Lượt xem của khách bị giới hạn

[Trinh thám] [Truyện Hoàn] Trâm I: Nữ hoạn quan - Châu Văn Văn

Trạng thái
Không mở trả lời sau này.
[Trinh thám] [Truyện Hoàn] Trâm I: Nữ hoạn quan - Châu Văn Văn

Tam Thất

nhân chi sơ, tính bản thiện
Tham gia
13/4/19
Bài viết
1,705
Điểm cảm xúc
1,399
Điểm
113
Trâm I
Nữ hoạn quan
1f539492a8e93a9576156e27f634fbef.jpg

Tác giả: Châu Văn Văn
Thể loại: Trinh thám cổ đại
Độ dài: 18 chương
Dịch giả: Tố Hinh
Truyện đã xuất bản thành sách
Văn án
Thời xưa, người nào muốn bán mình thì cắm một cọng cỏ lên đầu làm dấu, ai muốn mua trông thấy sẽ hỏi và ra giá - Câu chuyện này xảy ra vào cái thời xa xưa ấy, khi Đại Đường bắt đầu điệu tàn và muôn vẻ phồn hoa sắp lìa bỏ Trường An...

Một thiếu nữ có tài phá án bỗng bị vu là sát nhân và bị săn đuổi khắp giang hồ. Đội trên đầu bóng tối của cáo thị truy nã, gánh trên vai khối nặng phỉ nhổ của cả thiên hạ, lại đi truy nã tội phạm, cô đã phải cải trang thành hoạn quan, hầu hạ bên mình vương gia, chờ cơ hội tìm ra hung thủ giết chết cả gia đình. Không ngờ, cô tiếp tục bị cuốn vào vụ án vương phi mất tích đầy bí ẩn.

Những cái chết dồn dập, kẻ trúng độc, người mất đầu. Tên hung thủ kỳ quái thoắt ẩn thoắt hiện. Nghi vấn về thân thế vương phi. Tất cả manh mối xung đột lẫn nhau, như những sợi chỉ rối beng chờ người tháo gỡ. Sử dụng hai thủ pháp phá án chính là suy luận và giám định pháp y, cô thiếu nữ phải chạy đua với hung thủ để phơi bày chân giả trước khi sự thật bị thời gian tàn phá. Trên đường đua ấy, cô gặp được đồng minh, quen thêm bằng hữu, cũng tái ngộ oan gia, những yêu và hận cũng theo đó đảo chiều, giăng mắc, hoặc dần dần tháo gỡ... Với kết cấu truyện lồng trong truyện, nhân vật lồng trong nhân vật, sử dụng hai thủ pháp phá án chính là suy luận và giám định pháp y, TRÂM là một đại án mênh mang mà NỮ HOẠN QUAN chính là chìa khoá đầu tiên để tra vào phá giải.

 

Tam Thất

nhân chi sơ, tính bản thiện
Tham gia
13/4/19
Bài viết
1,705
Điểm cảm xúc
1,399
Điểm
113
Giữa đêm, trời đột nhiên đổ mưa sầm sập, cánh rừng dãy núi gần xa, sông suối khe sâu lớn nhỏ, thảy đều trở nên nhạt nhòa trong cơn mưa bất chợt, rồi dần dần trở nên vô hình.

Con đường phía trước đã mờ hẳn đi. Bên ngoài thành Trường An, những bụi đinh hương trồng đầy hai bên đường núi cũng tàn tạ vì bị cơn mưa giày xéo, từng chùm hoa như gấm thêu gãy gập trong mưa, rơi xuống con đường ngập bùn, chẳng còn ai ngó ngàng giữa đêm khuya thanh vắng.

Hoàng Tử Hà lặn lội trên đường núi giữa con mưa, chiếc ô giấy dầu màu thiên thanh cầm trong tay đã bị gió mưa làm gãy mất hai nan, mưa xói qua tán ô thủng, táp vào mặt lạnh như dao cắt.

Cô ngước mắt nhìn rồi vứt luôn chiếc ô xuống đường, cứ thế đi đầu trần. Từng đợt mưa quất xuống người lạnh tê tái, giữa đêm tối như mực, thi thoảng mới thấy ánh mưa loang loáng rọi chiếu thấp thoáng cảnh vật phía trước, đất trời đều mịt mùng tăm tối.

Ở chỗ ngoặt trên đường núi có một ngôi đình nhỏ. Cứ mười dặm triều đình lại đặt một trường đình, năm dặm đặt một đoản đình để người đi đường nghỉ chân. Trong đêm mưa gió này, đã có ba bốn người trú lại đó, hoặc dựa hoặc ngồi, đều đang trò chuyện. Thành Trường An giới nghiêm về đêm, đầu canh năm mới mở cổng thành, giờ vẫn còn sớm, chắc hẳn những người ở đây đều đang đợi lúc ấy.

Hoàng Tử Hà lội bùn đi tới. Cô mặc áo ngắn màu lam kiểu thông thường của nam giới. Thấy có người mới, đám bên trong đều quay lại nhìn, nhận ra là một thiếu niên mảnh khảnh yếu ớt, một ông lão liền gọi to, “Này thiếu niên, cũng định vào thành sớm hả? Ướt hết cả người rồi kìa, tội nghiệp quá, lại đây sưởi đi.”

Nhìn nụ cười hiền hậu của ông lão, Hoàng Tử Hà bèn cảm ơn, nắm vạt áo ướt sũng ngồi xuống bên đống lửa, cách ông lão chừng hai thước, lặng lẽ giúp mọi người bỏ thêm củi vào.

Thấy cô chỉ lo cời lửa không nói năng gì, mấy người kia lại quay ra tán gẫu cùng nhau, nhắc tới những chuyện kỳ lạ khắp đại giang Nam Bắc, mọi người càng thêm rôm rả, nói văng cả nước miếng, tựa hồ đã chính mắt trông thấy vậy.

“Nói đến chuyện lạ thì, gần đây mọi người có nghe về vụ án kinh kỳ không?”

Lập tức có người tiếp lời, “Ý cụ là vụ án mệnh danh ‘Án Bốn phương’ phải không? Liên tục trong ba tháng chết mất ba người, hơn nữa mỗi người lại ở một nơi, Nam thành, Tây thành, Bắc thành, cũng chẳng liên quan gì với nhau, tại hiện trường còn để lại ba chữ viết bằng máu, lần lượt là ‘Lạc’, ‘Ngã’, ‘Tịnh’. Quả là quái gở khó lường, đáng sợ vô cùng!”

“Đúng thế, xem chừng huyết án tiếp theo sẽ xảy ra ở Đông thành, bởi vậy hiện giờ dân cư bên ấy đều hoang mang lo sợ, nghe nói những kẻ chạy được chuồn đi cả rồi, mười nhà thì đến chín nhà bỏ không.”

Hoàng Tử Hà cầm que củi trong đôi tay trắng trẻo, thong thả cời lửa, lắng nghe tiếng nổ lách tách, vẻ mặt bình thản.

“Hiện giờ thiên hạ bất ổn, các châu phủ đều rối ren, không chỉ kinh thành mà gần đây ở đất Thục cũng xảy ra một vụ huyết án diệt môn, chẳng biết mọi người đã nghe nói hay chưa?” Một nam tử trung niên áng chừng là người kể chuyện rong, tay khư khư cây thước gõ theo thói quen, hào hứng kể, “Án diệt môn chắc các vị nghe cũng nhiều rồi. Nhưng đây lại là thảm án, cả nhà Thục Trung sứ quân Hoàng Mẫn bị giết sạch.”

Hoàng Mẫn!

Cái tên vừa lọt vào tai, cánh tay đang thong dong cời lửa của Hoàng Tử Hà bỗng phát run, một đốm lửa bắn vào mu bàn tay cô, bỏng rát.

May sao mọi người đang ồ lên kinh ngạc, không ai để ý đến, tất cả xôn xao bàn tán, “Hoàng Mẫn chẳng phải trước là thị lang bộ Hình, tiếng tăm lừng lẫy vì đã phá được mấy vụ kỳ án trong kinh sao?”

“Chuyện này tôi cũng từng nghe! Nghe nói công lao ấy không phải của mình Hoàng Mẫn, ông ta có một trai một gái. Trưởng nam Hoàng Ngạn không nói làm gì, song thứ nữ lại là kỳ tài hiếm thấy. Nghe đồn năm xưa Hoàng Mẫn làm thị lang bộ Hình, rất nhiều nghi án do cô con gái này thay cha phá giải, bấy giờ cô ta mới mười bốn mười lăm tuổi thôi. Đương kim hoàng thượng từng chính miệng khen rằng, nếu cô ta là nam nhi, nhất định có tài kinh bang tế thế!”

“Ha ha, có tài kinh bang tế thế ư?” Người kể chuyện cười nhạt, “Các vị có từng nghe đồn rằng, khi con gái Hoàng Mẫn đại nhân ra đời, căn phòng ngập tràn ánh sáng đỏ như máu, người chứng kiến đều nói là Bạch Hổ Tinh giáng thế, sẽ ăn thịt hết người trong nhà! Quả nhiên thành lời sấm, cả nhà họ Hoàng bị giết, đều bởi tay cô ta!”

Quên cả vết bỏng trên mu bàn tay, Hoàng Tử Hà cứ ngồi thẫn thờ nhìn ngọn lửa nhảy múa trước mắt. Lưỡi lửa thò ra thụt vào, liếm sạch bóng tối, nhưng ánh lửa có đỏ đến mấy cũng không hơ ấm được gương mặt tái nhợt của cô.

Người xung quanh nhất loạt nhìn nhau, ông lão kia càng không dám tin vào tai mình, “Ông nói là Hoàng tiểu thư tự tay giết hết cả nhà mình ư?”

“Đúng vậy!”

Lời này nói ra như chém đinh chặt sắt, không hề do dự.

“Rõ là hoang đường, trên đời làm gì có chuyện con gái hành hung cả nhà mình chứ?”

“Chuyện là thật đó, triều đình đã ban ra hải bộ văn thư(*). Cô nương họ Hoàng kia trốn khỏi đất Thục rồi, nếu bị bắt sẽ nhận án lăng trì, chết không có chỗ chôn!”

(*) Một dạng công văn truy nã tội phạm thời phong kiến do quan phủ phát xuống cho nha môn các nơi, giống như lệnh truy nã hiện giờ. “Hải” có nghĩa là trên diện rộng.

“Nếu thật vậy thì quả là mất hết tính người, táng tận lương tâm!”

Vẫn là ông lão kia gặng hỏi, “Thảm kịch thế ấy, chẳng rõ có nguyên nhân gì không?”

“Nữ nhi nông cạn, thì còn vì sao? Đương nhiên là vì một chữ tình rồi.” Người kể chuyện thuật lại sinh động như thật, mặt mày hào hứng, “Nghe nói cô ta từ nhỏ đã được hứa hôn, nhưng lớn lên lại xiêu lòng vì người khác. Bởi thế khi tổ mẫu và thúc phụ đến bàn bạc việc hôn nhân, cô ta đã tự tay bưng một chén canh móng dê lên tiệc. Hoàng Mẫn đại nhân, Hoàng phu nhân Dương thị, Hoàng Ngạn công tử, cho đến Hoàng mẫu và Hoàng Tuấn đại nhân đều trúng độc bỏ mạng, chỉ mình Hoàng Tử Hà trốn mất, chẳng biết đi đâu. Nha môn lục soát tìm được một gói tỳ sương trong phòng cô ta, lại tra được mấy ngày trước cô ta từng đến hiệu thuốc mua tỳ sương, giấy trắng mực đen còn ghi rõ rành rành. Thì ra cô ta đã có ý trung nhân, song lại bị cha mẹ ép buộc gả cho người khác, bèn sinh lòng căm hận hạ độc giết chết cả nhà, ngầm hẹn tình lang bỏ trốn!”

Đám người trong đình nghe được thảm án bất nhân này, sau lúc kinh hoàng đều xuýt xoa kêu lạ. Lại có người hỏi, “Nữ tử bạc ác đó làm sao trốn thoát được?”

“Cô ta hạ độc giết hết người nhà, tự biết sẽ xảy ra chuyện nên mấy đêm liền hẹn tình nhân bỏ trốn. Nhưng đối phương lại căm hận hạng đàn bà lòng lang dạ sói này, bèn trình thư tình của cô ta lên quan phủ rồi dẫn người tới chỗ hẹn bắt cô ta. Kết quả chẳng biết tại sao lại bị cô ta phát hiện có điều khác lạ rồi chuồn mất! Hiện giờ quan phủ đã ra hải bộ văn thư, ngoài cổng thành tất cả các châu phủ đều dán cáo thị truy nã, lưới trời lồng lộng thưa mà khó lọt, tôi thực muốn xem hạng ác phụ này khi nào thì sa lưới, chịu tội lăng trì!”

Kẻ nói hăng say, người nghe phẫn nộ, nhất thời, cả ngôi đoản đình sôi sục căm hận như cùng chung mối thù.

Hoàng Tử Hà ngồi ôm gối lắng tai nghe, bỗng thấy mệt mỏi cùng cực vì tiếng thóa mạ của mọi người. Cô áp mặt vào hai đầu gối, cặp mắt thẫn thờ nhìn đăm đăm vào ngọn lửa leo lét ảm đạm, quần áo trên người mới chỉ hơi khô, giữa đêm xuân thế này, khí lạnh giống như những mũi kim vô hình chích vào da thịt, khiến cô nửa mê nửa tỉnh.

Trời tang tảng sáng, cổng thành vẫn chưa mở. Chủ đề của đám người xung quanh lại chuyển sang những chuyện kỳ lạ gần đây tại kinh thành. Ví như bệ hạ mới xây một tòa hành cung, Triệu thái phi đích thân may rèm cho điện Tam Thanh, còn cả chuyện bao nhiêu tiểu thư trong kinh đều muốn được gả cho Quỳ vương, vân vân…

“Nói mới nhớ, có phải Quỳ vương sắp hồi kinh không?”

“Đúng rồi, bệ hạ thích du ngoạn tiệc tùng, vừa xây hành cung, đương nhiên phải làm náo nhiệt một phen, huống hồ yến tiệc hôm ấy mà không có Quỳ vương góp mặt thì đâu gọi là tiệc được?”

“Quỳ vương quả là nhân vật lỗi lạc nhất nhì hoàng thất, được tiên hoàng hết mực sủng ái, thảo nào Kỳ Lạc quận chúa khăng khăng đòi được gả cho vương, ba lần bảy lượt giở mọi thủ đoạn, làm trò cười cho cả kinh thành.”

“Ích vương gia chỉ để lại một cô con gái ấy, nếu vương gia dưới suối vàng hay được, hẳn sẽ tức đến đội mồ sống dậy mất…”

Nói đến việc trong hoàng thất, mọi người tự nhiên đều hào hứng hẳn lên, chỉ riêng Hoàng Tử Hà vẫn thờ ơ, chỉ nhắm mắt dưỡng thần, nghiêng tai lắng nghe động tĩnh bên ngoài.

Mưa đã tạnh, trong sắc trời đang sáng dần lên văng vẳng vọng lại tiếng vó ngựa.

Hoàng Tử Hà liền mở bừng mắt, bỏ lại đám người đang say sưa bàn tán đến văng cả bọt mép, rảo bước rời khỏi đoản đình.

Trong ánh ban mai lờ mờ, những tia nắng đang ló rạng nơi chân trời. Trên con đường quanh co, một đội vệ binh dàn hàng ngay ngắn tiến lại, thân thể ướt đẫm nước mưa, song ai nấy đều ngay ngắn dứt khoát, thoạt nhìn đã biết là được huấn luyện nghiêm ngặt.

Giữa đội ngũ là hai thớt ngựa đen tuyền không tì vết, kéo một cỗ xe đi chầm chậm. Trên xe vẽ hình rồng cuộn loan bay, sơn son thếp vàng, trang trí khảm trai, hai chiếc chuông vàng nho nhỏ treo dưới nóc xe rung khẽ theo nhịp xe lắc lư, phát ra tiếng leng keng trong trẻo.

Cỗ xe ngựa vượt qua ngôi đình, tiếp tục đi thẳng. Hoàng Tử Hà bám theo từ xa. Đi khóa đuôi cả đội là một binh sĩ xấp xỉ tuổi cô, trong lúc hành quân đầu óc lơ đãng, cứ nhìn trái ngó phải. Trông thấy Hoàng Tử Hà đang bám theo, gã bèn quay sang bảo người bên cạnh, “Lỗ đại nhân, chẳng biết có phải hồi tối ăn bậy đau bụng không nữa, tôi... tôi phải đi giải quyết một lát.”

“Ngươi làm sao thế, sắp vào thành rồi, liệu ngươi có bắt kịp không?” Người bên cạnh hạ giọng, trừng mắt lườm gã, “Lệnh vương gia rất nghiêm, nếu bị phát hiện, ngươi cũng biết hậu quả rồi đấy!”

“Được. Yên tâm đi, tôi sẽ đuổi theo ngay.” Đoạn gã ôm bụng, vội vã quay đầu ngựa chạy vào rừng rậm.

Hoàng Tử Hà vạch cỏ, chạy tới chỗ tên binh sĩ đang đợi mình, đối phương cũng đã hối hả cởi bỏ trang phục cấm vệ vương phủ, gỡ mũ đội đầu xuống đưa cho cô, “Hoàng cô nương, cô... biết cưỡi ngựa không?”

Hoàng Tử Hà nhận lấy chiếc mũ giáp, đáp khẽ, “Trương Hàng Anh, huynh mạo hiểm giúp tôi thế này, tôi thực vô cùng cảm kích!”

“Cô nói gì thế, năm xưa nếu không nhờ cô, cha mẹ tôi đã chết cả rồi, lần này nếu tôi không giúp cô, chắc sẽ bị cha mẹ tôi đánh chết mất.” Trương Hàng Anh hào sảng vỗ ngực, “Huống hồ hôm nay chỉ là theo vương gia vào kinh, không phải quân vụ gì, lộ tẩy cũng chẳng sao, lần trước Lưu Ngũ cũng lén nhờ người thay chân mình, chẳng qua bị đánh mấy chục côn thôi, miễn sao cô phải quả quyết mình là biểu đệ của tôi. Biểu đệ tôi đi ngang qua, thấy tôi bị tiêu chảy không đứng dậy nổi, bèn thay tôi đi theo đội ngũ, hôm nay vào thành theo nghi thức, không có chuyện gì quan trọng cả.”

Hoàng Tử Hà gật đầu, vội vã cởi áo ngoài đưa cho Trương Hàng Anh, sau đó khoác áo của gã vào. Tuy hơi rộng, nhưng dáng người cô cao ráo nên trông cũng không đến nỗi nào.

Hối hả cảm ơn Trương Hàng Anh xong, Hoàng Tử Hà tung người lên yên, giục ngựa chạy ra khỏi cánh rừng.

Vầng hồng rực lửa đã ló ra, ráng đỏ trong veo vắt ngang từng vệt nơi chân trời. Hoàng Tử Hà hối hả thúc ngựa, cuối cùng khi thấy cổng thành đằng xa thì cũng vừa khéo bắt kịp đội thị vệ tùy tùng của vương phủ.

Cổng Minh Đức thành Trường An, năm cánh cửa vốn đang đóng im ỉm ba cánh giữa, chỉ mở hai cánh hai bên, thấy nghi trượng của vương gia đi đến, lập tức mở ngay cánh cửa thứ hai bên trái cho qua, càng khỏi bàn tới việc tra xét.

Hoàng Tử Hà đi cuối hàng, theo cả đội thong thả vào thành. Khi bước qua cổng thành, cô ngẩng đầu nhìn bức vẽ trên hải bộ văn thư dán nơi cánh cửa.

Bức vẽ họa hình một cô gái mười sáu mười bảy, đôi mắt sáng như sao, dung mạo tựa cánh đào, ánh mắt nhìn thẳng, miệng khẽ mỉm cười. Khóe môi nhếch lên thành một đường cong khả ái, thần thái lanh lợi, mày thanh mắt sáng, rõ ràng là một thiếu nữ xinh tươi.

Bên cạnh bức họa có chứa thêm mấy hàng chữ:

Hoàng Tử Hà, gái xứ Thục, phạm tội giết hại nhiều người, hung ác vô cùng. Các châu phủ thấy người này phải lập tức bắt ngay, bất kể sống chết.

Hoàng Tử Hà cụp mắt xuống, nhưng chỉ tích tắc đã ngẩng đầu lên, mắt chẳng trông ngang, vẻ mặt thản nhiên.

Quá nửa gương mặt cô khuất dưới vành mũ, Lỗ đại ca ở bên cạnh cũng không trông rõ mặt cô, vừa cưỡi ngựa men theo đại lộ Chu Tước, vừa nói khẽ, “May mà không bị phát hiện.”

Hoàng Tử Hà gật đầu, không nói không rằng.

Phủ đệ của các vương gia đa phần đều đặt tại phường Vĩnh Gia, qua khỏi chợ Đông, men theo cung Hưng Khánh đi về phía Bắc sẽ trông thấy Quỳ vương phủ ở đằng xa.

Như đã bàn bạc với Trương Nhị ca, vào vương phủ, buộc ngựa ở chuồng xong, cô phải mau chóng chuồn ra, bấy giờ mọi người đều đang ăn sáng ở tiểu viện trước chuồng ngựa, sẽ không ai để ý tới cô.

Nào ngờ cô vừa buộc ngựa xong, quay mình chạy ra ngoài thì nghe thấy có người gọi, “Trương Hàng Anh, không ăn cơm à?”

Hoàng Tử Hà tảng lờ, đi sát vào cánh cửa.

Phía sau, Lỗ đại ca đang phân trần thay cô, “Chắc lại đau bụng rồi? Sáng sớm ngày ra mà đã đau đến hai lần.”

Mọi người trêu đùa vài câu rồi không để tâm đến cô nữa, ai nấy cắm cúi ăn bữa sáng đã được chuẩn bị sẵn.

Tới cổng, Hoàng Tử Hà kéo sụp mũ xuống, đi thẳng ra ngoài.

Khi cô đặt chân xuống bậc thang cuối cùng, đột nhiên có người gọi giật từ đằng sau, “Này, ngươi đi đâu đấy?”

Hoàng Tử Hà không xác định được có phải k ẻ kia gọi mình hay không, bàn chân thoáng khựng lại lưng chừng, ngay lập tức tiếng nói đằng sau lại rành rọt vang lên, “Đúng rồi, là ngươi đấy, tên ở đội nghi trượng kia. Vừa có tin bên hành cung mới hoàn thành còn thiếu nhân công, lần này các ngươi phải theo vương gia đến hành cung.”

Tim đập thình thịch, Hoàng Tử Hà không ngờ mình lại xui xẻo đến mức này.

Chỉ nghe đối phương cười nói, “Yên tâm đi, mỗi ngày trả thêm cho các ngươi ba đồng, có phải vui ra mặt rồi không? Mau về ăn cơm đi, lát nữa là xuất phát.”

Hoàng Tử Hà chẳng biết làm sao, đành chầm chậ âm quay người, cúi đầu hành lễ với viên đầu lĩnh vừa ngăn mình lại, sau đó men theo bờ tường quay về tiểu viện trước chuồng ngựa. Bữa sáng không tiện ăn, lỡ bị thấy mặt thì xong đời. Nhưng cô cũng không thể ở trong vương phủ , để ai nhận ra thì cũng toi mạng. Huống hồ cô nhất định phải thoát khỏi đây, đi tìm kẻ có thể giúp đỡ mình.

Cô đứng trong góc tường, ánh mắt dừng lại trên cỗ xe ngựa đang đỗ ở bên cạnh sau khi vương gia xuống xe. Chớp mắt nhìn quanh một vòng, mọi người đang ăn cơm trong tiền viện, nói cười ồn ã, còn người ở hậu viện lại đang bận cho ngựa ăn. Chỗ ngoặt ở cửa vào vắng tanh, chỉ có mình cô và cỗ xe ngựa.

Cô giơ chân giẫm lên càng xe, thận trọng vin cánh cửa xe khép hờ trông vào, quả nhiên trên xe không có ai, chỉ có một chiếc ghế rộng và kỷ trà được đóng đinh cố định. Ghế đặt đệm gấm thêu quỳ long(*) màu xanh tương phản với những đóa mẫu đơn đỏ rực trên tấm thảm Ba Tư tím sẫm dưới sàn, hoa lệ mà trang nhã, rõ ràng mới được trải vào, hẳn sẽ không có ai đến thay nữa.

(*) Quỳ long là quái vật một chân trong thần thoại và truyền thuyết của người Hán. Trên những đồ trang sức bằng đồng xanh cuối thời Thương và thời Tây Chu, quỳ long là một trong những hoa văn chủ đạo, hình ảnh đa phần là mình dài, há miệng, cuộn đuôi, ngoại hình tương thích với món trang sức. Chữ “Quỳ” này cũng chính là danh hiệu của Quỳ vương gia, nên đồ đạc phục sức của ông ta đều thêu hoa văn quỳ long.

Hoàng Tử Hà lẩn ra sau thùng xe, vội vã cởi bỏ bộ đồ cấm vệ và mũ đội đầu, nhét chúng vào một góc khuất sau cây đèn đá, đoạn trèo lên xe.

Khoang xe không mấy rộng rãi nhưng dưới ghế ngồi hẳn có chỗ trống, để tận dụng không gian, thông thường ở đó sẽ đặt hộc tủ. Cô trèo lên xe, vén tấm rèm vải buông rủ từ đệm ghế lên nhìn, quả nhiên dưới ghế là hộc tủ.

Cửa tủ được bố trí theo kiểu đẩy sang hai bên, chạm trổ mây lành thú quý. Hoàng Tử Hà trượt cửa tủ xem, thấy bên trong chỉ đặt mấy miếng hương liệu, ngoài ra không còn gì khác, bèn gắng sức co người chui vào, khẽ khàng kéo cửa tủ lại, mình đẫm mồ hôi vì căng thẳng. May mà cửa tủ chạm rỗng, tấm rèm phía trước lại buông xuống che kín chỗ hở, nên cô có thể loáng thoáng trông thấy bóng dáng bên ngoài.

Hoàng Tử Hà nằm yên trong tủ, không dám thở mạnh, lắng tai nghe tiếng tim mình đập thình thịch. Vô vàn suy nghĩ lướt qua trong đầu, nếu bị đưa vào hành cung thì phải làm thế nào, chuồng ngựa bên ấy trông coi có nghiêm ngặt không, đến lúc đó làm sao thừa cơ bỏ trốn...

Chẳng để cô nghĩ kỹ, âm thanh bên ngoài đã dồn dập vọng vào. Dắt ngựa, chỉnh trang, sắp hàng. Sau đó đột nhiên bốn bề im phăng phắc, không có lấy một tiếng ho, cô còn đang thấp thỏm thì thấy xe lún xuống, có tiếng mở cửa, rồi có người bước lên.

Từ khe hở nhìn ra, chỉ thấy được chân người kia, đôi ủng đen thêu hoa văn quỳ long kim tuyến giẫm lên tấm thảm dày dặn êm ái trải trên xe, không phát ra tiếng động.

Người kia ngồi xuống rồi, thân xe lắc lư, bắt đầu lăn bánh.

Nằm co mình trong tủ đã lâu, lại thêm xe rung lắc, cảm giác như con gà con bị nhét trở vào vỏ trứng. Hoàng Tử Hà cố nén cơn nôn nao choáng váng, ép mình thở chậm để tránh bị phát hiện.

May mà tiếng bánh xe lăn lộc cộc đã át đi tiếng tim đập và tiếng thở của cô.

Con đường dài dằng dặc, nhưng cuối cùng cũng rời khỏi cổng thành, đi thẳng ra ngoại ô phía Tây. Dọc đường xe ngựa tròng trành liên tục, khi đến gần một cây cầu nhỏ, Quỳ vương mới lên tiếng, “Dừng lại.”

Cỗ xe từ từ dừng lại bên cầu. Hoàng Tử Hà nằm trong tủ không nhìn được mặt Quỳ vương, chỉ thấy y giơ tay nhấc chiếc bình lưu ly miệng rộng trên bàn, đưa ra ngoài cửa sổ, “Lấy thêm nước đi.”

Trong bình có một con cá đỏ, phất phơ chiếc đuôi dài như sa mỏng nhởn nhơ bơi. Cá đỏ óng ánh thả trong chiếc bình lam, sắc đỏ phủ xanh mờ trở nên kỳ diệu, đẹp đẽ mê hồn.

Hoàng Tử Hà không khỏi nghi hoặc, chẳng hiểu sao Quỳ vương quyền thế nghiêng trời lại đem theo một chiếc bình lưu ly đựng con cá nhỏ.

Có tiếng nước chảy róc rách, rồi tiếng bước chân hối hả của thị vệ, chẳng bao lâu đã thay xong nước, lại dâng chiếc bình lưu ly lên. Quỳ vương đón lấy, nhẹ nhàng đặt lên bàn, con cá bên trong có thêm không gian hoạt động, càng thích thú bơi lội tung tăng.

Hoàng Tử Hà còn đương ngẫm nghĩ thì xe ngựa lại tiếp tục lăn bánh, cô không kịp đề phòng, đập ngay trán vào cửa tủ binh một tiếng.

Cô cắn chặt môi, cố không buột miệng kêu lên, xác định tiếng cụng đầu vừa rồi rất nhỏ, chắc hẳn đã bị tiếng bánh xe lộc cộc át đi, nhưng vẫn không khỏi căng thẳng nhìn ra qua khe tủ.

Từ chỗ cô nấp không trông rõ mặt mũi kẻ ngồi bên ngoài, qua khe tủ và màn tua rua rủ từ đệm ghế xuống chỉ thấy y thong dong giơ tay cầm lấy tách trà bằng sứ xanh biếc trên bàn, nhấc bình trà lên rót một ít.

Hoàng Tử Hà quan sát y qua những hoa văn chạm trổ trên cửa tủ, trong ánh nắng phản chiếu, có thể thấy được bàn tay y, khớp xương cân xứng, hơi gồ lên, đường nét đẹp đẽ, rõ ràng là đôi tay của người nhàn hạ sung sướng nhưng vẫn không kém phần khỏe khoắn. Y cầm tách trà bằng ba ngón tay, sứ xanh trên bàn tay trắng trẻo, khác nào hoa lê soi bóng xuống sông xuân.

Thình lình y mau lẹ gảy mũi chân, xô dạt cánh cửa ra, hắt luôn tách trà vào.

Hoàng Tử Hà đang nhìn lén, bất ngờ bị tạt thẳng nước vào mặt, buột miệng kêu khẽ.

Quỳ vương quăng tách trà xuống, tóm ấy bả vai Hoàng Tử Hà lôi tuột ra, tay phải bóp chặt cổ họng, chân trái giẫm lên ngực cô.

Trong nháy mắt, Hoàng Tử Hà đã nằm quay dưới chân y như một con cá chết, đáng sợ nhất là đối phương chưa cần đứng dậy.

Hoàng Tử Hà nằm trên sàn xe ngước nhìn y, đương lúc bất ngờ, cô thậm chí còn không kịp hiểu đã xảy ra chuyện gì, sắc mặt đầy vẻ hoang mang.

Trước mắt Hoàng Tử Hà là gương mặt kẻ đang khống chế cô, đôi mắt đen thăm thẳm, sống mũi cao thẳng, đôi môi mỏng mím chặt, không cố ý mà vẫn toát ra vẻ lạnh nhạt hững hờ với thế gian. Y vận chiếc áo gấm xanh trứng sáo như bầu trời sau mưa, bên trên thêu chìm hoa văn mây cuộn xanh màu nước, màu sắc và hoa văn ôn hòa như thế, phủ lên mình y bỗng lại thành ra lạnh nhạt. Nhưng vẻ thờ ơ ấy tự nhiên khiến người ta cảm thấy, phải lạnh lùng phóng khoáng như thế, mới làm nổi bật phong thái hào hoa thanh nhã nhường kia.

Quỳ vương Lý Tư, tự Thư Bạch, là nhân vật xuất chúng nhất trong hoàng thất hiện giờ, đến nỗi đương kim hoàng thượng cũng phải cảm thán, “Thế gian có Thư Bạch, mới bớt được tịch mịch.” Nào ngờ kẻ tôn quý tột cùng, phồn hoa cực điểm mà người đời đồn đại, lại có khí chất lạnh nhạt thế này.

Lý Thư Bạch cúi nhìn xuống, bàn chân giẫm trên ngực cô hơi nhấc lên, tựa hồ cảm nhận được cô không biết võ công. Tay trái y đang tóm lấy cổ cô nhích động, xác định cái cổ mềm mại yếu ớt, không có yết hầu.

Hoàng Tử Hà giơ tay gạt phăng cánh tay đang tóm lấy cổ mình cảnh giác cuộn tròn người lại, đôi mắt sáng tựa sương xuân nhìn chằm chặp vào y như con thú nhỏ trông thấy thợ săn.

Ánh mắt Lý Thư Bạch thong thả dừng trên mặt cô, y quan sát hồi lâu rồi thu chân lại, mở ngăn kéo bàn rút ra một chiếc khăn gấm trắng muốt lau tay, xong ném xuống mình cô, khinh bỉ buông một câu, “Thân là đàn bà con gái, ít nhất cũng phải gọn gàng sạch sẽ một chút chứ.”

Như đám mây, chiếc khăn gấm chầm chậm đáp xuống mình cô không tiếng động. Hoàng Tử Hà từ từ nắm chặt hai bàn tay lại. Lớp ngụy trang bị xé toạc, niềm bi phẫn trào lên trong lòng cô, lấn át cả nỗi hổ thẹn. Cô chằm chằm nhìn Lý Thư Bạch, hé miệng nhưng không sao thốt nổi nên lời.

Suốt hành trình từ Ba Thục đến Trường An cô luôn cải trang rất khéo, chưa từng bị phát hiện là nữ giả nam, vậy mà y chỉ thoáng nhìn đã nhận ra, hơn nữa còn đánh giá cô bằng ánh mắt vô cùng khinh miệt.

Suốt đêm lẩn trốn, cả ngày bôn ba, quả thực đã khiến cô tiều tụy hẳn đi. Quần áo khô rồi lại ướt, nhăn nhúm dán chặt vào người, đã không nhìn ra được kiểu dáng ban đầu nữa, gương mặt hốc hác tái nhợt, đầu bù tóc rối, trông thảm hại vô cùng.

Nhận ra tiếng động bên trong, phía ngoài liền gõ vào vách xe, “Vương gia.”

Y “ừm” một tiếng, đáp, “Không sao.”

Bên ngoài liền im phăng phắc. Cỗ xe vẫn đều đều lăn bánh, y bình thản hỏi, “Lên từ bao giờ? Nấp trong xe ta làm gì?”

Hoàng Tử Hà khẽ chớp mi, hàng loạt lý do mau chóng vượt qua đầu, cô chọn ngay một lời giải thích đơn giản mà có sức thuyết phục nhất, rồi thẹn thùng cụp mắt xuống, khẽ cắn môi, đôi má ửng lên hai vầng hồng nhàn nhạt, thẽ thọt đáp, “Tôi là... biểu muội của Trương Hàng Anh trong đội tùy tùng của vương gia. Hôm nay Hàng Anh đi đến ngoại ô thì bụng đau quằn quại, sợ làm lỡ việc phải chịu phạt đòn, vừa khéo nhà tôi ở ngay đó, đi qua bắt gặp, Hàng Anh bèn nhờ tôi cải trang thành mình, tạm thời thế chỗ.”

“Vậy tại sao ngươi lại xuất hiện trên xe của bản vương?”

“Vì... vì đến vương phủ, tôi đã định rút lui, nhưng lại bị giữ lại, nói rằng phải theo vương gia sang hành cung. Gặp nhiều người ắt sẽ lộ tẩy, đương lúc bối rối tôi đành giở hạ sách, toan trốn vào xe vương gia rồi thừa cơ lẻn đi, nào ngờ... lại bị bắt quả tang...” Trông cô vừa luống cuống vừa sợ sệt, như thể phải thu hết can đảm mới thốt ra được những lời này, rõ ràng là dáng vẻ khép nép âu lo của người chưa trải việc đời.

“Nghe cũng xuôi tai đấy.” Lý Thư Bạch tựa vào đệm gấm, vẻ mặt lạnh tanh, “Vậy ngươi họ gì?”

Hoàng Tử Hà nghe lòng trĩu xuống, nhưng ngoài mặt vẫn đáp ngay không chút ngần ngừ, “Tôi họ Dương.”

“Họ Dương hả?” Lý Thư Bạch cười nhạt, thậm chí chẳng buồn nhìn cô, “Trương Hàng Anh, con thứ hai, thân cao sáu thước một tấc, thuận tay trái, sinh năm Đại Trung thứ chín tại phường Phổ Ninh ở kinh thành. Cha là Trương Vĩ Ích, quê gốc Lạc Dương, từ năm Hội Xương thứ hai đến nay làm thầy thuốc chẩn mạch ở Đoan Thụy Đường trong kinh thành. Mẹ họ Phùng, con gái độc nhất của nhà họ Phùng ở phường Tân Xương cũng trong kinh. Huynh trưởng một năm trước đã cưới con gái họ Trình ở phường Phong ấp làm vợ, hiện chưa có con cái... Biểu muội họ Dương nhà ngươi từ đâu mà ra?”

Hoàng Tử Hà không ngờ tư liệu về một tên thị vệ nhãi nhép mà người này lại thuộc làu làu như thế, nhất thời cũng ngớ ra, đành chống chế, “Kỳ thực... tôi và Trương Hàng Anh là huynh muội kết nghĩa, chúng tôi...” Nhìn bộ dạng cô nga ngắc ngứ, Quỳ vương vờ như không biết, ung dung đợi cô bịa tiếp đoạn sau.
SPONSORED / ĐƯỢC TÀI TRỢ
Hoàng Tử Hà hiểu kẻ này đã nắm rõ mọi chuyện, song đâm lao phải theo lao, cô đành thay đổi tư tưởng mấu chốt của câu chuyện bịa tạc, chuyển ngay quan hệ họ hàng thành quan hệ mờ ám, bày ra vẻ mặt ngập ngừng bẽn lẽn, “Tôi và Trương Hàng Anh tình cảm sâu đậm, từ nhỏ tôi đã thích đá bóng, giả trang nam nhi, bởi lo Hàng Anh bị xử theo quân pháp nên mới khăng khăng đòi đi thay. Hàng Anh đau bụng, bị tôi cướp ngựa, không kịp đuổi theo... Câu chuyện là vậy.”

“Tại sao trước khi xuất phát đến hành cung ngươi không nói rõ những lời này với đội trưởng mà lại chọn cách nấp trên xe của ta, khiến mình và Trương Hàng Anh lâm vào tình thế nguy hiểm hơn hẳn thế?” Quỳ vương gõ ngón tay thon dài xuống mặt bàn, tiết tấu thong thả như đang gõ lên trái tim Hoàng Tử Hà, khiến cô nảy sinh một dự cảm không lành.

Quả nhiên, y cười nhạt, phũ phàng vạch trần lời nói dối của cô, “Bởi vậy ngươi đang phải giấu giếm một việc, việc này còn nghiêm trọng hơn cả mạo xưng làm cận vệ của ta, thậm chí hơn cả nguy cơ bị xem như thích khách và bị xử tử.”

Hoàng Tử Hà làm thinh, mưu sự tại nhân thành sự tại thiên, cô đã mạo hiểm hành động, hiện giờ bị người ta tóm được, cũng chẳng biết làm sao, đành đợi phán quyết của y thôi.

“Một nữ tử sáng sớm đã ở ngoại thành, vận y phục nam giới, còn chưa phai dấu vết đội mưa đi đường, nếu bảo rằng ngươi và Trương Hàng Anh không hẹn tráo đổi nhau từ trước, ta nghĩ chẳng ai tin đâu.”

Thấy cô cúi đầu nín lặng, chỉ có hàng mi đen dày hơi run rẩy, dáng vẻ quật cường, Lý Thư Bạch không khỏi cười nhạt, “Chìa tay trái ra.”

Cô cắn môi, ngửa lòng bàn tay trái lên, từ từ chìa ra.

“Tay mỗi người đều ghi lại mọi chuyện người đó từng làm trong đời cho đến thời điểm hiện tại, thứ khác thì còn giấu được, chỉ riêng bàn tay không giấu nổi thôi.” Y nhìn xuống lòng bàn tay cô, khóe môi hơi nhếch thành một nụ cười lạt lẽo. “Bàn tay ngươi nói với ta rằng, ngươi có xuất thân rất tốt, từ nhỏ đã thông minh dĩnh ngộ. Năm mười ba tuổi, cuộc đời ngươi có biến động, rời khỏi Trường An, tới... đất Thục, ta đoán đúng chứ?”

Cô ngẩng lên nhìn y, gắng giữ giọng bình tĩnh, “Đúng.”

“Ở đó, ngươi đã gặp được người trong lòng mình. Qua tay ngươi có thể nhìn ra, tâm tính ngươi lạnh lùng cứng rắn, hành sự dứt khoát, bởi thế vì tình yêu, ngươi sẵn sàng giết sạch cả nhà, bằng thủ pháp...”

Y nhìn cô, lạnh lùng cong môi lên, “Hạ độc.”

Như bị kim châm mí mắt, bờ mi cô giật nảy lên. Đột ngột bị bóc trần thân phận, cô vô thức nắm tay lại, rồi như muốn lẩn trốn cơn ác mộng, cô đặt tay lên ngực, mở to mắt nhìn người đối diện.

Y cũng đang nhìn cô, lộ ra vẻ sảng khoái như khi thấy con mồi tự chui đầu vào rọ, “Bởi vậy, tên ngươi là... Hoàng Tử Hà.”

Hoàng Tử Hà cúi đầu nhìn những đường chỉ tay mình, cơn kinh ngạc ban đầu đã từ từ lắng xuống, cô buông tay, rụt vào trong tay áo, khẽ đáp, “Không đúng.”

“Câu nào không đúng?” Y bình thản hỏi lại, “Nguồn gốc, tội lỗi, hay là thân phận của ngươi?

“Tôi là Hoàng Tử Hà, nhưng tôi không giết người.” Cô hít một hơi thật sâu, nói nhỏ, “Càng không thể... giết người thân!”

Lý Thư Bạch ngả người ra tấm đệm gấm sau lưng, khóe môi vẫn còn nét cười lạnh nhạt, “Ý ngươi là, ngươi bị oan ư?”

Hoàng Tử Hà quỳ trong xe, ngẩng đầu nhìn y, những đóa mẫu đơn thêu trên thảm đỏ tươi rực rỡ, còn cô chỉ như một con sâu tầm thường trên cánh hoa, nhỏ bé mà yếu ớt bất cứ lúc nào cũng có thể bị người đối diện dùng một ngón tay di nát.

Song cô không hề để tâm tới cục diện kẻ trên người dưới, dù quỳ dưới đất, sống lưng cô vẫn thẳng tắp, lúc ngước nhìn y ánh mắt hết sức bình tĩnh và nhiều hơn cả là quật cường, “Quỳ vương gia, con người ta ai mà không có cha mẹ, tôi là phận làm con, sao có thể gây ra chuyện như vậy được? Tôi bôn ba ngàn dặm đến kinh thành, chính là vì vụ án oan này đây. Tôi hàm oan cũng chẳng đáng gì, nhưng mối thù của cha mẹ người thân tôi không thể không báo, bởi vậy mới trăm cay nghìn đắng chạy đến Trường An, tìm cơ hội báo thù cho gia đình. Trương Hàng Anh thương xót tôi, chẳng hề trách phạt ra tay giúp đỡ, mong vương gia hãy khoan dung cho lòng tốt ấy, đừng để gã bị liên lụy.”

“Lòng tốt ư? Ai mà biết được lòng tốt của gã có phải là tiếp tay cho kẻ ác hay không?”

“Nếu tôi là hung thủ , đương nhiên sẽ tìm một nơi mai danh ẩn tích, nhưng tôi không trốn như thế được, bằng không... cha mẹ người thân của tôi, chết không nhắm được mắt!”

“Ngươi khỏi cần giải thích với ta, có thể nói với Đại Lý Tự hoặc bộ Hình ấy.” Lý Thư Bạch lạnh lùng đưa mắt sang những hoa văn trên tấm rèm gấm bên cạnh, “Ngươi đi được rồi đấy, ta rất ghét ở cạnh kẻ nào quần áo xộc xệch, đặc biệt là tại nơi chật hẹp thế này.”

Trong tình huống này, không để ý đến cô, đã có thể xem như mở một mặt lưới cho cô rồi.

Hoàng Tử Hà khẽ mím môi, hành lễ với y. Lúc ngẩng lên, ánh mắt cô dừng lại trên chiếc bình lưu ly, con cá bên trong vẫn đang bơi lượn giữa làn nước, chiếc đuôi dài như sa mỏng.

Cô hạ giọng nói khẽ, “Giống cá này tên gọi A Già Thập Niết, có nguồn gốc từ Thiên Trúc, theo truyền thuyết là hóa thân từ một ý nghĩ bâng quơ của Long Nữ hầu hạ Phật Tổ, thường xuất hiện bên cạnh những kẻ chết oan.”

Lý Thư Bạch nhìn lướt qua chiếc bình lưu ly, bình thản buông một tiếng, “Vậy sao?”

“Phải, tôi từng nghe người ta nói thế. Có điều theo tôi thấy đây chỉ là cái cớ mà những kẻ có dụng tâm khác đặt ra thôi, nguyên nhân không ngoài hai việc, một là những kẻ không phá được án bèn bịa ra chuyện thần quái để thoái thác trách nhiệm; thứ hai là hung thủ cố tình tung tin đồn nhảm để đánh lừa dư luận.”

Khóe môi Lý Thư Bạch rốt cuộc cũng nhếch lên, “Còn gì nữa?”

“Vật xuất hiện tại hiện trường án mạng, vốn chẳng phải thứ tốt lành, vậy mà vương gia lại đem theo bên mình, rõ ràng người chết có quan hệ không tầm thường với vương gia, hơn nữa vụ án này có lẽ đến giờ còn gác đó chưa phá được.”

“Rồi?”

Hoàng Tử Hà trầm ngâm chốc lát, đoạn thong thả nói, “Nếu vương gia chịu giúp tôi, tôi cũng có thể giúp vương gia điều tra vụ án kia. Bất luận nó xảy ra đã bao lâu, bất luận có còn mảy may manh mối nào không, nhất định tôi sẽ tra ra chân tướng.”

Lý Thư Bạch đưa chiếc bình lưu ly tới trước mặt quan sát, trầm ngâm nhìn sắc đỏ như máu trên mình con cá.

Con cá nhỏ thong dong bơi lượn trong bình, nhởn nhơ bình thản.

Lý Thư Bạch giơ tay chạm nhẹ vào đầu nó, đợi nó hốt hoảng lặn xuống đáy bình mới chậm rãi thu ngón tay lại, ung dung đưa mắt nhìn kẻ đang quỳ trước mặt, “Hoàng Tử Hà, ngươi lớn mật thật đấy.”

Hoàng Tử Hà quỳ trước y, sắc diện bình thản, chỉ ngước đôi mắt trong veo như sương sớm nhìn lên.

“Ngươi có biết chuyện này ngay cả đương kim hoàng thượng cũng nói rõ không thể can thiệp, vậy mà ngươi dám ôm vào người, còn nói rằng mình giải quyết được ư?” Y lạnh lùng nhìn cô, bấy giờ cô mới nhận ra đôi mắt y sâu hun hút, đặt trên gương mặt hững hờ kia càng khiến người ta kinh sợ. “Chuyện này là cấm kị của triều đình, nhưng rồi vẫn bị lộ ra ngoài. Ngươi đã nghe ngóng được ở đâu đó nên mới chuẩn bị lấy ra giao dịch với ta chứ gì?”

Hoàng Tử Hà không lường được đằng sau con cá nhỏ kia lại ẩn giấu nhiều sóng gió đến vậy. Cô đập đầu với y bình thản đáp, “Vương gia thứ tội, việc này tôi chưa từng nghe ai nói cả. Chẳng qua trông thấy con cá tôi lại nhớ tới câu chuyện hoang đường ấy mà thôi. Các chi tiết khác đều là tôi đoán mò cả, trước đây quả thực chưa biết gì hết.”

Lý Thư Bạch lạnh lùng đặt bình lưu ly xuống mặt bàn, săm soi vẻ mặt cô, “Ta nghĩ ngươi cũng không dám.”

“Nhưng việc vạch trần chân tướng không nằm ở chỗ dám hay không dám, mà ở chỗ có thể làm hay không.” Hoàng Tử Hà khẽ nói, “Theo lời vương gia, vụ án này nhất định là kinh tâm động phách, hoặc liên đới rất rộng, có lẽ còn ly kỳ hơn cả cái chết của cha mẹ tôi nữa. Song tôi nghĩ, chỉ cần có người dám điều tra, dứt khoát sẽ có ngày phơi bày chân tướng.”

Lý Thư Bạch không đáp, chỉ hỏi, “Ngươi đến kinh thành để rửa oan, hẳn là đã có chứng cứ xác thực, biết được kẻ thù giết cả nhà ngươi là ai rồi hả?”

“Tôi... ” Hoàng Tử Hà ngập ngừng, khẽ cau mày, “Sau khi xảy ra chuyện, tôi bị quy là kẻ tình nghi, phải lẩn lút trốn chạy suốt. Nhưng chỉ cần vương gia giúp đỡ, cho tôi chút thời gian, tôi tin rằng mình nhất định sẽ tìm được!”

Y hơi nhướng mày, “Nói vậy thì ta nghĩ ra rồi, năm xưa lúc ngươi còn ở Trường An đã từng phá mấy vụ án trong kinh, nghe nói khi về đất Thục cũng giúp cha ngươi gỡ bỏ không ít vấn đề, đúng không?”

“Vâng.”

“Vậy thì đúng là nhỏ còn tạm, lớn lại loạn. Mười bốn tuổi ngươi đã giúp cha phá án, sao hiện giờ ngay cả kẻ thù của mình cũng tìm không ra?” Khóe môi y nhếch lên, lạnh nhạt chế nhạo, “Mối oan của mình còn chưa giải được lại dám huênh hoang lạm bàn việc người khác, hòng giao dịch với bản vương?”

Hoàng Tử Hà nín lặng. Lý Thư Bạ ch thấy cô chẳng nói chẳng rằng, chỉ cắn môi đầy vẻ quật cường. Thiếu nữ mới mười bảy tuổi, tiều tụy nhếch nhác, quần áo xộc x ệch, song không giấu được nhan sắc rạng rỡ mà thuần khiết, bỗng dưng khơi gợi một vài cảm giác mơ hồ từng xuất hiện trong ký ức y.

Cuối cùng, y hạ giọng nói, “Hoàng Tử Hà, người trong thiên hạ đều nói ngươi là hung thủ, nếu ta nói đỡ cho ngươi, liệu người đời có nghi ngờ ta và ngươi có tư tình gì không? Huống hồ, nếu Đại Lý Tự hoặc Hình bộ thực sự vì mấy lời của ta mà khai ân cho ngươi, há chẳng phải ta dùng cường quyền bẻ cong luật pháp quốc gia sao?”

Hoàng Tử Hà quỳ bên dưới, nghe mà không nói, chỉ cắn chặt môi.

Lý Thư Bạch chẳng buồn nhìn cô, chỉ buông một câu, “Ngươi ra ngoài đi, ta không có hứng can dự vào việc của ngươi, cũng chẳng rỗi hơi báo với nha môn hành tung của ngươi đâu, sau này ngươi cứ tự lo thu xếp.”

Hoàng Tử Hà khựng lại, nhưng chỉ lặng lẽ cúi đầu, chuẩn bị xuống xe. Cô biết nam nhân này tuy nắm quyền cao song không thân không thích với mình, chẳng lý nào lại ra tay giúp đỡ, y không gọi người đến trói mình đưa đến Đại Lý Tự đã là khai ân rồi.

Bởi vậy, cô đành khom lưng dập đầu lạy y một lạy. Đang định đứng lên thì xe ngựa bỗng chầm chậm dừng lại, thị vệ bên ngoài thưa, “Bẩm vương gia, đã đến cung Kiến Bật.”

Cung Kiến Bật chính là hành cung mới hoàn thành, nằm gần ngoại ô, cách cung Đại Minh chừng mười dặm, trong lúc hai người nói chuyện thì xe ngựa đã đến nơi.

Lý Thư Bạch vén rèm nhìn ra ngoài, thấy các vương gia đều đã đến, bên ngoài huyên náo ồn ã thì không khỏi cau mày, “Xem chừng khó tránh bị thiên hạ phát hiện ta ngồi cùng xe với nữ hung phạm rồi.”

Hoàng Tử Hà bướng bỉnh đáp, “Tôi không giết người!”

Lý Thư Bạch chẳng buồn để tâm, vén rèm ra lệnh, “Xuống đi.”

Hoàng Tử Hà thoáng chần chừ, rồi cũng theo lời xuống xe. Dưới xe đã đặt sẵn ghế thấp, cô giẫm ghế bước xuống, còn chưa kịp đứng vững đã cảm thấy bị ai đó đạp vào khoeo chân, người đổ nhào về phía trước.

Trước mặt là một cái ao, sen trong ao vừa được trồng xuống lá còn đương rũ rượi cả ra, nước ao cũng đục ngầu, vậy mà cô ngã nhào xuống đó, nuốt phải nước bẩn ho sặc sụa, thân thể bẩn thỉu nhếch nhác nằm giữa vũng bùn lầy, nhất thời không bò dậy nổi.

Lý Thư Bạch ngoảnh lại bảo mấy cung nữ đang tới nghênh đón, “Đồ tay chân lóng ngóng! Các ngươi tắm giúp cho sạch sẽ rồi để người ta đi.”

Còn như là nam hay nữ, y cũng lười giải thích, mặc kệ Hoàng Tử Hà tự ứng phó.
 

Tam Thất

nhân chi sơ, tính bản thiện
Tham gia
13/4/19
Bài viết
1,705
Điểm cảm xúc
1,399
Điểm
113
Cả bọn xúm lại gần ao, trong lúc đó Lý Thư Bạch đã bước vào cung Kiến Bật.

Hoàng Tử Hà lóp ngóp bò dậy từ vũng bùn, nhìn theo bóng lưng xăm xăm bước đi không hề ngoái lại của Lý Thư Bạch, âm thầm nghiến răng, không nhịn được đá mạnh một cú vào vũng bùn, làm bùn bắn tung tóe, vài giọt lạnh buốt văng cả lên má cô, nhưng dù sao khắp người cô cũng đang bê bết rồi nên chẳng lấy thế làm điều.

Đám cung nữ giơ tay kéo cô lên, toan dẫn cô đi tắm rửa. Thấy quần áo cô mặc là nam trang, cung nữ lớn tuổi hơn cả cười nói, “Công công đợi một chút, lát nữa chúng ta sẽ giúp tắm rửa thay đồ cho.”

“Thôi thôi, khỏi cần.” Cô không dám cởi đồ trước mặt người khác, bị phát hiện là nữ rất dễ khiến người ta liên hệ tới Hoàng Tử Hà.

Gạt tay đám cung nữ ra, cô đi thẳng đến bên giếng, xách một thùng nước giội thẳng xuống người mình.

Tuy đã sang xuân nhưng tiết trời vẫn rét căm căm, giội một thùng nước từ đầu xuống chân mà run bắn cả lên, bùn đất còn chưa gột sạch thì đã cứng cả người, song cô vẫn nghiến răng múc thêm thùng nữa xối vào đầu.

Các cung nữ xung quanh đều sững sờ, cứ đứng ngây ra.

Xối xong 2 thùng nước, Hoàng Tử Hà mới thấy đầu óc sáng sủa hơn. Cô vứt chiếc thùng rỗng đi, ướt lướt thướt đứng bên bờ giếng, run lẩy bẩy ra sức hít thở.

Vì quá lạnh nên tai cô ong cả lên, cảnh vật cũng mờ hẳn đi, chỉ thấy trước mắt chập chờn gương mặt băng giá của Lý Thư Bạch.

Y nói, ta không có hứng can dự vào việc của ngươi, cũng chẳng rỗi hơi báo với nha môn hành tung của ngươi đâu, sau này ngươi cứ tự lo thu xếp.

Không có hứng…

Cái chết của cha mẹ cô, huyết án của cả nhà cô, mối oan chờ rửa của cô, đều chẳng liên quan gì tới y, đương nhiên y không có hứng thú can dự vào.

Trước mặt y, cô chẳng qua chỉ là một hạt bụi nhỏ nhoi.

Nhưng… cô nhặt thùng nước đặt xuống cạnh giếng, âm thầm siết chặt nắm tay. Móng cắm ngập vào lòng bàn tay song cô chẳng thấy đau, cứ một mực siết chặt thêm.

Nhưng… Hoàng Tử Hà, y là hy vọng lớn nhất của ngươi.

Cô thầm quả quyết với bản thân, đoạn nghiến răng thật chặt.

Quỳ vương Lý Thư Bạch, kẻ chê cô lôi thôi lếch thếch ngay từ cái nhìn đầu tiên, kẻ không chút thương xót đạp văng cô vào vũng bùn, kẻ phũ phàng nhấn mạnh rằng không có hứng với việc của cô, lại là hy vọng lớn nhất của cô lúc này.

So với những thế lực mà ban đầu cô định nương nhờ như mấy người bạn cũ của cha, một người họ hàng xa tít mù khơi đang giữ một chức quan nhỏ thậm chí cả phương cách bí quá hóa liều là dâng đơn cáo ngự trạng, thì Quỳ vương Lý Thư Bạch vẫn đáng tin cậy hơn cả.

Bởi vậy dù bị khinh miệt, xem thường đến đâu chăng nữa, trong khoảnh khắc dòng nước lạnh xối xuống đầu, cô cũng đã đưa ra quyết định cho mình.

Dù có nắng, tiết trời đầu xuân vẫn còn se lạnh. Hoàng Tử Hà run cầm cập rời khỏi giếng nước, chầm chậm bước xuống thềm. Lúc này, cô nghe rõ tiếng tim mình đập, cũng nghe thấy nó thì thầm khe khẽ: Hoàng Tử Hà, ngươi có từng nghĩ, với một nam nhân thâm trầm đáng sợ như vậy thì phản ứng khôn ngoan nhất hiện giờ chính là quay đầu bỏ chạy, không ngoái cổ lại, đừng bao giờ tới gần y nửa bước không?

Nhưng, bất chấp đầu tóc và y phục đang nhỏ nước tong tỏng, cô vẫn bước từng bước xuống thềm, gượng cười với đám cung nữ đang đứng ngây ra đó trong lúc nghiến răng chịu đựng những cơn rùng mình, “Phiền các cô mang đến cho ta một bộ đồ hoạn quan, ta còn phải theo hầu hạ Quỳ vương.”

Quấn chặt ngực lại, khoác chiếc áo mỏng bằng sa trắng, thắt sợi dây lưng mảnh thành nút đôi đơn giản nhất.

Hoàng Tử Hà đứng trước tấm gương đồng cao đến thắt lưng, ngắm nhìn người trong gương. Ăn vận theo lối hoạn quan, lại thêm mái tóc ướt sũng buông xõa từ vai xuống ngực, rõ ràng là một thiến niên gầy gò thanh tú, mặt mũi sáng sủa, trên gương mặt có phần tiều tụy là đôi mắt thăm thẳm như đầm nước, đã không còn dáng vẻ thiếu nữ từ lâu rồi. Cô hít một hơi thật sâu, nhét bừa mớ tóc còn ướt vào chiếc mũ sa, đoạn quay người mở cửa, rảo bước rời khỏi phòng.

Theo hướng các cung nữ chỉ, cô bước vào lối đi chính của cung Kiến Bật. Hôm nay cung mới hoàn thành, cảnh tượng đương nhiên rộn rã khác thường, mặt hồ mênh mông lăn tăn sóng gợn, thuyền gỗ qua lại như thoi đưa. Trên hòn đảo giữa hồ, ca nữ múa theo tiếng nhạc, rặng liễu bên hồ treo một hàng đèn lồng màu hồng phấn, gió xuân hây hẩy, khí trời ấm áp, cảnh sắc huy hoàng.

Ngay trước mặt là chính điện, một bức bình phong khổng lồ sừng sững chắn cửa vào, bên trên viết bốn chữ lớn: Kiến Bật Di Chương.

Hoàng Tử Hà đứng trước bình phong, ngẩng đầu nhìn hàng chữ lớn kia, cảm thấy nét chữ phóng khoáng, toát lên vẻ uy nghi đường bệ. Chợt nghe sau lưng có tiếng nói, “Đây là ngự bút của bệ hạ, một hoạn quan nhỏ xíu như ngươi mà cũng nhìn ra được chỗ đẹp ư?”

Ngoái đầu lại, cô trông thấy một nam tử áo tím, tuổi ngoài hai mươi, da dẻ nõn nà, toát lên vẻ thuần khiết không hợp với tuổi. Chính giữa trán y điểm một nốt ruồi son, càng tôn thêm làn da trắng trẻo và mái tóc đen huyền, từ đầu đến chân toát lên vẻ siêu phàm thoát tục.

Xuất hiện ở đây, tuổi tác chừng ấy, trên trán lại có nốt ruồi son, Hoàng Tử Hà đoán ngay ra thân phận của người này. Cô vội khom người hành lễ với thiếu niên đang mỉm cười, “Tham kiến Ngạc vương gia.”

Ngạc vương Lý Nhuận là người ôn hòa nhất trong số các vương gia, tính tình dịu dàng dễ gần. Y cười cười gật đầu với cô, ánh mắt dừng lại trên mặt cô một thoáng rồi hỏi, “Ngươi là người trong cung này ư? Đi theo vị công công nào? Sao lại phái ngươi tới đây?”

Các hoạn quan trong cung đều biết, người hầu ở hành cung gần như không thể cất mặt lên được, bởi quanh năm suốt tháng chẳng bao giờ được thấy tôn nhan hoàng đế hoàng hậu, giống hệt các cung nữ, đều chỉ chờ ngày chết già, nên thông thường những kẻ già yếu bệnh tật mới bị phái đến đây.

Hoàng Tử Hà tự nhiên đáp, “Nô tài theo Quỳ vương gia tới, lúc vừa xuống xe lại sẩy chân ngã xuống nước, nên được các cung nữ dẫn đi thay đồ.”

Lý Nhuận cười nói, “Ra thế. Vậy ta dẫn ngươi vào.”

Hoàng Tử Hà theo Lý Nhuận vòng qua bức bình phong, cung nữ đi trước dẫn đường, hết hành lang thì trông thấy giữa điện có một đám người đang ngồi nghe một thiếu nữ gảy tỳ bà. Tiếng tỳ bà như châu như ngọc cuồn cuộn tuôn chảy, phối hợp với cảnh sắc tươi đẹp lúc này quả là tuyệt diệu khôn tả.

“Khúc nhạc hay như vậy, cắt ngang thực là đáng tiếc.” Lý Nhuận nói rồi dừng chân ngoài điện lắng tai nghe. Hoàng Tử Hà lặng lẽ đứng sau lưng y, đợi khúc nhạc kết thúc mới cùng theo vào.

Trong điện có Quỳ vương Lý Thư Bạch, Chiêu vương Lý Nhuế đứng hàng thứ chín, và Khang vương Lý Vấn nhỏ tuổi nhất. Đối diện họ là một thiếu nữ xinh đẹp vận áo vàng, bên mai cài một đóa hải đường nở nộ, cây tỳ bà đặt trong lòng.

Chiêu vương Lý Nhuế là người nhàn nhã giàu sang ưa hóng chuyện nhất hạng, tuy đã mười tám mười chín tuổi song vẫn ham chơi bời như một thiếu niên, cũng chẳng hề có phong độ vương gia, thoạt trông thấy bọn họ tới liền hào hứng vẫy tay lia lịa, “Thất ca Thất ca, mau lên mau lên, đệ mới tìm được một nghệ nhân ở giáo phường có ngón đàn tỳ bà thiên hạ vô song đó!”

“Vừa đứng ngoài nghe được nửa khúc, quả nhiên chỉ trên trời mới có thôi.” Lý Nhuận khen ngợi rồi ngồi xuống bên trái Lý Thư Bạch, hỏi, “Tứ ca, bệ hạ đâu rồi?”

“Sớm nay bệ hạ đau đầu, ngự y đang chẩn bệnh, hẳn là lát nữa sẽ tới.” Lý Thư Bạch đáp rồi hơi ngẩn lên, ánh mắt lướt qua Hoàng Tử Hà, nhưng không nói thêm gì nữa.

Hoàng Tử Hà thầm nghiến răng, rảo bước đi tới sau lưng y, cúi đầu thõng tay đứng hầu, đúng dáng vẻ một hoạn quan trung thành mẫn cán.

Khang vương Lý Vấn đang mãi ngắm thiếu nữ áo vàng, chợt nghe Chiêu vương Lý Nhuế cười rằng “Bệ hạ phát ốm chẳng phải vì lo lắng cho Tứ ca đấy ư?”, lập tức quay sang tò mò, “Lo lắng chuyện gì thế?”

Lý Thư Bạch đã nghe phong thanh từ lâu, nhưng chỉ bình thản hỏi, “Ừ, chẳng hay bệ hạ lo lắng điều gì?”

“Xùy, xem Tứ ca kìa, giả vờ không biết chứ!” Lý Nhuế nhìn khắp lượt mọi người rồi trỏ Lý Thư Bạch cười phá lên, “Còn điều gì nữa? Đương nhiên là hôn sự của Tứ vương gia bản triều rồi. Thực hiếm thấy vương gia nào đã qua hai mươi tuổi mà vẫn độc thân như huynh, nếu còn tiếp tục thanh tâm quả dục thì khủng khiếp quá!”

Lý Nhuận nghiêm trang phụ họa, “Đúng thế, vốn dĩ bốn năm trước đã bắt đầu chọn phi tần cho Tứ ca, có điều bấy giờ Ngô thái phi qua đời, Tứ ca quyết để tang mẫu phi một năm nên mọi người cũng thuận theo. Khổ sao vừa mãn tang lại xảy ra việc nghịch tặc Bàng Huân làm loạn, Tứ ca phải xuống Nam dẹp loạn, cứ thế lần lữa mãi. Hiện giờ trời yên bể lặng, Tứ ca cũng không ít tuổi nữa, nếu còn không lập phi, e rằng hoàng thúc và các thái phi sẽ không để yên đâu.”

“Đúng thế, bệ hạ và hoàng hậu điện hạ phải hao tâm tổn sức mãi mới chọn được đó, cuộc hôn nhân này, Tứ ca không trốn nổi đâu.” Khang vương Lý Vấn cũng hùa theo, bưng một ly rượu tới kính y.

Thiếu nữ ôm tỳ bà mỉm cười cúi đầu, song mắt vẫn len lén liếc Lý Thư Bạch. Lý Nhuế bắt gặp, bèn hỏi, “Cẩm Nô, nàng cứ nhìn Quỳ vương làm gì thế?”

Chư vương trong điện cùng cười ồ lên, riêng Lý Thư Bạch chỉ hơi nhướng mày. Dưới thời Đường, nề nếp giáo phường rất cởi mở, bọn họ chẳng ngại đùa giỡn với đám thị vệ tùy tùng, những chuyện phong lưu còn được lưu truyền ca tụng là khác. Thiếu nữ kia không hề e thẹn, ôm cây tỳ bà che nửa mặt hoa, cười đáp, “Cẩm Nô to gan, có điều thường nghe người trong kinh thành đồn đại Quỳ vương phong tư tuấn tú, chẳng khác người trời. Hôm nay được gặp qua là danh bất hư truyền, hèn chi hằng ngày thiếp ở giáo phường, thấy các tỷ muội đều một lòng một dạ ái mộ.”

“Đáng tiếc đáng tiếc, tỷ muội nhà nàng hẳn phải đau lòng rồi.” Lý Nhuế quàng tay khoác vai Cẩm Nô, cười nói, “Nàng về chuyển lời cho bọn họ, Tứ ca của ta lòng gang dạ sắt, thể nào cũng phụ lòng người, chi bằng gửi gắm tình cảm cho ta, may ra còn có chút hy vọng đấy.”

Trong tiếng cười giòn giã của Cẩm Nô, rượu và thức ăn lại được dâng lên. Các cung nữ qua lại nhộn nhịp như thoi đưa, tiếng hát của ca kỹ lảnh lót át mây trôi.

Giữa cảnh huyên náo ấy, Hoàng Tử Hà cảm thấy mình lạc lõng hoàn toàn, cô cứ đứng đó bất động, mắt dán vào lưng Lý Thư Bạch, thoạt trông có vẻ như đang nhìn y chằm chằm, song thực ra không nhìn vào bất cứ thứ gì, chỉ mãi ngẫm nghĩ chuyện của mình.

Trên tiệc, mọi người xôn xao trò chuyện, chẳng rõ ai đầu têu ra, lại hỏi Lý Thư Bạch, “Tứ ca, nghe nói bệ hạ định phái Chu Tường Chu thị lang nhậm chức thứ sử Thục quận, Tứ ca thấy thế nào?”

Lý Thư Bạch thuận miệng đáp, “Ta không biết nhiều về Chu thị lang, chỉ nghe đồn tiếng tăm cũng tốt. Có điều ta từng gặp Chu Tử Tần con út ông ta mấy lần, là một thiếu niên rất thú vị.”

Lý Nhuế cười, “Đúng thế đúng thế, tính tình Chu thị lang rất ôn hòa, song lần nào như lần nấy, hễ nổi giận đều là bị gã con út ấy chọc tức.”

Lý Nhuận hỏi, “Gã ngỗ nghịch bất hiếu ư?”

“Nào có ngỗ nghịch. Chu Tử Tần là con út, Chu thị lang khéo dạy con, ba bốn huynh trưởng trên gã đều giỏi giang cả. Chu thị lang cũng chẳng đặt nhiều hy vọng vào Chu Tử Tần, dù gã có lêu lổng ăn chơi cũng là thường. Song đứa con trai này hằng ngày không đọc sách không học nghề, không chọi gà đấu chó, chỉ thích chạy đến nghĩa địa, làm trò cười cho cả kinh thành.”

“Nghĩa địa ư?” Khang vương Lý Vấn bật cười.

Lý Nhuế cười đáp, “Đúng thế, chí nguyện lớn nhất trong đời gã là làm ngỗ tác(*), về sau đã bị Chu thị lang dần cho mấy trận, buộc phải thay đổi chí hướng, suốt ngày chặn đường nha dịch trong kinh đòi theo họ đi làm sai nha, đám nha dịch không dám đắc tội với thị lang đại nhân, cũng không dám làm mếch lòng Chu Tử Tần, hễ nhìn thấy gã là hồn vía lên mây, bỏ chạy thục mạng!”

(*) Chỉ người làm công việc khám nghiệm tử thi trong nha phủ thời xưa. Tức pháp y thời nay.

Lý Vấn cười phá lên, nói với Lý Thư Bạch, “Tứ ca nói với bệ hạ một câu giúp Chu Tử Tần đi, Chu Tường đến Thục Quận nhậm chức, bệ hạ mà đích thân chỉ định con trai ông ta theo cha tới đó là sai dịch, coi như hoàn thành tâm nguyện cho gã!”

“Phải đấy phải đấy!” Lý Nhuế cười nghiêng ngả, “Bệ hạ anh minh như vậy, đến lúc đó nếu Chu Tử Tần trở thành sai dịch được chỉ định, để xem Chu đại nhân làm gì được!”

Lý Nhuận như sực nhớ ra, liền hỏi, “Có điều chẳng rõ vụ án của Hoàng Mẫn đại nhân thứ sử tiền nhiệm Thục quận tiến triển đến đâu rồi?”

Lý Nhuế thông thạo tin tức nhất, vội đáp ngay, “A họ Hoàng đó e rằng đã thay tên đổi họ trốn biệt rồi. Thiên hạ rộng lớn như vậy, nếu một người trốn vào thâm sơn cùng cốc sống cả đời, e rằng cũng khó mà tìm ra được.”

“Thật không ngờ người đôn hậu cẩn trọng như Hoàng đại nhân cuối cùng lại gặp phải kết cục bi thảm, thật khiến người ta cảm thán mà.”

Hoàng Tử Hà đứng ngay bên cạnh, nghe họ bàn tán về mình và vụ huyết án của gia đình, vẻ mặt bình thản đến lạnh lùng, song lồng ngực lại đau buốt đến nghẹt thở, nơi ấy có một sợi dây ràng quanh trái tim cô, đang từ từ thít chặt lại.

Lý Thư Bạch chẳng buồn nhìn mặt Hoàng Tử Hà, chỉ lạnh nhạt buông một câu, “Có khi ả đó gan lớn tày trời, chưa chừng đã làm ngược lại lẽ thường, mò đến kinh thành rồi ấy chứ.”

“Vậy khác nào tự chui vào rọ, cầm chắc cái chết.” Lý Nhuế nói.

Lý Nhuận lại hạ giọng than thở, “Còn nhớ năm xưa Hoàng Tử Hà được dân kinh thành xưng tụng là nữ thần đồng, chẳng ngờ giờ đây lại thành ra thế này, đúng là đáng buồn, đáng than, đáng hận.”

Trong đám người ngồi đây có Khang vương Lý Vấn tuổi nhỏ, không biết chuyện năm xưa, liền tò mò hỏi, “Con gái Hoàng Mẫn rốt cuộc có gì lạ, tại sao mọi người đều biết tiếng ả ta vậy?”

Lý Nhuế cười đáp, “Ả từng giúp cha mình là Hoàng Mẫn, năm ấy đương giữ chức thị lang bộ Hình phá mấy vụ án rất thú vị, đến giờ vẫn còn được đám người kể chuyện rong trên phố mải mê kể đi kể lại đấy.”

Lý Vấn hiếu kỳ hỏi, “Đệ chưa nghe bao giờ, Cửu ca kể đi, xem xem Cửu ca và đám người kể chuyện kia ai kể hay hơn.”

Trong tiếng cười của mọi người, Lý Nhuế liền ngồi ngay ngắn lại, rất ra dáng người kể chuyện, đằng hắng một tiếng rồi nói, “Được, vậy ta kể từ đầu. Còn nhớ năm sáu năm trước, một hôm sẩm tối bộ Hình chợt nhận được tin ở phường Hưng Đức có người phụ nữ treo cổ tự tử. Ngỗ tác đến hiện trường xem xét, thì ra là một tân nương, nghe nói hôm trước cãi cọ với lang quân rồi một mình chạy ra ngoài, bực bội cả ngày trời, tối về đến nhà liền nghĩ quẩn.”

Cẩm Nô che miệng tròn mắt xuýt xoa, “Nữ tử trên đời thực cạn nghĩ, đúng là khiến người ta vừa thương vừa giận.”

“Đúng thế, ngỗ tác khám nghiệm tử thi xác định nguyên nhân tử vong là do treo cổ, bộ Hình cũng chuẩn bị đóng vụ án lại theo chiều hướng như thế. Bấy giờ Hoàng Mẫn là thị lang đương nhiệm ở bộ Hình, tới nơi để điều tra kết luận. Hoàng Tử Hà mới mười một mười hai tuổi cũng theo đến căn nhà xảy ra vụ việc, cùng huynh trưởng đứng ở ngoài đợi cha về. Người dân Trường An ưa náo nhiệt, thấy có án mạng xảy ra liền xúm đông xúm đỏ lại xem. Tay bán vải nói, tân nương nhà này lúc xuất giá không mặc áo may bằng vải gã bán nên màu áo cưới không được tươi, mới dẫn đến thảm kịch này. Người bán trang sức thì kể rằng chiều nay tân nương kia còn đặt đánh một cặp trâm bạc ở tiệm mình, hỏi chồng cô ta có muốn lấy nữa không. Thầy tướng lại bảo từ lâu mình đã tính được nhà này năm nay sẽ có việc hiếu việc hỉ, chỉ tiếc họ không tìm tới lão… Cứ thế nhốn nháo hết cả lên. Đến khi Hoàng Mẫn sắp hạ bút kết luận, chợt Hoàng Tử Hà gọi vọng vào, ‘Cha ơi!’”

Nói đến đây, Lý Nhuế khẽ đằng hắng, đoạn đưa mắt nhìn khắp mọi người trong phòng, hệt như một người kể chuyện chính hiệu, “Các vị, có ai biết Hoàng Tử Hà gọi cha mình làm gì không?”

Lý Nhuận cười, “Vừa rồi mới là đoạn mở đầu, đã thấy gợi ý gì đâu, làm sao chúng ta biết được Hoàng Tử Hà gọi cha cô ta có việc gì?”

Lý Nhuế cười đáp, “Đúng là mới xong đoạn mở đầu, nhưng bấy giờ Hoàng Tử Hà đã biết nguyên nhân và hung thủ gây ra cái chết của tân nương rồi, gợi ý cũng rất đầy đủ rồi đó thôi.”

Mọi người đưa mắt nhìn nhau, Lý Vấn nhanh nhảu cướp lời, “Theo đệ thấy, lão thầy tướng kia rất khả nghi, lẽ nào để giành lấy cái danh thần tiên tại thế cho mình nên lão không nề hại người?”

Lý Nhuế cười ha hả, quay sang hỏi Lý Nhuận, “Thất ca thấy thế nào?”

Lý Nhuận thoáng trầm ngân rồi đáp, “Chuyện này ta cũng không rõ, lẽ nào tay bán vải có xích mích gì đó với tân nương về vải may áo cưới, nên ôm hận trong lòng? Hay là người bán trang sức và cô ta đã lục đục tranh cãi trong lúc mua bán, nên ra tay sát hại?”

Lý Nhuế chỉ cười, không giải đáp vội, lại quay sang hỏi Lý Thư Bạch, “Tứ ca thì sao?”

“Là người chồng ra tay.” Lý Thư Bạch đáp luôn.

Lý Nhuế kinh hãi, lộ rõ vẻ Tứ-ca-xin-hãy-nhận-của-đệ-một-lạy, thán phục thốt lên, “Sao Tứ ca đoán được vậy!”

“Trước đây từng ngó qua hồ sơ ở bộ Hình, nên cũng biết đại khái chân tướng.” Lý Thư Bạch bình thản đáp.

Lý Nhuế thở phào nhẹ nhõm, “Có thế chứ! Bấy giờ Hoàng Mẫn đang định đặt bút ghi hồ sơ thì nghe thấy Hoàng Tử Hà gọi. Ông ta ngẩng lên hỏi, ‘Con gái con đứa đến hiện trường làm gì? Mau về nhà đi!’ Nào ngờ Hoàng Tử Hà trỏ vào người bán trang sức, ‘Cha cũng nghe người này nói phải không? Bởi thế vị phu nhân kia không phải tự sát đâu, mà là bị kẻ khác ngụy trang thành tự sát đấy thôi, thực ra cô ấy bị người ta hại chết!”

Lý Vấn nghi hoặc hỏi, “Theo Cửu ca kể thì hồi đó cô ta mới mười một mười hai tuổi, còn nhỏ hơn cả đệ bây giờ nữa, một đứa bé như thế, ai mà thèm tin chứ!”

“Đúng vậy, bấy giờ Hoàng Mẫn cũng cho rằng lời của một đứa bé như thế không thể tin được, bèn mắng ‘Đi chơi đi!’, rồi không để ý đến cô ta nữa. Nào ngờ cô ta chạy vào đè tay lên tập hồ sơ, thuyết phục, ‘Cha ơi, có lần chuyện vãn với đồng liêu ở nhà ta, cha từng nói người khi sắp chết, lòng lạnh như tro tàn. Vậy cha có thấy kẻ nào lòng đã như tro tàn mà trước khi tự vẫn còn đến tiệm trang sức đặt đánh trâm bạc hay không? Huống hồ chi mới chọn kiểu, chưa lấy về nữa chứ.”

Trong điện nhất thời im phăng phắc, chỉ nghe một tiếng tinh tang khi Cẩm Nô vô ý lướt tay qua mặt dây đàn, song không ai để ý đến.

Lý Thư Bạch giơ tay gõ nhẹ lên mặt bàn, ra hiệu cho Hoàng Tử Hà phía sau. Cô lập tức hiểu ý, bèn quỳ xuống bưng bình rượu trên bàn, rót đầy vào chén y.

Y hơi liếc mắt, quan sát nét mặt trông nghiêng của cô. Hàng mi dài, dày mà cong vút, rủ bóng xuống đôi mắt u buồn thăm thẳm như mặt hồ, nắng rọi qua song cửa, chuốt sáng nhàn nhạt trên hàng mi cô.

Lý Nhuế tiếp tục, “Hoàng Mẫn nhận ra con gái nói có lý, lập tức gọi ngỗ tác lại nghiệm thi lần nữa, sau khi kiểm tra kỹ lưỡng, phát hiện vết dây thừng có hơi kỳ lạ, gồm hai lằn siết chồng lên nhau, như thể sau khi siết lần một, còn siết lại lần hai vào đúng vị trí ấy. Bởi thế họ đoán rằng nạn nhân sau khi bị siết cổ chết, lại treo lên xà nhà giả vờ là tự vẫn, mà người có thể làm ra chuyện này đương nhiên chính là chồng cô ta, người đầu tiên phát hiện thi thể, còn đi báo quan là vợ mình tự vẫn.”

Lý Vấn tròn xoe mắt hỏi, “Chồng cô ta có cung khai không?”

Lý Nhuế gật đầu, “Chồng cô ta thấy ngỗ tác nghiệm thi, phát hiện ra manh mối, sợ đến mặt cắt không còn giọt máu, vội quỳ sụp xuống van xin rồi tông tốc khai nhận hết tội trạng. Thì ra hắn ta nghi ngờ vợ mình trước khi lấy chồng từng tư thông với kẻ nào đó trên phố, thấy cô ta cãi nhau với mình lại chạy ra phố, cho rằng cô ta đi tìm gian phu, lửa giận bốc lên mất hết lý trí, nhân lúc vợ trở về đang quay người khép cửa, bèn vớ sợi dây bên cạnh siết cổ cô ta đến chết. Tới khi định thần lại, hắn vội vã treo cô ta lên xà nhà, ngụy trang thành tự sát, hòng bưng bít sự việc.”

Lý Nhuận tán thưởng, “Suýt nữa hắn ta lấp liếm được rồi, nào ngờ lại bị một cô bé mười hai tuổi vạch trần, có lẽ trong chốn u minh, ông trời cũng không muốn bỏ qua cho hắn.”

“Đúng thế đúng thế, Hoàng Tử Hà mới mười hai tuổi, chỉ nói một câu đã phá được một vụ án mạng. Từ bấy giờ người kinh thành ai ai cũng ca tụng cô ta là thiên tài. Thỉnh thoảng bộ Hình có vụ án nào khó khăn, Hoàng Tử Hà cũng giúp Hoàng Mẫn lần ra manh mối, thế nên Hoàng Mẫn từng khoe với người ta rằng, con gái nhà ta còn hơn mười đứa con trai nhà khác. Nào ngờ cuối cùng cũng chính đứa con gái này hạ độc giết cả gia đình, gây ra một vụ án kinh thế hãi tục.”

Lý Thư Bạch thấy đôi mi đong đầy nắng của Hoàng Tử Hà hơi run rẩy. Nhưng chỉ một thoáng cô đã cụp mắt xuống, lặng lẽ đứng dậy, nhẹ nhàng tựa một nhành hoa rung rinh trước gió. Lý Thư Bạch thầm nghĩ, ai mà ngờ được, một thiếu nữ thanh tú mảnh mai như thế lại bình thản đứng giữa đám người đang rôm rả bình luận về mình, nghe quá khứ xấu xa cùng tội lỗi của mình được người ta kể lại mà mặt cũng không đổi sắc.

Lý Nhuế kể xong câu chuyện, mọi người đều cảm thán mất một lúc, đột nhiên Lý Nhuận lại nghĩ ra một việc, “Nếu Hoàng Tử Hà đang ở kinh thành, chẳng biết có phá giải được vụ kỳ án trong kinh hiện giờ hay không?”

Lý Nhuế hỏi, “Có phải Thất ca nói vụ án Bốn phương khiến người người thấp thỏm bấy nay?”

Lý Nhuận gật đầu. Lý Vấn vội gặng, “Án Bốn phương cái gì cơ? Sao đệ chẳng biết?”

“Là vụ án mới xảy ra gần đây thôi, rất lạ lùng, tàn nhẫn và đẫm máu. Mọi người nghĩ đệ còn nhỏ tuổi, nên tránh đả động đến trước mặt đệ.” Lý Nhuế cười nói, “Không biết thì thôi. Đệ nên để đầu óc rảnh rang mà đi học hỏi mấy vị học sĩ trong Hàn Lâm Viện thì hơn.”

“Ứ chịu đâu, Cửu ca nói còn hay hơn đám học sĩ hàn lâm kia nhiều, vụ án Bốn phương gì đó, đệ nhất định phải nghe ngóng mới được.” Nói đoạn Lý Vấn đứng dậy, chạy đến ngồi ngay xuống cạnh Lý Nhuế, chăm chăm nhìn gã, ánh mắt hệt như chim non mong mẹ.

Lý Nhuận cười, “Cửu đệ kể đi, tuy cũng đã nghe đồn nhưng ta chỉ biết loáng thoáng thôi, hằng ngày đệ thích nhất là lân la lầu trà quán rượu hóng chuyện mà, giờ ngoài phố nói thế nào rồi?”

Lý Nhuế nhìn sang Lý Thư Bạch, “Tứ ca quen thân với Đại Lý Tự và Hình bộ, chẳng hay Tứ ca đã có manh mối nào mới chưa?”

Lý Thư Bạch chậm rãi lắc đầu, “Không có, hai nơi đều đang dốc sức điều tra, nhưng chưa thấy tiến triển.”

“Vậy đệ kể lại một lượt dựa trên những gì nghe ngóng được nhé.” Lý Nhuế ra hiệu cho Cẩm Nô rót rượu cho mình, rồi tỏ vẻ thần bí hỏi Lý Vấn, “Đệ có biết gần đầy ở phía Đông thành Trường An lòng người hoang mang rối loạn, tuy không đến nỗi mười nhà thì chín nhà bỏ không, nhưng phần lớn đều đã chạy sang những nơi khác trong kinh thành, hoặc đến trú nhờ nhà người quen bạn bè ở ngoại ô, không dám ở phía Đông thành nữa hay không?”

“Vậy ư? Thảo nào gần đây dường như cả chợ Đông cũng buôn bán kém hẳn đi, lần trước đệ đi dạo phố thấy rất nhiều hiệu buôn đóng cửa.” Lý Vấn càng thêm tò mò, “Chuyện này là sao vậy? Phía Đông thành xảy ra việc gì thế?”

“Việc gì ấy à, thì phải kể từ ba tháng trước. Sáng sớm ngày 17 tháng Giêng, lính canh trong cung Thái Cực phía Bắc thành như thường lệ đi tuần sớm, phát hiện một phu canh ngoài sáu mươi tuổi bị giết ở chân tường, trên tường còn có một chữ ‘Tịnh’ viết bằng máu.” Lý Nhuế kể rất sinh động, giọng sang sảng dễ nghe, vẻ mặt cũng hào hứng. Nếu không nghe nội dung, có khi còn tưởng gã đang kể chuyện giai nhân tài tử, chứ ai ngờ là án mạng.

“Một tháng sau, ngày 21 tháng Hai, ở phường An Nghĩa phía Nam thành lại có một người thợ rèn hơn ba mươi bị giết bên ngoài hiệu thuốc, trên tường viết một chữ ‘Lạc’. Ngày 19 tháng Ba, phường Thường An phía Tây thành xảy ra án mạng tại một nhà từ thiện, một đứa bé bốn tuổi bị giết, để lại một chữ ‘Ngã’. Bộ Hình kiểm tra nét chữ và thủ pháp giết người, cho rằng ba vụ án này đều cùng một hung thủ, nên tạm đặt tên là án Bốn phương. Theo Đại Bát Niết Bàn kinh chú giải, thì bốn phía của cây bồ đề đại diện cho bốn đức là ‘Thường, Lạc, Ngã, Tịnh(*)’, phương Đông đại diện cho Thường, Nam đại diện cho Lạc, Tây đại diện cho Ngã, Bắc đại diện cho Tịnh. Đương lúc người trong kinh hoang mang lo sợ, trên phố lại có lời đồn rằng, những người này đều bị ác quỷ giết chết, vì ngày mùng 1 tháng Giêng năm nay pháp sư Trang Chân niệm sai câu kinh trong pháp hội, khiến cho ác quỷ ở lại phàm trần làm loạn, ắt phải giết hết bốn người ở bốn phương kinh thành rồi mới đi.”

(*) Bốn đức của Chân tâm. Thường là không thay đổi, không sinh diệt. Lạc là không yêu ghét, một niềm vui siêu thế. Ngã là tự do tự tại. Tịnh là trong sạch, không bị ô nhiễm, dù là sống giữa đời thế tục. Theo Đại thừa, Thường, Lạc, Ngã, Tịnh cũng là bốn thuộc tính của Niết Bàn.

“Trang Chân pháp sư thì đệ biết! Hình như là cao tăng chùa Tiến Phúc đúng không? Lúc Toại Ninh công chúa ra đời, Trần chiêu dung sinh khó nên trong cung mời ông ta đến làm pháp sự.” Lý Vấn hiếu kỳ hỏi, “Có điều nghe nói mấy hôm trước ông ta đã qua đời, lẽ nào cũng liên quan đến chuyện này?”

Lý Nhuế gật đầu, “Trang Chân pháp sư nghe được lời đồn đại trong kinh rằng án mạng đều bắt nguồn từ ông ta, lại nhớ hôm đó khi giảng Đại Bát Niết Bàn kinh chú giải, quả thực đã đọc sai, lẽ ra phải đọc là ‘lạc’, ông ta lại sơ ý đọc thành ‘nhạc’, đúng là lầm lỗi lớn. Bởi thế ông ta đâm ra buồn bã tức giận, chẳng được mấy hôm thì tọa thiền mà qua đời. Sau khi ông ta viên tịch, lời đồn trong kinh càng rộ lên, nói chùa Tiến Phúc nằm chính giữa kinh thành, cái chết của Trang Chân pháp sư chính là ứng với cây bồ đề, mặt hướng về bốn phương tám hướng, hiện giờ Bắc, Nam, Tây đều đã xảy ra án mạng, chỉ còn lại một mạng người ở Đông thành đại diện cho ‘Thường’ mà thôi. Người Đông thành tin lời đồn, nhất thời lòng dân rối loạn, rất nhiều hộ bỏ nhà bỏ cửa chạy đến nương nhờ họ hàng hòng tránh nạn, Đông thành đã gần như bỏ trống rồi.”

Lý Nhuận thở dài hỏi Lý Thư Bạch, “Tứ ca, chuyện ầm ĩ như thế, giờ đã chết mất ba người, lẽ nào Đại Lý Tự và Hình bộ không có hành động gì hay sao?”

Lý Thư Bạch đáp, “Hung thủ ra tay vừa chuẩn xác vừa tàn nhẫn, lại rất giỏi ẩn náu, dân số thành Trường An lên đến cả trăm vạn người, muốn tìm ra một kẻ thực chẳng khác mò kim đáy bể. Tuy Đại Lý Tự và Hình bộ đã huy động toàn bộ lực lượng, song đến giờ vẫn chẳng thu hoạch được gì. Giờ đã tháng Tư, cứ theo lệ mỗi tháng giết một người thì hung thủ cũng sắp ra tay đến nơi, bởi thế Hình bộ và Đại Lý Tự cũng rải người khắp kinh thành, trừ việc đó ra, tạm thời chưa tìm được biện pháp gì cả.”

Lý Nhuận than thở, “Thường Lạc Ngã Tịnh, rõ ràng là câu kệ nhà Phật, vậy mà lại bị đem ra làm lời nhắn để lại hiện trường án mạng, vụ án này quả là kỳ dị tàn ác, thật khó suy đoán… E rằng dù Hoàng Tử Hà có ở kinh thành, cũng khó mà phá được.”

Lý Nhuế ngẫm nghĩ, “Vậy mà Chu Tử Tần năm lần bảy lượt bảo đệ rằng, Hoàng Tử Hà tài giỏi tuyệt luân, dưới gầm trời này không có vụ án nào làm khó được cô ta.”

“Đáng tiếc, tiểu thư nhà Hoàng thị lang giờ đã thành hung thủ giết người, phải trốn chui trốn nhủi, người người đều có thể bắt giết,” Lý Thư Bạch nói. Hoàng Tử Hà đứng sau lưng y vẫn lặng thinh, không hề nhúc nhích.

Mọi người lại cảm thán, Lý Nhuận nhận xét, “Vụ huyết án của nhà họ Hoàng, đệ thấy ắt có nội tình, ít ra… cũng không đơn giản như thế.”

“Vụ này bằng cớ rành rành, nhân chứng vật chứng đều có đủ, việc Hoàng Tử Hà phạm tội đã chắc như đinh đóng cột, không có khả năng lật lại bản án đâu.” Lý Nhuế lắc đầu, hỏi lại, “Thất ca nói thế, lẽ nào đã biết nội tình vụ án ư?”

“Nào có, song Vương Uẩn là bạn thân của ta, ta không thể tin chuyện này được.”

Lý Vấn tò mò hỏi, “Vương Uẩn nào thế?”

Lý Nhuận đáp, “Đương nhiên là Vương Uẩn biểu đệ của hoàng hậu, cháu đích tôn nhà họ Vương ở Lang Gia.”

“Chính thị. Vương Uẩn là vị hôn phu của Hoàng Tử Hà.” Lý Nhuế ra vẻ thần bí, “Nghe đồn Hoàng Tử Hà không chịu theo Vương Uẩn vì đã có ý trung nhân khác, bởi vậy mới hạ độc giết chết cả nhà, hòng bỏ trốn cùng tình nhân.”

Sau lưng Lý Thư Bạch, Hoàng Tử Hà thõng tay đứng hầu, không nói một lời. Chẳng hiểu sao, Lý Thư Bạch bật cười khẽ.

Lý Nhuế lập tức đưa mắt nhìn y, “Tứ ca thấy sao?”

Lý Thư Bạch cười đáp, “Không có gì, chỉ là ta nghĩ, Thất đệ và Vương Uẩn rất thân nhau, hẳn cũng từng gặp Hoàng Tử Hà?”

“Cũng có thể xem như gặp một lần.” Lý Nhuận gật đầu, “Ba năm trước, vì có công giúp Hoàng đại nhân phá hàng loạt kỳ án nên cô ta được hoàng hậu triệu tới khen thưởng. Hôm ấy Vương Uẩn tới tìm đệ, kể rằng Hoàng Tử Hà là vị hôn thê của y. Đệ hiểu ý, bèn theo y vào cung, mượn cớ thỉnh an hoàng hậu, thực ra là muốn nhìn lén dung mạo cô nương đó.”

Lý Vấn vội truy hỏi, “Vậy là Thất ca thấy rồi? Hoàng Tử Hà trông thế nào?”

“Nói thấy thì cũng hơi miễn cưỡng. Chúng ta vào cung hơi muộn, cô ta lui ra mất rồi, bấy giờ đang đi sau các cung nữ ở hành lang phía xa, mình vận áo lụa màu ngân hồng, tóc đen nhánh, da trắng muốt, bước chân nhẹ nhàng, dáng người yểu điệu, chẳng khác đóa hoa mới nở. Đi đến chỗ ngoặt cuối hành lang cô ta phải quay người để rẽ, chúng ta mới được thấy một bên mặt.”

Lý Nhuế hỏi, “Là một mỹ nhân ư?”

Lý Nhuận gật đầu, “Quả thực là một mỹ nhân, giống hệt hình vẽ trên hải bộ văn thư.”

“Thật tiếc cho Vương Uẩn.” Lý Vấn cười.

Trong cung rốt cuộc cũng đưa tin sang, báo rằng chứng đau đầu của hoàng đế lần này rất nặng, tạm thời không thể đến. Cả đám Lý Thư Bạch liền đứng dậy, đi vào hoàng cung xem xét tình hình khánh thành. Đương nhiên hành cung không thể xa hoa rộng rãi như cung Đại Minh, cũng không mênh mông bát ngát như cung Cửu Thành, song vừa đi vừa nghỉ vẫn cần đến cả canh giờ.

Hoàng Tử Hà luôn bám theo sau Lý Thư Bạch. Thân hình cô yểu điệu, vận bộ đồ hoạn quan lại càng toát lên vẻ thanh nhã, dáng người dong dỏng cao, dù chỉ lặng lẽ cúi đầu đi sau cũng khiến người ta thấy rất đẹp đẽ.

Dọc đường, Lý Nhuế cứ liếc cô, cười nói, “Tứ ca sao lại đổi hầu cận? Hình như đệ chưa gặp tên này bao giờ.”

Lý Thư Bạch thản nhiên đáp, “Mấy tên Cảnh Hữu Cảnh Dục, chẳng biết tên nào lây cho tên nào, đều bị phong hàn cả rồi.”

Lý Nhuận cũng quan sát Hoàng Tử Hà mấy lần, nét mặt thoáng băn khoăn, như thể thấy cô hao hao một người nào đó y từng gặp, chỉ là trong chốc lát không sao ngờ được tên tiểu hoạn quan này lại giống thiếu nữ y nhác thấy năm xưa mà thôi.

Lý Nhuế tiếp tục vặn vẹo, “Này, tiểu công công kia, ngươi tên gì thế, bao nhiêu tuổi rồi?”

Lý Thư Bạch cười cười, quay sang hỏi Hoàng Tử Hà, “Hình như Chiêu vương rất ưng ý ngươi, dù sao thấy bộ dạng lóng nga lóng ngóng của ngươi ta cũng ngứa mắt lắm. Hay là ngươi theo Chiêu vương đi, thế nào?”

Hoàng Tử Hà thoáng sững sờ, thấy mọi con mắt đều đổ dồn vào mình, cô liền thong thả quỳ xuống, khẽ thưa, “Nô tài thường nghe nói, chim không đậu hai cành, người không thờ hai chủ. Cây trà đã nảy mầm khó mà dời chỗ, giống quýt chuyển đến Hoài Nam chỉ đậu quả chua. Nô tài ngu ngốc, rời Quỳ vương phủ rồi e nhất thời khó mà thích ứng, lại đụng phải quý nhân, gây ra lầm lỗi.”

Lý Nhuế cười nói, “Tứ ca khéo dạy thực, hắn tuôn cả tràng thế này, nếu đệ còn khăng khăng đòi người, e làm lỡ lý tưởng của hắn.”
SPONSORED / ĐƯỢC TÀI TRỢ
Lý Thư Bạch nửa cười nửa không, chỉ nói, “Lẻo mép!”

May sao đúng lúc này Khang vương Lý Vấn lại than mệt nên cả đám mới chịu buông tha Hoàng Tử Hà, theo đường cũ trở về.

Đi giữa lớp lớp vườn hoa và tường vách, Lý Thư Bạch từ từ chậm bước, đến bên một bụi trúc phượng vĩ, thấy bên cạnh không còn ai khác, chỉ có mình Hoàng Tử Hà vẫn theo sau, y mới lạnh lùng quay lại nhìn cô, “Hoàng Tử Hà, ngươi theo ta làm gì?”

Hoàng Tử Hà cúi mặt đáp, “Chim khôn chọn cành mà đậu, tôi muốn ở lại bên cạnh vương gia, dùng chút sức mọn của mình, giúp vương gia vài việc vặt.”

“Việc gì?” Y lạnh nhạt hỏi.

“Xa thì như con cá đỏ kia, gần thì như vụ án Bốn phương gần đây.”

Ánh mắt y dừng lại trên gương mặt cúi gằm của cô, lạnh lùng mà khinh miệt, tựa như đang nhìn một hạt bụi trong không khí, “Những việc đó, có việc ngươi không đáng mặt tham dự, có việc lại chẳng can hệ tới ta, cần gì ngươi lắm chuyện?”

Hoàng Tử Hà đứng dưới bóng trúc phượng vĩ, những chiếc lá mảnh dài bao phủ lấy thân hình, khiến gương mặt trắng tái như phủ màu lục nhạt, càng thêm phần gầy gò xanh xao. Cô ngẩng lên nhìn y, nói nhỏ nhưng cương quyết, “Song Đại Lý Tự và Hình bộ đã bó tay, bệ hạ lại sinh bệnh, tôi nghĩ, e rằng chỉ mình Quỳ vương mới có thể chia sẻ nỗi lo với bệ hạ mà thôi.”

"Thực ra ngươi muốn tìm một chỗ dựa để giúp ngươi rửa oan chứ gì?” Y vạch trần không chút nể nang, “Vừa rồi Chiêu vương định thu nhận, chẳng phải ngươi cũng có cơ hội đấy thôi?”

“Theo Chiêu vương thì chẳng có cơ hội nào cả.” Mặt Hoàng Tử Hà tái nhợt, đáy mắt nhàn nhạt ánh xanh, song không hề do dự. “Tôi không cần một chốn nương thân, cũng không cần sống yên ổn, tôi muốn được đứng dưới ánh mặt trời lần nữa, rửa sạch những khuất nhục mà cả nhà tôi phải chịu.”

Lý Thư Bạch sầm mặt, lạnh lùng quan sát cô. Cô vẫn ngẩng lên nhìn y, ngoại trừ khẩn nài, gương mặt cô còn toát lên vẻ quật cường âm thầm, kín đáo tựa sương đêm, nhưng cũng vẫn rành rành ra đó.

Lý Thư Bạch lạnh lùng hừ một tiếng, quay người trở về chính điện. Hoàng Tử Hà vội theo sau, y không ngoái đầu, song cũng không rảo bước nhanh hơn.

Ra tới cổng thì thấy các vương gia kia đều đang đợi để từ biệt Quỳ vương. Nghe đám hoạn quan nói, mấy ngày nữa hoàng đế sẽ triệu tập quần thần cùng đề thơ nối câu vịnh cảnh nước non trong hành cung, mọi người bất giác đều nhìn nhau cười khổ não.

Đợi mọi người đi cả, chỉ còn Lý Nhuận và Lý Thư Bạch rớt lại sau cùng, Lý Nhuận không khỏi than thở, “Bệ hạ cũng thoải mái quá, hiện giờ phiên trấn cát cứ, hoạn quan cậy thế, vậy mà vẫn có thể tiệc tùng vui chơi suốt buổi…”

Lý Thư Bạch hờ hững đáp, “Bệ hạ là thiên tử thái bình, đây cũng là phúc phận của người và bá tánh trong thiên hạ.”

Lý Nhuận cười, “Tứ ca nói phải lắm.” Ánh mắt y dừng lại ở Hoàng Tử Hà, gương mặt hòa nhã dịu dàng đầy vẻ nghi hoặc.

Lý Thư Bạch hỏi, “Sao thế?”

“Hình như đệ từng gặp vị công công này ở đâu rồi thì phải.” Ý y muốn nói Hoàng Tử Hà.

Lý Thư Bạch liền bảo, “Hôm nay ta cũng mới gặp lần đầu, chi bằng để hắn sang hầu hạ đệ?”

“Tứ ca lại đùa rồi, vừa nãy Cửu đệ đã bị cự tuyệt, lẽ nào đệ còn tự trát trấu lên mặt ư?” Lý Nhuận cười, nụ cười khiến nốt ruồi son trên trán càng thêm phần đẹp đẽ.

Hoàng Tử Hà cúi đầu đứng đó, không phải cô không trông thấy ngày xuân yên ổn ngay trong tầm tay với, có điều cô đã chọn lấy con đường gian nan nhất, không thể quay đầu được nữa, huống hồ tham sống sợ chết không phải lối sống của cô.

Đợi các vương đi cả, Lý Thư Bạch mới lên xe. Hoàng Tử Hà đứng bên ngoài, còn đang tần ngần thì nghe thấy giọng y, “Lên đi.”

Cô vội vã theo lên, đứng dựa vào cánh cửa.

Xe ngựa chầm chậm lăn bánh. Ra khỏi phạm vi hành cung, trước sau đều là đồng hoang, Lý Thư Bạch dõi nhìn cảnh vật bên ngoài, bỗng lạnh lùng nói, “Ta cho ngươi mười ngày.”

Hoàng Tử Hà tựa vào cánh cửa nhìn y, không thốt một lời, đợi y nói tiếp.

Ánh mắt y từ từ rời khỏi cảnh vật bên ngoài, dừng lại ở cô, cặp mắt lạnh như băng, song lại thăm thẳm sáng rỡ, khiến nhịp thở của cô nghẽn lại.

“Vụ án trưa nay chúng ta thảo luận trong cung Kiến Bật đó, ta cho ngươi thời gian mười ngày, ngươi có dám chắc không?”

“Có lẽ.” Hoàng Tử Hà đáp ngắn gọn.

Y dựa vào vách xe, vẻ nhàn nhã, “Đây là cơ hội để ngươi tiến tới việc rửa oan cho mình, lấy lại sự trong sạch, đương nhiên cũng sẽ vạch trần được chân tướng, báo thù cho cha mẹ ngươi.”

Hoàng Tử Hà thoáng nghĩ ngợi rồi hỏi, “Ý vương gia là, nếu tôi phá được vụ án này, gia có thể giúp tôi trả thù nhà luôn ư?”

“Dĩ nhiên không rồi.” Đường núi gập ghềnh, thấy thân hình cô lắc lư theo nhịp xóc nảy của xe, Lý Thư Bạch hơi hất cằm, ra hiệu cho cô ngồi xuống chiếc ghế thấp trước mặt mình, rồi nói, “Ta có một việc, muốn tìm người giúp, nhưng hiện giờ ngươi không bằng không cứ thình lình xuất hiện trước mặt ta, bảo làm sao ta tin vào năng lực của ngươi được?”

“Tôi hiểu rồi.” Hoàng Tử Hà gật đầu, “Phá được vụ án này trong vòng mười ngày, tôi mới có tư cách giành được lòng tín nhiệm của vương gia.”

Lý Thư Bạch gật đầu, “Ít ra ngươi phải chứng minh cho ta thấy là ngươi đáng được giúp đỡ, chứ ta không rỗi việc đến nỗi tự dưng lại đi giúp một kẻ bất tài vô dụng, chỉ biết khua môi múa mép đâu.”

Hoàng Tử Hà ngồi xuống ghế, cúi đầu nghĩ ngợi rồi hỏi, “Hình bộ và Đại Lý Tự đầy rẫy nhân tài, chắc hẳn đã phái vô vàn người đi xử lý vụ việc, vương gia định để tôi điều tra với thân phận gì đây?”

"Ta sẽ trực tiếp dẫn ngươi đến Hình bộ xem xét hồ sơ." Lý Thư Bạch nói ngay.

"Được." Hoàng Tử Hà giơ tay vuốt tóc mai, đoạn rút cây trâm gỗ đang cài trên tóc. Trâm vừa rút ra, mái tóc như tơ xanh của cô tức thì xõa xuống, đổ dài từ vai tới người. Những sợi tóc còn âm ẩm chẳng khác nào đám rong rêu đen tuyền, xoắn xuýt lấy nhau, che khuất quá nửa gò má tái nhợt.

Cô thoáng ngây người rồi lúng túng gạt mái tóc ra sau lưng, "Xin lỗi, trước đây tôi quen dùng trâm đánh dấu, quên bẵng hiện giờ đang là tiểu hoạn quan, chỉ có một cây trâm cài tóc…"

Lý Thư Bạch hơi cau mày, không nói gì. Hoàng Tử Hà cúi đầu giơ tay lên, cuộn lấy mái tóc dài rồi vấn lại thành một búi ngay trước mặt y.

Thiếu nữ này lặn lội trăm sông nghìn núi không mảy may chần chừ e ngại, vậy mà lúc này bất giác lại lộ ra vẻ e lệ thẹn thùng.

Lý Thư Bạch ngó cô, thấy gương mặt cúi gằm ưng ửng hồng. Dường như lúc này y mới phát hiện, thậm chí còn cảm nhận sâu sắc hơn so với lúc tóm chặt cổ cô, rằng Hoàng Tử Hà vẫn chỉ là một thiếu nữ mười bảy non thơ, khác hẳn vẻ già dặn bình tĩnh mà cô thường tỏ ra.

Cảm giác được y đang quan sát mình, cô kín đáo ngẩng lên liếc trộm. Chỉ một cái liếc cũng đủ để y trông thấy đôi mắt trong trẻo sáng rỡ ẩn dưới hàng mi, sâu thẳm như hòa tan cả nước thu, đặt trên nền gương mặt mịn màng tựa cánh đào.

Các đường nét tuy không phải tuyệt sắc, song vầng trán thanh tao toát lên vẻ thuần khiết như trời xanh lồng lộng tháng Năm. Thần thái xa cách, nửa lạ lẫm nửa từng trải, tất cả thấp thoáng trong đôi mắt đang nhìn y, ngỡ ngàng mà cảnh giác.

Là một mỹ nhân.

Y nhớ lại nhận xét của Lý Nhuận, về ấn tượng với Hoàng Tử Hà mười bốn tuổi.

Thiếu nữ mười bốn một bước nổi danh thiên hạ, giờ đã thành nữ tử mười bảy yểu điệu thướt tha. Mang trên vai mối oan tày trời về mẹ cha, gánh hết những lời xỉ vả của mọi người trong thiên hạ, song không hề suy sụp, ngược lại còn đương đầu khó khăn mà tiến bước, nỗ lực tìm kiếm sự thật, cố dùng sức mình rửa sạch oan khuất, vạch trần chân tướng.

E rằng nếu chỉ nhìn dáng vẻ này của cô, chẳng ai tin được cô chính là Hoàng Tử Hà, bất kể là Hoàng Tử Hà tiếng lành đồn xa, hay tiếng dữ đồn xa.

Hoàng Tử Hà chăm chú nhìn y, đoạn đưa tay sờ mặt mình, vừa căng thẳng vừa lúng túng.

"Giống hình vẽ trên cáo thị lắm." Lý Thư Bạch ngoảnh sang ngắm nhìn cành lá um tùm giăng mắc vào nhau trên tấm rèm gấm. "Về sau đừng để ai trông thấy dáng vẻ này của ngươi nữa."

"Vâng." Cô đáp gọn, quấn chặt mái tóc lại, đoạn hỏi, "Vương gia còn nhớ thời gian xảy ra vụ án mà họ kể không?"

Lý Thư Bạch đáp ngay, không chút ngập ngừng, "17 tháng Giêng, 21 tháng Hai, 19 tháng Ba."

"Hôm nay là 16 tháng Tư. Cũng tức là, nếu thời gian gần giống nhau thì sắp đến lúc hung thủ ra tay rồi." Cô dùng ngón tay chậm rãi viết mấy con số lên vách xe, ngẫm nghĩ, "Trong vòng mười ngày, hung thủ ắt có động tĩnh."

"Chỉ dựa vào mấy con số này, ngươi có thể lần ra hung thủ giữa cả trăm vạn người ở kinh thành không?"

"Không thể." Cô ngừng tay viết, nghĩ ngợi, "Khi chưa nắm được đặc điểm và động cơ của hung thủ thì không thể tóm hắn giữa cả biển người được."

Lý Thư Bạch thờ ơ quan sát cô, "Thế nên, ngươi không nắm chắc hả?"

Ngón tay lại vô thức vạch lên vách xe, Hoàng Tử Hà lẩm bẩm, "17 tháng Giêng, người chết là một phu canh già, hung thủ để lại chữ Tịnh. 21 tháng Hai, thợ rèn trung niên, chữ Lạc. 19 tháng Ba, đứa trẻ bốn tuổi, chữ Ngã…"

Lý Thư Bạch nối lời, "Án Bốn phương. Vụ đầu tiên ở hướng chính Bắc kinh thành. Vụ thứ hai, chính Nam. Vụ thứ ba, ở Tây thành chếch về phía Nam."

Hoàng Tử Hà nghĩ ngợi, "Theo lý nếu thực sự hướng về bốn phía, hắn nên tìm đúng phương vị chính Bắc, chính Nam, chính Tây mới phải, vậy mà vụ thứ ba lại ở Tây thành chếch về phía Nam, không khỏi lạ lùng."

"Có lẽ ở hướng chính Tây không có mục tiêu của hắn, hoặc làm thế này tiện tránh tai mắt người đời hơn."

"Trước mắt thì tất cả đều có khả năng, nhưng vẫn không biết được nguyên nhân xác thực." Hoàng Tử Hà nói, lại bấm ngón tay hồi tưởng, "Nạn nhân thứ nhất là một ông lão, thứ hai là một người trung niên, thứ ba là một đứa bé."

Lý Thư Bạch ngả người ra nệm tựa, chỉnh lấy tư thế thoải mái nhất rồi đủng đỉnh nói, "Chuyện này ta từng hỏi thôi thừa(*) ở bộ Hình. Hai kẻ đứng tuổi và già lão yếu ớt kia thì cũng thôi, có lẽ hung thủ chỉ muốn tìm một kẻ không có sức kháng cự để ra tay, nhưng đứa trẻ ở vụ án thứ ba lại khiến ta thấy rất lạ lùng. Bởi lẽ đó là một đứa bé bốn tuổi đã đói rét đến mức chỉ còn thoi thóp, bị cha mẹ vứt bỏ, sau khi được người qua đường phát hiện đưa đến nhà từ thiện thì không cứu nổi nữa. Dù hung thủ không ra tay, e rằng đứa bé cũng không qua nổi đêm ấy, vậy mà hung thủ lại phải đột nhập vào nhà từ thiện giết chết nó, chẳng phải vẽ rắn thêm chân sao?"

(*) Tên một chức quan, quản lý việc thẩm vấn hình ngục và truy tìm vật chứng. Thực ra đến thời Tống Thần Tông (năm 1079 Công nguyên) mới đặt ra.

"Ồ, điểm này quả là kỳ lạ. Một đứa bé đang hấp hối, tại sao hung thủ phải mạo hiểm liều mình, bất chấp bị người ta phát hiện, lẻn vào nhà từ thiện để hạ sát?" Hoàng Tử Hà cau mày, ngón tay lại bắt đầu vô thức viết bốn chữ "Thường Lạc Ngã Tịnh" lên vách xe.

Lý Thư Bạch nhìn dáng vẻ tiện tay viết lên vách của cô, hơi cau mày rồi đưa mắt nhìn ra núi non thấp thoáng ngoài rèm cửa, giọng lạnh tanh, "Vụ án chỉ có chừng ấy manh mối thôi, nếu ngươi muốn phá trong vòng mười ngày thì mấu chốt nằm ở đâu?"

"Đã không tìm được manh mối và vật chứng ở mấy lần trước, thì biện pháp tốt nhất là suy đoán thời gian, địa điểm và mục tiêu của lần ra tay tiếp theo." Hoàng Tử Hà không ngẩng lên, vẫn nhìn chằm chằm vào ngón tay mình, thong thả bấm tay tính toán.

"Ta cũng nghĩ thế. Bởi vậy nếu ngươi nắm chắc, ta có thể cho ngươi mấy ngày theo các sai dịch trong kinh cũng đi điều tra vụ án. Có điều ngươi phải để ý đầu tóc đấy, đừng để người ta phát hiện là nữ nữa."

"Không cần đâu." Hoàng Tử Hà giơ tay sờ nhẹ cây trâm trên đầu mình, đoạn quay sang nhìn y, khuôn mặt vẫn nghiêm trang song đôi môi đã cong lên, toát ra vẻ tự tin và ung dung. "Tôi đã biết quy luật gây án của hung thủ rồi. Chỉ cần hắn dám lộ diện lần nữa, tôi sẽ tìm ra nơi hắn xuất hiện."

Lý Thư Bạch thoáng ngẩn người trước dáng vẻ tự tin của cô, "Ngươi nắm chắc rồi ư?"

"Đúng thế, chỉ cần vương gia cho tôi một cuốn hoàng lịch." Gió nhẹ từ ngoài thổi tới, yên ả len qua rèm, ánh nắng cũng thư thả rọi vào, bao bọc Hoàng Tử Hà, lồng bóng cô sáng rõ ràng, đôi mắt trong trẻo như sương sớm của cô dán chặt vào Lý Thư Bạch.

Y bỗng ngẩn ngơ, một lát sau mới thốt, "Được, vậy ta rửa mắt chờ xem."
 

Tam Thất

nhân chi sơ, tính bản thiện
Tham gia
13/4/19
Bài viết
1,705
Điểm cảm xúc
1,399
Điểm
113
Hiên Tịnh Dữu.

Phòng riêng của Lý Thư Bạch.

Hoàng Tử Hà lật xem hoàng lịch. Lý Thư Bạch ngồi bên lạnh lùng quan sát, thấy cô từ 17 tháng Giêng giở đến 21 tháng Hai rồi 19 tháng Ba, sau đó giở đến hôm nay, lật trang rất nhanh, tựa hồ chỉ liếc qua rồi đặt xuống, đoạn nói, "Đêm nay nếu có quan binh đi tuần, phải chú trọng cảnh giới một dải phía Đông Nam thành, đặc biệt là những nhà có phụ nữ mang thai, đó là đối tượng ra tay của hung thủ."

Lý Thư Bạch nhướng mày, "Ngươi xác định mục tiêu thứ tư của hung thủ là thai nhi sao?"

"Rất có khả năng." Hoàng Tử Hà đáp.

Lý Thư Bạch ngoảnh đầu ra ngoài, "Cảnh Hữu."

Một tên hoạn quan bước vào, mày mắt cong cong, trông vô cùng dễ mến, "Vương gia."

"Đến Đại Lý Tự, mời Thôi Thuần Trạm sang đây."

"Vâng." Cảnh Hữu vâng dạ rồi hành lễ toan cáo lui, không hề nhìn đến Hoàng Tử Hà lôi thôi đứng đó lấy nửa con mắt. Lý Thư Bạch lại trỏ Hoàng Tử Hà, "Trước tiên ngươi dẫn hắn xuống, sắp xếp cho một nơi ở đã. Phải nhớ, hắn là một tiểu hoạn quan."

"Vâng, xin vương gia yên tâm."

Tội nhân Hoàng Tử Hà bị truy nã khắp nơi, thế là trở thành một tiểu hoạn quan trong Quỳ vương phủ.

Cảnh Hữu chỉ cho Hoàng Tử Hà đường đi lối lại, dặn dò vài điểm cần chú ý, sau cùng dẫn cô đến khu nhà phía Bắc nơi ở của các hoạn quan, chọn cho cô một gian phòng đơn, lại gọi người đưa vật dụng hằng ngày và ba bộ đồ đến, nói, "Tiểu công công, ngươi mới đến đây nên chưa được bố trí chức trách, trước mắt chỉ cần nhớ phải tới chỗ vương gia thỉnh an hằng ngày là được."

Hoàng Tử Hà tỏ lời cảm tạ rồi chạy sang tìm tên hoạn quan hàng xóm hỏi han những việc ăn ở sinh hoạt, đoạn đến nhà bếp tìm vài món bỏ bụng, cuối cùng xách hai thùng nước đi tắm gội sạch sẽ. Cả ngày bôn ba vất vả, dồn dập biến cố, cô đã mệt mỏi đến kiệt quệ, vừa đặt mình xuống giường là thiếp đi ngay.

Lúc tỉnh dậy, mặt trời đã lên đến ba con sào. Khi ra bờ giếng múc nước, một hoạn quan đang quét sân bảo cô, "Cảnh Hữu công công dặn chúng ta chuyển lời cho ngươi, tỉnh dậy thì đến gác Ngữ Băng."

Hoàng Tử Hà húp vội húp vàng bát cháo, hỏi han đường sá, thay một bộ đồ hoạn quan rồi chạy đến nơi được bảo. Gác Ngữ Băng là thư phòng của Lý Thư Bạch, bốn phía là cây cối thoáng đãng sáng sủa, cửa sổ buông sa mỏng, có thể nhìn xuyên qua.

Hoàng Tử Hà bước vào, còn cách một lớp song hoa chạm trổ đã thấy Lý Thư Bạch đang ngồi bên trong xem bản đồ kinh thành.

Nghe tiếng chân cô, y ngẩng đầu lên, thản nhiên gọi, "Vào đây."

Hoàng Tử Hà bước đến gần, Lý Thư Bạch trỏ bản đồ nói, "Đêm qua hung phạm không xuất hiện. Có điều theo cách nghĩ của ngươi, có phải tối nay hắn sẽ xuất hiện ở hướng Tây Bắc không?"

Hoàng Tử Hà thoáng kinh ngạc, ngẩng lên nhìn y, "Vương gia đã biết tôi phán đoán theo cách nào rồi sao?"

"Ngươi biết xem hoàng lịch thì ta cũng biết." Y bình thản đáp, ngón tay trắng trẻo thon dài lướt qua một dải mười hai phường ở phía Tây Bắc kinh thành. "Sáng nay ta đã sai người đi nghe ngóng, trong mười hai phường này, chỉ riêng những thai phụ bụng đã lùm lùm cũng khá nhiều. Phường Tu Đức có hai người mang thai bảy tháng. Phường Phổ Ninh có người đã mang thai mười tháng sắp sinh. Phường Cư Đức có bốn người, đều từ sáu đến tám tháng."

"Phường Phổ Ninh." Cô trỏ vào vị trí một phường, khẳng định.

Lý Thư Bạch xem bản đồ chi tiết của phường Phổ Ninh, rồi nói, "Nhà thai phụ đó nằm bên cạnh nhà cũ của Từ Mậu Công."

Hoàng Tử Hà sực nghĩ ra một chuyện, lưỡng lự cân nhắc, cuối cùng vẫn quyết định nén lại, đợi phá án xong mới nói. Nào ngờ Lý Thư Bạch đã nghĩ đến, quay ngay sang nhìn cô, "Nhà Trương Hàng Anh cũng ở phường Phổ Ninh."

"Vâng." Y đã chủ động nhắc đến, cô đành tiếp tục câu chuyện, "Nếu phá được vụ án này, liệu vương gia có thể xem xét để Trương Hàng Anh quay trở về đội nghi trượng không?"

"Không thể." Y đáp ngay.

Hoàng Tử Hà phân bua, "Trương Hàng Anh cho tôi cải dạng trà trộn vào đội nghi trượng của vương gia, về lý không đúng, song về tình thì thực tử tế hiếm có. Biết uống nước nhớ nguồn cũng là đức tốt của bậc quân tử. Liệu có thể xin vương gia khoan dung, trước hết để gã theo tôi cùng điều tra vụ án này chăng?"

"Không được." Y gạt phăng, "Tuy về tình có thể tha, song bên cạnh ta không cần một kẻ hành động theo cảm tính."

Hoàng Tử Hà cắn môi dưới nói khẽ, "Vương gia khai ân…"

Y ngắt lời cô, "Nếu kẻ phạm lỗi chỉ sau mấy ngày lại có thể bình yên vô sự quay về thì còn đặt ra luật lệ nghiêm hình làm gì nữa? Sau này ta làm sao chỉ huy thuộc hạ?"

Hoàng Tử Hà cúi đầu nín thinh, đành gạt bỏ ý định cầu xin, lại hỏi, "Tiếp theo đây tôi phải làm gì?"

"Đi ngủ tiếp đi, đến tối theo ta tới phường Phổ Ninh."

Phường Phổ Ninh, phía Tây Bắc kinh thành.

Theo lệ, sau canh hai các phường ở thành Trường An đều đóng cửa, không cho phép bất cứ ai đi lại ngoài đường nữa. Bởi vậy Lý Thư Bạch bèn cải trang thành một thư sinh du ngoạn, còn Hoàng Tử Hà làm thư đồng của y, chập tối cùng đến phường Phổ Ninh, tá túc trong một khách điếm.

Kẻ là công tử hào hoa đẹp đẽ, người là thiếu niên thanh tú thoát tục, dọc đường, cả nam nhân trông thấy cũng phải ngoái đầu nhìn lại. Bà chủ khách điếm họ ở đã viện cớ đưa nước đến bốn bận, ông chủ không yên tâm về bà chủ, cũng đến tận năm lần.

Hoàng Tử Hà búi lại tóc, chuẩn bị ra ngoài, "Để tôi liên hệ với người của bộ Hình cho. Vương gia thì chắc sẽ bị ông chủ bà chủ nhốt trong phòng rồi."

Lý Thư Bạch lạnh lùng, "Ta đã không được yên mà ngươi nghĩ mình ung dung được sao?"

Hoàng Tử Hà định đáp thì thấy bà chủ lại tha thướt bưng bình trà đến ngoài cửa sổ.

Cô liền ngoảnh nhìn Lý Thư Bạch, thấy Lý Thư Bạch cũng đang nhìn mình, cười nửa miệng, "Cho ngươi một khắc. Đuổi đi."

Chỉ có một khắc, nếu không mạnh tay, bà chủ sẽ không từ bỏ nhanh chóng đến thế. Mà đối với một nữ nhân đang xao xuyến, biện pháp mạnh tay nhất chính là…

Hoàng Tử Hà đến trước mặt Lý Thư Bạch, kéo tay y đặt hờ lên eo mình, nài nỉ bằng giọng vừa đủ để người ngoài cửa sổ nghe thấy, "Ôi chao, công tử, chúng ta đang ở bên ngoài mà, phải tránh tai mắt người ta chứ! Đừng, đừng sờ chỗ này mà… Ôi, chỗ này càng không được, ghét ghê, đều là đàn ông cả, để người ta trông thấy thì biết ăn nói làm sao…"

Bóng dáng thướt tha của bà chủ quả nhiên cứng đờ.

Bàn tay Lý Thư Bạch bị kéo đặt hờ lên eo cô bất giác cũng cứng đờ. Có điều, chỉ trong chớp mắt, y đã tỉnh bơ gỡ tay cô ra, quay mặt sang uống trà, "Được, tha cho ngươi đấy. Bà chủ khách điếm này phiền phức quá, cứ tới nhìn nhìn ngó ngó, lẽ nào bà ta đã phát hiện ra ta chỉ thích đàn ông?"

Ngoài kia, bà chủ bưng bình trà rảo bước đi thẳng, Hoàng Tử Hà tưởng như nghe thấy tiếng trái tim tan vỡ gieo rắc suốt dọc đường.

Cô lấy làm bất bình, bèn vặn, "Cần gì phải thêm ba chữ 'phiền phức quá'"?

"Để giúp ngươi chóng hoàn thành nhiệm vụ." Y thản nhiên đặt ly trà xuống.

Hoàng Tử Hà gài chốt cửa, mở cửa sổ ngó quanh ngó quất, đoạn tung người nhảy ra ngoài, vẫy tay với y, "Đi nào."

Nhà họ Ngụy là gian thứ sáu trong con hẻm thứ hai cạnh nhà cũ của Từ Mậu Công, trong vườn trồng đầy hoa thạch lựu.

Kinh thành tấc đất tấc vàng, gian nhà này cũng không rộng lắm, gọi là vườn, thực ra chỉ là một khoảnh đất nhỏ chừng một trượng vuông, sau vườn là hai gian phòng trệt, tường bao xung quanh chẳng qua đến ngực Hoàng Tử Hà. Hai người ngồi xổm dưới gầm cầu đối diện, náu mình sau mấy khóm thược dược.

Đã quá canh hai, ngoài phố vắng hoe, đèn lửa đều lặng lẽ tắt cả.

Mây đen che mờ vầng nguyệt, dưới ánh trăng lờ mờ, hai người thoạt tiên ngồi xổm, cuối cùng lâu quá đành ngồi phệt xuống gốc thược dược, cùng ngắm bóng trăng soi mặt nước.

Hoàng Tử Hà hạ giọng hỏi, "Sao vương gia phải đi làm gì? Người của Đại Lý Tự và Hình bộ đâu?"

"Không báo." Y thong thả đáp, vin một nhành thược dược còn phong nhụy bên cạnh xuống ngắm nghía, trầm ngâm nói, "Năm nay trời ấm, mẫu đơn chưa nở mà thược dược đã đơm nụ rồi."

Hoàng Tử Hà hiểu ra ngay, mình phải đi bắt tên hung thủ biến thái tàn nhẫn thần bí khó lường kia, mà chiến hữu duy nhất lại là kẻ không hề có tính tự giác này đây. Không khỏi mệt mỏi, cô gặng hỏi, "Tại sao không báo cho Đại Lý Tự và Hình bộ?"

"Thôi Thuần Trạm của Đại Lý Tự đã hết sức khuyên ngăn ta, nói rằng phải phòng thủ thật chặt bên Đông thành, mấu chốt vụ án này nhất định nằm ở chỗ xảy ra tại bốn phương. Ta thấy hắn cố chấp như thế thì nên tôn trọng ý kiến của hắn. Hiện giờ hắn đang giăng thiên la địa võng ở Đông thành."

"Vậy còn Hình bộ?"

"Người phụ trách vụ án này ở bộ Hình là thượng thư Vương Lân, cha ruột Vương Uẩn vị hôn phu của ngươi, cũng là cha chồng tương lai lúc trước. Ngươi muốn gặp ông ta ư?"

Dòng nước dưới cầu soi bóng trăng trong vắt, phản chiếu lên mặt Hoàng Tử Hà, trong một khoảnh khắc, Lý Thư Bạch thấy vẻ mặt cô thoáng xao động hệt như làn nước dưới cầu, song chỉ nháy mắt đã tan biến, tưởng đâu là ảo ảnh mà bóng trăng lưu lại trên mặt cô thôi. Hết thảy tâm tìmh đều lặng lẽ tan đi trong không khí, cô thản nhiên đáp, "Được thôi, cứ để họ đến Đông thành."

Trong lúc họ trò chuyện, mặt trăng đã lên đến giữa trời, nhà họ Ngụy bỗng xôn xao, gian phía Đông có người thắp nến, rồi chỉ tích tắc dưới bếp cũng có người chụm lửa đun nước, ai nấy tất bật rối rít cả. Một người đàn ông khoác áo mở cửa lao ra ngoài, đằng sau còn có tiếng gọi với theo, "Bà đỡ họ Lưu ở nhà thứ tư trong ngõ Trù Hoa, đừng tìm nhầm đấy!"

"Mẹ cứ yên tâm!" Người kia tuy bước chân hối hả, song giọng nói lại rất vui mừng.

Hoàng Tử Hà nhìn chằm chằm vào nhà họ Ngụy, bất động. Lý Thư Bạch cũng buông tay thả nhành thược dược kia ra, "Xem chừng sắp sinh rồi."

"Ừm." Cô ậm ừ, ánh mắt vẫn dán vào bờ tường. Chỉ thấy trong đêm tối, một cái bóng từ từ bay đến, đậu bên cây thạch lựu, đoạn hướng vào trong nhà kêu lên mấy tiếng, "Cú, cú…"

Giữa đêm khuya, âm thanh đen đủi mà chói tay ấy hòa cùng tiếng rên la của sản phụ, khiến người ta nghe mà dựng cả tóc gáy.

"Chim lợn." Lý Thư Bạch trầm ngâm, "Đúng là điềm gở."

Người xưa nói rằng nửa đêm chim lợn kêu ngoài cửa sổ là đang đếm lông mi người, đếm rõ rồi sẽ lấy mạng người. Mà sinh con lại được ví như gần kề cửa mả, bởi vậy nghe thấy tiếng chim lợn người trong nhà đều giật nảy mình, một bà lão tức thì từ trong bếp xộc ra la lớn, "Tôi đi che lông mi của con dâu lại, ông nó mau đun nước đi!"

Ông chồng lật đật chạy đến nhà bếp, còn bà lão vừa che lông mi của con dâu xong, lại nghe chim lợn ngoài cửa sổ kêu lên mấy tiếng. Bà ta vơ ngay cây sào phơi áo bên cạnh, chạy ra sân đập bừa vào cây thạch lựu, hòng đuổi con chim đi.

Bà ta vừa ra khỏi cửa, kẻ kia đã lẻn vào phòng.

Hoàng Tử Hà bật dậy, nhưng Lý Thư Bạch còn nhanh hơn, vừa kéo tay cô vừa phi thân nhảy qua bụi thược dược. Hoàng Tử Hà chỉ thấy tiếng gió ù ù bên tai, nhô lên hụp xuống mấy bận đã đến phía sau nhà, trong khi đó, bóng đen kia đã vào được phòng bằng cửa sau.

Lý Thư Bạch đá tung cửa, xô Hoàng Tử Hà vào, còn y đương nhiên đứng ngoài.

Hoàng Tử Hà trông thấy hung thủ đang giơ cao cây chủy thủ toan đâm xuống bụng sản phụ. Đương lúc thất kinh lại bị Lý Thư Bạch đẩy một cái, cô mất đà ngã nhào, vai đập vào mạng sườn hung thủ, xô hắn ngã lăn sang một bên.

Hung thủ thấy hành tung đã bại lộ, liền nắm chặt chủy thủ, toan cướp đường bỏ chạy. Hoàng Tử Hà nằm dưới đất không cách nào ngăn được bèn giật lấy giá hoa bên cạnh hòng ngáng chân hung thủ.

Chậu hoa trên giá rơi xuống đất vỡ choang. Cùng lúc đó hung thủ kia vấp chân ngã sấp mặt. Hắn chưa kịp bò dậy, Hoàng Tử Hà đã chồm lên đá mạnh vào cổ tay hắn, hung thủ bị đau, cây chủy thủ trong tay cũng không cầm nổi nữa, Hoàng Tử Hà đoạt lấy hung khí, đoạn đè lên lưng hắn, "Không được cử động!"

Lý Thư Bạch nãy giờ vẫn đứng ở ngoài ung dung nhìn cô, đợi cô chế ngự được hung thủ mới lên tiếng, "Không tệ, tay chân nhanh nhẹn lắm, chỉ hiềm chẳng có quy tắc gì cả."

Hoàng Tử Hà muốn câm nín, "Gia không vào giúp tôi một tay ư?" Cô thì ở bên trong ngàn cân treo sợi tóc, còn y vẫn khoanh tay đứng ngoài, toàn thân tắm dưới ánh trăng sáng rỡ, không động lấy một cọng tóc, tiêu sái như tiên.

"Bên trong có sản phụ sắp sinh, nam nhân như ta làm sao vào được?" Buông một câu khiến cô cứng họng, y nhàn nhã ngẩng lên nhìn vầng trăng trên trời, "Tình hình sản phụ thế nào rồi?"

Hoàng Tử Hà chưa kịp đáp thì tiếng trẻ sơ sinh khóc đã vang khắp phòng, bà lão ngoài sân nghe náo động, rốt cuộc cũng run rẩy chạy đến, thấy căn phòng vốn dĩ chỉ có mình con dâu nay lại thêm một tiểu thư đồng, rồi một tên áo đen bị thư đồng chĩa dao vào người, cô con dâu mệt lả, đứa nhỏ ngọ nguậy khóc oa oa, nơi cửa sau còn lù lù một nam tử đứng ngắm trăng, chưa kể chậu hoa vỡ dưới đất và chiếc giá kê đã gãy tan tành, bà ta tức thì trố mắt hãi hùng, "Ôi trời ơi… thế này… thế này là thế nào đây?"

Hàng xóm xung quanh nghe tiếng trẻ con khóc lũ lượt chạy sang hỏi thăm, ông lão cũng bưng chậu nước nóng đến cửa. Giữa tiếng ồn ào, Hoàng Tử Hà bất đắc dĩ ngẩng lên rặn ra một nụ cười với họ, "Xin lỗi, chúng ta tới bắt hung phạm…"

Hai ông bà già thấy thanh chủy thủ trong tay cô liền đưa mắt nhìn nhau, rồi quay ra ngoài la lớn, "Người đâu, cứu với cứu với, có kẻ đến giết người…"

May sao binh lính đi tuần trên phố nghe tiếng lập tức ập vào, sau khi tham kiến Lý Thư Bạch, liền trói gô hung thủ lại.

Bà đỡ vừa tới cũng kinh ngạc nói, "Sản phụ hoảng sợ rặn mạnh một cái, khiến đứa bé tọt ra ngay. May mà sản phụ khỏe mạnh nên hai mẹ con mới bình yên vô sự. Tôi sẽ tắm rửa cho đứa nhỏ ngay đây."

Cha đứa bé nắm tay vợ, âu yếm, "Nương tử vất vả quá, ta quyết định rồi, đứa nhỏ này chúng ta sẽ đặt tên là 'Kinh Sinh', thế nào?"

Sản phụ yếu ớt tựa vào thành giường hỏi, "'Kinh Sinh' ư? Sao chàng không đặt là 'Hách Sinh'(*)?"

(*) Kinh và Hách đều có nghĩa là sợ hãi. Kinh Sinh cũng như Hách Sinh, đều là "vì sợ hãi mà sinh ra".

"Ý hay đấy, quyết định vậy đi, Ngụy Hách Sinh, rất hay rất hay…"

Hoàng Tử Hà thấy, lạnh lùng như Lý Thư Bạch, nghe vậy cũng không khỏi nhếch mép.

Khi Thôi Thuần Trạm và Vương Lân hớt hải chạy đến Quỳ vương phủ thì trời đã gần sáng.

Thấy mắt cả hai đỏ ngầu vì thức khuya, Lý Thư Bạch cũng chẳng khiển trách, chỉ sai người dâng trà lên cho họ trấn tĩnh, rồi nói, "Hung thủ vụ án Bốn phương đã sa lưới, sáng mai khai đường thẩm vấn đi."

Vương Lân gật đầu lia lịa vâng dạ, song Thôi Thuần Trạm vẫn do dự hỏi, "Vương gia, vụ án Bốn phương này cho đến giờ còn chưa có manh mối về nguyên nhân gây án hay vật chứng gì cả, vương gia khẳng định kẻ bắt được tối nay chính là hung thủ ư?"

"Phải hay không, ngày mai thẩm vấn chẳng phải sẽ biết sao?" Lý Thư Bạch bưng trà tiễn khách, "Kinh thành giới nghiêm, đến đêm các phường đều phải đóng cửa, không ai được qua lại trên phố. Chắc chắn trước đó hắn đã phải trọ lại khách điếm trong phường Phổ Ninh, các ngươi có thể đi điều tra nơi hắn trọ xem."

Hôm sau, Hình bộ và Đại Lý Tự cùng thẩm vấn, đối chiếu hung khí, xác định rõ là thứ được dùng sát hại mấy người trong các vụ trước. Lại soát được trong khách điếm mà hung thủ trọ lại có kinh văn do hung thủ chép, so sánh với nét chữ để lại ở hiện trường, thấy thói quen cất bút hạ bút đều hoàn toàn phù hợp.

Hung phạm tự biết không thể chối cãi, đành thú nhận tất cả, cũng khai hết những tình tiết và nguyên do gây ra mấy vụ án kia. Từ đây, vụ án Bốn phương làm náo động cả kinh thành đã được phá giải.

Trong điện Tứ Thần cung Đại Minh, hoàng đế Lý Thôi gần đây khó ở liên miên, nghe được tin này cũng phấn chấn tinh thần, bèn sai người triệu các vương gia cùng Đại Lý Tự thiếu khanh Thôi Thuần Trạm, Hình bộ thị lang Vương Lân vào gặp mặt.

"Thay quần áo, theo ta vào cung."

Hoàng Tử Hà vừa mạng xong chiếc chăn, chạy đến gác Ngữ Băng gặp Lý Thư Bạch thì nghe y nói vậy. Cô kinh ngạc hỏi lại, "Vào cung ư?"

"Ta từng nói, nếu trong vòng mười ngày ngươi phá được vụ án mới có tư cách giúp đỡ ta đấy thôi. Bởi thế từ ngày hôm nay, ta có một việc muốn ngươi làm thay ta, hơn nữa để làm việc này, cần phải cho ngươi một thân phận xác định." Nói đoạn y đứng dậy, phong thái nhàn tản tao nhã, chẳng có vẻ gì là đang đàm phán mặc cả, "Tóm lại, hiện giờ ngươi là một tiểu hoạn quan trong vương phủ này, những ngày quan trọng ta không đem ngươi theo, chẳng phải bớt đi mấy phần náo nhiệt hay sao?"

Cô cúi đầu "dạ" một tiếng.

Lý Thư Bạch ra cửa, bảo người đang đứng đó, "Gọi Cảnh Dục đến đây."

Chẳng mấy chốc Cảnh Dục đã đến, người này mặt mũi cực kỳ lanh lợi, đưa mắt đánh giá Hoàng Tử Hà mấy lượt rồi hỏi, "Vương gia có gì căn dặn?"

Lý Thư Bạch thong thả hỏi, "Ngươi quản lý nhân sự trong phủ, vậy ta hỏi, hiện giờ theo danh sách, trong phủ có bao nhiêu hoạn quan?"

"Tổng cộng là ba trăm sáu mươi bảy người."

"Nếu ba trăm sáu mươi bảy người đột nhiên biến thành ba trăm sáu mươi tám người thì sao?"

Cảnh Dục hiểu ý, lại liếc Hoàng Tử Hà, nghĩ ngợi rồi đáp, "Nô tài nhớ rồi, năm ngoái trong cung Cửu Thành gặp mưa bão, thất tán nhiều tiểu hoạn quan. Những hoạn quan ấy phần đông là trẻ mồ côi được đưa vào cung, có những kẻ chẳng tìm thấy xác, đến nay cũng không biết tăm tích."

Lý Thư Bạch gật đầu, "Nói vậy thì, có thể là một trong những hoạn quan thất lạc ở cung Cửu Thành?"

Cảnh Dục phụ họa, "Nô tài đoán vậy, nhưng cụ thể là ai thì chưa nhớ ra được, xin vương gia cho nô tài đi tra xét xem đã."

Lý Thư Bạch vẫy tay cho hắn lui ra. Chẳng bao lâu sau hắn bưng tới một cuốn danh sách dày cộp, thưa, "Nô tài đã tra được rồi, trong cung Cửu Thành có một tiểu hoạn quan, tên gọi Dương Sùng Cổ, phụ trách quét dọn gác Yên Lam. Tuổi chừng mười sáu mười bảy, thân hình cao năm thước năm tấc, gầy gò mảnh dẻ. Hắn là trẻ mồ côi được đưa vào cung, ở cung Cửu Thành cũng không có bạn bè, một thân một mình trong gác Yên Lam, bởi thế mọi người đều cho rằng hắn đã chết trong thiên tai năm ngoái, trong cung cũng xóa tên hắn rồi."

"Ồ, nào ngờ tên Dương Sùng Cổ này gặp nạn lớn không chết, lại lưu lạc đến vương phủ của ta." Lý Thư Bạch nhìn Hoàng Tử Hà, "Thân phận Cảnh Dục vừa nói, ngươi thấy thế nào?"

Hoàng Tử Hà đứng đó, lòng đầy cảm khái. Cô đã trốn chạy suốt mấy tháng trời, lặn lội trăm sông nghìn núi, ra sức che giấu thân phận, nào ngờ chỉ mấy câu ngắn ngủi của kẻ này đã đem lại cho cô một thân phận khác, trở thành một người khác, từ nay có thể quang minh chính đại xuất hiện trước mặt mọi người, không cần giấu giếm nữa.

Lời Quỳ vương Lý Thư Bạch nói ra, ai có thể nghi ngờ, mà ai dám nghi ngờ chứ?

Cô vội khom người hành lễ, "Nô tài Dương Sùng Cổ, đa tạ vương gia."

Từ cửa Kiến Phúc cung Đại Minh đi vào, băng qua lớp lớp cửa son và tường cao mới thấy điện Hàm Nguyên sừng sững, trên đài cao là cung sâu cửa khuyết(*), như phượng hoàng xòe cánh ôm lấy mọi người.

(*) Trước cung điện hoặc lăng miếu thời cổ đại thường có loại cổng hai tầng, hai bên là hai bục đá, phía trên là ngôi lầu, ở giữa bỏ trống làm lối đi, gọi là cửa khuyết.

Sau điện Hàm Nguyên là điện Tử Thần trang nghiêm hoa lệ, phía sau điện, mái cong đấu củng(*) vàng son lộng lẫy trải dài liên miên bất tuyệt, nhìn hút tầm mắt.

(*) Một loại kết cấu đặc biệt trong kiến trúc Trung Hoa, gồm những thanh ngang từ trụ cột chìa ra gọi là củng và những trụ kê hình vuông chèn giữa các củng gọi là đấu.

Điện Tử Thần là nội điện, mấy năm nay hoàng đế ít khi triệu kiến quần thần ở điện Hàm Nguyên, đa phần đều chỉ ở điện Tử Thần. Hoàng Tử Hà chờ không lâu đã thấy hoàng đế vận thường phục đen bước ra cùng các hoạn quan theo hầu, thân hình hơi đẫy đà nhưng không béo phị, cằm tròn trịa, mắt dài, dáng vẻ thân thiện.

Hoàng đế Lý Thôi năm nay mới ba mươi lăm tuổi, mười năm trước được bè lũ hoạn quan ủng hộ mà đăng cơ, từ đó chỉ mải mê nữ sắc, không màng triều chính. Nếu nói là một thiên tử thái bình thì hơi gượng ép, song không làm gì ảnh hưởng đến dân chúng, trăm họ cũng được coi như yên ổn.

Hoàng Tử Hà thầm nghĩ, cùng một dòng máu mà trông hoàng đế ôn hòa hơn Lý Thư Bạch nhiều. Lại nhìn sang bọn Lý Nhuế, thầm nhủ, có vẻ tất cả đều dễ đối phó hơn Lý Thư Bạch, tại sao hết lần này đến lần khác người duy nhất có thể giúp mình lại chỉ là y.

Hoàng đế yên vị, đoạn tươi cười khen Lý Thư Bạch, "Tứ đệ xưa nay quả thực không chùn bước trước bất cứ việc gì. Vụ án Bốn phương này, mấy hôm trước trẫm còn nghĩ chẳng biết có nên nhờ Tứ đệ xử lý không, nào ngờ chưa kịp mở miệng thì tối qua đệ đã giải quyết xong, quả là thần tốc."

Lý Thư Bạch đáp, "Đây không phải công lao của thần đệ, phá án được là nhờ kẻ khác."

Ánh mắt hoàng đế dừng lại ở Thôi Thuần Trạm, hắn vội khom lưng sợ sệt tâu, "Án này phá được đều là nhờ Quỳ vương. Chúng thần có tội, chỉ lo tuần tra bên Đông thành, không nghe Quỳ vương chỉ thị, để Quỳ vương phải một mình đến hiện trường bắt giữ hung thủ, phá án."

Bấy giờ ánh mắt hoàng đế mới dừng lại ở Hoàng Tử Hà đang đứng sau lưng Lý Thư Bạch, "Tiểu hoạn quan sau lưng Tứ đệ, hình như trẫm chưa gặp bao giờ?"

"Khởi bẩm bệ hạ, đây chính là người phá được vụ án, bởi thế thần không dám tham công, bèn dẫn hắn lên điện diện thánh."

Nghe vậy, mọi người đều kinh ngạc đổ dồn mắt vào Hoàng Tử Hà, chỉ thấy tiểu hoạn quan này dung mạo hết sức thanh tú, trước sau vẫn cụp mắt nhìn xuống, nét mặt bình thản, một sợi tóc cũng không mảy may rung động.

Hoàng đế cười, "Đây là nội điện, hằng ngày trẫm cùng mọi người tùy tiện đã quen. Ngươi xem, ở đây hôm nay ngoài các tiểu đệ của trẫm cũng chỉ có Thuần Trạm điệt nhi của Thôi thái phi, Vương thượng thư thúc phụ của hoàng hậu, nhà ngươi cũng không cần gò bó quá. Ngươi tên gì?"

"Nô tài Dương Sùng Cổ, khấu kiến bệ hạ." Cô bước lên quỳ xuống hành lễ.

Khang vương Lý Vấn còn trẻ, thấy cô xấp xỉ tuổi mình, liền bước ra gặng hỏi, "Ngươi đã phá được án đấy ư? Ta đang nghĩ mãi không ra, ngươi mau nói cho ta biết, vụ án này có phải án Bốn phương không? Tại sao ba phía Nam, Tây, Bắc đều xảy ra án mạng, vậy mà vụ án cuối cùng lại không phải ở phía Đông?"

Hoàng Tử Hà ngẩng lên nhìn hoàng đế, thấy người gật đầu mới giải thích, "Đây chỉ là do quán tính tư duy của mọi người, kết hợp với cái gọi là bốn phương bồ đề 'Thường Lạc Ngã Tịnh', lại thấy án mạng xảy ra tại ba phía Bắc, Nam, Tây của kinh thành, liền cho rằng quy luật giết người của hung thủ là Đông Tây Nam Bắc. Ngờ đâu hung thủ giết người chỉ mượn tiếng như vậy, chứ không làm theo quy luật đó. Thực ra, người thứ ba bị giết vốn ở phương Thường An phía Tây Nam thành, chứ không phải hướng chính Tây. Bởi vậy nô tài nghĩ, nếu lần theo hướng 'bốn phương', có thể sẽ bị chệch hướng."

Chiêu vương Lý Nhuế liền hỏi, "Ta nghe nói, ngày đầu tiên hai người đã xác định mục tiêu ra tay của hung thủ ở phía Đông Nam kinh thành, sang ngày thứ hai lại xác định ở phường Phổ Ninh phía Tây Bắc kinh thành là vì sao?"

"Vụ án này muôn đầu nghìn mối, đều phải bắt nguồn từ câu pháp ngôn Trang Chân pháp sư đọc nhầm kia." Hoàng Tử Hà giải thích cặn kẽ, "Hôm ấy trong cung Kiến Bật, nô tài nghe các vị vương gia kể lại tình tiết vụ án, Trang Chân pháp sư giảng kinh trong đại lễ Vu Lan, hẳn là trôi chảy lưu loát, hệt như âm thanh trên trời truyền xuống, vậy mà hung thủ chỉ thoáng nghe đã nhận ra một chữ đọc sai trong cả bài giảng kinh, nếu không phải người trong cửa Phật thì nhất định cũng là Phật tử thông thuộc kinh điển Phật gia. Kinh thành có lệnh giới nghiêm, nên nếu muốn giết người ở các nơi khác nhau thì vào ngày hành sự phải nghỉ trọ tại nơi đó, quanh địa điểm xảy ra ba vụ án đầu lại không có chùa miếu gì cả, nếu một hòa thượng trọ lại nhất định sẽ khiến người ta chú ý, vì thế nhiều khả năng kẻ gây án là Phật tử. Huống hồ kẻ này tàn sát nhiều, nhất định không phải kẻ quy Phật chân chính, hẳn là bị những thứ bàng môn tà đạo trong dân gian mê hoặc mà thôi. Người mê tín, tất có điều tin tưởng. Cứ theo những vụ án trước thì án này không phải dựa theo bốn phương tám hướng như lời đồn, nghĩ vậy, nô tài lại nhớ ra, những người mê tín thường có một thói quen, chính là làm việc gì cũng xem lịch."

Bởi vậy sau khi xem hoàng lịch, cô phát hiện địa điểm ra tay của hung thủ hoàn toàn trùng khớp với hướng tốt trong ngày đó được ghi trên lịch, vào ngày xảy ra vụ án thứ ba, lịch chép rằng hướng Tây Nam là đại lợi, lại lật đến hai ngày xảy ra hai vụ án trước thấy một ngày có hướng đại lợi là chính Bắc, ngày kia có hướng đại lợi chính Nam, trùng khớp với phương hướng giết người của hung thủ. Bởi thế cô đoán rằng hung thủ giết người nhất định lấy lịch làm chuẩn chứ không phải như mọi người suy đoán là mỗi phương giết một mạng.

Thấy cô lật xem hoàng lịch, Lý Thư Bạch cũng chú ý ngay tới điểm này, bởi thế vào ngày có hướng đại lợi Tây Bắc, hai người mới cùng mai phục trước cửa nhà một thai phụ ở phường Phổ Ninh, ôm cây đợi thỏ.

"Té ra là thế!" Lý Vấn lại hỏi, "Vậy tại sao ngươi biết hung thủ chắc chắn sẽ ra tay với nhà đó? Sao biết được mục tiêu lần này nhất định là thai phụ?"

"Vì ba người bị giết trước kia, một là ông lão canh đêm đã già cả, một là thợ rèn trung niên, hai người này bị giết cũng khỏi bàn, nhưng đứa nhỏ trong nhà từ thiện đã yếu ớt suy kiệt, lại đang hấp hối, dù không giết thì cũng chẳng sống nổi mấy canh giờ, tại sao hung thủ còn giết nó?" Nói đoạn, Hoàng Tử Hà hơi ngập ngừng rồi tiếp, "Sau đó, nô tài chú ý đến một việc, chính là người thợ rèn trung niên kia, ông ta bị giết ở tiệm thuốc, nói cách khác ông ta đang trên đường tới hiệu thuốc khám bệnh thì bị giết."

Lý Vấn còn đang ngẫm nghĩ, Lý Nhuận ở bên cạnh tay cầm ly rượu đã thở dài, "Bốn nỗi khổ của đời người, sinh lão bệnh tử."

"Chính là vậy. Một già, một bệnh, một chết. Giờ chỉ còn duy nhất một chữ sinh, mà thai phụ kia chính là người duy nhất ở phía Tây Bắc thành Trường An sắp sửa lâm bồn, nếu hung thủ muốn ra tay trong ngày đó thì chỉ có thể nhắm vào mục tiêu ấy mà thôi. Huống hồ chi lẻn vào giết người, hắn lại vừa khéo gặp lúc sản phụ lâm bồn, mừng rỡ vô cùng, còn ngỡ rằng trời cao đang giúp mình hoàn thành nốt chữ 'sinh' này." Thôi Thuần Trạm than thở, "Đại Lý Tự và Hình bộ cùng thẩm vấn, đương sự đã thú nhận tất cả, thì ra cả nhà hắn gặp nạn, trong một tháng chết sạch chỉ còn mình hắn. Hắn lo sợ đau buồn, rồi đem lòng tin theo một giáo phái từ Tây Vực truyền sang. Ở Tây Vực giáo phái này cũng bị chửi rủa xua đuổi, nào ngờ lại truyền vào Trung nguyên, giáo luật của chúng có một loại tà pháp, nói rằng tai ách có thể truyền sang cho người khác, lửa tà bốc lên, hắn bèn mù quáng tin theo tà pháp này, cho rằng chỉ cần giết được bốn người thì bản thân có thể vượt qua tứ khổ, từ nay về sau tiêu dao tự tại, không bệnh không nạn. Hiện giờ hắn đã bị nhốt vào ngục song vẫn u mê mù quáng, làm loạn cả lên, còn nói mình dùng kinh Phật độ mình độ người. Đúng là đến chết vẫn không hối cải!"

Trong điện im phăng phắc, hoàng đế vẫy tay nói, "Trẫm thấy cũng chẳng cần đợi sang mùa thu(*) đâu. Đã khai nhận tất cả, lại có vật chứng đầy đủ, hạng người tội ác tày trời này còn giữ lại làm gì? Trong mấy ngày nay, các ngươi xem xét xử lý cho xong đi, để cho hắn khỏi kêu gào làm loạn nữa."

(*) Thời phong kiến, mùa thu và đông thường là mùa thực hiện án tử hình trong năm.

"Vụ này đã được khép vào tội chết, chẳng hay ý bệ hạ thế nào?"

"Chém ngang lưng đi."

Vụ huyết án náo động kinh thành suốt mấy tháng nay thế là hạ màn. Mọi người điểm lại mấy vụ thảm án, lại nhìn tiểu hoạn quan mảnh khảnh mới mười sáu mười bảy chẳng khác nào nhành liễu đầu xuân đang đứng trước mặt. Nhưng chính thiếu niên yếu ớt này lại khéo léo rút ra được manh mối đầu tiên từ mớ bòng bong rối bời mà tất cả đã bó tay, tỉ mỉ xem xét đến mọi mạch suy nghĩ. Càng nghĩ càng thấy lòng dấy lên một cảm xúc khó tả.

Lý Nhuế đùa, "Tên tiểu hoạn quan này thực là thông minh lanh lợi, hèn chi lần trước đệ xin, Tứ ca lại không nỡ gật đầu."

Lý Thư Bạch cười đáp, "Cửu đệ nói bừa, bấy giờ ta nào có nói chữ 'không' đâu."

"Đúng vậy, đệ làm chứng cho Tứ ca." Lý Vấn cũng chen vào.

Hoàng đế rất vui, chỉ cười cười ngồi xem các em đấu khẩu, mãi tới khi nữ quan từ phía sau ghé tai nói nhỏ, hoàng đế mới xen vào, "Tứ đệ gần đây song hỉ lâm môn, nên trẫm sẽ bày tiệc nhà ăn mừng trước. Đợi hôm đại hỉ của đệ, trẫm và hoàng hậu sẽ đích thân đến vương phủ chúc mừng."

Cả đám nghe nói đều lộ vẻ thích thú, Khang vương Lý Vấn hỏi đầu tiên, "Tứ ca đã chọn được vương phi rồi ư? Là cô nương nhà nào vậy?"

Hoàng đế cười, "Chỉ ít hôm nữa là kim thư ngọc sách ban ra rồi, các đệ gắng đợi thêm mấy ngày được không? Nói chung thì vương phi của Tứ đệ đương nhiên là danh môn khuê tú thuộc hàng nhất nhì trong thiên hạ, sánh với Tứ đệ quả là một đôi người ngọc."

Yến tiệc giữa ngày xuân, cả đám trong cung chuốc chén đổi bát, mãi đến khi mặt trời ngả về Tây mới lục tục ra về.
SPONSORED / ĐƯỢC TÀI TRỢ
Hoàng Tử Hà theo xe ngựa ra khỏi cửa cung, vừa thở phào nhẹ nhõm thì Lý Thư Bạch vén rèm gọi, "Lên đây!"

Cô bất đắc dĩ lên xe, thấy y chỉ liếc mình rồi lại dõi mắt ra ngoài cửa sổ. Nhìn qua song cửa chạm trổ mây trôi phúc lành, cô thấy cảnh đường phố chầm chậm lướt đi không khác chi ngày thường.

Vẫn không quay mặt lại, Lý Thư Bạch nói thẳng vào đề, "Giờ ta muốn nghe thử vụ án của gia đình ngươi."

Hoàng Tử Hà thoáng sững sờ, hỏi khẽ, "Vương gia chịu can thiệp vào vụ án này thực ư?"

"Lời ta đã nói, lẽ nào ngươi cho rằng ta sẽ nuốt lời?" Y hững hờ đáp, nhưng thái độ rõ ràng là ngươi-có-kể-hay-không-thì-bảo.

Hoàng Tử Hà cắn môi dưới, hồi lâu mới ngồi xuống chiếc ghế đối diện y, chần chừ kể, "Mọi chuyện phải bắt đầu từ một ngày trước khi vụ án xảy ra. Hôm ấy trời quang đãng, hoa mai nở đầy trong vườn nhà, tôi cùng Vũ Tuyên lội tuyết bẻ mai, quả là một ngày đông đẹp hiếm hoi…"

Lý Thư Bạch vẫn nhìn cảnh phố xá đang từ từ trôi qua ngoài cửa, "Vũ Tuyên là ai?"

"Là… một đứa trẻ mồ côi được cha tôi thu nhận sau khi đến Thục quận. Mười tám tuổi đã đỗ tú tài, có nhà riêng trong quận, nhưng vẫn thường tới thăm hỏi cha mẹ tôi."

Lý Thư Bạch đưa mắt nhìn, thấy nét mặt Hoàng Tử Hà có phần khác lạ, khuôn mặt tái nhợt vì bôn ba và lo nghĩ nhiều ngày lại từ từ ửng lên ánh hồng rất kín đáo, khiến thần thái cả người trở nên khác hẳn.

Vũ Tuyên chắc là thanh mai trúc mã đây.

Y lại đưa mắt nhìn ra ngoài song cửa, vẻ mặt vẫn bình thản, chỉ hờ hững "ừm" một tiếng.

Hoàng Tử Hà thấy y không gặng hỏi, lòng cũng thầm nhẹ nhõm. Cô hít một hơi thật sâu, tiếp tục kể lại cái ngày đã trôi qua được mấy tháng, song vẫn khắc sâu trong lòng cô.

Sáng sớm hôm ấy đổ tuyết nhỏ, sau khi tuyết lạnh trời quang, màu trắng càng tôn lên sắc mai đỏ, cả thế giới như làm bằng pha lê, trong trẻo sáng rỡ.

Hoàng Tử Hà ôm một bó mai lớn vào lòng, cười khanh khách chìa cho Vũ Tuyên xem. Vũ Tuyên nói, "Hôm trước ta thấy một đôi bình mai, sắc xanh trứng sáo như bầu trời sau mưa, cảm thấy nếu đặt trong phòng muội thì quá tuyệt nên đã mua về, thế mà hôm nay lại quên đem qua, để đến chiều sẽ sai người đưa tới."

Cô tươi cười gật đầu, ngày lành cảnh đẹp, nắm tay nhìn nhau, vậy mà ngày đông đẹp đẽ nhường này lại bị chuyến viếng thăm của hai vị khách phá hỏng.

Phụ thân bước vào, theo sau là tổ mẫu và thúc phụ cô. Hoàng Tử Hà vừa trông thấy đã reo lên, ném cả bó hoa mai cho Vũ Tuyên rồi chạy đến ôm chặt lấy tổ mẫu.

Từ nhỏ cô đã được bà cưng chiều nên tình cảm rất thân thiết. Vũ Tuyên thấy vậy liền cáo từ, bà lão cũng chỉ mỉm cười nhìn gã, đợi gã đi rồi, Hoàng Tử Hà mới nghe thấy bà khẽ thở dài.

Hai bà con dắt tay nhau vào phòng mẹ cô trò chuyện, mẹ cô cười nói, "Lần này tổ mẫu và thúc phụ sang đây là vì hôn sự của con đấy."

Hôn sự. Hoàng Tử Hà lặng lẽ buông tay tổ mẫu ra, ngồi xuống làm thinh. Bà lão bất đắc dĩ vỗ nhẹ lên tay cô, cười nói, "Nhà họ Vương là danh gia vọng tộc. Vương Uẩn lại là cháu đích tôn ngành trưởng, huống hồ cha con đã từng gặp qua, luôn miệng ca ngợi Vương Uẩn tướng mạo nhân phẩm đều tuyệt hảo, con gả sang đó, nhất định sẽ suôn sẻ như ý."

Mẹ rầu rĩ nhìn cô, đoạn khẽ thưa với bà, "Mẹ không biết đâu, con bé này chẳng biết tâm ý thế nào, hễ nghe nhắc đến nhà họ Vương là tỏ ý không vui."

"Nó thẹn đấy mà." Bà lão cười.

Hoàng Tử Hà nén giận, đang định lên tiếng phân bua thì a hoàn lại tới mời đi dùng cơm tối. Mọi người liền đứng dậy ra gian ngoài dùng cơm, Hoàng Tuấn thúc phụ cô vừa thấy bèn cười nói, "Tử Hà, sau này thành con dâu nhà người ta rồi, đến giờ cơm không được lề mề tới trễ thế này đâu, phải dọn sẵn cơm đợi cha mẹ chồng đó."

Cha cô cũng cười theo, "Vương Uẩn một mình ở trong kinh, lấy đâu ra cha mẹ chồng mà hầu hạ? Sang xuân Tử Hà xuất giá, cũng như ở nhà thế này thôi."

Hoàng Tử Hà sững người, đặt bát xuống hỏi, "Sang xuân ư?"

Mẹ cô tức thì đưa mắt ra hiệu cho cha, rồi bảo cô, "Đúng thế, tổ mẫu và thúc thúc con tới thăm lần này chính là để bàn bạc xem có phải sang xuân sẽ cho con xuất giá hay không, vừa khéo nhà họ Vương cũng có ý này…"

"Thực ra mọi người đã quyết định rồi, đúng không?" Hoàng Tử Hà đứng bật dậy, giận đến run người, "Cha, mẹ, con đã xin thoái thác đám này, nhưng hai người… giờ lại ép gả con đến nhà họ Vương!"

"Con bé này rõ là vô lý." Hoàng Tuấn đã bàn bạc với nhà họ Vương, giờ lại thấy cô nói như vậy, không nén được cơn giận, buông đũa xuống sầm mặt mắng, "Họ Vương Lang Gia là vọng tộc từ mấy trăm năm nay, hai vị hoàng hậu họ Vương tiền nhiệm và đương nhiệm của bệ hạ đều xuất thân từ nhà họ, con tưởng cuộc hôn nhân này nói hủy là hủy được sao? Con vào được nhà họ Vương là phúc đức tổ tiên đấy, còn không mau chuẩn bị của hồi môn đi!"

Cha cô cũng thở dài, "Tử Hà, cuộc hôn nhân này được tổ phụ con ước định lúc còn làm tể tướng đương triều, giờ tuy nhà ta đã suy vi, song nhà họ Vương cũng chưa từng chê bỏ, có thể thấy họ quả thực ưng con. Con theo Vương Uẩn là tốt đấy, ta đã gặp rồi, nhân phẩm tướng mạo đều thuộc hạng nhất, không thua kém ai đâu."

"Nhưng con thích người khác, không thích Vương Uẩn!"

Hoàng Ngạn đại ca cô từ nãy vẫn cắm cúi ăn, giờ mới ngẩng đầu lên, đổ thêm dầu vào lửa, "Hay lắm, không ưng nhà họ Vương à, đợi muội hại chết cả nhà thì tha hồ hủy hôn."

Hoàng Tử Hà thấy đầu lạnh buốt đi, cô dằn mạnh bát xuống, tay run lên bần bật, không cầm nổi bát đũa nữa, chén canh tức thì chao nghiêng, rơi từ trên bàn xuống đất vỡ tan.

Nước canh bắn hết lên gấu quần Hoàng tổ mẫu, khiến bà bất đắc dĩ phải đứng lên gọi a hoàn lại lau, than rằng, "Con bé này, càng lớn tính tình càng khó chịu."

Hoàng Tử Hà chỉ thấy mắt cay sè, nước mắt sắp tràn ra tới nơi, đành bưng mặt quay lưng chạy thẳng vào phòng òa khóc. Chẳng rõ đã khóc bao lâu, chỉ thấy một đôi tay mềm mại đặt lên vai, rồi giọng dịu dàng của mẹ vang lên bên tai, "Tử Hà, đừng vùng vằng khóc lóc như thế, chuyện này… ta và cha con cũng đang thương lượng. Nếu con cương quyết phản đối thì chúng ta cũng đành chịu, dù đắc tội với nhà họ Vương cũng quyết không để con khổ sở dằn vặt đâu."

Cô rưng rưng nước mắt nhìn mẹ, qua màn lệ chỉ trông thấy nụ cười bất lực của bà. Mẹ cô lại dỗ dành, "Trở ra xin lỗi tổ mẫu và thúc thúc con đi, người một nhà có chuyện gì mà không thương lượng được chứ?"

"Nhưng… con mà quay lại… mất mặt lắm." Cô nghẹn ngào nói.

"Con xuống bếp bưng đĩa thức ăn lên, hôm nay chẳng phải nấu món canh móng dê mà bà thích nhất đó sao, đi đi, trở ra múc cho mỗi người một chén, nhận sai xin lỗi, mọi người sẽ nghĩ cách giúp con mà."

Hoàng Tử Hà gật đầu, lau khô nước mắt đi xuống bếp, đích thân bưng một bát canh móng dê lên bàn ăn, rồi tự tay múc cho mỗi người một chén. Riêng cô, vì vừa khóc lóc, cổ họng khản đặc, canh móng dê lại tanh, cô không thích ăn nên quay sang uống nửa bát chè hạnh nhân.

Tối hôm ấy, cả nhà đều trúng độc mà chết, nguyên nhân là tại tỳ sương bỏ lẫn trong món canh móng dê mà cô đích thân múc cho mỗi người một chén.

Sắc chiều dần buông, đi suốt cả chặng đường, đã đến lúc kinh thành lên đèn.

Lý Thư Bạch lẳng lặng lắng nghe, không nói một lời, đến khi cô kể hết, y mới thong thả hỏi, "Nhưng chỉ dựa vào chuyện đó cũng không thể chứng minh ngươi hạ độc cả nhà. Lẽ nào kẻ khác không có cơ hội chạm vào bát canh móng dê kia ư?"

"Không có." Hoàng Tử Hà đáp khẽ, nhưng rành rọt, "Dê do Tào tham sự sai người đưa đến từ hôm trước, chiều hôm ấy vì tổ mẫu và thúc phụ tôi đến nên nhà bếp mới thịt dê, nấu món dê hầm, canh thịt dê và canh móng dê."

Các món ăn khác không vấn đề gì, thậm chí canh móng dê vì nấu quá nhiều nên sau khi Hoàng Tử Hà bưng đi một bát to, đám người dưới bèn chia nhau chỗ canh thừa lại, đều không gặp sự cố gì. Chỉ riêng bát canh Hoàng Tử Hà tự tay múc, tự tay bưng ra đại sảnh, tự tay chan cho mọi người uống, sau bữa cơm còn sót lại một ít. Mấy bà nấu bếp sau khi bưng xuống cũng lười, cứ thế đặt vào tủ bếp khóa lại, tinh mơ lại phát hiện thảm án nên tủ bếp trước sau vẫn khóa chặt. Đợi sáng ra đầu bếp là Lỗ thẩm đến, dưới sự giám sát của các nha dịch, mở tủ bưng bát canh móng dê tối qua ra, vừa kiểm tra đã thấy, tỳ sương được bỏ vào chính bát canh này.

"Phải chăng có người bôi chất độc vào cái bát?"

"Không thể nào. Bấy giờ tôi còn sợ tay không sạch, nên lấy bát xong còn tiện thể lau qua một lượt mới dùng. Huống hồ, còn một điểm nữa…" Hoàng Tử Hà khó nhọc kể, "Trong phòng tôi, lục soát được một gói tỳ sương đã dùng hết."

"Ngươi mua tỳ sương à?"

"Phải, tôi mua ở Quy Nhân Đường nổi tiếng nhất Thục quận. Quan sai tới đó xem sổ sách, rõ ràng có ký tên tôi, không sai một mảy."

"Ngươi mua tỳ sương làm gì?" Lý Thư Bạch hỏi.

"Tôi…" Cô chần chừ, đoạn đáp, "Mấy hôm trước đó cùng Vũ Tuyên đọc sách, thấy trong cuốn Dậu sinh tạp ký có chép một phương thuốc dân gian, nói rằng ba tiền nhựa cỏ đoạn trường có thể giải độc nửa lạng tỳ sương, tôi không tin, nên đánh cược với Vũ Tuyên. Vì tôi từng giúp nha môn xử lý mấy vụ hạ độc giết người nên phải gánh việc mua tỳ sương, còn cỏ đoạn trường do Vũ Tuyên lên núi hái, chuẩn bị thí nghiệm lên mấy con chó dữ chuyên cắn người ở nhà bên."

"Trước đây các ngươi cũng thường đánh cược thế này ư?"

"Không chỉ một hai lần đâu."

"Ngươi có kể việc này ra không?"

"Tôi kể rồi, Vũ Tuyên cũng làm chứng, nhưng bị quy là viện cớ."

Lý Thư Bạch nhướng mày, "Tên Vũ Tuyên kia, giờ ở đâu?"

Hoàng Tử Hà im lặng hồi lâu mới chậm rãi đáp, "Vũ Tuyên không có cơ hội ra tay đâu. Hôm đó sau khi rời nhà tôi, gã lên trường luận đạo với các bạn, tối mịt mới về nhà, sau đó không ra khỏi cửa, mãi tới khi nhận được hung tin về cha mẹ tôi mới chạy đến."

"Nói vậy thì việc ngươi hành hung giết người đã rõ như ban ngày rồi." Lý Thư Bạch thong thả kết luận.

"Phải, cơ hội duy nhất để hạ độc chính là trên đường tôi bưng chén canh móng dê từ nhà bếp lên phòng ăn. Huống hồ, tôi đã mua tỳ sương, lại có… cái mà họ gọi là động cơ đó."

Lý Thư Bạch gật đầu, "Vậy xem ra, kẻ duy nhất có khả năng giết chết cha mẹ ngươi chính là ngươi rồi, muốn lật lại bản án không dễ đâu."

Cô ngồi đối diện với Lý Thư Bạch, nhìn những hoa văn gấm đoạn tinh tế trong xe, nào thú lành kỳ lân, nào mây vờn năm sắc đều được thêu tỉ mỉ bằng chỉ vàng. Ngồi trên ghế lót tấm đệm gấm vừa mềm vừa dày, trong xe thoang thoảng hương tô hợp giúp người ta tỉnh táo, giữa làn hương ấm áp mà dịu dàng ấy, cô cứ đờ đẫn cả ra, chẳng khác nào vừa trải qua tất cả những việc ấy một lần nữa, người lạnh toát.

Đôi môi cô như đóa hoa trắng muốt đã tàn tạ theo gió, dẫu khoác áo lụa đỏ lên mình cũng chẳng thêm được chút sắc hồng nào. Hoàng Tử Hà nhìn Lý Thư Bạch, cất giọng nghèn nghẹn, "Có phải vương gia cũng nghĩ như bọn họ, cho rằng trên đời có kẻ nỡ giết cả nhà mình chỉ vì lý do ấy chăng?"

Lý Thư Bạch quan sát cô hồi lâu, lại dõi mắt ra phong cảnh bên ngoài, "Ai biết được, lòng người vốn khó đoán nhất mà, đặc biệt là con gái tầm tuổi như ngươi."

Thấy thái độ hờ hững của y, Hoàng Tử Hà run run hỏi, "Nếu vương gia chịu giúp một tay như đã nói, tôi tin rằng mây không thể che trời được mãi, mối oan của cha mẹ tôi nhất định có thể rửa sạch trước thiên hạ."

"Đợi hết hè ta sẽ đến Ba Thục một chuyến, tới lúc đó đem ngươi đi cùng, điều tra lại toàn bộ hồ sơ vụ án cha mẹ ngươi. Ta tin rằng người phá án dễ dàng như ngươi không đến nỗi lâm vào cảnh u mê, không thể tự rửa oan cho mình thế này đâu."

Hoàng Tử Hà cắn môi, thật lâu sau mới hỏi, "Vương gia thực sự tin tôi, chịu giúp tôi ư?"

Ánh mắt y dừng trên mặt cô, khuôn mặt đang có mấy tia nắng nhảy nhót như tơ vàng, làn da tái nhợt cùng đôi mắt trong veo toát lên vẻ thuần khiết rạng ngời, khiến cả ánh mặt trời cũng nhạt mất hào quang, chỉ còn giữ vai trò làm nền cho cô.

Một thiếu nữ thế này, gánh trên vai tội danh và cừu oán đáng sợ nhất trên đời mà vẫn không hề do dự, đặt chân lên con đường gian nan nhất, chôn sâu tất cả những yếu đuối nhu nhược vốn thuộc về nhi nữ, chỉ còn lại sự liều lĩnh bướng bỉnh dấn bước.

Cõi lòng vốn phẳng lặng bấy lâu nay của Lý Thư Bạch bỗng xao động, chẳng khác nào gió xuân thổi qua mặt hồ trong khe núi, lần đầu tiên gợn sóng lăn tăn.

Nhưng cũng chỉ trong một khắc, y lại lần nữa đưa mắt nhìn ra cửa sổ, vì cố hạ giọng nên tiếng nói cũng trầm hẳn, hơi khàn đi, "Phải, ta tin ngươi, cũng sẽ giúp đỡ ngươi. Đổi lại, ngươi phải giao cả cuộc đời về sau này cho ta."

Hoàng Tử Hà ngẩng lên nhìn y, dưới ánh tịch dương, thấy đường nét thanh tú của gương mặt trông nghiêng chẳng khác nào núi non trập trùng, toát ra vẻ vững vàng, tưởng chừng băng sương vạn năm cũng không ăn mòn nổi.

"Từ nay về sau, chỉ cần ở bên cạnh ta, ngươi sẽ không phải lo lắng sợ sệt nữa."

Cảm giác chua xót rả rích nhỏ vào cõi lòng cô. Như ảo ảnh, trước mắt cô lướt qua cảnh tượng mặt hồ đầy sen nở mùa hè năm ấy. Bấy giờ, người ấy nắm tay cô, cũng từng nói như vậy.

Đến giờ sự đời đổi thay, cô trôi dạt lênh đênh, may mà liều lĩnh gắng gỏi mới nắm được một tia hy vọng, có thể đến bên người đang ở trước mặt đây.

Xe ngựa dừng lại, đã đến Quỳ vương phủ. Lý Thư Bạch đẩy cửa xe, tự mình bước xuống. Quay lại thấy cô vẫn đang ngẩn ngơ, y thong thả giơ tay ra, đỡ lấy cô.

Mặt trời chỉ còn một mảnh bàng bạc sau dãy núi phía Tây, tà dương rực rỡ như vàng dát. Tay cô đặt trong tay y, thấy gương mặt y dưới ánh hoàng hôn cùng hai bàn tay ấy đều óng ánh như tỏa sáng.
 

Tam Thất

nhân chi sơ, tính bản thiện
Tham gia
13/4/19
Bài viết
1,705
Điểm cảm xúc
1,399
Điểm
113
Bên tai vẳng đến tiếng chim ngói. Tiết trời tháng Sáu ấm áp dễ chịu, cả làn gió cũng dịu dàng như nước, khác nào tấm sa mỏng manh phớt qua tai làm người ta nhồn nhột, xa xa vẳng lại tiếng hát du dương của cô gái hái sen bên bờ nước.

Cũng vào mùa đất trời giao hòa thế này, Hoàng Tử Hà mười hai tuổi nghe thấy tiếng cha gọi mình. Đang ở bên bờ nước, cô ngoái lại, nắng rọi vào mắt cô biến tầm nhìn thành màu đỏ rực hoặc gần giống màu mã não, bao phủ cả thế giới trước mặt.

Trong ánh sáng đỏ rực dị thường ấy, cô trông thấy thiếu niên đứng cạnh cha mình, quần áo rách rưới, vẻ mặt rầu rĩ, làn da trắng bệch và mái tóc đen nhánh. Gã nhìn cô bằng đôi mắt đen như điểm sơn, chẳng khác nào bóng đêm tăm tối nhất, thăm thẳm u ám, từ độ ấy in sâu vào đáy lòng cô như dao khắc, vĩnh viễn không sao xóa được.

Cô cứ thế đứng chân trần dưới nước, một ôm hoa sen đầy tay chẳng biết tự lúc nào đã rơi cả xuống mặt nước.

Cô thấy ánh mắt thiếu niên kia thấp thoáng nét cười, gã thong thả tiến lại, giúp cô vớt từng cành sen còn phong nhụy dưới nước lên, chắc cũng nhìn thấy những đốm bùn lấm tấm bắn lên chân cô cùng những mảy cỏ dính đầy gấu váy lụa, nhưng gã chỉ mỉm cười, trao bó hoa cho cô. Ánh mắt gã nhìn cô không phải ánh nhìn thông thường dành cho một cô bé, mà là vẻ dịu dàng của thiếu niên đối với thiếu nữ.

Có lúc, một cô bé lớn lên, chỉ nhờ vào một ánh mắt của đối phương mà thôi.

“Vũ Tuyên…” Đang nằm trên giường, Hoàng Tử Hà bật dậy, vươn tay toan nắm lấy những hình ảnh còn sót lại trước mắt, song lại phát hiện tất cả chỉ là giấc mộng.

Đêm đen thăm thẳm, gió rít lên ngoài song cửa, hơi lạnh mùa xuân se sắt thấm vào xương tủy. Giữa đêm khuya, Hoàng Tử Hà ôm chăn gấm, lặng lẽ nhìn giấc mộng xưa trôi dần qua kẽ tay tan đi mất.

Cô gắng nín thở, từ từ nằm xuống, vùi mình trong chăn gấm gối tơ. Sau khi phá được vụ án Bốn phương, cô đã nổi danh khắp kinh thành, bởi vậy Quỳ vương phủ cũng đối đãi với tiểu hoạn quan này rất hậu. Đồ dùng hằng ngày đều là hàng thượng phẩm, thậm chí còn cao cấp hơn thời cô là thiên kim nhà sứ quân.

Vậy mà, ở giữa chăn ấm nệm êm cô còn thấy khó ngủ hơn cả khi dầm mưa dãi nắng bôn ba lặn lội rừng hoang núi thẳm. Cô cứ thế chong mắt nằm trong bóng tối nghe tiếng gió rít gào ngoài cửa sổ hồi lâu, cuối cùng đành tung chăn bò dậy mặc quần áo rồi mở cửa bước ra ngoài.

Bóng cây bốn bề trùng điệp, cô đi theo trí nhớ, băng qua trùng trùng sân vườn trong Quỳ vương phủ. Các thị vệ tuần tra dọc đường thấy cô cũng làm lơ, chắc hẳn dưới đều biết gần đây cô là người tâm phúc của vương gia nên có thể tùy tiện đi lại, không ai quản thúc.

Cô đi thẳng đến hiên Tịnh Dữu, chỉ thấy ánh trăng tràn trề trên lá cây ngọn cỏ, bốn bề tĩnh lặng. Giờ chưa đến canh tư, đương nhiên Lý Thư Bạch còn đang ngủ.

Bấy giờ cô mới sực nghĩ ra, dù mình mơ ngủ rồi sốt ruột đến đâu thì Quỳ vương Lý Thư Bạch sao có thể vì cô mà nửa đêm trở dậy, hỏi han tâm trạng cô được.

Cô đành tìm một tảng đá dưới khóm hoa ngoài sân ngồi xuống, gục mặt vào giữa hai đầu gối, định bụng lẳng lặng ngồi chờ một lát rồi quay về đợi y triệu gọi.

Chẳng biết ngồi đó đã bao lâu, trăng nhạt dần, cuối trời cũng thấp thoáng ánh xanh lam. Sang xuân sương vẫn còn dày, ướt đẫm cả vạt áo, cô đờ đẫn nhìn mầm cỏ mới nhú lên mặt đất, đương lúc thẫn thờ, chợt thấy một đôi ủng da đen giẫm ngay lên mầm cỏ.

Nhìn dọc theo đôi ủng, cô thấy y vận một chiếc áo tím thêu hoa văn quỳ long xanh đậm, cắt may rất khéo càng làm nổi bật thân thể cao lớn. Bên hông đeo một miếng ngọc bội tím có hình lầu gác thần tiên, được buộc bằng dây tơ xanh thắt chín nút vòng mười tám chỗ, cổ áo tay áo may theo lối tay hẹp cổ vuông đơn giản, chính là kiểu áo mà người trong kinh đang đua nhau phỏng theo.

Quỳ vương Lý Thư Bạch hào hoa phong nhã, mỗi bộ đồ y mặc chẳng bao lâu sau đều sẽ trở nên thịnh hành.

Kẻ này, nếu chỉ xét riêng ngoại hình, thực giống hạng con cháu hoàng gia áo gấm cơm vàng, mải mê chơi bời hát xướng chọi chó đua ngựa. Tì cằm lên đầu gối, Hoàng Tử Hà nghĩ thầm trong lúc nhìn y.

Lý Thư Bạch sừng sững ngó xuống cô, thấy cô nhìn mình chẳng nói chẳng rằng, bèn quay sang nhìn ngọn đèn lồng treo trên cây, hỏi, “Sáng sớm ngày ra, gió rét thế này, một tiểu hoạn quan như ngươi chạy đến đây ngắm hoa là sao?”

Hoàng Tử Hà lí nhí đáp, “Đêm qua tôi nằm mơ, tôi… Tôi muốn hỏi, vương gia định ủy thác cho tôi việc gì, liệu tôi có thể hoàn thành thật nhanh để mau chóng về Thục không?”

Dưới ánh đèn lồng, Lý Thư Bạch liếc Hoàng Tử Hà, không nói không rằng, đi ngang qua cô, bước lên hành lang quanh co bên cạnh.

Hoàng Tử Hà đứng dậy đi theo, chỉ thấy y ngồi bệt xuống, như thể xung quanh không người. Cô đành đứng bên đợi y lên tiếng.

Những ngọn đèn lồng treo dọc hành lang cứ lung lay chập chờn. Gió đêm phe phẩy, đèn lụa họa hình Bồng Lai tiên cảnh xoay vần trong gió, gương mặt Lý Thư Bạch cũng lúc sáng lúc tối, khó mà trông rõ.

Lý Thư Bạch chẳng vội hỏi tới cô, chỉ ngẩng đầu ngắm ngọn đèn treo dưới mái ngói cong vút. Hoàng Tử Hà thấp thỏm đứng chờ y mãi, cuối cùng cũng thấy không ổn, bèn quay sang nhìn ngọn đèn kia. Đó là một chiếc đèn bát giác bình thường, khung gỗ sơn đỏ được ghép rất khéo thành hoa văn chớp sáng mây lành, trên mặt lồng đèn bằng sa trắng họa núi tiên biển mây, ở giữa có chín tầng lầu gác, thần tiên qua lại dập dìu.

Cô không thấy chiếc đèn này có gì khác lạ, song ngoảnh đầu lại phát hiện Lý Thư Bạch đang nhìn mình chằm chằm, dưới ngọn đèn leo lét, ánh mắt âm u như sao xa cuối trời.

Hoàng Tử Hà vội đưa tay sờ mặt mình, còn chưa kịp hỏi đã nghe Lý Thư Bạch thong thả lên tiếng, “Thật khéo quá, mới rồi ta cũng nằm mơ, mơ thấy ta đứng trên thành lâu ở Từ Châu, nhìn xuống ngàn vạn nếp nhà trong mưa bên dưới. Sau khi tỉnh lại không tài nào ngủ tiếp được nữa.”

Hoàng Tử Hà nghiêng người ngồi xuống lan can sát mép nước, lẳng lặng nhìn y. Cô thấy ánh mắt y sáng như trăng sao, cũng lăn tăn như sóng gợn.

“Bao năm nay, ta có một việc vô cùng quái dị, lại rất khó giải thích. Ta là người trong cuộc, bấy lâu vẫn rầu rĩ không hiểu nổi, bởi vậy luôn muốn tìm một người có thể giúp ta phá giải câu đố này.” Lại nhìn lên non tiên mờ ảo trên đèn, y chậm rãi hỏi, “Ngươi có biết tại sao ta lại nói sẽ cho ngươi thời gian mười ngày không?”

Hoàng Tử Hà lắc đầu, nhìn y dưới ánh sáng chập chờn, vẻ dò hỏi.

“Vì sau mười ngày là đến hôm ta tuyển phi, ngày đó, việc đó, đều khiến ta rất bực bội.” Y thở dài, tựa lưng vào lan can, ánh đèn lập lòe chớp tắt rọi lên người y, trông càng mờ ảo mông lung vào một đêm xuân như thế này.

“Năm xưa, ta từng nhặt được một lá bùa ở Từ Châu. Nội dung trên bùa làm ta vẫn canh cánh trong lòng,”

Nghe nhắc tới Từ Châu, sực nhớ đến một sự việc kinh động thiên hạ năm xưa, Hoàng Tử Hà không khỏi biến sắc mặt. Lý Thư Bạch cũng thừa nhận, “Không sai, Từ Châu là bước ngoặt trong vận mệnh của ta, ai nấy đều nói đó là đất lành của ta. Nhưng không một ai biết, sau khi bình định Từ Châu, đêm cuối trước ngày về kinh, lúc ta đứng trên thành lâu nhìn xuống toàn thành, đã xảy ra một việc mà đến tận bây giờ ta vẫn nhớ như in.”

Nói đến đây, rốt cuộc y cũng ngoái lại nhìn cô, rồi rút trong tay áo ra một tờ giấy.

Chất giấy dày dặn song đã ngả vàng, rộng chừng hai tấc, dài tám tấc, hoa văn trên mặt giấy đỏ thắm, hình dạng như sâu như rắn, nhìn rất quái đản, bên trên viết ba chữ “côi”, “tàn”, “góa”(*) đậm nét. Trong đó, quanh chữ “góa” và chữ “côi” lại có hai vòng tròn đỏ lòm màu máu, chẳng khác nào vận mệnh bị khoanh bằng máu tươi, nhìn vô cùng rùng rợn.

(*) Mồ côi, tàn tật, góa vợ.

Ngón tay Lý Thư Bạch phác qua những hoa văn tinh tế đỏ rực nửa sâu nửa rắn, “Kiểu hoa văn này là trùng xà triện, ghi lại bát tự của ta.”

Hoàng Tử Hà nhìn ba chữ quái gở cùng hai vòng tròn đỏ như máu in trên bát tự của y, lòng gờn gợn một dự cảm không lành.

Lý Thư Bạch đặt lá bùa lên lan can, ấn nhẹ tay bên trên, “Lá bùa này xuất hiện đúng vào đêm ta đứng trên thành lâu Từ Châu, nhìn xuống bên dưới. Dường như nó lẳng lặng hiện ra ngay trên ụ tránh tên cạnh ta, khi ta cầm lấy lần đầu thì bên trên mới chỉ có ba chữ, chưa thấy hai khoanh tròn, song quanh chữ 'côi' có một vòng đỏ lờ mờ.” Đoạn y trỏ vào chữ “côi” như đang ve vuốt quá khứ của chính mình, “Mất cha từ nhỏ gọi là côi, bấy giờ phụ hoàng đã qua đời, song mẫu phi còn tại thế nên ta cũng không để tâm, chỉ cho rằng đây là thứ bùa chú tầm thường của kẻ thù, bèn giữ lại, chuẩn bị rà soát xem trong số những người thân cận, kẻ nào dám đặt thứ này cạnh ta. Ngờ đâu…”

Ánh mắt y lại quay sang ngọn đèn bên cạnh, giữa đêm khuya tĩnh mịch, ánh đèn cứ lay lắt chực tắt, khiến Hoàng Tử Hà cảm giác trong một chớp mắt đó, bốn bề xung quanh cô đều mờ mịt hẳn đi.

“Đêm đó, ta gặp ác mộng triền miên. Trong mộng, ba chữ kia cứ sờ sờ đập vào mắt hết lần này sang lần khác. Tỉnh dậy ta định đốt quách lá bùa đó cho rồi, song khi rút ra xem lại phát hiện vòng đỏ lờ mờ quanh chữ 'côi' bấy giờ đã đậm hẳn lên, giống hệt lúc này.” Ngón tay y đặt trên chữ “côi”. Trong ánh trăng, khoanh đỏ chẳng khác nào một đóa hồng kì dị nở bung dưới tay y, lại hệt như vết máu tươi loang rộng khiến người ta nhìn mà kinh hồn táng đởm. “Cũng đêm ấy, cùng lúc ấy, trong kinh thành gửi ra một văn kiện khẩn cấp, ta mở xem mới biết đó là tin báo tử mẫu phi.”

Vào ngày khoanh đỏ khoanh đúng chữ “côi”, y đã thực sự trở thành kẻ không cha không mẹ.

Hoàng Tử Hà thấy y thu bàn tay đặt trên lá bùa lại, rồi bất giác nắm chặt thành quyền, đôi tay tuyệt đẹp của y vì siết quá mạnh mà đốt ngón tay cũng trắng bệch cả ra. Cô buột miệng, “Có lẽ chỉ là trùng hợp thôi, gia đừng nghĩ ngợi quá nhiều.”

“Sau khi nhận được tin mẫu phi qua đời, trên đường từ Từ Châu về kinh, ta bị hành thích. Tay trái ta bị thương, vết thương không sâu nhưng hung khí lại tẩm độc, các thái y trong quân doanh đều nói cánh tay ta không giữ nổi, nếu còn muốn sống buộc phải chặt cụt tay.” Y đưa tay phải vuốt nhẹ lên cánh tay trái, tựa hồ cơn đau khi ấy còn chưa tan hết, “Bấy giờ, ta rút lá bùa bên mình ra, trông thấy trên đó lại lờ mờ xuất hiện một vòng tròn nữa, khuyên quanh chữ 'tàn'.”

Giữa đêm đen tĩnh mịch chợt nổi gió to, ngọn đèn bỗng nhiên xoay tít, ánh đèn mờ mịt soi xuống thân hình hai người, mép lá bùa có hai khoanh đỏ kia cũng bay lật phật trong gió, như thể vận mệnh đang lay động.

Lý Thư Bạch nhìn cô, vẻ mặt bình thản đến gần như cứng đờ, “Ngươi, có biết bấy giờ ta đã làm gì không?”

Hoàng Tử Hà nhặt lấy lá bùa, ánh mắt không rời Lý Thư Bạch, “Tôi đoán, vương gia nhất định đã cho bắt đám thái y lại, tra rõ thủ phạm.”

Gương mặt nãy giờ vẫn đanh lại của Lý Thư Bạch từ từ dãn ra, khóe môi y còn khẽ nhếch cao nữa. Vẻ lạnh nhạt vốn có được nụ cười tôn lên, chợt toát ra nét dịu dàng thanh tịnh như gió xuân mơn man quanh người. Dù nụ cười ấy vô cùng lợt lạt, song cũng không giấu nổi những gì vừa bộc lộ từ tận đáy lòng y. Lý Thư Bạch tán thưởng, “Hoàng Tử Hà, ngươi thực giống ta, đều là kẻ không tin vận mệnh.”

“Tôi ở Thục quận ba năm, đã kinh qua hai mươi sáu vụ án mạng, trong đó tám vụ nghe đồn có dính líu tới quỷ thần. Song cuối cùng khi chân tướng bị vạch trần, chẳng qua đều là những kẻ lòng dạ đen tối giả thần giả quỷ. Ví như vụ án Bốn phương mấy ngày trước, chẳng phải cũng mượn danh quỷ thần đó ư!” Hoàng Tử Hà đặt tay lên lá bùa, “Cũng như lá bùa này vậy, những điều vương gia vừa kể đã đủ vạch rõ ý đồ của kẻ đứng đằng sau rồi.”

Lý Thư Bạch nhìn cô, vui vẻ bảo, “Ngươi nói thử xem?”

Hoàng Tử Hà đưa tay vén tóc mai, vừa chạm vào cây trâm gỗ cắm trên đầu, bàn tay cô chợt khựng lại, rõ ràng lại nhớ đến bộ dáng đầu tóc rũ rượi lần trước. Cô bèn buông tay xuống, dùng ngón tay vạch một chữ nhất lên lan can rồi nói, “Thứ nhất, chỉ có người thân cận bên cạnh vương gia mới dàn xếp được sự xuất hiện của lá bùa kia, bởi thế, nhất định là kẻ có lòng dạ bất chính ấy đã lén lút đặt nó tại nơi gia chuẩn bị đến – thành lâu Từ Châu.”

Nói đoạn, ngón tay cô lại vạch hai nét ngang trên lan can, “Thứ hai, khuyên đỏ trên lá bùa đều xuất hiện hoặc đột ngột thay đổi lúc ở bên cạnh gia, bởi thế kẻ này không chỉ theo gia lên thành lâu mà còn ở kề bên, bất cứ lúc nào cũng có thể tiếp xúc với mọi thứ của gia, có lẽ là kẻ thân cận nhất bên cạnh, ví dụ thị tòng. Thứ ba, bệnh mà thái y chẩn đoán lại ngấm ngầm trùng khớp với lá bùa này, chứng tỏ bên cạnh gia không chỉ có một mà phải tiềm phục ít nhất hai kẻ có ý xấu, một kẻ là thái y, kẻ kia là thuộc hạ của gia." Dứt lời, cô thu tay lại, thổi thổi ngón tay mình, đoạn tổng kết, “Lần theo manh mối thái y, hẳn có thể moi ra tên thuộc hạ trốn trong bóng tối kia.”

Lý Thư Bạch không nhận xét gì, mà tiếp tục kể, “Tên thái y đã tự vẫn trước khi bị tra hỏi, sau đó ta cũng lần lượt phái các thị vệ bồi dưỡng nhiều năm đi xa, không định triệu họ về nữa.”

Hoàng Tử Hà đưa mắt nhìn lá bùa, “Nhưng trên đó…” Khoanh tròn quanh chữ “tàn” đã phai đi, chỉ còn lờ mờ dấu tích.

“Sau hơn nửa năm chữa trị, cánh tay ta cũng giữ được, nên khuyên tròn quanh chữ ‘tàn’ mờ dần. Song hiện giờ tay trái ta coi như hỏng. Chỉ thực hiện được vài việc thông thường, viết lách vẽ vời còn tạm, nhưng không thể cầm kiếm giương cung nữa.” Y giơ tay trái ra, co duỗi ngón tay trước mặt cô, “Thực ra trước đây ta thuận tay trái.”

Một người thuận tay trái, sau khi tay thuận trục trặc đã tức tốc rèn luyện để thuận tay phải, những gian khổ khó khăn trong quá trình đó, hẳn người thường khó mà hình dung nổi.

Nhớ tới thân thủ nhanh nhẹn của y lúc lôi mình từ ngăn tủ ra, Hoàng Tử Hà không khỏi bội phục. Ít nhất, cô cũng thấy mình rất khó có ý chí làm lại từ đầu đến mức tập tay không thuận thành tay thuận như thế.

“Ta cứ ngỡ giải tán đám người vẫn theo hầu bên cạnh thì chuyện này cũng trôi vào dĩ vãng, bởi vậy đã cất lá bùa vào một chỗ bí mật. Vì ta vẫn hy vọng dùng nó để bắt tên nội gián bên mình. Song mấy ngày trước, nghe nói bệ hạ định tuyển phi cho mình, ta nhớ đến lá bùa bèn lấy ra xem, kết quả phát hiện trên đó lại xuất hiện một khuyên tròn, lần này là quanh chữ ‘góa’.” Y cầm lá bùa lên, gí ngón tay vào chữ “góa” bị khoanh đỏ, cười giễu cợt, “Đàn ông mất vợ gọi là góa vợ, xem ra việc thành thân của ta cũng sẽ gặp phải biến cố không thể tưởng tượng được rồi.”

Hoàng Tử Hà cầm lấy lá bùa từ tay y, quan sát thật kỹ. Sắc đỏ này tươi mới hơn khuyên đỏ quanh chữ “côi”, cả lá bùa đỏ lòe như máu, càng toát lên vẻ quỷ quái kinh người.

“Thật không thể tưởng tượng nổi, chẳng khác nào thần quỷ trêu người, vận mệnh định sẵn. Cứ cách ba bốn năm, lá bùa này lại loang màu máu mới.” Lý Thư Bạch chậm rãi nói, “Ta đã thay tùy tùng hầu cận mấy lần, hơn nữa khi cất nó đi, ta còn cẩn thận hơn cả lúc xử lý quân vụ trọng yếu, nào ngờ lá bùa đáng lẽ không thể sơ sẩy mảy may, cuối cùng vẫn hiện ra điểm chẳng lành.”

Hoàng Tử Hà đặt lá bùa xuống, “Xem ra lá bùa này phức tạp hơn chúng ta tưởng nhiều.”

“Ừm.” Lý Thư Bạch ậm ừ, ngập ngừng một lát mới tiếp, “Tóm lại lần này nhất định sẽ có người gây khó khăn cho hôn sự của ta. Hơn nữa, vương phi được chọn cho ta, tức con gái nhà họ Vương ở Lang Gia, cũng có lai lịch không đơn giản. Nếu cuộc hôn nhân của ta bị kẻ khác lợi dụng hoặc có kẻ muốn thừa cơ làm mưa làm gió, chẳng hạn…”

Ánh mắt y dừng lại ở cô, hồi lâu mới nói, “Ta vừa nhớ ra, Vương Uẩn cháu đích tôn chi trưởng họ Vương Lang Gia từng là vị hôn phu của ngươi. Ngươi thà hạ độc chết cả nhà chứ không chịu gả cho y, rõ ràng là sự sỉ nhục lớn nhất đời y từ xưa đến nay. Mối nhục như vậy, y nuốt trôi chứ ta nuốt không trôi được.”

“Tôi không giết người nhà.” Hoàng Tử Hà cắn chặt môi, nói rành rọt từng tiếng, “Nếu vương gia muốn tôi giúp đỡ thì đừng nhắc lại việc này trước mặt tôi nữa.”

Lý Thư Bạch liếc cô, “Ta chỉ thuật lại cái nhìn của người khác, chứ đâu phải của ta.”
SPONSORED / ĐƯỢC TÀI TRỢ
Cô khẽ cắn môi, hỏi nhỏ, “Vương gia bắt đầu tin tôi không giết hại người nhà từ bao giờ?”

Y nhìn cô, cười nửa miệng, đứng dậy băng qua cây cầu nhỏ quanh co bắc ngang dòng nước, tựa hồ không muốn nói thêm với cô nữa.

Hai người men theo con đường nhỏ tranh tối tranh sáng tiến sâu vào phía trong lầu gác sáng rực đèn đuốc. Cô đi đằng sau, nghe thấy y chậm rãi nói, “Ta xem tay ngươi, nhận ra ngươi chưa hề giết người.”

Cô thoáng sững người, nhưng ngay lập tức nhận ra chỗ sơ hở trong lời y, “Lần trước xem tay cho tôi, rõ ràng vương gia nói nhìn chỉ tay đủ thấy tôi đã hạ độc giết cả nhà, bởi vậy mới đoán ra thân phận của tôi còn gì!”

“Gạt ngươi thôi.”

“Vậy bấy giờ làm sao vương gia nhận ra thân phận của tôi?”

“Điều này ngươi không cần quan tâm.” Chỉ một câu, y đã chặn đứng chủ đề lại. “Ngươi cứ giúp ta vạch trần bí mật đằng sau lá bùa, thế là hoàn thành nhiệm vụ rồi.”

“Sao vương gia không xem ngay chỉ tay cho đám người xung quanh, chẳng phải sẽ tra rõ tất cả ư?” Cô vẫn bướng bỉnh hỏi.

“Không có hứng.” Y chẳng buồn ngoảnh đầu, “Ta thích xem kẻ khác giả làm tiểu hoạn quan hơn là xem chỉ tay cho đầy tớ.”

Thế là tiểu hoạn quan thê thảm của Quỳ vương phủ, Hoàng Tử Hà – à không, là Dương Sùng Cổ - phải theo vương gia vào cung, đến gác Bồng Lai ở cung Đại Minh, tham dự quá trình tuyển chọn Quỳ vương phi.

Trời tháng ba còn chưa có nắng, đào mận nở khắp vườn ngự uyển cũng không sao xua tan được cái lạnh bao trùm cả hoàng cung.

“Lạ thật, rõ ràng cung Đại Minh xây ở chỗ cao, hướng về phía mặt trời, sao còn lạnh hơn cả trong thành kia chứ?”

Nghe thấy Hoàng Tử Hà lẩm bẩm, Lý Thư Bạch lườm cô rồi giải thích, “Vì đây là nội cung, nơi cao quý nhất dưới gầm trời, cũng là nơi nhiều âm mưu nhất trong triều chứ sao.”

Hoàng Tử Hà nhìn xuống gợn sóng bên dưới, nín lặng. Có những lời người này nói được, người kia lại không.

Lúc này họ đang đứng trên đài cao ở gác Bồng Lai, nhìn xuống hồ Thái Dịch. Hoa cỏ hai bên bờ hồ dập dờn lay động theo cơn gió phần phật, chẳng khác nào biển hoa mênh mông, những đợt sóng đủ màu đỏ trắng vây lấy hồ Thái Dịch xanh biếc.

“Thiên kim các nhà mười phần đã đông đủ tám chín, chi bằng vương gia vào điện xem họ đang nói chuyện gì.” Hoàng Tử Hà đề nghị.

Lý Thư Bạch nhếch mép, quay sang nhìn cô, “Vội gì chứ?”

Hoàng Tử Hà đành nén nỗi tò mò muốn ngắm nhìn các mỹ nữ kinh thành, kiên nhẫn đợi đến lúc y ra lệnh. Nào ngờ lại nghe ý hỏi, “Tín vật vẫn còn đấy chứ?”

“Vâng.” Cô mở hộp gấm đang ôm trong lòng ra nhìn. Người trong cung đều đồn đoán, chẳng biết tín vật Quỳ vương gia tặng cho vương phi tương lai sẽ là vàng ngọc quý giá hay bảo bối hiếm có nào, ai mà ngờ được vật cô ôm trong lòng đây lại là một đóa mẫu đơn khởi lưu ly đương nở rộ.

Hoàng Tử Hà chăm chú nhìn bông hoa đỏ thắm diễm lệ, nói, “Sáng sớm nay, theo lời vương gia dặn dò, tôi đã hái đúng lúc nó vừa bừng nở. Nào ngờ lão Lưu làm vườn không biết nội tình, giậm chân mắng tôi sa sả, kể lể rằng phải đào đường ngầm, dùng than củi đun liu riu suốt hơn hai tháng trời mới thúc nở được một bông này, hái đi rồi thì năm nay giống mẫu đơn khởi lưu ly hiếm có khó tìm coi như không còn ra hoa mà ngắm nữa.”

Khóe miệng Lý Thư Bạch rốt cuộc cũng nở hẳn thành một nụ cười, “Coi như lão có công.”

“Dùng hoa mẫu đơn làm tín vật, vương gia quả là phong nhã.” Hoàng Tử Hà đậy nắp hộp lại, bưng trong tay. Thấy nét vui vẻ hiếm có trên mặt Lý Thư Bạch, cô không khỏi nghĩ thầm, hoa đẹp không dễ nở mà chớp mắt đã héo tàn, người thông minh như Quỳ vương đời nào không nghĩ đến điểm này? Hẳn là bởi những tín vật khác đều có thể giữ gìn lâu dài, về sau nếu muốn nuốt lời, thì đòi lại tín vật đâm ra khó coi.

Cô ôm chiếc hộp đựng mẫu đơn trong lòng, nghĩ tới lá bùa mấy hôm trước trông thấy, bất giác sinh lòng thương cảm cô gái sắp được tuyển làm vương phi.

Chẳng bao lâu sau, nữ quan hầu cận của hoàng hậu tới báo, mọi người đã đến đông đủ, xin vương gia tự nhiên.

Lý Thư Bạch liền ra hiệu cho Hoàng Tử Hà theo mình vào nội điện.

Theo thông lệ bản triều, các ứng viên cho vị trí vương phi đều có thân phận cao quý, là con gái của đại thần trong triều hoặc xuất thân danh gia vọng tộc, bởi thế đương nhiên không để người ta quan sát săm soi từng cô rồi tuyển chọn. Quá trình tuyển phi, tuy mọi người đều ngầm hiểu cả nhưng không ai nói ra miệng, chỉ cho bày tiệc mời các nàng ở đại sảnh, vương gia lùi ra sau, âm thầm quan sát qua bình phong, ưng ai thì bảo một tiếng, tiểu thư đó sẽ được vời vào, nhận tín vật do vương gia đích thân trao tặng, hỏi rõ tên tuổi và thân phận, ngoài ra không nói thêm gì khác, mọi sự cứ như vậy mà quyết định.

Hoàng Tử Hà theo Lý Thư Bạch bước vào trong. Chỉ thấy giữa điện buông một bức mành dày, cánh cửa ngăn đại sảnh với nội điện đóng chặt, mặt cửa trổ hoa văn cát tường rồi dán một lớp sa mỏng như cánh ve màu ngân hồng lên. Tuy cách một cánh cửa, y vẫn có thể thấy rõ mồn một mọi người ở phía ngoài, còn người ta chỉ thấy được thấp thoáng bóng y mà thôi.

Cảm giác được vương gia đang quan sát nên các thiên kim ứng xử đều có phần gượng gạo mất tự nhiên, duy một thiếu nữ ngồi bên phải hoàng hậu vẫn ung dung tự tại, không hề lộ vẻ câu nệ.

Ánh mắt Hoàng Tử Hà hướng về phía Vương hoàng hậu. Hoàng hậu vận chiếc áo đỏ rực trang trí hoa văn mây ráng, dung mạo cực kỳ xinh đẹp, đôi mắt phượng tinh nhanh mà trong veo, hơi xếch, mỗi lúc đưa mắt nhìn lại như có ánh sáng nội tại tỏa ra, quả là nhan sắc rực rỡ. Người là hoàng hậu thứ hai của nhà họ Vương ở Lang Gia, sau khi tỷ tỷ trong họ qua đời được bệ hạ triệu vào cung lập làm hoàng hậu. Tuổi chừng hơn ba mươi, nhưng trông chỉ như ngoài hai mươi.

Các thiếu nữ trong điện ai nấy đều trang điểm lộng lẫy, gấm lụa lượt là, quây quần quanh bàn tiệc như những đóa hoa, song không một ai át nổi hào quang của hoàng hậu. Hoàng Tử Hà thầm tán thưởng, bụng bảo dạ, ba năm trước khi vào cung bái kiến hoàng hậu, cô còn là một tiểu cô nương chưa nhận thức được thế nào là nghiêng nước nghiêng thành, hiện giờ đã lớn hơn, cuối cùng cũng hiểu, thì ra sức quyến rũ của mỹ nhân có thể đạt đến bậc này.

Thiếu nữ bên cạnh Vương hoàng hậu hẳn là Vương Nhược, thiên kim nhà họ Vương ở Lang Gia. Hai người là tỷ muội trong họ mà trông khác hẳn nhau. Người sao tên vậy, Vương hoàng hậu nhũ danh Thược, khoác áo gấm đỏ, giống hệt đóa thược dược cao quý. Vương Nhược vận đồ hồng cánh sen như đào mận ngát hương, kiều diễm yểu điệu, tuy nhan sắc và khí chất đều không thể bì với hoàng hậu, song lại trẻ trung yêu kiều, khả ái hồn nhiên mà lãng mạn mê người.

Các thiếu nữ khác tuy không tệ, song so ra không thể bằng được hai tỷ muội họ. Giữa đám người, Hoàng Tử Hà chú ý đến một cô nương vận y phục lấm tấm hồng, gò má hơi cao, cặp mắt hạnh tuyệt đẹp, có điều cằm cứ hếch lên, vừa tỏ rõ khí chất xuất chúng vừa toát ra vẻ ngạo nghễ bẩm sinh. Hoàng Tử Hà nghĩ thầm, đây chắc là Kỳ Lạc quận chúa trăm phương nghìn kế muốn được gả cho Quỳ vương mà dân kinh thành vẫn đồn đại đây. Người cai quản việc trong cung hiện giờ là Triệu thái phi, nghe nói Kỳ Lạc quận chúa từng hối lộ cung nữ để mình được tới chép kinh giúp Triệu thái phi, hòng nài nỉ bà gả mình cho Quỳ vương gia, tiếc rằng ý định không thành.

Hoàng Tử Hà đang nghĩ vẩn vơ, chợt thấy Lý Thư Bạch vẫy tay ra hiệu cho một nữ quan lớn tuổi lại gần, trỏ Vương Nhược, “Là cô ấy.”

Hoàng Tử Hà không khỏi kinh ngạc, thế này chẳng phải quá nhanh ư, tuyển vương phi là việc lớn cả đời, sao y chỉ liếc mắt đã quyết định ngay vậy? Nhưng cô chỉ có thể nói, “Vương gia không cân nhắc thêm sao?”

Lý Thư Bạch bình thản đáp, “Chẳng qua chọn lấy một người giữa đám đông xa lạ để chung sống suốt đời thôi, cần gì cân nhắc?”

“Nhưng người con gái có thể được vương gia lựa chọn nhất định phải có điểm đặc biệt chứ.”

Y quay mặt sang nhìn cô, khóe môi hơi nhếch lên, tựa như đang cười, song ánh mắt không mảy may vui vẻ, chỉ lạnh nhạt nói, “Không sai, trong tất cả những kẻ dự tuyển, cô ta đẹp nhất.”

Hoàng Tử Hà sững người trước lý do không hề che đậy này, hồi lâu mới tiếp, “Có lẽ… vương gia nên thận trọng hơn?”

“Ngươi sai rồi, đây chính là lựa chọn thận trọng nhất đấy. Dù sao những thứ như gia thế và phẩm cách đức hạnh đều có người chọn hộ ta rồi, vậy thì ta chỉ cần chọn lấy người vừa mắt nhất là được, ngươi thấy sao?”

Đến nước này cô đành nói, “Chúc mừng vương gia tìm được duyên lành.”

Y chìa tay ra trước mặt cô, không nói nửa lời.

Trong thoáng chốc, Hoàng Tử Hà còn không hiểu y muốn gì, quay lại trông thấy Vương Nhược đã được các nữ quan dẫn đi vào trong, mới sực tỉnh.

Từ đại sảnh vọng vào những tiếng xôn xao, thì ra Kỳ Lạc quận chúa thấy Vương Nhược đứng dậy theo cung nữ vào nội điện, hiểu được sự lựa chọn của Quỳ vương, tức thì tay run bắn lên, làm đổ cả bát canh nóng vào người thiên kim của Lưu thái phó ngồi cạnh.

Kỳ Lạc quận chúa vội cầm khăn tay của mình lau cho Lưu cô nương, miệng rối rít, “Ôi chao, ta sơ ý…” Chưa dứt câu, khóe mắt đã đỏ lên không sao nói tiếp nổi, biết nước mắt sắp trào ra, cô liền cắn chặt môi quay đi, giật lấy chậu ngọc trong tay cung nữ đứng sau, vờ súc miệng, nuốt hết nước mắt vào trong.

Hoàng Tử Hà cũng chẳng rảnh mà quan sát cô ta nữa, vội vã mở hộp gấm trên tay, lấy cành mẫu đơn khởi lưu ly dâng lên Lý Thư Bạch.

Vương Nhược cúi mặt, hai má ửng hồng bước đến.

Nhìn gần mới thấy nàng chỉ khoảng mười sáu mười bảy tuổi, xiêm y thêu đầy hoa hải đường, tấm lụa khoác vai vàng nhạt rợp hoa văn hình mây, đầu cài sáu hàng trâm vàng, bước chân ung dung yểu điệu, chuỗi ngọc trên người lấp lánh. Nhưng bấy nhiêu phục sức diễm lệ hoa mỹ lại càng làm nổi bật vẻ non nớt khờ khạo không hiểu việc đời của nàng.

Vương Nhược từng bước tiến lại, thẹn thùng cúi đầu, không dám nhìn ai.

Lý Thư Bạch đợi nàng tới trước mặt mới chìa đóa mẫu đơn ra, giọng điệu cuối cùng cũng nhuốm đôi phần êm ái, “Vương Nhược?”

Thiếu nữ chợt run bắn mình như bị sét đánh trúng, Hoàng Tử Hà thấy nàng nắm chặt tay lại rồi ngẩng đầu lên nhìn Lý Thư Bạch đầy vẻ kích động và sửng sốt. Đôi mắt mờ đi vì một làn hơi nước, dáng vẻ ngơ ngẩn, thân hình run run, tay túm chặt lấy tay áo, song không thốt nổi lời nào.

Hoàng Tử Hà liếc Lý Thư Bạch. Gác Bồng Lai xây trên đài cao, y đứng bên song cửa sổ nội điện, nắng bên ngoài rọi vào lồng bóng y sáng rỡ, chẳng khác nào thần thánh trên trời do lưu ly châu ngọc đắp nên. Đóa mẫu đơn nở bung, đỏ thắm trên tay, song không sao át nổi hào quang của y, trái lại càng làm tôn lên phong thái tao nhã và vẻ tuấn tú hào hoa.

Hoàng Tử Hà thầm nghĩ, dù không khiến người ta vừa gặp đã yêu, nhưng trông y cũng làm gì đến nỗi dọa ai sợ phát khiếp đâu.

Lý Thư Bạch đương nhiên cũng nhận thấy phản ứng kỳ dị của Vương Nhược, y hơi cau mày.

Bấy giờ Vương Nhược mới ý thức được trạng thái khác thường của mình, vội giơ hai tay lên bịt chặt miệng, hoảng loạn lắp bắp, “Quỳ vương gia… đúng… đúng là vương gia thật.”

Lý Thư Bạch nhướng mày nín lặng.

“Thiếp… Thiếp không ngờ mình lại may mắn đến thế, nên, nên hôm nay mới thất lễ như vậy, mong vương gia bỏ quá cho…” Nàng ấp úng nói, thái độ cử chỉ đều cuống cả lên, ngẩng đầu thấy Lý Thư Bạch không phản ứng, tức thì nước mắt rân rấn, xem chừng sắp chảy dài đến nơi.

Lý Thư Bạch không lên tiếng, song vẻ mặt rõ ràng đã dịu hẳn đi, y trao đóa khởi lưu ly trong tay cho nàng, “Không sao, ta nghĩ hằng ngày nàng ở yên trong nhà, chắc không quen với tình huống này, là ta đường đột làm nàng giật mình.”

Vương Nhược nuốt nước mắt gật đầu mỉm cười, sửa lại vạt áo vái y một vái thật dài, đoạn đưa tay đón lấy cành khởi lưu ly ôm vào lòng, mặt đỏ ửng lên như đóa hải đường vừa hé.

“Ngươi thấy Vương Nhược thế nào?”

Ngồi trên xe ngựa quay về, Lý Thư Bạch hỏi.

Hoàng Tử Hà do dự một thoáng mới đáp, “Tôi chỉ là một tiểu hoạn quan trong vương phủ, không dám bình luận vương phi tương lai.”

Lý Thư Bạch phớt lờ, cầm chiếc bình lưu ly nhỏ lên, chăm chú nhìn con cá đỏ lượn lờ bên trong, chẳng buồn gặng hỏi thêm.

Hoàng Tử Hà đành trả lời, “Có vẻ có vấn đề.”

“Có vẻ ư?” Y gõ nhẹ ngón tay lên thành bình, giọng thản nhiên, “Khi chưa gặp ta, dáng vẻ ung dung thoải mái của cô ta rõ ràng xuất phát từ tận đáy lòng, đủ thấy cô ta vốn không hề để tâm có được ta chọn làm vương phi hay không.”
SPONSORED / ĐƯỢC TÀI TRỢ
“Nhưng khi được nữ quan mời vào, trông thấy mặt vương gia, Vương Nhược lại thay đổi hoàn toàn, thái độ kinh ngạc và mừng rỡ kia có phần thái quá, không thật.”

“Ừm.” Lý Thư Bạch gật đầu, ánh mắt cuối cùng cũng rời con cá nhỏ, chuyển sang cô, “Còn nữa, khi rời khỏi gác Bồng Lai, hai bên có trao đổi canh thiếp(*), ta liền phát hiện ra một điểm đáng lưu tâm.”

(*) Tấm thiệp ghi bát tự của một người, gồm giờ, ngày, tháng, năm sinh.

Nói đoạn y rút từ ngăn kéo tủ ra một mảnh giấy hồng đặt lên bàn, đẩy tới trước mặt cô.

Hoàng Tử Hà đón lấy, nhìn hàng chữ trên mặt giấy.

Tiểu nữ họ Vương ở Lang Gia thuộc chi thứ tư ngành thứ tên Vương Nhược, sinh vào giờ Mão hai khắc ngày 30 tháng Mười nhuận năm Đại Trung thứ mười. Phụ thân Vương Trung, mẫu thân họ Khương, huynh trưởng Vương Gia, Vương Hứa, tiểu đệ Vương Phú.

Chỉ vỏn vẹn bấy nhiêu chữ. Hoàng Tử Hà đọc rồi thầm nhẩm tính, đoạn trình lại mảnh giấy cho y, “Canh thiếp này là giả.”

Y khẽ gật đầu, “Ngươi cũng nhận ra?”

“Vâng. Tháng Mười nhuận năm Đại Trung thứ mười chỉ có hai mươi chín ngày, không có ba mươi.”

Lý Thư Bạch nhếch mép, “Không sai.”

“Điểm này có thể tính ra được, đủ thấy kẻ giả mạo còn vụng.” Hoàng Tử Hà nói, đoạn xem lại tấm thiếp, “Chữ ‘nhuận’ hơi nhỏ, theo lệ viết canh thiếp, giữa tháng và năm phải cách ra, nhưng ở đây lại không có, rõ ràng về sau mới thêm chữ ‘nhuận’ vào, điểm này tôi cũng không rõ tại sao.”

“Vì 30 tháng Mười là ngày giỗ mẹ ta, không tốt lành.” Y thản nhiên bổ sung.

Cô gật đầu. “Bởi thế, để tránh điểm đó, đành tạm thời sửa đi, hòng lọt qua vòng tuyển lựa.”

"Về tình về lý đều có thể chấp nhận được, song nếu xét theo trình tự thì có rất nhiều nghi vấn.” Y đặt ngón tay lên tấm thiếp, vẻ lạnh lùng, “Canh thiếp trước tiên phải đưa đến Thái Sử Lệnh tính toán so xét, nếu thấy ngày sinh là 30 tháng Mười, nhất định sẽ tấu rằng bị trùng với ngày giỗ của mẫu phi ta, không thể dự tuyển, do vậy dù có kẻ giúp cô ta làm giả hẳn cũng không thể sửa quấy sửa quá, dẫn tới cái sai rành rành như thế. Nếu khi trình lên đã là 30 tháng Mười nhuận, thì Thái Sử Lệnh trong quá trình cân nhắc ngày giờ sinh của các cô gái dự tuyển xem lành hay dữ, sẽ phát hiện ngay không có ngày đó, tấm thiếp này càng không thể xuất hiện trước mặt ta.”

“Bởi thế, có lẽ Vương Nhược thoạt đầu không hề nằm trong đám người dự tuyển, cũng không hề qua xét duyệt, song cuối cùng lại xuất hiện trước mặt vương gia.” Hoàng Tử Hà phán đoán, “Có lẽ vì cô ấy là tiểu muội trong họ của hoàng hậu, nên được ưu ái cho qua tất cả thủ tục phiền phức, thuận tiện đi thẳng vào vòng trong.”

“Cũng có thể. Có điều ta không lo về Vương Nhược, cô ta chỉ là một con cờ thôi. Điều ta để tâm là kẻ nào đã đưa Vương Nhược đến cho ta, sau lưng cô ta còn ẩn giấu điều gì.” Lý Thư Bạch trầm ngâm hồi lâu mới thong thả nói, “Có dây mơ rễ má gì đây, kỳ tuyển phi lần này hẳn là liên quan chặt chẽ đến lá bùa ta nhặt được năm xưa.”

Hoàng Tử Hà gật đầu, hồi tưởng lại vẻ kinh hoàng của Vương Nhược khi gặp Lý Thư Bạch cùng nụ cười rưng rưng nước mắt trên gương mặt thẹn thùng. Cũng là nữ nhi, cô cảm thấy đó rõ ràng không phải tình cảm có thể thấy ở một quân cờ. Nhưng cụ thể là gì thì hiện giờ cô chưa xác định được.

Thấy cô trầm ngâm nghĩ ngợi, Lý Thư Bạch liền nói, “Việc ta lập phi khiến cục diện ngươi phải đối mặt trở nên phức tạp hơn nhiều rồi.”

“Nội tình các phức tạp sẽ càng để lộ nhiều sơ hở, giúp chúng ta nắm được càng nhiều manh mối, bởi thế phức tạp không phải chuyện xấu.” Hoàng Tử Hà đáp.

Lý Thư Bạch chăm chú nhìn Hoàng Tử Hà, thấy gương mặt cô trầm lặng mà bình tĩnh, không mảy may ngần ngại, đó là thái độ tự tin toát lên vì hiểu rõ năng lực bản thân, khiến người khác không thể nghi ngờ. Y cảm thấy một nơi nào đó trong lòng mình hơi xao động, bất giác không dám nhìn thẳng vào cô, đành quay sang vén rèm xe lên, nhìn ra phía sau như để che giấu.

Đợt tuyển phi đã kết thúc, các thiên kim tiểu thư ai về nhà nấy, hàng đoàn xe ngựa rời khỏi cung Đại Minh chạy thẳng về thành Trường An.

Cỏ hoang năm ngoái vẫn nhan nhản bên đường, cỏ non năm nay mới cao hai ba tấc, cả ngọn núi phủ một màu vàng úa, chỉ lơ thơ vài vệt xanh lục. Mỗi khi gió thổi, cứ một lớp úa vàng lại một lớp xanh non dập dờn biến ảo.

Phía sau xe họ chính là cỗ xe của nhà họ Vương, một lão bộc điều khiển hai con ngựa khỏe màu lông loang lổ, chạy khoan thai không nhanh không chậm.

Lý Thư Bạch buông rèm xuống, “Xe nhà họ Vương ở ngay phía sau đó.”

Hoàng Tử Hà nghĩ ngợi rồi đứng dậy mở cửa xe, “Đến giao lộ phía trước, tôi xin xuống trước.”

“Vội gì chứ, ta đâu hạn định thời gian cho ngươi.”

“Đương nhiên phải vội, tôi chỉ mong sớm về Thục được ngày nào hay ngày nấy!” Hoàng Tử Hà đáp. Đến giao lộ, nhân lúc xe ngựa chạy chậm lại để rẽ, cô nhảy xuống đường.

Qua tấm rèm, Lý Thư Bạch thấy cô lảo đảo một cái đã đứng vững lại ngay, bèn cúi đầu nhìn xuống con cá nhỏ trong tay mình.

Xe ngựa của Quỳ vương phủ chạy về phía phường Vĩnh Gia, còn Hoàng Tử Hà thì quay mình đi về phía phường An Hưng.

Quả nhiên, xe ngựa nhà họ Vương từ từ dừng lại cạnh cô, một phụ nữ trung niên vén rèm hỏi, “Chẳng phải tiểu công công hầu cận của Quỳ vương gia ư? Định đi đâu đây?”

Cô ngẩng lên cười với bà ta, “Cảm tạ bà quan tâm, tôi phải đến chợ Tây mua ít đồ.”

Người phụ nữ ngoảnh vào trong xe hỏi vài câu, đoạn cười bảo, “Chúng ta đến phường Quang Đức, ngay bên cạnh chợ Tây. Nếu tiểu công công không chê thì để chúng ta đưa một đoạn, chẳng hay ý công công thế nào?”

Hoàng Tử Hà vội thoái thác, “Không được, sao tôi dám ngồi cùng xe với quý nhân cơ chứ…”

“Ai da, về sau là người một nhà rồi, công công là hầu cận của vương gia, chúng ta còn nhiều cơ hội gặp nhau mà.” Nói đoạn, người phụ nữ cười híp cả mắt, vẻ thân thiện, chẳng đợi cô phân trần đã mở toang cửa ra mời cô.

Hoàng Tử Hà lên xe, quả nhiên thấy Vương Nhược đang ngồi bên trong, liền tham kiến vương phi rồi lại cảm ơn người phụ nữ kia. Bà ta tuổi ngoài bốn mươi song vẫn duyên dáng uyển chuyển, vài nếp nhăn nơi khóe mắt chỉ càng làm tăng thêm vẻ mặn mà, đủ thấy thời xuân sắc nhất định là một mỹ nhân.

Hoàng Tử Hà ngồi xuống chiếc ghế gần cửa xe, cúi đầu liếc Vương Nhược qua khóe mắt. Dáng ngồi của nàng vô cùng tao nhã, hai tay đan nhau đặt trên đùi trái, bàn tay mềm mại nhỏ nhắn hơi lộ ra dưới lớp lụa cánh sen, ngón tay nõn nà, móng tay hồng hồng giũa thành hình vòng cung hoàn mỹ.

Nhìn đôi bàn tay ấy, Hoàng Tử Hà nhớ lại hồi trước ở Thục, tuy là tiểu thư nhà sứ quân, song ngày ngày cô chỉ cùng Hoàng Ngạn và Vũ Tuyên ra ngoài cưỡi ngựa đi dạo, chơi mã cầu, thúc cúc còn giỏi hơn cả nam nhi, nào có bao giờ chăm chút đôi tay mình đến thế?

Đương lúc ngẩn ngơ, chợt nghe người phụ nữ kia hỏi, “Tiểu công công lúc nào cũng ở gần vương gia ư?”

Cô vội lắc đầu đáp, “Mới có mấy ngày thôi, trước đây là các thái giám khác phục dịch, chẳng may dạo này bọn họ đều sinh bệnh nên tạm thời điều tôi tới sai bảo dăm bữa.”

“Đó cũng là do tiểu công công làm việc cẩn thận nên mới được vương gia tín nhiệm.” Người phụ nữ cười, đoạn lại thăm dò, “Vậy chắc tiểu công công cũng nắm được giờ giấc sinh hoạt hằng ngày của vương gia?”

“Hằng ngày… tôi không rõ lắm.” Cô thành thật đáp, “Tôi vụng về, cũng không phải hầu hạ gì nhiều, chỉ thỉnh thoảng theo gia ra ngoài thôi.”

“Vậy là cũng gần gũi lắm, nhất định phải nắm rõ rồi.” Bà ta cười tươi, “Tiểu công công, tiết lộ cho chúng ta biết với, Quỳ vương gia thích màu gì, thích ăn món gì, thị nữ kề cận tính tình ra sao?”

Hoàng Tử Hà chợt nhận ra mình đã rơi vào một tình cảnh xưa nay chưa từng có, rất khó ứng phó, “Quỳ vương gia… không thích ai lẽo đẽo theo bên cạnh, thường chỉ thích ở một mình, về phần thị nữ gì đó thì…”

“Nhũ mẫu!” Vương Nhược nhịn không nổi, đành buột miệng nhắc.

Bấy giờ Hoàng Tử Hà mới nhận ra nàng đã sắp vùi hẳn đầu vào trong áo, má đỏ bừng như người say, kiều diễm quyến rũ khôn tả.

“Ai da, cô nương nhà ta thật là, rõ ràng đã có danh phận vương phi rồi, tìm hiểu trước về vương gia cũng là đương nhiên thôi mà, phải không?” Người phụ nữ vội ôm lấy vai Vương Nhược, cười nói.

Hoàng Tử Hà nhờ thế mới được thoát thân, vội an ủi, “Cô nương đừng lo! Quỳ vương rất dễ gần, huống hồ cô nương là thiên kim nhà họ Vương ở Lang Gia, dung mạo lại như hoa như ngọc thế này, gia đã chọn cô nương từ bấy nhiêu người, nhất định sẽ trân quý hơn báu vật, bạc đầu không chia lìa.”

Vương Nhược ngước lên nhìn cô, nói khẽ, “Đa tạ tiểu công công, mong rằng sẽ được như… lời chúc của công công.” Đoạn nàng nở một nụ cười gượng gạo, gương mặt lộ rõ vẻ sợ sệt, “Ta… Ta vừa gặp mặt vương gia đã chẳng biết phải làm gì nữa, đến bước chân cũng cứng đờ. Công công thấy đấy, gia trông bộ dạng đó nhất định sẽ cho rằng ta ngốc nghếch, càng như vậy ta càng căng thẳng, sợ gia không vừa ý, song lại không biết rốt cuộc mình nên làm gì, mồ hôi đổ ra ướt đẫm cả lưng…”

Hoàng Tử Hà thấy nàng càng nói càng hồi hộp, vội trấn an, “Đừng lo, vương gia không để bụng đâu, nhất định gia sẽ hiểu cho tiểu thư mà.”

Nhũ mẫu lập tức phụ họa, “Đúng thế, nâng khăn sửa túi cho Quỳ vương là giấc mộng của biết bao thiếu nữ kinh thành. Cô nương nhà chúng ta từ nhỏ đã rất ngưỡng mộ Quỳ vương, tâm trạng thấp thỏm hồi hộp này, hẳn tiểu công công cũng hiểu.”

Hoàng Tử Hà gật đầu, “Vâng, ai biết quan sát đều nhận ra cả mà.”

Vương Nhược hít vào một hơi thật sâu rồi khẽ nói, “Đa tạ công công.”

Trừ câu đó ra, nàng không nói thêm một tiếng nào nữa.

Xe ngựa đến gần phường Quang Đức. Trước khi xuống Hoàng Tử Hà lại cảm tạ hai người kia thêm lần nữa.

Cách đó không xa là chợ Tây, cảm thấy về vương phủ ngay thì không ổn, cô bèn đi vào một tiệm bán canh trong góc chợ.

Không gian bên trong quán rất hẹp, ngồi cùng bàn với cô là một cặp mẹ con, bé gái chừng bảy tám tuổi, ngồi trên ghế chân còn chưa chạm đất. Người mẹ dùng đũa xắn sợi mì dài thành từng đoạn nhỏ, bón cho con ăn.

Hoàng Tử Hà trông mà ngẩn người. Thấy cô cứ nhìn chằm chặp, người mẹ ngượng nghịu cười nói, “Cháu còn bé, ăn sợi dài không tiện.”

“Ồ vâng, phải phải.” Hoàng Tử Hà đáp, khóe mắt chợt cay cay. Nhớ lại thuở mới lên mười, mẹ cũng xắn mì cho cô như thế, khiến cha ngồi đối diện phải lắc đầu, “Lớn chừng ấy rồi, nuông quá sinh hư, từng này tuổi còn phải mẹ bón cho.” Đại ca ngồi bên trái cô, vừa xì xụp ăn mì vừa giễu, “Lêu lêu, lớn chừng ấy còn phải bón, sau này nhớ tìm lang quân đảm đang để hắn thay mẹ hầu hạ cho nhé!”

Bấy giờ cô đã vùng vằng quăng đũa xuống chạy thẳng về phòng, giận dỗi không chịu ăn cơm. Nhưng chỉ lát sau, mẹ lại bưng cơm đến ngọt ngào dỗ cô ăn. Vừa ăn được mấy miếng, ngẩng lên thì thấy cha đứng xa xa ngoài cửa sổ nhìn về phía mình. Bắt gặp ánh mắt cô, ông bèn giả vờ chỉ đi ngang qua, thong dong thả bộ trên con đường nhỏ rải sỏi ở vườn sau mất hút.

Bao chuyện vụt vặt tầm thường ngày ấy, giờ hồi tưởng lại như hiển hiện trước mắt, thậm chí những hòn sỏi dưới chân cha xếp thành hình dạng gì, bóng cây ngoài song hắt lên tay mẹ thế nào, đều hiện lên rành rành, trông rõ mồn một.

Bất giác chạnh lòng hồi tưởng lại khiến những ưu sầu và phẫn hận trong cô bị khuấy động, đan dệt vào nhau. Cuối cùng Hoàng Tử Hà phải cắn chặt môi, run rẩy nín thở, mới ngăn được nỗi bi phẫn và nước mắt đồng loạt trào lên. Cô nuốt lại tất cả, chôn vùi thật sâu trong mạch máu.

Cha, mẹ, đại ca…

Cô rưng rưng ăn từng chút mì một, nuốt xuống bụng cùng nước mắt.

Tất cả oan khuất và huyết lệ bây giờ, sẽ có một ngày cô trở về Thục, đích thân đòi lại.
 

Tam Thất

nhân chi sơ, tính bản thiện
Tham gia
13/4/19
Bài viết
1,705
Điểm cảm xúc
1,399
Điểm
113
Vương Nhược nhà họ Vương Lang Gia trở thành vương phi tương lai của Quỳ vương phủ.

Tin này chẳng mấy chốc đã lan khắp kinh thành, người trong kinh đều nói, nhà họ Vương chỉ trong mấy năm đã có hai hoàng hậu một vương phi, quả là rạng rỡ tổ tông.

Hoàng Tử Hà núp dưới cái tên Dương Sùng Cổ, vận bộ đồ hoạn quan, theo sau đoàn đưa sính lễ trùng trùng điệp điệp băng qua quá nửa thành Trường An, vừa đi vừa thong thả nghe mọi người bàn tán.

Cô sờ tay lên mặt, hôm nay trước lúc ra cửa cô đã phát hiện mặt mũi mình hồng hào quá, hẳn là vì gần đây nghỉ ngơi nhiều, đành chạy tới chỗ thị nữ trong vương phủ bịa chuyện xin một ít phấn vàng về xoa lên mặt để làm da vàng vọt đi. Bởi lẽ hôm nay cô phải tới dinh thự họ Vương Lang Gia ở kinh thành, rất có thể sẽ chạm mặt vị hôn phu khi trước – mà thực ra đến giờ vẫn chưa chính thức hủy hôn. Vương Uẩn.

Tuy hai người chưa từng chính thức gặp nhau, như lời Ngạc vương Lý Nhuận thì y mới chỉ lén trông thấy một bên mặt cô từ tận ba năm trước, song cẩn thận vẫn hơn, không thể không phòng bị. Lòng cô đã quyết, từ nay về sau, phấn vàng chính là vật thiết yếu mỗi khi ra cửa.

Trong việc hôn nhân chú trọng sáu lễ(*). Nạp thái, vấn danh và nạp cát đều đã xong xuôi, bởi thế hôm nay cô theo đoàn đến để nạp trưng, cũng tức là đưa sính lễ.

(*) Theo quan niệm hôn nhân cổ, để tiến đến lễ cưới, hai gia đình phải thực hiện những lễ sau:

- Lễ nạp thái, sau khi bàn bạc, nhà trai mang sang nhà gái một cặp “nhạn” để tỏ ý đã kén chọn ở nơi ấy.

- Lễ vấn danh, là lễ do nhà trai sai người làm mối đến hỏi tên tuổi và ngày sinh tháng đẻ của người con gái.

- Lễ nạp cát, lễ báo cho nhà gái biết rằng đã xem bói được quẻ tốt, nam nữ hợp tuổi thì lấy được nhau, nếu xung khắc tuổi thì thôi.

- Lễ nạp tệ (hay nạp trưng), là lễ nạp đồ sính lễ cho nhà gái, tang chứng cho sự hứa hôn chắc chắn.

- Lễ thỉnh kỳ, là lễ xin định ngày giờ làm rước dâu tức lễ cưới.

- Lễ thân nghênh (tức lễ rước dâu hay lễ cưới), đúng ngày giờ đã định, họ nhà trai mang lễ đến để rước dâu về.

Họ Vương Lang Gia là dòng dõi cao sang bậc nhất, dinh thự xây dựng ở kinh thành hết sức xa hoa lộng lẫy. Bảy ngôi đình viện, hai vườn hoa ở phía Đông và Tây, nhà rộng tường cao, nguy nga bề thế.

Là đích tôn chi trưởng duy nhất của nhà họ Vương hiện nay, Vương Uẩn cũng có phong thái đặc biệt của trâm anh thế phiệt. Tuy người trong thiên hạ đều biết vị hôn thê của y vì cự tuyệt hôn sự giữa họ mà đang tâm giết cả nhà, nhưng chuyện mất mặt như vậy không hề khiến y bớt đi chút đường hoàng tao nhã nào. Mình vận áo mỏng màu đỏ thẫm, tươi cười như gió xuân ban mai, mày mắt cử chỉ ung dung ôn hòa. Nếu không phải vọng tộc đã trăm năm thì không sao bồi đắp được thứ khí chất như thế.

Quỳ vương gia tôn quý vào hàng nhất nhì đương triều đưa sính lễ hỏi cưới thiên kim vọng tộc cao sang cũng vào hàng nhất nhì, đương nhiên phải rình rang bề thế hơn hẳn người thường. Trong một hàng dài những rương hòm thì lược vàng thước ngọc tiền bạc nữ trang mà các thái phi trong cung ban cho là bắt mắt người ta nhất, Vương Uẩn để họ đưa sính lễ đến tiểu viện Vương Nhược ở, rồi lần lượt gọi từng người đến phát phong bao đỏ, cả đội ngũ mấy trăm người đều được y thu xếp đâu ra đấy.

Hoàng Tử Hà cùng một nữ quan trong vương phủ tiến đến chỗ Vương Uẩn, hành lễ, “Bọn nô tài phụng mệnh tới chỉ dẫn cho vương phi quy củ trong vương phủ cùng lễ tiết cung đình.”

Vương Uẩn miệng nói “Miễn lễ!” song ánh mắt cứ dán chặt vào người Hoàng Tử Hà, săm soi thật kỹ, dường như đang nghĩ ngợi gì đó.

Hoàng Tử Hà quay đi, cùng nữ quan Tố Khởi theo nạp trưng sứ ra vườn sau, nào ngờ Vương Uẩn lại đi theo cô hỏi han, “Chẳng hay quý tính tiểu công công?”

Cô gắng gượng đáp, “Nô tài Dương Sùng Cổ.”

“Lẽ nào là Dương Sùng Cổ mới đây đã phá vụ án Bốn phương ở kinh thành? Quả là trăm nghe không bằng một thấy!” Vương Uẩn kinh ngạc thốt lên, đoạn quay sang hỏi tên nữ quan Tố Khởi, sau đó đưa bọn họ đến tận cửa tiểu viện mới dừng bước.

Hoàng Tử Hà bước đến dưới mái hiên, thấy lưng cứ nhoi nhói như bị kim chích, không nhịn được quay đầu lại, bắt gặp Vương Uẩn đang đứng trước cửa tiểu viện chăm chú nhìn mình như nghĩ ngợi. Thấy cô ngoái đầu, y lại cười cười chắp tay, “Lát nữa có đãi bánh ngũ phúc mong tiểu công công đừng để lỡ.”

Cô cũng cúi đầu thi lễ, “Vâng, hôm nay nô tài chỉ xin bái kiến vương phi, ngày mai mới bắt đầu chính thức chỉ dẫn.” Vì hiện giờ chính cô cũng chưa coi qua Lễ Nghi chí, muốn chỉ cũng không biết chỉ từ đâu.

Đi vào hành lang, có bốn a hoàn ra đón, nhất tề hành lễ nghênh tiếp. Trong phòng rộn rã tiếng cười đùa, bọn họ bước vào, thấy bên trong lộng lẫy gấm vóc, trước cửa sổ treo một bức mành thêu hoa sen, trong bình mai cắm đầy hải đường, mười quý phu nhân chải chuốt chỉnh tề đương ở đó, ai nấy đều áo gấm trâm hoa, hầu chuyện Vương Nhược đang ngồi trên sập lưu ly.

Hôm nay Vương Nhược ăn vận linh hoạt khác hẳn bữa trước, áo ngắn tay lỡ màu cánh sen thêu mẫu đơn đỏ, trông lộng lẫy và rạng rỡ. Tóc nàng vấn búi đồng tâm, cài đóa khởi lưu ly bữa trước, còn cắm xéo hai chiếc trâm ngọc xanh, trông trang trọng mà không đánh mất nét tươi trẻ của bản thân.

Hoàng Tử Hà nghĩ bụng, quả là một thiếu nữ biết phục sức, rõ ràng nàng rất am hiểu các lợi thế của mình.

Thấy nạp trưng sứ đã đến, tất cả đều đứng dậy đón tiếp. Vương Nhược yêu kiều bái chào, Lễ bộ thượng thư Tiết đại nhân đảm nhiệm vai trò nạp trưng sứ bắt đầu tuyên đọc sính thư(*). Nghe bức thư tràng giang đại hải dài đến phát mệt, Hoàng Tử Hà ngán ngẩm ngẩng đầu nhìn ra cảnh sắc ngoài song, thấy chim én líu ríu trên xà nhà, ngày xuân tươi tắn, cả đất trời đều bừng bừng nhựa sống.

(*) Thư cầu hôn của nhà trai gửi sang nhà gái.

Vương Nhược nhận lấy sính thư, ngước lên trông thấy Hoàng Tử Hà, khóe môi bất giác nở nụ cười mừng rỡ, “Ta xuất thân quê mùa, chưa từng được thấy uy nghi nhà trời, càng không hiểu phép tắc trong cung, phải phiền hai vị dạy bảo nhiều rồi.”

Tố Khởi vội nói, “Đâu dám, vương phi xuất thân thế gia, lễ nghi chu toàn, đương nhiên chỉ một hiểu mười, không cần phải nói.”

Vương Nhược mỉm cười nhìn Hoàng Tử Hà, vẻ ngây thơ chẳng khác nào đứa bé non nớt. Mấy phu nhân quây quần ngồi đây tuy đều tươi cười niềm nở, song chẳng qua là hàng mệnh phụ được các thái phi trong cung chọn ra sai tới giúp đỡ, vì hôm nay Quỳ vương nạp trưng mà nhà họ Vương mới đến lác đác được vài người. Trong phủ trừ Vương Uẩn và mấy nhũ mẫu thân cận, chỉ còn Hoàng Tử Hà là người duy nhất nàng từng gặp một lần.

Gặp được người quen giữa cả đám đông xa lạ, Vương Nhược mừng ra mặt, khiến Hoàng Tử Hà không khỏi cảm thấy vài phần hổ thẹn. Bụng bảo dạ, lẽ nào đằng sau cô gái đẹp đẽ thuần khiết nhường này lại ẩn giấu âm mưu gì đó được sao?

Đến lúc ra tới cửa, chuẩn bị về, chợt cảm thấy có người lén nắm ống tay áo mình, Hoàng Tử Hà bèn ngoái lại nhìn. Thì ra là Vương Nhược, vẻ mặt nàng đầy lo lắng. Cô mỉm cười quay lại hành lễ, “Vương phi có gì căn dặn?”

Vương Nhược khép nép, “Gặp được công công thật tốt, ở đây… toàn người ta không quen.”

Hoàng Tử Hà tủm tỉm, “Chẳng phải còn có bà nhũ mẫu mà nô tài gặp lần trước trên xe đấy sao? Phải rồi, sao hôm nay không thấy bà ấy ở cạnh vương phi?”

“Ừm… Sau khi ta được tuyển làm vương phi, nhũ mẫu đã lập tức lên đường về Lang Gia, lấy cho ta một ít đồ dùng hằng ngày.” Vương Nhược gượng gạo đáp, nghĩ ngợi chốc lát lại thêm một câu, “Nhũ mẫu cũng lớn tuổi rồi, có lẽ sẽ không trở lại nữa, ở lại quê nhà dưỡng già thôi.”

“Thế chẳng phải vương phi sẽ rất quyến luyến sao? Dù gì cũng là người nuôi nấng vương phi từ nhỏ.”

“Đúng thế, song cũng chẳng còn cách nào, đành phải tập làm quen thôi. Ta còn đỡ, nhưng nhũ mẫu già rồi, e rằng khó mà thích nghi được.” Nàng cười, để lộ hai lúm đồng tiền xoáy sâu trên má, “Huống hồ chẳng phải ta đã quen công công rồi đấy ư? Sáng nay ta còn nơm nớp không biết người tới dạy lễ nghi có phải một thái giám già nghiêm trang cổ hủ hay không nữa, nào ngờ lại là công công.”

Hoàng Tử Hà cười đáp, “Đây cũng là nhờ vương phi hiền hậu, nên nô tài mới hân hạnh được ngồi cùng xe…”

Hàn huyên thêm một lúc nữa thì Tố Khởi đến gọi cô đi, hai người cùng tới đại sảnh dùng điểm tâm. Bánh ngũ phúc của nhà họ Vương đương nhiên không giống thứ bánh trong trà lầu tửu quán bình thường, năm loại bánh nhỏ được làm từ phục linh, sơn tra, tùng nhân, táo đỏ và vừng bày trên đĩa pha lê, Vương Uẩn đích thân bưng đến trước mặt Hoàng Tử Hà, “Tiểu công công thích ăn loại nào?”

Hoàng Tử Hà mới nhìn qua, còn chưa kịp đáp, y đã nhón một chiếc bánh phục linh đặt trước mặt cô giới thiệu, “Đầu bếp nhà chúng ta có một điểm giỏi là, bánh phục linh xưa nay không chứa vị thuốc, song vẫn giữ được mùi thơm mát, không tin công công ăn thử xem. Đương nhiên tốt nhất là thử hết mỗi loại một chiếc, như vậy mới đầy đủ cả ngũ phúc.”

Hoàng Tử Hà vội cảm tạ hắn, đoạn nhón một chiếc bánh phục linh trắng thong thả ăn. Vương Uẩn ngồi xuống cạnh cô, hỏi thăm, “Tiểu công công quê quán ở đâu, có phải người trong kinh không?”

Cô gật đầu đáp, “Nô tài ở ngoại ô kinh thành.”

Hắn lại hỏi, “Nghe công công nói hình như có pha giọng Thục, lẽ nào từng sống ở đó?”

Hoàng Tử Hà lắc đầu, “Không hề. Có điều mẹ nô tài là người Thục.”

“Ồ…”

“Nô tài vừa mới tịnh thân đã được Nội thị cục phái đến Quỳ vương phủ, vì biết vài chữ nên lần này vương gia sai nô tài đến chỉ dạy cho vương phi, thực là vinh hạnh vô cùng.” Cô tỉnh bơ lôi Nội thị cục và Quỳ vương phủ ra che chắn cho mình, quả nhiên Vương Uẩn mỉm cười, hỏi lảng sang chuyện khác, “Chẳng hay quy củ trong cung và vương phủ có phức tạp lắm không?”

Cô tự nhiên đáp, “Cũng không nhiều lắm, vương phi thông minh nhanh nhẹn, chỉ mấy ngày nhất định sẽ thuộc cả.”

“Hình như… hơi nhiều quá đáng thì phải.”

Nhìn hai ba chục cuốn sách dày cộp Lý Thư Bạch đặt trước mặt mình, Hoàng Tử Hà trợn tròn mắt, “Quy củ trong hoàng cung và vương phủ nhiều thế này sao?”

“Không.” Lý Thư Bạch ung dung đáp.

Cô thở phào nhẹ nhõm, “Có một phần không phải hả?”

“Không, đây chỉ là một phần thôi.” Lý Thư Bạch thản nhiên nói, “Hơn nữa chỉ là một phần quy củ trong vương phủ.”

Hoàng Tử Hà suýt hộc máu, “Trong mấy ngày tới tôi phải học hết từng này thứ để tới dạy vương phi?”

“Không, phải học xong trong tối nay, thuộc hết toàn bộ.”

“Tôi cứ ngỡ không ai thuộc nổi những thứ này chứ?” Cô nghi hoặc hỏi.

Lý Thư Bạch nhìn Hoàng Tử Hà rồi nhặt bừa một quyển lên quăng tới trước mặt cô, nói, “Lật đại một trang chọn lấy một điều đi.”

Hoàng Tử Hà lật ra, nhìn vào trang sách, “Thứ ba mươi lăm, ngày tết, điều mười chín.”

“Ba mươi lăm, ngày tết, điều mười chín. Xuân phân, nhà bếp theo lệ thưởng bánh xuân, lệ thưởng gồm: vú già, mười cuốn lụa, năm cuốn vải; tỳ thiếp tám cuộn lụa, ba cuốn vải; người hầu năm cuốn lụa, ba cuốn vải. Cung nhân hạng nhất trong phủ ban mười lạng bạc, hạng nhì năm lạng, hạng ba ba lạng. Còn lại những kẻ chạy vặt lẻ tẻ thưởng một lạng.”

Khóe môi Hoàng Tử Hà giật giật, cô cầm một quyển khác lật ra, “Mười sáu, giảng học, điều thứ tư.”

“Mười sáu, giảng học, điều thứ tư. Triều đình phái người tới dạy học cho các vương, năm ngày lên lớp một buổi, gọi là vương sư. Trước tuổi đội mũ, vương sư chọn trong những kinh điển thi thư lễ nhạc mà giảng giải và bình luận, sau khi đội mũ, vương có thể tự chọn, mười ngày giảng học một lần, không được bỏ bê.”

Hèn chi người này có thể thuận miệng làu làu đọc ra tất cả tư liệu về một tên thị vệ bên cạnh. Hoàng Tử Hà rõ ràng đã phục sát đất, lại giở thêm một quyển nữa, “Hai mươi tư, quy chế về lầu gác đài quán, điều thứ chín mươi ba.”

Lần này Lý Thư Bạch rốt cuộc đã khựng lại, cô đắc ý nhìn y, “Cuối cùng cũng không biết ư?”

“Đương nhiên không biết, quy chế về lầu gác đài quán tổng cộng chỉ có chín mươi điều, lấy đâu điều chín mươi ba?”

Hoàng Tử Hà không thể không nhìn y bằng ánh mắt bằng ánh mắt sùng bái, “Nói thực lòng, đời này tôi gặp người đọc qua là thuộc như vương gia, mới là lần đầu tiên đấy.”

“Miễn để tâm thì chẳng có gì không nhớ được cả.” Lý Thư Bạch nói, đoạn đè tay lên đống sách trên bàn, khóe môi khẽ cong lên rất khó nhận ra, “Bởi thế, sáng mai ta sẽ kiểm tra ngươi theo cách này, tốt nhất là ngươi hãy để tâm một chút.”

…Đây rõ ràng là kiểu tiến độ muốn ép chết người ta mà!

Nhìn y quầy quả bỏ đi, cô bất giác thét lên một tiếng, nằm vật ra bàn.

Bất kể thế nào thì một đêm cũng không thể học nổi tất cả quy củ, song Hoàng Tử Hà vẫn gắng xốc lại tinh thần, ít ra đọc qua một lượt, nhớ được đại khái.

Sáng hôm sau trước khi tới nhà họ Vương, Hoàng Tử Hà cứ ngỡ sẽ phải trải qua cuộc sát hạch như cuồng phong bão táp của Lý Thư Bạch, nào ngờ lúc tới bái kiến lại nghe nói vương gia đã dậy sớm đi tuần tra tả vệ trong kinh, chỉ nhắn lại rằng, Dương Sùng Cổ mới đến vương phủ, nếu còn chưa thuộc hết quy củ, có thể đem theo sách tới chỗ vương phi để giảng dạy.

Nghe vậy, cô liền thở phào nhẹ nhõm, đồng thời cũng rầu rĩ nghĩ thầm, đã thế thì việc gì tối qua phải dọa dẫm mình?

Hôm nay Vương Nhược vận áo the xanh nhạt, những cành hoa vấn vít lấy nhau nở rộ trên vạt và tay áo, mái tóc đen nhánh búi lỏng, chỉ cài đôi ba đóa hải đường tơ rủ hồng phấn bên mai, quyến rũ khôn tả.

Thấy Hoàng Tử Hà tới, Vương Nhược rạng rỡ nhấc váy rảo bước ra cửa đón cô, cười tươi như hoa, khiến Hoàng Tử Hà cũng vui lây, chỉ trong chốc lát, cả hai đã quen thân như bạn tốt nhiều năm.
SPONSORED / ĐƯỢC TÀI TRỢ
“Sáng nay Tố Khởi cô cô đã liệt kê mọi người trong cung từ thái phi đến các vương gia và công chúa rồi. Nhiều người quá, ta còn chưa nhớ hết được! Về sau Tố Khởi cô cô lại nói, quy củ mà công công sắp dạy còn nhiều hơn nữa, ôi làm sao bây giờ, ta lo quá đi mất.”

Hoàng Tử Hà mỉm cười an ủi nàng, “Đừng lo, vương phi thông minh dĩnh ngộ, nhất định sẽ nhớ nhanh thôi.”

“Đâu có, hồi nhỏ ta học đàn, khúc đơn giản nhất… à, chính là Lưu thủy phải không, kết quả mọi người đều học nhanh hơn ta, nhũ mẫu thường mắng ta ngốc, làm ta cuống muốn chết luôn!” Nói đoạn, dường như nàng hơi chột dạ, vội hỏi, “Quy củ trong vương phủ khó học lắm ư?”

“Chắc không sao đâu, vương phi xuất thân từ gia tộc hiển hách lâu đời, không chừng quy củ trong nhà còn nhiều hơn ấy chứ.” Hoàng Tử Hà nói, đoạn đặt chồng sách mình đem đến xuống trước mặt nàng. Thấy nàng nhăn nhó, cô lại bồi thêm một câu, “Đây chỉ là một phần trong số các luật lệnh ở vương phủ thôi, đợi vương phi xem hết, nô tài sẽ đem phần khác đến.”

Suốt một buổi chiều chỉ ăn quà bánh, nhìn Vương Nhược chăm chú đọc điều luật trong vương phủ, Hoàng Tử Hà cũng đâm chột dạ, bèn mở ra xem cùng. Lỡ kẻ giảng bài này lại không thuộc bằng vương phi thì thực mất mặt.

Hôm nay giở xem, tâm trạng không căng thẳng như tối qua. Hoàng Tử Hà đọc một lúc, thần trí chẳng biết đã trôi đến tận đâu, ánh mắt lơ đãng quét khắp phòng, chợt phát hiện Vương Nhược cứ cầm cuốn sách ngồi ngẩn người ra.

Hoàng Tử Hà thấy nàng không hề cử động, bèn gập cuốn sách trong tay lại, hỏi, “Vương phi đang nghĩ gì thế?”

“Ta đang nghĩ tới… vài việc Tố Khởi cô cô dạy bảo lúc trước.” Nàng do dự đáp.

Hoàng Tử Hà cười hỏi, “Tố Khởi cô cô dạy thế nào?”

“Tố Khởi cô cô giảng phần Nữ giới, ở thiên Chuyên tâm, có nói, 'Gái trinh không gả hai chồng, chồng có thể lấy thêm vợ, nhưng vợ tuyệt đối không được tái giá. Giờ trong triều ta có rất nhiều phụ nữ vì bất mãn với nhà chồng mà đòi từ hôn, đúng là làm trái luân thường. Thân gái phải trọng trinh tiết, chỉ thờ một chồng, hoàng gia càng coi trọng chuyện này.'”

Hoàng Tử Hà gật đầu, “Nữ giới là bài học vỡ lòng trong chốn khuê các, Tố Khởi cô cô cũng chỉ giảng theo lệ đấy thôi, sao vương phi phải nghĩ ngợi?”

“Ta… đương nhiên trước đây đã đọc qua.” Vương Nhược vội nói, “Chỉ là đột nhiên nghĩ tới vài việc, cảm thấy khó hiểu mà thôi.”

“Khó hiểu chuyện gì? Vương phi có thể nói ra cho nô tài nghe chăng?”

“Chính là… Ta nghe nói năm xưa Võ hậu từng là tài nhân của Thái Tông, Dương quý phi là Thọ vương phi…” Nàng lưỡng lự đáp.

Hoàng Tử Hà không ngờ Vương Nhược lại đưa ra vấn đề khó khăn từ ngàn xưa chưa lý giải nổi này, có lẽ hàng nghìn hàng vạn sử quan còn chẳng lấp liếm được, cô làm thế nào được đây? Đành cười gượng, “Triều ta… quả thực có những chuyện khó mà kết luận.”

“Vậy thì thời Hán cũng có Vương Chí, thân mẫu Hán Vũ Đế, sau khi thành thân sinh con gái ở ngoài cung, lại bỏ chồng bỏ con, ngụy tạo là lần đầu kết hôn mà tiến cung, cuối cùng vẫn thành mẫu nghi thiên hạ. Không phải sao?”

Hoàng Tử Hà cứng họng một lúc thật lâu, rốt cuộc đành đáp, “Trung Hoa chúng ta mênh mông bát ngát, trải khắp chín châu, trong dòng lịch sử cả ngàn năm ấy ắt phải có một vài kẻ không như những người khác, song dẫu sao đó cũng chỉ là thiểu số.”

Vương Nhược cúi xuống nhìn vào cuốn sách trên bàn, lại ngần ngừ hỏi, “Sùng Cổ này! Công công thấy một người giấu giếm quá khứ để vào cung làm hoàng hậu như Vương Chí, nếu bị Hán Cảnh Đế phát giác, sẽ… có kết cục thế nào?”

Hoàng Tử Hà bất giác bật cười, “Vương phi việc gì phải lo thay người xưa? Vương hoàng hậu cuối cùng đã thành Vương thái hậu, cả nhà đều được hưởng phú quý. Hán Vũ Đế khi biết mẹ mình từng sinh một con gái với thường dân, còn đích thân đến nhà thăm hỏi, tôn là hoàng tỷ. Nô tài nghĩ hoàng gia cũng có tình cảm, việc gì cũng có thể dựa theo lệ thường mà suy.”

“Ừm… ta cũng nghĩ thế.” Vương Nhược ôm cuốn sách vào lòng, vẻ mặt vẫn chưa bớt hoang mang. Hoàng Tử Hà thầm duyệt lại một lượt những lời vừa nói, chẳng thấy điểm gì quan trọng, bèn nhìn theo ánh mắt Vương Nhược, phát hiện trên bàn đặt một cành mẫu đơn.

Cành mẫu đơn này chính là mẫu đơn khởi lưu ly hôm nào, giờ đang được cắm trong một chậu pha lê lớn, bên trong đổ nước xâm xấp, vừa đủ nhúng cành hoa để giữ tươi lâu. Song hoa đã bắt đầu có dấu hiệu héo úa, rụng mất mấy cánh, các cánh còn lại thì hơi quăn mép.

Thấy cô chăm chú nhìn đóa hoa, Vương Nhược lại đỏ bừng mặt lên, vội cúi gằm đầu, cuộn tròn quyển sách lại, bộ dạng hết sức thẹn thùng.

Cứ nhìn dáng vẻ kia, đủ thấy nàng đã rung động vì Quỳ vương. Hoàng Tử Hà cảm nhận rõ rệt niềm ái mộ và khao khát của thiếu nữ vừa chớm biết yêu này dành cho Lý Thư Bạch, nhất thời cũng ngơ ngẩn cả ra, tựa hồ bị lây tâm trạng của nàng.

Vương Nhược cúi đầu vuốt ve đóa khởi lưu ly ngâm trong nước, e thẹn nói khẽ, “Nhất định Sùng Cổ đang cười thầm ta.”

“Nô tài cười gì vương phi chứ?” Hoàng Tử Hà cười hỏi.

Nàng ngượng ngùng giơ tay che mặt, nói khẽ, “Chẳng rõ công công có đồng cảm được với tâm trạng của ta không. Trước đây ta cứ nghĩ, chẳng rõ phu quân tương lai ra sao, cuộc đời về sau ra sao, ta sẽ nương tựa một người thế nào. Nhưng vào khoảnh khắc được dẫn vào nội điện, ngẩng đầu trông thấy Quỳ vương, ta đã hiểu ra tất cả, chỉ nháy mắt mà ta thấy cả đường đời mình bày ngay trước mắt, không còn sợ hãi tương lai… Ta thấy chàng đứng giữa hào quang, tay cầm cành mẫu đơn này, toàn thân sáng bừng như ngọc. Ngay lập tức, ta đã biết mình sẽ ở bên người ấy suốt cả một đời…”

Nhớ lại cảnh tượng Vương Nhược gặp Lý Thư Bạch lần đầu, Hoàng Tử Hà không thấy giống như nàng miêu tả gì hết, song vẫn cười đáp, “Nhìn dáng vẻ vương phi lúc ấy là đủ biết rồi.”

“Sùng Cổ đừng nói lại với người khác nhé.”

“Vâng.” Hoàng Tử Hà ngồi cạnh, ngắm gương mặt ửng hồng cùng vẻ ước ao thiết tha trong mắt, chợt bâng khuâng mơ màng, như thấy lại một buổi hoàng hôn đầu hạ, chuồn chuồn bay rợp bên hồ, cô ôm một bó hoa sen ngoái nhìn, bắt gặp người thiếu niên ấy đứng xa xa chăm chú quan sát mình.

Mơ màng một lúc, đến khi định thần lại chỉ thấy lòng đau âm ỉ. Ngoảnh đầu nhìn vầng dương đã ngả về Tây, cô thong thả đứng dậy cáo từ, “Nô tài phải về đây, vương phi có thể giữ lại mấy cuốn sách này mà xem, cầm lên giường đọc đến khi ngủ càng tốt.”

“Được.” Bàn tay Vương Nhược vẫn vô thức vuốt ve cánh mẫu đơn, nhưng chỉ càng làm nó tàn tạ thêm.

Hoàng Tử Hà ra đến cửa, thấy tử đằng đã nở rộ trong đình viện nhỏ, sắc tím yêu kiều như sương như khói vấn vít trên giàn. Ráng chiều xuân vàng rực chói mắt rọi lên giàn tử đằng, khiến cả ngôi đình rợp trong ánh vàng sắc tím. Cô chợt thấy lòng xao xuyến, đã cảm nhận được niềm hân hoan đầy e thẹn và rụt rè của Vương Nhược, bởi thế cô ngoái lại nhìn nàng, cười nói, “Vương phi cứ yên tâm, nô tài sẽ không kể với ai cả, chỉ tâu với vương gia thôi. Nói rằng vương phi vẫn giữ gìn đóa khởi lưu ly gia tặng hôm ấy.”

Vương Nhược vừa thẹn vừa giận, đứng bật dậy giậm chân mắng cô, “Ai da, ngươi thật là…”

Hoàng Tử Hà cười, đi thẳng ra cửa.

Xe ngựa tới đón đã dừng trước cổng nhà họ Vương. Cô bước lên xe, băng qua đủ mọi ngõ phố Trường An, đến gần chợ Đông xe đột nhiên dừng lại. Hoàng Tử Hà đang tự nhủ kẻ nào to gan dám cản xe ngựa của Quỳ vương phủ, vén rèm lên xem thì thấy xe dừng trước một tửu quán, trên lầu hai có một người đang đứng nhìn xuống. Y vận đồ tím, ráng chiều lồng bóng rạng rỡ chói ngời không khác gì giàn tử đằng vàng say tím đắm trong đình viện của Vương Nhược. Lúc này, y đang nhìn xuống cô ngồi trong xe, ánh mắt hững hờ, gương mặt sâu xa vời vợi bóng chiều, tâm tình hoàn toàn kín bưng.

Chủ nhân đang đứng trên lầu trông xuống, đương nhiên cô không dám thất lễ. Vội nhảy khỏi xe bước vào quán, lên lầu đi đến gian riêng của y, gõ cửa. Lập tức có người mở cửa, chính là hoạn quan Cảnh Hữu hầu cận Lý Thư Bạch. Vì chưa khỏi hẳn phong hàn, Cảnh Hữu căn dặn Hoàng Tử Hà phải hầu hạ vương gia chu đáo rồi cài cửa cáo lui.

Trong nhã gian không chỉ có mình Lý Thư Bạch, mà còn Chiêu vương Lý Nhuế và Ngạc vương Lý Nhuận, đều mặc thường phục, cùng một nữ nhân đang thong thả gảy đàn. Người này khoảng bốn mươi tuổi, nét mặt đẹp đẽ, chỉ hiềm nhuốm phần tiều tụy. Thấy Hoàng Tử Hà bước vào, bà ta cũng không lên tiếng, chỉ khẽ gật đầu với cô, bàn tay vẫn nhấn nhẹ phím đàn, giai điệu càng lúc càng say lòng người.

Thấy cô đưa mắt quan sát bà ta, Lý Thư Bạch liền nói, “Đây là Trần Niệm Nương, đệ tử tái truyền của Đổng Đình Lan. Hôm trước nghe Chiêu vương kể bà ta đã đến Trường An, ta và Ngạc vương bèn hẹn nhau đến thưởng thức tài nghệ.”

Có một dạo trong triều rộ lên trào lưu ưa chuộng nhạc cụ và âm nhạc của người Hồ Tây Vực, thất huyền cầm bị chê bỏ vì “tiếng cổ giờ nhạt nhẽo, chẳng xứng tình người nay”, song Đổng Đình Lan giữa thời Thịnh Đường vẫn được muôn người tán thưởng vì tài đàn cao siêu của mình. Cao Thích từng làm thơ tặng, “Chớ buồn đường trước không tri kỷ, thiên hạ ai người chẳng biết ông(*)”.

(*) Trích trong bài thơ Biệt Đổng Đại 2. Đổng Đại tức Đổng Đình Lan, cầm sư trứ danh thời Đường. Năm Khai nguyên thứ 23 (735), Cao Thích lên Trường An dự thi, hai người làm quen và kết bạn. Hai bài Biệt Đổng Đại làm nhân chứng cuộc trùng phùng ngắn ngủi sau nhiều năm xa cách rồi lại từ biệt mỗi người một nẻo Đông Tây.

Hoàng Tử Hà vội gật đầu đáp lễ.

Chiêu vương Lý Nhuế ngồi bên cười nói, “Tứ ca giờ trọng dụng tiểu hoạn quan này quá nhỉ, hôm nay vừa hối hả đi đâu về đây?”

“Trí nhớ hắn tốt nên ta sai đến nhà họ Vương giảng cho vương phi luật lệ trong phủ.”

“Ồ, hóa ra trừ tài phá án, hắn cũng có khả năng đọc qua là nhớ như Tứ ca sao?” Lý Nhuế lại hỏi.

Lý Thư Bạch chỉ “ừm” một tiếng, rồi không nói thêm gì nữa.

Hoàng Tử Hà thấy nắng chiều đang chênh chếch rọi vào mắt Trần Niệm Nương, khiến bà ta phải cúi mặt xuống, khẽ cau mày, cô bèn bước đến nhẹ nhàng buông tấm rèm trúc trước mặt bà ta.

Lý Nhuế lại cười khen, “Tên tiểu hoạn quan này thực là chu đáo.”

Khúc Châu ngư của Trần Niệm Nương đã đi đến hồi kết, tiếng vàng âm ngọc thánh thót bầu không, khiến người ta quên hết thế tục, chẳng ai đáp lời Lý Nhuế. Chỉ nghe dư âm lãng đãng, êm đềm hòa dịu, bàn tay đặt trên phím đàn dần dần thôi nhấn nhá, khi dứt hẳn Trần Niệm Nương mới đứng dậy hành lễ với mọi người.

Lý Nhuận tán thưởng, “Quả là tuyệt diệu, có thể hình dung ra phong thái của Đổng Đại thuở trước.”

Lý Nhuế cũng khen ngợi, “Tài đàn tuyệt vời, bà có muốn vào giáo phường chăng? Chúng ta có thể giới thiệu cho.”

Trần Niệm Nương thong thả lắc đầu, “Thiếp đã lớn tuổi, đương ở Vân Thiều Uyển Giang Nam làm cầm sư, cuộc sống không phải lo phiền, e rằng không thích ứng được với giáo phường.”

Lý Nhuế lại hỏi, “Vậy lần này bà vào kinh có việc gì?”

Trần Niệm Nương đáp, “Năm xưa thiếp cùng sư tỷ Phùng Ức Nương học nghệ với thầy, tình cảm rất thân thiết. Đôi bên vẫn giúp đỡ nương tựa nhau bao năm nay. Mấy tháng trước Ức Nương đột ngột cáo từ thiếp, nói rằng phải hộ tống con gái người bạn cũ đến Trường An, lâu thì ba bốn tháng, chóng độ một hai tháng sẽ về, song giờ đã hơn năm tháng, chẳng những bặt tin tức, mà hỏi khắp mọi người cũng không biết sư tỷ đến Trường An có chuyện gì hay hộ tống ai, đành một mình lên kinh nghe ngóng, nào ngờ vẫn bóng chim tăm cá, lộ phí trong người lại cạn sạch. May sao gặp được mấy vị sư huynh đệ ngày trước, giới thiệu thiếp đến đây bán nghệ, mới được yết kiến quý nhân.”

Lý Nhuận cười, “Ta hiểu ý bà, bà hy vọng chúng ta giúp một tay tìm ra tung tích sư tỷ phải không?”

“Đúng thế, nếu biết được tung tích sư tỷ, thiếp sẽ vô cùng cảm kích.”

Lý Nhuận lại nói, “Trường An bảo nhỏ thì không nhỏ, bảo lớn thì không lớn, thế này đi, ta viết cho bà một phong thư, bà có thể đem đến nha môn bộ Hộ, nhờ họ họa giùm một bức hình rồi tìm.”

Trần Niệm Nương mừng rỡ vái y một vái thật dài, đoạn thưa, “Không cần phiền họ vẽ hình, thiếp đây có một bức tranh họa cùng sư tỷ mấy năm trước, vẫn luôn đem bên người, người trong tranh giống hệt người thật, để thiếp đem tới cho họ xem là được.”

“Vậy càng tốt, mau đưa cho chúng ta, để ta viết thư trước.”

Lý Thư Bạch đưa mắt ra hiệu, Hoàng Tử Hà liền ngoan ngoãn ra cửa, hỏi mượn bút mực của chủ quán. Lý Nhuận ngồi một bên viết thư, Trần Niệm Nương ngồi trước cây đàn, so lại dây. Hoàng Tử Hà ngồi đối diện, giúp bà ta mở hộp phấn hương thông ra, tỉ mỉ bôi lên dây đàn.

Thấy ban nãy cô tỏ ra chu đáo, Trần Niệm Nương rất ưa thích, nhìn xuống tay cô hỏi, “Tiểu công công cũng biết chơi đàn ư?”

“Trước đây tôi từng học tỳ bà và không hầu, song thiếu kiên nhẫn nên chỉ biết sơ sơ thôi, giờ cũng bỏ bê cả rồi.”

“Thực đáng tiếc, bàn tay công công rất hợp học đàn.”

Hoàng Tử Hà ngạc nhiên nói, “Chưa ai khen tay tôi đẹp cả.”

“Không phải đẹp, là thanh thoát mạnh mẽ, gảy cổ cầm hoặc tỳ bà thì bàn tay rộng thế này là hợp, lúc nhấn phím mới bao quát được.”

Hoàng Tử Hà cười đáp, “Chắc tại hồi xưa tôi thích đá mã cầu nên mới thành ra thế.”

Nghe đến mã cầu, Lý Nhuế liền chen ngang, “Ô, tên tiểu hoạn quan nhà ngươi cũng thích đá mã cầu ư? Hôm nào đá chúng ta sẽ gọi ngươi nhé.”

Hoàng Tử Hà vội chống chế, “Nô tài chỉ mới tham gia mấy trận mà thôi.”

“Đúng là không nhìn ra được, ngươi mảnh khảnh thế này mà dám chơi mã cầu, môn đó không cẩn thận là gãy chân què tay như chơi.” Lý Nhuế nói, đoạn vươn tay bóp bóp vai cô, Hoàng Tử Hà hơi co người lại, đưa mắt nhìn Lý Thư Bạch. Y phớt lờ, chỉ khẽ đằng hắng một tiếng.

Lý Nhuế cười mỉa, quay người lại ngồi xuống bên cạnh Lý Thư Bạch. Hoàng Tử Hà tiếp tục cặm cụi thoa phấn hương thông lên dây đàn, ngẫu nhiên ngẩng lên, trông thấy gương mặt cúi thấp của Trần Niệm Nương với sống mũi cao cùng chiếc cằm nhỏ, không khỏi nhủ thầm, nét mặt bà ta có vài phần nhang nhác mẹ mình.

Bất giác cô thấy thân thiết với Trần Niệm Nương hơn, bèn gợi chuyện hỏi han, “Niệm Nương, nếu tôi muốn học đàn thì phải học từ khúc nào?”

“Mới học thì Thanh ức, Thường tư, Đông ly cúc đều là những bài vỡ lòng hay, được người đương thời ưa thích, giai điệu đơn giản, kỹ thuật dễ dàng.”

Hoàng Tử Hà sực nhớ tới một chuyện, liền hỏi, “Nếu nhập môn từ Lưu thủy thì sao?”
SPONSORED / ĐƯỢC TÀI TRỢ
“Tiểu công công nói đùa, muốn đàn hay được Lưu thủy rất khó, ngay sư phụ ta năm xưa gảy Lưu thủy cũng thường than rằng chưa đạt được đỉnh cao, đàn không ra được chỗ tinh diệu.”

“Vậy có khúc đàn nhập môn nào mở đầu bằng chữ 'lưu' chăng?”

Trần Niệm Nương nghĩ ngợi chốc lát rồi đáp, “Ta ở Giang Nam bấy lâu, dạy qua không ít nhạc khúc, song không nhớ có khúc nào bắt đầu bằng chữ ‘lưu’ cả.”

“Đồng âm cận âm cũng được, ví như liễu, lục gì đó?”

“Có một khúc Lục yêu, nhưng dài lắm. Về ‘liễu’ thì có một khúc Chiết liễu, cũng đơn giản dễ học.”

Hoàng Tử Hà lắc đầu, “Không phải Chiết liễu, bắt đầu bằng ‘lưu’ kia.”

Trần Niệm Nương ngẫm nghĩ, chợt “ồ” lên một tiếng, “Quả là còn một khúc, đơn giản dễ học, có điều khúc này triền miên êm ái, chỉ thịnh hành ở Dương Châu, rất nhiều cô nương như các cô ở Vân Thiều Uyển lúc mới học đàn từng học, ta cũng có thể dạy. Khúc ấy tên gọi Liễu miên. Nhưng công công là người trong kinh, sống tại vương phủ cao quý, ắt hẳn không biết.”

Nghĩ đến Vương Nhược e lệ ngại ngùng. Hoàng Tử Hà cũng hơi ngượng nghịu, “Vậy hẳn là không phải.”

“Tôi cũng nghĩ vậy, loại nhạc này rất khó được tấu tại nơi phong nhã cao sang.”

Trong lúc hai người trò chuyện, Lý Nhuận đã viết xong bức thư, đóng cả triện ngay ngắn. Hoàng Tử Hà rất thông thạo Trường An, liền theo Trần Niệm Nương đi lấy bức tranh bà ta và Phùng Ức Nương để Trần Niệm Nương yên lòng giao việc này lại cho mình, đoạn tiện tay mở bức tranh ra xem.

Trong bức họa là hai người phụ nữ, một ngồi một đứng. Người ngồi là Trần Niệm Nương, quả nhiên họa rất giống, mày mắt sinh động có thần. Người kia đứng dựa vào Trần Niệm Nương, miệng tủm tỉm, mày mắt cong cong, đã ngoài bốn mươi mà vẫn toát lên phong vận quyến rũ khôn tả.

Hoàng Tử Hà chăm chú nhìn người trong hình, “Đây là Phùng Ức Nương ư?”

“Đúng thế, sư tỷ ta rất đẹp.”

“Theo tôi thấy thì xuân lan thu cúc, mỗi người một vẻ.” Hoàng Tử Hà thong dong nói.

“Phong vận tư thái của sư tỷ mới là tuyệt mỹ, tranh vẽ không thể hiện hết được đâu, khi nào công công gặp sẽ biết ngay.” Trần Niệm Nương cười.

Đúng vậy, phải chính mắt trông thấy mới cảm nhận được dáng vẻ mê hồn ấy. Hoàng Tử Hà thầm nhủ, bà làm sao biết được, mấy ngày trước tôi vừa gặp bà ta ở ngay ngoại ô thành Trường An, bà ta ngồi cùng xe với Vương Nhược, vương phi tương lai của Quỳ vương, còn mời tôi lên đi cùng nữa.

Vương tiểu thư đi cùng một cầm sư ở Vân Thiều Uyển Dương Châu, còn luôn miệng nhận bà ta là người nhà – xem ra những chuyện lạ lùng quanh Vương Nhược không hề ít.

Cứ vậy mà suy thì con gái người bạn cũ của bà ta hẳn là Vương Nhược? Một thiên kim xuất thân vọng tộc họ Vương ở Lang Gia như Vương Nhược, sao cha mẹ lại quen biết Phùng Ức Nương, thậm chí còn giao cả con gái mình cho bà ta đưa tới Trường An trước?

Cô nghĩ ngợi rồi quyết định chưa nói với Trần Niệm Nương vội, dù sao người giống nhau trên đời cũng rất nhiều, chi bằng cứ vờ không biết, có lẽ bên bộ Hộ sẽ có tư liệu ghi chép về Phùng Ức Nương, để tra xem người nhà họ Vương viết gì về thân phận của bà ta.

Nghĩ vậy, cô cuộn bức tranh lại, bình thản cáo từ Trần Niệm Nương, lên xe.

Đương lúc cô bước lên xe, Trần Niệm Nương như sực nhớ ra chuyện gì đó, vội chỉ bức tranh trong ngực áo cô nói, “Ta vừa nhớ ra, giữa hai chân mày sư tỷ, hơi lệch về bên trái, có một nốt ruồi đen, ai trông thấy cũng sẽ chú ý.”

Hoàng Tử Hà gắng lục lại đặc điểm người phụ nữ ngồi trong xe Vương Nhược hôm ấy, song chỉ nhớ bà ta để tóc mái trước trán, vừa khéo che mất phần giữa hai chân mày.

Cô liền gật đầu ghi nhớ. Xe ngựa lăn bánh, hướng về phía bộ Hộ.

Tam tỉnh lục bộ bản triều đều nằm trong hoàng thành. Hoàng Tử Hà vào theo cửa An Thượng, đi thẳng đến bộ Hộ. Viên tri sự họ Hồ đang có mặt ở đó rất nhiệt tình, niềm nở giúp cô tra cứu một lượt các hồ sơ về những phụ nữ vào kinh trong mấy tháng nay, cuối cùng kẻ thì chênh lệch tuổi tác, kẻ lại không giống hình dáng, chẳng có ai tên Phùng Ức Nương cả.

Sau khi cảm tạ Hồ tri sự, cô đương quay người định đi thì lại sực nhớ ra gì đó, bèn ngại ngùng lại gần Hồ tri sự khẽ trình bày, “Hồ đại nhân, tôi có một yêu cầu hơi quá đáng, nhờ ông giúp một chút, chẳng rõ có được hay không…”

Giờ đây trên triều, uy thế của Quỳ vương ngày càng hiển hách, Hồ tri sự đương nhiên không dám thất lễ với người của y, vội chắp tay nói, “Tiểu công công có gì xin cứ căn dặn.”

“Là thế này, vương gia nhà chúng tôi đã đưa sính lễ sang nhà họ Vương rồi, chỉ ít hôm nữa sẽ thành thân. Mấy ngày trước tôi cũng chạy đi chạy lại nhà họ Vương, tiếc rằng trí nhớ quá tệ, những người hầu hạ vương phi tuy đều đã báo danh với tôi, song tôi chẳng nhớ được ai cả… Nghe nói bọn họ đều theo vương phi tương lai nhà chúng tôi vào kinh, chẳng biết đại nhân có thể giúp tôi chút việc, cho tôi xem danh sách bọn họ chăng?”

“Chuyện nhỏ.” Hồ tri sự lập tức quay lại rút ra một cuốn từ tập hồ sơ tháng trước, “Ta còn nhớ rõ, ngày 26 tháng trước có một người họ Vương mời ta đến đăng ký hộ tịch, là cô nương chi thứ tư gia tộc ở Lang Gia… Phải rồi, chính là đây, tổng cộng bốn người.”

Hoàng Tử Hà vội châu đầu ngó vào trang đó, chỉ thấy trên có ghi: Vương Nhược, con gái chi thứ tư nhà họ Vương Lang Gia vào kinh, gia nhân gồm a hoàn Nhàn Vân, Nhiễm Vân, đều mười lăm tuổi, gia đinh Lỗ Dực, ba mươi lăm tuổi.

Bản triều quản lý hộ tịch rất nghiêm, nhất là kinh thành nằm dưới chân thiên tử, những người từ nơi khác đến dẫu chỉ tạm trú, cũng phải vào bộ Hộ báo cáo.

“Ôi chà, chỉ có tên hai a hoàn thôi ư, xem ra tôi phải dày mặt đi nghe ngóng về mấy người khác rồi.” Hoàng Tử Hà làm bộ rầu rĩ, cảm tạ Hồ tri sự lần nữa rồi bước tới thu dọn đồ đạc của mình, toan rời khỏi bộ Hộ.

Cô đang định cuộn bức họa thì nhác thấy một tên tiểu lại bộ Hộ đương nhìn chằm chằm vào đó, vẻ kinh ngạc. Hoàng Tử Hà liền hỏi, “Vị đại nhân này, có phải từng gặp người phụ nữ trong tranh không?”

“À… Bỉ chức từng gặp một người gần giống, nhưng cũng chưa chắc…” Tiểu lại ấp úng đáp, có vẻ khó mở miệng.

Hoàng Tử Hà vội gặng, “Xin hỏi đại nhân gặp ở đâu?”

Tiểu lại do dự chốc lát mới đáp, “Nghĩa trang phía Tây Thành.”

Nghĩa trang. Hai chữ này vừa lọt vào tai, Hoàng Tử Hà tức thì cau mày, lòng trào lên dự cảm không lành. Xuất hiện ở nghĩa trang, lại do bộ Hộ xử lý, thông thường đều là xác vô danh.

Quả nhiên tiểu lại kia quay vào rút trong tủ ra một cuốn sổ, “Bên Tây thành có hơn mười người từ U Châu tới, mấy hôm trước nhiễm bệnh chết cả. Sáng nay bỉ chức tới vào sổ, thấy trong đó có một kẻ… rất giống người phụ nữ công công đang tìm.” Nói đoạn, tiểu lại lật cuốn sổ ra đọc lên, “Ngươi chết là nữ, không biết tên, chừng trên dưới bốn mươi, thân cao năm thước ba tấc, đầy đặn cân xứng, da rất trắng, tóc đen dày, má bầu mũi cao, mày trái có một nốt ruồi đen.”

Mày trái có nốt ruồi đen.

Hoàng Tử Hà vội ngồi thẳng dậy, hối hả hỏi, “Thi thể ấy còn ở nghĩa trang không? Đại nhân có thể chỉ cho tôi tới tra xét thử?”

Tiểu lại cất cuốn sách vào tủ, lắc đầu đáp, “Không được, đám người đó mắc bệnh dịch mà chết, theo lệ đã hỏa táng cùng tất cả di vật, chôn sâu tro cốt rồi.”

“Như vậy… là hết cách.” Hoàng Tử Hà cẩn thận cuộn bức họa, cảm tạ tên tiểu lại lần nữa rồi nói, “Xem ra tôi vẫn phải theo lời dặn là đi tìm khắp lượt trong kinh xem có ai giống với bức vẽ này không. Nếu quả không tìm được thì đành bảo với bà ta rằng, có lẽ người đã chết rồi.”

Cô rời bộ Hộ, xe ngựa lộc cộc lăn bánh. Cô xem đi xem lại bức vẽ, ngắm nhìn hai người phụ nữ mỉm cười trong tranh rồi trầm ngâm nhớ lại những lời Vương Nhược nói lúc trước.

Nàng nói, ta được tuyển làm vương phi, nên nhũ mẫu đã vội vã về Lang Gia, giúp ta lấy ít đồ dùng hằng ngày.

Vẻ mặt nàng khi ấy hơi gượng gạo, sau đó còn bổ sung một câu, nhũ mẫu đã lớn tuổi, có lẽ sẽ không quay lại nữa, ở dưới quê nhà dưỡng già.

Không quay lại nữa. Thế này quả là không quay lại được nữa rồi.

Nhớ đến hai lúm đồng tiền mờ mờ trên má Vương Nhược và vẻ thẹn thùng khả ái, Hoàng Tử Hà chỉ thấy bàng hoàng, như thể đã bị giàn tử đằng trước đình viện kia làm hoa mắt.

Hoàng Tử Hà không vội đi tìm Trần Niệm Nương mà về Quỳ vương phủ trước, trải bức vẽ ra, kể cho Lý Thư Bạch nghe chuyện ở bộ Hộ, đoạn trỏ vào giữa hai chân mày mình, nói, “Phùng Ức Nương và xác chết kia đều có một nốt ruồi đen giữa hai mày nghiêng về bên trái. Nhưng hôm ấy tôi không cách nào nhìn rõ nhũ mẫu của Vương Nhược có nốt ruồi ở đây hay không.”

“Bất kể ra sao, cũng là một manh mối để bắt tay vào.” Hiếm lắm mới thấy Lý Thư Bạch lộ vẻ hứng thú. Y đặt chiếc bình lưu ly đang cầm trên tay lên bàn, con cá nhỏ bên trong hơi giật mình, vội xòe chiếc đuôi dài ra.

“Một cầm sư kỹ viện từ Dương Châu đến lại cùng một thiếu nữ gia thế lên kinh tuyển phi, sau đó chết lẫn trong đám nạn dân U Châu, xem ra đằng sau chứa đựng rất nhiều việc đáng truy cứu.” Lý Thư Bạch hài lòng ra mặt với tin tức cô đem về, “Thứ nhất, cô ta dùng canh thiếp giả, ngụy tạo ngày sinh. Phải là người rất có năng lực giúp cô ta làm giả, bằng không khó lòng vượt qua vòng thẩm định. Thứ hai, Vương Uẩn tuy không quen thân với cô ta, nhưng thân phận cô ta quả có tồn tại trong tài liệu cũ từ mười mấy năm trước, không phải là bịa đặt. Sách phong vương phi theo lệ phải chuyển hộ tịch đến Trường An, ta đã sai người đi tra xét, quả thực trong hồ sơ mười mấy năm trước có ghi lại, con gái chi thứ tư của nhà họ Vương ở Lang Gia tên Vương Nhược, không thể giả mạo được.”

Lý Thư Bạch nói mà không nhìn cô, thong thả giơ ngón tay thứ ba lên, “Trên đây là những điểm ta thấy không hợp lý, giờ nói ta nghe những chuyện ngươi thấy không hợp lý đi.”

Hoàng Tử Hà rút cây trâm trên tóc, vạch lên bàn, “Thứ ba…”

Vừa dứt lời, cô lại vội vã giơ tay túm lấy mái tóc xổ ra, sau đó lập tức dùng trâm búi lại.

Thấy Lý Thư Bạch chỉ nhìn, chẳng nói năng gì, cô lúng túng bỏ tay xuống phân bua, “Tôi cứ quen tay, quên khuấy giờ mình đang là tiểu hoạn quan, chỉ có một cây trâm búi tóc…”

“Quen tay gì mà lạ vậy, một hai ba bốn còn không nhớ được, lại định dùng trâm vạch nữa.” Lý Thư Bạch cau mày, rút một tờ giấy Trừng tâm đường(*) ném cho cô.

(*) Giấy Trừng tâm đường là một dạng giấy Tuyên do người Hán ở Huy Châu sản xuất, được xếp vào hàng thượng phẩm và xưng tụng là mịn như da, bền như ngọc, mỏng mà sáng.

Hoàng Tử Hà nhón một cây bút gần mình, sắp xếp lại suy nghĩ trong đầu rồi lần lượt viết ba chữ một, hai, ba, nói, “Thứ ba, theo Trần Niệm Nương kể thì Phùng Ức Nương tạm thời hộ tống con gái cố nhân vào kinh, song Vương Nhược lại nói Phùng Ức Nương đã ở bên chăm bẵm cô ta từ bé. Hơn nữa tôi cũng cảm thấy trước đây họ từng quen nhau, vì vương phi học đàn từ nhỏ, rất có thể do chính Phùng Ức Nương dạy, những khúc đầu tiên đều là âm nhạc thịnh hành trong kỹ viện ở Dương Châu… ví như Liễu miên.”

“Nhà họ Vương là vọng tộc cả trăm năm nay, lại để một cầm sư xuất thân từ kỹ viện Dương Châu dạy cho con cái trong nhà mấy khúc hát ấy, hơn nữa còn nhờ bà ta theo hộ tống con cháu mình lên kinh tuyển phi, đây là điểm đáng ngờ nhất. Còn nữa…” Ánh mắt Lý Thư Bạch lạnh hẳn đi, giọng nói cũng chậm rãi mà thấp trầm, “Phùng Ức Nương chết, có thể là do họ thấy bà ta không nên tồn tại trên đời nữa, tránh rước lấy phiền phức không cần thiết.”

“Vấn đề cần chứng thực bây giờ là, người phụ nữ đã chết có diện mạo giống Phùng Ức Nương rốt cuộc có phải bà ta hay không. Dù sao trên đời cũng có rất nhiều người giống nhau, một bức vẽ chẳng làm bằng được, lúc trước tôi lại không trông rõ chân mày nhũ mẫu của vương phi.”

Lý Thư Bạch gõ nhẹ xuống mặt bàn hồi lâu mới nói, “Dựa theo những gì ta biết về đám sai dịch ở bộ Hộ thì hễ làm biếng được chỗ nào chúng sẽ làm biếng ngay chỗ ấy, nhất định không đốt lâu chôn sâu đâu.”

Dự cảm không lành nhen lên trong lòng Hoàng Tử Hà, da đầu cô bất giác tê dại cả đi. Quả nhiên, Lý Thư Bạch mở ngăn tủ lấy ra một con cá nhỏ bằng vàng ném cho cô, “Ngươi đến nhà họ Chu ở gần mộ Đổng Trọng Thư phường Sùng Nhân, tìm tiểu thiếu gia Chu Tử Tần đi.”

Hoàng Tử Hà đương nhiên vẫn nhớ câu chuyện về tiểu thiếu gia nhà họ Chu lập chí muốn làm ngỗ tác kia, dự cảm không lành càng thêm mạnh mẽ, “Vương gia muốn tôi đi là để…?”

Y nhìn cô, khóe môi hơi nhếch lên. Lạ thực, rõ ràng y đang cười với mình mà sao cô thấy sởn cả gai ốc, tưởng đâu mình sắp bị kẻ trước mặt đạp xuống ao bùn.

Quả nhiên, y đáp, “Đương nhiên là cùng Chu Tử Tần đào thi thể lên khám nghiệm rồi.”

Hoàng Tử Hà cảm thấy mình sắp gục ngã tới nơi!

“Quỳ vương gia! Tôi là phận liễu yếu đào tơ mà! Là một thiếu nữ mới mười bảy tuổi thôi đấy! Vương gia bảo tôi nửa đêm canh ba dẫn một gã thanh niên lạ mặt đi đào mồ ư?”

“Trước đây chẳng phải ngươi vẫn theo cha mình đi tra án đấy thôi? Ta nghĩ ngươi đã thấy không ít thi thể rồi.” Trước lời lên án đầy huyết lệ của cô, Lý Thư Bạch chẳng mảy may cảm động, “Hay phải nói, thực ra ngươi chỉ biết lải nhải cái gì mà rửa oan cho cha mẹ, chứ không hề thực lòng muốn làm?”

“…” Hoàng Tử Hà phẫn nộ nhìn khóe môi đã cong lên của y cùng vẻ háo hức chờ xem kịch hay lồ lộ trên mặt, nhưng vừa nghe y nhắc đến việc của cha mẹ, bỗng chốc một luồng hơi lạnh như nước đá đổ xối xuống đầu, lan ra khắp người cô.

Hoàng Tử Hà, trước đây chẳng phải ngươi đã hạ quyết tâm, gác mọi thứ trên đời qua một bên, chỉ có món nợ máu của cả gia đình mới là lý do duy nhất để sống tiếp đấy sao?

Nghiến chặt răng, cô nhặt lấy con cá vàng trên mặt bàn, quay ngoắt người đi thẳng.

Lý Thư Bạch lắng tai nghe tiếng đồng hồ nước bên ngoài, giục giã, “Đi nhanh lên, sắp đến canh một rồi, kinh thành sẽ có giới nghiêm đấy.”

Cô quay ngoắt lại hét lớn, “Cho tôi một thớt ngựa!”

Y phất tay đuổi cô, “Cho hai thớt, nhanh lên!”
 

Tam Thất

nhân chi sơ, tính bản thiện
Tham gia
13/4/19
Bài viết
1,705
Điểm cảm xúc
1,399
Điểm
113
Hai thớt ngựa, cưỡi một thớt, dắt theo một thớt, xuyên qua phường An Hưng, phường Thắng Nghiệp, dọc đường đi đã thấy phố xá vắng tanh không người qua lại.

Cô chạy thẳng đến cạnh mộ Đổng Trọng Thư ở phường Sùng Nhân, hối hả xuống ngựa gõ cửa, tên gác cổng mở cửa nhìn bộ đồ hoạn quan của cô một lượt rồi tươi cười hỏi, “Tiểu công công tìm ai?”

“Tìm tiểu thiếu gia nhà các người, Chu Tử Tần.” Cô nói, đoạn giơ con cá vàng trong tay lên. Tên gác cổng liền nói, “Ôi cha, xin công công đợi một lát.”

Hoàng Tử Hà đứng trước Chu phủ, ngắm bóng thỏ nhô lên từ phía Đông, trống “Đóng cổng” trong thành Trường An loáng thoáng từ xa vẳng lại. Cô không khỏi sốt ruột.

May sao không lâu sau bên trong có tiếng động rồi một thiếu niên vội vã đi ra, ước chừng chưa đầy hai mươi tuổi, mày thanh mắt sáng, nho nhã tuấn tú, vận một bộ áo gấm thêu, sắc thiên thanh hoa lệ của chiếc áo phối cùng hoa văn tím khói, lưng thắt đai bạch ngọc chạm con ly, đeo đầy những túi hương, ví tiền, ngọc bội xanh, thoạt nhìn rành rành là một tay công tử chơi bời thường gặp, chẳng qua bộ dạng dễ coi hơn hẳn.

Thiếu niên nọ vừa thấy cô liền hỏi, “Tiểu công công, Quỳ vương tìm ta ư?”

“Chu Tử Tần?” Cô hỏi lại.

“Phải, chính là ta.” Gã nhìn quanh một lượt rồi gặng, “Có phải vương gia đã có chỗ dùng tới ta rồi không? Nghe nói gia đã tiến cử ta với bệ hạ, để ta được theo cha tới Thục, cuối cùng ta cũng được làm sai nha rồi! Ha ha ha, giai đoạn mới của đời ta sắp bắt đầu…”

“Nói bé thôi.” Lòng đang nóng như lửa đốt, cô đâm ra khó chịu với tiếng reo hò của kẻ kia, xẵng giọng nói, “Giờ vương gia cắt đặt cho một việc, rất hợp với công tử.”

“Thật ư? Còn hợp hơn làm sai nha à?”

“Ừm, quật mồ.”

“Quả nhiên người hiểu ta là Quỳ vương.” Gã chẳng buồn hỏi kỹ tình hình, giơ tay lên búng đánh tách, “Đợi một lát! Ta lấy dụng cụ rồi đến!”

Theo lệ ở Trường An, mỗi khi trời tối sẽ gióng sáu trăm tiếng trống “Đóng cổng”, hết tiếng cuối cùng thì buông dùi, đóng cổng thành, mãi đến canh năm ba khắc hôm sau, sau bốn trăm tiếng trống “Mở cổng”, mới mở ra.

Trời càng lúc càng tối, sáu trăm tiếng trống “Đóng cổng” tiếng sau giục giã tiếng trước. Hoàng Tử Hà và Chu Tử Tần thúc ngựa phi như bay trên phố, nhắm thẳng hướng cửa Kim Quang.

Gần như vào khoảnh khắc tiếng trống cuối cùng gióng xuống, quan giữ cổng thành hô lớn, “Đóng cổng!!!” thì hai thớt ngựa của họ lao qua cổng, men theo dòng kênh chạy thẳng tới vùng đồng hoang ngoài Tây thành.

Phía Tây thành là rừng núi um tùm, Chu Tử Tần thông thạo đường sá, dẫn cô đi thẳng đến nghĩa trang ngó vào trong, chỉ thấy một ngọn đèn leo lét, ông lão trông nghĩa địa đã ngủ từ lâu.

Chu Tử Tần đã cởi chiếc áo gấm rườm rà kia ra, chỉ vận quần áo nâu sồng. Gã rút trong tay áo ra một sợi dây kẽm, khéo léo kéo then rồi tức tốc đẩy cửa, thò tay vào, kịp thời bắt lấy chiếc then trước khi nó rơi chạm đất, khẽ khàng đặt lên bậu cửa sổ bên cạnh.

Hoàng Tử Hà trông mà phục sát đất, bản lĩnh này nào có giống tay công tử ăn chơi khắp người gấm vóc, rõ ràng là hồ ly trăm năm tu luyện thành tinh mà.

Gã ngoắc tay với cô, sau đó rón rén bước vào, mở tủ gỗ, rút cuốn sổ bên trong ra, lật đến trang cuối cùng…

Mười bốn người dân lưu vong ở U Châu, mười hai nam hai nữ, đều táng cạnh gốc thông sau Kỳ Sơn.

Gã lướt ngón tay qua hàng chữ đó rồi lặng lẽ trỏ ngọn đồi nhỏ bên ngoài, há miệng làm thành khẩu hình “Đi”.

Hai người rón rén ra cửa, gã lại dùng trâm dẹt đẩy chiếc then vào từng chút từng chút một, khó khăn lắm mới cài lại được, đoạn vẫy tay ra hiệu cho cô đi.

Cuối cùng Hoàng Tử Hà cũng hiểu vì sao Lý Thư Bạch bảo cô đi tìm Chu Tử Tần, gã này rõ ràng là kẻ tái phạm thành quen, tay chân rất nhanh nhẹn.

Đi thật xa rồi, Hoàng Tử Hà mới hỏi, “Công tử… trước đây thường làm thế này ư? Có vẻ thành thục lắm.”

Gã dương dương tự đắc, “Phải rồi, ta chỉ thích chút ngón nghề đó thôi, cho công công biết nhé, công phu ngỗ tác của ta cũng là lén luyện được từ những thi thể vô thừa nhận thế này đấy.”

“Bản lĩnh đẩy then cửa, hẳn cũng đạt mức tuyệt kỹ ở thành Trường An rồi nhỉ?”

“Thường thôi, thường thôi, ta luyện lâu rồi.”

“Thực ra tôi muốn hỏi chuyện này, bậu cửa sổ bên cạnh có chốt, hình như chỉ đẩy khẽ là mở được, sao công tử nhất định phải vào bằng cửa chính?”

“Bậu… bậu cửa sổ ấy hả?” Chu Tử Tần nín lặng, Hoàng Tử Hà đi xa thật xa, cuối cùng mới nghe thấy tiếng la thảm thiết phía sau, “Ôi giời ơi bản lĩnh tôi luyện hơn nửa năm! Ai trả lại cho tôi mồ hôi nước mắt khổ luyện ngày đêm đây!”

Đến dưới ngọn đồi nọ, họ thấy hai chú ngựa buộc ở đó đang thong thả đi lại.

Chu Tử Tần dắt ngựa đến rừng thông phía Bắc, trông thấy một thửa đất mới lật, biết ngay là chỗ này, bèn bê chiếc rương đeo trên lưng ngựa trước lúc lên đường xuống, mở ra lấy cuốc gấp xẻng gấp, ném cho Hoàng Tử Hà một chiếc.

Cầm chiếc xẻng, Hoàng Tử Hà ngỡ ngàng không dám tin, “Công tử có cả cái này ư?” Chuyên nghiệp quá nhỉ!

“Hừm, đừng nhắc nữa, đây cũng nhờ Quỳ vương lấy từ Binh khí ty cho ta đấy, khi gia phụ phát hiện, ta đã bị đánh suýt chết!” Gã ròng ròng nước mắt, đoạn moi trong rương ra một nắm tỏi, một miếng gừng và một bình giấm.

Hoàng Tử Hà cứ ngỡ gã sẽ moi ra nốt một cái bánh bao, nào ngờ gã lại lấy ra hai tấm vải, giã nát gừng và tỏi, hòa với giấm bóp trong vải rồi đưa cho cô một tấm, “Bịt vào đi, mùi xác thối lắm.”

Hoàng Tử Hà nhớ ra một chuyện, vội nhắc, “Nghe nói mấy người này đều chết vì bệnh dịch.”

“Vậy càng phải bịt mũi miệng lại, mau bịt vào đi.” Gã đắc ý nói, “Tuy hơi khó ngửi, nhưng đây là phương thuốc tổ truyền đó.”

Vừa đưa tấm vải lên mũi, Hoàng Tử Hà đã suýt xỉu, “Chu đại nhân làm quan cơ mà? Chu gia còn có phương thuốc tổ truyền này nữa à?”

“Tổ truyền, nhưng không phải tổ truyền nhà ta. Cầu cạnh bao lâu, làm thân mất mấy tháng mới được ngỗ tác nổi danh nhất ở Trường An là Chu bá bá truyền cho phương thuốc tổ truyền của nhà họ Chu này đấy.”

Hoàng Tử Hà im lặng cầm xẻng đào đất cùng gã. Thi thể vừa chôn hôm nay nên đào lên cũng không mấy vất vả, lại được Chu Tử Tần dùng cuốc thành thạo, tốc độ rất nhanh.

Dưới ánh trăng, Chu Tử Tần đào mãi đào mãi, có vẻ chán nản, bèn thuận miệng hỏi, “Công công là… là nguồn vui mới của Quỳ vương đó ư?”

“…” Hoàng Tử Hà nghĩ nếu không phải đang bịt mặt thì nhìn vẻ nhăn nhó của cô nhất định gã sẽ hiểu ngay cô nghĩ thế nào. Tiếc rằng Chu Tử Tần không trông thấy, vẫn tiếp tục lải nhải, “Tên là cái gì… Dương Sùng Cổ phải không?”

Cô rầu rĩ “ừm” một tiếng, nghĩ ngợi chốc lát rồi hỏi, "Nguồn vui mới gì đó, nghĩa là thế nào?”

“Hả? Ta cũng không rõ, chỉ nghe người trong kinh đồn rằng, bên cạnh Quỳ vương xuất hiện một tiểu công công rất đẹp, Chiêu vương xin mà Quỳ vương cũng không cho. Nên khi gặp mặt, ta mới đoán chắc là công công.”

Nghe những lời nhảm nhí của gã, Hoàng Tử Hà chẳng thèm chấp nữa, chỉ phẫn uất đào hùng hục.

Song gã vẫn dai dẳng không tha, “Nghe nói công công biết phá án? Từng phá vụ án Bốn phương?”

“Ăn may thôi.”

“Phá được vụ án như thế, ta thấy có thể sánh ngang với người ta sùng bái nhất rồi.”

“Cũng thường thường ấy mà.”

Ánh trăng mờ ảo, rừng thông rì rào, giữa đồng hoang vắng vẻ, hai người vừa trò chuyện câu được câu chăng, vừa mải miết đào xới. Mãi tới khi dưới ánh trăng lộ ra vài thứ không giống màu bùn đát, Chu Tử Tần mới hô lên, “Đợi chút đợi chút, để ta xem nào.”

Đoạn gã nhảy ngay xuống cái hố nông vừa đào, đeo đôi găng mỏng vào, nhặt một mảnh xương lên xem xét, “Không sai, là thi thể đã được hỏa thiêu. Có điều đây rõ ràng là xương đàn ông, công công xem xương tay to thế này mà. Nếu muốn tìm một phụ nữ thì phải tiếp tục đào rồi.”

Hoàng Tử Hà ngồi thụp xuống bên miệng hố, “Đúng, phải tìm một phụ nữ, tuổi chừng bốn mươi, cao năm thước ba tấc, người dong dỏng, giỏi đánh đàn.”

“Được.” Chu Tử Tần lại dùng xẻng xới đất. Đào hết xương cốt mười bốn người thì rất nhọc, may mà phụ nữ được chôn cách ra, Chu Tử Tần đào rộng xung quanh, phân biệt thật kỹ một lượt, cuối cùng cũng bốc được một vốc cháy sém.

Trông đống xương thịt cháy dở ấy, Hoàng Tử Hà biết Lý Thư Bạch đã nói đúng, quả nhiên đám sai dịch kia chỉ hỏa táng qua loa là đào huyệt chôn luôn, chẳng buồn chấp hành quy tắc đốt lâu chôn sâu.

Cô tự xỏ găng vào, trước tiên lật xem tay thi thể. Trời tối nên chỉ thấy lờ mờ, nhưng cũng đỡ được mấy phần ghê sợ. Có điều mùi xác cháy quá nồng nặc, dù đã được giấm, tỏi và gừng át bớt, vẫn xộc thẳng vào mũi.

Cô nín thở, nhủ thầm, Hoàng Tử Hà, đến thi thể người nhà ngươi cũng nhìn qua rồi kia mà, mấy thứ này thấm tháp gì.

Đợi cơn buồn nôn dần dịu xuống, cô gắng hết sức định thần, giơ tay lật thi thể kia lại. Chu Tử Tần nói, “Nhìn từ xương cốt, có thể thấy hai cái xác bên dưới đều cao hơn năm thước, một kẻ xương khá giòn, thân hình lại hơi gù, ước chừng phải hơn năm mươi nên bộ thứ hai chắc là người công công muốn tìm đấy.”

Hoàng Tử Hà quan sát kỹ chiếc đầu lâu đã cháy đen, hỏi Chu Tử Tần, “Có cách gì tra ra được mày trái bà ta có nốt ruồi đen hay không không?”

“Không thể, nốt ruồi và sẹo đều ở phần biểu bì, da thịt cháy rụi rồi, mấy thứ đó sao còn được nữa?”

“Vậy một thi thể thế này, còn dấu vết gì để nhận ra thân phận nữa không?”

“Đợi chút, để ta tìm xem.” Đoạn gã lấy trong rương một chiếc túi da, mở ra, đồ vật bên trong phản chiếu ánh trăng lấp loáng. Toàn là chày, dùi, dao nhỏ các loại, đều rèn bằng thép tốt.

“Muốn làm cho chắc, phải có đồ sắc, trang bị của ta không tồi chứ hả?” Gã vừa khoe khoang vừa thành thạo lật giở kiểm tra thi thể hồi lâu, đoạn nhanh nhẹn rạch lớp da còn sót lại, “Trước hết không được động vào cổ họng… ngón tay đã cháy rụi, không nhận dạng được nữa; mắt khô quắt, không nhận dạng được; tai không còn, không nhận dạng được…”

Hoàng Tử Hà ngồi thụp xuống bên miệng hố, ngẩng đầu ngắm trăng sáng. Chu Tử Tần loay hoay một hồi rồi kết luận, “Không nhận ra được vết thương bên ngoài nữa đâu.”

Hoàng Tử Hà tì cằm lên đầu gối, “Trước khi hỏa thiêu, người của bộ Hộ không kiểm tra sao? Cuốn sổ trong nghĩa trang có ghi lại không?”

“Người này chết vì bệnh dịch nên chẳng ai kiểm tra nữa đâu, chỉ mong nhanh nhanh xử lý cho xong thôi.” Nói đoạn, Chu Tử Tần lại trỏ chiếc rương bên cạnh, “Lấy cái túi nhỏ ở ngăn thứ hai hàng thứ tư cho ta.”

Hoàng Tử Hà lấy chiếc túi vải trong đó quăng cho Chu Tử Tần, gã rút ra một thẻ bài mỏng bằng bạc rộng bằng ngón tay và một chiếc bình nhỏ, sau đó chấm vải vào chất lỏng trong bình, xát mạnh lên thẻ bài tới khi nó sáng bóng lên mới tóm lấy cằm người chết, mở miệng bà ta ra, nhét thẻ bài vào rồi đóng miệng lại, dùng một tờ giấy đậy kín, bảo, “Đợi một lát xem.”

Hoàng Tử Hà theo đám bổ đầu ở Thục quận đi tra án lâu ngày, đương nhiên biết đây là cách nghiệm độc, thứ bôi lên thẻ bài là nước tạo giáp(*). Đợi nửa canh giờ lấy ra, nếu thẻ bài hóa đen thì người đó chết vì trúng độc.

(*) Một loài thực vật có hoa trong họ đậu, thuộc chi bồ kết.

“Ngoài thi thể người đàn bà kia, còn có thi thể những người đàn ông lưu vong, công tử có thể tìm lấy một cái, nghiệm độc đồng thời không?” Hoàng Tử Hà đề nghị.

“Được.” Chu Tử Tần đáp, đoạn cũng dùng giấy phủ kín miệng những người kia lại.

Hoàng Tử Hà không kìm được lên tiếng nhắc nhở, “Lát nữa nhớ kiểm tra cả dạ dày nhé, lần trước ở Thục quận có một cô gái, sau khi chết mới bị người ta đổ thuốc độc, kết quả ngỗ tác chỉ khám nghiệm phần miệng, suýt nữa đoán lầm.”

“Ô, còn có chuyện như vậy ư?” Mắt Chu Tử Tần tức thì sáng rực, gã trèo lên khỏi hố, cùng cô đi đến gốc thông cách đó một quãng, bỏ khăn bịt miệng xuống hỏi, “Hay công công thuật lại cụ thể vụ án đó đi?”

“Án đó không có gì, rất là đơn giản.” Hoàng Tử Hà nhớ lại rồi nói, “Ở Long Châu thuộc Thục quận có một thiếu nữ đột tử tại nhà, ngỗ tác dùng cách này kiểm nghiệm, cho là uống thuốc độc tự vẫn. Song tôi… Song vì sai nha phát hiện vết bầm trên cổ tay cô ta không giống hoa văn dây nho trên chiếc vòng tay hằn lên, mà là hoa văn thạch lựu, đoán rằng trước khi chết nhất định đã có một phụ nữ khác đè lên tay cô ta. Bèn tìm kỹ trong mũi miệng cô ta, phát hiện tắc máu. Sau khi thẩm vấn khắp lượt người nhà mới biết đại tỷ cô ta thông gian với hàng xóm, bị cô ta bắt gặp, đại tỷ bèn túm chặt hai tay cô ta còn tên hàng xóm ép cô ta giữ bí mật, nào ngờ ra tay không lường được nặng nhẹ, bịt kín mũi miệng khiến cô ta ngạt thở chết. Giữa lúc bối rối, hai kẻ kia bèn đổ thuốc độc vào miệng cô ta, hòng ngụy tạo là cô ta uống thuốc độc tự sát. Vì chỉ nghiệm thấy độc ở cổ họng chứ không thấy trong bụng, nhờ thế mà phá được án này.”

Chu Tử Tần phấn chấn hỏi, “Thật sao? Chẳng hay con người tâm tư tinh tế, chỉ từ hoa văn trên một chiếc vòng mà phá được vụ án ấy là ai vậy?”

“… Là Quách Minh, bổ đầu ở Thục quận.”

“Không thể nào! Ta từng gặp Quách Minh, hắn ta râu ria xồm xoàm, hành xử tùy tiện, không lý nào lại để tâm đến hình dạng vết hằn trên tay phụ nữ được.”

Hoàng Tử Hà chẳng biết làm sao, đành đưa mắt liếc vầng trăng sáng đã lên đến đỉnh đầu, “Cái đó tôi không biết.”

“Ta lại đoán rằng, liệu có phải là Hoàng Tử Hà, ái nữ của Hoàng sứ quân không?” Chu Tử Tần đột nhiên suy đoán, “Ta nghe nói cô ấy rất giỏi phá án từ những manh mối nhỏ.”

“Không rõ.” Hoàng Tử Hà tì cằm lên đầu gối, nhìn vầng trăng sáng hồi lâu mới thốt, “Hình như từng nghe nói đến người này.”

Chu Tử Tần không nhận ra thái độ lạnh nhạt của cô, cứ hào hứng nói, “Thoạt nhìn đã biết trước đây công công không ở Trường An! Cũng không ở Thục quận đúng không? Cô ấy rất nổi tiếng ở Thục và Trường An đó! Còn nữa còn nữa, công công có biết vì sao ta quyết tâm làm ngỗ tác, làm sai nha không? Chính là vì Hoàng Tử Hà đó!”

“Hở?” Cô vẫn thờ ơ.

“Công công đợi một chút.” Chu Tử Tần quay sang lấy một túi lớn trong rương ra, đưa tới trước mặt cô, “Này, chia cho công công một nửa.”

Ngửi thấy mùi thơm nức, cô cúi xuống nhìn, không khỏi buồn nôn, “Tối nay chúng ta đi đào thi thể mà công tử còn đem gà nướng theo ư?” Huống hồ còn đào thi thể đã hỏa táng!

“Ôi chao, ta nào đã ăn cơm tối! Lúc trước lẻn vào bếp lấy giấm với tỏi gừng, thấy chỉ có cái này tiện mang theo, bèn vơ lá sen gói lại cầm đi. Đầu bếp nhà ta tay nghề khá lắm đấy!”

Khóe môi Hoàng Tử Hà giần giật, chẳng muốn nói thêm lời nào với kẻ này nữa.

“Nãy kể đến đâu rồi nhỉ? À, Hoàng Tử Hà ái nữ của Hoàng sứ quân, chính là người trong lòng ta đấy! Là người trong mộng!”

Hoàng Tử Hà lạnh lùng nói, “Cô ta đứng trước mặt công tử cũng không nhận ra mà?”

“Sao thế được? Mỗi lần ngang qua bảng truy nã dán trên cổng thành, ta đều phải dừng lại ngắm một lát, quả là đẹp! Trên cáo thị mà còn đẹp nhường ấy, mới gọi là mỹ nhân thực sự đúng không?”

Chẳng còn hơi sức đâu đôi co với gã trai này nữa, Hoàng Tử Hà đành lặng lẽ quay đầu sang phía khác, “Cô ta có tài đức gì mà khiến công tử mến mộ đến thế?”

“Chuyện này phải kể từ năm năm trước! Bấy giờ ta mười lăm, nàng mười hai. Thuở ấy ta còn chưa biết sau này muốn làm gì, cứ ngỡ mình cũng sẽ như các huynh trưởng, không vùi đầu tính toán sổ sách ở bộ Công thì hằng ngày lại thảo công văn ở Thượng Thư Tỉnh, mọi người đều khen các huynh trưởng nhà ta vô cùng xuất sắc, nhưng ta không thấy vậy. Đời người đẹp như thế mà lãng phí phần lớn thời gian trôi nổi bập bềnh trên quan trường thì còn sống làm gì? Kết quả, khi ta đang dùng dằng nhất, hoang mang nhất trước cuộc đời thì Hoàng Tử Hà xuất hiện!”

Bắt gặp ánh mắt gã nhìn lên vầng trăng sáng rực lấp loáng, cô chợt thấy thôi thúc muốn xé ngay một chiếc cánh gà mà ăn ngấu nghiến, để được nôn ra cho dịu tâm trạng mình.

Giọng Chu Tử Tần đột ngột cao hẳn lên, rõ ràng muốn truyền tải niềm hưng phấn của mình cho cô, “Sau đó, ta đột ngột tìm thấy mục tiêu cuộc đời mình! Hoàng Tử Hà bấy giờ mới mười hai tuổi, còn nhỏ mà đã bắt đầu giúp bộ Hình phá án, lẫy lừng bốn phương, còn ta? Năm mười hai tuổi ta đã làm gì? Mà nói chung ta đã làm gì suốt mười lăm năm? Khi nghe được sự tích về nàng, ta bỗng tìm thấy ý nghĩa cuộc đời sau này của mình. Bỗng trông rõ con đường thênh thang trải dài trước mắt! Bỗng trông thấy cuộc đời mình rốt cuộc cũng đi về phía huy hoàng!”

Hoàng Tử Hà không nhịn được đành ngắt lời gã, “Công tử không nghe đồn Hoàng Tử Hà đã giết cả nhà rồi bỏ trốn sao?”

“Không thể có chuyện đó!” Chu Tử Tần vung vẩy chiếc chân gà cầm trong tay, vẻ kiên quyết.

Từ khi xảy ra chuyện, đây là lần đầu tiên cô gặp một kẻ vững tin vào mình như thế, tuy gã có phần khù khờ, song không khỏi khiến cô nhất thời xao động, ánh mắt cũng theo đó mà dừng trên mặt gã, “Tại sao?”

“Hở?”

“Tại sao… công tử lại tin cô ta?”

“Ồ, vì ta thấy người liên tiếp phá được kỳ án như Hoàng Tử Hà nếu thực sự muốn giết người hẳn sẽ tìm một cách khiến thiên hạ không đoán ra được, chứ sao có thể đơn giản thô thiển giết chết cả nhà như thế? Làm vậy thực là uổng tiếng tăm lẫy lừng mà!”

Hoàng Tử Hà tiếp tục ngẩng lên nhìn trời, tự thấy chút xao xuyến vừa rồi quả là lãng phí.

Đợi Chu Tử Tần ăn hết con gà nướng thì cũng sắp đầy nửa canh giờ. Gã lại moi ra một gói hạt dưa chia cho cô một nửa. Lần này Hoàng Tử Hà không từ chối, lẳng lặng bốc một vốc nhỏ.

Vầng trăng ngả về Tây, đã sắp đến canh tư. Chu Tử Tần rút cả ba thẻ bài trong miệng ba cái xác ra, phát hiện chỉ có thẻ bài trong miệng thi thể nghi là Phùng Ức Nương biến đen. Gã lại dùng nước tạo giáp lau kỹ một lượt, đoạn nhìn màu đen kịt không sao lau nổi trên tấm thẻ bài, kết luận, “Là trúng độc mà chết, không sai.”

Hoàng Tử Hà “ừm” một tiếng.

Phùng Ức Nương, cầm sư ở Vân Thiều Uyển Dương Châu, nhũ mẫu dạy dỗ vương phi lại chết vì trúng độc, xác lẫn trong đám dân chạy nạn từ U Châu. Mà vương phi tương lai sắp gả vào Quỳ vương phủ lại nói, nhũ mẫu về Dương Châu rồi.

Cô đương mải nghĩ ngợi thì Chu Tử Tần đã bắt đầu kiểm nghiệm nội tạng, “Để cho cẩn thận, chúng ta kiểm tra lại dạ dày đi.”

Dạ dày được mở ra, tuy cơ bản đã khô quắt, song trông vẫn kinh khủng hết sức. Dây thần kinh to bằng cây đũa như Chu Tử Tần mà cũng phát khiếp, đành quay mặt đi, chỉ dám nhìn bằng khóe mắt. Khi nhét thẻ bài vào gã bỗng ồ lên một tiếng, cảm thấy ngón tay chạm phải thứ gì đó lành lạnh cưng cứng, tiện tay móc ra nhìn, không khỏi reo lên, “Ô, Sùng Cổ, công công mau xem cái này!”

Trong lòng bàn tay gã có một hạt gì đó nho nhỏ tỏa sáng lành lạnh dưới ánh trăng. Hoàng Tử Hà xỏ găng vào cầm lên xem kỹ.

Là một viên ngọc dương chi nhỏ, chỉ bằng móng tay út, chất ngọc trong suốt. Cô lau sạch máu me và vết bẩn trên đó rồi đưa lên soi dưới trăng, trông thấy bề mặt khắc một chữ “niệm” nho nhỏ.

Sắc trắng của ngọc dương chi khi đậm khi nhạt dưới trăng, chảy ngang mắt cô dập dềnh như sóng nước. Nhìn chữ “niệm” trôi nổi trên đó, cô ngây người ra thật lâu.

Viên ngọc dương chi trắng muốt đặt trước mặt Lý Thư Bạch, y nhìn con chữ khắc trên đó, song không cầm lên, chỉ hỏi, “Cái gì đây?”

Hoàng Tử Hà đáp, “Vương gia tự cầm lấy mà nhìn chẳng phải sẽ biết ư?”

Lý Thư Bạch vẫn không chạm vào viên ngọc, mà vươn tay nhấc chiếc bình lưu ly trên bàn, ngắm con cá nhỏ nhởn nhơ tự đắc bơi lượn bên trong, “Chạm vào cái thứ đấy à? Lỡ như nó lấy từ miệng người chết ra thì sao?”

Hoàng Tử Hà thành thật đáp, “Không phải lấy từ miệng người chết đâu, đảm bảo!”

Bấy giờ y mới chìa bàn tay tuyệt mỹ ra, dùng ngón cái và ngón trỏ nhón lấy viên ngọc đưa lên trước mắt ngắm nghía, nhận dạng con chữ trên đó, “Niệm ư?”

“Là Niệm trong Trần Niệm Nương.” Cô nói.

Y đặt viên ngọc xuống, nghĩ ngợi rồi hỏi, “Ngươi định đưa viên ngọc này cho Trần Niệm Nương?”

“Vậy nhất định phải tiết lộ cho bà ta cái chết của Phùng Ức Nương. Đến lúc đó ắt Trần Niệm Nương sẽ sinh chuyện, đánh rắn động cỏ.”

“Ừm, ngươi cứ tạm giữ lấy đi đã.” Y trả lại viên ngọc. Hoàng Tử Hà cầm mảnh vải vẫn bọc viên ngọc lúc trước, bọc kín nó rồi nhét vào tay áo.

Lý Thư Bạch cau mày, “Ta lấy làm lạ, tại sao chúng lơ đễnh đến thế, lại bỏ sót một món đồ chứng minh thân phận quan trọng như vậy bên mình Phùng Ức Nương.”

“Vì Phùng Ức Nương đã nuốt nó vào bụng, trước khi phát độc chết.”

Dứt câu, quả nhiên thấy hàng mi Lý Thư Bạch khẽ nhướng lên. Cảm thấy khoan khoái khó tả, cô lại bồi thêm một câu, “Xác Phùng Ức Nương bị đốt cháy trụi, có điều nội tạng cơ bản vẫn còn, chúng tôi rạch dạ dày bà ta moi ra đấy.”

Lý Thư Bạch nhìn hai ngón tay mình, đoạn ngước lên nhìn Hoàng Tử Hà, gương mặt nãy giờ thờ ơ bình thản, cuối cùng cũng phải đổi sắc.
SPONSORED / ĐƯỢC TÀI TRỢ
Hoàng Tử Hà tỉnh khô nhìn y, “May sao không phụ lòng trông đợi của vương gia, trước khi trời sáng, tôi và Chu Tử Tần đã lo liệu xong mọi sự, sau đó lấp thửa đất lại như cũ, bảo đảm không còn dấu vết gì cả.”

Lý Thư Bạch nhìn thái độ thản nhiên của cô, lại nhìn xuống tay mình, cuối cùng không kìm nổi tóm lấy chiếc chậu rửa bút bằng sứ Long tuyền trên bàn, ra sức chà xát cọ rửa đôi tay, “Hoàng Tử Hà, ngươi cút ngay cho ta!”

Tuy phải vầy vò thi thể suốt đêm, song trong khoảnh khắc chứng kiến vẻ cuống quýt của Lý Thư Bạch, Hoàng Tử Hà chợt cảm thấy tất cả đều xứng đáng. Cô hớn hở chạy về ngủ bù, “Vâng! Cẩn tuân mệnh lệnh vương gia!”

Đại hôn của Quỳ vương Lý Thư Bạch đã định vào 16 tháng Năm.

Mùng 6 tháng Năm, mười ngày trước đại hôn, Vương Nhược đến chùa Tiên Du ở ngoại thành cầu phúc theo tục lệ.

Phong cảnh nơi này rất đẹp, hơn nữa xưa nay, các phi tần và phu nhân dâng hương ở chùa Tiên Du về đều thấy linh nghiệm vô cùng, bởi thế tuy trong thành có rất nhiều chùa chiền, song quý phụ trong kinh vẫn chuộng đến đây dâng hương.

Trước đó, Vương Uẩn đã báo lịch trình với Lý Thư Bạch. Sau khi Quỳ vương phủ đứng ra, từ sáng sớm ngày mùng 6 chùa Tiên Du đã quang đãng hẳn, ngay các tiểu Sa di không có việc gì cũng không được rời thiền phòng. Đến khoảng giờ Thân, trong chùa tịnh không còn kẻ vô công rỗi nghề nào lảng vảng nữa.

Hoàng Tử Hà, Tố Khởi cùng hơn mười a hoàn trong phủ Vương Uẩn theo Vương Nhược đi dâng hương. Chùa Tiên Du rộng rãi thoáng đãng, xây dựa vào núi. Tiền điện tọa lạc dưới chân núi, thờ Phật Di Lặc tươi cười hòa ái và Vi Đà Tôn giả, chính điện nằm ở lưng chừng núi, thờ Như Lai và hai vị Bồ tát Văn Thù, Phổ Hiền. Còn có cả Tây phương A Di Đà Phật cùng Đại Thế Chí Bồ tát, Quan Thế âm Bồ tát, Đông Phương Dược Sư Phật, Nhật Quang Bồ tát, ngoài ra còn La hán và miếu thờ La hán.


Họ vào trong chính điện lạy Phật dâng hương, lần lượt quỳ xuống dập đầu, tới khi lễ xong chính điện ở lưng chừng núi thì Tố Khởi và mấy a hoàn đã mệt lử, thấy hậu điện còn nằm tít trên đỉnh núi, ai nấy đều rũ ra.

Tố Khởi than thở, “Tôi không leo nổi nữa rồi, dù sao hôm nay trong chùa cũng chẳng có ai đâu, Dương Sùng Cổ công công theo vương phi lên đi thôi.”

Hoàng Tử Hà vâng lời, cùng Vương Nhược cầm hương đi theo bậc thềm, leo một mạch lên tới đỉnh.

Trên bệ đá xanh lốm đốm rêu phủ, hai người vừa đi vừa để ý nhìn phía trước, cảnh chùa vắng ngắt, thỉnh thoảng mới nghe tiếng chim líu ríu, rồi một con chim nhỏ trắng muốt bay ngang qua, chao nghiêng lưng trời, bay vào dải núi rừng điệp trùng trước mặt. Hai người nhìn theo, dõi mắt về hướng hậu điện, rồi bỗng trông thấy một người đàn ông đứng lù lù ở đó. Hắn xuất hiện quá đỗi đột ngột, cũng quá đỗi thầm lặng, như thể do chính cánh chim trắng kia biến thành vậy.

Vương Nhược thoáng khựng lại. Hoàng Tử Hà khẽ nắm lấy tay áo nàng, trấn an, “Vương công tử và các thị vệ trong phủ đều ở đây, vương phi cứ yên tâm.”

Vương Nhược “ừm” một tiếng, cùng bước nốt mười bậc thang cuối cùng, đi thẳng đến cửa hậu điện, nâng nén hương vái lạy vào trong. Hậu điện thờ Nhiên Đăng Cổ Phật, trước bệ thờ có hoa thơm nến quý, khói xanh lãng đãng khiến mọi vật trở nên hư ảo.

Vương Nhược quỳ trước bệ thờ, lầm rầm cầu khấn, Hoàng Tử Hà ngoái lại nhìn kẻ kia, thấy hắn vẫn đứng ngoài cửa, xa xa bên ngoài là núi non biêng biếc, bầu không ngăn ngắt, hắn cũng vận một bộ áo xanh, như muốn hòa tan vào cảnh vật, toát lên vẻ phiêu lãng xa xôi.

Như nhận ra Hoàng Tử Hà đang nhìn mình, hắn ngoái lại nhìn cô qua màn hương khói mịt mờ, khóe miệng đột ngột nhếch lên để lộ một nụ cười. Đường nét gương mặt vốn bình bình, chỉ là một nam nhân thanh tú thông thường, song nụ cười lại hết sức ôn hòa ấm áp, toát lên vẻ dịu dàng như mây gợn trời quang.

Hoàng Tử Hà cúi đầu, coi như đáp lễ hắn, nhân đó nhìn xuống mới phát hiện tay hắn xách một chiếc lồng chim. Chính là con chim họ vừa trông thấy, màu trắng như tuyết, đang đậu trong lồng. Chừng như rất hiểu ý người, vừa thấy cô ngó lại, nó liền kêu ríu ran, nhảy nhót tung tăng vô cùng hoạt bát.

Vương Nhược cũng đã lễ xong, đứng dậy quay đầu nhìn theo ánh mắt cô, và trông thấy con chim nhỏ kia.

Trong ngoài đại diện vắng tanh vắng ngắt, chỉ có ba người bọn họ. Người kia xách lồng chim, ánh mặt trời chênh chếch ngả về Tây hắt bóng hắn vào trong điện, trùm lên cả hai người, cảm giác như con dơi khổng lồ dang cánh trong đêm tối. Hắn cười ôn hòa, “Thấy con chim này thế nào?”

“Là các hạ nuôi ư? Trông khôn quá nhỉ.” Vương Nhược nhìn nó, vẻ hiếu kỳ.

Dường như hiểu được lời khen của nàng, con chim càng vui vẻ nhảy nhót trong lồng.

“Phải đó, khôn lắm, dù ta mở cửa lồng để nó bay vào rừng, thì chỉ cần nghe tiếng ta gọi, nó sẽ lập tức quay về.” Nói đoạn hắn thò hai ngón tay vào vuốt nhẹ lên đầu con chim, nó cũng thân mật cọ cọ đầu vào ngón tay hắn.

Hoàng Tử Hà không muốn rầy rà nhiều chuyện, bèn kéo Vương Nhược ra ngoài. Song khi đi ngang qua chỗ kẻ kia, chợt nghe hắn nói, “Bất kể hiện giờ thế nào thì những gì từng làm hay từng trải qua đều sẽ khắc sâu trong lòng, dẫu lừa được mọi người, cũng chẳng gạt nổi bản thân mình.”

Hoàng Tử Hà cảm thấy Vương Nhược thoắt cứng đờ người, bước chân cũng khựng lại.

“… Giống như có một sợi dây vô hình tròng vào cổ, càng muốn chạy xa, nó càng thít chặt.” Rõ ràng kẻ kia đã thấy phản ứng của Vương Nhược, song chỉ cười nói, “Ý ta nói con chim này thôi.”

Hoàng Tử Hà quay lại nhìn thẳng vào hắn, “Ngươi có biết người đứng trước mặt ngươi là ai không mà dám nói năng càn rỡ thế?”

“Đương nhiên ta biết.” Giọng kẻ kia vẫn thản nhiên, còn đượm nét ung dung cười cợt, “Nếu không có gì thay đổi thì trong vòng mười ngày nữa, cô nương đây sẽ trở thành Quỳ vương phi.”

“Đã vậy xin đừng quấy nhiễu quý nhân, để khỏi phiền hà lắm chuyện.”

“Ta nào có quấy nhiễu quý nhân, chỉ là muốn cho vương phi xem một trò hay.” Đoạn hắn từ từ tiến đến, khom người vái nàng một vái, phất tay áo qua lồng chim rồi đặt chiếc lồng xuống trước mặt hai người, ngẩng lên nhìn cả hai, cười nói, “Chút tài vặt, mong đổi được nụ cười của vương phi.”

Trong một khoảnh khắc ngắn ngủi ấy, con chim nhỏ vừa nãy còn nhảy nhót trong lồng đã biến mất. Trước mặt họ chỉ có chiếc lồng trống không với bốn mươi tám nan trúc tía.

Vương Nhược lộ vẻ sửng sốt, ngơ ngác nhìn Hoàng Tử Hà. Hoàng Tử Hà lại đang nhìn chằm chằm kẻ kia, không nói một lời,

“Mong vương phi mấy ngày tới giữ gìn cẩn thận, bằng không khó tránh gặp phải cảnh ngộ tương tự con chim trong lồng này. Dù nan lồng ken khít đến đâu chăng nữa, cũng có thể biến mất trong nháy mắt.” Hắn mỉm cười với hai người rồi quay mình đi thẳng vào điện, cao giọng ngâm nga, “Phận làm chim giữa lồng, chớp mắt không dấu vết, phú quý thảy mây trôi, mộng dài hoài mê mệt!”

Dưới tà dương văng vẳng tiếng chuông đưa, các nhà sư đang tụng bài kinh tối, tiếng tụng niệm cùng bóng chiều rơi rớt bao trùm lấy họ. Chiếc lồng chim dưới đất và bóng hai người đổ dài dưới ánh hoàng hôn, rơi vào đại điện sâu thăm thẳm.

Hoàng Tử Hà xăm xăm trở vào điện, nhưng chẳng thấy một ai. Lúc ngoảnh ra, thì bắt gặp gương mặt Vương Nhược tái nhợt như đóa hoa héo úa.

“Sao muội và Dương công công lại đứng ngây ra đây thế?”

Có người gọi họ. Là Vương Uẩn. Đợi dưới núi mãi mà không thấy cả hai quay lại, y bèn đích thân lên tìm. Thấy chiếc lồng trống rỗng dưới đất, y hỏi, “Ai lại đặt thứ này ở đây?”

Thấy Hoàng Tử Hà nhìn Vương Nhược, hắn mới nhận ra tình hình không ổn, vội gặng, “Nhược muội, thế này là thế nào?”

“Uẩn ca!” Vương Nhược run run lên tiếng, ngẩng đầu nhìn y, mắt còn ngân ngấn kinh hoàng.

Vương Uẩn cau mày hỏi, “Xảy ra chuyện gì thế?”

“Mới rồi… có một gã đàn ông rất lạ… hắn nói…” Giọng Vương Nhược run rẩy lộn xộn, chẳng còn ngữ điệu gì cả.

Hoàng Tử Hà đành tiếp lời, “Trước lúc công tử lên đây, có một gã đàn ông xách lồng chim xuất hiện, chẳng hiểu ra tay thế nào mà thoắt cái đã làm biến mất con chim trong lồng, còn nói có lẽ vương phi sẽ thình lình biến mất như con chim đó vậy.”

“Đàn ông ư?” Vương Uẩn ngạc nhiên nhìn quanh, “Đã xua hết người trong chùa đi ngay từ đầu, sau khi hai người vào, ta lại cùng binh sĩ vương phủ canh giữ bên dưới, theo lý không thể có kẻ nào xuất hiện trong chùa được, sao lại có đàn ông trà trộn vào?”

“Người nọ nhất định còn chưa trốn ra được đâu, chỉ ở trong chùa Tiên Du này thôi, huynh phái người lục soát sẽ tìm thấy đấy.” Vương Nhược run rẩy đề nghị.

Vương Uẩn gật đầu, lại thấy nàng kinh hãi quá độ, bèn an ủi, “Chẳng qua là một kẻ không rõ lai lịch nói mấy câu nhảm nhí, sao muội lại coi là thực? Yên tâm đi, thiên kim của họ Vương Lang Gia chúng ta, vương phi của Quỳ vương phủ, sao có thể bỗng dưng biến mất được? Muội đừng tin mấy lời nói nhảm ấy.”

“Vâng.” Vương Nhược nuốt lệ gật đầu, đoạn rụt rè nói, “Có lẽ, có lẽ tại muội lo lắng quá nhiều, ngày thành hôn càng tới gần, muội càng ăn không ngon ngủ không yên…”

Vương Uẩn gật đầu vẻ thông cảm, mỉm cười dỗ dành, “Ta biết, nghe nói con gái trước lúc gả chồng thường lo lắng như vậy mà. Tuy ta không hiểu lắm, song có lẽ là vì thấy vận mệnh từ nay sẽ thay đổi nên đâm lo chăng.”

Vương Nhược khẽ gật đầu, cắn nhẹ môi.

“Muội ngốc quá, Quỳ vương tốt như vậy, muội còn sợ sau này không hạnh phúc hay sao?” Nói đoạn, Vương Uẩn giơ tay vỗ vỗ vai nàng, “Đi thôi, đừng tin mấy lời nhảm nhí ấy.”

Vương Nhược cúi đầu theo Vương Uẩn xuống thềm, đi về phía Đại Hùng Bảo Điện ở lưng chừng núi. Hoàng Tử Hà theo sau, cách nàng một bậc thềm, chợt nghe tiếng nàng khe khẽ, “Sùng Cổ.”

“Dạ.” Cô đáp.

“Có phải công công cũng thấy… gần đây ta quả thực, có vẻ rất lo lắng rất căng thẳng không?” Nàng thấp thỏm hỏi.

Hoàng Tử Hà nghĩ ngợi rồi đáp, “Vương phi quá để tâm đến vương gia nên càng lúc càng căng thẳng đấy thôi. Nếu chẳng phải vương phi để ý, thì sao lại thế được?”

Vương Nhược mím môi, nhìn cô qua làn nước mắt rồi nói khẽ, “Chắc vậy.”

Các nhà sư vẫn đương tụng kinh tối, tiếng chuông chiều cùng tiếng tụng niệm cứ quấn quýt quanh họ. Nghe tiếng kinh, Hoàng Tử Hà lại chạnh lòng nhớ tới một câu ngoại tổ mẫu từng niệm, “Tất cả ân oán đều vô thường, khó bền vững. Vì yêu mà âu lo, vì yêu mà sợ hãi”.

Vừa lẩm nhẩm, cô vừa ngoảnh sang nhìn Vương Nhược đang cúi gằm mặt, tự hỏi, có thật nàng ta vì yêu Lý Thư Bạch nên mới như thế chăng?

Vương Uẩn vốn tính kỹ lưỡng, sau khi bàn bạc với Từ Chí Uy hộ vệ trong vương phủ thì chia binh lính thành hai nhóm, một nhóm lục soát hết các điện thờ, thiền phòng cùng mọi ngóc ngách trong chùa, còn nhóm kia đi điều tra các nhà sư. Song lúc xảy ra chuyện, mọi người đều đang tập trung ở đại điện tụng kinh tối, chẳng ai có khả năng xuất hiện ở điện thờ Nhiên Đăng Cổ phật cả.

Khi trời tối hẳn, nhóm lính đi lục soát khắp nơi cũng lần lượt quay về, chia cả chùa ra thành năm mươi khu, cứ mười người một tốp tra xét thật kỹ, đến con rận trốn trong chùa, gặp phải chiếc lược chải đi chải lại như thế hẳn cũng bị moi ra – nhưng không, không hề phát hiện dấu vết bất cứ kẻ nào. Trong chùa ngoài Hoàng Tử Hà và Tố Khởi đi theo Vương Nhược thì chỉ còn các a hoàn và vú bõ của nhà họ Vương, ngoài ra chẳng có ai khác.

Thứ duy nhất được coi như phát hiện, là trong điện thờ Nhiên Đăng Cổ phật, có kẻ tìm thấy một đầu mũi tên đã gỉ sét đặt trước bệ thờ.

Trên đó khắc bốn chữ lờ mờ: Đại Đường Quỳ Vương.
 

Tam Thất

nhân chi sơ, tính bản thiện
Tham gia
13/4/19
Bài viết
1,705
Điểm cảm xúc
1,399
Điểm
113
Khi Hoàng Tử Hà về đến Quỳ vương phủ, Lý Thư Bạch đang dùng bữa tối một mình trong sảnh, thấy cô bước vào, y bèn ra hiệu cho các thị nữ lui ra, đoạn giơ tay trỏ chiếc ghế bên cạnh.

Hoàng Tử Hà hiểu ý kéo ghế ngồi xuống. Lý Thư Bạch lại đưa cô một đôi đũa ngà và một cái bát nhỏ.

Cô nhìn quanh, thấy chỉ có bóng hoa lay động trên vách, không còn người nào khác, mới gắp một miếng bánh kim nhũ, nhón ít thịt bằm ướp dầu đinh hương bỏ vào bát ăn.

Lý Thư Bạch điềm nhiên hỏi, “Nghe nói hôm nay đi dâng hương có kẻ đã biểu diễn một màn vô cùng đặc sắc trước mặt các ngươi hả?”

Vẫn nói tin tức của Quỳ vương rất nhanh nhạy, huống hồ lần này y cho đội hộ vệ của mình hộ tống họ lên núi, đương nhiên phải rõ như lòng bàn tay, nên Hoàng Tử Hà chẳng lấy làm lạ, chỉ đáp, “Vâng, đặc sắc lắm, có điều tôi thấy phản ứng của vương phi còn đặc sắc hơn.”

“Vương phi tương lai.” Lý Thư Bạch chỉnh lại cách gọi.

Hoàng Tử Hà vẫn bình thản như không, “Bệ hạ đích thân ban hôn, lại là họ hàng của hoàng hậu, lẽ nào còn có thay đổi gì sao?”

“Bất kể vì lý do gì, khi đưa canh thiếp giả ra, cô ta đã mắc tội khi quân phạm thượng, kết cục chỉ có thể là vạn kiếp bất phục mà thôi.” Lý Thư Bạch nói, đoạn chuyển chủ đề, “Cô ta sợ bị lộ thân phận ư?”

“Có vẻ còn hơn thế, dường như quá khứ của cô ấy ẩn giấu một bí mật gì đó không thể tiết lộ, khi gã đàn ông từ trên trời rơi xuống kia bóng gió nhắc đến, cô ấy sợ đến tái ngắt, không thể che giấu được.”

“Ngươi có để ý kẻ đó xuất hiện và biến mất thế nào không?”

“Hoàn toàn không nhận ra. Hắn làm sao xâm nhập vòng vây trùng trùng của các hộ vệ trong vương phủ, rồi lại làm thế nào để biến mất, tôi chưa thể lần ra mảy may manh mối.” Hoàng Tử Hà cắn cắn chiếc đũa ngà, cau mày nói, “Sau khi hắn biến mất, Vương Uẩn đã dẫn một toán người lục soát rất lâu khắp nơi trong chùa mà không thấy tung tích. Cứ như thể hắn đã biến thành chim bay mất vậy.”

Lý Thư Bạch chậm rãi hỏi, “Ngươi đọc Nguyên Hóa ký của họ Hoàng Phủ chưa?”

Hoàng Tử Hà lắc đầu, “Là cái gì vậy?”

“Là một cuốn sách, bên trong có nhắc tới một tuyệt kỹ là thuật dùng dây thừng của Gia Hưng. Nghe nói năm Khai Nguyên thời Huyền Tông, triều đình cho dân chúng tụ tập ăn mừng, huyện Gia Hưng và Giám ty thi đấu tạp kỹ, Giám ty bèn chọn trong các phạm nhân một kẻ rất giỏi tuyệt kỹ, có tên tù nói rằng mình biết phép dùng dây thừng. Ngục tốt bèn đem hắn ra bãi đất trống, giao cho một sợi dây thừng dài cả trăm thước. Hắn nhận lấy, quăng một đầu thừng lên trời, lập tức đầu dây chui vào trong mây, kéo căng cả sợi dây, như thể bên trên có người bắt lấy vậy. Hắn càng thả, sợi thừng càng mất hút vào bầu trời, cuối cùng khi đầu dây kia biến mất, hắn bèn theo dây leo lên, biến mất vào không trung, cứ thế mà trốn khỏi ngục.”

“Bất kể xem xét từ góc độ nào hay suy luận ra sao thì…” Hoàng Tử Hà nghĩ ngợi hồi lâu, kết luận, “Chuyện này cũng không thể xảy ra.”

“Sao lại không thể? Những chuyện không thể tưởng tượng trên đời chẳng phải rất nhiều ư?” Khóe môi Lý Thư Bạch khẽ nhếch lên, “Ví như, nghe nói vương phi tương lai của ta sẽ biến mất ngay trước mắt mọi người.”

“Xem ra vương gia rất để tâm những lời của kẻ đó?”

“Ta tin rằng không có lửa thì sao có khói.” Lý Thư Bạch ngả người ra lưng ghế, nhìn lên bóng hoa dập dờn lay động trên ô cửa sổ để ngỏ, chợt hỏi, “Hoàng Tử Hà, hồi nhỏ ở Trường An, ngươi thích nơi nào nhất?”

“Hở?” Miệng đang ngậm một miếng bánh kim nhũ thì bị hỏi đột ngột, Hoàng Tử Hà trợn tròn mắt nhìn Lý Thư Bạch rồi lúng búng đáp, “Hẳn là… chợ Tây.”

“Ừm, chợ Tây. Hồi nhỏ ta cũng thích nơi đó nhất.” Y thong thả nói, như đang ngẫm ngợi, “Ai lại không thích chỗ đó chứ? Ấy là nơi náo nhiệt nhất kinh thành, thậm chí nhất thiên hạ.”

Chợ Tây thành Trường An.

Châu báu Ba Tư, hương liệu Thiên Trúc, ngựa quý Đại Uyển, lá trà Giang Nam, gấm vóc đất Thục, da thú ải Bắc…

Từng dãy dài tiệm quán tíu tít mở cửa, nào hàng cá hàng bút quán rượu tiệm trà, chẳng chỗ nào không huyên náo. Khách buôn chen vai thích cánh với người đi đường, những hàng quà vặt quẩy gánh đi trên phố, cô ả bán hoa với những bó hoa như gấm, ca kỹ người Hồ eo lưng thon thả trên gác quán rượu, tạo thành một cảnh tượng náo nhiệt khôn tả.

Đây chính là chợ Tây Trường An với không khí náo nhiệt mà cả lệnh giới nghiêm cũng không xua tan được. Từ những năm Khai Nguyên, Thiên Bảo trở đi, nơi này ngày càng phồn thịnh, kéo theo cả phường Sùng Nhân quanh đó đêm đêm sênh ca, rộn ràng không ngớt.

Ánh mặt trời cuối xuân đầu hạ chiếu lên những cây hòe cây du đầy bên đường, lá non mới nhú biêng biếc như ngọc bích. Lý Thư Bạch và Hoàng Tử Hà kẻ trước người sau thả bộ dưới bóng cây. Vì Lý Thư Bạch đang cải trang, nên Hoàng Tử Hà hôm nay cũng trút bỏ bộ đồ hoạn quan, mặc đồ nam bình thường, thoạt trông như một thiếu niên mới lớn.

Hai người quanh quẩn khắp chợ tây, xem đủ thứ trong các cửa hàng. Tiếc rằng Lý Thư Bạch từ nhỏ quen sống trong nhung lụa, không ưng mấy món đồ tạo tác thô sơ trên phố, còn Hoàng Tử Hà không xu dính túi, lại chưa được Lý Thư Bạch phát lương bổng nên chỉ nhìn chứ chẳng mua được gì cả.

Đến một tiệm bán cá chép gấm, Lý Thư Bạch mới mua một túi thức ăn cho cá, lại ngắm nghía một bể cá bằng sứ hình dạng khá đặc biệt, vẻ như đang cân nhắc.

Hoàng Tử Hà đã không mua được thứ gì, đương nhiên phải xúi bẩy người khác, “Đẹp lắm, đem con cá ở nhà thả vào, nó cũng được hoạt động thoải mái hơn.”

Y cầm bể cá lên xem, đoạn đặt xuống nói, “Nuôi trong bể lớn để nó bơi qua bơi lại thành quen, về sau sẽ không quen chỗ nhỏ nữa.”

Hoàng Tử Hà lẩm bẩm, “Để nó thoải mái một ngày cũng không được ư?”

“Từ khổ đến sướng dễ, từ sướng đến khổ khó. Nếu đằng nào cũng rơi vào cảnh khổ thì ban đầu việc gì phải để nó quá sung sướng?”

“…” Hoàng Tử Hà thực chẳng biết nói gì với kẻ vừa khoác cả một đạo lý lớn lên mình con cá nhỏ nữa.

Giờ còn sớm, chưa thấy các phường trò đâu cả. Hoàng Tử Hà hỏi người đi đường, biết được bọn họ thường phải qua giờ Ngọ, lúc trên phố đông đúc nhất mới xuất hiện.

Trông sắc trời đã sắp đến giờ Ngọ, Lý Thư Bạch cuối cùng cũng rủ lòng thương Hoàng Tử Hà, dắt cô vào một tửu quán bên đường, chọn một gian phòng ngăn, gọi mấy món ăn chưa từng gặp trong vương phủ.

Bên trong quán bài trí khá trang nhã, có điều người dùng bữa đông đúc, không khỏi quá ồn ào. Lý Thư Bạch vừa cau mày, chợt nghe thấy một tiếng thước gõ, cả quán rượu tức thì im phăng phắc.

Là một tiên sinh kể chuyện đương ở trong quán, tay cầm một chiếc trống đô đàm(*), vừa gõ vừa hát, trước là một khúc Điệp luyến hoa của giáo phường, sau đó thu dùi lại, hắng giọng nói, “Hôm nay lão xin kể hầu các vị một chuyện lạ lùng hiếm gặp khắp bốn phương tám hướng Cửu Châu.”

(*) Một loại nhạc cụ du nhập từ Thiên Trúc.

Vừa nghe giọng, Hoàng Tử Hà đã nhận ra đây là tiên sinh kể chuyện trong ngôi đình nhỏ ngoài thành Trường An khi trước, bấy giờ cả đám người tụ lại trú mưa, chính người này đã nhắc đến vụ án nhà cô, hẳn bây giờ sẽ thuật lại những chuyện trên phố trong thành.

Quả nhiên, người đó nói ngay, “Thành Trường An, hoàng đế ngự giữa cung Đại Minh. Ngoài cung còn có các vương, trong đó có một vị là Quỳ vương gia, húy là Lý Tư, tự Thư Bạch.”

Bên dưới có người la lên, “Tôi thích nhất nghe chuyện Quỳ vương đấy, trước hết hẵng kể chuyện vương gia chỉ huy sáu vị tiết độ sứ đại chiến với Bàng Huân đi!”

“Khách quan à, đừng nóng đừng nóng, để tôi kể chuyện gần đây cho ông nghe nhé, nguồn cơn việc này có liên quan chặt chẽ với chuyện Quỳ vương bắn chết Bàng Huân giữa vạn quân năm xưa đấy.”

Bên ngoài ồn ào nhốn nháo, nhưng trong gian phòng ngăn chạm hoa có thể nhìn xuyên vách ra ngoài thì ngược lại, Lý Thư Bạch chỉ mắt lấp tai ngơ, chậm rãi dùng cơm, bình thản nhìn những người đi lại ngoài đường.

Hoàng Tử Hà chống cằm lắng tai nghe câu chuyện, “Ồ, các vị có biết gần đây Quỳ vương bận túi bụi không, nghe nói vương gia mới gặp phiền phức đấy.”

“Quỳ vương gia vừa phá được vụ án Bốn phương trong kinh thành, lại sắp nạp vương phi, đương lúc gió xuân đắc ý, sao lại gặp phiền phức được?” Vẫn là người khách vừa nãy hỏi đáp tung hứng.

“Các vị có biết chiều qua vương phi tương lai của Quỳ vương phủ, chính là Vương cô nương ở Lang Gia ấy, đến chùa Tiên Du dâng hương chăng?”

Đám người ngồi đó xôn xao bàn tán, “Chuyện này tôi cũng nghe phong thanh, nghe đồn người họ hàng này của hoàng hậu vô cùng diễm lệ, đẹp như thiên tiên vậy!”

“Hôm qua lúc xa giá Quỳ vương phủ hộ tống nàng ra khỏi thành, tôi cũng đứng bên đường chờ xem mặt, nào ngờ vương phi tương lai quả thực hiền thục đoan trang y như lời đồn vậy, buông kín rèm xe không vén lên lấy một góc nào, thực khiến người ta tò mò.”

“Song như tôi thấy thì ắt là giai nhân tuyệt sắc, mới giành được Quỳ vương gia từ tay Kỳ Lạc quận chúa chứ?”

“Kỳ Lạc quận chúa hiện giờ mới là kẻ đáng thương nhất kinh thành đấy, đủ thấy đàn bà con gái đừng dại mà phô bày hết tâm ý ra, lỡ chẳng lấy được người trong mộng, lại thành trò cười cho thiên hạ.”

“Đúng vậy, nếu không có Vương cô nương này, thì dựa vào gia thế cùng dung mạo của quận chúa, chẳng phải là trời sinh một đôi với Quỳ vương ư? Chắc giờ quận chúa đang đóng cửa nhốt mình trong phòng, ngày ngày nguyền rủa Quỳ vương phi ấy nhỉ, a ha ha ha…”

Khắp phòng rộ lên tiếng xì xào, song tiên sinh kể chuyện chỉ cười ngồi nghe, đợi tiếng xôn xao ngừng bặt mới nói, “Nhưng các vị có biết, dù Vương cô nương kia may mắn ngồi lên vị trí Quỳ vương phi mà bao người trong kinh thành ao ước, cũng khó tránh khỏi hôn sự trắc trở giữa chừng không?”

Những người ngồi đó vừa nghe thấy câu này tức thì lặng phắc. Tiên sinh kể chuyện nọ thực là nhanh mồm nhanh miệng, tương thuật luôn tấn trò hôm qua trong chùa Tiên Du, lại thêm mắm giặm muối vô số phỏng đoán và tưởng tượng, cả cái gì mà chỉ thấy kẻ kia thân cao một trượng eo to tám người ôm mặt xanh nanh vàng bên sườn có một đôi cánh, còn nói hắn muốn bắt cóc vương phi nên Vương Uẩn phải chống kiếm đại chiến ba trăm hiệp với hắn. Quái nhân không thắng nổi, bèn nhảy khỏi vòng chiến rống lên, “Từ giờ đến hôm cưới còn mười ngày. Quỳ vương cứ cẩn thận đấy!” Thì ra hắn đã quyết sẽ bắt vương phi đi trước ngày thành hôn, ngay trước mắt mọi người, giữa tường sâu cung cao.

Tiên sinh càng kể càng hăng, gõ cây thước đánh cốp xuống bàn, vẻ hứng khởi, “Vương Uẩn nghe nói giận đến xì khói, vung kiếm chém xuống. Keng một tiếng, quái nhân đã biến thành làn khói xanh bay mất, dưới đất chỉ còn một đầu mũi tên đen sì, bên trên khắc bốn chữ ‘Đại Đường Quỳ Vương’, chính là mũi tên năm xưa Quỳ vương đã bắn vào yết hầu Bàng Huân.”

“Hay!” Tiên sinh kể chuyện vừa thốt ra tiếng cuối cùng, đám đông trong sảnh liền rầm rộ khen ngợi, ầm ĩ như sấm dậy. Hoàng Tử Hà lắc đầu. Lý Thư Bạch hờ hững hỏi, “Kể không hay ư?”

Hoàng Tử Hà lắc đầu, “Là tôi nghĩ không thông, nếu bên sườn đã có cánh thì còn biến thành làn khói xanh làm gì, đập cánh bay đi chẳng được ư?”

“Không thế thì sao hấp dẫn được người nghe?”

Nhớ lại ngày trước trong ngôi đình nhỏ ở ngoại thành Trường An, tiên sinh kể chuyện này từng vu cho mình là Bạch Hổ Tinh đầu thai, Hoàng Tử Hà bất giác đưa tay lên đỡ trán, trấn tĩnh rồi hỏi, “Không kêu phủ doãn trị cho hạng người này một trận được ư?”

“Tăng thêm chút niềm vui trong cuộc sống cho trăm họ, có gì không tốt đâu?” Lý Thư Bạch vẫn điềm nhiên, đến lông mi cũng chẳng buồn chớp.

Hoàng Tử Hà lắng tai nghe tiếp động tĩnh bên ngoài, thì ra tiên sinh nọ đã kể sang câu chuyện ngày xưa.

Năm Hàm Thông thứ chín, Bàng Huân binh biến ở Quế Lâm, thống lĩnh hai mươi vạn binh áp sát triều đình, đòi được phong làm tiết độ sứ. Triều đình không chịu, hắn bèn tự lập làm vua, đánh hạ một mạch mấy châu quận, ngang nhiên tàn sát quan lại và dân chúng. Bấy giờ các tiết độ sứ ai khư khư cầm quân lo thân người nấy, triều đình không cách nào điều động được binh lực các châu, giữa họa binh đao, hoàng thất Lý Đường đành bó tay chịu chết, chỉ riêng Lý Thư Bạch một mình đi đến các châu phủ hùng mạnh chiêu binh, tập hợp được mười vạn binh mã, lại đem quyền hành và so sánh lợi hại thuyết phục các tiết độ sứ xung quanh, cuối cùng tạo nên một thành lũy liên hợp của sáu tiết độ sứ lớn, đến tháng Chín năm sau thì đại phá phiến quân, giết chết Bàng Huân.

Bấy giờ Bàng Huân đứng trên đầu thành, giữa đám loạn quân, chính Lý Thư Bạch đã giương cung bắn trúng yết hầu hắn. Loạn quân chạy tan tác, Bàng Huân từ trên đầu thành rơi thẳng xuống đất, bị binh mã dưới thành giày xéo nát nhừ giữa tiếng nhốn nháo. Chỉ có mũi tên dính đầy máu thịt nọ là được giữ lại, cho vào hộp pha lê, đặt trong tháp canh ở Từ Châu để răn đe người sau.

Cũng chính lúc ấy, Lý Thư Bạch bắt được lá bùa viết sinh thần bát tự của mình, chớp mắt đà mấy năm, thiếu niên mười mấy tuổi đã thành vương gia quyền nghiêng thiên hạ, song từ bấy y cũng rơi vào lời nguyền quỷ quái, không cách nào thoát ra được.

Tháng trước có tin đồn chiếc hộp pha lê trong tháp canh Từ Châu vẫn không mảy may xê dịch, nhưng mũi tên kia đã không cánh mà bay. Quan lại Từ Châu cuống quýt truy tìm bấy lâu không thấy tăm tích, nào ngờ nó lại xuất hiện ở chùa Tiên Du, đúng ngày Vương Nhược đến dâng hương, do kẻ thần bí kia bỏ lại trong chùa.

"Các vị, thế này chẳng phải chuyện lạ đó đây, lạ càng thêm lạ ư?”

Tiên sinh gõ thước đánh cộp như khơi chuyện, mọi người bèn rộ lên bàn tán, “Lẽ nào là oan hồn Bàng Huân không tan, mượn dịp Quỳ vương gia thành thân đến báo thù ư?”

“Thôi đi, xưa nay chỉ có tôi trung con hiếu mới hiển linh, hắn là phản tặc, còn oan gì chứ?”

“Úi chà, Bàng Huân giết người như ngóe, nói không chừng chính là ác quỷ đầu thai, sao không thể có linh hồn chứ?”

Thấy câu chuyện chẳng mấy chốc đã xoay sang hướng thần quái, Hoàng Tử Hà đành quay lại nhìn Lý Thư Bạch. Y không buồn ngẩng lên, chỉ hỏi, “Sao thế?”

“Tôi đang nghĩ... năm mười chín tuổi, khi bắn mũi tên kia vào Bàng Huân, vương gia đã nghĩ gì?” Cô chống cằm nhìn y.

Mặt y vẫn thản nhiên như mặt hồ lặng gió, không một gơn sóng, “Nếu biết được ngươi sẽ thất vọng đấy.”

“Không thể nào, vương gia nói nghe xem?”

“Bấy giờ ta nghĩ, nếu tự dưng lại có cơn gió đẩy lệch mũi tên đi, có phải hơi mất mặt không.”

“…” Hoàng Tử Hà nín lặng.

“Có những chuyện, cần gì phải biết.” Y nói, đoạn trỏ ra ngoài song, “Đằng kia có phường trò mới ra kìa, đi thôi.”

Bụng sôi òng ọc, Hoàng Tử Hà nhìn đĩa thức ăn mới gắp được mấy đũa trước mặt rồi hậm hực đứng dậy theo y.

Đã qua giờ Ngọ, những người diễn trò rong đều đã có mặt. Song đa phần là mấy trò bình thường như tung vòng, đội bát, đi trên ang nước, trái lại, trước mặt một người nuốt kiếm có cả đám đông xúm xít.

“Nuốt kiếm quá bình thường, có gì hay đâu?” Cô hỏi một người trung niên đang ra sức chen lấn.

Người kia háo hức đáp, “Cái này khác! Thanh kiếm dài đến bốn thước, song người lùn nuốt kiếm chỉ cao ba thước thôi!”

Nghe vậy, Hoàng Tử Hà chỉ hận không thể chen ngay vào trong. Lý Thư Bạch ném cho cô một cái nhìn khinh bỉ rồi quay ngoắt người bỏ đi. Hoàng Tử Hà đành lặng lẽ theo sau, thầm nghĩ hạng người này sống trên đời dường như không có chuyện gì khiến y phấn chấn hay hứng thú cả, bản thân y liệu có thấy vui không?

Song chỉ một thoáng sau, cô đã nghĩ ngay đến bản thân mình. Mẹ cha qua đời, mất hết người thân, mang nặng mối thù mà chẳng có mảy may manh mối, đời này của cô liệu có cách nào trở lại thành thiếu nữ hồn nhiên nô đùa như trước không?

Lý Thư Bạch đang đi, chợt cảm thấy đằng sau yên ắng hẳn, cả tiếng chân hình như cũng không nghe thấy nữa. Y hơi ngoái đầu, nhìn về phía Hoàng Tử Hà.

Cô đứng phía sau, cách y chừng hai bước, song ánh mắt lại dán vào đôi vợ chồng trẻ đi ngang, bọn họ người bên trái người bên phải, dắt tay một cô bé, cô bé sôi nổi hoạt bát, có lúc còn cố ý nhảy lên đeo dính lấy cánh tay cha mẹ như một chú khỉ đánh đu.

Lý Thư Bạch dừng bước, đợi Hoàng Tử Hà.

Cô đứng đó đưa mắt nhìn ba người nọ đi xa, tĩnh tại mà lặng lẽ, nắng đổ xuống cô, tạo bóng lờ mờ trên gương mặt.

Hồi lâu, đợi cô nhìn đến mình, Lý Thư Bạch mới chậm rãi nói, “Đi thôi.”

Phía trước lại xuất hiện một đám đông, lần này là gánh ảo thuật của một cặp phu thê, ở họ toát lên vẻ phong trần và láu lỉnh đặc trưng của nghệ nhân giang hồ. Hoàng Tử Hà và Lý Thư Bạch đứng giữa đám đông, trước tiên thấy hai người kia diễn một màn kịch ngư long, sau đó là tiết mục biến nước trắng thành rượu thường thấy, người phụ nữ còn làm một màn biến hoa giấy thành hoa tươi, tuy phương pháp không có gì mới, song đến cuối màn, khi thị tung mấy chục đóa hoa tươi lên không trung rồi để chúng lả tả rơi xuống, trông cảnh tượng quả có lý thú.

Màn ảo thuật kết thúc, người xem tản đi. Cặp phu thê thu dọn đồ đạc chuẩn bị đi nốt. Thấy Lý Thư Bạch đưa mắt với mình, Hoàng Tử Hà đành bước lên hỏi, “Chào hai vị, màn biểu diễn của hai vị hay quá, xem đã cả mắt!”

Người đàn ông tươi cười đáp lễ, “Thường thôi thường thôi, tiểu huynh đệ thích xem ư?”

“Đúng thế, nhất là cái màn… biến hoa giấy thành hoa thật ấy. Tôi đoán hoa thật được giấu trong tay áo, nhưng hoa giấy biến đi đâu rồi?”

Người đàn ông cười nói, “Chuyện này không nói được, đây là ngón nghề kiếm cơm của chúng tôi.”

Hoàng Tử Hà quay lại nhìn Lý Thư Bạch, y bèn ném cho cô một thoi bạc. Cô đặt thoi bạc vào tay người kia, khẩn khoản, “Đại ca, không giấu gì huynh, chủ tôi đang đánh cược với người ta. Huynh có biết kinh thành từ hôm qua rộ lên lời đồn rằng ở chùa Tiên Du có kẻ chỉ phất tay một cái đã làm biến mất cả con chim trong lồng không?”

Người kia nắm chặt lấy thoi bạc, cười tươi rói, “Chuyện này tôi không biết, nhưng có cách làm biến mất một con chim trong lồng mà. Tiểu huynh đệ cứ kể ra xem.”

“Chủ tôi có một người bạn, khăng khăng nói rằng chuyện này không thể. Chủ tôi bèn đánh cược với y, nói trong ba ngày nhất định sẽ biểu diễn trò này cho y xem, Huynh thấy… có thể dạy cho chủ tôi cách ấy không?”

“Đó chẳng qua là trò vặt đấy thôi.” Người kia tông tốc nói ngay, “Con chim trước tiên đã được huấn luyện kỹ, một khi chủ nhân ra hiệu, nó sẽ đứng lên một chỗ nào đó trong lồng, chỗ đó gắn sẵn cơ quan, chỉ cần ấn tay trái vào một nan lồng, cơ quan nọ sẽ hoạt động, con chim nhỏ ắt rơi ra, đúng lúc ấy hắn phất tay áo qua hứng lấy là được.”

“Ồ! Ra vậy.” Hoàng Tử Hà sực hiểu, lại chìa tay về phía Lý Thư Bạch, Lý Thư Bạch ném cho cô một thoi bạc. Cô giơ thoi bạc lên hỏi, “Huynh đã nắm rõ cơ quan này như thế, chắc chỗ huynh cũng có loại chim và lồng như thế chứ?”

“Trước đây quả từng có.” Người nọ vừa thấy bạc liền lộ vẻ rầu rĩ, “Đáng tiếc mấy ngày trước bị người ta mua mất rồi.”

Người phụ nữ nãy giờ đứng bên cạnh, cuối cùng cũng không nhịn được chen vào, “Thiếp nói rồi mà, năm lạng bạc kia làm được gì chứ, con chim ấy là sư phụ truyền lại, huấn luyện công phu như thế, có bán mười lạng cũng tiếc.”

Hoàng Tử Hà lại hỏi, “Dạy sáo đen à? Trong ba ngày liệu có dạy được không?”

Người kia buồn bã đáp, “Không phải sáo đen, của tôi là một con chim trắng muốt, đẹp lắm.”

“Ôi, thế thì tiếc quá.” Hoàng Tử Hà nói, đoạn dúi thoi bạc vào tay hắn, “Chẳng biết là ai mua mất, có cách nào tìm được người đó không? Tôi muốn thử vận may, đi hỏi xem liệu người ta có bán lại cho không.”

“Chuyện này tôi thực không biết, người ta học xong thì đi mất, tôi cũng chẳng rõ tên.”

“Vậy trông người thế nào? Đại ca còn nhớ không?”

“Ừm… là một thiếu gia chừng hai mươi tuổi đổ lại, người tầm thước, mà hơi cao, mặt mũi thì, rất đẹp đẽ thanh tú… Phải rồi, trên trán còn có một nốt ruồi son!”

Người phụ nữ bổ sung, “Nốt ruồi nằm chính giữa trán, con người vốn đã đẹp đẽ lắm rồi, lại được thêm một nốt ruồi, thành ra dào dạt tiên khí, khác nào người trong tranh!”

Dọc đường về Quỳ vương phủ, hai người đều nín lặng.

Hoàng Tử Hà mải điểm lại đầu đuôi mọi sự cùng những manh mối bí hiểm chưa tháo gỡ được, bất chợt ngẩng lên thì thấy Lý Thư Bạch đã bỏ cô lại một quãng xa, vội rảo bước đuổi theo.

Trời đã tối, đèn đuốc đã thắp sáng hai bên đường, hàng dãy đèn lồng chạy dài, tỏa sáng đỏ rực khắp phố. Dưới ánh đèn, Lý Thư Bạch ngoái lại nhìn cô, gương mặt lạnh lùng cố hữu của y dịu đi dưới ánh hồng ấm áp, đôi mắt cũng bớt vẻ hờ hững, lại điểm vài phần băn khoăn.

Hoàng Tử Hà không ngờ y lại để tâm tới kẻ kia như vậy, tự dưng lúng túng, chẳng biết nên nói gì. Cô ngẩng đầu nhìn y, những ngọn đèn chạy dọc con đường lung lay trong gió, mờ ảo lung linh, tỏa ánh chênh chao. Cô chợt thấy bối rối, hồi lâu mới khó nhọc rặn được mấy câu, “Thực ra, tôi nghĩ thế này… Một trang nam tử xuất khẩu thành thi, khí chất ôn hòa thì không thể là kẻ diễn trò lưu lạc giang hồ, ắt là kín đáo học hỏi được ai đấy nên mới đến thăm dò… Nhưng người hôm ấy xuất hiện trước mặt chúng tôi… nhất định không thể là… người đó được.”

“Ừm, người ấy không thể có quan hệ gì với Bàng Huân, càng không thể qua mặt mọi người, lẻn vào chùa Tiên Du được.”

Nhưng y có thể sai kẻ khác lẻn vào chùa Tiên Du. Khi hai người không hẹn mà cùng nghĩ tới điểm này, cô lại nói, “Huống hồ, người ấy đã có thuộc hạ ra mặt thay mình, việc gì phải đích thân tới chỗ hai nghệ nhân diễn trò bên đường học lấy mánh khóe.”

Trên đường đèn đuốc sáng trưng như ban ngày, hai người đang đứng lặng, chợt một cỗ xe ngựa chầm chậm chạy đến, trước xe sau xe lại có vệ binh mở đường và hoạn quan hầu hạ, một hàng mấy chục người đi rất trật tự.

Hai người không muốn bị trông thấy, bèn tránh sang bên đường, nào ngờ người trên xe lại mở cửa sổ ra, chỉ thoáng nhìn đã thấy bọn họ.

Cỗ xe từ từ dừng lại rồi cửa xe bật mở, người bước xuống là Ngạc vương Lý Nhuận.

Y là một thiếu niên trắng trẻo mà thanh tú, văn nhã mà hiền hòa, gương mặt lúc nào cũng tươi cười. Những người gặp y đều nói ở y toát ra một thứ tiên khí bẩm sinh, mày mắt đẹp như tranh vẽ, chính giữa trán lại có một nốt ruồi son đỏ thắm, chẳng khác người trong tranh.

Lý Nhuận bước tới trước mặt hai người, mỉm cười hỏi Lý Thư Bạch, “Sao Tứ ca lại ở đây?”

Lý Thư Bạch quay lại nhìn y, khẽ gật đầu, “Thất đệ.”

Lý Nhuận thấy y đi một mình, chỉ dắt theo Hoàng Tử Hà, liền gật đầu ra vẻ hiểu ý, rồi cười cười nói với Lý Thư Bạch, “Hôm nay tiết trời thoáng mát, đèn phố như sao, hèn nào Tứ ca cũng phải ra ngoài đi dạo. Có điều dắt theo mỗi một tiểu hoạn quan e rằng không ổn, nên cho dăm tay cấm vệ đi cùng mới phải.”

Lý Thư Bạch giơ tay sờ mấy tua đèn buông rủ, “Nếu đem theo nhiều người, sao còn thưởng thức được cảnh đêm tĩnh mịch thế này?”

Lý Nhuận nhìn quanh, thấy cả con phố rực rỡ ánh đèn, người qua lại thưa thớt, không khỏi gật đầu tán thưởng, “Tứ ca nói phải, chúng ta từ nhỏ lớn lên giữa phồn hoa, đâu lĩnh hội được cảnh trí thế này.”

Lý Thư Bạch tỏ vẻ không muốn nhiều lời thêm nữa, “Sắp đến giờ giới nghiêm rồi, đệ cũng mau về đi.”

Lý Nhuận gật đầu khen phải, sau đó lại nghĩ ra một chuyện, liền nói, “Nếu Tứ ca rảnh rỗi, mời đến chỗ đệ chơi. Trần Niệm Nương đệ tử tái truyền của Đổng Đình Lan đang ở đó, đệ mời bà ta về làm cầm sư.”

“Bà ta không về Dương Châu ư?”

“Lúc trước Cửu đệ dẫn bà ta vào cung gảy đàn cho Triệu thái phi nghe, bệ hạ và hoàng hậu cũng có mặt. Song Triệu thái phi chỉ ưa tỳ bà, bệ hạ lại thích ồn ào, không chuộng cầm sắt, hoàng hậu thì thanh tĩnh xưa nay, hằng ngày không ham ca múa yến tiệc, càng không thể đánh giá cao một cầm sư. Đệ hỏi ý Trần Niệm Nương, bà ta nói muốn tạm nán lại kinh thành ít lâu, hẳn vẫn muốn tìm Phùng Ức Nương.”

Hoàng Tử Hà và Lý Thư Bạch nhìn nhau. Thực không ngờ Trần Niệm Nương lại đến sống trong phủ Lý Nhuận. Một loạt sự việc liên quan đến nhau dường như đang dần dần tập trung lại dưới sự dẫn dắt của một thế lực nào đó.

Lý Thư Bạch thản nhiên bảo Lý Nhuận, “Ra thế. Mấy hôm nữa ta rỗi, nhất định sẽ sang bên ấy.”

“Được, đệ xin quét cửa chờ sẵn.”

Đợi xe ngựa của Lý Nhuận đi xa, Lý Thư Bạch mới đưa mắt nhìn chiếc đèn trước mặt, chậm rãi hỏi, “Ngươi thấy Ngạc vương gia thế nào?”

Hoàng Tử Hà cân nhắc chốc lát rồi đáp, “Nếu muốn giả mạo thân phận, cách tốt nhất là đóng giả làm một người có đặc điểm rõ ràng. Tôi nghĩ đây có lẽ chính là nguyên nhân khiến Ngạc vương gia được chọn là hỏa mù che mắt chúng ta.”

“Còn khả năng nào không?”

“Còn một khả năng là Ngạc vương gia nổi dạ trẻ thơ, vừa thao túng việc tuyển phi của vương gia vừa đích thân đến chợ Tây học mánh, sau đó quay về sai người tới đe dọa vương phi.” Cô tựa vào gốc liễu, cầm một cành liễu thong thả nói, “Nghĩ thế nào cũng thấy khả năng đầu tiên nghe lọt tai hơn.”

Lý Thư Bạch chậm rãi nói, “Ta khác ngươi, không thích phân tích những chi tiết như vậy. Nhưng chẳng cần phân tích cũng biết Thất đệ không phải kẻ ấy, bởi ta không tin Thất đệ có thể ra tay với ta. Trên đời này, những kẻ dám chính diện đối địch với ta không nhiều đâu. Ta chỉ muốn biết kẻ nào định đẩy Thất đệ đến trước mặt ta, để làm ta tưởng Thất đệ đang giở trò.”

Mùng 9 tháng Năm.

Còn bảy ngày nữa là đến lễ thành hôn của Quỳ vương.

Cơn mưa rả rích suốt đêm khiến cả kinh thành trở nên mờ mịt. Trên đường đến nhà họ Vương, Hoàng Tử Hà nhìn qua tấm rèm trúc tinh xảo trên cửa xe, trông thấy những nhành hoa trĩu xuống vì ngậm nước mưa.

Hoa đào hoa mận đã nở hết, nhưng hoa hòe ở Trường An đang lần lượt xòe cánh, mùi hương ngan ngát bao trùm cả kinh thành. Từng chùm hoa trắng muốt buông rủ đầu cành, nhạt màu đến mức tưởng như vô hình. Thỉnh thoảng một hai đóa chạm vào cửa sổ xe nghe sột soạt, cô mới nhận ra không phải nước mưa mà là hoa.

Người nhà họ Vương đã cầm ô đứng ngoài cổng chờ sẵn, thấy Hoàng Tử Hà xuất hiện vội chạy lại che cho cô, “Cuối cùng Dương công công cũng đến rồi. Hoàng hậu triệu tiểu thư vào cung, dặn công công và Tố Khởi cô cô đi theo tấn kiến.”

“Ồ, ta biết rồi.” Hoàng Tử Hà gật đầu. Những lời đồn đại cứ lan đi mãi trong kinh thành, đã đến tận tai hoàng hậu nơi thâm cung. Hôm nay hoàng hậu triệu họ vào, hẳn muốn dặn dò nhiều việc.

Hoàng Tử Hà đón lấy cây dù, đi xuôi theo hành lang. Qua hai lớp cửa son, con đường quành sang Tây viện, chính là nơi ở của Vương Nhược. Chỗ nàng trồng đầy phong lan, bụi chuối trong sân cũng mới nhú lên những đợt non nuột nà, thấp thoáng trông thấy song hoa, giữa cảnh mưa lâm thâm thế này càng toát lên vẻ lạnh lẽo, thiếu hơi ấm.

Hoàng Tử Hà thu ô lại, đứng ngoài cửa sổ. Dưới hành lang trồng một bụi chuối, dưới gốc chuối là một ang sứ lớn, bên trong nuôi một con cá chép gấm ba bốn đuôi, màu sắc tươi tắn, pha giữa hồng và trắng, đang nhởn nhơ bơi lượn.

Hoàng Tử Hà đứng đó ngắm mưa giội xuống tàu chuối, làm bắn lên những hạt nước li ti. Giữa khung cảnh tĩnh lặng, cô chợt nghe loáng thoáng tiếng động trong phòng, như có kẻ đang thì thầm.

Hoàng Tử Hà ngoảnh vào, nhìn qua song cửa, trông thấy Vương Nhược đang ngủ mê man trên chiếc giường kê bên cửa sổ, đôi mày nàng nhíu chặt, vẻ mặt đầy kinh hãi, hai tay nắm chặt mép chăn, trán đầm đìa mồ hôi, như đang phải chịu cực hình tàn khốc nhất vậy.

Hoàng Tử Hà đứng ngoài cửa sổ, quan sát nàng một hồi, đang nghĩ xem có nên đánh thức hay không thì nghe thấy nàng lảm nhảm, “Huyết sắc… Huyết sắc…”

Cô thoáng ngạc nhiên, đang cúi đầu lắng nghe, chợt thấy giọng Vương Nhược đổi ra khẩn cầu, “Phùng Nương, đừng trách tôi, bà không nên biết…”

Mưa gió bỗng mạnh hẳn lên, hất van vát xuống Hoàng Tử Hà. Cô vội né người tránh, nghe thấy Vương Nhược “á” lên một tiếng rồi tỉnh dậy.

Hoàng Tử Hà bình thản giũ những hạt mưa trên áo mình, điềm nhiên như không bước đến gõ cửa gọi nhỏ, “Vương phi.”

Trong phòng vốn dĩ có hai a hoàn, một đứa tên Nhàn Vân cực kỳ lanh lợi, lập tức chạy ra mở cửa chào, “Dương công công đến rồi, vương phi đang gặp ác mộng.”

“Ừm, vừa nãy ở ngoài cửa sổ ta cũng nghe thấy.” Hoàng Tử Hà phẩy phẩy mưa trên người, quay lại trông thấy Vương Nhược đã từ từ ngồi dậy, đang ngẩng lên nhìn mình, vẻ kinh hoàng trong mắt chưa phai, tựa hồ vẫn còn chìm trong cơn ác mộng, khó mà thoát nổi.

Hoàng Tử Hà bèn đến bên giường khẽ hỏi, “Vương phi mơ thấy gì vậy?”

“Sùng Cổ…” Đôi mắt như hồ thu của nàng giờ đây ầng ậc nước, rưng rưng nhìn cô, ngập ngừng hồi lâu mới ngoảnh mặt đi, run rẩy đáp, “Ta, ta mơ thấy mình thực sự, thực sự biến mất…”

Hoàng Tử Hà ngồi xuống mép giường dịu giọng, “Giấc mơ chẳng qua là suy nghĩ trong lòng, vương phi ngày nghĩ sao đêm chiêm bao làm vậy, chỉ cần đừng nghĩ đến mấy lời của kẻ đó, nhất định sẽ không gặp ác mộng nữa đâu.”

“Thật ư?” Nàng run rẩy hỏi, yếu đuối bơ vơ nắm lấy tay áo Hoàng Tử Hà, thân hình cũng run lên bần bật, “Sùng Cổ, vương gia sẽ bảo vệ ta, phải không?”

“Đúng vậy.” Cô đáp không chút do dự, song lại nhớ đến câu Lý Thư Bạch nói – Bất kể vì lý do gì, khi đưa canh thiếp giả ra, cô ta đã mắc tội khi quân phạm thượng, kết cục chỉ có thể là vạn kiếp bất phục mà thôi.

Có điều, nghe cô đáp như vậy, Vương Nhược thấy yên tâm hẳn. Nàng khẽ thở phào, tựa mình vào tấm đệm mềm trên giường, ngơ ngơ ngẩn ngẩn. Hoàng Tử Hà thấy khóe môi nàng từ từ hé ra một nụ cười như mộng ảo, nhìn vào hư không mà như đang nhìn vào thứ gì đó bền vững không thể phá hủy, lẩm bẩm, “Phải rồi, Quỳ vương gia sẽ bảo vệ ta, ta còn sợ gì nữa chứ.”
 

Tam Thất

nhân chi sơ, tính bản thiện
Tham gia
13/4/19
Bài viết
1,705
Điểm cảm xúc
1,399
Điểm
113
Cung Đại Minh.

Gác Bồng Lai, nơi ở của hoàng hậu.

Hoàng Tử Hà theo các cung nhân nườm nượp nối đuôi nhau thành một hàng dài bất tận, cùng Vương Nhược, Tố Khởi và mấy thị nữ nhà họ Vương, đi dọc thềm bạch ngọc mà lên, bước vào cửa điện Cửu Gian.

Đập vào mắt là bức bình phong mười hai tấm bằng gỗ trầm cực lớn chạm đến tận đất, bên trên khắc hình mười hai thần hoa hướng về phía núi Côn Luân chầu Vương Mẫu giữa cảnh hoa tiên mây khói mịt mờ. Hoàng Tử Hà theo sau Vương Nhược, dừng bước trước bình phong, cúi đầu đứng đợi, thấy xung quanh im phăng phắc.

Hoàng Tử Hà ngẫm lại những lời nói mơ vừa rồi của Vương Nhược. Phùng nương, xem ra ắt là Phùng Ức Nương, nhưng huyết sắc mà nàng nói là có ý gì?

Đương nghĩ ngợi, chợt thấy một chéo áo lụa đỏ thắm quết qua nền nhà trải thảm Ba Tư dày dặn, người bên cạnh cô đều đã lũ lượt quỳ xuống, không dám ngẩng đầu lên.

Biết là hoàng hậu đến, Hoàng Tử Hà bèn quỳ xuống như mọi người, cúi đầu nhìn những hoa văn mây ráng trên y phục của hoàng hậu.

Với các cung nữ theo hầu, hoàng hậu đi đến sau bức bình phong, ngồi xuống sập trầm hương lưu ly thất bảo, bưng ly trà sứ, trầm ngâm hồi lâu mới lên tiếng, giọng êm như suối chảy, chậm rãi mà trầm tĩnh, “A Nhược, trông sắc mặt muội không tốt đâu. Còn bảy ngày nữa là thành hôn, sao chẳng thấy vẻ hân hoan của tân nương đâu cả?”

Vương Nhược nghiêng mình ngồi vào mép sập cùng hoàng hậu, khẽ đáp, “Bẩm hoàng hậu điện hạ, vì có vài chuyện vặt nên gần đây thần thiếp lo lắng quá độ, làm phiền điện hạ phải hỏi han.”

Hoàng hậu chăm chú quan sát nàng hồi lâu, rồi im lặng nắm lấy tay nàng. Hoàng Tử Hà len lén ngẩng lên liếc trộm, thấy vẻ mặt hoàng hậu tuy vẫn lạnh lùng xa cách nhưng trong mắt lại thấp thoáng nét trìu mến.

Hai tỷ muội nhà này dung mạo khác nhau, tuổi tác cũng chênh lệch cả mười năm, nhưng tình cảm hình như khá thân thiết.

“Kinh thành rộng lớn, hạng vô công rỗi nghề rất nhiều, lời ong tiếng ve cũng lắm, tội gì phải nghĩ ngợi.” Hoàng hậu nắm lấy tay Vương Nhược, ấp trong hai bàn tay mình, dịu dàng như vỗ về một chú chim non. Hoàng Tử Hà trông thấy, lòng lại dâng lên một cảm xúc khó tả, đang ngẩn người ra, chợt nghe hoàng hậu hỏi, “Kẻ nào là người của Quỳ vương phủ phái đến hầu vương phi?”

Tố Khởi và Hoàng Tử Hà vội thưa, “Là chúng nô tài.”

Hoàng hậu đưa mắt nhìn về phía hai người, ánh mắt dừng lại lâu hơn ở Hoàng Tử Hà, song cũng chỉ trong một chớp mắt, đoạn nói, “Vương phi còn ít tuổi, sau này về vương phủ, các ngươi phải chú ý chăm sóc.”

“Dạ.” Cả hai vội đáp.

Vương Nhược cũng góp lời, “Sùng Cổ và Tố Khởi cô cô đều hết lòng hết sức với muội, gần đây họ chăm lo cho muội nhiều lắm.”

“Ừm, có gì không vui cứ nói với ta.” Hoàng hậu nói, đoạn cầm tay Vương Nhược đứng dậy, “Bảy ngày nữa là vu quy rồi, ta có chuẩn bị cho muội mấy thứ này, vào nội điện xem thử.”

Các cung nữ thị tòng phải đợi bên ngoài, nội điện vừa rộng vừa sâu, âm thanh vọng ra rất nhỏ, không sao nghe được. Chẳng bao lâu sau, mấy nữ quan của hoàng hậu bước ra, mời mọi người sang sảnh bên dùng cơm.

Đồ ăn trong cung khác hẳn bên ngoài, chế biến tinh tế, song ăn vào lại thấy nhạt nhẽo vô vị, Hoàng Tử Hà ăn được mấy miếng thì đặt đũa xuống. A hoàn Nhàn Vân ngồi cạnh huých khuỷu tay vào người cô, “Chúng ta ra cửa ngắm cảnh được không? Hình như từ đây nhìn xuống có thể bao quát cả hồ Thái Dịch, nhiều người cả đời còn không được thấy đâu.”

Hiện giờ, tuy đang mang thân phận hoạn quan, nhưng vì thường lui tới nhà họ Vương nên Hoàng Tử Hà cũng quen biết sơ sơ với Nhàn Vân. A hoàn này mồm mép tép nhảy, chẳng được mấy ai ưa, bởi thế nhân có Hoàng Tử Hà càng muốn kéo đi cùng.

Vừa lúc Hoàng Tử Hà cũng không muốn ăn thêm nữa, bèn cùng Nhàn Vân ra cửa, đứng tựa lan can nhìn về phía Bắc.

Hôm nay trời quang mây tạnh, hồ Thái Dịch lăn tăn gợn sóng, hòn đảo giữa hồ chẳng khác Bồng Lai tiên đảo, càng tô điểm thêm cho cảnh quan chung.

“Đẹp quá, chẳng trách mọi người đều nói hoàng cung là nơi đẹp nhất dưới gầm trời này.” Nhàn Vân dang hai tay ra như muốn ôm hết đất trời vào lòng mình.

Hoàng Tử Hà nhìn xuống lầu gác trùng điệp bên dưới, tán đồng, “Đúng vậy, đẹp quá.” Có điều quá trang nghiêm quá nguy nga, khiến người ta cảm thấy chẳng phải cõi người mà như lầu quỳnh gác ngọc không sao với tới, thiếu hẳn đi hương sắc nhân gian.

Hai người đang mải ngắm, chợt thấy Trường Linh một trong các nữ quan của hoàng hậu bước ra bảo, “Hoàng hậu vừa sai người dọn dẹp sảnh bên để vương phi nghỉ ngơi một lát. Nếu các vị muốn ngắm cảnh thì xuống hẳn ven hồ Thái Dịch mà xem, nhớ đừng đi xa quá đấy.”

Nhàn Vân nghe nói được phép xuống hồ, liền vui vẻ hỏi, “Thực ư? Thế thì tốt quá!”

Trường Linh quay lại gọi một cung nữ luống tuổi tên là Trường Khánh, sai cô ta đưa hai người đi dạo. Hoàng Tử Hà và Nhàn Vân theo Trường Khánh tới bên hồ Thái Dịch, vừa bước lên chiếc thuyền gỗ hải đường thì nghe thấy trên hồ có người gọi to, “Triệu thái phi giá lâm, mọi người phía trước tránh đường!”

Bọn họ ngẩng lên nhìn, thấy một con thuyền đi đến, đầu thuyền có một viên hoạn quan lớn tuổi đang đứng, sang sảng gọi bảo mình.

Ba người vội xuống thuyền, đứng nghiêm trên bến đợi Triệu thái phi cập bờ.

Thuyền tới nơi, mấy hoạn quan và cung nữ bước lên trước, sau đó là một thiếu nữ mặt tròn mắt hạnh, Hoàng Tử Hà nhận ra là Kỳ Lạc quận chúa. Lại nhớ đến lời đồn trong kinh, Kỳ Lạc quận chúa muốn nhờ Triệu thái phi hứa hôn bèn ra sức quấn quýt lấy lòng, ngày ngày tới chép kinh hộ. Gần đây nghe nói vì chuyện của Quỳ vương phi mà quận chúa rầu rĩ thành bệnh, nào ngờ hôm nay lại vào cung.

Viên hoạn quan lớn tuổi đỡ Triệu thái phi ra khỏi khoang thuyền. Thái phi là người nhu mì kiều diễm, cười đã có vài nếp nhăn, ánh mắt cũng đượm phần mệt mỏi, song khóe miệng vẫn rất tươi.

Mười ba tuổi vào cung, mười lăm tuổi sinh con trai, hai mươi tư tuổi đã thành thái phi, thậm chí còn có điện riêng trong cung Đại Minh, so với các phi tử bị đẩy đến cung Thái Cực và cung Hưng Khánh sau khi tiên hoàng qua đời thì rõ ràng là hơn hẳn.

Hoàng Tử Hà và Nhàn Vân vội bước đến bái kiến. Triệu thái phi nghe nói là người của Quỳ vương phủ liền mỉm cười quan sát cả hai, sau khi hỏi rõ tên tuổi lại nhìn Hoàng Tử Hà, “Ngươi chính là tiểu hoạn quan Dương Sùng Cổ đã phá vụ án Bốn phương trong kinh đấy ư?”

“Vâng.” Hoàng Tử Hà cúi đầu thưa.

“Ồ, sáng sủa tinh tươm đấy, xưa nay Quỳ vương rất biết nhìn người.” Bà ta lại hỏi, “Hôm nay các ngươi theo Quỳ vương phi vào cung à? Khéo quá, đã đến đây rồi, ta đi gặp cô nương họ Vương xem sao, sau này cô ấy cũng là người trong hoàng gia rồi.”

Nói đoạn Triệu thái phi tươi cười dẫn người đi đến gác Bồng Lai. Hoàng Tử Hà đợi các thị tùng đi qua hết mới cất bước theo sau, thình lình có ai nắm lấy tay áo, liền đó là tiếng cười khẽ, “Dương công công, lại gặp nhau rồi.”

Hoàng Tử Hà ngoái lại, ra là một thiếu nữ ôm cây tỳ bà, gương mặt bầu bĩnh, ánh mắt long lanh, đang hớn hở nhìn quanh ngó quất, đầy vẻ hoạt bát lanh lợi.

Hoàng Tử Hà nhận ra là Cẩm Nô, nghệ nhân tỳ bà ở giáo phường từng đi theo Chiêu vương Lý Nhuế bữa trước, vội gật đầu chào hỏi. Cẩm Nô che miệng cười, thì thào, “Hôm nay Triệu thái phi muốn nghe tỳ bà nên Chiêu vương gia sai tôi tới.”

Triệu thái phi là thân mẫu Chiêu vương Lý Nhuế, điều này Hoàng Tử Hà cũng biết. Hai người vừa đi vừa nói chuyện, chỉ thoáng chốc đã đến gác Bồng Lai, hoàng hậu đích thân ra đón.

Hoàng Tử Hà đứng dưới thềm, thấy Vương Nhược theo sau hoàng hậu, bước xuống thềm giữa các nữ quan và cung nữ. Ai nấy áo gấm quần lụa, dung mạo tựa hoa, nhưng nổi bật nhất vẫn là hoàng hậu, nhan sắc như soi sáng cả ngày xuân, ngay Vương Nhược trẻ trung hơn hẳn mà cũng không át nổi.

Hoàng hậu đứng trên cao nhìn xuống bọn Hoàng Tử Hà bên dưới. Gác Bồng Lai nằm bên bờ hồ Thái Dịch, gió trên hồ đưa tới thổi tung chéo quần và tay áo hoàng hậu, bảy lớp áo lụa như một đóa mẫu đơn đỏ rực nở rộ trong gió, êm đềm bao bọc phong tư tuyệt thế của người, vẻ hoa lệ như có như không, tưởng chừng sắp biến thành tiên bay đi mất.

Hoàng Tử Hà bất giác quên hết lễ nghi, cứ ngây ra mê mải ngắm hoàng hậu, không sao rời mắt được. Bỗng chốc có cảm giác mình lấm bụi bé mọn hẳn lại.

Chợt Cẩm Nô bên cạnh khẽ “a” lên một tiếng, rất nhỏ, âm thanh bị đè nghẽn trong cổ họng, gần như không thể nghe thấy.

Hoàng hậu thờ ơ lướt mắt qua bọn họ, nhìn về phía Triệu thái phi, “Thái phi giá lâm, thần thiếp không ra đón từ xa, thật là thất lễ!”

“Ôi chao, ta không thích các người câu nệ mấy thứ lễ tiết ấy đâu, giờ hoàng hậu là chủ hậu cung, thân già này mỗi dịp lễ tết còn phải trông vào bổng lộc và gấm lụa của hoàng hậu ban đấy mà.” Triệu thái phi tươi cười, vừa nói đùa vừa nắm tay hoàng hậu đi lên điện.

Hoàng Tử Hà theo vào.

Thái phi và hoàng hậu ngồi trên. Thái phi chăm chú nhìn Vương Nhược, hỏi han chuyện trò với nàng, thỉnh thoảng còn bật cười vui vẻ. Kỳ Lạc quận chúa đứng cạnh họ, gương mặt vốn tươi tắn giờ lại sa sầm, song khăng khăng không chịu lánh ra ngoài, cứ đứng lì ở đó bất động như người gỗ.

Trong điện có vui có buồn, song đám người dưới coi như không biết, chỉ im lặng đứng đợi. Bọn Hoàng Tử Hà không thuộc nhân sự trong cung nên đều phải chờ bên ngoài.

Để ý thấy mồ hôi lăn dài trên mặt Cẩm Nô, làm trôi cả phấn son, Hoàng Tử Hà bèn thì thào hỏi, “Sao thế?”

“Tôi… hình như nóng quá.” Cẩm Nô đáp, giọng khàn khàn.

Đang ngày xuân cảnh đẹp, lại có gió mát từ hồ phả vào, không thể nói là nóng lắm, song Hoàng Tử vẫn rút khăn tay đưa ra. Cẩm Nô nhận lấy, hai tay bất thần run lên. Lau xong mồ hôi trên trán, nhận thấy vẻ thắc mắc của Hoàng Tử Hà, Cẩm Nô bèn gượng cười chống chế, “Không sao đâu. Có lẽ là bệnh cũ tái phát, tôi… mắc một căn bệnh, thỉnh thoảng lại tái phát, về nghỉ một lát là khỏe thôi.”

Hoàng Tử Hà gật đầu, ngẩng lên nhìn bầu trời xanh biêng biếc trên đầu. Bỗng loáng thoáng nghe tiếng Cẩm Nô lẩm bẩm, “Không thể nào… không thể nào là người ấy được…”

“Ai cơ?” Cô tiện miệng hỏi.

“Chắc là người giống người mà thôi…” Nhận ra mình vừa lỡ lời, Cẩm Nô ngập ngừng hồi lâu mới run run hỏi, “Người vận áo đỏ kia, hẳn là… Vương hoàng hậu?”

“Ừm.” Hoàng Tử Hà khẽ đáp.

“Vậy… người ở phía sau… là Quỳ vương phi?”

Hoàng Tử Hà lại gật đầu, chăm chú nhìn Cẩm Nô, mong có thể đọc ra điều gì đó qua nét mặt, nhưng chỉ thấy toàn những hoang mang và hoảng hốt, hồi lâu mới nghe lẩm bẩm thật khẽ, “Không thể nào… Nếu là như vậy, Quỳ vương phi sao có thể là cô ta…”

Vốn tính nhạy bén, Hoàng Tử Hà cảm giác bên trong nhất định có ẩn tình, song Cẩm Nô chỉ là một nghệ nhân mới đến kinh thành ít lâu, làm sao hiểu được sự tình gì chứ?

Cô đang định lên tiếng hỏi, đột nhiên thấy nữ quan Trường Linh bước ra hỏi, “Ai là Cẩm Nô?”

“Là tôi…” Cẩm Nô vội thưa.

“Thái phi triệu cô.” Trường Linh nói, lại nhìn sang Hoàng Tử Hà hỏi nhỏ, “Sao ngươi còn chưa vào hầu hạ vương phi?”

Hoàng Tử Hà vội vâng dạ. Cẩm Nô thoáng chần chừ, rồi kéo tay Hoàng Tử Hà. Hoàng Tử Hà cảm giác được tay Cẩm Nô đổ mồ hôi lạnh toát, mềm nhũn cả ra. Cô biết Cẩm Nô chẳng còn sức ôm tỳ bà nữa, bèn cầm giúp, rồi dắt tay Cẩm Nô vào đại điện.

Đợi hành lễ xong, Hoàng Tử Hà mới đưa móng gảy ngọc và đặt cây tỳ bà vào lòng Cẩm Nô, đoạn đi về phía Vương Nhược thì thấy sắc mặt nàng cũng tái nhợt như đóa hoa tàn, ánh mắt chỉ chăm chăm nhìn xuống đất như thể không dám nhìn thẳng vào bất cứ ai - kể cả hạng xướng ca nhỏ nhoi như Cẩm Nô.

Hoàng Tử Hà thầm thở dài, lùi ra sau lưng Vương Nhược. Kỳ Lạc quận chúa đứng ngay gần đó, vẻ thù địch toát ra rõ ràng đến nỗi cô phải ngoái đầu nhìn, chỉ thấy ánh mắt đầy oán hận của quận chúa đang găm vào người Vương Nhược, như thể muốn dùng ánh mắt ấy để lột da xẻo thịt nàng.

Thấy Hoàng Tử Hà nhìn mình, Kỳ Lạc quận chúa chẳng những không hạ ánh mắt xuống, còn trừng trợn nhìn cô với vẻ gây hấn, mối căm hờn không che giấu ấy khiến Hoàng Tử Hà ngấm ngầm bội phục, đành rời mắt nhìn đi chỗ khác.

Triệu thái phi cười bảo Vương hoàng hậu, “Đây là một nghệ nhân giáo phường, có ngón tỳ bà tuyệt hay, người trong thiên hạ không sao bì kịp. Chiêu vương rất thích nghe cô ta chơi đàn, còn nói ngày sau ắt thành quốc thủ.”

“Vậy ư? Trẻ như thế đã là quốc thủ, lẽ nào thực có tài nghệ kinh người?” Hoàng hậu cười nói, ánh mắt hờ hững lướt qua Cẩm Nô đang ngồi nép bên dưới.

Cẩm Nô ôm tỳ bà, hơi khom lưng cúi đầu thưa, “Cẩm Nô không dám. Cẩm Nô học nghệ không tinh, có giỏi đến đâu chăng nữa cũng không hơn được sư phụ, sư phụ Cẩm Nô mới thực là quốc thủ.”

Bấy giờ hoàng hậu mới lộ vẻ hứng thú, liếc mắt nhìn thêm mấy lần, song cũng không hỏi han. Triệu thái phi cười hỏi, “Sư phụ ngươi là thánh thủ nào thế?”

“Sư phụ Cẩm Nô là nghệ nhân tỳ bà ở Vân Thiều Uyển Dương Châu, tên gọi Mai Văn Trí, chẳng hay các vị ngồi đây đã nghe bao giờ chưa? Cẩm Nô là đệ tử duy nhất của người.”

Hoàng Tử Hà chưa từng nghe cái tên Mai Văn Trí, nhưng năm chữ Vân Thiều Uyển Dương Châu khiến lòng cô chấn động. Trần Niệm Nương và Phùng Ức Nương đều là người của Vân Thiều Uyển, Cẩm Nô lại cùng đến từ nơi đó, quả là khéo thật.

Mọi người xung quanh không có phản ứng gì với cái tên này, riêng Triệu thái phi dường như rất thích Cẩm Nô, lại cười bảo, “Vậy nhất định là ngươi có thiên bẩm nên mới lọt mắt xanh sư phụ ngươi.”

“Thưa phải, năm ấy Cẩm Nô mới năm tuổi, quê nhà gặp nạn lụt, cha mẹ dẫn theo Cẩm Nô chạy nạn đến ngoại ô Dương Châu, cả nhà đã đói đến nỗi chỉ còn thoi thóp, đành cắm cọng cỏ đem bán Cẩm Nô(*)…”

(*) Thời xưa, người nào muốn bán mình thì cắm một cọng cỏ lên đầu làm dấu, ai muốn mua trông thấy sẽ hỏi và ra giá.

Cẩm Nô ôm chặt cây tỳ bà, bình thản kể, “Bấy giờ đúng lúc sư phụ đi ngang, tình cờ vén rèm xe lên, liếc thấy tay Cẩm Nô liền bảo dừng xe lại, bước xuống nắm tay Cẩm Nô săm soi một hồi, chẳng nhìn đến mặt đã kêu người lấy tiền trả để mua Cẩm Nô. Sư phụ bảo rằng, Cẩm Nô, đôi tay này của con sinh ra để gảy tỳ bà, ông trời sinh con ra chỉ vì một việc ấy thôi.”

Ánh mắt mọi người đương nhiên đều đổ dồn vào đôi tay Cẩm Nô. Chỉ thấy tay trắng trẻo, xương khớp cân xứng, ngón rất dài, lòng bàn tay còn có phần lớn hơn tay phụ nữ thông thường. Cẩm Nô đặt ngang cây đàn tỳ bà trong lòng, tay trái khẽ nhấn cần đàn, tay phải cầm móng gảy lướt trên dây. Lúc này bàn tay đã thôi run rẩy, gương mặt cũng ửng hồng. Ngón tay lướt đi, tốc độ gảy khiến người ta không trông rõ được đôi tay nữa, tiếng đàn tinh tinh tang tang tuôn ra như vô vàn hạt châu lớn nhỏ rơi lanh canh xuống thềm điện, hạt nào hạt nấy khác hẳn nhau, có hạt êm dịu, hạt thư thái, hạt trôi chảy, hạt mềm mại, muôn vàn cảm giác trào dâng trong một khoảnh khắc, trên đài cao, giữa sảnh hoa, tiếng vọng văng vẳng, ngây ngất lòng người.

Khúc đàn đã dứt, song mọi người vẫn còn chìm đắm thật lâu, khó mà định thần lại được. Ngay Vương Nhược cũng phải mất một lúc mới buông tiếng thở dài.

Triệu thái phi mỉm cười nhìn Vương hoàng hậu, “Thế nào?”

Bấy giờ Hoàng Tử Hà mới phát hiện ra, cả điện chỉ mình hoàng hậu vẫn bình tĩnh thản nhiên, nghe Triệu thái phi hỏi mới đáp, “Quả không tồi, có điều thiếp nghe không thấy hay.”

Hoàng Tử Hà nhớ lại lời người khác từng nói, bệ hạ chuộng yến tiệc chơi bời xa hoa, song hoàng hậu tính tình lại lạnh nhạt thanh tĩnh, chẳng hứng thú gì với mấy chuyện ca múa tiệc tùng, quả nhiên là thực.

Cẩm Nô đặt cây tỳ bà xuống, quay mặt lên điện hành lễ, thưa rằng, “Năm xưa sư phụ từng nói tiếng tỳ bà của Cẩm Nô chỉ có vô tận phồn hoa, không có tĩnh mịch bình đạm, hẳn đây là hạn chế trong ngón đàn của Cẩm Nô.”

Hoàng hậu nói, “Giờ ngươi đương độ thanh xuân, dung mạo đẹp đẽ, lại ở giữa kinh thành nô nức phồn hoa, không lĩnh ngộ được mới là tốt đó.”

Triệu thái phi cười, “Hoàng hậu nói phải, kẻ chưa trải qua đại bi đại khổ, sao lĩnh ngộ được tĩnh mịch bình đạm? Tiểu a đầu này cả đời không hiểu nổi mới tốt!”

Cẩm Nô lại hành lễ toan lui ra, song Triệu thái phi nói, “Hôm nay dẫu sao cũng rảnh rỗi, ngươi kể chuyện sư phụ ngươi đi, giờ sư phụ ngươi còn ở Dương Châu ư? Tài đàn của bà ta giỏi như thế, khi nào mời bà ta vào cung đàn cho ta nghe một khúc?”

Cẩm Nô gượng cười thưa, “Sư phụ Cẩm Nô đã qua đời rồi.”

Triệu thái phi tỏ vẻ luyến tiếc, “Tiếc quá, ta thích nhất là tỳ bà, cũng từng ban dụ cho con cháu họ Tào năm xưa vào cung, khốn nỗi nhân tài họ Tào đã mai một cả. Nghe giọng điệu ngươi, hẳn sư phụ ngươi phải có tài nghệ trác việt?”

“Thưa phải. Ngón tỳ bà của sư phụ Cẩm Nô, trên đời không ai bì kịp. Nếu thái phi có nhã ý, Cẩm Nô xin kể hầu một giai thoại năm xưa của người.”

Hoàng hậu lộ vẻ sốt ruột, quay sang khẽ hỏi Vương Nhược, “Muội mệt không? Có muốn nghỉ ngơi một lát không?”

Vương Nhược lắc đầu đáp, “Muội về cũng chỉ nằm đấy thôi, chi bằng ngồi lại nghe kể chuyện.”

Kỳ Lạc quận chúa ác khẩu chêm vào một câu, “Phải đấy, vương phi hiện giờ nên ở chỗ đông người thì hơn, để khỏi…”

Để khỏi thế nào, Kỳ Lạc không nói hết, song ai nấy đều hiểu cả, ngay Triệu thái phi cũng đưa mắt nhìn sang.

Cẩm Nô ngồi xuống ghế, ôm cây tỳ bà rủ rỉ kể, “Mười sáu năm trước, giữa Dương Châu phồn hoa, sư phụ và năm tỷ muội khác cùng lập ra Vân Thiều Uyển, sáu người được xưng tụng là Vân Thiều Lục Nữ. Về sau sư phụ xuất giá, sinh được một con gái, gặp lúc tiên đế ban chiếu triệu kiến, năm người trong Vân Thiều Lục Nữ phụng chiếu lên kinh, chỉ mình sư phụ vừa sinh nở, thì ở cữ tại nhà. Bấy giờ ở Dương Châu còn một phường ca vũ khác tên là Cẩm Lý Viên, vì người người đều nói ‘cảnh phồn thịnh của Dương Châu đều ở Vân Thiều’, bọn họ không phục, bèn đi tìm đủ ba mươi sáu ca kỹ người Hồ đem về. Hằng năm đến ngày Đông chí, cung Giang Đô mở cửa để nam phụ lão ấu khắp nơi lũ lượt vào chơi, nắm tay nhau đạp ca(*), là lễ lớn mỗi năm một lần ở Dương Châu. Mà trước khi đạp ca, ắt phải bầu chọn ra kỹ viện nổi tiếng nhất Dương Châu diễn tấu mở màn. Năm ấy, theo lệ vẫn là các vũ cơ của Vân Thiều Uyển múa mở màn trên đại điện cung Giang Đô. Khi điệu múa đầu tiên còn chưa kết thúc thì lầu gác phía đối diện chợt trỗi nhạc lên, ba mươi sáu ca kỹ người Hồ kia, có mười hai người gảy đàn không hầu và thổi sênh thổi sáo, còn hai mươi tư vũ cơ mặc sức ca múa. Những người Ba Tư nọ đi chân trần, khoác voan mỏng, eo lưng thon thả, lại thêm tóc vàng mắt xanh, xoay tròn như gió, toát lên một vẻ phong tình quyến rũ riêng. Tức thì cả đám người xem nhao nhao chạy sang bên kia, thi nhau ngắm nhìn phong tư các vũ cơ người Hồ, khiến cảnh tượng náo loạn cả lên, ồn ào huyên náo. Bấy giờ đội vũ cơ của Vân Thiều Uyển cũng luống cuống tay chân, đành thõng tay đứng trên đài chẳng biết làm sao cho phải. Năm ấy Cẩm Nô mới tám tuổi, đang ở cùng với sư phụ và đứa con nhỏ đầy tháng ở hậu điện, nghe thấy đằng trước náo loạn, sư phụ bèn giao đứa nhỏ vào tay Cẩm Nô, ra cửa xem thử, thấy mọi người đang xôn xao túm tụm ở bên kia. Ba mươi sáu Hồ cơ tiêu sáo rộn ràng, eo lưng mềm mại, lại liếc mắt đưa tình với khắp mọi người, khiến người xem bên dưới nhao nhao khen hay, không khí sôi nổi vô cùng. Trái lại bên này vắng hoe vắng ngắt, chỉ có mấy người xem đang thu dọn chuẩn bị chạy nốt sang bên kia. Thấy cảnh đó, sư phụ liền bước tới bên một ca kỹ, đón lấy cây tỳ bà trong tay cô ta rồi ngồi xuống chiếc ghế kê gần đại điện, gảy tỳ bà theo điệu đạp ca. Tiếng tỳ bà vừa cất lên đã vang khắp cung Giang Đô, khiến chim chóc giật mình bay vút lên, muôn núi ngàn khe đều vọng tiếng; chỉ sau đôi ba câu, hai mươi tư vũ nữ Ba Tư kia đã loạn hết vũ điệu, ra sức lắc hông lại theo không kịp tiết tấu; chưa hết nửa khúc thì mười hai nhạc cơ kia cũng chẳng tấu nổi nữa, không hầu sênh sáo đều im bặt. Cả cung Giang Đô chỉ nghe thấy tiếng tỳ bà thánh thót vang vọng, như mưa hoa ngập trời, trân châu tuôn chảy. Khúc nhạc chưa dứt thì tuyết đã lả tả rơi giữa ngày Đông chí, những bông tuyết tung bay, xoay vần theo tiếng tỳ bà, tựa hồ khói bụi tục thế đều đã được tiếng nhạc đưa thẳng đến chín tầng mây, trên thấu tai trời, dưới trùm muôn người. Cả ngàn người trong cung Giang Đô đều im phăng phắc đứng dưới trời tuyết đổ mà nghe, không một ai dám thở mạnh, chỉ e làm rối loạn tiếng đàn.”

(*) Một hình thức nghệ thuật vừa múa vừa hát theo điệu nhạc.

Nghe Cẩm Nô tả, mọi người bất giác cũng nín thở, ngay Triệu thái phi còn vỗ tay tấm tắc, “Quả là thần kỹ!”

Hoàng Tử Hà thầm hình dung ra cảnh tượng ngày hôm ấy, không khỏi mê mẩn tâm thần, cõi lòng rung động hồi lâu.

“Thưa phải, cả đời này, có lẽ Cẩm Nô chẳng thể nào nghe lại khúc tỳ bà hôm ấy nữa.” Cẩm Nô mỉm cười, gương mặt đầy vẻ ao ước, “Khúc đạp ca kết thúc, dư âm còn văng vẳng, sư phụ lại tấu thêm một khúc, lần này tiếng tỳ bà không cao vút ngạo nghễ như lúc trước mà chuyển thành trong trẻo ngân nga, như thôi thúc chân tay du khách, khiến mọi người đều chộn rộn muốn vận động. Các vũ cơ Vân Thiều Uyển trên điện định thần lại, lập tức theo lệ xếp thành từng tốp, nhảy múa mở đầu màn đạp ca. Du khách khắp cung thoáng chốc như mê như say, nắm tay nhau nhảy giữa trời tuyết theo tiếng nhạc, bắt đầu đạp ca suốt đêm. Về sau, ở Dương Châu có lời đồn, một khúc tỳ bà của Mai Văn Trí chống được cả điệu múa ma mị của trăm người.”

“Ta không tin.” Kỳ Lạc quận chúa thình lình ngắt lời Cẩm Nô, “Trên đời sao lại có tiếng tỳ bà thần diệu đến thế, hẳn là ngươi bịa đặt.”

Cẩm Nô im lặng, chỉ mỉm cười cúi đầu nhìn xuống đất.

“Có lẽ ngày tháng lâu dài, đã tô đẹp thêm cho ký ức rồi chăng?” Hoàng hậu hờ hững nói, đoạn quay lại dặn nữ quan Trường Linh đứng hầu phía sau, “Bảo người của nội giáo phường đưa đến một cây tỳ bà nội phủ, ban tặng Cẩm Nô cô nương.”

Cẩm Nô vội bái tạ, lại thưa, “Cây tỳ bà này của Cẩm Nô tên gọi 'Thu lộ hành sương', là quà sư phụ tặng ngày trước, bấy nhiêu năm nay dùng mãi đã quen, e rằng không đổi được.”

Hoàng hậu liền nói, "Vậy bảo nội phủ đưa mấy món như móng gảy bằng ngọc, dây đàn và phấn hương thông đến đây, mấy thứ này hẳn là dùng được."

Cẩm Nô lại bái tạ lần nữa. Triệu thái phi vẫy tay nói, “Được rồi, đã gặp Quỳ vương phi rồi, ta cũng nên về nghỉ thôi. Vương phi cũng lo bồi bổ tinh thần đi, mấy ngày nữa là đại hỉ rồi, đến chừng đó ta sẽ sai người tới uống rượu mừng.”

"Đa tạ thái phi." Vương Nhược yêu kiều vái tạ.

Triệu thái phi lại dẫn cả đám người đi khỏi. Trường Linh ra hiệu cho Cẩm Nô về trước, đồ vật trong cung ban thưởng sau này sẽ đưa tới tay.

Hoàng Tử Hà cũng theo Vương Nhược đứng dậy, cùng nàng sang sảnh bên nghỉ ngơi.

Bước xuống thềm, Kỳ Lạc quận chúa còn nói bằng một giọng đủ lọt tai Vương Nhược, “Xinh đẹp thì có gì lạ đâu, con thấy dung mạo nghệ nhân này còn hơn khối thiên kim nhà khác.”

Vương Nhược hiểu rõ Kỳ Lạc đang châm chọc mình, song vẫn giữ vẻ điềm nhiên chỉ riêng Cẩm Nô nãy giờ ngơ ngẩn trầm tư, lúc này chợt cười nhạt thưa, “Quận chúa nói đùa rồi, luận về dung mạo thì không đến lượt Cẩm Nô, sư phụ mới thực là giai nhân nghiêng thành nghiêng nước.”

“Sư phụ ngươi ư?” Kỳ Lạc quận chúa nào để Cẩm Nô vào mắt, chỉ nói, “Trên đời hiện giờ, trừ hoàng hậu điện hạ, còn kẻ nào dám xưng ‘nghiêng thành nghiêng nước’ chứ?”

“Quận chúa nói rất phải.” Cẩm Nô bị mai mỉa song chẳng lấy làm điều, chỉ cười cười quay sang nhìn Hoàng Tử Hà, đôi mắt cong lên như hai vành trăng non, “Dương công công, còn nhớ lần trước tôi nói không? Tôi biết rất nhiều cô gái đem lòng ngưỡng mộ Quỳ vương gia, ví như…. mấy tỷ muội ở Dương Châu và trong giáo phường. Nếu công công có thể khiến Quỳ vương năng lui tới giáo phường thì tốt quá.”

Hoàng Tử Hà không đáp, chỉ mỉm cười gật đầu.

Mãi tới khi Cẩm Nô đi khỏi, Kỳ Lạc quận chúa mới nhảy dựng lên, “Ả ta… ả ta nói các tỷ muội giáo phường ngưỡng mộ… ngưỡng mộ Quỳ vương là có ý gì chứ?”

Hoàng Tử Hà lặng thinh, bụng bảo dạ, cô có thể đem một kẻ xướng ca vô loài ra ví với Quỳ vương phi, tại sao cô ấy không thể lấy các tỷ muội giáo phường ra ví với cô?

Nhìn theo dáng điệu tha thướt của Cẩm Nô, lòng Hoàng Tử Hà vừa thấy khoan khoái vì hả giận, vừa lo thay cho Cẩm Nô đã đắc tội với Kỳ Lạc quận chúa.

Vương Nhược sang sảnh bên nghỉ ngơi. Hoàng Tử Hà và bọn Tố Khởi, Nhàn Vân, Nhiễm Vân ngồi bên ngoài đợi, sợ quấy rầy nàng.

Tố Khởi đang cùng nữ quan Trường Linh ngắm nhìn những mẫu hoa trang trí mới trong cung. Giờ là buổi chiều, đêm qua Hoàng Tử Hà lại không ngon giấc nên lơ mơ buồn ngủ. Chợt sau tấm bình phong ở nội điện vang lên tiếng loảng xoảng, tiếp đó là tiếng chim kêu, rồi đến tiếng thét kinh hoàng của Vương Nhược.

Hoàng Tử Hà giật mình sực tỉnh, lúc cô đứng phắt dậy thì Tố Khởi và Trường Linh đã vứt đám cung hoa chạy vào trong điện. Cô hốt hoảng chạy theo, chỉ thấy Vương Nhược đang co rúm trên sập, run lẩy bẩy, trên đệm là một nắm tóc mai bị cắt.

Trường Linh trỏ ra ngoài song, kinh hoàng nói, “Bên kia… Tôi thấy thích khách từ bên kia vượt song chạy trốn!”

Hoàng Tử Hà vội chạy đến bên cửa sổ xem xét, chỉ thấy phía sau là khoảnh sân vắng tanh vắng ngắt.

Cô lập tức quan sát kỹ bên dưới khung cửa và mái cong bên trên, xem có thích khách nấp ở đó không, song chẳng hề thấy một ai cả. Hoàng Tử Hà lấy làm ngạc nhiên, một nơi rộng thế này, thứ gì cũng đập ngay vào mắt, không có chỗ nào ẩn thân, nếu thích khách đã bị Trường Linh bắt gặp lúc vượt tường nhảy ra thì nhất định không thoát được tầm nhìn của cô.

Song trong một khoảnh khắc ngắn ngủi ấy, thích khách đã chạy đi đâu?

Cô do dự quay đầu nhìn Vương Nhược, chỉ thấy nàng ôm chặt lấy chăn, ngồi bên mép giường, bóng chiều nhập nhoạng hắt lên mặt, mớ tóc bị cắt xổ tung, lọn dài lọn ngắn buông xõa bên mai, không sao vén lại được, phủ bóng mờ xuống má nàng, càng lộ rõ vẻ yếu ớt.

Hoàng hậu từ chính điện chạy sang, nghe bọn họ thuật lại đầu đuôi, liền nổi trận lôi đình, “Ngay tai cung Đại Minh này, giữa thanh thiên bạch nhật mà lại có thích khách đột nhập hòng gây hại cho vương phi! Đám người ở ty Phòng vệ đang làm cái gì vậy hả!”

Tất cả đều nín thít, không dám lên tiếng.

“Ta phải yết kiến bệ hạ, chuyện này không thể coi thường được.” Nói đoạn hoàng hậu đi thẳng ra cửa điện, chợt ngoái lại nhìn lướt qua mọi người, bảo, “Nếu chuyện này lan truyền ra, hẳn là lời đồn đại đang xôn xao trong kinh sẽ càng nghiêm trọng. Truyền chỉ của ta, lệnh cho mọi người trong cung không được tiết lộ ra ngoài. Vĩnh Khánh, ngươi lập tức đến vương phủ báo cho Quỳ vương, mời vương gia vào cung ngay.”

Đại hoạn quan Vĩnh Khánh vội vâng dạ rồi hối hả chạy đi.

Đợi hoàng hậu đi khỏi, tất cả mới xúm lại trấn an Vương Nhược, Nhàn Vân cảm kích nói, “Hoàng hậu suy nghĩ chu đáo thực, người đã săn sóc vương phi tận tình như thế, nhất định sẽ bảo vệ vương phi bình yên vô sự mà.”

Vương Nhược xem chừng hoảng sợ quá độ, chỉ ngồi ngây ra không nói năng gì.

Không lâu sau, ý chỉ của hoàng đế đến, Quỳ vương phi trước hết cứ vào ở trong điện Ung Thuần cung Đại Minh, phái Nội Đình điều một trăm quân thủ vệ trong kinh do Phòng vệ ty hữu đô úy Vương Uẩn đích thân thống lĩnh; Quỳ vương phủ lại điều thêm một trăm hộ vệ trong vương phủ, hai trăm người ngày đêm luân phiên bảo vệ điện Ung Thuần, đề phòng vạn nhất.

“Tốt quá rồi, có hai trăm người ở đây, cung Đại Minh lại sẵn có ba ngàn ngự lâm quân ngày đêm bảo hộ, kẻ khả nghi không thể trốn được.” Nhiễm Vân mừng rỡ động viên. Vương Nhược cũng đành gượng cười cho qua chuyện.

Điện Ung Thuần là một ngôi điện nhỏ nằm ở góc Đông Nam cung Đại Minh, vốn dùng làm nhà kho trong cung nên tường vách rất cao rất dày, có thể xem là nơi nghiêm ngặt nhất.

Mặt phía Tây là trọng điểm bảo vệ, bởi nơi này kề cửa lớn trong cung, nếu có người ngoài xâm nhập, hẳn phải vào theo hướng này. Có điều thiết kế điện rất chặt chẽ, mặt Tây là bức tường cao gấp ba người, chỉ mở một cửa ngách, hiện giờ có hai trăm lính phòng vệ, nên ngoài việc hạ lệnh khóa chặt cửa ngách, không cho bất cứ kẻ nào ra vào, thì bên trong bên ngoài cửa còn phái mỗi bên tám người canh gác, có thể nói là vững như thành đồng.

Mặt Bắc quay về phía nội cung, song cũng được canh gác nghiêm ngặt, ngoài hai lớp cửa đóng chặt còn có lính gác. Hơn nữa, dù là người đi tuần phiên thì buổi tối sau khi cài cửa bấm khóa, cũng không được ra vào nữa, để tránh có người trà trộn vào đội tuần tra.

Theo sắp xếp cụ thể thì tổng cộng có ba phòng tuyến bao quanh Vương Nhược - trong cùng là các cung nữ và hoạn quan ở nội điện và các lầu gác xung quanh, luôn luôn trông chừng nàng. Tiếp theo là ba mươi người ở ngoài đại sảnh, phân tán tại các hành lang và chốt gác, bất cứ lúc nào cũng có thể trông thấy người ra vào nội điện và lầu gác. Ba mươi người đứng dọc theo mé trong tường cung, lại có ba mươi người tuần tra mé ngoài. Mỗi toán gồm chín mươi người, cùng tám đội trưởng, hai thủ lĩnh phụ trách. Tổng cộng hai trăm người chia làm hai toán luân phiên.

Điện Ung Thuần vốn không lấy gì làm rộng, nay lại có hai trăm thủ vệ liên tục canh gác, khó tránh cảm giác chật như nêm cối.

“Trong điện đã được lục soát kỹ, không có bất cứ ai lẻn vào cả, xin vương phi yên tâm!” Hai vị thủ lĩnh của cấm vệ quân và hộ vệ vương phủ bẩm báo với Vương Nhược và Vương Uẩn.

Vương Uẩn nghe vậy cũng đứng dậy cáo từ Vương Nhược, “Sắp khuya đến nơi rồi, muội nghỉ sớm đi, ta ra đằng trước điện xem sao.”

Vương Nhược và Hoàng Tử Hà tiễn hắn đến cửa, nhìn theo mãi đến khi khuất bóng.

Hoàng Tử Hà đứng ở cửa điện, nhìn ra đám thủ vệ lố nhố đứng ngoài hành lang hay nép trong hòn giả sơn, trận thế bao vây tầng tầng lớp lớp như thế, khiến hình ảnh chiếc lồng chim trong tay kẻ thần bí ở chùa Tiên Du lại hiện ra trước mắt cô. Có điều, ai mà ngờ được, chiếc lồng trúc tía ken dày như thế, lại có một cơ quan bí mật, chỉ cần một động tác nhỏ là có thể xoay chuyển càn khôn, trộm rồng tráo phượng.

Mà Vương Nhược cũng chẳng khác gì con chim nhỏ trong lồng kia, một mình ngồi trong nội điện, nhìn các cung nữ hối hả thắp đèn, vẻ trầm tư.

Hoàng Tử Hà bước đến gần, hỏi khẽ, “Vương phi đang nhìn gì vậy?”

Vương Nhược thôi nhìn mấy ngọn đèn, từ từ ngẩng lên nhìn cô, trong cặp mắt long lanh lệ thấp thoáng ánh đèn lấp loáng, “Sùng Cổ, ta…”

Cổ họng nàng nghẹn lại, giọng khàn khàn, khẽ đến gần như không thể nghe tiếng, “Ta cảm thấy một tháng vừa qua cứ như một giấc mộng phù sinh vậy. Có được những thứ mà nằm mơ cũng không sao tưởng tượng nổi, nhưng chỉ trong nháy mắt tất cả lại sẽ trở thành ảo mộng, như ngọn đèn bấc chẳng mấy chốc đã lụi tàn.”

Hoàng Tử Hà nghe ra vô vàn xót xa trong giọng nói của Vương Nhược, niềm xót xa đó, dường như còn ẩn giấu một nỗi bi ai sâu thẳm.

Gió từ ngoài cửa nhè nghẹ thổi vào, ngọn đèn chầm chậm xoay tròn trong gió, lập lòe chớp tắt.

Gió nổi đèn xuân leo lét, mưa qua sầu cũ lưu niên, Hoàng Tử Hà nhìn gương mặt cúi gằm của Vương Nhược, một thiếu nữ đương độ tuổi hoa rực rỡ thế này mà lại như rơi xuống vực thẳm, đi trên băng mỏng thế ư?

Tuy chẳng biết tâm hồn nàng thực sự ra sao, Hoàng Tử Hà vẫn không khỏi thương xót, bèn nhỏ giọng khuyên nhủ, “Vương phi yên tâm đi, giờ vương phi đang ở trong cung Đại Minh, có bấy nhiêu binh sĩ hộ vệ cẩn mật, đến con ruồi còn không bay vào được, sao có thể xảy ra chuyện gì chứ?”

Vương Nhược gật đầu, song vẻ mặt vẫn đầy tâm sự.

Hoàng Tử Hà cũng chẳng biết phải an ủi thế nào, chỉ cảm thấy hình như hoàng hậu đã nghiêm trọng hóa vấn đề, thành ra làm tăng thêm áp lực cho Vương Nhược. Đang định vỗ về nàng mấy câu, chợt cô ngẩng lên, trông thấy Lý Thư Bạch thình lình xuất hiện giữa ánh đèn sáng trưng như ban ngày phía ngoài.

Y bước đến cửa nội điện nhìn vào bên trong, Nhàn Vân Nhiễm Vân vội vàng hành lễ, Tố Khởi đỡ Vương Nhược đứng dậy hành lễ với y.

Dưới ánh đèn, cô trông thấy ánh mắt Vương Nhược khi nhìn Lý Thư Bạch chẳng khác nào viên ngọc được lọc rửa, phát sáng lấp lánh mê người. Song vẻ mặt nàng lại vừa thẹn thùng vừa đượm phần thê lương, nửa vui nửa buồn, đến nụ cười cũng không che lấp được nét âu sầu thấp thoáng giữa đôi mày.

Lý Thư Bạch nhìn nàng, gật đầu chào, song chẳng nói năng gì, chỉ ra hiệu cho Hoàng Tử Hà ra ngoài.

Hoàng Tử Hà vội hành lễ với Vương Nhược rồi bước ra, cùng Lý Thư Bạch đi dọc theo con đường lát đá xanh ở đình giữa, băng qua đống giả sơn, đi đến hành lang ở đại sảnh. Nơi này cách nội điện của Vương Nhược chừng năm trượng, đứng đây có thể trông rõ mồn một tất cả động tĩnh bên ấy.

Lý Thư Bạch nhìn sang phía đó, hỏi, “Tối nay định sắp xếp thế nào?”

“Tố Khởi, Nhàn Vân, Nhiễm Vân hầu hạ vương phi ngủ ở gác bên trái, tôi và bọn An Phúc ở gác phải, hai bên chỉ cách nhau một sảnh nhỏ, có chuyện gì cũng có thể trông chừng lẫn nhau.”

“Ừm, ta không tin trong cung Đại Minh này, giữa vòng vây trấn giữ của binh lính, dưới sự trông chừng của mọi người mà vẫn có thể xảy ra chuyện đâu.” Lý Thư Bạch nói, đoạn cau mày, “Còn bảy ngày nữa là đến hôm nạp phi rồi, giờ hoàng hậu lại bày vẽ rình rang thế này, sự việc thành ra hơi phiền phức.”

Hoàng Tử Hà đang bận nghĩ xem là phiền phức gì, thì Lý Thư Bạch hờ hững nói tiếp, “Đang định trong hai ngày tới sẽ đưa vụ canh thiếp kia ra, dù sao thời gian cũng cấp bách rồi.”

Giọng y vô cảm, bình thản như đang nói chuyện thời tiết, không buồn bã, chẳng căm ghét, lại càng lộ rõ sự vô tình.

Nhớ đến khuôn mặt yếu đuối mơ màng của Vương Nhược, Hoàng Tử Hà không nhịn được hỏi khẽ, “Lẽ nào vương gia muốn đợi đến thời khắc sách lập vương phi thì vạch trần chân tướng ư? Nếu làm vậy e rằng sẽ khiến hoàng hậu và cả nhà họ Vương bẽ mặt.”

“Ta sẽ âm thầm giải quyết chứ, sao có thể làm mất thể diện họ Vương Lang Gia được.”

Hoàng Tử Hà chưa biết nói gì, ngoái đầu lại thì thấy Vương Nhược đang từ trong nội điện đi đến. Gió đêm lạnh lẽo thổi tung vạt áo và tơ tóc, nàng vận xiêm y vàng, tóc búi lỏng, bên mai gài một cây trâm hình sương đọng trên lá, dẫn theo Nhiễm Vân, băng qua đám giả sơn trong sân, tiến về phía họ.

Thân hình nàng chỗ nở chỗ thon vừa vặn, cao hơn những cô gái bình thường cả nửa cái đầu, dáng đi lại như gió lướt qua mặt nước, uyển chuyển mê người. Đến trước mặt họ, nàng yêu kiều bái chào, nói khẽ, “Tham kiến Quỳ vương gia.”

Lý Thư Bạch gật đầu ra ý miễn lễ. Vương Nhược đứng dậy ngước nhìn Lý Thư Bạch, nhỏ nhẹ nói, “Đa tạ vương gia đích thân tới thăm hỏi, Vương Nhược cảm kích vô cùng. Thiết nghĩ cung Đại Minh canh phòng nghiêm ngặt, lại có bấy nhiêu binh lính của vương phủ cũng như cấm vệ quân ngày đêm bảo hộ, ắt không thể có sơ hở, xin vương gia cứ yên tâm.”

Miệng thì nói vậy song cặp mắt Vương Nhược nhìn Lý Thư Bạch vẫn mở to, lộ nét bi ai và kinh hãi như nai nhỏ đang run sợ, thậm chí còn toát ra vẻ bịn rịn khó tả. Hoàng Tử Hà có thể đoán được, nếu lúc này Lý Thư Bạch quả thực nghe theo lời Vương Nhược mà đi khỏi, hẳn nàng sẽ đau lòng thất vọng biết bao.

May sao Lý Thư Bạch chỉ mỉm cười bảo nàng, “Chắc chắn rồi, không phải lo gì nữa. Nàng về nghỉ đi, từ mai cứ yên lòng ở lại trong cung nhé.”

“Vâng.” Vương Nhược sửa lại vạt áo, vái lạy.

Rèm mi dày dài che khuất đôi mắt nàng, ánh đèn thoáng qua đáy mắt như sóng gợn, trong khoảnh khắc, Hoàng Tử Hà cứ ngỡ đó là giọt lệ.

Vương Nhược đứng dậy, xuôi tay đi vào nội điện, không nói thêm gì nữa.

Lý Thư Bạch và Hoàng Tử Hà nhìn theo bóng nàng vòng qua giả sơn giữa cơn gió đêm lạnh lẽo, chậm rãi song không hề dừng lấy một bước. Đi đến cửa điện, dường như nàng có phần hoảng hốt, vô ý vấp phải ngưỡng cửa, Nhiễm Vân vội đỡ lấy nàng, giúp nàng nhấc cao xiêm lên.

Bấy giờ Lý Thư Bạch mới thôi nhìn theo, dặn dò, “Đã có bấy nhiêu người trông coi, vậy ta về phủ đây, nơi này giao cho ngươi trông chừng nhé.”

“Dạ.” Hoàng Tử Hà đáp, song vẫn nhìn vào điện. Chỉ thấy Nhàn Vân bưng hộp cơm đi thẳng ra nhà bếp đằng sau, Nhiễm Vân cầm đèn soi bên ngoài, vừa soi vừa lẩm bẩm gì đó.

Hoàng Tử Hà đứng bên kia hòn giả sơn hỏi với sang, “Cô đang tìm gì thế?”

Nhiễm Vân khum tay lên miệng làm loa, đáp thật to, “Cây trâm sương lá của vương phi không thấy đâu nữa!”

Hoàng Tử Hà liền vẫy vẫy tay với Lý Thư Bạch, “Tôi đi giúp họ tìm.”

Lý Thư Bạch không nói không rằng, chỉ đưa mắt nhìn theo bóng cô rảo bước đi ngang qua sân.

Hoàng Tử Hà băng qua hòn giả sơn, vừa nhìn đã thấy dưới đất có vật gì lấp lánh, hình dạng như gân lá, làm bằng vàng, ở giữa chạm rỗng, bên trên điểm xuyết hai viên trân châu như đôi giọt sương, chính là cây trâm vừa cài bên mai Vương Nhược.

Cô vội nhặt lên, đi đến đưa cho Nhiễm Vân.

Nhiễm Vân nhận lấy, cả hai cùng bước tới cửa điện thì thấy Nhàn Vân bưng hộp cơm quay lại, rầu rĩ mở ra cho họ xem, “Đầu bếp đã bị thanh lọc đuổi đi cả rồi, chỉ tìm thấy mấy miếng bánh trong tủ thôi, các người đã ăn tối chưa?”

“Ăn ăn ăn, chỉ biết ăn thôi, cô nhìn xem eo mình bao nhiêu rồi?” Nhiễm Vân giễu cợt.

Nhàn Vân trả đũa, “Hừ, năm xưa Dương quý phi châu tròn ngọc trịa, nghiêng nước nghiêng thành đấy thôi.”

“Hạng như cô đòi bì với Dương quý phi à? Huống hồ, bà ấy là người cách đây cả trăm năm rồi, giờ ai còn chuộng mốt giai nhân béo nữa! Nhìn eo vương phi nhà chúng ta kia kìa, ấy mới là đẹp!”

Hoàng Tử Hà tiến vào nội điện, thấy gác bên trái lặng phắc, liền rảo bước đi đến cửa nhìn xem.

Trong gác đặt một chiếc giường bằng gỗ hải đường có tua rua buông rủ, bên trên là chăn gấm gối thêu được gấp ngay ngắn; một chiếc sập khắc hoa nạm xà cừ bỏ không kê bên song cửa; trên tấm thảm rợp rợp hoa rơi vàng rắc bày một chiếc bàn thấp và hai cái đệm gấm; một tủ áo bằng gỗ tử đàn chạm hoa cỏ bốn mùa kê trong góc tường.

Ánh đèn lồng sáng ngời mà lạnh lẽo như thủy ngân soi sáng cả căn phòng, song không có một ai.

Vương Nhược vừa bước vào đây trước con mắt bấy nhiêu người, vậy mà chỉ một tích tắc đã lặng lẽ biến mất trong phòng kín, tựa như một làn khói xanh tan nhòa vào không khí.

Cả đám người phía sau còn đương ngây ra, Hoàng Tử Hà đã xăm xăm bước tới, mở toang cửa tủ áo nhìn vào trong, đoạn rạp mình nhìn xuống gầm giường, cuối cùng chuyển ra sau sập, đẩy bật cánh cửa sổ đóng chặt nhìn ra ngoài, vừa khéo trông thấy hai tên thị vệ đang ưỡn ngực đứng nghiêm bên ngoài.

Cô ngẩng lên, thấy Lý Thư Bạch đứng ở đại sảnh đang dặn dò gì đó. Như thể liếc thấy động tĩnh bên này, y quay sang nhìn cô.

Cô vẫy tay ra dấu với y, cho biết đã xảy ra chuyện.

Lý Thư Bạch liền rảo bước băng qua sân đi tới, thấy căn gác trống không, lập tức sai mọi người tìm kiếm trong sảnh nhỏ và hai căn gác hai bên. Điện Ung Thuần chẳng lấy gì làm rộng rãi, chỉ một lát đã lục soát hết các ngóc ngách, nhưng Vương Nhược vẫn biệt tăm.

Chợt nghe tiếng chân hối hả bên ngoài rồi Trường Linh nữ quan hầu hạ hoàng hậu và vài người nữa vội vàng chạy vào, “Xảy ra chuyện gì vậy?”

Trông thấy Lý Thư Bạch đứng đó, Trường Linh hấp tấp hành lễ, đoạn đưa mắt nhìn Nhàn Vân như dò hỏi. Nhàn Vân liền đáp khẽ, “Vương phi… chẳng biết đi đâu mất rồi.”

Trường Linh hoảng hốt kêu lên, “Nô tỳ đương phụng mệnh hoàng hậu kiểm lại một ít hoa trang trí và y phục đưa tới cho vương phi, sao… mới có một chốc, lại trước mắt bấy nhiêu người, mà…”

Lý Thư Bạch ra lệnh, “Ngươi quay về bẩm với hoàng hậu đi, bên này ta sẽ cho người lục soát lần nữa, nếu tìm thấy sẽ hồi báo ngay.”

“Để lại vài người giúp tìm kiếm đi, ta phải về gác Bồng Lai ngay bây giờ.” Trường Linh nói, đoạn ra hiệu cho mấy cung nữ ôm quần áo phía sau mình đặt đồ đạc xuống, rồi chỉ dẫn hai ba người về trước.

Theo phân công của Lý Thư Bạch, bấy nhiêu người đã lật đi lật lại tra xét từng bụi cỏ, từng viên gạch, từng cái cây đến mười mấy lần, song không thấy mảy may manh mối.

Quả nhiên như tiên đoán, Vương Nhược đã biến mất trước ngày thành hôn, hơn nữa còn ở ngay giữa cung Đại Minh, trong vòng vây bảo vệ của binh lính.
 

Tam Thất

nhân chi sơ, tính bản thiện
Tham gia
13/4/19
Bài viết
1,705
Điểm cảm xúc
1,399
Điểm
113
Một lúc sau, một trong các đại thái giám của hoàng hậu là Vĩnh Tế cũng tới. Điện Ung Thuần lố nhố nào là hoạn quan, cung nữ, cấm vệ quân, hộ vệ vương phủ, gần như phải chen vai thích cánh nhau. Thấy tình cảnh ấy, Lý Thư Bạch chịu không nổi, bèn giơ tay ra hiệu cho tất cả lui ra, chỉ để lại mười mấy người do Vương Uẩn chỉ huy sục sạo tìm kiếm mọi dấu vết có thể trong điện.

Lý Thư Bạch và Hoàng Tử Hà ra đứng ngay trước cửa, quan sát kỹ chung quanh.

Điện Ung Thuần đã yên tĩnh trở lại, giữa đêm khuya trông chẳng khác gì cung điện bình thường, cả điện có bảy gian đằng trước và bảy gian đằng sau, bố cục oai nghiêm nên có phần thô cứng, được nối thông bằng hai hành lang trái phải, tạo thành một chữ khẩu. Nhằm làm dịu thiết kế cứng nhắc này, những người thợ thủ công đã lát một con đường bằng đá xanh ở sân giữa, hai bên đặt hòn giả sơn. Giả sơn không cao, chỉ có một hai khối đá vượt đầu người, còn lại là đá vừa và nhỏ bày lẫn lộn với nhau cho đẹp mà thôi, bởi vậy đứng ở khu phía trước có thể nhìn thấy rõ mồn một khu phía sau.

“Bấy giờ chúng ta đứng dưới mái hiên đại sảnh, gần hành lang, nhìn theo Vương Nhược đi dọc con đường lát gạch xanh vào nội điện. Vì Vương Nhược ngủ tại gác trái nên khi đi được phần tư đường đã vòng qua giả sơn, song chúng ta vẫn có thể trông thấy bóng dáng. Quả thực chúng ta đã thấy cô ấy đi vào gác trái, không quay a nữa.”

Lý Thư Bạch gật đầu tỏ ý xác nhận.

“Ngay sau khi Vương Nhược vào cửa điện, Nhàn Vân lại bưng hộp đồ ăn đến nhà bếp. Sau đó, Nhiễm Vân xách đèn lồng đi ra tìm trâm. Đến đây có một nghi vấn phải đặt ra, tại sao đương lúc tình hình nhạy cảm phải cảnh giác cao độ thế này mà cả Nhàn Vân lẫn Nhiễm Vân lại cùng ra ngoài, sao không nghĩ tới việc để một người ở lại cạnh Vương Nhược?” Hoàng Tử Hà nói, đoạn bước đến bên bàn ngồi xuống, định giơ tay rút trâm cài tóc vẽ ký hiệu theo thói quen, nhưng vừa đưa tay lên đã chạm phải chiếc mũ hoạn quan bằng sa trên đầu, bất giác khựng lại, sau đó cầm lấy cây trâm sương lá đang đặt trên bàn vẽ sơ đồ điện Ung Thuần.

Lý Thư Bạch theo dõi, hơi cau mày. Hoàng Tử Hà không bận tâm, ung dung thuật lại mọi chuyện khi ấy, “Sau đó tôi lên tiếng hỏi, họ bèn kể chuyện tìm trâm, tôi đi đến sau hòn giả sơn phát hiện thấy cây trâm, bèn cầm lấy đưa cho họ, bấy giờ Nhàn Vân cũng vừa mới quay về, đem theo bánh hồ đào.”

Trên bức phác họa mờ đến mức gần như không thể nhìn thấy, cô lại vạch một đường từ nội điện đến nhà bếp bên cửa ngách, “Nhà bếp của điện Ung Thuần nằm ở góc Tây Nam, ngay sát tường, các đầu bếp đều đã bị đuổi đi vì lý do an toàn. Nhàn Vân lần đầu vào cung, vậy mà chỉ trong một khoảng thời gian ngắn như vậy đã tìm thấy điểm tâm dù nhà bếp không có ai để hỏi han, chẳng rõ là vì may mắn hay có giác quan đặc biệt với đồ ăn?”

Lý Thư Bạch liếc cây trâm trong tay cô đang vô thức vạch vạch trên bàn, thản nhiên hỏi, “Ta tưởng ngươi còn phán đoán nào khác nữa kia?”

“Còn nữa, nội điện gồm ba phần, từ trái sang phải lần lượt là gác trái, sảnh nhỏ, gác phải. Thực ra nội điện có bảy gian, hai gian bên trái và hai gian bên phải đã dùng làm gác, chỉ có ba gian giữa được coi là sảnh. Gác trái cấu tạo như phòng ấm, bốn vách tường dày dặn, hơn nữa chỉ có một cửa sổ, nằm cùng phía với cửa lớn của nội điện, nhìn thẳng ra sân giữa và sảnh lớn. Bởi thế, nếu muốn ra vào gác trái thì chỉ có một con đường là đi qua sảnh nhỏ. Trong lúc tôi, Nhàn Vân, Nhiễm Vân ba người đứng sờ sờ ở cửa sảnh nhỏ, cô ấy trừ cách đi xuyên tường, chỉ còn biện pháp duy nhất là trèo cửa sổ ra ngoài.”

“Ngoài cửa sổ chẳng những có hai người trông giữ từng giờ từng khắc, mà ngay hành lang đại sảnh cũng luôn luôn có người canh giữ, ta lại đang đứng ở chính hành lang đó, nếu cửa sổ mở ra, thì ta và những người khác sẽ trông thấy trước tiên.”

“Còn một khả năng nữa, là ở nội điện có đường hầm.” Hoàng Tử Hà quăng cây trâm xuống, cùng Lý Thư Bạch quay lại gác trái, quan sát căn gác chỉ có một cửa chính một cửa sổ, không hề có chỗ ẩn nấp.

“Đường hầm hả, có thể lắm.” Lý Thư Bạch ngồi xuống chiếc ghế thấp, tự rót trà uống. Thấy đại gia đây chẳng giúp được việc gì, Hoàng Tử Hà đành bấm bụng tự kiểm tra từng mảng tường, thậm chí bê cả tủ quần áo ra, gõ gõ vào mảng tường phía sau tủ hồi lâu.

Lý Thư Bạch ung dung uống trà, nhìn cô như đang xem một vở kịch không chút liên quan đến mình. Thấy ngón tay đã sưng lên vì gõ, Hoàng Tử Hà đang định xoa xoa một lát thì Lý Thư Bạch quăng cho cô một vật. Cô bắt lấy xem thử, ra là nửa thoi bạc, vuông vắn dày dặn, ước chừng nặng đến mười lạng. Cô nằm bò dưới đất, gõ bạc xuống nền gạch, chăm chú lắng nghe âm vọng bên dưới, song chẳng thu được gì. Ngay cả phần gạch xanh dưới thảm, cô cũng lật thảm lên gõ gõ từng viên một.

Lý Thư Bạch vẫn thờ ơ như không, khi cô kiểm tra đến bên dưới chỗ ngồi của y, y bèn bưng ly trà chạy sang đệm gấm đối diện để ngồi, coi như không thấy.

Hoàng Tử Hà tìm đến mệt lử mà chẳng thu hoạch được gì, đành đứng dậy ngồi xuống trước mặt Lý Thư Bạch, đặt nửa thoi bạc kia lên bàn, “Vương gia ra đường sao còn đem theo bạc thoi, mà lại là nửa thoi vậy?”

“Đương nhiên ta đâu có mang.” Lý Thư Bạch đáp, đoạn trỏ ba ly trà đương úp, “Thấy nó đặt trên ghế, dùng ly trà úp lên, ta cầm chén uống trà mới phát hiện ra đó.”

“Lạ thật, ai lại để nửa thoi bạc này trên bàn chứ?” Cô lật qua lật lại săm soi, thấy phía sau thoi bạc theo thông lệ có đúc chữ, ở đây là:

Phó sử Lương Vi Đống… Nội khố sứ thần Trương Quân Ích. Đúc bạc hai…

Lý Thư Bạch cầm lấy thoi bạc, quay mặt có chữ về phía cô, “Để tránh việc ăn bớt ăn xén khiến bạc không đủ trọng lượng, khi đúc người ta phải khắc tên một sứ thần và ba phó sử lên thoi bạc, để có bằng cứ mà tra.”

“Tôi biết, bởi thế nửa thoi còn lại hẳn có tên hai vị phó sử khác và chữ ‘mươi lạng’, xem ra đây là thoi bạc hai mươi lạng do kho bạc trong đại nội đúc thành.” Hoàng Tử Hà vừa nói vừa ước chừng trọng lượng thoi bạc.

Lý Thư Bạch trỏ vào tên hai người trên thoi bạc, “Nhưng trong những người phụ trách đúc vàng bạc ở đại nội, không có ai tên như thế này cả.”

“Người phụ trách đúc bạc ở đại nội nhiều như vậy, lẽ nào vương gia đều biết cả ư?”

“Rất trùng hợp, trước đây bên kho bạc từng xảy ra một vụ nhận hối lộ, ta phụng mệnh dẫn theo mấy chục người chuyên tính toán thu chi ở bộ Hộ vào cung, đối chiếu tất cả sổ sách bao năm nay trong đại nội. Đồng thời cũng xem qua tư liệu về việc đúc vàng bạc và tiền đồng của bản triều từ khi khai quốc đến giờ nên đã ghi nhớ hết tên họ những người phụ trách đúc bạc, thậm chí kẻ chủ quản các kho phủ địa phương cũng nhớ rõ cả.”

Bản lĩnh nhìn qua là thuộc đáng sợ của kẻ này, Hoàng Tử Hà đã đích thân thể nghiệm, cô cầm nửa thoi bạc trong tay săm soi một hồi, lẩm bẩm, “Lẽ nào đây là bạc tự đúc?”

Song lập tức, cô lại lắc đầu phủ định suy đoán này, “Nếu là tự đúc, nhất định sẽ khắc tên của chủ nhân, chứ ai giả mạo làm sứ thần trong kho bạc đại nội - trừ phi đây là loại bạc giả lõi chì ngoài phố.”

“Cũng không phải, thoi bạc này được chặt làm đôi, vết chặt vẫn là bạc ròng, xét theo trọng lượng cũng không có chênh lệch.” Nhìn cô vắt óc nghĩ ngợi, Lý Thư Bạch giơ bốn ngón tay ra, “Xem ra đây cũng là một điểm cần chú ý - nửa thoi bạc chưa rõ lai lịch.”

“Sao lại là nửa thoi nhỉ?” Hoàng Tử Hà lẩm bẩm, cảm thấy khả năng đột phá từ phương diện này rất mong manh, bèn đặt nửa thoi bạc xuống cạnh cây trâm sương lá, rồi ngẩng lên hỏi Lý Thư Bạch, “Tiếp theo đây, vương gia định làm gì?”

“Nói đến việc này, quả thực ta cũng cần chuẩn bị một chút. Ngày mai có một đoàn sứ giả Thổ Phồn vào kinh, bộ Lễ nhờ ta giúp họ ra mặt tiếp đãi.” Y đứng dậy, thong thả phẩy vạt áo, “Từ đầu ta đã nói rồi thôi, chuyện này giao cả cho ngươi đấy, hiện giờ quả nhiên đã đi đến bước xấu nhất trong dự liệu, ngươi phải phụ trách giải quyết ổn thỏa chuyện này - ít nhất cũng phải tìm biết xem Vương Nhược thế nào.”

Hoàng Tử Hà đứng dậy theo y, “Một mình tôi ư?”

“Nội Đình và Đại Lý Tự nhất định sẽ nhúng tay vào, đến lúc đó ta sẽ nói một tiếng với họ, để ngươi luôn được tham gia - phải rồi, nếu phát hiện thấy thi thể gì đó thì cứ tìm Chu Tử Tần.”

Khóe môi Hoàng Tử Hà không khỏi giần giật - vương phi tương lai bảy ngày nữa là gả cho y, trong nháy mắt biến mất ngay trước mặt, vậy mà y vẫn quan tâm tới việc thi thể xuất hiện trước hết, thật chẳng hiểu là hạng người gì nữa!

Tình hình bây giờ như một mớ gai rối beng, đâu đâu cũng là manh mối, song đâu đâu cũng lại là thép tấm, chẳng biết phải bắt tay từ chỗ nào.

Hoàng Tử Hà quay vào điện Ung Thuần, sục sạo khắp các ngóc ngách, lại tưởng tượng ra vô số cách giấu giếm manh mối, chuồn ra ngoài qua cửa sổ hoặc cửa chính, rà soát lại đầu đuôi câu chuyện mấy lần, song vẫn chẳng thu được điều gì.

Thân thích của hoàng hậu, vương phi tương lai của Quỳ vương biến mất đầy bí ẩn ngay trong hoàng cung mà Nội Đình bó tay hết cách. Theo ý chỉ của hoàng hậu, Nội Đình không chỉ tra xét điện Ung Thuần mà còn lục lạo khắp cung Đại Minh, nhưng kết quả trắng tay cứ như đã được định sẵn. Đương nhiên không thể dỡ cả điện Ung Thuần ra, nhưng tất cả đồ đạc và trần thiết bên trong đều đã bị gỡ bỏ rồi lại lục soát thật kỹ một lần nữa, song chẳng thu được gì. Chẳng bao lâu sau, Đại Lý Tự thiếu khanh Thôi Thuần Trạm cũng dẫn theo một đám thôi thừa tri sự vào cung Đại Minh, tiến hành thẩm tra.

Theo lời Lý Thư Bạch căn dặn, Hoàng Tử Hà tới gặp Đại Lý Tự thiếu khanh Thôi Thuần Trạm.

Trước đây trong vụ án Bốn Phương, cô đã gặp Thôi Thuần Trạm một lần, người này khoảng ba mươi tuổi, thuộc gia tộc họ Thôi ở Bác Lăng, là con cháu thế gia, thiếu niên đắc chí, luôn toát lên tinh thần nhiệt tình hăng hái. Vừa gặp y, trước mắt cô đã hiện lên hình ảnh Vương Uẩn, cảm thấy hai người này nhang nhác nhau.

Vì Hoàng Tử Hà là người của Quỳ vương phủ, trước đây lại từng phá được án Bốn Phương, nên Thôi Thuần Trạm hết sức nể vì cô, còn mời cô ngồi, cười nói, “Công công tuy trẻ tuổi song năng lực phá án thực khiến người ta bái phục. Lần này Quỳ vương để công công tham gia, hy vọng công công sẽ hết sức tương trợ.”

Hoàng Tử Hà vội đáp, “Nếu có chỗ nào cần tới, tôi nhất định sẽ dốc cạn sức mọn.”

Theo lệ Đại Lý Tự lại lặp lại quá trình cũ một lượt, Tố Khởi, Nhàn Vân, Nhiễm Vân cùng mọi người trong cung đều bị triệu tới căn vặn cặn kẽ lần nữa. Song lời khai của họ vẫn vậy, không có gì khác, chỉ là vương phi đến điện Ung Thuần, Quỳ vương gia tới thăm, vương phi một mình ở gác phía Đông, những người khác vừa ra ngoài chốc lát thì vương phi đã biến mất.

Khi ấy, Hoàng Tử Hà cùng Lý Thư Bạch và hơn ba mươi người dưới sân đều không phát hiện được Vương Nhược ra vào lúc nào, thậm chí mấy viên hoạn quan ở gác phải, chỉ cách một sảnh nhỏ, cũng không hề nhận thấy bên gác trái có gì khác lạ.

Hai thị vệ đứng canh bên ngoài cửa sổ gác Đông bấy giờ cũng đang nghiêm chỉnh chấp hành nhiệm vụ, quả quyết bản thân không hề rời mắt khỏi khung cửa sổ, chính là khung cửa sổ mà Hoàng Tử Hà đã mở ra xem sau khi có chuyện.

“Vương đại nhân dặn chúng tôi phải trông chừng thật kỹ cửa sổ, nên chúng tôi không dám rời mắt!” Các thị vệ khẳng định.

“Quả nhiên vẫn là Vương Uẩn suy nghĩ chu đáo - tiếc rằng đề phòng muôn lối, cuối cùng vương phi vẫn xảy ra chuyện.” Thôi Thuần Trạm than thở. Hoang mang vì không có manh mối, hắn bối rối quay sang nhìn Hoàng Tử Hà, “Đúng là chuyện quái gở… Chẳng biết công công có phát hiện gì không?”

Hoàng Tử Hà lắc đầu, “Trước khi đại nhân đến, tôi và vương gia đã kiểm tra nhiều lần, song chẳng thu được gì cả, chỉ uổng công.”

Khi tra hỏi xong mọi người thì trời đã sắp tối. Tìm kiếm thật lâu cũng chẳng phát hiện được gì, chỉ có một binh sĩ lục soát nhà bếp phía sau trình lên một miếng gỗ cháy sém, nói rằng tìm được trong bếp lò.

Thôi Thuần Trạm đón lấy xem xét rồi ngán ngẩm lắc đầu, “Đồ ngốc! Nhà bếp đốt vài mẩu gỗ vụn thì có gì quan trọng? Thế mà cũng đem đến cho bản quan à!”

Hoàng Tử Hà nghe nói liền đón lấy xem kỹ, là một mẩu gỗ đã cháy gần hết, bề ngoài đen sì, nhưng vẫn giữ được đường nét cơ bản, mang máng thấy giống hình móng ngựa, đằng trước là mặt vát đã cháy vênh cả lên, đằng sau cong hình bán nguyệt.

Cô còn đương săm soi thì Thôi Thuần Trạm đã nói, “Nhà bếp trong cung thỉnh thoảng cũng lấy những đầu mẩu gỗ vụn làm củi đun, ta thấy cái này có lẽ là phần còn lại của món đồ gỗ nào đó thôi, không có gì lạ.”

Hoàng Tử Hà gật đầu, đoạn giao mẩu gỗ cho người của Đại Lý Tự, dặn dò, “Cứ giữ lại đi, biết đâu cần đến.”

“Dương công công nói phải, cứ giữ lại đã.” Thôi Thuần Trạm ưng thuận, rồi quay sang bảo người sắp xếp tài liệu, nói hôm nay chỉ đến đây là dừng.

Hoàng Tử Hà bèn cáo từ, Thôi Thuần Trạm vội gọi cô lại, cười nói, “Hôm nay hiếm hoi được lần gặp mặt, sau này còn phải hợp tác lâu dài, ta định mời công công đi ăn được chăng.”

Hiện giờ Hoàng Tử Hà là người do vương phủ phái đến tham dự vào vụ án này, đương nhiên đành phải nhận lời. Nhưng khi đến Chuế Cẩm Lâu ở chợ Tây, thấy trong phòng ngăn đã có mấy người ngồi, cô không khỏi ngán ngẩm.

Cẩm Nô ôm tỳ bà ngồi một bên xem như cũng là người quen, ngoài ra còn có Chu Tử Tần vận áo gấm thanh thiên viền nẹp hồng phấn, đeo thắt lưng vàng nhạt, đang hào hứng phân tích làm sao để phân biệt được thời gian tử vong thông qua vị thịt và mức độ thối rữa, hoàn toàn không đếm xỉa đến cảm giác của người khác khi nhìn gà vịt cá thịt ngồn ngộn trên bàn.

Một người mỉm cười đứng dậy đón Hoàng Tử Hà và Thôi Thuần Trạm, phong thái ung dung văn nhã như đi giữa gió xuân, chính là Vương Uẩn.

“Sùng Cổ!” Vừa thấy Hoàng Tử Hà, Chu Tử Tần mừng rỡ quên cả câu chuyện đang nói, rối rít vẫy tay với cô, “Vừa nghe có một vị Dương công công ở Quỳ vương phủ giúp Thôi huynh làm án, ta đã nghĩ ngay là công công, quả nhiên không sai!”

Hoàng Tử Hà phớt lờ chỗ trống bên cạnh Vương Uẩn, khăng khăng chọn ngồi cạnh Chu Tử Tần phối đồ xanh hồng lòe loẹt trông rất đáng sợ, miệng nói, “Không ngờ công tử cũng ở đây.”

Thôi Thuần Trạm cười nói, “Tử Tần có khả năng quan sát tinh tường các hiện trường xảy ra vụ án, đặc biệt còn có nghiên cứu sâu sắc về thi thể, Đại Lý Tự cũng thường phải nhờ vả đệ ấy. Tiếc rằng chẳng bao lâu nữa Tử Tần sẽ phải theo Chu đại nhân vào Thục, về sau bọn chúng ta trên kinh khó lòng gặp được nữa, nhân hôm nay phải uống thêm mấy chén đấy.”

Chu Tử Tần nhìn y đầy khinh bỉ, “Mỗi lần đều là bọn đệ uống, huynh toàn ỷ nhà có sư tử Hà Đông, xưa nay chỉ một hai chén đã xong, cái danh sợ vợ nhất kinh thành chẳng huynh thì còn ai nữa!”

Thôi Thuần Trạm cười ha hả, rõ ràng chẳng hề phật ý, cứ luôn miệng hỏi khi nào Chu Tường cha gã lên đường, lúc nào bày tiệc đốt đuôi(*)…

(*) Tiệc đốt đuôi là một loại yến tiệc đặc thù từng thịnh hành ở thành Trường An đời Đường, do quan mới nhậm chức hoặc mới được thăng chức chiêu đãi những bạn bè và đồng liêu tới chúc mừng. Cái tên “đốt đuôi” kỳ lạ có ba cách giải thích, một là khi hổ biến thành người, phải đốt đuôi đi; hai là nói khi dê nhập bầy mới, phải đốt cháy đuôi cũ mới được tiếp nhận; ba là cá chép vượt vũ môn, phải chịu bị lửa trời đốt trụi đuôi cá, mới có thể hóa rồng.

Đợi tám món ăn nóng sốt đưa cả lên, mọi người cùng cạn một chung, Vương Uẩn mới cất tiếng hỏi, “Chẳng hay việc Quỳ vương phi mất tích đến giờ đã có manh mối gì chưa?”

Thôi Thuần Trạm lắc đầu, “Xem ra vẫn cần thêm ít thời gian nữa.”

Vương Uẩn lộ vẻ lo lắng, song cũng không tỏ thái độ nhiều.

Nhìn đĩa cá mới bưng lên, Chu Tử Tần ồ một tiếng, “Hôm nay Lý thẩm vẫn phụ trách làm cá ở nhà bếp đi vắng ư?”

Tiểu nhị ngạc nhiên hỏi, “Sao Chu công tử biết vậy, hôm nay nhà Lý thẩm có việc, là người khác làm cá đấy.”

Chu Tử Tần nhăn mặt, “Thoạt nhìn là biết người mới làm, phần bụng cá ta thích nhất bị khuyết này, ngươi xem đường cắt thì xiên xẹo, lớp mỡ và da bụng đều bị phá hỏng cả, mùi hương và vị ngon đặc biệt ở bụng cá bị hủy hoại hết! Còn nữa còn nữa, các vị xem, cả sợi đen ở hậu môn cũng không lọc sạch, nào có được tay nghề điêu luyện như Lý thẩm!”

Người quanh bàn đều cười gượng, Vương Uẩn đổi chủ đề, “Dương công công và Tử Tần quen nhau ư?”

Hoàng Tử Hà ngồi cạnh Chu Tử Tần, bất lực nhìn gã gắp một miếng cá to đã được lọc sạch vào bát mình, “Có duyên gặp mặt một lần thôi.”

Thôi Thuần Trạm cười, “ Tử Tần với ai cũng có thể vừa gặp đã thân, chúng ta quen rồi.”

Chu Tử Tần nghiêm mặt phản bác, “Đệ và Sùng Cổ là bạn bè vào sinh ra tử, không như người bình thường đâu.”

Cùng đi quật mồ có một lần thôi mà? Từ lúc nào đã thành vào sinh ra tử vậy? Hoàng Tử Hà nhăn mặt, chỉ cắm cúi ăn cá trong bát. Chu Tử Tần vẫn ra rả bên tai cô, “Không phải ta tự khoe chứ, về ngón lọc xương cá ta là hạng nhất kinh thành, thậm chí nhất cả thiên hạ đấy. Trước đây bị gia phụ nhốt ở nhà, không cho theo ngỗ tác ra ngoài học hỏi, hằng ngày chỉ còn trò nghiên cứu gà vịt cá do nhà bếp làm - trâu có một trăm linh tám chiếc xương, gà có một trăm sáu mươi tư chiếc, cá thì chênh lệch nhiều hơn, ví như con cá diếc hôm nay, đừng tưởng cá diếc lắm xương, thực ra nó đều có quy luật phân bố cả, ta dạy công công một cách nhé, tuyệt chiêu độc môn của ta đấy, bí truyền bí truyền, chính là thịt lưng cá có thể chia lớp mà gỡ ra, đương nhiên thao tác rất quan trọng…”

Mọi người vừa nghe gã huyên thuyên, vừa uống rượu cười đùa, không khí trên tiệc khá vui vẻ, chẳng bao lâu đã dẹp hết những lời thảo luận liên quan đến việc vương phi mất tích, biến thành một buổi họp mặt chè chén. Hoàng Tử Hà thấy vẻ mặt Vương Uẩn có phần bất đắc dĩ, song nhìn chung vẫn miễn cưỡng rặn ra được nụ cười.

Chẳng rõ ai lại khơi mào, “Hôm nay trong kinh đang đồn ầm lên, mọi người có nghe không?”

“Đồn cái gì?” Tất cả liền hỏi.

“Đồn đại về Kỳ Lạc quận chúa đó.”

Mọi người dĩ nhiên biết Kỳ Lạc quận chúa xưa nay vẫn tự cho mình là Quỳ vương phi tương lai, song cuối cùng lại không được thỏa nguyện, đều mỉm cười đầy ẩn ý, ồ lên một tiếng.

Cẩm Nô cười nói, “Ôi chao, quả là không khéo. Nói ra thì, hôm qua thiếp đến đàn tỳ bà hầu thái phi, vừa khéo gặp Kỳ Lạc quận chúa trong cung.”

“Té ra lúc vương phi mất tích, Kỳ Lạc quận chúa cũng ở trong cung?” Thôi Thuần Trạm hỏi.

“Đúng thế, nghe nói quận chúa đến chép kinh giúp thái phi. Nghe nói trước đây nàng ấy đã đút lót cho các cung nhân thân cận của người nên mới nhận được việc này. Quỳ vương gia cứ mười ngày lại vào cung thỉnh an thái phi một lần, đến lúc đó nàng ấy có thể bắt chuyện.”

Mọi người đều cảm thán, “Quả là si tình mà.”

“Hơn nữa nghe nói nàng ấy cũng tỏ rõ thái độ với thái phi tình cảm của mình dành cho Quỳ vương, thái phi có ý tác hợp. Tiếc rằng cuối cùng vận mệnh an bài, Quỳ vương không đến lượt nàng ta. Từ khi Quỳ vương và Vương cô nương định ngày thành hôn, nàng ấy cũng lấy cớ bị ốm, một dạo không vào cung nữa, nào ngờ hôm qua lại vào, vừa gặp lúc vương phi mất tích. Sau khi xảy ra chuyện, nghe nói Kỳ Lạc quận chúa còn đích thân đến điện Ung Thuần ngó nghiêng…” Cẩm Nô kể, đoạn lấy cây tỳ bà che miệng cười, “Thiếp cũng theo đến xem, nói đùa chứ, vẻ mặt quận chúa lúc đó thực là như trút được gánh nặng, cầu được ước thấy.”

“Phải đó, trong kinh đồn rằng Quỳ vương phi sẽ mất tích trước ngày thành hôn, người thích nghe tin đồn này nhất chính là cô ta chứ ai.” Ngoại trừ Vương Uẩn, cả đám đàn ông ngồi quanh đều cười khanh khách, dẫu Vương Uẩn sờ sờ ở đó, họ cũng không giấu nổi thú ngồi lê đôi mách.

Hoàng Tử Hà bất lực nhìn bọn họ, thầm điểm qua mọi điều về Kỳ Lạc quận chúa một lượt rồi tạm ghi nhớ trong lòng. Ngẩng lên thấy giữa cả bàn tiệc ồn ào, Vương Uẩn vẫn chăm chú nhìn mình, dưới ánh đèn, chỉ thấy y da dẻ như ngọc, tóc đen như nhung, gương mặt đứng đắn, phong thái nghiêm túc. Giữa nam nhân không nên thân, y càng lộ rõ vẻ xuất chúng, từ đầu đến chân toát ra phong độ cao quý của con cháu quý tộc thời Tấn cùng khí chất siêu phàm thoát tục hơn hẳn mọi người.

Cảm thấy hàng mi giật lên một cái như có ai đó cầm kim chích vào mi mắt, Hoàng Tử Hà vội quay đầu né tránh ánh mắt y, làm bộ điềm nhiên cùng Chu Tử Tần nghiên cứu cấu tạo xương cá.

Tới khi cơm no rượu say thì đã đến đầu giờ Dậu. Tiểu nhị đến thêm nến, Cẩm Nô lại ôm tỳ bà so dây tấu một khúc sau cùng.

“Ôi chà, thời tiết này đúng là rầu cả người.” Cẩm Nô gảy thử mấy âm, bất lực nói, “Cả ngày mưa rả rích, dây đàn lại lỏng, còn thêm ẩm thấp, tiếng càng chẳng ra gì.”

Hoàng Tử Hà quay lại hỏi, “Có cách gì không?”

“Lấy phấn hương thông lau một lượt là được.” Cẩm Nô rút trong ngực áo ra một chiếc hộp tinh xảo, dùng ba ngón tay nhón một nhúm phấn hương thông, xoa kỹ lên trục đàn, lại nói, “Thứ phấn hương thông này quả là đồ trong cung có khác, công công xem, đến hộp đựng cũng đẹp thế này, tôi nhận được phải cho ngay vào ngực áo cất kỹ.”

Hoàng Tử Hà không sao hiểu nổi tâm lý thích khoe khoang của Cẩm Nô, đành ngắm nghía cây tỳ bà, tấm tắc, “Cây Thu lộ hành sương này đẹp ghê.”

“Phải đó, là của sư phụ tôi cho mà. Đời này kiếp này tôi chỉ dùng nó thôi, những cây khác tôi gảy không quen, vì thế tay và động tác của tôi chỉ phù hợp với nó.” Cẩm Nô mỉm cười, nhón phấn hương thông lau một hồi thật lâu, đôi mày khẽ cau, nhưng lập tức lại nhoẻn miệng cười, ôm cây tỳ bà vào lòng, dùng móng ngọc gảy gảy dây đàn, tiếng nhạc vui vẻ linh hoạt tuôn ra.

Khúc đàn dứt, Thôi Thuần Trạm bèn nâng chén chốt lại, “Ơn vua mênh mông, gắng gánh trọng trách. Các vị ngồi đây, chúng ta nhất định phải dồn toàn bộ lực lượng phá cho được án này để khỏi phụ sự coi trọng của bệ hạ điện hạ và Quỳ vương, hy vọng mọi người đều có thể tích cực hiến kế, sớm ngày kết án, đặng báo hoàng ân!”

Bữa ăn bằng tiền công quỹ lần này đến đây là kết thúc.

Người của Đại Lý Tự tính tiền, sau khi tiễn hai vị đại nhân Thôi Thuần Trạm và Vương Uẩn, quanh bàn chỉ còn lại Chu Tử Tần, Hoàng Tử Hà và Cẩm Nô bấy giờ đang xếp lại cây tỳ bà.

Chu Tử Tần nhìn mấy món ăn còn chưa động đũa trên bàn, gọi tiểu nhị lại bảo, “Có thứ gì như lá sen không? Gói con gà nướng, cá nướng và đĩa móng giò kia lại cho ta.”

Cẩm Nô phì cười, “Té ra lời đồn trong kinh đúng thực, Chu tiểu gia quả là tiết kiệm.”

“Gà vịt thịt cá cũng có tôn nghiêm, đời nào lại cam lòng để thế cho biến thành nước gạo chứ?” Chu Tử Tần chẳng hề phật ý, cười nói, “Cái trước mặt cô đó, phải, chính là đĩa anh đào đó, cô gói lại giúp ta.”

“Anh đào cũng có tôn nghiêm ư?” Cẩm Nô nhìn mấy ngón tay trắng nõn của mình, miễn cưỡng đổ anh đào lên lá sen gói lại đưa cho Chu Tử Tần, đoạn cau mày, “Ôi chao, mấy quả anh đào chết giẫm này cuống cứng quá, đâm cả vào tay tôi rồi.”

“Ta biết cô tay mềm, nhưng ai ngờ đến anh đào mà cô còn sợ đâm đau. Cảm ơn cảm ơn.” Chu Tử Tần tiện miệng nói, dùng dây buộc túm cả lại, xách lên theo hai người đi ra.

Hoàng Tử Hà cố ý đi chậm lại phía sau, khẽ hỏi Cẩm Nô bấy giờ đương mải xoa tay, “Cẩm Nô cô nương, xin hỏi lúc nào cô rảnh, ta có thể đến chơi chăng?”

“Ồ, Dương công công cũng hứng thú với tỳ bà sao?” Biết rõ là hoạn quan, song Cẩm Nô vẫn theo thói quen đẩy đưa, nhẹ nhàng mà yểu điệu.

Hoàng Tử Hà đáp, “Có vài chuyện muốn hỏi cô.”

“Về sư phụ tôi ư?” Cẩm Nô hỏi.

Hoàng Tử Hà hoàn toàn không hứng thú với sư phụ nào đó, chỉ cười nói, "Đương nhiên là về… các tỷ muội khi trước của cô, mấy người ngưỡng mộ Quỳ vương gia đó.”

“Đến thăm thì được, mời Quỳ vương gia đích thân đến hỏi, tôi nhất định sẽ chỉ ra là cô nào ngưỡng mộ gia.” Cẩm Nô thổi thổi bàn tay, nhoẻn cười, “Được rồi, tôi đi trước đây.”

“Cẩm Nô cô nương.” Hoàng Tử Hà ngăn nàng lại, hỏi khẽ, “Hôm ấy trên gác Bồng Lai, cô từng nói một câu khiến ta chú ý…”

“Gì cơ?” Cẩm Nô ngây ngô vô tội nhìn Hoàng Tử Hà.

“Cô nói, vương phi sao có thể là… cô ta.” Hoàng Tử Hà ghé tai nói, giọng rất khẽ, nhưng từng câu từng chữ đều hết sức rõ ràng.

Nét mặt Cẩm Nô tức thì cứng lại, trợn trừng mắt nhìn Hoàng Tử Hà hồi lâu mới cụp mắt xuống đáp, “Công công đừng nói ra ngoài, kẻo tôi lại mang tội. Thực ra tôi chỉ… chỉ cảm thấy Kỳ Lạc quận chúa có tướng vương phi hơn, nên mới thuận miệng nói thế thôi.”

Hoàng Tử Hà còn định gặng thêm thì Cẩm Nô đã vội vã đi vòng qua, bước lên một cỗ xe ngựa cạnh đó, bảo gã phu xe, “Còn không quay về thì giới nghiêm mất, mau đi thôi!”

Hoàng Tử Hà bất lực nhìn cỗ xe đi xa dần, lòng thầm tính toán xem phải làm sao mới tạo được cơ hội tiếp cận hỏi han lần nữa.

Xe ngựa nhà họ Chu đang đợi sẵn trước cửa, Chu Tử Tần đứng trước cửa xe hỏi cô, “Sùng Cổ, định về thế nào đây?”

Hoàng Tử Hà tiện miệng đáp, “Tôi thuê xe về Quỳ vương phủ.”

“Ta tiện đường, để ta đưa công công.” Gã làm hiệu cho cô lên xe.

Hoàng Tử Hà phì cười hỏi, “Tiện đường chỗ nào? Quỳ vương phủ ở phía Bắc, nhà công tử phía Tây mà.”

“Giờ ta đâu có về nhà.” Gã nói đoạn ra hiệu cho cô lên, tên đánh xe chẳng đợi ra lệnh đã thành thạo cho xe lăn bánh, nhằm hướng hồ Khúc Giang ở phía Bắc mà đi.

Thành Trường An đã tối mịt, trăng mới ló, tiếng người vừa lặng. Bên ngoài bờ tường hồ Khúc Giang, trên con đường lổn nhổn sỏi đá ven sông, có mấy tên ăn mày đang sưởi ấm, hoặc đứng hoặc ngồi, kẻ nào kẻ nấy đều gầy trơ xương.

Xe ngựa dừng lại, Chu Tử Tần nhảy xuống, đặt mấy gói đồ ăn trong tay lên chiếc bàn đá cạnh bờ sông, còn mở cả gói gà nướng ra, rồi quay về xe.

Gã đánh xe theo lệnh đánh xe đến Quỳ vương phủ trước.

Hoàng Tử Hà vén rèm xe lên, nhìn ra phía sau.

Đám ăn mày bị mùi thơm ngào ngạt hấp dẫn, xúm đông xúm đỏ quanh chiếc bàn đá vui sướng ăn ngồm ngoàm, tên nào tên nấy đều hân hoan.

Hoàng Tử Hà không khỏi nở nụ cười, “Thực không nhìn ra ngoài nghiên cứu thi thể, công tử còn làm những việc thế này nữa.”

“Ồ, chỉ tiện thể thôi mà.” Gã thờ ơ xua tay.

Dọc phố treo hàng dãy đèn lồng, chiếu sáng rực mặt đường. Xe ngựa lóc cóc băng qua mấy con phố dài, thỉnh thoảng lại có chút ánh sáng lọt qua rèm xe lờ mờ rọi vào trong. Nụ cười vô tư của Chu Tử Tần thoắt ẩn thoắt hiện dưới ánh đèn, toát lên vẻ dịu dàng mà đơn thuần, đầy sự hồn nhiên của thiếu niên.

Hoàng Tử Hà bất giác chạnh lòng thương cảm. Thầm nghĩ nếu kẻ từ nhỏ đã chứng kiến quá nhiều thủ đoạn tàn nhẫn, tâm địa hiểm độc như mình gặp được người như Chu Tử Tần sớm hơn, không chừng tấm lòng sẽ bớt đôi phần cứng rắn.

Về đến Quỳ vương phủ đã sắp canh hai. Hoàng Tử Hà múc nước tắm rửa, lại giặt quần áo phơi phóng xong xuôi, tới khi đi ngủ thì đã quá canh ba.

Các hoạn quan khác đều phải chen chúc hai ba người trong một gian phòng, chỉ mình cô được Lý Thư Bạch dặn dò trước nên một mình một phòng, chẳng phải lo lắng điều gì, tha hồ yên tâm ngủ. Nào ngờ trời vừa tảng sáng đã có người đập cửa thình thình, “Dương Sùng Cổ! Dậy mau, dậy mau!”

Hoàng Tử Hà đầu óc còn đương mơ màng, nhỏm nửa người dậy, “Ai thế? Có chuyện gì vậy?”

“Vương gia có lệnh, gọi ngươi lập tức đến cửa cung Đại Minh đợi sẵn.”

Hoàng Tử Hà vỗ trán thở dài, khổ không kể xiết, “Vương gia hẳn đang lên chầu chứ?”

“Hôm nay bệ hạ không được khỏe, đã bỏ buổi chầu sớm nên gia bảo ngươi đến đó đợi. Ai da, một tiểu hoạn quan như ngươi quản việc của gia làm gì? Ngươi cứ tới đó là được rồi.”

“Vâng vâng vâng…”

Hối hả chạy đến cung Đại Minh thì mặt trời đã lên cao. Lý Thư Bạch đang đứng trước cửa cung trò chuyện với một người Hồi Hột, hai người dùng toàn tiếng Hồi Hột chẳng ai hiểu gì, nói chuyện rất vui vẻ.

Hoàng Tử Hà đứng bên cạnh Lý Thư Bạch, người Hồi Hột kia trông thấy cô bèn xì xồ gì đó, song Lý Thư Bạch chỉ cười cười, rồi nói vài câu dạng như từ biệt, ra hiệu cho Hoàng Tử Hà theo mình lên xe ngựa.

Hoàng Tử Hà ngồi trong xe, nhìn y nhắm mắt dưỡng thần, khóe môi còn thấp thoáng nụ cười, không nén được tò mò hỏi, “Vừa rồi các vị nói gì vậy?”

Lý Thư Bạch mở mắt nhìn cô, “Ngươi sẽ không muốn biết đâu.”

Hoàng Tử Hà cảm thấy câu này đi kèm với vẻ mặt như cười mà không phải cười của y, chính là ý nói “mau nài nỉ ta đi, mau gặng hỏi ta đi”. Để làm vui lòng chủ nhân, cô đành hỏi gặng, “Rốt cuộc nói chuyện gì vậy?”

“Hắn nói tên tiểu hoạn quan này hay đấy, bừng bừng anh khí, song vẫn không mất bản sắc nam nhi.”

“Quả nhiên tôi không nên hỏi…” Hoàng Tử Hà cứng họng quay đầu nhìn ra bên ngoài, “Chúng ta đi đâu đây?”

“Chẳng phải nói vụ án vẫn không có manh mối gì ư? Ta giúp ngươi tìm lấy một manh mối.”

Hoàng Tử Hà sáng mắt lên, “Ngạc vương phủ ư?”

Lý Thư Bạch khẽ gật đầu, “Một mình ngươi đi có lẽ không tiện, nên ta đi với ngươi.”

“Ồ, nghe nói Ngạc vương gia đã thu nhận Trần Niệm Nương, tôi nghĩ tất cả manh mối hiện giờ đều phải trông vào Phùng Ức Nương quá cố, hoặc là, phía Trần Niệm Nương sẽ có manh mối gì đó.”

Cô vừa nói đến đây, cỗ xe bỗng khựng lại rồi dừng hẳn.

Bên ngoài có thị vệ gõ nhẹ vào thành xe, “Bẩm vương gia, Kỳ Lạc quận chúa chặn xe giữa đường, hình như…”

Lý Thư Bạch khẽ cau mày, vén rèm xe lên nhìn ra ngoài, thấy xe ngựa của Kỳ Lạc quận chúa dừng ngay trước mặt, Kỳ Lạc đã nhảy từ trên xe xuống xăm xăm đi về phía này.

Hoàng Tử Hà theo Lý Thư Bạch xuống xe với tâm thế đi xem kịch hay.

Kỳ Lạc quận chúa xưa nay luôn hếch cằm cao ngạo nhìn xuống kẻ khác, nhưng vừa thấy Lý Thư Bạch đã rưng rưng nước mắt nói khẽ, “Tham kiến Quỳ vương điện hạ…”

Kỳ Lạc quận chúa là ái nữ của cố hoàng thúc Ích vương, tính ra còn là họ hàng của Lý Thư Bạch, nên y cũng đáp lễ, “Quận chúa cần gì phải đa lễ.”

“Vương gia, muội nghe nói… gần đây trong kinh rộ lên lời đồn đại về Quỳ vương phi, đều bắt nguồn từ muội cả, hy vọng không làm vương gia thêm phiền não, nếu không muội thực khó yên lòng…” Cặp mắt to tròn như quả hạnh long lanh lệ, nhìn Lý Thư Bạch không chớp, đôi má vốn đầy đặn cũng tóp đi không ít, rõ ràng sau khi Lý Thư Bạch lập phi, cô ta ăn không ngon ngủ không yên.

Lý Thư Bạch chỉ dịu dàng nhìn Kỳ Lạc, giọng nói vẫn điềm nhiên, “Quận chúa không cần lo lắng, Vương Nhược mất tích trong cung là chuyện lạ lùng, song cũng chưa chắc đã không tìm được, đến lúc đó nhất định quận chúa sẽ rửa được mối oan này.”

“Nhưng… Nhưng muội nghe nói, chuyện này là…” Kỳ Lạc nuốt lại bốn chữ “ma quỷ gây ra”, ai oán nhìn Lý Thư Bạch, thẽ thọt, “Muội nghe người trong kinh nói, những điểm quái dị trong chuyện này thần bí khó lường. Vương Nhược có lẽ, có lẽ đã không còn trên đời nữa rồi.”

Hoàng Tử Hà đứng phía sau lặng lẽ quan sát cô gái đương ra sức làm bộ đáng thương, song nhìn thế nào cũng không giấu được vẻ hí hửng, thầm nghĩ dẫu sao cũng là kẻ được nuông chiều từ nhỏ, vĩnh viễn không hiểu được cách quan tâm người khác và nhận định tình hình, tính tình thẳng ruột ngựa như vậy, khiến người ta chỉ thoáng nhìn đã thấy cả lục phủ ngũ tạng, rốt cuộc đây là điểm đáng yêu hay đáng ghét của quận chúa?

Lý Thư Bạch vẫn vờ như không biết, cứ dịu dàng đối đáp, nét mặt chẳng khác nào non xa nước gần trong tranh thủy mặc, giữa vẻ mịt mù lảng bảng chỉ thấy ôn hòa nhã nhặn. Y điềm đạm an ủi Kỳ Lạc quận chúa, nhưng Kỳ Lạc quận chúa lại càng được thể, nước mắt oan ức mỗi lúc một nhiều, tuôn rơi lã chã.

Lý Thư Bạch đã ngán ngẩm lắm rồi song rốt cuộc vẫn giơ tay lau nước mắt cho Kỳ Lạc quận chúa.

Cuối cùng, Hoàng Tử Hà đành làm tròn phận sự, từ phía sau lên tiếng nhắc nhở, “Vương gia, Cảnh Dục đã đến Ngạc vương phủ thông báo từ lâu, e rằng bây giờ Ngạc vương gia đang đợi, gia xem…”

Lý Thư Bạch gật đầu, lại nói với Kỳ Lạc quận chúa, “Ta đi đây. Quận chúa cứ yên tâm, mọi chuyện đều có ta lo liệu.”

Kỳ Lạc quận chúa đứng lặng bên đường nhìn theo Lý Thư Bạch, mãi tới khi xe ngựa của y đi khuất thật lâu, lại thêm đám thị nữ bên cạnh tỉ tê khuyên giải, mới quay trở lại xe.

Hoàng Tử Hà nhìn qua khe rèm trông thấy hai cỗ xe quay lưng đi ngược chiều nhau, không khỏi đưa mắt nhìn Lý Thư Bạch.

Lý Thư Bạch lạnh nhạt hỏi, “Cảm thấy ta không nên cho cô ấy quá nhiều hy vọng, nên cương quyết hơn nữa, để cô ấy nản lòng ư?”

Hoàng Tử Hà không đáp, song biểu hiện trên mặt đã rõ rành rành.

“Trước đây, khi tiên hoàng băng hà, chỉ có cô ấy từng nắm lấy tay ta, an ủi ta.” Y ngả người ra tấm đệm gấm đằng sau, nét mặt bình thản, vẫn giữ nguyên vẻ xa cách và ôn hòa như trang thủy mặc khi nãy, “Kỳ Lạc là một cô gái tốt, có điều không thông minh cho lắm.”

“Thế nên gia đã làm lỡ một cô gái tốt, giờ còn khiến cô ấy mang tiếng xấu khắp kinh thành.”

Y liếc cô, rồi lặng thinh không nói suốt dọc đường. Nước trong chiếc bình lưu ly treo trên vách xe sóng sánh theo nhịp tròng trành của xe ngựa, con cá nhỏ bên trong dường như đã quen với trạng thái này, lặng lẽ nằm yên dưới đáy bình, không hề hoảng hốt.

Hồi lâu cô mới nghe tiếng Lý Thư Bạch hỏi, “Ngươi có biết cô ấy mang bệnh từ lúc sinh ra, không sống nổi đến hai mươi không?”

Thấy Hoàng Tử Hà kinh ngạc nhìn mình, song y chỉ chăm chú nhìn con cá nhỏ trong bình, kể bằng giọng đều đều, “Năm xưa Ích vương tuy chỉ có họ xa nhưng Văn Tông hoàng đế không con nối dõi đã triệu ông ấy về triều phong vương để chuẩn bị đăng cơ. Nếu như cung đình không xảy ra đấu đá thì Ích vương đã là chủ thiên hạ.

Hậu duệ của dòng dõi thiên tử cũ nhất định phải bị tuyệt diệt. Giờ Ích vương đã qua đời, các huynh đệ của Kỳ Lạc cũng mất cả, chỉ còn cô ấy trơ trọi một mình, bằng không ngươi nghĩ vì sao khi phụ hoàng qua đời, cô ấy lại dám nắm tay ta?"

Hoàng Tử Hà nín lặng, miên man nghĩ đến thiếu nữ tính tình cương liệt đang làm trò cười cho mọi người trong kinh, lại mường tượng mãi đôi gò má bầu bĩnh cùng cặp mắt như quả hạnh ấy. Hồi lâu, cô mới hỏi khẽ, "Kỳ Lạc quận chúa có biết không?"

"Ta nghĩ cô ấy hẳn cũng biết tình hình của mình không ổn, nhưng chắc không ngờ lại nhanh như thế." Lý Thư Bạch từ từ nhắm mắt lại, nói, "Cứ để cô ấy phách lối làm càn, ảo tưởng thêm mấy ngày thì có sao, sau này dù có muốn quấy rầy ta, cũng chẳng còn cơ hội nữa rồi."
 
Trạng thái
Không mở trả lời sau này.
Top