thầm nghĩ lão ta tại sao lại biết tổ phụ của tôi? Lúc trước tổ phụ tôi đả thiên đăng trên Lão Thử Lĩnh, lấy được một tấm da huyền hồ, sau đó bị một tên âm dương bát quái hoả cư đạo xúi giục, đi Quỷ Môn Giang trộm mộ tầm bảo, trên tay có ấn ký hình bát quái, chắc hẳn cũng là một tên quỷ môn thiên sư, đó là chuyện của hơn mấy chục năm về trước, cho dù lão chuột đất thân là quỷ môn thiên sư, có nghe qua chuyện này, cũng không thể nào vừa thấy mặt đã liền nhắc tới tổ phụ tôi.

Tôi trong lòng thầm giật mình, tên hoả cư năm đó đã cùng tổ phụ tôi kết bái huynh đệ, đi Quỷ Môn Giang trộm mộ, chẳng lẽ lại là lão ta? Bất quá tên hoả cư đạo đã bỏ mạng ở dưới đáy sông, huống chi theo lời tổ phụ tôi nói, hắn ta vóc người cao lớn vạm vỡ, mà đây lão chuột đất này lại gầy đét thấp bé, chẳng khác gì một cái đinh quan tài bằng thịt, làm sao có thể là cùng một người cho được? Tôi nhất thời không nhịn nổi tò mò, muốn nghe một chút xem lão ta định nói gì. Nước sông chảy xiết, bốn phía tối đen, có mọc thêm cánh cũng trốn không thoát, chỉ cần không phải là cương thi nghìn năm thì tôi việc gì mà phải sợ, nhất là với cái lão già sắp gần đất xa trời này? Nghĩ xong, tôi chĩa thẳng xẻng công binh vào mặt lão ta, nói: “Trên Lão Thử Lĩnh đả thiên đăng chính là tổ phụ của ta, nếu không phải gà rừng không tên, giày rơm không số, ngươi cũng nên để lại một cái tên!”

Lão ta cười gằn một trận: “Quả thật là con cháu của cố nhân, chẳng trách lại giống đến như thế, xem ra tên tiểu tử nhà ngươi so với thằng oắt con vô dụng năm đó to gan hơn nhiều. Lão phu là anh kết nghĩa của tổ phụ ngươi, chiếu theo bối phận mà nói, ngươi còn phải gọi ta một tiếng gia gia!”

Tôi không thèm tin vào mấy lời xằng bậy của lão ta, mắng: “Gia gia cái đầu ngươi, tổ phụ ta tuyệt không giao du với cái loại yêu quái trông như cái đinh quan tài thối nhà ngươi!”

Tuyền béo nói: “Chớ thấy người sang mà bắt quàng làm họ, hôm nay ngươi có rước tổ phụ cậu ta từ Bát Bảo Sơn tới đây thì chúng ta cũng phải tiễn ngươi xuống sông làm mồi cho cá trước đã!” Nói rồi, cậu ta ghé sát tai tôi, thấp giọng nói: “Ái chà chà, tổ phụ cậu năm đó cũng giao lưu với không ít thể loại đầu trâu mặt ngựa như này nhỉ! Đến cái nơi khỉ ho cò gáy như này rồi mà vẫn còn gặp được người quen?”

Tôi cũng đang bực bội trong lòng, tổ phụ nuôi tôi từ nhỏ tới lớn, những chuyện người trải qua tôi nghe không dưới bảy trăm sáu mươi lần, sao trước giờ chưa từng nghe nói tổ phụ quen biết một người như này?

Lão già chuột đất thấy tôi hãy còn chưa tin, lại tuôn ra một tràng. Thì ra năm đó hoả cư đạo cải trang thành một người âm dương đạo nhân, chuyên vẽ âm dương bát quái trấn trạch trong mộ cho người ta để kiếm miếng ăn qua ngày, lại sở hữu một đôi đạo nhãn, rất rành vọng khí, vậy vọng khí là gì? Đạo môn có một câu thế này - “Bảo khí đằng không, biện Phong Thành thần vật” (Trans: Bảo khí bay lên trời, ấy chính là do thần vật tại Phong Thành xuất thế). Đây là một điển tích, kể rằng trước kia có người biết chút đạo pháp, trông thấy giữa Đẩu Ngưu (Trans: Tên hai ngôi sao là sao Ngưu và sao Đẩu) có làn khí màu tím tuôn ra, liền khẳng định trong Phong Thành có chôn bảo vật, sau này thực sự đào được một hộp đá phía dưới nền đất, mở ra phát hiện quang khí dị thường, trong hộp đặt một đôi kiếm, trên thân kiếm có khắc tên, một thanh là “Long Tuyền", một thanh là “Thái A", bảo kiếm còn chưa xuất thổ, người có đạo nhãn đã có thể nhìn ra.

Hoả cư đạo vì sao lại có bản lĩnh này? Muốn nói rõ ràng thì phải quay ngược về thời xa xưa, chuyện này cũng có liên quan tới Quỷ Môn Giang. Tương truyền Vũ Vương trong một lần đi vi hành đã lệnh cho quan quân đào ra con sông này, dùng để điều tiết nước cho Hoàng Hà, sông được đào sâu vào trong núi, thông với sơn cốc, sông ngầm, chỗ rộng nhất phải hơn mười trượng, trải dài mấy trăm dặm, sâu không thấy đáy, nước sông chảy xiết, mạch ngầm có rất nhiều xoáy nước nguy hiểm. Ban đêm trên mặt sông thường có những tiếng động khác thường vang lên, có lúc tựa như thiên quân vạn mã, lúc lại như âm binh mở đường.

Bởi vì dòng chảy thông với Hoàng Hà, trong nước thường có cá lớn qua lại, xưa kia, có một người bắt cá, sống nhờ cả vào việc bắt cả trên Quỷ Môn Giang, nói đến săn bắn người ta sẽ thường nghĩ ngay tới săn thỏ bắt gấu, nhưng người bắt cá này lại là săn cá, trên đời quả thực không có người thứ hai. Trước nay vẫn có câu “thợ mộc dài, thợ rèn ngắn”, ý muốn nói, nếu thợ mộc làm quá dài thì có thể sửa lại thành ngắn, nhưng không thể biến ngắn thành dài; còn thợ rèn thì ngược lại, phôi sắt nung nóng kéo dài thì dễ, nhưng để rèn ngắn lại thì khó; cũng giống như đầu bếp, có thể gia giảm mặn, ngọt tuỳ theo món ăn. Tóm lại, mỗi nghề đều có quy củ cũng như các bí quyết kinh doanh riêng. Vậy người bắt cá này săn cá bằng cách nào? Chính là thả thuyền đến giữa lòng sông, thấy chỗ nào cá lớn tụ tập thành đàn, liền giương cung lắp tên bắn xuống, cá chết mang theo mũi tên nổi lên mặt nước, chỉ cần lấy móc kéo lên thuyền là xong, sau khi làm sạch, xách ra trấn nhỏ để bán lấy tiền mua gạo muối, tổ tông tám đời nhà hắn đều là kiếm ăn bằng cách này.

Bắt cá cũng là nghề do cha mẹ truyền lại, ngoài ra còn có hai thứ khiến người khác không thể so bì với hắn. Thứ nhất, gọi là phân thuỷ tiễn, đây nói không ngoa chính là một kiện bảo vật trấn tông, được lấy ra từ trong miếu Phân thuỷ Long Vương, ba mũi tên cùng một cây cung đều chế tạo từ huyền thiết, từ phần đuôi tên tới mũi tên đều được làm nguyên khối liền mạch, nặng gấp mười lần so với những mũi tên thông thường, uy lực vô cùng, không gì sánh bằng. Muốn kéo được cung bắn được tên thì người cầm cung nhất định phải có lực cánh tay hơn người, nếu dây cung kéo không căng, uy lực cũng bị giảm đi nhiều, mà đây là cây cung được làm từ huyền thiết, hai cánh tay không đủ lực đừng hòng kéo được, cho nên từ lúc vừa mới chập chững biết đi, liền phải rèn luyện lực cánh tay. Ngoài ra còn phải luyện được chính xác, ban đêm cho thắp một nén nhang, một người cầm lấy rồi di chuyển lung tung, còn mình thì dùng ánh mắt đuổi theo đầu nhang đang cháy, luyện đến khi nào con ruồi bay qua trước mắt cũng có thể phân biệt được là đực hay là cái thì mới thôi. Còn thứ hai là bản lĩnh nhìn được cá bơi dưới tận đáy sông của hắn. Sau khi bắt được cá lớn, mang lên thuyền mổ bụng moi ruột, nếu may mắn sẽ tìm được ngư châu, ngư châu không phát ra được ánh sáng như dạ minh châu, chẳng đáng mấy tiền, nhưng ăn vào có thể bổ mắt, cho nên nhãn lực của người bắt cá này hơn hẳn người thường. Hắn ta tuy có bản lĩnh bực này, nhưng một ngày chỉ bắn hết ba mũi tên là dừng, chưa bao giờ bắn nhiều hơn dù chỉ một mũi. Bởi người xưa làm gì cũng chú ý lưu lại cho mình một đường sống, hắn cũng vậy, ngày ngày đều phải trông cậy vào con sông này mà kiếm miếng cơm, nếu như chỉ vì tham mấy đồng tiền lẻ trước mắt, bắn sạch hết cá dưới sông, sau này lấy gì mà sống tiếp? Cho nên hắn một ngày chỉ bắn ba mũi tên, mặt trời mọc thì làm, mặt trời lặn thì nghỉ, cùng đời vô tranh, cuộc sống mỗi ngày đều trôi qua hết sức tiêu diêu tự tại.

Có một đêm, người bắt bỗng dưng một thấy một giấc mộng kỳ lạ, trong mơ có người gõ cửa, hắn liền chạy ra xem thử, chỉ thấy đi vào là một đại hán mặt đen, người mặc hắc bào, chân đi hắc ngoa, nổi bật trên khuôn mặt là bộ râu rậm, thoạt trông đen bóng rắn rỏi, chẳng khác gì một vị La Hán. Người bắt cá hoảng sợ vô cùng, chẳng lẽ là cường đạo tới cướp của? Đang nghĩ xem phải làm thế nào mới có thể bảo toàn được tính mạng, không nghĩ tới vị đại hán mặt đen kia chẳng nói chẳng rằng bỗng quỳ mọp xuống đất, miệng kêu: “Ân công cứu mạng!”

Người bắt cá mờ mịt không hiểu, hỏi lại: “Vị tráng sĩ này, ngài có phải nhận lầm người rồi hay không? Tôi chỉ là một kẻ biết dùng cung bắt cá, kiếm chút tiền mọn nuôi gia đình sống tạm bợ qua ngày, ngoài ra không có bản lĩnh gì khác, làm sao có thể cứu được ngài?”

Đại hán mặt đen nói: “Ân công hãy nghe tôi nói, ngày mai ngài ra sông bắt cá, sẽ bắt gặp một xoáy nước lớn, thứ đó chính là oan gia đối đầu của tôi, ân công chớ nên hỏi nhiều, chỉ cần hướng vào xoáy nước bắn liền ba mũi phân thuỷ tiễn, là có thể cứu vớt tôi một mạng.” Vừa dứt lời liền không thấy tung tích đâu cả, người bắt cá cả kinh, giật mình tỉnh dậy mới biết đây chỉ là một giấc mộng Nam Kha, lòng thầm cảm thấy kỳ quái. Đến sáng ngày hôm sau, hắn ta lại lên thuyền ra sông bắt cá như mọi ngày, giữa ban ngày trời trong mây lặng, đột nhiên một trận mưa giông mù mịt kéo tới, giữa lòng sông quả thật bỗng xuất hiện một xoáy nước lớn. Người bắt cá rùng mình một cái, nhớ tới giấc mơ đêm qua, không chút do dự, lập tức lấy từ trong ống ra ba mũi tên, chuẩn bị tư thế giương cung, tay trước khom lưng siết chặt cánh cung, tay sau dùng sức kéo căng dây cung, phân thuỷ tiễn ngắm thẳng vào giữa xoáy nước, cây cung uốn cong tựa như trăng đầu tháng, mũi tên phóng ra vun vút tựa như sao băng, nói ra thì chậm nhưng sự việc lại diễn ra rất nhanh, “vèo, vèo, vèo", ba mũi tên liên tục rời cung lao thẳng vào xoáy nước.

Nói ra thì cũng kỳ quái, chỉ trong thoáng chốc, mưa gió gào thét liền đã rút đi, trả lại một bầu trời quang mây tạnh như lúc ban đầu, ánh nắng nhô lên cao, xoáy nước đã chẳng còn thấy đâu nữa. Người bắt cá trở về nhà với một bụng đầy những nghi vấn, đêm đó lại nằm mơ thấy vị đại hán mặt đen kia, vừa vào cửa liền dập đầu khấu tạ đại ân. Người bắt cá đầu óc mơ hồ, đứng dậy đáp lên, hỏi đối phương rốt cuộc là người nào? Đại hán mặt đen nói: “Ba ngày sau vào lúc canh ba, mời ân công đến bên bờ sông chờ, tôi tất có trọng báo!” Dứt lời lập tức biến mất không một dấu vết hệt như lần trước.

Người bắt cá tò mò, đúng hẹn ra đến bờ sông, tuy là nửa đêm canh ba, cũng may có vành trăng sáng treo trên cao, tạm có thể nhìn ra đường đi lối lại, bỗng nhiên một đám mây đen kéo đến che kín ánh trăng, vị đại hán mặt đen từ trong lòng sông đi tới, hướng người bắt cá mà quỳ lạy. Hắn ta thấy thế sợ đái ra quần, lòng tự hỏi người này là ai? Làm sao có thể đi lên từ giữa sông, hơn nữa sau khi lên bờ, trên người ngay cả một giọt nước cũng không có, phải chăng là thần tiên! Nghĩ vậy, hắn liền đánh bạo hỏi: “Các hạ là người phương nào?”

Đại hán mặt đen nói: “Ân công đã cho hỏi, tôi thực không dám không nói, lúc trước còn chưa nói ra ấy cũng là vì sợ làm cho ân công kinh hãi. Thực không dám giấu diếm, tôi là thủy quỷ, thân xác đã nằm dưới đáy sông nhiều năm.”

Người bắt cá vừa nghe tới hai chữ “thủy quỷ", sợ đến nỗi tóc tai dựng hết cả lên, quay đầu định chạy. Đại hán mặt đen liền vội vàng nói: “Ân công chớ nên sợ hãi, tôi sao dám hại ngài, tôi bấy lâu nay vẫn ở dưới đáy Quỷ Môn Giang tu luyện, không biết vì sao kiếp nạn kéo đến, giăng ra thiên la địa võng, cái xoáy nước giữa lòng sông hôm đó, chính là lão Long do trời cao phái xuống, cũng may có ân công tiễn nghệ cao cường, dùng ba mũi tên bắn chết lão Long, mới giúp tôi tránh qua được một kiếp nạn này!” Vừa nói dứt lên, đại hán mặt đen ngoắc tay, từ dưới lòng sông lại đi lên ba con thủy quỷ, đem chiếc thuyền của người bắt cá đẩy đi, chỉ một nén nhang sau là quay lại, trên thuyền lúc này đã chất đầy kim châu ngọc bảo.

Đại hán mặt đen nói: “Xin ân công hãy nhận lấy chút lòng thành này của tôi, tận hưởng một đời vinh hoa phú quý!”

Người bắt cả cả nửa ngày vẫn chưa kịp hoàn hồn, liếc nhìn số kim châu ngọc bảo này một cái, nhưng rồi lại dứt khoát xua tay từ chối. Hắn bây giờ hối hận biết nhường nào cơ chứ, sớm biết tên đại hán mặt đen là thủy quỷ, hắn tuyệt đối sẽ không bắn ra ba mũi tên kia, nếu nói chỉ bắn ba mũi tên kia thôi thì không sao, nhưng đằng này hắn lại bắn chết cả lão Long do trời cao phái xuống, giúp cho tên kia thoát được một kiếp, báo ứng sớm muộn gì rồi cũng sẽ ập lên đầu hắn. Mấy đời nhà hắn kiếp sống bằng nghề bắt cá trên con sông này, chẳng ham danh đoạt lợi, tuy rằng không được vinh hoa phú quý, quan cao lộc dày, nhưng lúc nào cũng có cơm ăn, an ổn sống qua ngày này tháng khác, nào ngờ đến đời hắn lại gặp phải tai hoạ như này, bắn chết lão Long, tội này nặng đến bực nào? Nói không chừng đến một ngày nào đó, trời cao nổi giận, cho thiên lôi giáng xuống đánh mình chết tươi!

Tên đại hán mặt đen thấy người bắt cá nhất quyết không chịu nhận lấy chỗ vàng bạc châu báu đó, cũng hiểu nguyên do tại sao, trong lòng tự thấy hổ thẹn không thôi, đành phải tìm cách khác để báo đáp, nói rằng năm đó, từ trong quỷ môn có một con linh quy trên lưng cõng theo một chiếc hòm bằng đá bò ra, bên trong có một quyển vô tự thiên thư, nào ngờ đâm phải một con thuyền lớn, rùa chết thuyền vỡ, cùng chung số phận chìm sâu xuống đáy Quỷ Môn Giang, quyển vô tự thiên thư ấy hiện giờ vẫn còn. Đại ân đại đức không thể không báo đáp, tôi xin xuống dưới đáy sông đem quyển thiên thư đó lên, thiên thư tuy không có chữ, nhưng quả thật chính là một bảo vật vô giá có một không hai trên đời, có thể tạc đá thành núi, vẽ đất thành sông, dời ngày đổi tháng, hô mưa gọi gió, phi thiên độn thổ, thấu rõ mọi phương, minh tường tương lai, rạch ròi quá khứ, tuy nhiên không được phép mở hòm đá cũng như đọc nội dung bên trong vô tự thiên thư, bằng không báo ứng sẽ còn khủng khiếp hơn so với việc bắn chết lão Long! Bởi vì kẻ nào dám nhìn trộm thiên cơ, ắt gặp thiên báo, bằng vào người trần mắt thịt phúc ngắn mạng mỏng, tất không thể gánh nổi. Ân công hãy mang quyển vô tự thiên này về cung phụng trong nhà, hằng năm cứ nhằm ngày mùng 3 tháng 8 thì xõa tóc giả điên, miệng ngậm dao nhọn, leo lên nóc nhà, bái vọng Bắc Đẩu Thất Tinh, thề rằng chưa từng coi trộm thiên thư, đảm bảo con cháu ba đời sẽ được bình an vô sự.

Đại hán mặt đen nói xong, lệnh cho ba con thủy quỷ xuống dưới đáy sông nâng chiếc thuyền chìm năm xưa lên, sau đó tự mình đi lấy hòm đá giao cho người bắt cá. Tuy nói là hòm đá nhưng hình dáng bên ngoài lại giống như một khối đá hoàn chỉnh, góc cạnh vuông vắn, không có nắp cũng chẳng có khe hở, toàn thân đen bóng toát ra hàn quang, phía trên khắc chi chít các loại phù lục khó hiểu. Người bắt cá cầm lấy, khẽ lắc thử, bên trong quả thực có đồ. Cứ thế theo lời tên đại hán mặt đen, nửa tin nửa ngờ đem hòm đá về nhà cung phụng. Truyền thuyết này được lưu truyền trong dân gian với cái tên “quỷ môn đắc đạo”, vì vậy lại đem vô tự thiên thư gọi thành “quỷ môn thiên thư”. Người bắt cá ở bên bờ Quỷ Môn Giang đoạt được thiên thư, vẫn nguyện sống thanh bần, hàng ngày vẫn chỉ kiếm ăn bằng nghề bắt cá trên sông, cũng chưa từng mở hòm đá ra, sau này thọ đến tám mươi tuổi, không bệnh không tật, cứ thể bình yên ra đi. Từ đó trở đi, “quỷ môn thiên thư” bên trong hòm đá vẫn luôn được con cháu người bắt cá truyền từ đời này qua đời khác, đây là chuyện về sau, không đề cập tới nữa.

Lại nói đến hoả cư đạo sau này, hắn vốn là một tên ăn xin trong thành Lạc Dương, chẳng may gặp phải năm hoa màu mất mùa, người ta đến lương thực trong nhà còn chẳng đủ ăn nói gì đến việc đem đi bố thí, thành ra hắn suốt mấy ngày trời chẳng có miếng cơm nào vào trong bụng, đói đến hoa cả mắt, chỉ có thể đào giun bắt dế, ăn các loài trùng độc kéo chút hơi tàn, dần dần hai mắt kết thành lớp kén mờ đục, chẳng nhìn thấy gì được nữa. Hai mắt mở to còn chẳng có miếng cơm mà ăn, huống chi kẻ mù loà như hắn bây giờ, cứ thế vạ vật cũng sống qua được mấy năm, mấy lần suýt nữa chết đói. Cuối cùng lão ta hạ quyết tâm, tự tay cắt bỏ màng kén trên mắt, không ngờ mắt hắn giờ đã trở thành một đôi đạo nhãn, có thể nhận ra được bảo vật giữa đống đồng nát. Lại bởi vì cơ duyên xảo hợp, lão ta không biết bằng cách nào nhìn lén được hai, ba trang “quỷ môn thiên thư", từ đây thông hiểu đạo pháp, liền giả trang thành một vị Âm dương Bát quái Hoả cư đạo, hành tẩu khắp nơi, tìm kiếm cơ hội đoạt bảo phát tài.

Cho đến một năm kia, lão nhận ra trong nhà đại thiếu gia có giấu một món bảo vật, có thể giúp mình làm nên đại sự, liền cùng đại thiếu gia kết bài huynh đệ, cùng nhau đi đến Quỷ Môn Giang tầm bảo, nào ngờ sẩy chân thất thủ, rơi xuống đáy sông. Đại thiếu gia cho rằng Hoả cư đạo lần này có đi mà không có về, vô luận thế nào cũng không sống nổi. Ngàn vạn lần không nghĩ tới trên người hắn ta vẫn mặc bộ áo làm từ bộ da huyền hồ của đại thiếu gia, đó chính là một kiện bảo y có thể tị thuỷ, giúp cho hắn ta tìm được một đường sống giữa muôn lối chết, lại từ đáy sông bơi lên. Người vừa ngoi lên khỏi mặt nước, liền trúng một loại cổ chú đã bị thất truyền từ lâu, gọi là “súc thi chú". Người trúng phải cổ chú này, thân thể sẽ từ từ thu nhỏ, đến khi không thể nhỏ hơn được nữa, mạng cũng coi như đứt!

Hoả cư đạo nghĩ đủ mọi cách để kéo dài thời gian phát tác của cổ chú, lại bằng vào việc nhìn trộm qua hai, ba trang “quỷ môn thiên thư", cho thu nhận rất nhiều môn nhân, tự phong mình làm “Quỷ môn lão tổ". Các thủ hạ dưới trướng xưng là thiên sư, lấy việc vẽ bùa niệm chú, hàng yêu tróc quỷ làm lá chắn che dấu cho mục đích thật sự của bọn chúng là đào mồ quật mả, từ đây trên đời mới có cái gọi là quỷ môn thiên sư, chứ từ trước không hề có. Nhưng qua mấy chục năm, thân hình của quỷ môn lão tử càng ngày càng thu nhỏ, xương cốt toàn thân co rút lại khiến lão ta hết sức thống khổ, thật có thể nói là sống không bằng chết.

Sau đó không biết lão ta từ đâu nghe nói trên đời này có tồn tại một loài phật hoa, vốn đã xuất hiện từ thời thượng cổ, có thể lan toả khắp thập phương thế giới, thứ trái cây do phật hoa kết ra, có thể khiến con người ta thoát ra khỏi vòng tròn sinh lão bệnh tử, đám dân trộm mộ ngày xưa trên tay phần lớn đều có “lăng phổ", mộ của ai chôn ở núi nào, trong lăng có chôn thứ gì, đều được ghi chép tỉ mỉ. “Lăng phổ” có cái là thật có cái là giả, không thiếu những chuyện bịa đặt giả tạo, nội dung bên trong không thể tin hết, nhưng đối với quỷ môn lão tổ mà nói, thì chẳng khác gì bắt được cọng rơm cứu mạng. Căn cứ theo những gì được ghi chép lại trong “lăng phổ", bên trong ngôi mộ Thái hậu của nước Đại Liêu có một loại phật hoa, bất quá toà Liêu mộ kia lấy núi làm lăng, huyền cung nằm sâu trong núi, ẩn sâu giấu kĩ, khiến cho đám trộm mộ không biết hạ thủ từ đâu, lại bởi vì niên đại rất xưa, thành ra không ai có thể tìm thấy. Sau giải phóng, lão chuột đất vì tránh đầu sóng ngọn gió của cách mạng văn hoá, liền trốn trong rừng sâu núi thẳm, không dám ra ngoài.

Cho tận mãi đến năm 1968, binh đoàn nông khẩn và trấn thủ số 17 gặp phải bầy sói hoang tấn công, lại đúng đợt bão tuyết trăm năm mới gặp một lần kéo tới, tôi cùng Tuyền béo, Lục Quân, Tiêm Quả bốn người đều rơi vào tuyệt lộ, để cho con hồ ly già dẫn tới một ngôi mộ cổ, gạch mộ viên nào viên nấy đều có hình vẽ bảo tương hoa, cũng có một bức bích hoạ cửu vỹ hồ ly, hơn nửa phía trên bích hoạ còn mọc ra một gốc hoàng kim linh chi. Chúng tôi ở trong mộ thất mấy ngày, may mắn tránh thoát được kiếp nạn này, sau khi thoát ra ngoài lại vô tình để lộ tin tức. Đồn qua đồn lại cuối cùng chuyện này cũng truyền đến tai lão chuột đất, lão liền nghe ra nơi này có nhiều điểm kỳ quái, theo như táng chế Đại Liêu, Thái hậu ngang hàng với cửu ngũ chí tôn, phải được chôn trong cửu thất huyền cung, có thể thấy gian mộ thất có bức bích hoạ cửu vỹ hồ ly khả năng cao không phải là huyền cung thật sự, đoán rằng phía sau tất có huyền cơ.

Vì thể lão sai một tên chuột đất, giả trang thành tay thợ săn Nhị Hổ, đến thượng nguồn Hắc Thuỷ Giang tìm chúng tôi nhờ dẫn đường. Còn người thợ săn Nhị Hổ kia, chính là một thợ săn trên dãy Trường Bạch Sơn, bị tên chuột đất hãm hại, biến thành hành thi sẵn sàng làm bù nhìn cho hắn thoát thân. Nào ngờ tôi với Tuyền béo không bị mắc mưu, tên chuột đất bẽ mặt, đành phải đến hạ nguồn Hắc Thuỷ Giang đi tìm Lục Quân, hứa hẹn sẽ cho cậu ta rất nhiều chỗ tốt, rồi lại tìm cách khiến cho Tiêm Quả bị rắn cắn. Bình thường Lục Quân là người rất cơ trí, nhưng không hiểu sao lần này lại bị tên chuột đất doạ sợ, cho rằng gốc hoàng kim linh chi bên trong mộ cổ có thể cải tử hồi sinh, vì muốn giữ lấy tính mạng của Tiêm Quả, mới chạy tới thượng nguồn gọi tôi và Tuyền bèo cùng quay lại Hắc Sơn Đầu, vào mộ Thái hậu Đại Liêu.

Mấy người chúng tôi ở phía trước vừa đi, tên chuột đất đã cõng theo quỷ môn lão tổ trên lưng, một đường bám theo phía sau. Nhưng bọn chúng nào biết bên trong toà Liêu mộ này cũng chẳng có bảo tương hoa, sở dĩ có những hoa văn trang trí kia, là vì phía dưới huyền cung có một cái khe nứt, trong đó có rất nhiều nham bích, mô tả “mặt trời toái phiến". Nham bích có niên đại không dưới nghìn năm, không biết là tác phẩm của cổ nhân thời đại nào, hơn nữa khe nứt này rất sâu, người xuống đó khó lòng trở lên. Sau này có chín toà huyền cung đều bị lưu sa chôn vui, tên chuột đất Nhị Hổ rơi xuống động tuẫn táng chết tươi. Lão chuột đất thấy không còn đường ra, không thể không trốn ở sau lưng ba người chúng tôi, một mực đi sâu vào trong khe nứt, tôi đến tận sông ngầm mới phát hiện ra lão.

Lão ta lại nói, không ngờ rằng, thứ nhất, khe nứt này lại sâu đến như vậy, thứ hai, không nghĩ tới bảo tương hoa lại lớn đến thế kia, phần gốc của nó sinh trưởng tít tận phía cuối địa mạch. Sinh tử giàu sang, ai cũng có mệnh, mấy người chết trước đó xem ra cũng là do số phận đã an bài. Người xưa có câu “oan gia nên giải chớ nên kết", tổ phụ tôi cùng lão vốn là huynh đệ kết nghĩa, hai bên lại cùng mắc kẹt bên trong khe nứt sâu không thấy đáy, nếu như đối đầu chỉ có thể dẫn đến lưỡng bại câu thương, không bằng cùng đồng tâm hiệp lực may ra còn có một con đường sống, cần gì phải sống chết đối chọi với nhau? Tuy lão trúng phải súc thi chú, thân hình thấp bé không tiện hành động, lại đã lớn tuổi rồi, nhưng dù gì cũng đã từng làm chuột đất nhiều năm, cái danh xưng quỷ môn lão tổ này cũng không phải là hữu danh vô thực, nếu như ba người chúng tôi vứt bỏ hiềm khích lúc trước mà nghe lão chỉ điểm, khe nứt tuy có sâu nhưng cũng không thể vây khốn chúng ta. Không chỉ thoát ra được, nói không chừng vẫn có thể có cơ hội tìm được bảo tương hoa, gặp chỗ tốt bốn người cùng chia!

Tôi trong lòng biết rõ, lão chuột đất cùng đường mới phải nói ra những lời này, những kẻ ăn chén cơm của người chết này, từ trước tới nay đều là thấy lợi quên nghĩa, trước mặt thì nói ngon nói ngọt, nhưng lại lén đâm người ta một dao phía sau, nếu như tin lời lão ta, đến lúc chết cũng không biết mình chết thế nào! Huống chi song phương đã kết tử thù, chuyện này liên quan tới biết bao nhiêu mạng người, mâu thuẫn này không thể nào hoá giải được nữa, chưa kể năm đó lão cùng tổ phụ tôi kết bái, còn không phải là vì nhắm tới bộ da huyền hồ mà tổ phụ tôi săn được hay sao?

Trong lúc hai bên nói chuyện, sông ngầm bất chợt đổ về một khe nứt lớn hơn, thế nước tương đối đối trầm ổn. Tôi thấy thời cơ cuối cùng đã tới, không muốn nghe lão ta giả thần giả quỷ lải nhải thêm nữa, làm gì lão chẳng biết chúng tôi sẽ không chịu buông tha, nói ra những lời này chỉ là muốn câu giờ mà thôi, hơn phân nửa là muốn chờ cơ hội để giở trò đối phó, lúc này tôi nháy mắt ra hiệu cho Tuyền béo, cả hai đều cầm xẻng công binh, tiến lên muốn bắt lão chuột đất. Lão ta hỏi: “Các ngươi thật sự muốn bắt lão phu sao?”

Tuyền béo đáp lại: “Lão già nhà ngươi nếu không muốn làm mồi cho cá, nhân lúc còn sớm hãy mau quỳ xuống xin tha, sau đó thúc thủ chịu trói, bọn ông đây từ bi sẽ đem ngươi nhét lại vào balo, mang theo ra ngoài cũng không phải là không thể.”

Hai mắt lão chuột đất gian xảo loé lên, nói: “Quỷ môn lão tổ đạo pháp thần thông, há có thể bị bọn ngươi bắt sống!”

Tôi cùng Tuyền béo không thèm coi lời lão nói là cái thá gì nữa, giờ lão ta đã như cá nằm trên thớt, sao có thể chạy thoát được nữa? Đúng vào lúc này, lão ta giơ tay lên ném ra một vật. Tôi vội vung xẻng công binh lên đỡ, “keng" một tiếng, tôi liền nhận ra đó là miếng ngân bài đeo trên cổ đồng nữ tuẫn táng, đối phương nhân cơ hội này nhảy lên cao một cái, lại không thấy hạ xuống. Ba người chúng tôi quay đầu tìm kiếm khắp bốn phía, nhưng không hề phát hiện được tung tích của lão ta đâu nữa. Chợt nghe giữa không trung truyền tới một trận cười gằn, Tiêm Quả vội vàng dùng đèn pha chiếu về phía đó, ba người ngẩng đầu lên nhìn, chỉ thấy lão chuột đất đang treo người lơ lửng trên chỗ cao, sau lưng mọc ra hai đôi cánh trong suốt, giống như một con chuồn chuồn lớn, từ trong khe nứt bay ra càng lúc càng cao.
 

trucxinh0505

Xóm nhỏ phố núi
Thành viên BQT
Administrator
Chuyển ngữ
Tác giả
Tham gia
14/4/19
Bài viết
13,607
Điểm cảm xúc
5,132
Điểm
113
Chương 17: Chuồn chuồn khổng lồ
Dịch: Đặng Nam

Ngước mắt lên cao là một mảng tối đen kịt, ánh sáng đèn pha chiếu loáng qua người lão chuột đất một cái, chớp mắt đã không thấy đâu nữa. Ba người chúng tôi trợn mắt há mồm, quỷ môn lão tổ đã biến thành thứ quái quỷ gì vậy? Làm sao lại có thể mọc ra đôi cánh trong suốt sau lưng, lập tức bay lên giữa không trung? Đến khi nhớ ra phải dùng súng lục mà bắn thì đã chẳng biết lão bay đi đâu mất rồi?

Chúng tôi vô cùng kinh hãi, tuy quỷ môn lão tổ trốn trong rừng sâu núi thẳm nhiều năm, xương cốt càng lúc càng bị rút nhỏ, lại có chút thủ đoạn không thể ngờ tới, nhưng dù sao vẫn là thân xác phàm tục, sao có thể thi triển thần thông như vậy? Nghe nói trước kia, trong đạo pháp có thuật phi thiên độn thổ, chỉ cần niệm thiên cương chú là có thể đằng vân giá nguyệt, hô phong hoán vũ, nghìn hô nghìn ứng, vạn hô vạn linh, chuyện này vẫn được dân gian lưu truyền cho đến bây giờ. Chúng tôi mặc dù đã từng nghe qua, nhưng lúc ấy chẳng ai cho là thật cả, năm đó nếu nói vẽ bùa niệm chú thì tin chứ giữa ban ngày ban mặt bay lên trời thì không, vì nào đã có mấy người trông thấy tận mắt?

Danh hiệu quỷ môn lão tổ nghe qua quả thật rất dọa người, nhưng nói toạc móng heo ra chỉ là loại chuột đất trộm mộ, tuy biết chút yêu pháp bàng môn tả đạo, bất quá cũng chỉ là mấy ngón nghề ảo thuật che mắt được người thường mà thôi, sao có thể có bản lĩnh lớn như vậy? Có chặt đầu tôi cũng không tin! Có câu “tay lớn không che nổi trời, chó chết không dựa đổ tường”, trực giác nói cho tôi biết - trong chuyện này nhất định có quỷ! Nếu lão ta thật có thể tự do bay lượn trên trời, sao còn phải mất công lải nhải cùng chúng tôi cả nửa ngày để làm gì? Lão không tiếc đem hết bí mật trước giờ ra để lung lạc mấy người chúng tôi, chính xác là vì muốn tìm kiếm một cơ hội thoát thân. Nói cách khác, lão chuột đất lúc trước không phải là không bay được, mà là lão đang chờ thời cơ để có thể bay lên! Tôi bảo Tuyền béo cùng Tiêm Quả phải hết sức chú ý, khe nứt này quá sâu, sông ngầm thế nước kinh người, không biết lão chuột đất đã trốn đi đâu, bốn phía xung quanh nguy hiểm luôn trực chờ, không thể đoán trước được sẽ còn phát sinh tình huống gì nữa!

Ba người kiểm tra cẩn thận lại trang bị trên người một lần nữa, Tuyền béo trên lưng đeo balo cùng cây súng săn tự chế, tôi với cậu ta mỗi người cầm theo một cây xẻng công binh, đèn pha thì do Tiêm Quả giữ, ngoài ra còn có một khẩu súng lục, còn lại chỉ toàn mấy đồ lặt vặt linh tinh khác. Chúng tôi đang rầu rĩ ngồi một chỗ, bỗng nhiên phát giác trên đỉnh đầu có một trận gió do vật nào đó rất lớn lướt qua tạo ra. Ba người cho rằng lão chuột đất lại tới, Tiêm Quả vội vàng nâng cao đèn pha, ánh sáng chiếu thẳng vào một con chuồn chuồn to đến dọa người, hai cái cánh mỏng trong suốt giang rộng, dài không dưới năm, sáu thước, đôi mắt kép to như hai cái đèn lồng, phát ra lục quang, bên dưới là một cái đuôi dài vàng xanh lẫn lộn. Năm 1880, đã có nhà thám hiểm người Pháp phát hiện ra được bộ hóa thạch chuồn chuồn khổng lồ bên trong một huyệt động, đã sớm bị tuyệt diệt từ thời tiền sử, đặt tên cho loài này là chuồn chuồn khổng lồ, khổng lồ là chỉ gân cánh của nó, ngoài ra còn có tên khác là chuồn chuồn đuôi lớn. Những năm cuối nhà Minh, có một vị nhân sĩ vì chạy trốn chiến loạn, vô tình lạc vào một hang động đá vôi ở núi Thanh Long, nay thuộc tỉnh Giang Tây, nhìn thấy trong động có lão can nhi, to như cái bánh xe bò, “lão can nhi” là tên gọi dân gian của chuồn chuồn, ngày xưa đều kêu như vậy. Tuy nhiên chuyện này chỉ được ghi lại trong dã sử, cho nên người đời sau không cho là thật. Lúc ấy, chúng tôi không biết cái gì gọi là chuồn chuồn khổng lồ, ngẩng đầu lên liền thấy con chuồn chuồn lớn đến như vậy bay lướt qua, trong lòng ai nấy đều thầm kinh hãi, đồng thời hiểu ra - lão chuột đất có đôi đạo nhãn tinh tường, phát hiện có bầy chuồn chuồn khổng lồ sắp bay qua, bèn nhân lúc mọi người sơ sẩy, nhảy lên túm lấy chân một con chuồn chuồn, bỏ lại chúng tôi lênh đênh trên khúc gỗ mục nát giữa dòng sông ngầm.

Chính bởi vì sự tồn tại của bảo tương hoa, khiến cho thế giới dưới lòng đất này hình thành nên một hệ thống sinh thái hoàn toàn cách biệt với thế giới bên ngoài, cho nên mới có thể sinh ra những con chuồn chuồn lớn đến như vậy, trước giờ chưa ai từng thấy qua, không biết chúng có ăn thịt người không nữa? Ba người không dám để nó lại gần, xẻng công binh cùng đèn pha đều được khua loạn lên, hòng doạ sợ con chuồn chuồn khổng lồ kia phải bỏ đi. Lúc này, đám dây leo bảo tương hoa trong khe nứt tựa hồ như đang sáng dần lên, chỉ thấy có rất nhiều chuồn chuồn khổng lồ đang kéo bè kết cánh bay lướt trên sông ngầm.

Đám chuồn chuồn bay trên mặt sông, càng đi về trước càng thấy xuất hiện nhiều hơn, tôi với Tuyền béo không khỏi giật mình, chợt Tiêm Quả kinh hãi kêu lên: “Không hay rồi!” Hai chúng tôi nghe thấy thế vội vàng cúi đầu xuống nhìn, dưới chùm sáng đèn pha chỉ có một mảnh hư vô đen nhánh, âm phong không ngừng nổi lên, dòng nước vốn đang chảy xiết về phía trước đã chẳng còn thấy đâu. Thì ra sông ngầm chảy xuyên qua khe nứt, tới chỗ này thì liền biến thành một cái thác nước, từ giữa vách đá đổ thẳng xuống dưới. Chúng tôi lập tức hít phải một ngụm khí lạnh, vội vàng thu lại xẻng công binh cùng đèn pha cho vào balo, ôm chặt lấy khúc gỗ mục, cùng nhau rơi xuống trong tiếng la hét thất thanh và kinh hãi, thoáng chốc trời đất trở nên quay cuồng, tôi còn tưởng rằng sẽ cứ rơi mãi như thế, nào ngờ khúc gỗ lao thẳng vào trong nước, sâu không thấy đáy, rồi ngay lập tức nổi lên.

Chúng tôi ba người ai nấy đều bị uống đầy một bụng nước, nhưng vẫn quyết ôm chặt khúc gỗ mục không buông, đầu óc choáng váng, hai mắt đầy sao, xương cốt toàn thân nhức mỏi rã rời cứ như bị ai đó tháo tung hết ra, vật lộn cả nửa ngày cũng không bò lại lên được. Tuyền béo dùng đầu ủn vào mông tôi, cố dùng hết sức để đẩy tôi lên khúc gỗ mục. Tiếp đó tôi quay lại giúp đỡ Tiêm Quả, rồi hai người cùng nhau hiệp lực, mồ hôi chảy thành từng dòng, mới có thể miễn cưỡng kéo nốt Tuyền béo lên được. Ba người quằn quại một hồi, nôn ra không ít nước đen, lúc này mới thở lại được bình thường. Việc đầu tiên chúng tôi làm sau khi nghỉ ngơi xong là kiểm tra lại trang bị trên người, cũng may balo, súng săn, xẻng công bình, đèn pha vẫn còn nguyên, bất quá lương khô, thuốc nổ bọc trong túi đều bị ướt hết.

Tôi ngẩng đầu lên đưa mắt nhìn xung quanh, tựa hồ như chúng tôi đã rơi xuống một cái hồ, dòng sông ngầm rộng lớn, mãnh liệt là thế, nhưng khi đổ vào hắc động khổng lồ này, chỉ giống như một sợi chỉ trắng treo trên vách đá cao vạn trượng, dây leo chằng chịt bám đầy trên đỉnh động, xuống thì dễ còn đi lên mới khó. Xem ra sâu trong lòng đất không chỉ có một khe nứt, đám dây leo của bảo tương hoa kéo dài khắp bốn phương tám hướng, xung quanh ít nhất cũng phải có bảy, tám cái khe nứt như này nữa, khe nứt chúng tôi tiến vào chỉ là một trong số đó. Tôi chợt nhận ra, ký hiệu hình con ngươi trên bức bích hoạ bên trong mộ thất, không chỉ là đồ đằng bảo tương hoa, mà còn tương đồng với địa hình nơi này. Bộ gốc khổng lồ của bảo tương hoa chìm sâu dưới đáy hồ, vươn ra trăm nghìn rễ nhánh đâm toạc nham thạch xung quanh, loáng thoáng phát ra ánh sáng, thỉnh thoảng lại có một con chuồn chuồn khổng lồ bay lướt qua đỉnh đầu. Hồ nước trong huyệt động vô cùng sâu, khiến chó chúng tôi lúc này gặp phải hai vấn đề khó khăn, thứ nhất là do nước sâu quá không ai có thể lặn xuống được, thứ hai là không có cách nào để có thể sử dụng được thuốc nổ. Kế hoạch mà tôi suy tính trước kia căn bản không thể thực hiện được nữa, bất đắc dĩ đành phải dùng tay quạt nước đẩy khúc gỗ trôi về phía trước, tiếp tục dò xét địa hình nơi này. Đột nhiên trên mặt nước nổi lên muôn vàn bọt nước, chúng tôi quay đầu nhìn lại, hình như có một con quái vật khổng lồ đang bơi qua bơi lại trong lòng hồ, hơn nữa nó còn đang di chuyển về phía chúng tôi. Ba người không dám chậm trễ, vội vàng dùng đèn pha chiếu khắp nơi tìm kiếm, thấy cách đó không xa có một khối thạch nham lớn nhô lên khỏi mặt nước, lập tức lấy xẻng công binh ra làm mái chèo, khúc gỗ mục càng ngày càng tiến tới gần khối thạch nham. Tôi tung người nhảy lên trên, nhìn một cái, liền phát hiện xung quanh còn có rất nhiều tảng đá nhấp nhô cao thấp khác nhau, tầng tầng lớp lớp vô cùng nguy nga, nhìn mãi vẫn không thấy điểm cuối, dường như dưới đáy hồ nước đang che giấu một mảnh di tích cổ xưa!

Xung quanh nham tầng trải qua hàng nghìn nước chảy bào mòn, lại bị bao trùm bởi một lớp bùn khô lá úa thật dày, không thể nhìn ra hình dáng ban đầu. Chúng tôi không kịp nhìn lâu, cầm trong tay xẻng công binh cùng với đèn pha, đều như chuẩn bị lâm trận xông vào đại địch, hai mắt ngưng trọng nhìn về phía mặt nước, thế nhưng lại không còn một chút dị động nào nữa, hồ nước hoàn toàn phẳng lặng.

Dây leo bảo tương hoa vươn xa khắp bốn phương tám hướng, cùng với thụ mạch tựa hồ như đang sáng lên, bất quá trên mặt nước đen ngòm vẫn không có chút ánh sáng. Tuyền béo hỏi tôi: “Mới vừa rồi trong nước có cái gì thế hả Nhất?” Tôi lúc ấy cũng không thấy rõ, nhưng có thể khẳng định một điều rằng thứ này có kích thước không hề nhỏ! Thường nói “núi cao có linh, nước sâu có quỷ", huyệt động nơi bảo tương hoa sinh trưởng sâu không thấy đáy, trên mặt nước có loài chuồn chuồn to đến mức có thể ăn thịt người, nếu như nói dưới đáy nước kia có thứ gì đó khổng lồ không kém, vậy cũng không có gì là lạ. Ba người nhớ lại tình huống lúc bị rơi xuống hồ nước, không khỏi nghĩ tới mà sợ.

Chúng tôi không muốn ở đây lâu thêm một chút nào nữa, bất quá ai nấy toàn thân trên dưới đều ướt sũng, Tiêm Quả lại bị nhiễm lạnh nên cả người cứ run cầm cập, muốn mở miệng nói cũng khó. Dưới tình huống như vậy, không còn cách nào để triển khai kế hoạch lúc trước được nữa. Tuyền béo mở balo ra kiểm tra, phát hiện thuốc nổ đã không thể dùng được, đành ném sang một bên, chỉ còn lại ngọn đèn bão cùng chiếc bật lửa, trên tảng đá lớn này cũng có không ít cành khô lá héo, có lẽ tất cả đều là từ trên đỉnh động rơi xuống. Ba người cùng bắt tay vào hành động, gom nhặt hơn chục cành cây khô, xé vải ra quấn thành từng bó, lại lấy dầu hoả từ ngọn đèn bão tẩm vào, làm thành mấy chục ngọn đuốc, sẵn sàng đề phòng bất cứ tình huống nào có thể xảy ra. Cả ba chúng tôi đều ướt như chuột lột, chỉ mong mau chóng đốt lên một đống lửa để hơ khô người cùng súng săn, nhưng nơi này chưa chắc đã an toàn, đành phải cắn răng chịu đựng, tiếp tục đi về phía trước. Ba người vừa muốn nhấc chân, bỗng nhiên thấy mười mấy con chuồn chuồn khổng lồ bay lướt qua đầu. Lão chuột đất đang cưỡi trên lưng một con trong số đó, tuy thân hình lão ta nhỏ bé như đứa trẻ lên ba, nhưng không phải là do sinh ra đã vậy, tỷ như trước kia lão ta nặng chừng một trăm cân, thì bây giờ vẫn nặng y như vậy, người trúng súc thi chú nguyền rủa, mặc dù thân hình co rút lại, nhưng sức nặng không hề giảm bớt. Chuồn chuồn khổng lồ tuy lớn, nhưng cũng không thể dễ dàng mang theo một người nặng như vậy, miễn cưỡng càng bay càng thấp. Đám chuồn chuồn còn lại tưởng lầm con này bắt được miếng mồi tươi sống, liên tiếp hai, ba con bay tới tranh giành, dây dưa mãi thành một đoàn, con cao con thấp sà cả xuống mặt nước. Chúng tôi chưa từng thấy qua tình huống thế này bao giờ, ai nấy đều ngây người tròn mắt. Lúc lão chuột đất thoát khỏi được con sông ngầm, đắc ý vênh váo biết nhường nào, ấy thế mà chỉ trong chớp mắt đã rơi vào cảnh này, thật để cho người ta không thể tưởng tượng nổi.

Trong lúc ba người chúng tôi còn đang nhìn đến phát ngốc, mười mấy con chuồn chuột khổng lồ sau một hồi tranh cướp, đã đậu lại bên một khối thạch nham, lão chuột đất tay quơ chân đạp, muốn xua đuổi đám chuồn chuồn khổng lồ bay đi, thì đột nhiên từ dưới nước bò ra một con quái vật khổng lồ, lưỡi dài cuốn tới, đem một con chuồn chuồn xấu số nuốt vào trong cái miệng đang há to đợi sẵn. Chúng tôi sợ đến điếng người, không biết đây là con quái vật gì, tứ chi vừa ngắn vừa thô, quanh thân không có vảy, lớp da giày như áo giáp. Nó đưa chiếc lưỡi dài cuốn lấy một con chuồn chuồn ăn sống, đám chuồn chuồn khổng lồ còn lại thấy vậy thì đập cánh tán loạn, thi nhau bỏ chạy. Lão chuột đất cả kinh thất sắc, chỉ tiếc hai chân của lão quá ngắn, muốn chạy cũng không kịp nữa rồi, lại bất ngờ bị con quái vật ngoạm lấy một miếng, trúng ngay phần eo, người lão bị xé làm hai nửa. Lúc chúng tôi đem đèn pha chiếu qua, chỉ thấy ruột gan bầy nhầy lòi ra, miệng sùi bọt máu, nửa đoạn thân trên còn đang liều mạng bò về phía trước, nhưng càng ngày càng chậm dần. Con quái vật từ phía sau lại vươn cái lưỡi gớm ghiếc của nó ra lần nữa, cuốn lấy nửa phần trên của lão chuột đất, nuốt vào trong bụng.

Ba người chúng tôi mặc dù đối với lão chuột đất kia hận đến thấu xương, bất quá thấy lão rơi vào kết cục như vậy, cũng đều không khỏi cảm khái! Lúc này, con quái vật đầu khẽ nghiêng, chầm chậm nhìn về phía về chúng tôi. Có thể ở trong mắt nó, mấy người chúng tôi cùng với đám chuồn chuồn khổng lồ không có gì khác biệt. Ba người mặt tái mét lại, không dám nhìn nữa, tìm một chỗ có thể đặt chân, vội vàng lội nước mà đi.

Xung quanh nham bàn đều là nước, nhưng phía dưới mặt nước lại có rất nhiều đá lớn, một bước giẫm lên, nước còn chưa tới bắp chân, bất quá giữa đám loạn thạch khắp nơi đều là kẽ hở, một khi không cẩn thận giẫm hụt vào đấy sẽ lập tức rơi xuống hồ nước. Chúng tôi chạy được một hồi, trốn vào giữa một đám loạn thạch, dừng lại nghe ngóng, sau lưng không thấy có bất kì động tĩnh gì, có thể thấy con quái vật kia đã không đuổi theo nữa rồi, thần kinh vốn căng như dây đàn lúc này mới tạm được buông lỏng, ai nấy đều mệt đến đứt cả hơi, há miệng thở dốc.

Ba người chúng tôi lần đầu chứng kiến cảnh quái vật ăn thịt người, xem chừng cây súng săn tự chế trong tay Tuyền béo cũng không làm gì được nó, có cho ăn gan hùm mật gấu cũng không dám thò mặt ra ngoài, lại không thể cứ trốn mãi ở đây được, vẫn nên là tìm một con đường khác để thoát ra. Hang động nơi bảo tương hoa sinh trưởng tuy rất lớn, bất quá lúc này đã bị chìm trong biển nước, tạo thành một hồ nước ngầm, chỉ có đám loạn thạch ở chính giữa hồ là có một bộ phận nhô cao hơn hẳn mặt nước. Chúng tôi bị vây khốn ở chỗ này, xung quanh tất cả đều là nước, trong nước thì có quái vật hung bạo khó đối phó, trên đầu thì có chuồn chuồn khổng lồ biết tấn công người, nói không chừng còn có thứ quái quỷ gì khác ăn thịt người đang ẩn mình đâu đó, có thể sống sót đi được tới đây cũng coi như là may mắn lắm rồi, muốn ra ngoài nói dễ vậy sao? Huống chi sông ngầm chảy xiết tạo thành thác nước, muốn leo lên cũng không được, hơn nữa xung quanh có tới không dưới mười cái khe nứt, cho dù có nhặt được một cái la bàn quân dụng, cũng không tìm được vị trí lúc trước mà chúng tôi đã tiến vào!

Phóng mắt khắp bốn phía, chỉ thấy xương khô chồng chất, đa số đều không bị chìm trong nước, khe nứt âm dương mà chúng tôi tiến vào, chỉ là một trong số các khe nứt do bảo tương hoa tạo ra, chắc hẳn rơi vào lòng đất mà không chết cũng không chỉ có mỗi ba người chúng tôi, theo như chúng tôi biết, thì có đám kim phỉ, đội chinh phạt quân người Nhật, có lẽ còn có cả những người thợ đã xây nên Liêu mộ, hay mấy tay thợ săn ở trong rừng sâu núi thẳm,... Mấy nghìn năm qua đi, không biết đã có biết bao nhiêu người rơi vào trong khe nứt này, có thể đi đến tận cùng của khe nứt xem chừng cũng không phải ít người, nhưng sao không có lấy một người có thể chạy thoát ra ngoài? Tại sao nơi này lại có nhiều xương khô đến như vậy?

Chúng tôi nhất thời không nghĩ ra bất cứ đầu mối gì, đành chia nhau mấy miếng lương khô, vừa ăn vừa bàn tính làm thế nào để có thể tìm được đường ra ngoài. Theo như tình huống trước mắt, thụ mạch của bảo tương hoa tám chín phần là sinh trưởng ở bên dưới lớp nham thạch, “trái cây” mà lão chuột đất nói, không chừng cũng ở đó. Bất quá đáy hồ quá sâu, chúng tôi không ai đủ sức để lặn xuống được cả. Đúng lúc này, nước trong huyệt động dâng lên nhanh chóng, lũ từ trên núi đã đổ về rồi! Ba người vội vàng chạy tới chỗ có địa thế cao hơn, phía trước nứt ra một cái động lớn, bên trong rất sâu, không biết dẫn tới nơi nào. Chúng tôi không dám trực tiếp đi vào, trước tiên cứ mở đèn pha xem xét tình hình trong đó thế nào đã, trên thạch trụ có khắc rất nhiều ký hiệu hình xoáy nước, có lớn có nhỏ, chỉ nhìn qua một cái, cũng khiến cho người ta cảm thấy bản thân như đang bị hút vào trong.

Bên trên di tích cổ này, có một cửa động thông thẳng xuống dưới. Chúng tôi nằm trên cửa động nhìn xuống, chùm ánh sáng đèn pha không thể chiếu được tới đáy, không biết sâu đến chừng nào. Tôi đi tới bên cạnh, nhặt lấy một hòn đá nhỏ ném xuống, loáng thoáng nghe được tiếng rơi chạm đáy. Như vậy có thể khẳng định, dưới động mặc dù rất sâu, nhưng hoàn toàn không bị ngập nước. Đúng lúc này, có thứ gì đó đụng phải chân tôi, giật mình cúi đầu nhìn, thì ra là một con “du đề nhi thử” vừa phóng vèo qua chân mình. Tên gọi “Du đề nhi” là để chỉ một loài chuột, lòng bàn chân chúng có thể tiết ra một lớp dầu trơn, tốc độ chạy trốn rất nhanh, thật đúng với câu “nhanh như bôi mỡ bàn chân”. Tôi vừa định nhấc chân đạp cho nó một cái, thì thấy có một đàn chuột nhung nhúc bỗng tràn tới, con trẻ cõng con già, con nhỏ cắn đuôi con to, con nào con nấy hoảng sợ kinh hãi, tới cũng nhanh mà đi cũng nhanh, chỉ chớp mắt đã không thấy đâu nữa. Có lẽ là do nước lũ bất ngờ dâng nhanh, khiến cho lũ chuột trong huyệt động phải dời nhà tránh lũ, lúc này mới chạy ngang qua đây.

Tuyền béo là kẻ gan to bằng trời, muốn liều mạng xuống dưới huyệt động tìm xem có lối ra nào hay không, nói không chừng còn có thể tìm được thứ gọi là “trái cây” kia. Tôi thấy chỉ vì thứ gọi là “trái cây” này mà khiến cho không biết bao nhiêu mạng người đã phải nằm xuống, liệu nó có tồn tại hay không còn rất khó nói, lão chuột đất đã toi mạng, chân tướng thực sự của “trái cây” thế nhưng vẫn chưa được làm sáng tỏ, tùy tiện đến gần nó, xem chừng không phải là một ý kiến hay. Nhưng để cho Tuyền béo một mình đi xuống cũng khiến tôi không yên tâm, ba người nhất định phải cùng tiến cùng lùi, mà giờ đã đi đến điểm cuối của khe nứt, phía trước không còn đường đi, phía sau lại có nước lũ cùng mãnh thú, tôi với Tiêm Quả cũng không thể thoát nổi, thôi thì đành đánh liều cùng số phận, hi vọng rằng bên dưới sẽ có đường ra. Nghĩ vậy, tôi bảo mọi người chuẩn bị lại đồ đạc, thắt chặt dây lưng cùng mũ phòng hộ, đốt ba ngọn đuốc để chiếu sáng, giẫm lên đồ án hình xoáy nước, người này nối tiếp người kia từ trên thạch trụ leo xuống.

Ba người không màng sống chết, dùng cả tay cả chân bám chặt lấy thạch trụ, từ từ tụt xuống từng chút một, ước chừng được hơn chục trượng, hai chân cuối cùng đã chạm được vào nền đất, bên dưới là một thạch quật vô cùng rộng rãi, giống như một toà cung điện thần bí dưới lòng đất vậy, bốn phía không thấy điểm cuối, những cột đá to lớn một cây nối tiếp một cây hết sức chỉnh tề ngay ngắn, mỗi bên đều rộng hơn năm trượng, ngọn đuốc chiếu tới đâu, bất luận là thạch trụ hay là mặt đất, khắp nơi đều khắc đồ hình xoáy nước, có lớn có bé, không tuân theo một quy tắc nào cả. Đồ hình xoáy nước vặn vẹo cùng với những cây cột đá thẳng đứng uy nghi, tỏa ra một loại khí tức âm u quỷ dị, thần bí khó lường. Mấy ngọn đuốc trên tay chúng tôi tuy vẫn bập bùng ánh lửa, nhưng thật giống như một con đom đóm lạc giữa đêm đen hắc ám.

Tôi đang xem xét đồ án hình xoáy nước khắc trên cột đá, bỗng thấy Tuyền béo ngó nghiêng khắp nơi tìm chuột, vội vàng gọi cậu ta tới hỏi, cậu tìm chuột để làm cái gì? Tuyền béo đáp: “Lương khô sắp ăn hết rồi Nhất ơi, không bằng bắt lấy vài con chuột, làm mấy xiên thịt nướng, cải thiện bữa ăn.” Tiêm Quả nói với Tuyền béo: “Nơi này quá lớn, anh chớ có đi linh tinh nữa, coi chừng lạc đường!” Ba người tiếp tục lên đường, đi hết cột đá này đến cột đá khác, ngẩng đầu lên trên đã không thấy đỉnh, nơi chúng tôi trèo xuống lúc trước cũng đã không thấy đâu nữa. Tuyền béo nói: “Hai người các cậu chưa gì đã sợ tái mét mặt thế? Cột đá nào đi qua tôi chẳng khắc lấy một kí hiệu, chúng ta nãy giờ vẫn đi thẳng về một hướng, làm sao có thể lạc đường được?” Nói xong cậu ta dẫn chúng tôi quay lại, tìm cột đá mà lúc trước cậu ta đã đánh dấu, bất quá đi mãi cũng chẳng thấy đâu, đến lúc này Tuyền béo đầu đã đầy khói, rõ ràng mình đã dùng xẻng công binh để lại kí hiệu, tại sao giờ lại không thấy?

Tôi lên tiếng trấn an hai người họ: “Giờ có quay lại trên kia thì cũng chẳng còn đường để đi, thôi thì tới đâu hay tới đó, cứ giữ nguyên kế hoạch ban đầu đi, tìm đường ra bên dưới nơi này.”

Tuyền béo đáp: “Đúng! Cứ đi thẳng theo một hướng nhất định, không thể nào không đến được điểm cuối!”

Tôi nói với Tuyền béo: “Cậu đi tới một cây cột đá, khắc kí hiệu tiếp theo lên đi, tôi sẽ sử dụng la bàn xác định lại phương hướng một lần nữa, trước tìm được một bên vách đá đã rồi tính sau.” Lời tuy nói vậy, chúng tôi cũng không thể không làm tốt công tác chuẩn bị một cách chu đáo, ba người tắt đèn pha, chỉ dùng duy nhất một ngọn đuốc để chiếu sáng.

Tuyền béo nói: “Mấy cây cột đá này bốn bề hoàn toàn giống nhau, nên đi bên nào đây?” Tôi trước mắt vẫn chưa nhận ra bốn hướng có điểm gì khác nhau, cúi đầu nhìn la bàn hành quân trong tay, chính diện nơi chúng tôi đang đứng là hướng Bắc, vì vậy liền quyết định đi theo hướng này. Tuyền béo dùng xẻng công binh chọc chọc ngoáy ngoáy một hồi cột đá hướng Bắc, lưu lại một đạo ký hiệu rất rõ ràng, chúng tôi lúc này mới bắt đầu lên đường, ước chừng mới đi được hơn ba mươi bước, đã lại đi đến dưới một cây cột đá khác. Tuyền béo làm giống lúc này, tiếp tục dùng xẻng công binh để lại trên cột đá một ký hiệu, cứ như vậy lặp đi lặp lại, rất lâu sau đó, chúng tôi đã đi qua không dưới trăm cây cột đá, nhưng càng đi sâu vào trong huyệt động thì càng không thấy điểm cuối.

Ba người chúng tôi có dần trở nên lo lắng bất an, đã đi xa như vậy rồi, không thể nào vẫn chưa tới điểm cuối được, đây chẳng phải là bị ma bịt mắt, bị quỷ cuốn chân hay sao?

Tuyền béo nghiến răng nói: “Cứ tiếp tục đi sâu vào bên trong cũng không phải cách hay đâu, mấy người còn tuyệt chiêu nào khác thì mau bày ra đi!” Tiêm Quả sợ rằng chúng tôi nãy giờ hoàn toàn là đi theo một vòng tròn, vạn nhất các cột đá được sắp xếp theo hình xoáy nước, vậy phải làm sao đây?

Tôi cau mày suy nghĩ một lát, khả năng đường đi được thiết kế theo hình vòng xoáy là không lớn, bởi vì phương hướng mà la bàn chỉ ra không thể nào sai được, bất quá tôi vẫn không hiểu vì sao chúng tôi đi mãi mà không tìm được lối ra. Đáng sợ nhất chính là hết thảy tình hình thế nào chúng tôi đều không rõ, ánh sáng của đèn pha và đuốc cùng lắm chỉ chiếu xa được hơn hai mươi thước, không tài nào thấy được địa hình xung quanh, nếu cứ đi nhắm mắt đi bừa, liệu có thể kiên trì được mấy hồi, đến khi đuốc cháy hết mồi, đèn cũng cạn pin, vậy khác nào kẻ mù! Chúng tôi cần phải thay đổi sách lược hành động, mau chóng tìm được một lối ra. Tôi bảo Tuyền béo đi trước kiểm tra, xem mấy ký hiệu mà cậu ta để lại lúc trước có còn hay không. Nếu như vẫn còn, ít nhất cũng chứng minh được rằng chúng tôi từ đầu đến cuối vẫn đi thẳng theo một hướng, chỉ là chỗ này quá lớn, cho nên đi mãi vẫn chưa tới điểm cuối mà thôi. Tuyền béo hỏi: “Thế nếu như ký hiệu trên cột đá không còn, thì là làm sao?” Tôi không biết phải trả lời câu hỏi này thế nào, nếu trên cột đá thật sự không có ký hiệu… chẳng lẽ đã bị ma quỷ xoá mất?

Tôi bảo Tuyền béo chớ có suy nghĩ nhiều làm gì, cứ đi trước đã rồi có gì để sau hẵng nói, nếu như muốn xoá sạch chỗ ký hiệu do xẻng công binh tạo ra, nhất định phải lưu lại dấu vết nào đó. Tiêm Quả bật đèn pha, đi lùi lại mấy bước, hướng chùm ánh sáng chiếu thẳng tới cột đá đối diện. Tuyền béo cầm cây đuốc, chạy nhanh tới, cúi đầu xuống kiểm tra cột đá, rồi vẫy vẫy tay về phía chúng tôi ra dấu, ý bảo ký hiệu vẫn còn nguyên, ngay sau đó vội vàng chạy trở lại. Nếu không phải là do ma quỷ quấy phá, vậy có khả năng chúng tôi đang tiến vào một địa hình rất sâu, chúng tôi vẫn luôn đi theo hướng Bắc, giống như khi đi vào khe nứt kia, càng đi thì lại càng thấy sâu, không biết lúc nào mới đi tới điểm cuối. Chúng tôi lúc này quyết định quay đầu đi về hướng Tây, vẫn tiếp tục để lại những ký hiệu lên các cây cột đá, đi cả nửa ngày, vẫn chưa tới được nơi cần tới. Ba người đều cảm thấy tuyệt vọng, đúng như lời Tuyền béo nói, cứ tiếp tục cắm đầu đi như này, đến khi đèn đuốc tắt hết, cả lũ sẽ thành người mù, kêu trời trời không thấu, gọi đất đất không hay, có muốn khóc cũng không khóc nổi, làm cách nào ứng phó được đây?

Tuyền béo nói với chúng tôi: “Đuốc với đèn pha còn đủ dùng một lúc nữa thôi, lương khô cũng sắp hết rồi, sớm biết thế này thì đã cố bắt thêm vài con chuột, tốt xấu gì cũng có cái mà bỏ vào trong miệng, không lo chết đói, đợi đến khi chén sạch chỗ lương khô còn lại, chỉ còn nước gặm đá mà nhai. Cậu giỏi như vậy, thử nói xem vì sao lũ chuột vừa nãy kéo xuống nơi này đông như vậy, mà giờ lại chẳng thấy một con nào? Chúng trốn đi đâu rồi cơ chứ?”

Tôi thở dài, lúc này mới cảm thấy không bằng cả loài chuột bọ, ở nơi tăm tối như này bọn chúng còn có thể nhìn thấy đường, chúng tôi nếu không có đuốc, chưa chắc đã đi được đến đây!

Tuyền béo không đi tiếp nữa, mà giơ thấp ngọn đuốc, cúi đầu xuống muốn tìm hang chuột. Tôi nói với Tuyền béo: “Lương khô hãy còn mấy khối nữa, cậu việc gì phải vội vàng như thế?”

Tuyền béo đáp: “Mấy ngày nay ngày nào cũng phải nhai cái thứ lương khô cứng hơn cả đá ấy, ông đấy ngán đến tận cổ rồi, bắt lấy hai con chuột lớn, đem đi nướng thơm phức, thay đổi chút khẩu vị không được sao?”

Tiêm Quả cũng lên tiếng khuyên Tuyền béo, thịt chuột làm sao có thể ăn được? Tôi lại nói: “Thịt chuột quả thật không thể ăn được, lúc ở trong thôn kim phỉ cậu cũng thấy rồi đấy, nhà nào cũng có bài vị thờ cúng khôi tiên gia, nhỡ nó là một vị tiên gia thật thì sao? Có mấy lời bình thường tôi không nói ra bao giờ, là vì sợ người ta bảo rằng tôi là kẻ mê tín dị đoan, bất quá đối với hai người các cậu, tôi cũng không ngại nói ra, để tôi kể cho mọi người một chuyện tôi từng gặp qua lúc trước. Năm 1966 được gọi là năm Đại Xuyến Liên, đường sắt được kết nối khắp cả nước, tôi cùng Tuyền béo bắt xe lửa đi Tinh Cương Sơn. Giữa đường xe phải dừng lại để tiếp nước, tôi thấy cứ ngồi mãi trong buồng xe thì cũng thật là buồn chán, cho nên mới xuống xe đi bộ một vòng, kết quả là bị nhỡ chuyến, bất đắc dĩ đành phải tìm đến một nhà đồng hương gần đó để tá túc. Nửa đêm khát nước quá, lăn qua lăn lại mãi vẫn không ngủ được, định đi ra ruộng hái dưa hấu ăn cho mát.

Ban đêm gió lạnh trăng mờ, mặt đất tối đen, tôi mò mẫm tìm kiếm một hồi, chẳng hiểu sao lại đi lạc tới một ngôi mộ hoang, vòng tới vòng lui vẫn không tìm được đường về, từ đầu đến cuối vẫn chỉ đi loanh quanh một chỗ, bất luận tôi đi theo hướng nào, ngôi mộ đó vẫn luôn ở phía sau. Tôi khi đó gan lớn, chẳng hề tin vào quỷ thần ma mãnh, thấy một khối gạch đè trên đỉnh mộ, liền một cước đá văng nó đi, nào ngờ bên dưới khối gạch có một lỗ thủng, bên trong loáng thoáng phát ra ánh sáng. Tôi nổi lòng hiếu kỳ, bèn nằm bò ra đất, ghé mắt vào nhìn thử, thì ra lỗ thủng này thông thẳng tới mộ thất bên dưới. Trong mộ có một cái kháng đất, bên cạnh là chiếc bàn lò (Trans: Bàn đắp bằng đất, bên dưới có đặt bếp lò để giữ ấm trong mùa đông), trên bàn thắp một ngọn đèn dầu, một lão đầu tử cùng lão bà của mình ngồi xếp bằng trên kháng đất, chụm đầu ghé tai thì thầm gì đó. Tôi nhớ đã từng được nghe tổ phụ kể qua, cho nên có thể khẳng định hai người này tám chín phần là do bọn chồn vàng chó sói sống lâu ngày trong mộ hoang hóa thành, trốn ở đây quấy phá dọa người! Vừa hay trong túi tôi có một quả pháo đất, những người sống ở nông thôn rất hay mang theo bên người thứ đồ chơi này, đề phòng nửa đêm ra thăm ruộng gặp phải lợn rừng tấn công, chỉ cần đốt một cái là có thể dọa cho chúng chạy té khói, tôi nửa đêm định bụng ra ngoài hái dưa, cho nên cũng tiện tay cầm lấy một quả. Tôi cũng không biết khi ấy có phải do mình ăn gan hùm mật gấu hay không mà lại có thể bạo gan đến như vậy, bật lửa, châm ngòi, thò tay vào trong lỗ thủng ném quả pháo xuống, nhưng còn chưa kịp rút tay ra thì đã bị ai đó túm lại. Tôi vô cùng sợ hãi và hoảng loạn, trợn mắt nghiến răng mãi mà vẫn không tài nào rút được tay ra, bỗng nhiên có tiếng pháo nổ vang, tôi cảm thấy tay mình bị thứ gì đó hung hăng ngoạm lấy một cái, lúc này mới thu lại được cánh tay.

Tôi lấp kín lỗ thủng, rồi vội vội vàng vàng chạy về nhà người đồng hương kia, hôn mê suốt mấy ngày liền, miệng không ngừng ú ớ mê sảng, sắp sửa gần đất xa trời. Cũng may bọn họ tìm được một người biết xem chân hương, bày trận dựa theo “hương phổ”, tôi mới giữ lại được cái mạng này. Vậy mới nói, những thứ này nó không chọc đến cậu, thì cậu cũng đừng có cố đấm ăn xôi mà đụng tới nó, không tin cậu nhìn đây này, trên tay tôi vẫn còn lưu lại vết sẹo năm đó!”

Nói rồi tôi giơ mu bàn tay ra cho Tuyền béo cùng Tiêm Quả nhìn, bên trên quả thật có mấy vết sẹo. Tiêm Quả liền tin là thật, nhưng lại không qua được mắt Tuyền béo. Cậu ta nói: “Thôi ông tướng bốc phét ít thôi, mấy vết sẹo này chẳng phải là do năm ấy cậu hứng lên xuống xe đi rình trộm dưa nhà người ta, rồi bị chó săn phát hiện tợp cho mấy phát sao? Thế quái nào giờ lại thành vết cắn của khôi đại tiên gia thế?”

Tôi không ngờ Tuyền béo ngay cả chuyện này cũng biết, nhưng dù sao cũng chỉ là muốn cậu ta không đi bắt chuột ăn, năm đó cả nước mất mùa, ở nông thôn rất nhiều người phải đi bắt chuột để ăn, bất luận là bị tiên gia trả thù hay dính dịch hạch, phần lớn đều chết không được tử tế, cho dù là chuột nhắt trên núi, cũng không thể tùy tiện ăn bậy.

Trong lúc nói chuyện, ba người chúng tôi vẫn chưa đi tiếp được bước nào, cảm thấy đại điện này giống như mê cung, càng đi càng khiến cho người ta sau lưng phát lạnh, đã thử đi cả hai hướng mà mãi vẫn không thể đi tới được điểm cuối, chỉ thấy một cây lại một cây cột đá nối tiếp nhau liên miên, cùng với muôn vàn đồ hình xoáy nước chỗ nào cũng có, người đi ở trong đó, giống như đưa thân vào vô biên vô tận xoáy nước hải vực, hoàn toàn không có lối ra!
 

trucxinh0505

Xóm nhỏ phố núi
Thành viên BQT
Administrator
Chuyển ngữ
Tác giả
Tham gia
14/4/19
Bài viết
13,607
Điểm cảm xúc
5,132
Điểm
113
Chương 18: Xoáy nước sâu (thượng)
Dịch: Đặng Nam

Tuyền béo không ngừng mở miệng kêu khổ: “Thà rơi xuống biển còn sướng hơn, trong biển ít ra còn có cá mà ăn, có cảnh mà ngắm, chứ đâu như cái nơi bỏ mẹ này, nhìn đâu cũng chỉ thấy toàn đá là đá! Chưa nói đến ngoài biển, chẳng bị cái mẹ gì úp lên đầu cả, bao la phóng khoáng, không khí trong lành, sướng hơn không biết bao nhiêu lần cái hầm mộ chó chết này!”

Người nói vô tâm, người nghe hữu ý, Tuyền béo chỉ thuận miệng nói như vậy, nhưng lại khiến tôi nảy sinh một ý nghĩ, phía trên đỉnh đá còn có một không gian khác, chúng tôi ban đầu chính là từ trên đó bám theo thạch đá đi xuống, bên trên có lẽ có thể đi ra ngoài. Cho dù từ bên trên đi ra, đồng dạng cũng không có lối mà đi, đường sống thực sự còn phải tìm ở nơi này, nếu có thể lần nữa leo lên được đỉnh hang, ít nhất cũng có thể nói rõ một điều, cái cung điện dưới lòng đất này bất quá chỉ là kích thước quá lớn, chứ không phải là do yêu ma quỷ quái gì quấy phá cả. Tôi lập tức leo lên một cây cột đá, được chừng hơn mười trượng, đã có thể với tay ra chạm vào đỉnh hang, bên trên cũng có khắc đồ hình xoáy nước, dùng xẻng công binh đục thử vài nhát, lớp đá ở đây cứng rắn vô cùng, không thể làm gì được. Tôi cúi đầu nhìn xuống bên dưới, cây đuốc trong tay Tiêm Quả bây giờ chỉ còn là đốm sáng nhỏ, trông như một hạt đậu nành, căng mắt ra mới có thể nhìn thấy. Tôi từ trên cột đá tụt trở xuống, nói lại tình hình bên trên cho hai người Tuyền béo và Tiêm Quả được biết, nếu như không gặp phải yêu ma quỷ quái gì cản đường, thì còn có thể tìm được đường ra.

Tuyền béo nói: “Cái hang chết tiệt này rốt cuộc là nơi nào vậy hả Nhất ơi? Trông rõ là lớn mà lại chẳng có cái mẹ gì cả!”

Tiêm Quả đáp: “Lẽ nào chúng ta lại lạc một ngôi cổ mộ khác?”

Tuyền béo nghe thế, cũng gật gù đồng ý với ý kiến của Tiêm Quả, đây có lẽ quả thực là một ngôi mộ cổ, cậu ta nói: “Tổ phụ cậu năm đó chẳng phải làm đã từng làm chuột đất hay sao? Cậu thể nào cũng được truyền thụ một hai, thế mà vẫn nhìn không ra đây là loại mộ gì à?”

Tôi không muốn trước mặt Tiêm Quả nhắc đi nhắc lại chuyện tổ phụ tôi từng dính dáng đến cái nghề này, nó chẳng phải là chuyện vinh quang hay vẻ vang gì để mà ông ổng suốt ngày cả. Huống chi tôi cũng không cho rằng mê quật này là một ngôi mộ cổ, trên đời tuy có đại mộ thật, nhưng tuyệt nhiên không có cái nào lớn đến mức quái dị như thế này. Tuyền béo lại hỏi tôi: “Thế mấy cái đại mộ từ đầu đến cuối lớn chừng nào?”

Tôi từng xem qua cuốn “lăng phổ” do tổ phụ truyền lại, “lăng phổ” còn được gọi với cái tên khác là “táng huyệt đồ”, chỉ có rất ít cuốn là thật còn đâu đa số đều là giả, trong sách thật có ghi lại các phương hướng, bản đồ huyệt vị của các lăng mộ theo từng triều đại, còn sách giả thì đa số nhắc tới các phương vị thổ táng, nội dung liên quan đến đại mộ thời cổ đại tuy nhiều nhưng không hề đáng tin. Bất quá cuốn “lăng phổ” kia của tổ phụ tôi là có lai lịch gốc gác đàng hoàng, mấy thứ hàng dởm hàng nhái trong tay đám trộm mộ vớ vẩn làm sao có thể so sánh được. Dựa theo “lăng phổ” ghi chép lại, Ly Sơn Tần Lăng được mệnh danh là đệ nhất đại mộ từ xưa tới giờ, người được an táng trong Ly Sơn chính là Tần Thuỷ Hoàng, trong mộ bày ra một hàng tiên long tiên phượng, vô số kỳ trân dị bảo được vơ vét từ khắp nơi trong thiên hạ chất thành từng đống cao như núi, trải dài như biển, lấy trầm hương đẽo thành thuyền, dùng vàng đúc thành chim nhạn, ở giữa còn đặt một con kình ngư bằng ngọc nguyên chất, trong miệng có ngậm hoả châu, giống như ánh sáng chiếu rọi khắp địa cung, vô cùng thần diệu, không cần đèn đuốc. Nhưng so với nơi này thì thật không đáng nhắc tới, muốn ở trong mê quật tạc ra được một toà đại điện lớn như thế kia, không biết phải dùng đến biết bao nhiêu sức người cơ chứ? Thời gian để hoàn thành cũng không phải là ngắn?

Cung điện khổng lồ bên dưới lòng đất này hoàn toàn trống trơn, khắp nơi chỉ có một cây lại một cây cột đá nối tiếp nhau, tất cả đều được khắc đồ hình xoáy nước, vậy là có ý gì? Hay chính xác hơn chúng dùng để làm gì? Với sự hiểu biết của cả ba chúng tôi, căn bản không thể nghĩ nổi. Tuyền béo vỗ trán bốp một cái: “Còn có thể làm cái gì cơ chứ, chính là để dụ người ta đi vào rồi không tìm được đường ra chứ sao!”

Tiêm Quả nói: “Tại sao phải làm như vậy? Phải chăng là vì không muốn người ta đến gần những thứ kia?”

Tuyền béo gãi gãi đầu: “Nơi này không phải toàn là cột đá sao? Lấy đâu ra thứ gì nữa chứ?”

Một ý nghĩ xẹt qua trong đầu tôi: “Có lẽ nào làm thế là để ngăn không cho người khác đến gần bảo tương hoa? Hay do chính bảo tương hoa đang tác oai tác quái?”

Lúc trước chúng tôi đã vô tình bỏ qua một vấn đề quan trọng, thụ mạch bảo tương hoa nằm dưới mê quật này, trước sau trái phải đều không có đường ra, tại sao không thử đi sâu xuống dưới? Đi xuống vừa vặn có thể tiếp cận được bảo tương hoa, nói không chừng còn có thể men theo dây leo của nó thoát ra ngoài! Ba người vất vả lắm mới nắm được một cái phao cứu mạng, vội vàng cạy bỏ lớp gạch đá dưới nền, nào ai biết lớp gạch này cứng rắn không kém gì so với tầng đá trên đỉnh hang, cạy mãi mà không ra. Đại điện bốn phía không thấy điểm cuối, thật có thể nói là “lên trời không có lối, xuống đất không có đường”!

Tuyền béo không thể làm gì khác hơn là ngồi phịch xuống, cây đuốc trên tay cậu ta vừa may tắt ngấm đúng lúc này, đành thuận tay ném sang một bên. Tôi với Tiêm Quả cũng chẳng còn cách nào, cùng ngồi xuống thương lượng đối sách. Tôi nói với Tuyền béo: “Cậu đừng có ngồi im như hòn đá nữa có được không? Trước mắt nhất định sẽ còn gặp nhiều khó khăn, nhưng chúng ta đã một đường đi xuống được đến tận đây, trải qua biết bao nhiêu khảo nghiệm thử thách khó khăn cùng thời khắc kích động lòng người, gánh vác trên vai sứ mệnh cách mạng to lớn, làm sao có thể bỏ cuộc lúc này? Hãy dùng sức chịu khó suy nghĩ một chút đi, chưa chắc đã không tìm được đường ra.”

Tuyền béo nói: “Nói thì hay lắm Nhất ạ, cậu muốn nghĩ thì tự mình nghĩ một mình đi, đừng có lôi kéo thằng này, tôi chịu rồi không nghĩ ra được cái mẹ gì nữa đâu, suốt ngày phải gặm cái thứ lương khô chết tiệt kia, lấy đâu ra dinh dưỡng bổ sung cho não? Ngồi không còn chẳng dám nghĩ nhiều nghĩ nhanh, giờ cậu lại bảo tôi dùng sức thì chẳng phải là vỡ toác mẹ đầu ra à?”

Tôi tức giận đáp lại: “Lương khô cũng không thể ăn không được! Ngay cả một cái chủ ý nhỏ nhoi cũng không nghĩ ra được, vậy cậu còn có tác dụng gì nữa chứ?”

Tuyền béo dõng dõi nói: “Tôi là người sinh ra để làm lãnh đạo, đứng trên cao bao quát đại cục, làm nên việc lớn! Chờ các cậu nghĩ ra kế sách, tôi có thể tham khảo rồi đưa ra ý kiến phê bình, cái nào cần phải triển khai, cái nào phải loại bỏ, cái gì có thể làm, cái gì không thể, các cậu kinh nghiệm đều không có, không có thủ trưởng hướng dẫn chỉ bảo, sao mà làm được nên chuyện.”

Tôi thấy Tuyền béo bắt đầu hồ ngôn loạn ngữ, đến cả tên mình là gì cũng sắp quên mất rồi, đang muốn tạt cho cậu ta một gáo nước lạnh, lại thấy Tiêm Quả lên tiếng: “Các anh thử nghĩ lại xem, nếu chỉ để vây khốn người khác, thì việc gì phải tạo ra một cái địa cung lớn như thế này?”

Tôi chợt ngẩn người, rất nhanh đã hiểu ý Tiêm Quả muốn nói đến là gì, đỉnh hang cách mặt đất ước chừng hơn mười trượng, tạo thành một tòa địa cung quy mô khổng lồ, nếu như chỉ để vây khốn những người tiến vào, quả thật rất khó nói, hoàn toàn không cần phải tốn công tốn sức đến như vậy, rốt cuộc tòa đại điện này là dùng để làm gì?”

Tiêm Quả bật đèn pha chiếu lên những cây cột đá, cột đá trong đại điện cao chừng mười trượng, chiều rộng không dưới năm trượng, nếu chỉ để vây khốn người ngoài, thật sự không cần phải làm to đến như vậy. Vừa suy nghĩ, Tiêm Quả vừa đi đến bên trái cột đá. Hai thằng tôi sợ có chuyện không hay xảy ra, vội đốt lại một cây đuốc khác, cùng nhau tiến lên. Tôi mượn ánh sáng từ cây đuốc, ngẩng đầu nhìn về phía cột đá, không chỗ nào không khắc đồ hình xoáy nước, đều xoáy theo một hướng nhất định, càng nhìn càng loạn, đầu óc tôi lúc này đã rối như tơ vò, đang lúc căng não suy nghĩ, Tiêm Quả đột nhiên cả kinh thốt lên: “Có người!”

Tôi vội vàng giơ cây đuốc về phía sau soi thử, nhưng lại chẳng thấy có bất cứ thứ gì hết, trong lòng thầm nghĩ: vợ khóc thì con kêu, trên trời rơi xuống Lâm muội muội, nửa đường nhảy ra Trình Giảo Kim, bên trong cung điện trống rỗng này làm gì còn ai khác?

Tuyền béo tháo cây súng săn tự chế trên lưng xuống, đạn đã lên nòng, hỏi Tiêm Quả: “Nơi nào có người?”

Tiêm Quả run rẩy chỉ tay về phía con đường chúng tôi đã đi qua: “Hình như là… quỷ môn… lão tổ!”

Tôi cùng Tuyền béo nghe thấy vậy càng cảm thấy kỳ quái hơn, lẽ nào lại là quỷ môn lão tổ, tên quái nhân thân hình bị co rút lớn chưa bằng một đứa bé năm tuổi? Lão chuột đất rõ ràng đã chết, chính ba chúng tôi đã tận mắt trông thấy, hơn nữa còn bị con quái vật dưới nước xé xác thành nhiều mảnh, làm sao có thể xuất hiện ở chỗ này? Ba người cẩn thận di chuyển tới mặt bên của cột đá, nhưng không thấy dù chỉ là một vết chân người, trên mặt đất chỉ có cây đuốc đã tắt từ lâu. Tuyền béo cho rằng Tiêm Quả hẳn đã nhìn lầm, có lẽ do quá khẩn trương, nên mới thần hồn nát thần tính, sinh ra ảo giác. Tôi thầm nghĩ tuy lão chuột đất đã chết, nhưng ở cái địa phương quỷ quái này, nếu có thấy quỷ thì cũng không có gì là kỳ lạ, thường nói “người chết như đèn tắt", đèn tắt còn có một làn khói cuối sót lại, huống chi là con người? Tôi trong đầu nghĩ vậy, nhưng không hề nói ra, thấy bên này không có, lại đi về phía trước mấy bước, bỗng nhiên ánh sáng từ cây đuốc chiếu rọi lên một khuôn mặt người, da dẻ nhăn nheo, vặn vẹo dữ tợn, rõ ràng chính là quỷ môn lão tổ đã chết từ lâu!

Tôi giật mình hoảng hốt, cây đuốc trong tay vì thế mà chao đảo một phen, không thể chiếu tới khuôn mặt lão chuột đất. Tuyền béo giơ khẩu súng săn tự chế lên, tôi cầm chặt xẻng công binh, Tiêm Quả theo sát phía sau, ba người đánh liều đi về phía trước, nhưng không thấy tung tích của lão chuột đất đâu nữa cả. Mấy cây đuốc làm vội của chúng tôi toả ra thứ ánh sáng ảm đạm như có như không, bất quá dưới con mắt ngũ luân bát quang tinh tường của tôi, tuyệt đối sẽ không nhìn nhầm, đó quả thật là lão chuột đất đã chết! Chỉ bất quá, hai mắt của lão vốn luôn loé lên hung quang gian xảo, nhưng mới vừa rồi khi bị cây đuốc chiếu qua, lại chỉ như hai cái hố đen! Tôi trong lòng lạnh toát, quỷ môn lão tổ không chỉ đã chết, mà ngay cả đến xác cũng chẳng còn, tại sao lại xuất hiện trong toà đại điện này?

Tuyền béo định đuổi theo, liền hỏi: “Lão chuột đất chạy hướng nào?” cây đuốc chỉ thoáng đung đưa trong phút chốc, ấy thế mà quỷ môn lão tổ đã biến mất ngay trước mắt chúng tôi, không thể xác định được lão đã chạy về hướng nào. Tôi bảo Tuyền béo không cần đuổi theo, bốn phía tối đen như mực, lại không nghe được tiếng bước chân nào, làm sao có thể đuổi kịp?

Tuyền béo nói: “Chôn chân mãi ở đây lâu như vậy, chỉ thấy cột với cột, thật vất vả lắm mới thấy một bóng người, còn không mau đuổi theo xem rốt cuộc là ai?”

Tôi trong đầu thầm nghĩ quỷ môn lão tổ mà là người sao? Thật khó mà nói lão bây giờ đã thành cái giống gì, rõ ràng đã chết mười mươi, tại sao lại xuất hiện ở chỗ này?

Tuyền béo nói tiếp: “Cậu còn ngây ra đấy làm gì, không đuổi theo thì làm sao biết được chuyện gì đang xảy ra?” Tôi thấy có gì đó không đúng, tạm chưa nhắc đến việc lão chuột đất có phải là quỷ hay không, thoắt ẩn thoắt hiện, dường như là cố ý để chúng tôi nhìn thấy, bằng không cũng đã không đến gần như vậy! Dựa theo hướng này mà suy luận thêm - lão chuột đất hiện thân xuất hiện, mười phần thì có tám, chín phần là muốn dụ chúng tôi đuổi theo, tại sao lão lại muốn làm thế?

Tuyền béo là người chỉ biết chiếm tiện nghi chứ không chịu thua thiệt ai, so với bất kỳ ai cậu ta cũng đều sáng suốt, nhanh nhạy hơn, vừa nghe thấy tôi nói như vậy, lập tức hiểu ra, lão chuột đất đây là muốn thực hiện một chiêu gọi là điệu hổ ly sơn!

Tôi gật đầu một cái, quỷ môn lão tổ muốn dụ chúng tôi đuổi theo, nhất định không có ý tốt, phía trước nói không chừng đang có cạm bẫy giăng ra chờ sẵn, đã không đuổi thì thôi, một khi đuổi theo nhất định sẽ bị mắc lừa.

Tiêm Quả bỗng nhiên giống như nghĩ ra điều gì đó, nói: “Chúng ta ở trong mê quật không thể thoát ra, lương khô cũng sắp hết, sớm muộn gì cũng bỏ mạng ở đây, tại sao còn muốn dẫn dụ chúng ta rời đi?”

Tôi cùng Tuyền béo sững sờ, lời này của Tiêm Quả nói rất đúng, quy mô của cái mê quật này lớn đến kinh người, chúng tôi bị vây khốn bên trong, có mọc thêm cánh cũng chưa chắc đã bay ra được, lên trời cũng khó mà xuống đất cũng chẳng xong, đã hoàn toàn rơi vào tuyệt lộ, quỷ môn lão tổ tại sao còn muốn đẩy chúng tôi đi vào chỗ chết? Chẳng lẽ do lão ăn no dửng mỡ, còn chê chúng tôi chết chưa đủ nhanh? Nhưng nghĩ kỹ lại, có lẽ còn có một loại khả năng khác, sở dĩ quỷ môn lão tổ dụ chúng tôi rời đi, là bởi vì không muốn mấy người tiếp tục loanh quanh ở đây, chắc chắn nơi này có gì đó không đúng! Nơi chúng tôi đang đứng bây giờ, phải chăng đã rất gần với bảo tương hoa?

Toà mê quật này đã ngủ yên bên dưới lòng đất phải hơn nghìn năm, quy mô to lớn hiếm thấy trên đời, nơi ánh sáng của đèn pha cùng cây đuốc có thể chiếu tới, chỉ thấy hết xoáy nước này đến xoáy nước khác nối tiếp nhau, người đứng ở bên cạnh như bị mê hoặc, dù có đi theo hướng nào đi chăng nữa cũng không thể đi tới điểm cuối, ba người chúng tôi không nghĩ ra thêm được cái gì nữa cả, đành ngồi ôm gối chờ chết. Theo như tình cảnh trước mắt mà nói, sự xuất hiện đột ngột của quỷ môn lão tổ chính là một cơ hội để mấy người xoay chuyển tình thế, có thể nắm bắt được cơ hội này hay không, đều phụ thuộc vào lựa chọn cuối cùng của chúng tôi. Câu nói của Tiêm Quả đã khiến tôi cùng Tiêm Quả ý thức được một điều - quỷ môn lão tổ dẫn dụ ụ chúng tôi chạy ra ngoài, cũng không phải là vì muốn đẩy chúng tôi vào chỗ chết, mà ắt hẳn lão có mưu đồ khác!

Tôi nghĩ quỷ môn lão tổ đúng là âm hồn bất tán, đã khiến chúng tôi ăn đủ các loại thua thiệt. Không biết lão ta là cái thứ quỷ quái gì, rõ ràng đã chết trong huyệt động, ấy thế mà vẫn có thể quấy phá tới tận bây giờ. Chúng tôi ba người chẳng ai biết vẽ bùa niệm chú, cũng không có bản lĩnh hàng yêu tróc quỷ, chỉ sợ không đối phó nổi với cái giống nửa người nửa quỷ này. Bất quá lão chuột đất tới đây là vì nhắm đến bảo tương hoa, chúng tôi trong lúc vô tình rất có thể đã tiếp cận gần với bảo tương hoa, đối phương lúc này mới phép đem chúng tôi dẫn dụ ra ngoài. Tuy là thế nhưng chúng tôi đã đi lòng vòng xung quanh mê quật này không biết bao nhiêu lần, khắp nơi đều thấy đồ hình xoáy nước khắc trên những cột đá lớn, nhưng tuyệt chưa thấy bảo tương hoa đâu cả. Đến nỗi hình dáng sinh trưởng của nó ra sao, thật ra chúng tôi cũng không hề hay biết, chỉ tình cờ thấy qua những sợi dây leo khổng lồ bên trên khe nứt. Thực không dám tưởng tượng, dây leo đã to đến kinh người, bảo tương hoa còn lớn đến mức nào? Nếu như đã đến rất gần, tuyệt không thể không trông thấy. Tôi giơ cao cây đuốc chiếu khắp nơi một lượt, quan sát cột đá trước mặt từ trên xuống dưới, vẫn là vô số đồ hình xoáy nước lớn nhỏ, tựa hồ biến hoá vô cùng, xem đi xem lại cũng chẳng hiểu gì.

Tôi đứng ngẩn ngơ hồi lâu, không phát hiện thấy có điều gì bất thường, trong đầu thầm nghĩ trong toà đại điện này đều là đá với đá, sao có thể mọc ra được bảo tương hoa? Lão chuột đất muốn tìm bảo tương hoa để làm gì? Không phải là vì thứ gọi là “trái cây" đấy chứ? Hiểu biết của tôi về bảo tương hoa chẳng có mấy, chỉ nghe nói đó là một trong hai mươi tư loài Phật hoa, có thể toả ra hào quang vạn trượng, sáng tỏ thập phương thế giới, chính là loài hoa vãng sinh được ghi lại trong kinh Phật, toà Liêu mộ này được xây dựng phỏng theo táng chế thời nhà Đường, cho nên bên trên gạch mộ mới có dùng hoa văn bảo tương hoa để trang trí, trong khi đó loài thực vật to lớn có thể phát sáng này sinh trưởng ngay đúng nơi có địa mạch, đã tồn tại từ trước đó không biết mấy chục nghìn năm. Có thể thấy bảo tương hoa là cái tên mà mãi sau này người ta mới đặt cho nó, hào quang vạn trượng là để chỉ kích thước to lớn của nó, còn sáng tỏ thập phương thế giới ý nói loài hoa này sinh trưởng bên dưới lòng đất. Tôi nhớ lão chuột đất từng nói qua, lão nói năm đó trong một lần trộm mộ chẳng may trúng phải súc thi chú, cơ thể càng ngày càng co rút lại, chỉ khi nào lấy được thứ trái cây do bảo tương hoa kết thành, thì mới có thể thoát thai hoán cốt, vượt lên trên sinh tử. Tôi không hiểu lời này của lão có ý gì, vì sao không phải là trường sinh bất tử, mà lại là vượt lên trên sinh tử? Thử nghĩ kĩ lại một chút, kỳ thực chuyện này cũng không có gì là khó hiểu cả, người xưa có câu - sinh có giờ, chết có đất chôn, một đời người, sống cũng chỉ là một đoạn thời gian nằm giữa sinh và tử. Bản lĩnh của ngươi cho dù có lớn đến đâu đi chăng nữa, chung quy vẫn sẽ phải quay trở về với cát bụi, đằng này quỷ môn lão tổ lại muốn thoát ra khỏi quy luật ấy của thiên địa, vậy chẳng phải là quá si tâm vọng tưởng rồi hay sao?

Trước khi trông thấy bảo tương hoa, tôi chỉ có thể suy nghĩ linh tinh, đi mãi mà chẳng tìm được thứ gì, cây đuốc trên tay cũng chẳng cháy được mấy hồi nữa, xem ra phán đoán của chúng tôi lúc trước là hoàn toàn sai lầm, liều mình đi về con đường tối đen phía trước, hay là tiếp tục ở lại chỗ này, phải mau chóng đưa ra quyết định. Tuyền béo không cam lòng ngồi chờ chết, vẫn muốn đi về phía trước. Tiêm Quả thế nhưng lại cảm thấy việc quỷ môn lão tổ bất ngờ xuất hiện lúc này nhất định là có nguyên nhân nào đó, trong mê quật khắp nơi đều là cự thạch khắc đồ hình xoáy nước, nếu cứ đi về phía trước, rất có thể lại một lần nữa chẳng thu được bất kỳ kết quả gì. Tôi cũng có ý đó, nếu như không nắm bắt lấy cơ hội này, ắt sẽ rơi vào cảnh vạn kiếp bất phục, mới vừa rồi vẫn luôn cho rằng lão chuột đất không muốn để cho chúng tôi trông thấy bảo tương hoa, nhưng xét cho cùng đây cũng chỉ là suy nghĩ một phía từ chúng tôi, tốt nhất không nên đem hết sự chú ý đặt lên bảo tương hoa.

Tuyền béo nói: “Tìm làm cái mẹ gì? Nơi này còn có cái quái gì để mà tìm?” Tôi bảo cậu ta hãy bình tĩnh đi, thử suy nghĩ kỹ lại xem lúc trước chúng ta đã làm cái gì, tại sao quỷ môn lão tổ lại xuất hiện đúng vào lúc đó?

Tiêm Quả nghĩ ngợi một hồi, rồi nói: “Lúc ấy chúng ta cảm thấy mê quật quá lớn, bốn bề cột đá bên nào cũng phải rộng hơn dăm ba trượng…”

Tuyền béo chỉ tay về phía cột đá bên trái, tiếp lời Tiêm Quả: “Lúc trước chúng ta đi ở bên kia, sau đó đụng phải khuôn mặt ghê tởm của lão chuột đất ở phía sau, quay lại đã không thấy đâu nữa, tôi nói đuổi theo, hai người lại không đồng ý…”

Tôi cúi đầu nhìn chỗ mà lúc trước Tuyền béo đã ném cây đuốc xuống, đồng thời lấy ra la bàn hành quân để xác định phương vị, sau đó bảo Tiêm Quả vẽ lên cuốn sổ tay không thấm nước một hình vuông, bốn hướng Đông Nam Tây Bắc được đánh số lần lượt 1, 2, 3, 4. Lúc trước ba người vẫn luôn đi về phía Tây, dừng lại phía trước một cây cột đá. Khi ấy cột đá chúng tôi đang đứng là ở phía Đông, tức là vị trí số 1. Sau đó chúng tôi lại từ phía bên trái đi vòng qua cột đá, thuận theo chiều kim đồng hồ, vậy là phía Nam, vị trí số 2; còn phía Tây là vị trí số 3. Thời điểm chúng tôi sắp đi đến vị trí số 3, quỷ môn lão tổ đột nhiên xuất hiện, chúng tôi liền quay đầu trở về vị trí số 1. Lúc ấy theo như trực giác của tôi, toàn bộ xoáy nước bên trong toà đại điện này đều xoay theo chiều từ trái sang phải, ba người chúng tôi theo bản năng đi một vòng xung quanh cột đá, cũng chính là từ bên trái sang bên phải, nếu như từ vị trí số 1 vòng qua vị trí số 4, liệu có phát sinh chuyện gì hay không?

Tuyền béo nói với tôi: “Cậu trầm ngâm cả nửa ngày trời mà cũng chỉ nghĩ được đến thế thôi sao?” Tôi đáp tôi chẳng thể nghĩ ra được biện pháp nào khác đâu, nếu nói chúng tôi trong lúc vô tình đã làm gì đó, khiến cho quỷ môn lão tổ buộc phải xuất hiện dẫn dụ chúng tôi tránh xa ra, cũng không phải là từ bên trái vòng qua, có táo hay không có táo, cứ phải đập cho một gậy đã rồi sau hẵng nói! (Trans: Đây là một câu nói dân gian của Trung Quốc, người xưa cho rằng cây táo nếu không dùng gậy đánh doạ nó, thì nó sẽ không thể ra hoa để mà kết trái được, nên trước khi đến mùa táo, không cần biết là cây táo này có bị “điếc” hay không, cứ phải dùng gậy đập mấy phát cái đã.)

Mê quật đại điện chôn sâu trong lòng đất, cột đá bên trong rộng phải đến gần bốn, năm trượng, ánh sáng từ cây đuốc chỉ có thể chiếu đến được không quá mười bước chân, không thể xa hơn được nữa. Tuyền béo tay cầm đuốc đi ở phía trước mở đường, tôi cùng Tiêm Quả theo sát ngay phía sau, ba người dựa theo chiều xoay của xoáy nước, từ bên trái cột đá đi vòng quanh một lượt, lại trở về vị trí số 1 ban đầu. Tuyền béo giơ cao cây đuốc quan sát cả nửa ngày, nhưng tuyệt không cảm thấy có thứ gì bất thường cả. Lòng tôi cũng trầm xuống, chẳng nhẽ cách này hoàn toàn vô dụng. Tiêm Quả so với tôi và Tuyền béo thì cẩn thận hơn nhiều, cô ấy cúi đầu nhìn một cái, liền phát hiện cây đuốc lúc trước đã không thấy đâu nữa. Thời điểm chúng tôi vừa mới tới vị trí số 1 lần đầu tiên, có một cây đuốc bị tắt, Tuyền béo bèn tiện tay ném xuống đất, chúng tôi tiếp tục đi về phía trước thì phát hiện quỷ môn lão tổ nấp ở đằng sau, ba người liền lập tức quay người lại đuổi theo, lúc ấy rõ ràng vẫn còn thấy cây đuốc nằm ở đó, vậy mà bây giờ chúng tôi vòng lại, nó đã biến mất một cách khó hiểu!

Tình hình lúc đó khiến tôi dựng hết cả tóc gáy, sở dĩ chúng tôi đi theo chiều xoay của xoáy nước là do đã hết cách rồi, đành nghĩ được tới đâu thì nhắm mắt làm bừa tới đấy, không ngờ lại thật sự có vấn đề nảy sinh, tại sao cây đuốc kia lại đột nhiên biến mất? Tuyền béo lẫn Tiêm Quả cũng giống như tôi, đầu óc cả hai đều mơ mơ hồ hồ không hiểu chuyện gì đã xảy ra? Hay là đã bị lão chuột đất nhặt đi rồi?

Tuyền béo nói: “Chắc cũng không đến mức đó chứ, cây đuốc kia đã chẳng thể dùng được nữa, lão nhặt lại để làm cái quái gì?” Tôi đáp: “cây đuốc có thể bị người ta lấy đi một cách dễ dàng, nhưng vết khắc thì rất khó xoá mờ, tôi sẽ để lại một ký hiệu ở đây, chúng ta thử đi một vòng nữa rồi quay trở lại xem nó có còn hay không?”Dứt lời tôi liền vung xẻng công binh, khắc lên vách đá một ký hiệu riêng biệt, lại từ bên trái đi vòng quanh cột đá, mỗi mặt đều để lại một ký hiệu khác nhau, sau khi đi hết một vòng bốn mặt, lại quay về vị trí số 1, mượn ánh đuốc leo lét để kiểm tra, cả ba chúng tôi đều cả kinh thất sắc, trên cột đá chi chít đồ hình xoáy nước, nhưng tuyệt nhiên không có bất cứ ký hiệu nào do xẻng công binh để lại!

Tôi dùng sức xoa xoa hai mắt, lại đưa tay ra sờ thử một hồi lâu, quả thật không thấy cái ký hiệu nào cả. Tuyền béo bực bội nói: “Tôi đếch tin chuyện này đâu, hai người cứ đứng đây chờ, tôi vòng qua đó kiểm tra thử xem sao.” Nói xong cậu ta liền xách theo cây súng săn đi một vòng về phía trước, một lát sau mới trở lại, khuôn mặt đầy vẻ kinh hãi, không cần phải hỏi cũng biết, cậu ta từ đằng trước vòng qua, cũng không thấy chúng tôi đâu. Ba người chưa hề từ bỏ ý định, lại đi vòng quanh cột đá thêm một lần nữa, qua mỗi mặt đều khắc lên một cái ký hiệu. Ky quái chính là, nếu đi ngược trở về thì vẫn có thể nhìn thấy ký hiệu đó, nhưng khi chúng tôi đi vòng qua thì lại không thấy. Mọi người không hẹn mà cùng ý thức được chuyện gì đã xảy ra, không phải ký hiệu ở vị trí số 1 bị biến mất, mà là xuất hiện thêm một vị trí số 5 - vốn không nên tồn tại!

Chúng tôi có một cây đuốc để chiếu sáng, vừa dùng xẻng công binh khắc ký hiệu lên cột đá, vừa tiếp tục đi vòng về phía trước, càng đi trong lòng càng cảm thấy hoang mang. Những ký hiệu lúc trước hoàn toàn không thấy đâu nữa, không gian bốn phía xung quanh cột đá giống như một cái xoáy nước vậy, liên tục hút mọi thứ vào tận sâu bên trong. Ba người kinh hãi không nói nên lời, toà đại điện này rốt cuộc là nơi nào?

Tuyền béo lẩm bẩm một mình: “Cứ đi vòng quanh như thế, liệu có thể đi được tới điểm cuối không?”

Tôi thầm nghĩ: Cậu hỏi tôi thì tôi biết hỏi ai đây? Tình cảnh trước mắt của chúng tôi, giống như bị rơi vào một cái xoáy nước đáng sợ, bất luận có vùng vẫy thế nào đi chăng nữa cũng không thoát được ra, chỉ có thể càng ngày càng lún sâu vào… Tuy nhiên tôi không thể nói với Tuyền béo cùng Tiêm Quả những lời như vậy, tôi lúc này nên động viên họ: chúng ta ít nhất vẫn sẽ tìm được một con đường có thể dẫn ra ngoài, đột phá khốn cảnh trước mắt. Quỷ môn lão tổ lúc trước đột nhiên hiện thân, có thể cũng không muốn chúng ta tiếp tục đi như này, bởi vì chúng ta đang từng bước từng bước đến gần hơn với bảo tương hoa. Còn việc sau khi đến gần bảo tương hoa sẽ thế nào? Quỷ môn lão tổ đã chết vì sao lại đột nhiên sống dậy? Toà mê quật đại điện này tại sao không có điểm cuối? Chúng tôi đối với hết thảy các câu hỏi này đều không biết gì cả, thậm chí ngay cả nghĩ tới cũng không dám, sợ rằng một khi nghĩ ngợi quá nhiều sẽ không còn dũng khí để mà đi tiếp về phía trước.

Chẳng ai ngờ rằng đi tiếp mãi như vậy vẫn không thấy điểm cuối, ba người trố mắt ra nhìn nhau, ai nấy trong lòng đều dâng lên một cảm giác tuyệt vọng đến tột cùng, tình hình bây giờ so với lúc trước cũng chẳng khả quan được hơn tí nào, chỉ có những đồ hình xoáy nước toả ra hung tướng vô hình vẫn không ngừng xuất hiện, ngoài ra không có bất kỳ biến hoá gì khác. Liên tiếp rơi vào mê đoàn (Trans: Tình trạng mông lung, khó hiểu, không xác định được phương hướng, suy nghĩ cụ thể,...), cùng với toà đại điện dường như không có điểm cuối, khiến cho ba người chúng tôi chỉ biết bó tay chịu trận. Đã đến nước này, thật sự có thể nói là tiến thoái lưỡng nan, giờ có quay về vị trí số 1 ban đầu thì cũng chẳng để làm gì cả, lúc trước đã không thoát ra được, thì giờ cũng thế mà thôi. Xem ra với tình huống trước mắt, cứ tiếp tục đi lòng vòng, cũng chẳng thu được kết quả gì. Bất luận là tiến hay là lùi, kết quả vẫn chỉ có một mà thôi - bị vây sống bên trong mê quật này! Tôi bảo Tuyền béo cùng Tiêm Quả đừng đi về phía trước nữa, không phải chỉ có dựa vào hai cái chân là có thể thoát ra được, đi vòng quanh chỉ là một bước đầu tiên, bước kế tiếp chúng tôi nên đi như thế nào đây?

Ba người vừa mệt vừa đói, thấy rằng cần phải thương lượng lại kế sách một lần nữa rồi mới tiếp tục hành động được, cho nên mò mẫm tìm một cột đá ngồi xuống nghỉ chân, đồng thời vẫn luôn cảm thấy đâu đây phảng phất có mùi hôi thối tởm lợm, nhưng lại không thấy có thứ gì xuất hiện. Tôi hỏi Tuyền béo: “Chúng ta tổng cộng còn bao nhiêu cây đuốc nữa?”

Tuyền béo đáp: “Đuốc chỉ còn có mỗi hai cây thôi, nốt hai cây này là phải chuyển sang dùng đèn pha rồi.”

Tôi trầm ngâm nói: “Đi tiếp như vậy mãi cũng không được, vẫn là nên nghĩ cách khác…”

Tuyền béo nói: “Thôi nghĩ làm cái mẹ gì nữa cho nặng đầu hả Nhất ơi, lương khô cũng chỉ còn có vài miếng, không bằng chia nhau ra ăn hết đi, sau đó… nhẹ gánh mà tiến về phía trước!”

Tôi giữ chặt tay Tuyền béo, đề phòng cậu ta lại lấy lương khô ra ăn, nói: “Nhẹ gánh mà đi cái đầu nhà cậu, chẳng phải cậu còn chưa có đói đến chết hay sao? Lương khô tuyệt đối không thể ăn tuỳ tiện bừa bãi được.”

Tuyền béo nói: “Cậu để tôi ăn no một bữa có được không? Trong bụng tôi giờ trống huếch trống hoác, sức đâu ra mà nghĩ kế?”

Tôi đáp lại cậu ta: “Cậu thử nghĩ một chút mà xem, sau khi chúng ta thoát được ra ngoài, đám thợ săn trong thôn cũng vừa hay đến lúc xuống núi, khi đó còn lo không có rượu có thịt mà ăn sao? Thịt hươu xào, gà rừng hầm măng khô, chẹp chẹp, mới chỉ nghĩ đến thôi mà nước miếng cứ chảy thành dòng thế này, cậu muốn được thưởng thức những thứ này ý, phải cắn chặt răng, kiên trì tới cùng!”

Tuyền béo lau lau cái miệng đang chảy đầy nước miếng, nói: “Cậu nghĩ hay nhỉ, đến lúc ra được ngoài về được đến thôn, không bị người ta đem đi hỏi tội là may, ở đấy mà mơ tưởng đến thịt hươu, thịt gà!”

Tôi nói: “Cậu yên tâm đi, dù gì cũng rơi vào tay người mình, tốt xấu gì thì cũng đều là chỗ quen biết cả, chắc cũng không đến nỗi bị hành cho ra bã, cùng lắm thì bị chụp cho vài cái mũ thôi, dù sao mũ giấy bồi cũng không đánh chết người được đâu.”

Tuy miệng nói như vậy, nhưng cũng không cách nào tưởng tượng nổi, trước tiến không được, sau lùi không xong, trên không lên nổi, dưới chẳng thể xuống, đi theo chiều xoay đồ hình xoáy nước cũng không thành, toà mê quật đại điện này, tại sao lại kỳ quái đến như vậy, đi theo cách nào cũng chẳng thể ra ngoài? Tôi quay sang nói với Tuyền béo cùng Tiêm Quả nói: “Cách nào có thể nghĩ chúng ta đều nghĩ hết cả rồi, nhưng vẫn chẳng thu lại được kết quả gì, bởi vì chúng ta vốn dĩ không hề biết toà đại điện này là nơi nào?”

Tuyền béo nói: “Aiii, tôi cứ tưởng rằng chúng ta cái gì cũng biết cơ, nhưng hoá ra là chẳng biết cái mẹ gì hết!”

Tiêm Quả nói: “Có một việc mà tôi nghĩ mãi vẫn không thông…”

Tuyền béo nói: “Tôi cũng có nhiều việc nghĩ mãi mà không thông lắm, Lỗ Tấn tiên sinh đã nói như nào ấy nhỉ, đã không nghĩ được thì thôi khỏi phải nghĩ nữa cho đỡ đau đầu.”

Tôi bảo Tuyền béo đừng có chen ngang, trước hết hãy nghe Tiêm Quả nói xong đã. Tiêm Quả nói: “Lúc trước chúng ta phát hiện quỷ môn lão tổ nấp ở phía sau cột đá, cứ nghĩ rằng bởi vì chúng ta đã đi tới gần bảo tương hoa nên lão muốn dẫn dụ mọi người tránh xa, nhưng rõ ràng lão ta vẫn luôn đi cùng phía sau, hết thảy tình huống đều không rõ ràng, làm sao biết được chúng ta đã tới gần bảo tương hoa?”

Tuyền béo chợt nói: “Cô em nói chỉ có chuẩn, lão chuột đất cũng chỉ có một cái đầu không hơn không kém, chúng ta ba người ba cái đầu còn chẳng biết nơi này là nơi nào, lão làm sao có thể?”

Tôi cúi đầu cẩn thận suy nghĩ một chút, thật đúng là không nghĩ ra, lão chuột đất nhiều lắm cũng chỉ biết bảo tương hoa sinh trưởng bên trong toà đại điện này, theo như lời lão trước kia từng nói, lão cũng không hề biết bên dưới ngôi mộ cổ thời Liêu lại có một cái khe nứt thông xuống dưới lòng đất, điểm này tựa hồ cũng giống với chúng tôi, lúc đến rồi mới biết. Chúng tôi cũng không biết đi vòng qua cột đá có đến gần được với bảo tương hoa hay không, thì lão làm sao mà biết được? Chỉ bất quá lão chuột đất rõ ràng là một người đã chết, nhưng bây giờ lại bất ngờ hiện thân trong đại điện, việc này nên giải thích như thế nào đây?

Tuyền béo không thèm để ý đến quỷ môn lão tổ, đứng thẳng còn chưa biết thằng nào cao hơn thằng nào, sống còn đếch sợ, sợ gì một người đã chết? Tôi thì không dám khinh thường sơ xuất, trước tôi cũng đã nói, người sống còn dễ đối phó, chứ ma quỷ thì chẳng biết đâu mà lần. Ai cũng biết, ma quỷ sợ pháp khí, tỷ như gương bát quái, đào mộc kiếm, chu sa phù chú, nghe nói ngoài ra còn có ba thứ sợ khác, đầu tiên là sợ nghe tiếng gà gáy trời sáng, gà gáy ba tiếng, hoặc là sắc trời hửng nắng, tuy là ác quỷ nhưng cũng phải hồn phi phách tán. Nhưng chỗ này thì lấy đâu ra mặt trời, đến ngày hay đêm còn không phân biệt nổi nữa là. Thứ hai là sợ bị người ta biết rõ thân phận, có câu “người chết sợ bị lật tẩy”, chỉ cần kêu lên sinh thần bát tự của người chết, là có thể doạ cho ma quỷ sợ chạy, nhưng cả ba chúng tôi cũng chẳng ai hay biết tên họ của lão chuột đất là gì. Còn thứ sợ nữa là sợ người sống, bởi vì người sống trên người có tam muội chân hoả, cô hồn dã quỷ không dám lại gần, bất quá một khi xui xẻo ào ào kéo đến, tam muội chân hoả sẽ bị dập tắt, chúng tôi rơi vào hoàn cảnh này, có thể nói là đã xui xẻo tận mạnh, bằng không cũng sẽ không nhìn thấy quỷ. Nhưng nói gì thì nói, trên đời kỳ thực làm gì có quỷ, những thứ này đều là sản phẩm của mê tín dị đoan mà thôi, bất quá trước mắt tôi chỉ có thể tạm gọi quỷ môn lão tổ là “quỷ”, có lẽ lão đã từng tới mê quật này một lần, hay là có nguyên nhân gì khác, chúng tôi vẫn chưa thể nghĩ ra được. Ba người đều hiểu, chỉ có tiến gần đến bảo tương hoa mới có thể biết rõ chân tướng mọi chuyện, vấn đề là một khi đi bước này rồi, liệu còn thoát được ra ngoài nữa hay không?

Tuyền béo móc ra nửa bao thuốc lá hiệu Chiến Đấu, lúc ở sông ngầm đã bị ngấm nước, sau đó hong khô, giấy gói thuốc nhăn nheo không còn như ban đầu. Cậu ta chọn lấy hai điếu còn tốt, đưa cho tôi một điếu. Để có được bao thuốc lá này Lục Quân đã phải dùng cả mạng của mình để đánh đổi, chúng tôi vốn không muốn hút nó, nhưng đến nước này rồi cũng chẳng thể nghĩ nhiều được nữa.

Tuyền béo khuyên tôi đừng cố hơn thua với cậu ta: “Từ lúc vào núi tới nay, đầu óc lúc nào cũng căng như dây đàn, suốt ngày phải gặm cái thứ bánh bột ngô còn cứng hơn cả đá, không héo rũ như tàu lá chuối là may lắm rồi, sao có thể tiếp tục cầm cự? Cậu thử nhìn tôi một chút xem, khuôn mặt nhỏ nhắn đẹp trai giờ đã xanh lét như đít nhái, không cố nữa được đâu, nếu đã không nghĩ ra được gì thì thôi đừng nghĩ nữa cho nhẹ đầu, đã đi đến đây rồi, là phúc thì không phải hoạ, mà đã là hoạ thì có tránh cũng không được, chi bằng như này, để tôi canh gác, hai người nhắm mắt ngủ một giấc cho lại sức trước đi.

Tôi châm điếu thuốc lá Chiến Đấu, rít mạnh một hơi đầy lồng ngực, cảm thấy Tuyền béo nói cũng có lý, hành quân trăm dặm, không đánh cũng mệt, chúng tôi quả thật đã quá nôn nóng vội vã, vẫn nên hành động chậm lại thì tốt hơn. Tôi bảo Tiêm Quả tranh thủ chợp mắt một lát, nói không chừng trong cơn mơ lại tìm ra được cách hay nào đó. Đồng chí Lênin đã nói như nào - ai không biết nghỉ ngơi, người đấy không làm được việc! Nói còn chưa dứt lời, vừa nhắc đến chữ ngủ, hai mắt đã díu hết cả lại, vì thế tôi liền cố hít nốt vài hơi cho hết điếu thuốc, dùng tay dụi tàn, mới vừa nhắm được một mắt, lại không yên tâm về Tuyền béo, nhắc nhở cậu ta là người canh gác đầu tiên, đừng có lăn ra ngủ gật mà làm hỏng chuyện, vạn nhất lão chuột đất âm hồn bất tán, mò tới quấy phá lần nữa, chúng tôi ba người đều ngủ say, chẳng phải mặc cho người ta ức hiếp?

Tuyền béo chẳng thèm lên tiếng, tôi thầm nói trong bụng: “Con mẹ nhà cậu chứ, nói thì rõ oai mà giờ đã lăn ra ngủ trước cả tôi, lần này bắt được quả tang cậu nằm mộng xuân rồi nhé!” Bất quá Tuyền béo trước giờ mỗi khi ngủ đều ngáy to như sấm, nếu nói cậu ta đã ngủ, tại sao tôi lại không nghe thấy bất kỳ tiếng động nào? Không gian xung quanh tối đen như mực, xoè bàn tay ra cũng không thấy năm ngón, tôi loáng thoáng cảm thấy tình hình có gì đó không đúng, không biết tại sao lại không thấy vị trí Tuyền béo ngồi đâu, lại kêu lên hai tiếng, cậu ta vẫn không trả lời. Tiêm Quả nằm bên vừa mới lim dim ngủ, chợt nghe thấy tôi gọi Tuyền béo liên tục, liền giật mình tỉnh giấc. Đèn pha vẫn ở trên người cô ấy, vội bật lên chiếu khắp xung quanh, Tuyền béo mới vừa rồi còn ngồi ở đây mà giờ đã không thấy nữa! Hai người bốn mắt nhìn nhau, tôi nhìn cô, cô nhìn tôi, miệng đều há hốc, không nói nên lời.
 

Tam Thất

nhân chi sơ, tính bản thiện
Tham gia
13/4/19
Bài viết
1,705
Điểm cảm xúc
1,399
Điểm
113
Khóa do truyện drop và đã hơn một năm chưa cập nhật truyện! Thân ái!
 
Trạng thái
Không mở trả lời sau này.
Top