Lượt xem của khách bị giới hạn

[Lịch sử] Truyện Đề Cử [Triều Lý] Chim sẻ trắng trên mái Hoàng thành

[Lịch sử] Truyện Đề Cử [Triều Lý] Chim sẻ trắng trên mái Hoàng thành

Septvn

Tác giả
Tham gia
27/8/22
Bài viết
54
Điểm cảm xúc
132
Điểm
33
Góp ý tác phẩm Chim sẻ trắng trên mái Hoàng thành tại ĐÂY nhé các bạn!
Chim sẻ trắng trên mái Hoàng thành
148894816-256-k145706.jpgg



(Bản quyền thuộc về Septvn. Nếu bạn có nhu cầu repost vui lòng liên hệ email: septvn@gmail.com)
Tác giả: Septvn
Bìa
: linlin310
Thể loại: Cổ đại Việt Nam, dã sử, tình cảm
Tình trạng sáng tác: Đang sáng tác
Độ dài: 50 chương
Giới hạn độ tuổi đọc: Không
Cảnh báo về nội dung:
Truyện dựa trên bối cảnh lịch sử triều Lý, chuyển giao giữa Lý Nhân Tông và Lý Thần Tông (năm 1070 – 1138).
Một số chức danh, tên gọi, sự kiện lịch sử là thật. Đa phần còn lại là trí tưởng tượng của tác giả.
Giai đoạn này nước ta vẫn xem như một tỉnh của Trung Quốc (triều Tống) nên văn hóa chịu ảnh hưởng rất nhiều từ Trung Quốc. Thế nên một số danh xưng tác giả sẽ thay đổi để dễ hiểu và phù hợp với môi trường và ngữ cảnh Việt Nam.



Giới thiệu

Trên mái hiên Hoàng thành* có con chim sẻ trắng
Chim ở đó nhìn thế cuộc đổi dời
Đôi mắt buồn dõi về chốn xa xôi
Gió đằng đông có mang mây trôi mãi
Xuân qua hạ tới thu ấm đông tàn
Bao nỗi vui buồn, bao phen hợp tan
Chim vẫn kiên trì buông tiếng hót
Âm thanh kia có thấu tận trời?

Ai khao khát tự do
Ai đắm mình trong quyền lực
Ai vững vàng lời hứa
Ai mưu tính chuyện xa vời?

Trên mái hiên Hoàng Thành có con chim sẻ trắng
Chim ở đó nhìn thế cuộc đổi dời
Liệu rằng khi dang rộng đôi cánh
Chim kia có thoát được mệnh trời?

*Hoàng thành Thăng Long

Lý Dương Hoán (Lý Thần Tông) là vị vua thứ năm thuộc vương triều nhà Lý, lên ngôi năm 1128, khi chỉ mới mười hai tuổi, đằng sau là cả một âm mưu của các thế lực ngầm. Mười năm vương vị là mười năm cẩn trọng, mười năm tính toán của một bậc đế vương.

Mười năm ấy là một câu chuyện dài...

"Sai lầm lớn nhất của thiếp, chính là đã kéo chàng vào cuộc đấu tranh tàn khốc này và đẩy chàng xa rời thiếp. Thật sự xin lỗi..."

Mục lục
----------
Chương 01: Ỷ Lan phu nhân
Chương 02: Oán oán ân ân một kiếp người
Chương 03: Dòng dõi nhà họ Dương
Chương 04: Đứa trẻ mang chân mệnh Thiên Tử
Chương 05: Hoàng thành có một Dương Hoán
Chương 06: Chuyến đi khỏi thành Thăng Long
Chương 07: Lần gặp đầu tiên
Chương 08: Chim sẻ trắng và mèo hoang
Chương 09: Chuyển dịch
Chương 10: Xuất thân quý hiển
Chương 11: Lệ Thiên hoàng hậu
Chương 12: Bàn cờ chỉ mới bắt đầu
Chương 13: Lá rụng về cội
Chương 14: Những đứa trẻ dần lớn lên
Chương 15: Trang Chu là bướm, bướm là Trang Chu
Chương 16: Quân tốt xuất trận
Chương 17: Lùi một bước
Chương 18: Đào hố chôn mình
Chương 19: Cuộc chiến không cân sức
Chương 20: Sứ giả Chiêm Thành
Chương 21: Kẻ điên người tỉnh
Chương 22: Giấc mộng dài
Chương 23: Thần tiên trên đỉnh Bạch Vân
Chương 24: Chết
Chương 25: Bên ngoài lạnh lẽo, héo mòn bên trong
Còn tiếp...
_______________________________________________
Góp ý tác phẩm Chim sẻ trắng trên mái Hoàng thành tại ĐÂY nhé các bạn!

___________________________
Truyện dài khác: Trần Chân
 
Sửa lần cuối:

Septvn

Tác giả
Tham gia
27/8/22
Bài viết
54
Điểm cảm xúc
132
Điểm
33
Chương 1: Ỷ Lan phu nhân



Đại Việt, Triều Lý thứ ba: vua Lý Nhật Tôn,
Năm Thiên Khánh Gia Khánh thứ năm (1063),

Mùa xuân, khí trời trong lành, muôn hoa khoe sắc. Mấy hôm trước tri phủ truyền tin đức vua sẽ đến chùa Pháp Vân ở phủ Thiên Đức (tỉnh Bắc Ninh) để cầu tự khiến vùng quê yên tĩnh nhốn nháo cả lên. Có những người sống cả đời nhưng chưa bao giờ được nhìn thấy đoàn giá của vua, nói chi là trong khoảng cách gần như thế. Và biết đâu có cô gái nào may mắn được ngài để mắt, rước về cung thì cả dòng họ hưởng phúc phần. Vì thế thiếu nữ trong làng Sủi ai nấy cũng khoác lên mình bộ xiêm y đẹp nhất, đổ xô ra hai ven đường, ngóng chờ xe ngựa của vua đi ngang. Hoa xuân cũng không tươi tắn được bằng nét xuân của những thiếu nữ này.

Lý Nhật Tôn vén màn nhìn ra ngoài, trông thấy dân chúng háo hức nhưng trong lòng lại chẳng lấy làm vui. Năm nay người đã ngoài bốn mươi, không có con trai để kế vị. Bao nhiêu chùa linh ứng tại Thăng Long đều được bá quan văn võ đề xuất vua đến lễ Phật cầu con. Nhật Tôn tin vào Bồ Tát, nhưng còn việc Bồ Tát có cho người một thái tử hay không thì còn phụ thuộc vào cơ duyên.

Đô úy Ngô Thường Kiệt cưỡi ngựa đi cạnh xe Nhật Tôn, thấy vua vén rèm nhìn ra nên thúc ngựa lại gần hỏi thăm.

“Các cô gái mỗi người mỗi vẻ, xinh đẹp như hoa, chắc muốn được bệ hạ chú ý!”

Nhật Tôn lắc đầu: “Trong cung nào có thiếu hoa, chỉ thiếu mỗi quả.”

“Bẩm bệ hạ, có hoa rồi mới có quả.”

“Hoa cỏ nơi đây trẫm không thấy hứng thú. Nhưng khanh có nghe thấy tiếng hát không?”

Ngô Thường Kiệt tập trung lắng nghe, lúc sau đáp lời – nửa đùa nửa thật.

“Bẩm, thần có nghe, có vẻ là giọng của một thiếu nữ. Những tưởng mọi người đều tập trung ra đường hết rồi, hóa ra cũng có kẻ không thiết tha gặp được long nhan.”

Nhật Tôn suy nghĩ đôi chút rồi nói với Thường Kiệt.

“Khanh cho dừng lại và vào trong này với trẫm.”

Ngô Thường Kiệt tuân lệnh rồi cho đoàn người ngựa tạm ngừng, bản thân cũng xuống ngựa và vào xe của Nhật Tôn. Ít lâu sau, y lại trở ra, leo lên lưng ngựa và phi đi thật nhanh. Người ta chỉ để ý vị quan áo xám vào rồi ra khỏi xe chứ không ai nhận ra gương mặt vị quan ấy đã thay đổi. Nhật Tôn thay xiêm y của Thường Kiệt, đi theo hướng giọng hát vang lên.

Giữa ruộng dâu xanh mướt, điểm xuyến sắc tím của những bụi cỏ lan. Có một cô gái y phục đơn giản, tóc búi cao, đang ngồi tựa vào một trong số những bụi cỏ lan ấy ngân nga hát. Đúng như lời Thường Kiệt nói, cô gái độ khoảng đôi mươi, nét xuân mơn mởn hiện rõ trên đôi má ửng hồng.

Nhật Tôn phi ngựa lại gần. Cô gái nghe tiếng động vội vàng ngừng hát, đứng dậy nhìn Nhật Tôn.

“Ông là ai? Sao lại cưỡi ngựa vào ruộng dâu nhà tôi?”

Nhật Tôn xuống ngựa, tiến lại gần cô gái ấy.

“Ta đang hộ tống hoàng thượng đi đến chùa Pháp Vân để bái Phật. Giữa đường nghe tiếng hát của cô nên tò mò lại xem. Này cô gái, ta thấy mọi người đang đổ xô đi xem long nhan, sao chỉ có mình cô ở đây?”

Cô gái ấy nghe Nhật Tôn hỏi liền phì cười.

“Ông ơi long nhan thì cũng hai mắt một mũi như mọi người, huống hồ nơi đó đông đúc như vậy, làm sao tôi chen vào nổi mà xem. Chưa kể có chen được thì cũng chỉ thấy mỗi chiếc xe, con ngựa và các vị quan binh thôi chứ làm sao trông thấy được mặt vua. Thôi, ruộng dâu tôi đầy cỏ, tôi nhổ cả buổi sáng cũng chưa được bao nhiêu đây này.”

Nhật Tôn nghe cô gái trả lời, vừa tự ái, vừa buồn cười. Quả thật cô ta không nói dối, tay chân vẫn còn dính đất bùn và gương mặt cũng hơi lem luốc. Nếu muốn quyến rũ vua thì với ngoại hình hiện tại chắc cũng không có khả năng.

“Cô gái còn nhỏ tuổi mà to miệng thế. Chồng cô đang ở đâu, sao lại để vợ mình cực khổ thế kia?”

“Ơ ông này, sao ông hỏi sổ sàng vậy. Ông có quen tôi không sao lại biết tôi đã có chồng hay chưa?”

“Vậy ra cô chưa có chồng à. Cô tên gì?”

“Sao tôi phải nói với ông?”

“Hay cô sợ tôi khai danh tính cô với đức vua rồi bị ngài trách phạt?”

Cô gái nghe đến đây, bật cười thành tiếng.

“Tôi không sợ đâu. Ông nghe cho rõ đây, tôi họ Lê, tên Khiết An. Nếu ông muốn định tội thì cứ gặp trưởng thôn mà đòi ông ấy giao người.”

Lê Khiết An – tên cô gái – sau khi nói xong liền phủi phủi người cho những lá cỏ rơi xuống, chuẩn bị bước ra ruộng dâu.

“Thôi tôi đi làm tiếp đây. Ông có thể đi theo hướng này hoặc hướng này, đừng đi ra phía này, ngựa của ông sẽ dẫm nát dâu nhà tôi mất!”

Bóng cô gái nhỏ dần sau những chiếc lá non xanh, Nhật tôn thẩn thờ trông theo. Cô gái này còn trẻ nhưng tính tình bộc trực, lời nói đanh thép, không sợ quan quyền. Hình ảnh ấy cứ đeo đẵng Nhật Tôn trong suốt buổi lễ Phật tại chùa Pháp Vân. Tuy là lần đầu gặp mặt, nhưng không hiểu sao Nhật Tôn lại có cảm giác cô gái này thân quen lắm, hay chính Bồ Tát đang dẫn lối, giúp ngài tìm được người sinh hoàng tử.

Trước khi rời nơi đây để quay về cấm cung, Nhật Tôn ý chỉ cho Thường Kiệt: “Khanh tìm gặp trưởng thôn, cho đón cô gái mang tên Lê Khiết An đi.”

Ngô Thường Kiệt mỉm cười tuân lệnh: “Bệ hạ yên tâm, hạ thần lập tức sắp xếp mọi việc, cô ấy sẽ sớm vào cung.”

*
* *

Chuyện Lý Nhật Tôn chọn tú nữ là một cô gái hái dâu nhanh chóng lan truyền khắp hậu cung. Sáng nào phi tần đến thỉnh an cũng bày tỏ bức xúc này đến hoàng hậu. Lê Khiết An còn chưa nhập cung mà các nàng phi kia cứ quấy lên chẳng khác nào cô dân nữ ấy đang hiện diện bên cạnh mình.

“Bẩm hoàng hậu, người nói xem, người là thiên kim của Tể tướng, chúng thần thiếp dù sao cũng là con gái nhà quan bậc tam phẩm trở lên. Bao nhiêu năm nay bệ hạ có bao giờ tuyển tú bên ngoài, lần này lại cho đón một ả dân nữ hái dâu thì sao được chứ?”

“Vâng thưa nương nương, cứ cho là bệ hạ tuyển tú nữ bên ngoài, nhưng ít nhất cũng nên là danh môn khuê cát, tiểu thư gia đình phú hộ nào đó được giáo dục đàng hoàng. Đằng này con gái một nông phu lại sắp ngồi chung mâm chung bàn với chúng thần thiếp, điều đó quá thiệt thòi cho chúng thần thiếp rồi.”

Dương Hồng Hạc ngoài mặt không cảm xúc nhưng bên trong đã bị tiếng than thở của mấy ả kia khiến cho mệt người. Hồng Hạc đặt mạnh tách trà xuống bàn. Âm thanh vang lên khiến các phi tân hoảng hốt im bặt. Lúc này, Hồng Hạc mới chậm rãi lên tiếng.

“Các ngươi đã nói xong chưa? Ta biết các ngươi đang cảm thấy uất ức về việc này. Điều này ta cũng cảm nhận được.”

Không gian bắt đầu rơi vào trầm lặng, mấy vị phi tần dù tức nhưng chỉ dám để trong ánh mắt, không dám thể hiện ra ngoài. Hồng Hạc tiếp tục.

“Từ đầu bệ hạ đã nói trước là sẽ tuyển tú ngay tại nơi thắp hương dâng Phật. Tại sao vua một nước lại phải đích thân đi lễ Phật ở nơi xa xôi như vậy? Đó là vì chúng ta cứ ngồi đây, ngoài việc mải mê than trách thì có ai đã làm gì được cho bệ hạ chưa? Chúng ta ở đây cũng gần hai mươi người, nhưng ngoài năm công chúa ra thì còn không có lấy một hoàng tử, đã ai thấy hổ thẹn chưa?”

Không gian lại yên lặng hơn. Một hai vị phi tần đã bắt đầu cúi đầu, đỏ mắt.

“Làm thê thiếp trong nhà bình thường, trách nhiệm sinh con nối dõi đã không nhẹ. Huống hồ chúng ta là thê thiếp của vua, trọng trách ấy lại càng nặng nề. Nhưng chúng ta nặng một thì bệ hạ nặng đến mười. Có ai biết tấu chương đề cập việc này qua bao nhiêu năm đã nhiều đến thế nào không? Rồi bao nhiêu nguy cơ đang rình rập. Tất cả việc ấy, chúng ta có thể cùng bệ hạ gánh vác mấy phần?”

“Cô gái lần này bệ hạ chọn, ta đã nghe qua, dung mạo xinh đẹp, đoan trang lại có chút chữ nghĩa. Đêm qua ta mơ thấy Bồ Tát, ngài nói rằng cô gái kia sẽ mang thêm phúc đến cho bệ hạ, cho Lý triều. Ta tin Bồ Tát và ta cũng tin vào bệ hạ. Thay vì oán trách, chúng ta hãy cầu phúc cho người và đối xử tốt với cô ấy nhưng đang đối xử với nhau. Chúng ta may mắn hơn cô ấy là vì sinh ra trong gia đình quyền quý, nhưng thử bỏ đi xuất thân, thì tất cả cũng chỉ là phận đàn bà như nhau thôi. Đã cùng phận như nhau, phải thấu hiếu nhau chứ sao có thể ganh ghét!”

Trong phòng vang lên tiếng sụt sịt, ban đầu một hai tiếng rồi sau đó cả đám phụ nữ òa khóc, khăn tay chấm một tí đã ướt đẵm nước mắt. Hồng Hạc nhìn những cô gái trước mặt, vốn đã quen sống trong nhung lụa, được chiều chuộng thương yêu mà không khỏi chạnh lòng. Là phận đàn bà, có ai không nhỏ nhen đố kỵ, ai không khỏi ghen tuông khi chồng mình bốn thiếp ba thê.

“Nương nương dạy phải, chúng thần thiếp xin nghe.”

Sau một trận khóc lóc phân bua thì bọn họ cũng ai về cung nấy. Đầu Hồng Hạc từ trước đã căng như dây đàn, giờ nhức không tả nổi. Cung nữ thay cho người tách trà nóng, hoàng hậu vừa uống, vừa thở dài…

Bệ hạ đã nói gì với người về việc chọn tú nữ đâu. Mọi việc người biết đều là do thái giám đến truyền tin. Thời gian đầu hoàng thượng e dè với mình, hoàng hậu còn hiểu có thể do đề phòng thế lực họ Dương. Nhưng giờ tóc trên đầu đã có sợi bạc, nhà họ Dương cũng một mực trung trinh, bệ hạ vẫn không thay đổi thái độ thì chắc có thể là một nguyên do: ngài thật sự không thích mình. Buồn hay vui cũng đã hơn nửa đời người, Hồng Hạc cũng không màng nghĩ đến nữa.

Nhật Tôn đến chùa Pháp Vân vào giữa tháng hai, sang đầu tháng ba Lê Khiết An chính thức nhập cung, phong làm Ỷ Lan phu nhân. Hồng Hạc sắp xếp cho Ỷ Lan ở Du Thiền các. Buổi vấn an đầu tiên, các phi tần khác nửa khinh khi nửa tò mò, cuối cùng nhận ra về phần nhan sắc Ỷ Lan chẳng so được với ai, về phong thái cũng không ra dáng khuê nữ quyền quý. Nhưng nhờ như vậy, thái độ ghét bỏ sân si của họ đã giảm đáng kể, cùng lắm chỉ là không mấy quan tâm đến Ỷ Lan nữa, để xem phu nhân này có thể giữ chân bệ hạ được bao lâu.

Ỷ Lan vào cung, mọi chuyện lớn nhỏ đều được Hồng Hạc đích thân dạy bảo. Người ngoài không biết còn ngỡ rằng Ỷ Lan có họ hàng với hoàng hậu nên đối với nàng, hoàng hậu đặc biệt nhân từ.

“Ỷ Lan, ta nhìn em thấy có nét rất quen…”

Ỷ Lan nhập cung đã được ba tháng, bồi bổ bằng những thực phẩm quý giá cộng với lụa tốt khoác lên người nên xinh đẹp và khí chất hơn trước rất nhiều. Điểm nổi bật của Ỷ Lan chính là đôi mắt to tròn đen láy như biết cười. Ánh mắt ấy khiến người khác cảm thấy rất dễ chịu. Một vài lần Hồng Hạc nhìn Ỷ Lan, tự nghĩ có phải chính vì vậy mà bệ hạ cho đón về cung.

“Bẩm nương nương, quê thần thiếp ở hương Thổ Lỗi, phủ Thiên Đức. Bản thân thần thiếp thì đây là đầu đến kinh thành, chẳng hay lúc trước nương nương có từng ghé ngang hương Thổ Lỗi?”

“Lúc chưa nhập cung ta có đi ngang Thiên Đức đôi lần để đến châu Lạng (tỉnh Lạng Sơn), nhưng chỉ là đi ngang chứ không ghé lại, cũng không có ấn tượng là gặp em ở đó. Có lẽ ta nhầm, ban đầu nhìn em thấy có nét quen, nhưng về sau lại không còn cảm giác ấy nữa.”

“Vâng ạ!”

Ỷ Lan lễ phép gật đầu rồi lại tiếp tục chép kinh cùng Hồng Hạc. Trời đã vào tháng bảy, thường xuyên đổ mưa. Không gian trong phòng tĩnh lặng, có thể nghe được tiếng lông bút chạm vào giấy, hòa vào tiếng mưa tí tách trên mái hiên. Bên ngoài, những đóa hoa cúc cũng đã vào mùa, thi nhau nở rộ vàng tươi cả một góc vườn Quỳnh Lâm.

*
* *

Ỷ Lan phu nhân nhập cung vừa tròn một năm tin vui đã đến, thái y chẩn mạch báo có long thai.

Nhật Tôn nghe tin vui mừng khôn xiết, miễn thuế nửa năm cho nhân dân. Lúc ấy dân chúng cả nước như chung vui cùng hoàng thượng, có người còn đi chùa, cầu cho trong bụng Ỷ Lan phu nhân là con trai. Thời gian này Nhật Tôn hay ở lại hoàng cung để chăm sóc Ỷ Lan, việc dẹp loạn bên ngoài giao hết cho thái sư Lý Đạo Thành.

Tháng Giêng năm Long Chương Thiên Trị thứ nhất (1066), Ỷ Lan hạ sinh bé trai. Nhật Tôn đặt tên con là Lý Càn Đức – nghĩa là ân đức Trời ban. Lý Càn Đức vừa được sinh ra đã được phong làm thái tử; Ỷ Lan phu nhân phong làm Thần phi, đại xá toàn dân.

Từ khi có Càn Đức, Ỷ Lan lại càng được Nhật Tôn sủng ái. Có những lúc phê duyệt tấu chương, người cho nàng vào hầu trà, mài mực… đôi khi cao hứng, người lại hỏi ý nàng về chuyện chính sự. Ban đầu Ỷ Lan có phần e dè, nhưng Nhật Tôn thích nghe nàng nói thật, Ỷ Lan cũng trình bày quan điểm của mình, rất hợp ý vua.

Năm Thiên Thống Bảo Trượng thứ nhất (1068), em trai Nhật Tôn là Phụng Càn vương Lý Nhật Trung qua đời, Nhật Tôn đem con gái của Trung vào cung, nhận làm con nuôi, phong làm công chúa, ban tên Ngọc Kiều. Lúc bấy giờ Ỷ Lan đang mang long thai lần hai vào tháng thứ tám, bụng to vượt mặt, đi đứng khó khăn nhưng vẫn đến Tử Ngọc cung gặp Ngọc Kiều. Vừa trông thấy Ngọc Kiều, Ỷ Lan chẳng ngại ôm lấy đứa trẻ, nước mắt ngắn dài thi nhau rơi xuống. Cung nô thầm nghĩ là do chủ nhân thương xót cho số phận công chúa từ nhỏ đã mồ côi giống như mình khi xưa.

Bệ hạ yêu thương Ngọc Kiều rất nhiều, chiều chuộng còn hơn cả Càn Đức nhưng Ỷ Lan chưa bao giờ buồn phiền về việc ấy, ngược lại còn nói với thái tử rằng do Ngọc Kiều là con gái yếu ớt nên cần tình yêu thương nhiều hơn. Càn Đức cũng không so đo gì việc đó, thái tử cũng rất quý người chị này và luôn bênh vực mỗi khi Ngọc Kiều bị các công chúa khác ức hiếp.

Ỷ Lan hạ sinh lần hai lại là hoàng tử, đặt tên Lý Càn Quyết. Nhưng không may hoàng tử chưa tròn một tuổi đã bị bệnh mà mất. Nhật Tôn thương tiếc truy phong nhị hoàng tử là Minh Nhân vương. Để an ủi Ỷ Lan, hoàng thượng phong nàng là Nguyên phi.

Ba năm sau nữa, Ỷ Lan lại mang thai. Chính vào thời điểm này em ruột của hoàng hậu là Dương Đức Thao dính vào vụ cấu kết với Chiêm Thành. Tội này tru di tam tộc, hoàng hậu khấu đầu trước điện Hội Tiên ròng rã ba ngày vẫn không xin được cho gia đình mình. Khi đi đến đường cùng, Hồng Hạc đành phải tìm gặp Ỷ Lan.
 

Septvn

Tác giả
Tham gia
27/8/22
Bài viết
54
Điểm cảm xúc
132
Điểm
33
Chương 2: Oán oán ân ân một kiếp người



Ỷ Lan đang dựa vào trường kỷ, một bên cung nữ đứng quạt còn một bên cung nữ đang bóc từng múi quýt dâng lên miệng nàng. Cung nữ vào thông báo hoàng hậu đến, Ỷ Lan cũng không có dự định đứng dậy, cho đến khi Hồng Hạc tiến vào phòng.

“Thần thiếp thỉnh an nương nương. Thứ lỗi cho thần thiếp đang trong giai đoạn cuối của thai kỳ, đi đứng khó khăn, chỉ cần trở mình không đúng ý là long thai khó chịu nên không thể hành lễ với nương nương được.”

Hồng Hạc dáng vẻ xộc xệch vì đã quỳ suốt ba ngày nay, tóc tai rối bù còn gương mặt thì thất thần như kẻ sắp chết. Nàng biết Nguyên phi không màng gì đến lễ nghi nhưng hiện tại nàng như con phượng hoàng gãy cánh thì còn ai tôn trọng mình. Quanh đi quẩn lại, tiền triều chỉ có mỗi thái sư Lý Đạo Thành là còn chút tình nghĩa còn hậu cung thì Ỷ Lan có tiếng nói. Uy nghiêm danh dự nhà họ Dương, người đành đặt xuống chân, mặt dày đến cầu cạnh nàng ta.

“Ôi, nương nương sao lại ra nông nỗi này? Có chuyện gì với người chăng?”

Cung nữ đỡ Hồng Hạc ngồi xuống ghế, nàng cũng chẳng vòng vo nữa mà đi thẳng vào vấn đề.

“Ỷ Lan, chắc em cũng biết em trai ta mang trọng tội, họa này tru di cả dòng tộc. Tuy bệ hạ không trách phạt ta, nhưng Dương gia không ai còn mạng. Ta lại có lòng tin em ta bị người khác hãm hại, mong em hãy giúp ta, nói một tiếng với bệ hạ, truy xét lại vụ án này.”

Ỷ Lan nghe đến đây, đưa tay đặt lên ngực mình, xuýt xoa.

“Thần thiếp không phải là không nghe chuyện này. Thần thiếp còn biết thái sư Lý Đạo Thành cũng đã tìm gặp bệ hạ nói giúp nhưng bị ngài trách phạt. Nương nương xem, đến cả Lý Đạo Thành là người bệ hạ tín cẩn như vậy nhưng vẫn không nói được, thần thiếp chỉ là một Nguyên phi thân cô thế cô, bụng mang dạ chửa, nếu lỡ làm bệ hạ phật lòng thì mẹ con thiếp biết gánh thế nào đây?”

Hồng Hạc biết Ỷ Lan cố tình làm khó, không màng thể diện nữa, quỳ xuống trước mặt Ỷ Lan, nước mắt lưng tròng.

“Ỷ Lan, xem như là ta cầu xin em. Chỉ cần hoàng thượng truy xét lại hoặc giả họ Dương bị lưu đày thôi cũng được. Số ta bạc phần không sinh được con trai, cả nhà họ Dương giờ đây chỉ có mỗi con trai của anh cả ta lo hương khói. Nếu nó chết đi thì dòng dõi nhà họ Dương bao đời nay tuyệt tự rồi.”

“Bây đâu, đỡ hoàng hậu dậy!” Ỷ Lan lúc này mới ngồi thẳng dậy, khẽ cau mày vì đột ngột đổi thế khiến bụng có chút đau.

“Nương nương, người đường đường là quốc mẫu mà lại quỳ trước mặt thần thiếp, nhỡ có ai không hiểu sự tình, đồn đại ra ngoài thì thiếp biết giải thích làm sao. Người đứng dậy đi, cái lạy của người thiếp không nhận được, chuyện của dòng họ Dương người, thiếp cũng lực bất tòng tâm!”

“Không! Ỷ Lan!” Hoàng hậu vùng khỏi tay cung nữ, lại đến quỳ rồi dập đầu trước Nguyên phi: “Ta biết chỉ cần em mở miệng, bệ hạ sẽ cân nhắc việc này. Em là mẹ ruột của thái tử, hiện tại còn đang mang long thai, chắc chắn bệ hạ sẽ để tâm lời nói của em. Từ lúc em vào cung ta chưa đối xử tệ bạc với em ngày nào, mong em hãy nghĩ đến tình này mà giúp ta một lần. Dù thành hay bại thì cả đời này, cả kiếp sau ta cũng nguyện mang ơn em, có làm trâu bò để trả ta cũng cam lòng.”

Ỷ Lan cười như không cười, để mặc cho Hồng Hạc dập đầu như thế. Cho đến khi phụng thể sắp không chịu nỗi nữa, cung nữ của hoàng hậu phải dìu người đứng dậy, chuẩn bị rời khỏi cung Du Thiền.

Sau lưng Hồng Hạc, tiếng Ỷ Lan vang lên.

“Nương nương nói phải, đúng là từ lúc thần thiếp nhập cung người chưa bạc đãi bao giờ. Lễ nghi trong cung cũng là người chỉ dạy. Những phi tần khác kiếm chuyện, cũng là người đứng ra bênh vực thiếp. Thiếp thừa hiểu những chuyện đó người làm chẳng qua là vì danh nghĩa hoàng hậu chứ chẳng phải thương yêu, nhưng có người đã dạy thiếp mang ơn thì phải trả ơn. Lần này thiếp sẽ đến xin bệ hạ truy xét lại chuyện của họ Dương. Tuy nhiên, có được hay không thần thiếp không dám cam đoan.”

Dương Hồng Hạc nghe xong, quay người lại, nước mắt lăn dài trên má, cúi đầu cảm ơn.

Thật sự Ỷ Lan làm đúng lời hứa, mang bụng bầu đến gặp Lý Nhật Tôn. Không ai biết Ỷ Lan nói gì, nhưng sáng hôm sau Nhật Tôn đã cho người điều tra lại. Tuy lần này em trai hoàng hậu cũng không thoát tội, nhưng chỉ chém đầu cả gia đình. Dương tể tướng cùng con trai cả bị cách chức, đày đến châu Nghệ An làm thường dân, con cái ba đời sau cũng không được làm quan.

*

* *

Đô úy Ngô Thường Kiệt sau buổi thiết triều, mượn cớ dâng sâm Cao Ly tìm gặp Ỷ Lan. Lúc này Ỷ Lan đã gần sinh, đi đứng có phần khó khăn. Cung nữ đỡ nàng đến ngồi trong đình rồi được lệnh lui xuống, Ỷ Lan gật đầu với Thường Kiệt, đôi mắt hiền hòa chẳng khác lúc mới nhập cung.

“Chú thắc mắc tại sao tôi lại xin cho Dương gia phải không?”

Thường Kiệt nhún vai.

“Thần không thắc mắc, cũng không can dự việc của nương nương. Lần này đến để tặng ít đặc sản của Cao Ly, sẵn tiện báo cho nương nương hay có thể vài tháng nữa Nguyễn Sùng sẽ vào hoàng cung thăm bệ hạ.”

Thường Kiệt rời khỏi, Ỷ Lan nhìn theo bóng lưng người. Chú ấy trước nay luôn giúp đỡ Ỷ Lan mà không dò hỏi nguyên nhân. Giống như năm ấy, nàng đã cầu xin Thường Kiệt tạo cơ hội để mình được gặp vua. Nếu không có sự tính toán của Thường Kiệt, một mình Ỷ Lan chưa chắc có thể đạt được mục đích như bây giờ. Ngay cả lúc nhập cung khi chỉ là một dân nữ, Ỷ Lan cũng không ngần ngại điều gì, vì cô tin rằng, phía sau lưng, Thường Kiệt sẽ luôn hậu thuẫn. Ngoài ra, còn có Nguyễn Sùng…

Thường Kiệt rời đi thì Hồng Hạc đến, phá tan cảm xúc của Ỷ Lan. Con chim phụng ngày nào cao sang quyền quý là vậy, hôm nay lại tiều tụy đến mức không thể nhận ra.

“Ỷ Lan, ta đến đây để cảm ơn em. Như những gì ta đã nói, em muốn ta đền đáp như thế nào, ta cũng vui lòng.”

Đến lúc này Ỷ Lan cũng không muốn nhìn thấy Dương Hồng Hạc nữa, lệnh cho cung nữ dìu mình rời khỏi vườn Quỳnh Lâm. Trước khi đi, không quên buông lại một câu.

“Đền đáp thế nào thì lần gặp tiếp theo thiếp sẽ nói cho nương nương nghe. Người xưa có câu gieo nhân nào gặt quả nấy. Phía trước vẫn còn dài, nương nương hãy cố xem những gì đến với mình.”

Dương Hồng Hạc ngạc nhiên nhìn Ỷ Lan, người đang đứng trước mặt có lúc lạ lúc quen, giờ đây lại khác vô cùng…

*

* *

Mùa đông năm Thần Vũ thứ ba (1071), Nhật Tôn bệnh nặng, cơ thể yếu đến mức không thể rời khỏi giường, việc triều chính giao cho Ỷ Lan, Thường Kiệt và Đạo Thành lo liệu. Thời gian này chỉ có thái y mới được ra vào điện Hội Tiên, còn những người khác ngài đều từ chối gặp.

Thuốc bổ do Hồng Hạc hay Ỷ Lan dâng lên, Nhật Tôn cũng không màng động đến. Có hôm, Ỷ Lan một tay dắt theo Càn Đức, một tay bế Càn Tín xin gặp, Tôn cũng chẳng đoái hoài. Những khi ấy, chỉ có thái giám Từ Viên đứng ngoài giải thích: “Bẩm, hoàng thượng thực sự không khỏe, người khó có thể gặp được ai.”

Trong số những người hay đến xin gặp đức vua, chỉ có Ngọc Kiều là kiên trì nhất. Từ lúc Nhật Tôn đổ bệnh, công chúa không màng việc học hành, mặc cho mẹ Ỷ Lan có trách, hằng ngày ngồi trong đình ở vườn Thượng Lâm nhìn về cánh cửa luôn đóng kín phía điện Hội Tiên.

Người ta thường bảo ơn sinh thành chẳng bằng ơn dưỡng dục, câu nói này thật sự đúng với Ngọc Kiều. Từ lúc vào cung, được Nhật Tôn hết lòng yêu thương dạy bảo, Ngọc Kiều quấn quýt phụ hoàng không rời. Cầm, họa, Phật pháp… bất kể là gì phụ hoàng thích, Ngọc Kiều cũng không ngại học hỏi, miễn sao có thể làm người vui lòng. Ngày thường phụ hoàng trông rất uy nghiêm, giờ đây lại nằm một chỗ, Ngọc Kiều có thể tưởng tượng phụ hoàng khó chịu đến nhường nào.

Nhiều đêm, có những giấc mơ khiến Ngọc Kiều khóc ướt đẫm gối nằm, cảm giác mùa đông năm xưa ùa về, lúc cha ruột là Phụng Càn vương qua đời, bỏ lại mình bơ vơ. Đôi khi Ngọc Kiều suy nghĩ, nếu chẳng may phụ hoàng không vượt qua được, công chúa sẽ xin mẹ Ỷ Lan, được chôn cùng phụ hoàng.

Sự kiên nhẫn của Ngọc Kiều cuối cùng Nhật Tôn cũng đón nhận. Đêm giao thừa khi thấy công chúa vẫn ngồi lại vườn Thượng Lâm, thái giám Từ Viên cầm lòng không nổi, vào bẩm báo với đức vua và công chúa được vào trong thăm phụ hoàng. Nhìn hoàng thượng ngày nào còn oai phong lẫm liệt, nay nhợt nhạt ngồi trên giường, lưng tựa vào gối một cách khó nhọc mà Ngọc Kiều không khỏi xót xa. Công chúa bật khóc thành tiếng, vì thương phụ hoàng và cũng vì tủi thân suốt mấy tháng qua không gặp được người.

Nhật Tôn gọi Ngọc Kiều lại giường, dang tay ôm chầm lấy con gái. Công chúa thì khóc nức nở, còn vua thì mỉm cười xoa đầu con.

“Phụ hoàng cho Ngọc Kiều ở lại chăm sóc người đi, Ngọc Kiều không muốn xa phụ hoàng đâu.”

Trước sự thành khẩn ngây ngô của con, Nhật Tôn ôn nhu đồng ý.

Năm nay vì vua bệnh nên hoàng cung đón giao thừa không có tiếng pháo giòn tan hay tiếng nói cười rộn rã. Chỉ có ngoài cửa sổ, những vì sao thi nhau lấp lánh trên bầu trời.

Khi Ngọc Kiều đã ngủ quên, Từ Viên hỏi Nhật Tôn có nên cho người đưa công chúa về Tử Ngọc cung không thì Nhật Tôn lắc đầu: “Cứ để công chúa ngủ ở đây, có lẽ cũng không được mấy ngày nữa đâu.”

Cửa sổ vẫn để hé đủ cho Nhật Tôn có thể nhìn ra ngoài. Người bỗng nhớ về những chuyện cũ, từ lúc người còn là Tam hoàng tử, đến khi trở thành Khai Hoàng vương rồi sắc phong thái tử và tiếp tục ngôi vua của tiên đế Thái Tông. Cuộc đời người đã trải qua bao nhiêu trận chiến. Bên ngoài có Đại Tống, Chân Lạp, Chiêm Thành; bên trong có phản tặc Nùng Trí Cao ở Quảng Nguyên cả những trận đánh lớn nhỏ khác. Giờ đây, đất nước đã thái bình, trọng trách của Nhật Tôn xem như đã hoàn thành, có thể về với cõi vô thường.

Nhật Tôn có hai thuộc hạ tín cẩn là Ngô Thường Kiệt, lúc này đã được thăng chức Thái phó, ban họ Lý và tể tướng Lý Đạo Thành. Từ lúc còn trẻ cả ba đã cùng nhau vào sinh ra tử cho đến hiện tại cả hai người vẫn một dạ trung thành. Nhưng lúc này đây, người mà Nhật Tôn muốn gặp nhất, cũng là người Nhật Tôn xem như tri kỷ - Nguyễn Sùng. Từ lúc người lên ngôi vua, Nguyễn Sùng bảo rằng quyết định xuất gia và rời khỏi hoàng cung, gần hai mươi năm nay không còn nghe bất kỳ tin tức. E là đến khi rời khỏi dương thế, Nhật Tôn cũng không thể gặp lại Nguyễn Sùng lần nào.

Nhưng xem ra ông trời rất ưu ái thiên tử, ngay lúc đó, cửa điện Hội Tiên mở ra, thân hình thanh niên tuổi ngoài đôi mươi thong thả bước vào. Người thanh niên ấy mặc bộ xiêm y màu nâu, tóc búi cao trên đỉnh đầu, buộc lại bằng một dây lụa màu xanh nhạt.

“Đã lâu không gặp, cậu có bất ngờ không, Tôn?”

Chẳng hiểu từ đâu cơ thể Nhật Tôn lại có sức lực, người cười to một tiếng thật giòn.

“Ha, Nguyễn Sùng, tôi tin cậu sẽ tìm gặp tôi mà!”

Thời gian có vẻ đã bỏ quên Nguyễn Sùng, lúc Nhật Tôn gặp Sùng, hai người tuổi độ ngang nhau. Giờ đây tóc Tôn đã bạc, còn Sùng vẫn như trước, dáng vẻ của một thanh niên đôi mươi.

Nguyễn Sùng ngó qua Ngọc Kiều đang say ngủ, rồi nhỏ giọng nói với Nhật Tôn.

“Tôi đến đây để gặp cậu lần cuối, cũng là tiễn cậu một đoạn đường.”

Lý Nhật Tôn vẫn mỉm cười thư thả. Từ lúc sinh ra, cuộc đời người đã gắn liền với Hoàng thành, năm mươi năm cũng xem là quá dài. Càn Đức tuy còn nhỏ nhưng bên cạnh còn Ỷ Lan với Thường Kiệt, Đạo Thành, chắc chắn sẽ hết lòng phò trợ. Điều duy nhất người lo, chính là Ngọc Kiều, nếu phụ hoàng mất đi chắc con bé sẽ rất đau lòng.

Nguyễn Sùng như hiểu tâm tư bạn thân, nhún vai.

“Sinh lão bệnh tử là chuyện thường tình của một đời người. Giờ số cậu đã tận thì hãy để nó tận, đừng vương vấn thêm làm gì. Người chết cứ chết, người còn sống sẽ tiếp tục lo chuyện của mình. Cậu tránh day dứt quá nhiều rồi lại mang uất hận, không thể siêu thoát.”

Nói rồi Sùng tháo mảnh lụa màu xanh nhạt trên tóc, gửi lại cho Nhật Tôn.

“Nó theo tôi cũng đã lâu, như minh chứng cho tình bạn của chúng ta. Giờ đây, tôi đã đổi tên thành Nguyễn Chí Thành. Sau khi cậu mất tôi cũng sẽ xuống tóc, nên cậu hãy giữ lại vật này, xem như Nguyễn Sùng cũng mãi mãi đi theo cậu.”

Mùa xuân năm Thần Vũ thứ tư (1072), trời mưa xối xả, Nhật Tôn băng hà ở điện Hội Tiên. Cung nhân Hoàng thành than khóc, tiếng khóc như át tiếng mưa.

Sau khi an táng Nhật Tôn vào Thọ Lăng, Lý Càn Đức lên ngôi. Dương Hồng Hạc được tôn làm thái hậu, Nguyên phi Ỷ Lan tôn làm hoàng thái phi. Thái hậu buông rèm nhiếp chính với sự hỗ trợ của thái sư Lý Thường Kiệt và tể tướng Lý Đạo Thành.

An táng Nhật Tôn xong Ngọc Kiều đổ bệnh, Ỷ Lan thương công chúa nên sai người mang con sang cung của mình, chăm sóc cùng với tam hoàng tử Lý Càn Tín – đã được phong vị Sùng Hiền hầu. Càn Tín nằm trong nôi giật mình quấy khóc, Ỷ Lan sợ làm ồn Ngọc Kiều thức giấc nên bế con lên vai, vỗ nhẹ vào lưng và khe khẽ hát ru.

Cung nữ vào thông báo, Nguyễn Sùng cầu gặp, Ỷ Lan vội vàng giao Càn Tín cho cung nữ, chỉnh trang lại y phục, vừa thấy Sùng bước vào đã cúi đầu.

“Cháu chào chú!”

Trong giây phút ấy, tất cả uy nghiêm của một thái phi không còn nữa. Ỷ Lan chẳng khác nào cô gái năm xưa ở ruộng dâu, đơn giản thật thà.

Nguyễn Sùng đón tách trà từ tay Ỷ Lan, nhấp một ngụm rồi nói.

“Cung của cháu ngột ngạt quá, oán khí vẫn còn nhiều như vậy à?”

Chỉ một câu nói của Nguyễn Sùng, mắt Ỷ Lan hoe đỏ: “Chú ơi cháu đã đợi ngày này rất lâu, cháu sắp trả thù được cho chị rồi.”

“Khiết An à, con người ta ràng buộc nhau bởi duyên và nợ. Có thể trước đây Dương Hồng Hạc đã gây ra sai lầm với chị của cháu. Nhưng căn bản đó cũng là nghiệp mà chị cháu phải nhận. Giờ đây cháu có thể lựa chọn trả thù hoặc tha thứ, ta không can thiệp. Nhưng cháu nên nhớ, cháu gieo nhân nào thì cháu gặt quả nấy. Những gì cháu làm hôm nay, hãy chuẩn bị tinh thần con cháu của cháu sẽ nhận lãnh sau này.”

Nguyễn Sùng chỉ nói đôi câu như thế rồi rời khỏi cấm cung, rời khỏi Hoàng thành. Cho đến mãi sau này khi Ỷ Lan mất đi, nàng cũng không gặp lại y thêm lần nào nữa.
 
Sửa lần cuối:

Septvn

Tác giả
Tham gia
27/8/22
Bài viết
54
Điểm cảm xúc
132
Điểm
33
Chương 3: Dòng dõi nhà họ Dương



Đại Việt, triều Lý thứ tư: Lý Càn Đức

Lý Càn Đức lên ngôi vua đời thứ tư của triều Lý khi vừa tròn bảy tuổi (1072), đổi niên hiệu thành Thái Ninh.

Thái Ninh năm thứ hai (1073), trời mưa mãi không ngớt, vùng nào trũng thì ngập lụt, vùng cao hơn cây lúa vừa nảy mầm đã bị úng. Khắp nơi dân chúng lâm vào cảnh lầm than. Chưa bàn đến việc không có tiền để nộp thuế, ngay cả từng bữa ăn hằng ngày cũng chật vật vô cùng. Có nơi vì quá bần cùng, người dân lập nhóm cướp bóc, liều mạng chạy đến kho lương thực của triều đình tại địa phương, phá cửa tìm thức ăn.

Tấu chương trình lên vua về việc này tăng lên mỗi ngày. Mặc dù triều đình đã có lệnh cung cấp lương thực đến những vùng đói nhưng nước xa không cứu kịp lửa gần. Việc đắp đê cũng vì trời mưa không dứt mà không thể nào hoàn thành được.

Khi sức người đã không địch nổi ý trời, thì chỉ còn cầu mong thần Phật ban phước. Buổi sáng hôm ấy tại điện Thiên An, có nhóm quần thần đưa ra ý kiến.

“Bẩm bệ hạ, việc mưa lũ liên miên trong thời điểm này, lại vừa vặn trùng với chuyện năm xưa Thủy Tinh không lấy được công chúa Mị Nương nên tức giận gây chiến. Nếu đây là chuyện Thủy Tinh gây ra, thì chúng ta chỉ có thể cầu ngài Sơn Tinh giúp đỡ. Nếu bệ hạ có thể xuất hành lên núi Tản Viên, thành tâm cầu xin ngài Sơn Tinh, biết đâu có thể giúp Đại Việt vượt qua nạn mưa lũ lần này.”

Càn Đức nghe ý kiến cũng thấy khá hay nhưng vẫn quay sang xin ý của thái hậu: “Mẫu hậu nghĩ sao về việc này?”

Dương Hồng Hạc phía sau rèm buông, tay vẫn lần từng hạt chuỗi, đáp lời Càn Đức: “Ta thấy các bá quan nói cũng rất phải. Phàm việc gì đã nằm ngoài khả năng của con người thì chỉ còn cách trông cậy vào ý Trời!”

Lý Đạo Thành trước giờ vẫn đứng về phía Dương Hồng Hạc nên Càn Đức hỏi tiếp ý kiến Lý Thường Kiệt.

“Bẩm bệ hạ, nắng mưa vốn lẽ là chuyện của tự nhiên, của đất trời. Mặc dù thần không tin vào việc chỉ cần cầu nguyện cũng có thể xoay chuyển nhưng bệ hạ mới lên ngôi, lại gặp chuyện như vậy, nếu không làm gì thì ắt có lời vào lời ra nên việc đến núi Tản Viên như các vị ở đây thưa cũng là ý hay. Nhưng bên ngoài mưa lũ liên miên, thời tiết khắc nghiệt, bệ hạ lại còn quá nhỏ, long thể chưa thực sự rắn rỏi để vượt một đoạn đường xa như thế. Nên việc di chuyển đến núi Tản Viên xin hãy giao cho chúng thần tử, còn người có thể đến chùa Diên Hựu (chùa Một Cột), cùng trụ trì cầu cho mưa thuận gió hòa. Hạ thần ngu muội đề xuất như vậy, kính mong bệ hạ và thái hậu xem xét.”

Lời của Thường Kiệt nói không phải là không hợp lí. Quả thực nếu đích thân Càn Đức đi đến núi Tản Viên thì sẽ thể hiện hết tấm lòng thiên tử, nhưng Càn Đức hiện tại chỉ mới tám tuổi, nếu chẳng may có chuyện không hay xảy ra thì biết liệu thế nào. Vậy nên như lời Thường Kiệt, việc ấy vẫn nên để người khác đi thay.

Người thay vua làm việc này phải thật sự là người có đủ quyền uy và được vua hết lòng tín cẩn. Trong triều hiện tại chỉ có hai vị như vậy, Lý Thường Kiệt và Lý Đạo Thành. Xét về cấp bậc thì Đạo Thành hơn Thường Kiệt một bậc còn xét về đức tin thì Thường Kiệt trước nay chỉ tin vào người, không tin vào thần nên trọng trách lần này thuộc về Lý Đạo Thành.

Trước khi lên đường đến núi Tản Viên, Đạo Thành đến nói với Hồng Hạc: “Chuyến này thần đi không có lo lắng gì cho bản thân, nhưng lại không yên tâm về phía thái hậu. Chỉ mong thái hậu ở lại, mọi việc phải hết sức cẩn trọng, nếu có bất trắc thì cho bồ câu đưa thư gấp đến cho thần, thần sẽ lập tức quay về.”

Dương Hồng Hạc nghe Đạo Thành nói, mỉm cười trấn an.

“Hiện tại mọi chuyện vẫn ổn, ta hằng ngày chỉ có chép kinh niệm Phật thôi thì làm gì có chuyện được. Ta tin chắc Bồ Tát và tiên đế sẽ phù hộ cho mình. Ông cứ yên tâm đi đi, nếu lần này thành công cầu được mưa thuận gió hòa, sẽ hỗ trợ rất nhiều cho ấu chúa.”

Dù trong lòng đầy bất an nhưng Lý Đạo Thành cũng phải xuất hành cho kịp thời gian. Hai hôm sau khi Đạo Thành rời khỏi Thăng Long, Ỷ Lan đổ bệnh, Hồng Hạc đích thân đến thăm. Từ lần cuối cùng đến cầu xin Ỷ Lan nói với tiên đế về chuyện dòng họ Dương, cho đến lúc này thái hậu mới quay trở lại cung Du Thiền. Hồng Hạc rất sợ cảm giác tại đây, mỗi lần bước vào cứ như có oán khí dành hết cho mình.

Ỷ Lan ngồi trên ghế, tay cầm lục lạc chơi đùa với Càn Tín, sắc diện không có nét của một người bị bệnh. Hồng Hạc tuy thấy vậy nhưng vẫn ân cần hỏi han.

“Ta nghe cung nữ báo tin em bị bệnh, em thấy trong người thế nào rồi. Bên cung ta có một ít thuốc bổ, ta có mang sang để em dùng cho mau khỏe.”

Ỷ Lan cho bảo mẫu bế Càn Tín ra ngoài, các cung nữ khác cũng được lệnh lui ra. Đích thân nàng rót trà, kính cẩn dâng cho thái hậu.

“Đêm qua em mơ thấy Thánh Tông.” Ỷ Lan mở đầu câu chuyện trong đôi mắt đầy ngạc nhiên của Hồng Hạc: “Ngài nói với em rằng ngài cảm thấy có một day dứt mà cho đến khi băng hà vẫn không thực hiện được. Chị có biết đó là gì không?”

Hồng Hạc lắc đầu, Ỷ Lan lại tiếp tục.

“Thánh Tông nói với em rằng chị đối với ngài một mực trung thành. Khi ngài còn là Khai Hoàng Vương, chị và dòng họ Dương đã hết lòng phò trợ. Sau này, khi ngài đã là vua, một phần vì e ngại thế lực họ Dương quá lớn nên không thể thật tâm mà đối đãi với chị như những người khác. Ngài có những nỗi khổ của riêng mình, mong chị hiểu cho. Ngài bảo em phải chăm sóc chị thật tốt.”

Không biết những lời Ỷ Lan nói là giả hay thật, nhưng Hồng Hạc lại cảm thấy tủi thân. Bao nhiêu cảm xúc dồn nén trong lòng mấy mươi năm qua biến thành giọt lệ lăn dài trên má. Ỷ Lan thấy vậy, nhanh chóng dùng khăn lụa lau cho thái hậu. Đoạn, nàng lại nói tiếp.

“Em không muốn phụ ủy thác của tiên đế, nhưng biết bao đêm em khóc trong mơ vì xót xa cho ngài, chắc ngài cô đơn lắm. Nên lần này em muốn trình với chị, mong chị có thể thay em hỗ trợ ấu chúa việc chính sự, chăm sóc Càn Tín nên người. Còn em, chắc có lẽ em sẽ đi theo tiên đế để tiếp tục được hầu hạ ngài.”

Chuỗi hạt đeo tay của Dương Hồng Hạc đột nhiên đứt, hạt tràng rơi tung tóe lên nền gạch trong phòng. Thái hậu đã hiểu ra ý muốn trong lời lẽ của Thái phi. Lần này, điều Ỷ Lan muốn cuối cùng chính là mạng sống của người.

Hồng Hạc cười như không cười, nói với Ỷ Lan: “Khi nãy ta thấy lúc em chơi đùa với Càn Tín rất vui vẻ, đứa trẻ nhỏ cũng rất quấn mẹ, khi bảo mẫu bế đi còn giãy khóc không chịu. Tình cảm mẹ con bền chặt như vậy, làm sao ta có thể giương mắt nhìn mẹ con em phải xa nhau.”

Hồng Hạc ngừng lại, ho một tiếng rồi nói tiếp.

“Khi xưa tiên đế chính thức cưới ta về, ta được cùng với ngài trải qua biết bao nhiêu là chuyện, ta chưa từng oán trách bất kỳ việc gì ngài làm, ngay cả với họ Dương. Số ta bạc mệnh không con không cái, cha mẹ từ lâu cũng đã không còn. Thời gian qua cũng chỉ xem như là sống lay lắt qua ngày, chỉ mong mau chóng được đoàn tụ với tiên đế. Giờ ta đã biết tiên đế cô đơn như vậy, bổn phận làm vợ, ta không thể nào xem như không được, em hãy chăm sóc cho bệ hạ thật tốt, còn việc hầu hạ tiên đế, ta sẽ tiếp tục chức trách này.”

“Không được, chị là thái hậu một nước, sao có thể làm điều ấy được.” Ỷ Lan khước từ.

“So với ta thì bệ hạ cần em hơn. Em từng nhiếp chính khi tiên đế ra trận, em thông tuệ chuyện chính sự hơn ta, có thể phò tá bệ hạ tốt hơn ta. Điều tốt nhất ta có thể làm là dành hết tâm tư này cho tiên đế, hy vọng em đừng tranh giành với ta việc này.”

Ỷ Lan nghe xong, nắm lấy tay Hồng Hạc, siết chặt như rất thân thiết.

“Nếu chị đã nói vậy thì em không dám cãi. Xem như chị đi trước một bước chăm sóc tiên đế. Khi bệ hạ đã vững vàng ngôi vị, em sẽ tìm gặp ngài và chị. Trong buổi thượng triều ngày mai, hy vọng chị hãy nói ra để quần thần không dị nghị trước sau, gây khó xử cho bệ hạ.”

Dương Hồng Hạc chậm rãi gật đầu.

“Ỷ Lan, trước ta từng cầu xin em giúp đỡ dòng họ Dương thoát tội chết, ta vẫn còn ghi cái ơn đó trong dạ. Nhưng lần này, cho ta tham lam cầu xin em một lần nữa.”

“Giữa chúng ta còn điều gì phải ngại ngùng hay sao, chỉ cần là điều chị mong muốn, Ỷ Lan sẽ cố gắng hết mình.”

“Tiên đế đã ban chỉ dòng họ Dương ba đời không được làm quan. Gia đình anh trai ta cũng đã ra châu Nghệ An, sống cuộc sống của dân thường. Ta chỉ lo sau khi ta đi theo tiên đế, anh ta không còn ai chống lưng sẽ bị những kẻ thù trước đây kiếm cớ hãm hại. Xin em hãy bảo vệ gia đình anh trai ta, dòng họ Dương hiện tại chỉ còn lại gia đình của anh ấy mà thôi.”

“Em nhớ không nhầm thì Dương Đức Huy có một con trai và ba con gái. Em hứa với chị, cả bốn đứa trẻ đều sẽ được ban hôn với hoàng tộc hoặc vào nhà quyền quý. Riêng một trong ba đứa bé gái, sẽ có một đứa gả cho bệ hạ. Chị thấy có được không?”

“Cảm ơn em!”

Dương Hồng Hạc cúi đầu rồi lặng lẽ rời khỏi cung Du Thiền. Sau bao nhiêu năm, cuối cùng cũng đến khi người cảm thấy lòng mình như trút đi gánh nặng, bước chân bỗng nhẹ tênh. Bên ngoài trời vẫn mưa, nước mưa dâng lên trong sân, ngập nửa đế giày. Hồng Hạc bước thật chậm, thỉnh thoảng lại nhìn xuống những viên gạch in hình hoa cúc dưới chân mình. Đời người những tưởng lâu, ngờ đâu nhìn lại chỉ như một cái chớp mắt.

Bên tai Hồng Hạc như còn văng vẳng giọng nói của cha khi nàng vừa tròn mười sáu: “Con vì mang họ Dương mà có mệnh làm hoàng hậu, con phải nhớ, tất cả những chuyện sau này con làm, đều phải nghĩ đến dòng dõi nhà ta.”

Ba ngày sau Lý Càn Đức ban thuốc độc cho Thượng Dương thái hậu và bảy mươi hai cung nữ của bà rồi chôn theo lăng của Thánh Tông để hầu hạ người.

Tể tướng Lý Đạo Thành nghe tin thái hậu qua đời, bỏ dỡ việc cầu Sơn Tinh, tức tốc từ núi Tản Viên quay về kinh đô nên bị giang chức xuống làm Tả gián nghị Đại phu và chuyển đi trấn thủ Nghệ An.

Thái phi Ỷ Lan phong làm Linh Nhân thái hậu, buông rèm nhiếp chính. Thái úy Lý Thường Kiệt giữ vai trò phụ chính trong triều đình.

Giữ đúng lời hứa với Dương Hồng Hạc, Ỷ Lan sắp xếp cho con trai Dương Đức Huy là Dương Đức Dục cưới con gái duy nhất của thương gia họ Nguyễn tại Nghệ An. Con ba người con gái, cô cả Ngọc Vân nhập cung, phong làm Lan Anh phu nhân; cô thứ hai Ngọc Thủy làm vợ Thành Khánh hầu và cô thứ ba Ngọc Hoa gả cho Thành Quảng hầu.

Năm Hội Tường Đại Khánh thứ nhất (1110), Dương Ngọc Hoa sinh con đầu lòng, đặt tên Lý Dương Côn. Lúc này Lý Càn Đức đã ngoài bốn mươi nhưng vẫn chưa có con trai, Lan Anh phu nhân thì không sinh được nên xin phép vua cho nhận Lý Dương Côn làm nghĩa tử. Dương Côn mặt mày sáng sủa, Càn Đức và Lan Anh hết mực thương yêu.

Năm Hội Tường Đại Khánh thứ hai (1111), Dương Ngọc Thủy sinh con thứ là con trai, đặt tên Lý Công Hoan.

Đâu đó có lời đồn đại rằng con gái họ Dương nếu vào cung sẽ không sinh được con cái. Năm xưa Thượng Dương thái hậu đã như thế, giờ đây, Lan Anh phu nhân cũng chẳng khác cô ruột của mình. Còn Dương Côn, khi mới nhập cung vốn thông minh khỏe mạnh, nhưng một thời gian sau cơ thể yếu ớt dần, người càng lúc càng gầy, bao nhiêu thái y cũng không chẩn được bệnh. Đức vua xót thương con, ban lệnh cung nhân chuẩn bị không biết bao nhiêu thuốc bổ, nhưng hoàng tử không hấp thu được. Đến cả Linh Nhân thái hậu mỗi tháng cũng tình nguyện ăn chay niệm Phật mười ngày để cầu Bồ Tát phù hộ cho đứa trẻ này. Lan Anh phu nhân thấy con như vậy, trong lòng cũng đau xót, cơ thể dần suy nhược theo thời gian.

Năm Hội Tường Đại Khánh thứ sáu (1115), Lý Càn Đức phong Lan Anh phu nhân làm hoàng hậu.

Năm Hội Tường Đại Khánh thứ bảy (1116), cha ruột Lan Anh hoàng hậu là Dương Đức Huy qua đời, hoàng hậu khẩn xin vua cho phép người đưa hoàng tử Dương Côn về Nghệ An chịu tang cha. Lý Càn Đức dù không đành lòng để hoàng hậu đi đường xa trong tình trạng sức khỏe hiện tại, nhưng vì Lan Anh quá khẩn khoản nên người cũng bằng lòng. Để tránh đi đường xa xe xốc, đồi núi hiểm trở, Càn Đức cho người chuẩn bị thuyền đưa hoàng hậu cùng hoàng tử vào Nghệ An. Chỉ tạm xa nhau trong thời gian ngắn ngủi, nhưng sao lúc tiễn người đi lòng vua lại bịn rịn vô cùng!

Đúng như lo lắng của Càn Đức, chỉ vài ngày sau tin truyền về biển Đông có bão lớn, đoàn thuyền hộ tống hoàng hậu về Nghệ An bị đắm bốn chiếc, trong đó có thuyền của hoàng hậu và hoàng tử. Tổng số người trên thuyền hơn năm mươi, nhưng chỉ tìm được xác khoảng mười người. Số còn lại, dường như đã theo cơn sóng dữ, chìm sâu xuống lòng đại dương…

Cũng vào năm ấy, con trai đầu lòng của Sùng Hiền hầu Lý Càn Tín – em ruột đức vua được Đỗ thị sinh ra. Đó cũng lại là vào một ngày mùa hạ, mưa ngập Hoàng thành.
 

Septvn

Tác giả
Tham gia
27/8/22
Bài viết
54
Điểm cảm xúc
132
Điểm
33
Chương 4: Đứa trẻ mang chân mệnh Thiên Tử



Đại Việt, triều Lý thứ tư: Lý Càn Đức

Mây đen kéo đến bao phủ cả bầu trời cấm thành, nhấn chìm mọi thứ vào trong bóng tối. Gió lốc đập vào cửa sổ đang mở vang lên âm thanh cót két. Đám cung nữ vội vàng chia nhau đóng tất cả cửa lại. Thật nhanh sau đó, ánh nến bừng sáng bên trong điện Vĩnh Quang, soi rõ thân ảnh Lý Càn Đức đang ngồi nơi bàn.

“Bẩm bệ hạ, bên ngoài gió mạnh, dự là chốc nữa mưa sẽ to, người khoác thêm áo để tránh cảm lạnh.”

Một cung nữ tay cầm theo áo choàng màu vàng, bên trên có thêu hình rồng đang uốn lượn giữa những đám mây, kính cẩn nói với vua. Lúc này, Càn Đức mới ngẩng mặt lên, ôn tồn bảo.

“Trẫm vẫn cảm thấy nóng.”

“Vậy để con quạt cho người.”

“Không cần, ngươi lui đi.”

“Bẩm, vậy con ra sau mành, có việc sai bảo xin bệ hạ gọi con.”

Lý Càn Đức mở thêm vài bản tấu chương rồi lại vứt sang một bên, ngã người ra ghế, thở dài. Phần lớn trong số tấu chương ấy đều thúc giục ông lập thái tử. Con trai của Nhân Nghĩa hầu, Trung Tín hầu lần lượt được lôi vào việc này. Càn Đức tuổi ngoài năm mươi, tự biết bản thân mình đã không thể sinh con được nữa, nhưng con trai của Nhân Nghĩa hầu và Trung Tín hầu, nếu không phải là dạng được nuông chiều thành hư thì cũng là kiểu an phận thủ thường, không nuôi chí lớn. Giang sơn này tổ tông đã hy sinh biết bao máu xương để gìn giữ, ông không muốn vì lựa chọn sai lầm của mình mà kết thúc tại đây. Linh Nhân thái hậu cũng khuyên ông không nên gấp gáp, cứ phớt phờ đám đại thần ấy. Bà kể như tiên đế Thánh Tông mãi đến bốn mươi vẫn chưa có con, trong triều cũng thúc giục chọn thái tử từ chi hoàng thân quốc thích. Nhưng sau đó thì sao, chẳng phải Thánh Tông cũng đã sinh ra Càn Đức, danh chính ngôn thuận truyền lại ngôi vua cho đích tử của mình. Linh Nhân không đơn thuần là một nữ nhân nơi cung cấm, ngồi chờ đức vua sủng ái để hạ sinh thái tử rồi hưởng vinh hoa. Năm xưa bà đã thay Thánh Tông hai lần nhiếp chính, đến khi ngài băng hà, Càn Đức chỉ mới bảy tuổi, vẫn là một tay bà hỗ trợ để Đại Việt được an yên như hôm nay. Đối với bà, Đại Việt này đã như một phần máu thịt, là trọng trách mà bà tự nhận phải có trách nhiệm gánh vác trọn đời. Vì vậy, bà sẽ không bao giờ cho phép vương vị này rơi vào tay ngoại tộc.

Linh Nhân thái hậu sinh hạ được ba con trai, nhưng một trong ba đã qua đời từ rất sớm. Hiện nay ngoài Càn Đức, còn một em trai là Lý Càn Tín, được phong Sùng Hiền hầu. Lý Càn Tín cũng muộn đường con cái, đến khi ngoài bốn mươi thì phu nhân Đỗ thị của ông mới mang thai, dự là sắp đến ngày trở dạ. Linh Nhân thái hậu từng nhờ quốc sư lẫn thái y xem xét, tất cả đều đồng thuận rằng đứa bé ấy là con trai. Linh Nhân từng nói với Càn Đức, chỉ cần đứa bé đó được sinh ra, chắc chắn là người duy nhất để kế thừa ngôi vị này. Lý Càn Đức ba phần thương yêu, bảy phần kính nể thái hậu nên mắt nhắm mắt mở trước đống tấu chương ấy, cố gắng chờ cho đến khi Đỗ thị lâm bồn.

Nhưng, lỡ như đứa bé ấy là gái, thì sẽ thế nào?

“Phải chi Dương Côn vẫn còn…”

Lý Càn Đức vẫn đau đáu nhớ về Lý Dương Côn, con của em gái Lan Anh hoàng hậu và Thành Quảng hầu. Đứa trẻ ấy mắt sáng trán cao, đoán được sau này lớn lên sẽ trở thành một người ưu tú. Ai cũng bảo rằng Lan Anh cùng Dương Côn đã mất, nhưng Càn Đức không tin điều ấy, ông vẫn hy vọng chỉ là mất tích thôi, rồi một lúc nào đó cả hai người sẽ quay về. Nhưng mấy tháng trôi qua, Lan Anh và Dương Côn đều không có bất kỳ tin tức nào. Hy vọng trong lòng của Càn Đức cũng theo thời gian mà leo lắt như ngọn đèn trước mắt ông.

Bên ngoài có tiếng gõ cửa, tiếp sau đó là viên thái giám vội vã chạy vào, cúi người tâu.

“Bẩm bệ hạ, gia nhân phủ Sùng Hiền hầu đến truyền tin, phu nhân đã trở dạ, là một vương tôn.”

Một ngọn đèn trong phòng vụt tắt. Lý Càn Đức mở to mắt nhìn vào hư không, biểu cảm trong mắt, chẳng rõ là vui hay buồn.

*
* *

Không lâu sau đó, phủ Sùng mở tiệc linh đình mừng con trai đầy tháng. Quan viên cấp cao cùng các nhà quyền quý đổ xô đến chúc mừng Sùng Hiền hầu. Đến lúc này còn ai không rõ tâm ý thái hậu là muốn giữ ngôi thái tử cho cháu nội đích tôn của mình. Từ lúc đứa bé được sinh, bao nhiêu quà mừng, kì trân dị bảo gửi đến phủ Sùng không ngơi nghỉ. Thậm chí, có nhà còn gửi hẳn ngày sinh bát tự của con gái mình đến cho Sùng Hiền hầu. Tất cả tiểu thư ấy đều có ngày sinh đại cát, nếu kết duyên cùng con trai Sùng sẽ càng làm tăng phúc khí. Mọi thứ dồn dập đến mức Đỗ thị - phu nhân của Sùng phải thốt lên.

“Bọn họ trước kia thấy con trai nhà Thành Quảng hầu được phong hoàng tử thì tới lui nịnh bợ, vốn chẳng xem nhà ta ra gì. Giờ đây, hoàng tử gặp chuyện, nhà ta có con trai thì lại quay sang lễ nghĩa. Đúng thật là đời dưa nói dưa đỏ, đời mít khen mít thơm mà!” (1)

Đời dưa nói dưa đỏ, đời mít khen mít thơm: chỉ hạng tráo trở, nịnh hót, xu thời.

Sinh được con nối dỗi, Sùng Hiền hầu vui tám phần thì Linh Nhân thái hậu có lẽ là vui đến mười phần. Suốt khoảng thời gian đó, bà không tiếc ban thưởng cho cháu trai biết bao hiện kim ngọc quý. Giống như hôm nay, khi cùng Càn Đức đến phủ Sùng nhân dịp đầy tháng, bà còn cho cung nhân chuẩn bị một khối ngọc Như Ý dài ba tấc, ban ngày sáng bóng, trong tối như phát quang khiến ai nấy đều trầm trồ. Giữa âm thanh xôn xao bàn tán của đám đông, đứa bé trên tay Đỗ thị bật khóc. Đỗ thị cuống quýt dỗ dành mãi cũng không ngăn được trẻ thơ. Linh Nhân chìa hai tay về phía Đỗ thị, vừa nói cũng là vừa ra lệnh.

“Đưa cháu đây, ta bế một lúc.”

Đỗ thị kính cẩn giao con cho Linh Nhân thái hậu. Mọi người cũng hồi hộp quan sát diễn biến tiếp theo. Đứa bé rõ ràng đang mở to miệng khóc, Linh Nhân dùng tay gõ nhẹ vào môi, nhẹ nhàng nói.

“Miệng khóc oe oe, lời nói vạn người nghe!”

Dù cho chuyện đứa bé có khả năng kế thừa ngôi vị thái tử thì ai cũng biết, nhưng đó chỉ đơn giản là mọi người hiểu như vậy, từ phía nhà vua vẫn chưa có động thái gì. Vậy mà giờ đây, trước mặt bao nhiêu đại thần đương triều, Linh Nhân mở lời như thế khiến Càn Đức bị đẩy vào thế tiến thoái lưỡng nan. Không gian càng yên ắng hơn, đến mức đứa bé đang há miệng khóc cũng như nhận ra sự khác lạ, tiếng khóc nhỏ dần rồi im bặt. Đỗ thị sợ hãi đến mức mồ hôi vô thức đổ dài trên trán, hai chân bà run run, tay phải bám vào cánh tay Sùng Hiền hầu mới có thể đứng vững.

Lý Càn Đức nắm chặt tay mình, giấu kín trong ống tay áo, chỉ có Thần Anh phu nhân đứng cạnh ông mới có thể nhận ra. Thái hậu cố tính lấn lướt đức vua, chuyện này đâu phải chỉ một hai ngày. Trước đây bệ hạ chưa từng trái lệnh, thì lần này cũng sẽ như thế mà làm. Thần Anh khẽ nói nhỏ vào tai Càn Đức một câu, Càn Đức buông nắm tay mình, cất giọng bảo.

“Sùng Hiền hầu, sao khanh còn chưa mời mọi người vào bàn dự tiệc?”

Lý Càn Tín và Đỗ thị như được giải vây. Đỗ thị xin nhận lại con để cho ti sữa còn Càn Tín thì vui vẻ mời khách ngồi vào bàn tiệc. Tiếng đũa chạm vào bát, tiếng chung rượu chạm vào nhau và tiếng xôn xao chúc tụng đứa bé hòa lẫn vào nhau khiến không gian chẳng mấy chốc náo nhiệt trở lại. Giữa cuộc vui, thái sư Trần Độ quay sang hỏi Càn Tín.

“Hầu gia, chẳng hay đã chọn được quý danh cho công tử chưa?”

Suýt chốc Lý Càn Tín quên mất việc này, vừa nghe Trần Độ hỏi, ông lại chắp tay trước trán, quay về phía Càn Đức, trịnh trọng tâu.

“Bẩm bệ hạ, thần đã nghĩ cả ngàn cái tên nhưng vẫn chưa biết nên đặt cho con trẻ tên nào. Nhân dịp có bệ hạ ở đây, khẩn xin bệ hạ ban cho cháu một cái tên, để sau này con trẻ theo chí hướng ấy mà nên người.”

Lý Càn Đức đặt chung rượu xuống, cau mày suy nghĩ thoáng chốc rồi hào sảng nói.

“Hôm ấy trẫm nhớ trời mưa không ngớt, ấy thế mà khi vừa có tin đứa bé này được sinh ra, mưa liền tạnh, mặt trời lại lên. Trẫm thấy cái tên Dương Hoán lại hợp lí với con.”

Lễ bộ thị lang Lê Bá Ngọc vừa nghe cái tên ấy, đã xin phép tiếp lời.

“Bẩm bệ hạ, thần ngu muội xin đoán, Dương là mặt trời, Hoán là ánh sáng. Dương Hoán là ánh sáng mặt trời. Sau này công tử lớn lên, ắt hẳn sẽ là một người thông minh sáng suốt, sống ngay thẳng cương trực. Nếu thần có sai xin được bệ hạ chỉ dạy thêm.”

Lý Càn Đức bật cười, hàm râu dưới cằm vì thế mà run lên.

“Bá Ngọc, khanh quả là tinh ý.”

Lý Càn Tín lẩm nhẩm cái tên Lý Dương Hoán vài lần, rồi mãn nguyện khấu đầu.

“Thần xin cảm tạ bệ hạ!”

Tiếng nói cười râm rang tiếp diễn. Ả hầu chạy vào phòng, nơi Đỗ thị đang cho con ti sữa bẩm báo lại mọi việc. Đỗ thị nghe xong, chẳng thấy vẻ mặt có chút hồ hởi nào. Bà nhìn con thở dài ngao ngán.

“Tội cho con của mẹ.”

Lại thêm nửa canh giờ, một ả hầu khác lại chạy vào bẩm báo. Lúc này Dương Hoán đã no bụng, đôi má chàm sữa phúng phính dưới hai hàng mi khép chặt, ngây thơ ngủ say.

“Thưa bà, thái hậu có lệnh, khi cậu cai sữa, sẽ được đón vào cung.”

Đỗ thị vốn biết việc này từ trước nhưng không khỏi thấy xót xa. Rõ ràng là đứa con mình mang nặng đẻ đau nhưng ở bên cạnh mình không bao lâu lại sẽ trở thành con người khác. Sau này, con trẻ vào cung, nếu thuận lợi lên ngôi thái tử, thì giữa bà và con không còn là tình mẫu tử nữa, lúc đó chỉ còn lại nghĩa quân thần. Đỗ thị khẽ nắm bàn tay bé xíu của con, hỏi ả hầu còn đứng đó.

“Thái hậu có nói sẽ giao cho phu nhân nào của bệ hạ nuôi dưỡng không?”

“Thưa bà, thái hậu bảo mẹ nuôi của cậu sẽ là Thần Anh phu nhân.”

“Sao?”

Đỗ thị xém tí nữa là đã thét lên nhưng bà cố gắng định thần lại, đưa tay lên vuốt ngực. Oan gia đúng thật là oan gia, bệ hạ có mười mấy vị phu nhân, sao nhất định phải do Thần Anh nuôi dưỡng. Thái hậu rõ ràng biết Đỗ thị trước nay không thuận thảo với Thần Anh, giờ lại giao con của bà cho bà ta, khác nào đang trêu ngươi bà. Đỗ thị dùng khăn chặm nước mắt đang tuông ra, thầm kêu lên.

“Giá mà cậu vẫn còn sống, thái hậu chắc chắc không đối xử với ta như thế.”

Đỗ thị sinh con đầu khi tuổi đã ngoài ba mươi, lại vì đau lòng khi nghĩ đến việc sắp xa con trẻ nên đến tháng thứ ba bà đã không còn đủ sữa cho Dương Hoán. Mặc dù phủ Sùng vẫn có chuẩn bị hai bà vú nuôi, nhưng Linh Nhân thái hậu biết tin, quyết định đem Dương Hoán vào cung khi đứa trẻ vừa tròn sáu tháng.

Linh Nhân giao Dương Hoán cho Thần Anh phu nhân, cẩn thận dặn dò.

“Trong số phi tần của vua, ta xem con hiền đức nhất nhưng lại không có phúc phần sinh nở. Nay ta giao hoàng tử lại cho con, con cũng nên hết lòng hết dạ chăm sóc cho hoàng tử. Đây là đứa trẻ có phúc, sau này con cũng sẽ vì thế mà được nương nhờ.”

Mệnh lệnh của thái hậu chẳng khác nào tảng đá đè nặng lên vai Thần Anh. Năm xưa, thái hậu là mẹ ruột của bệ hạ nhưng lại không phải hoàng hậu. Hoàng hậu khi ấy là Dương hoàng hậu, bảo ban thái hậu từ ngày bà nhập cung, vốn chỉ là một phu nhân bé nhỏ. Rồi khi thái hậu sinh bệ hạ, cũng là Dương hoàng hậu chăm sóc người. Sau này tiên đế mất đi, thái hậu lộng quyền, tìm cớ giết Dương thái hậu và thủ tiêu tất cả hậu duệ nhà họ Dương. Giả như mai đây, đứa trẻ này lên ngôi hoàng đế, liệu với mâu thuẫn của bà và Đỗ thị, Đỗ thị có cam tâm tình nguyện để cho bà được yên. Thần Anh suy nghĩ mãi, vị Linh Nhân thái hậu bụng đầy toan tính ấy, là muốn bà sống hay đang muốn bức tử bà?

Nhưng có nói thế nào Dương Hoán vẫn chỉ là một đứa bé còn nằm trong nôi, dù Thần Anh không thích Đỗ thị, nhưng với đứa trẻ này lại có chút xót thương. Trẻ con vô tội, những tưởng đầu thai vào nhà vương hầu thì sẽ có cuộc sống sung sướng như con trai của các vương hầu khác. Vậy mà đứa trẻ này, chẳng hiểu sao lại phải vào cung, mai này còn phải gánh trên vai trách nhiệm giang sơn.

Cung nữ thân cận của Thần Anh thấy Dương Hoán ngủ say, không khỏi cảm thán.

“Ngài ấy quả thật là có phúc, dù không được sinh ra trong hoàng cung, nhưng lại mang chân mệnh thiên tử.”

Lý Dương Hoán – Thần Anh phì cười. Suy cho cùng, trong lòng bệ hạ vẫn chỉ có Lan Anh hoàng hậu và cháu ruột của bà – hoàng tử Lý Dương Côn. Năm đó em gái của Lan Anh hoàng hậu gả cho Thành Quảng hầu, con trai sinh ra mang họ của cha và mẹ. Hoán đâu phải chỉ là ánh sáng, Hoán còn có nghĩa là thay thế. Lúc vừa nghe vua đặt tên cho đứa bé, Thần Anh đã tinh ý nhận ra rằng, đứa bé này, đối với đức vua, chỉ là một sự thay thế cho hoàng tử Lý Dương Côn. Sau này, nếu như lớn lên, biết được sự thật, thử hỏi con trẻ sẽ chấp nhận thế nào đây?

“Lý Dương Hoán ơi Lý Dương Hoán, chuyện tương lai ta và con đều mù mịt như nhau. Nhưng cơ duyên đã đưa con đến bên ta, ta sẽ dùng hết tình thương này để chăm lo cho con. Không mong con sau này quá đỗi xuất chúng, chỉ hy vọng con lớn lên bình yên, vui vẻ. Mẹ con chúng ta cùng nhau cố gắng, con nhé!”

Lý Dương Hoán – đứa trẻ mang chân mệnh thiên tử!
 

Septvn

Tác giả
Tham gia
27/8/22
Bài viết
54
Điểm cảm xúc
132
Điểm
33
Chương 5: Hoàng thành có một Dương Hoán



“Thái tử cố lên!”

“Thái tử sắp thắng rồi!”

Tiếng reo hò xôn xao của đám cung nữ, thái giám vang lên. Bọn họ đâu đó khoảng hai mươi người, chia làm hai bên, bao lấy không gian bên trong là hai nhóm người khác đang cùng nắm một sợi dây thừng. Một đầu dây thừng lại có mười người, trong mười ấy cũng cung nữ và thái giám lẫn lộn. Bên còn lại, cũng là mười người nhưng chỉ có chín thái giám cùng cung nữ, người còn lại là một đứa trẻ béo ú, độ chừng mười tuổi, mặc áo viên lĩnh (áo cổ tròn, dài xuống chân, kèm quần) bằng gấm màu đen, trước bụng thêu cá chép. Tóc cậu búi chuy kế (búi cao trên đỉnh đầu), cố định bằng một cây trâm vàng. Qua lời la hét của đám cung nô, thì đích thị là thái tử Lý Dương Hoán. Thái tử cùng đám cung nhân của mình đang chơi kéo co.

Lý Dương Hoán từ nhỏ được nuôi dưỡng trong cung, ăn ngon mặc ấm, không thiếu bất cứ gì nên vì thế mà cơ thể cứ ngày một phì ra. Cậu có nước da trắng, hai má đầy đặn ửng hồng, giờ thì vì dùng sức kéo dây mà gương mặt phồng ra, sắc hồng chuyển sang đỏ. Sợi dây thừng bị hai bên tranh nhau, nhập nhằng qua lại giữ lần ranh màu đỏ được vẽ dưới nền gạch. Dương Hoán được tung hô càng ra sức kéo, cuối cùng sợi dây nghiêng về phía thái tử, đám cung nhân bên kia bị kéo ngã sóng xoài ra nền.

Hai cung nữ nhanh chóng chạy lại chỗ Hoán, đứa dâng nước mát, đứa dùng khăn lau bớt mồ hôi trên trán chủ nhân. Tụi nó cười tươi như hoa, không ngừng dùng lời ngon ngọt tán thưởng chủ.

“Thái tử thật mạnh mẽ, thật tài giỏi.”

Dương Hoán được tâng bốc, mặt càng đỏ hơn, nghênh ngang ngước lên đắc chí. Đám thái giám cung nữ dù thắng hay thua cũng đều vui vẻ, chẳng qua chúng nghĩ đến mấy đồng tiền chốc nữa thái tử sẽ ban phát cho mình. Chúng tính toán với nhau hết rồi, được xếp bên nào không quan trọng, thắng thua cũng không quan trọng, đến cuối cùng thái tử ban thưởng, chúng chỉ việc gom lại rồi chia đều ra, thế là ai cũng có phần như nhau. Còn về cách thức chơi với thái tử thì thật ra đơn giản lắm, cứ giả vờ dùng hết sức, rồi đến khi thấy thái tử sắp chịu hết nổi thì chịu thua là xong. Thái tử chẳng khi nào nghi ngờ chuyện này, lúc nào cũng tự nghĩ mình là xuất chúng, chơi trò gì cũng dễ dàng thắng bọn nô tài.

Nhưng hôm nay, tụi nó chưa kịp hả hê được lâu đã phải e dè khúm núm quỳ gối ở sân, bởi Thần Anh phu nhân nghe tin liền đi tới. Bà nhìn Dương Hoán, lại ngó qua đám cung nhân nịnh bợ, tức giận mắng.

“Tụi bây là phận bầy tôi, không biết khuyên can thái tử đọc sách mà lại hùa theo, bày ra biết bao nhiêu là trò vô nghĩa. Hôm nay phạt mỗi đứa mười gậy, không cho ăn cơm chiều. Nếu lần sau còn tái phạm nữa, đuổi khỏi đông cung, cho qua phòng giặt, phòng thải làm công việc nặng nhọc.”

Mới đây còn tiếng nói cười vui vẻ, giờ lại đổi thành tiếng gậy quất vào người, tiếng khóc lóc van xin khiến Dương Hoán khó chịu. Cậu tiến về phía Thần Anh, nỉ non.

“Là con bắt bọn chúng chơi, mẹ tha cho chúng đi.”

Đối với Dương Hoán, Thần Anh có phần nhẹ nhàng hơn, nhưng vẫn nghiêm khắc.

“Còn con là thái tử, không noi theo phụ hoàng đọc sách, luyện võ mà suốt ngày bày trò đàn đúm với đám nô tài. Đấy là phụ hoàng con chưa biết, nếu để đến tai người, con nghĩ con sẽ bình an hay sao? Mau quay về cung mình, đóng cửa đọc sách đi.”

“Mẹ…” Dương Hoán vẫn muốn kì kèo.

“Tụi bây còn không mau đưa thái tử về phòng?”

Hai cung nữ vội vã nắm lấy tay Dương Hoán, kéo cậu đi. Dương Hoán bụng đầy ấm ức nhưng chẳng thể nói ra, gương mặt xị xuống đi theo cung nữ. Lúc qua khỏi Thần Anh, thấy Đỗ Anh Vũ đứng đó, còn nóng giận nghiến răng.

“Đồ mách lẻo!”

Đỗ Anh Vũ ấy thật ra là cậu ruột của Hoán. Bốn năm trước được tiến cung để trông nôm thái tử. Vũ hơn Hoán ba tuổi, ngoại hình sáng sủa lại thông minh nên được Sùng Hiền hầu xin vua cho vào cung hầu hạ Hoán. Đằng sau câu chuyện ấy, thật ra chỉ vì Đỗ thị quá thương nhớ con, lại lo lắng con trai bị Thần Anh đối xử tệ bạc nên muốn em trai mình vào cung lấy tin tức. Thần Anh biết việc đó, nhưng cơ bản bà chẳng bận tâm. Ngược lại, Đỗ Anh Vũ tuy là em của Đỗ thị nhưng biết phân biệt lí lẽ, lại một lòng lo lắng cho Hoán nên Thần Anh cũng không nghi ngại gì cậu bé này.

Chỉ có Hoán là không hiểu lòng Anh Vũ. Cậu luôn cho rằng Anh Vũ được cử ở bên giám sát mình, nên mỗi lần cậu là sai là Thần Anh phu nhân liền được báo lại để xuất hiện đúng lúc, trách phạt cậu. Lý Dương Hoàn càng không thích cách bọn cung nữ mỗi lần gặp Anh Vũ. Bọn họ luôn đỏ mặt e thẹn, có khi còn lén lút bàn tán về ngoại hình khôi ngô của y. Một lần Hoán phát hiện cung nữ của mình thêu túi thơm tặng Vũ, lập tức sau đó cậu đuổi ả ấy khỏi đông cung.

Lại nói về ngoại hình của Hoán, có thể do lúc mang thai tẩm bổ quá nhiều và sau đó là nuôi dưỡng trong cung khá tốt nên Dương Hoán bụ bẫm từ lúc sinh ra cho đến hiện tại vẫn béo tròn trắng trẻo. So với những đứa trẻ cùng tuổi khác, chiều ngang Hoán gần như gấp rưỡi, đôi mắt ti hí trên gương mặt chẳng khác nào lấy bút vẽ hai đường lên chiếc bánh dày.

Và dù cho là thái tử bánh dày, thì Hoán cũng không tránh khỏi số kiếp đọc sách viết chữ. Năm lên sáu, Hoán bắt đầu theo học tại Quốc Tử Giám thuộc Văn Miếu trong thành Thăng Long.

*
* *

Văn Miếu nằm ở phía nam thành Thăng Long. Phía trước Văn Miếu là hồ Minh Đường, giữa hồ có một gò đất tên Kim Châu. Trên gò Kim Châu xây dựng Phán Thủy đường, nơi đây cứ mỗi tháng hai lần, các nho sĩ từ các nơi đổ về để bình văn thơ.

Trước cổng Văn Miếu là tứ trụ biếu tượng cho Đông – Tây – Nam – Bắc và hai tấm bia Hạ mã. Sở dĩ hai tấm bia này gọi là Hạ mã là vì khi ai đi ngang đây, dù sang hay hèn, dù xe ngựa hay võng lọng thì cũng phải bước xuống đi bộ từ tấm bia bên này đến hết tấm bia bên kia mới được lên lại võng xe.



Đi vào cổng Văn Miếu, xuyên qua khu nhập đạo là giếng Thiên Quang cùng nơi thờ phụng Tứ Phối: Nhan Hồi, Tăng Sâm, Khổng Cấp, Mạnh Tử cùng Thất thập nhị hiền. Qua hết khu này là cổng Đại Thành dẫn vào sân đại bái với tượng thờ Chu Công, Khổng Tử. Và sau cùng chính là trường Quốc Tử Giám, nơi dạy Hán tự, Nho Giáo, Đạo giáo và Phật giáo.

Quốc Tử Giám được chia thành ba dãy: Nam, Tây và Đông. Dãy Nam là phòng sách và nơi làm việc của các thầy; dãy Tây dành cho con của quan cấp bậc tứ phẩm đổ xuống và những học trò từ bên ngoài thi vào; còn dãy Đông dành riêng cho con vua và con các bậc đại thần quyền quý. Lý Dương Hoán học tại dãy Đông.

Mỗi sáng, xe ngựa chở Hoán sẽ dừng lại trước cổng Văn Miếu, cậu cùng Đỗ Anh Vũ sẽ vào học đến giữa giờ Tỵ lại trở ra xe và quay về hoàng cung. Việc ấy cứ lặp đi lặp lại đều đặn như vậy suốt năm năm nay, đến mức nhắm mắt lại mà đi thì Hoán cũng sẽ không va phải bất kỳ cây cột nào ở nơi này.

Tại đây Hoán làm quen được một người bạn đúng nghĩa, tên là Lý Phụng Ân, là con trai nhập nội Thái phó Lý Công Bình, hơn Hoán bốn tuổi. Phụng Ân dáng cao gầy, gương mặt thanh thoát, lại là con võ tướng nên văn hay võ cậu đều tinh thông. Dương Hoán rất ngưỡng mộ Phụng Ân, ngày nào học xong cũng chờ gặp Ân để nghe cậu kể chuyện. Lý Công Bình chỉ nghiêm khắc với con trai trong việc học hành và luyện võ, còn tất cả chuyện khác ông để con thoải mái, miễn không làm gì quá đáng hay gây phiền phức cho cha mẹ là được nên Phụng Ân khá tự do. Vậy nên mỗi một ngày là cậu lại có một câu chuyện sinh động để kể cho thái tử nghe.

“Hôm qua tôi có đi nghe một vụ án rất thú vị.”

Phụng Ân mở đầu câu chuyện. Cả hai thống nhất với nhau, chỉ khi có người khác mới xưng hô đúng lễ nghi, còn nếu chỉ có hai người, sẽ gọi nhau như những người bình thường, không phân biệt vai vế.

“Nhà ông Thìn có một con chó mực, nuôi được sáu tháng thì con chó ấy biến mất. Ban đầu mọi người trong nhà cũng đi tìm khắp nơi nhưng không gặp. Họ tưởng là con chó ấy chắc đã bị bắt trộm và làm thịt rồi. Bẵng đi một năm, vô tình bà Thìn đi ngang nhà ông Kiệu lại thấy con chó y hệt con mực nên thuận miệng kêu tên, ai ngờ nó lại chạy ra nguẩy đuôi mừng bà. Thế là bà ta la um lên, cho rằng ông Kiệu bắt trộm con mực, cãi nhau qua lại nửa ngày rồi lại dắt nhau đến gặp quan.”

Dương Hoán chăm chú nghe câu chuyện Phụng Ân kể chuyện, đến đây hồ hởi chen vào.

“Ông Kiệu bắt trộm chó của ông Thìn à? Tội này thật đáng xử phạt.”

“Không!” Phụng Ân xua tay: “Ông Kiệu kể cách đây một năm tự dưng có con chó chạy vào nhà ổng, trên cổ có vết thương giống như bị người ta thắt cổ, chẳng hiểu sao lại thoát ra được. Lúc đến được nhà ông thì con chó cũng gần như thoi thóp, người trong nhà vốn thương chó nên cũng tìm mọi cách để cứu chữa. May sao hai hôm nó bắt đầu ăn được cháo loãng, rồi sau đó khỏe dần. Lúc đó cũng không nghe ai báo mất chó, chưa kể chứng kiến lúc gặp con mực thì cũng đủ hiểu nó sắp bị làm thịt nên ông Kiệu quyết định giữ lại và nuôi nó cho đến khi bà Thìn đi ngang qua trông thấy và kiện lên quan.”

Nghe đến đây, Dương Hoán tròn xoe mắt: “Nhà ông Thìn định giết con mực ư?”

Phụng Ân lại lắc đầu: “Không phải, lúc con mực bị mất thì nó khoảng sáu bảy tháng thôi, còn bé lắm nên chắc chắn nhà ông Thìn không có ý định làm thịt rồi. Ông Thìn khai với quan là nó biến mất khoảng mùng bảy, đến mùng mười thì chạy đến nhà ông Kiệu nên có thể là con mực bị bắt trộm và định làm thịt, may sao vùng chạy thoát.”

Câu chuyện càng lúc càng thú vị, hai mắt Dương Hoán bình thường bé xíu nhưng lúc này cũng trở nên tròn xoe.

“Chuyện này căng nhở. Con mực từ đầu vốn là của nhà ông Thìn, nhưng cả năm qua là ông Kiệu chăm sóc. Ông Kiệu cũng chẳng phải bắt trộm nó mà lại còn thương yêu. Vậy cuối cùng quan xử con mực thuộc về ai?”

Lý Phụng Ân mở miệng, định kể cho xong câu chuyện thì lúc này có tiếng Đỗ Anh Vũ vang lên.

“Bẩm thái tử, đã trễ giờ hồi cung rồi.”

“Một chốc nữa thôi, ta phải nghe cho xong câu chuyện đã.” Dương Hoán dùng dằng.

“Bẩm thái tử, phu nhân vẫn chờ ngài về để cùng dùng bữa. Nếu ngài về trễ phu nhân sẽ lo lắng và sẽ trách phạt các nô tài.”

Nghe đến đây Lý Phụng Ân cũng nói: “Thái tử quay về cung để tránh phu nhân chờ lâu. Thật ra là vụ án mới lên quan chiều hôm qua nên vẫn chưa xử xong, tôi sẽ về nhà để hỏi tiếp, khi nào có đáp án sẽ lại kể cho thái tử.”

Vẻ luyến tiếc hiện rõ trên gương mặt bầu bĩnh của Dương Hoán. Cậu đem câu chuyện khi nãy kể cho Anh Vũ nghe, sẵn hỏi ý Anh Vũ: “Ngươi đoán xem, viên quan kia sẽ xử con mực là của ông Thìn hay ông Kiệu.”

Anh Vũ không trả lời mà hỏi ngược Dương Hoán: “Vậy theo ngài thì con chó thuộc về nhà nào?”

Lý Dương Hoán kê cằm lên cửa sổ, vén rèm nhìn ra bên ngoài, chậc lưỡi luyến tiếc: “Ta nghĩ thuộc về ông Thìn chứ, dù gì ban đầu nó cũng là của ông Thìn…”

Anh Vũ không bàn cãi, lặng lẽ nhìn Dương Hoán rồi khẽ gật đầu: “Thái tử luôn sáng suốt!”

Tiếng móng ngựa chạm đất hòa lẫn tiếng xì xào của người dân trong kinh thành tạo thành hỗn hợp âm thanh ồn ào nhưng dễ chịu. Dương Hoán không nói gì với Anh Vũ nữa, chỉ im lặng ngắm khung cảnh bên đường. Đằng kìa là gốc đa to nhất thành, dưới gốc đa là tụi trẻ con đang chơi nhảy lò cò. Dương Hoán không biết ai nhưng cậu có thể nhận ra từng đứa trong lũ trẻ ấy. Đứa bé gái thấp người thường cột hai bím tóc. Hay như thằng bé tròn tròn, áo không cài được cúc lúc nào cũng thò lò nước mũi. Đêm ấy Dương Hoán mơ một giấc mơ dài. Trong mơ Hoán thấy mình dắt theo con chó mực, cùng tụi kia nhảy lò cò dưới gốc đa xanh um.

Trời chiều đổ nắng xuống sân Rồng. Bóng của chuông gác trải dài lên nền gạch. Điện Thiên An buổi sáng đủ mặt bá quan văn võ, nhưng đến lúc này lại vắng lặng như tờ, chỉ có đám lính đứng canh gác một cách nghiêm trang. Thỉnh thoảng, những tốp cung nữ hay thái giám đi ngang, nhưng ngoài tiếng bước chân khe khẽ thì chẳng còn âm thanh nào.

Sau buổi thiết triều ở điện Thiên An, Lý Càn Đức sẽ quay về điện Vĩnh Quang để dùng bữa trưa, nghỉ ngơi một lúc rồi bắt đầu duyệt tấu sớ.

Buổi chiều như thế này Dương Hoán được đến điện Vĩnh Quang để nghe tấu chương cùng phụ hoàng một tuần hai lần và Hoán rất thích việc ấy. Nhất là kể từ khi đã học được kha khá chữ, Dương Hoán được giao nhiệm vụ đọc từng tấu chương cho hoàng thượng nghe. Hoán còn nhỏ nên giọng trong trẻo, tấu chương khô khan cũng sinh động hơn. Căn phòng im ắng từ lúc có cậu cũng trở nên ấm áp hẳn.

Dạo gần đây phát sinh việc dân chúng giết trâu lấy thịt. Chiếu cấm giết trâu ban ra: “Trâu là một vật quan trọng cho việc cày cấy, lợi cho người không ít. Từ nay về sau ba nhà làm một bảo (1), không được giết trâu ăn thịt, ai làm trái thì trị tội theo pháp luật.”

(1) Tức ba nhà phải đảm bảo cho nhau, một nhà có tội thì hai nhà kia cùng chịu tội chung (trích ĐVSKTT trang 214)

Duyệt chiếu xong, Càn Đức nói với Hoán.

“Tại sao dân chúng lại giết trâu? Heo, gà, vịt ngoài kia không thiếu sao họ phải giết trâu. Việc này cần phải điều tra cho rõ xem những nơi đó chỉ là muốn thỏa mãn cơn thèm hay còn nguyên nhân sâu xa khác. Có đôi lúc vì khó quá, khổ quá nên dân chúng mới phải làm liều. Là vua, phải hiểu rõ tình hình của dân để có tội thì trị, có công thì thưởng, có khó khăn thì phải giúp đỡ kịp thời, con đã rõ chưa?”

Dương Hoán chăm chú lắng nghe, thi thoảng gật đầu. Phụ hoàng thường bảo đạo làm vua phải lấy dân làm gốc, dùng nhân từ đối đãi con dân của mình. Hoán híp mắt nhìn Càn Đức, mơ màng nghĩ đến vài chục năm sau, phải chăng cậu cũng sẽ như phụ hoàng, ngồi đây, phê duyệt tấu chương, uy nghiêm lặp lại từng câu từng chữ cho con trai của mình. Nếu như vậy thật, có lẽ Hoán sẽ cho người làm một cái ghế khác, to gấp đôi cái phụ hoàng đang ngồi!
 

Septvn

Tác giả
Tham gia
27/8/22
Bài viết
54
Điểm cảm xúc
132
Điểm
33
Chương 6 – Chuyến đi khỏi thành Thăng Long



Quan chức trong triều chia làm hai ban văn võ, từ ngũ phẩm trở lên mới được đứng hầu tại điện Thiên An. Đứng đầu quan văn hiện nay là Thái sư Trần Độ và bên võ tướng là Thái úy Lưu Khánh Đàm. Trần Độ năm nay tuổi gần bảy mươi, sức khỏe không còn tốt nên hạn chế vào triều. Còn lại, theo như Hoán quan sát, ra vào điện Vĩnh Quang thường xuyên gồm có thái úy Lưu Khánh Đàm, Nội vũ vệ Lê Bá Ngọc bà trung thừa Mâu Du Đô.

Lê Bá Ngọc thì Hoán không lạ lẫm gì, ngoài việc là cận thần bên cạnh vua thì Hoán còn biết ông ta với vai trò là bạn của Sùng Hiền hầu. Lão ta có cặp mày đậm, đôi mắt hơi xếch lên, lúc nào cũng láo liên khiến mỗi khi lão nhìn Hoán, cậu luôn cảm thấy lão như muốn toan tính việc bất chính. Mặc cho Sùng Hiền hầu từng nói với Hoán có việc cần sai bảo thì cứ giao cho Bá Ngọc, người này có thể tin tưởng nhưng thực chất Hoán chẳng có việc gì cần sai bảo và cậu cũng không thể tin tưởng được lão ta. Đấy là chưa kể lão từ đâu lại nhận Đỗ Anh Vũ làm con nuôi, khiến Hoán nhìn hai cha con nhà ấy càng không thuận mắt. Bản thân cậu không biết cậu không thích Anh Vũ nên cũng không thích Bá Ngọc hay vốn dĩ vì không thích Bá Ngọc nên không có thiện cảm với Anh Vũ?!

Lưu Khánh Đàm thì nhìn dáng vẻ đích thị là trung thần. Ông ta lúc nào cũng mang phong thái đĩnh đạc, ngay thẳng dù đối diện với bất cứ ai. Ông ta cũng trạc tuổi Bá Ngọc, nhưng có lẽ do chinh chiến thường xuyên, vào sinh ra tử nhiều nên trông có phần già dặn hơn lão Ngọc. Dương Hoán để ý, dường như phụ hoàng cũng xem trọng Khánh Đàm hơn.

Còn lại là trung thừa Mâu Du Đô. Ông này trẻ nhất trong số cận thần của phụ hoàng, đâu đó chỉ ngoài bốn mươi. Phụ hoàng hay sai ông đi khỏi Thăng Long làm nhiệm vụ, có khi vài tháng mới thấy mặt ông ở cấm thành. Du Đô tâm tính bộc trực, nói năng khảng khái, âm điệu ồ ồ. Hoán cảm thấy Du Đô là phóng khoáng và dễ nói chuyện nhất, không mực thước như Khánh Đàm cũng chẳng lươn lẹo như Bá Ngọc. Chốt lại, Hoán có thích gặp Mâu Du Đô hơn hẳn, một phần vì cứ gặp cậu là ông lại mang biếu thức ăn dân dã tại những nơi mà ông vừa đi qua. Có những món rất ngon, nhưng đầu bếp trong cung khi chế biến lại thì chẳng còn mang hương vị như thế. Khi Hoán thắc mắc, Du Đô cười hề hề giải thích là mỗi vùng có một đặc tính riêng, từ gió, nước, đất đến cây cỏ nơi đó đều không giống nơi khác, vì thế cho dù là cùng nguyên liệu, cùng công thức, nhưng nếu không phải thuộc về nơi đó, sẽ không thể nào mang theo hương vị giống như vậy. Hoán lờ mờ về việc giải thích này của Du Đô, nhưng cậu vẫn tin lời ông.

Lần này cũng vậy, sau hai tháng rong rủi miền biển Hải Đông, Mâu Du Đô vào cung, không quên mang theo một ít bánh trôi. Lý Dương Hoán háo hức cắn ngay một miếng, bánh vừa dẻo vừa mềm, bên trong là nhân đường phèn ngọt mà không gắt, hương vị ấy khiến tâm trạng cậu khoan khoái lên rất nhiều.

“Bánh này ngon thật sự, khi nào ông có dịp đi Hải Đông nữa thì đem về cho ta thật nhiều nhé.”

Mâu Du Đô khoái chí vuốt chiếc cằm lúng phúng mấy cọng râu. Da mặt ông đen sạm đi nhiều so với lần trước Hoán gặp. Nhưng ngược lại, Du Đô lại có hàm răng khá trắng, khiến nụ cười ông thiện cảm vô cùng.

“Vâng thưa thái tử. Bánh này mua ở một tiệm nổi tiếng tại Vân Đồn – Hải Đông. Lần sau có đến đấy, thần sẽ mua thật nhiều cho ngài.”

Dương Hoán chun mũi mỉm cười. Nhìn gương mặt cậu và chiếc bánh trôi trên đĩa, chẳng khác là bao.

Mùa xuân có hội đá cầu, mùa hạ đi xem cày ruộng, mùa thu có hội đua thuyền, mùa đông lại xem gặt lúa. Trong số đó, Hoán thích hội đá cầu và đua thuyền nhất, còn hai việc đi xem cày xem gặt đối với cậu là nhàm chán vô cùng. Trong những hội thi đua, Hoán thỏa sức hò hét cổ vũ, người tham gia cũng tràn đầy năng lượng. Còn việc ra ruộng, Càn Đức hay nói với Hoán rằng cây lúa là nguồn sống của Đại Việt, nếu không có lúa, dân ta sẽ không có lương thực, sẽ không thể sống nên mỗi dịp như vậy, đích thân vua sẽ xuống ruộng, thực nghiệm ba đường cày, bảy lần gặt để cho dân chúng lấy đó làm gương noi theo.

Mùa hạ năm nay, có tin báo về thuyền buôn ngoại quốc cấu kết với hải tặc, gây sự với thuyền buôn trong nước ở Hải Đông. Chỉ huy sứ Hải Đông là Lý Sơn xin được điều động ba nghìn binh để đi chiến đấu với đám hải tặc ấy. Chưa đầy nửa tháng, tin bình ổn vùng biển ấy đã truyền về kinh thành. Lý Càn Đức khá hài lòng, lúc nghe Hoán đọc đến tin thắng trận của Lý Sơn, không tiếc lời buông một câu khen.

“Quả đúng thật là con nhà tông!”

Dương Hoán ít khi thấy phụ hoàng bình luận về ai trước mặt mình nên vô cùng ngạc nhiên hỏi.

“Bẩm phụ hoàng, Lý Sơn là ai, trước nay con chưa từng nghe nhắc đến.”

Lý Càn Đức sẵn đang cao hứng, nghe Hoán hỏi, không ngại gọi Hoán lại đứng kế bên, đem giấy trải ra bàn, chấm mực lên bút lông, vừa viết vừa giải thích.

“Lý Sơn này là cháu nội của Lý Nhân Nghĩa – Đô thống đại nguyên soái dưới triều Thái Tông. Lý đại soái có một người con trai tên Lý Thuần Liễu, tiếp nối cha trở thành Nguyên soái. Lý Thuần Liễu năm ấy được ban hôn con gái của tể tướng Dương Đức Uy là Dương thị. Ngoài ra tể tướng còn ba người con nữa là Dương Đức Huy, Dương Đức Thao và Thượng Dương thái hậu quá cố. Vì sự kiện con trai út của tể tướng là Dương Đức Thao âm mưu tạo phản nên liên lụy không ít đến nhà họ Dương. Nguyên soái Lý Thuần Liễu khi ấy vì muốn bảo vệ vợ con nên xin ra Hải Đông trấn thủ. Dương thị mất sớm, Lý Thuần Liều không cưới thêm thê thiếp, cứ ở vậy một mình nuôi con trai là Lý Sơn. Lý Sơn lại nối nghiệp cha, trở thành chỉ huy sứ lộ Hải Đông cho đến hiện tại.”

Dương Hoán nghe xong, không khỏi cảm thán.

“Thật tội! Nếu không vì Dương Đức Thao phạm tội, biết đâu gia đình Nguyên soái Lý Thuần Liễu giờ đây vẫn ở lại Thăng Long, được phong vương, phong hầu cả rồi.”

“Đáng lí ra, với thân thế của Đại nguyên soái, dù con dâu của ông là Dương thị có anh trai phạm tội thì cũng chẳng hề hấn gì. Năm xưa tiên hoàng cũng chỉ ra lệnh xử tử gia đình Dương Đức Thao và đày Dương Đức Uy cùng Dương Đức Huy ra châu Nghệ An. Còn lại hai người con gái, Dương thái hậu và Dương thị gả cho họ Lý vẫn bình an vô sự. Chẳng qua, việc xin về Hải Đông, dường như là mong muốn của Nguyên soái thôi.”

“Thăng Long có gì không tốt, sao nhà ấy lại muốn đi xa, thưa phụ hoàng?”

Lý Càn Đức chợt sững lại một lúc rồi đưa tay xoa đầu Dương Hoán. Đôi mắt ông đột nhiên long lanh, tựa hồ ẩn giấu trong đó biết bao chuyện cũ, những chuyện dường như không thể nói cùng ai, huống chi là một đứa bé mười một tuổi như Hoán.

“Nguyên soái có lí của người. Con có vẻ quan tâm?”

Thật ra, Dương Hoán chỉ thuận miệng hỏi, chẳng qua là Càn Đức trả lời quá nhiều khiến cậu nảy sinh tò mò. Việc gia môn của Đô thống đại nguyên soái kia, đối với Hoán vốn không liên quan. Thứ khiến cậu bận tâm, lại chính là phụ hoàng nhắc đến Hải Đông – nơi có loại bánh ngon mà Du Đô vừa dâng cho cậu mấy hôm trước. Giờ nghe câu hỏi của phụ hoàng, Hoán đoán biết được người có ý trách, cậu bẽn lẽn thưa.

“Bẩm phụ hoàng, con không có ý nhiều chuyện.”

“Ha ha, trẫm không trách, là trẫm chưa dạy con nhiều về dòng họ Lý. Con giờ cũng đã lớn, mỗi ngày trẫm sẽ nói một ít, mai này con lên ngôi, cũng biết người nào có thể dùng.”

Lý Dương Hoán nghe đến đây, liền lắc đầu nguầy nguậy.

“Phụ hoàng sống ít nhất cũng một trăm tuổi, con không gấp không gấp!”

“Trẫm không mong sống trăm tuổi, chỉ mong có thể ở bên con đến lúc con đủ trưởng thành!”

Trong âm điệu của Càn Đức thoáng chút xót xa. Ngưng một lúc, ông nói tiếp.

“Thế… con có muốn gặp Lý Sơn không?”

Dương Hoán ngạc nhiên hỏi: “Ông ấy vào Thăng Long ạ?”

“Không! Trẫm và con sẽ đến Vân Đồn.”

Hoán không có một chút lòng dạ muốn từ chối. Bởi vì với cậu, việc được đi đến một nơi ngoài cấm thành, ngoài Thăng Long tuyệt vời hơn rất nhiều so với đi đến cung Ứng Phong xem cày ruộng. Những ngày sau đó Hoán đều mơ về một nơi xa lạ, với những chiếc bánh trôi nhân đường phèn ngon đến ngất ngây.

*
* *

Ngoài Quốc Tử Giám ra thì đây là lần đầu Hoán được đi xa đến thế. Từ Thăng Long đến Vân Đồn mất đến hai ngày đi bằng xe ngựa. Lần này xuất cung không rình rang, ngoài phụ hoàng và Hoán ra thì chỉ có thêm khoảng hai mươi cận vệ theo cùng. Theo như Hoán biết thì chuyến đi này phụ hoàng cũng không thông cáo cho nhiều người, thậm chí đến Thần Anh, Hoán cũng không được phép nói với bà. Giải đáp thắc mắc của Hoán, Càn Đức chỉ bảo rằng càng ít người biết thì càng ít nguy hiểm mà thôi.

Ra khỏi thành Thăng Long, dân cư bắt đầu thưa thớt. Đi được hai canh giờ thì Hoán nhận ra xung quanh là rừng với ruộng, thỉnh thoảng mới thấy một ngôi nhà. Cậu vén rèm cửa, nhìn ra ngoài, thấy những cánh đồng mạ non xanh biếc, dưới đó còn có nông phu với con trâu đang cày bừa. Đi thêm một canh giờ lại đến một trấn nhỏ, đoàn người dừng lại ăn trưa, nghỉ ngơi quá ngọ mới tiếp tục lên đường.

Không gian bên ngoài yên ắng, xe chạy hơi sốc nên Hoán có chút đau đầu, chẳng mấy chốc lại ngủ quên trên chân phụ hoàng. Đến khi cậu được gọi dậy thì đã đến một quán trọ dưới chân núi. Đoàn người ở lại đây một đêm, chờ trời sáng mới tiếp tục khởi hành.

Sau nỗi vui mừng vì được đi xa thì giờ đây tâm trạng Hoán thoáng chút buồn. Nơi này so với hoàng cung thì khá tối tăm và vắng lặng. Trong đêm đen, Hoán có thể nghe rõ tiếng dế râm ran trong những bụi cỏ, thỉnh thoảng là tiếng chim lạ bay đêm kiếm mồi. Hoán nhớ mẹ Thần Anh, nhớ gương mặt hiền từ của người. Hoán nhớ cả chiếc giường êm ái tại đông cung, bên cạnh là cung nữ đứng phe phẩy quạt để cậu nhanh chìm vào giấc ngủ. Ở đây chẳng có gì cả, tiết trời oi bức khiến Hoán khó chịu. Cậu nằm cạnh phụ hoàng, dù mặc áo rất mỏng nhưng cơ thể vẫn đổ rất nhiều mồ hôi. Giữa đêm, trong cơn chập chờn, dường như Hoán thấy có những luồng gió nhẹ nhàng lướt qua người mình, giống như cái cách cung nữ hay quạt cho cậu ở đông cung.

Vì là mùa hạ nên đêm nhanh chóng qua đi, khi con gà trống bên ngoài gáy đến tiếng thứ ba thì ánh sáng cũng tràn vào phòng, đánh thức Dương Hoán còn đang say ngủ. Cậu từ từ mở mắt, thấy phụ hoàng y phục đã chỉnh tề, người ngồi ở bàn, chầm chậm uống trà như thể đã ở đó từ rất lâu rồi.

Hoán vừa tỉnh dậy phụ hoàng đã cho một tên lính vào hầu cậu rửa mặc thay xiêm y. Sau đó, chủ quán mang vào hai bát mì nóng hổi. Lần đầu Hoán ăn sáng đơn giản như thế, nhưng chẳng hiểu sao cậu lại cảm thấy rất ngon. Phải chăng đúng như lời Mâu Du Đô nói, món ăn ở từng nơi sẽ mang theo hương vị của chính nơi chúng được tạo ra.

Ăn xong bát mì ngon lành ấy, hai cha con lại tiếp tục lên xe ngựa tiếng về Vân Đồn. Thật ra khi đến quán trọ này là Hoán đã đến được khu vực lộ Hải Đông (tỉnh Quảng Ninh), nhưng vẫn phải đi tiếp ba canh giờ nữa để đến trấn Vân Đồn. Vân Đồn không phải là một thương cảng chính thức, đây chỉ đơn giản là nơi dừng chân của tàu buôn các nước giao thương qua lại giữa Đại Tống, Trảo Oa trên đường di chuyển đến cảng Diễn Châu tại Nghệ An hoặc ngược lại. Nhiều lần đọc tấu chương cho phụ hoàng, Hoán nghe đến miền Diễn Châu, cũng đoán được nơi đây rất sầm uất và cũng đầy bất ổn nên các vị trấn thủ Diễn Châu đều là tướng quân tam phẩm trở lên. Vân Đồn thì không phải trọng điểm như Diễn Châu, trên đường Hoán đi thấy dân chúng không ồn ào náo nhiệt như ở kinh đô, gương mặt họ toát lên vẻ hiền hòa hơn hẳn.

Xe ngựa của vua dừng trước một phủ nhỏ có cảnh cổng bằng gỗ lim với khóa đồng cũ kỹ nhưng vẫn được giữ sạch sẽ. Bên trên tấm bảng nhà có để ba chữ “Phủ Lý Sơn”. Hoán chỉ phụ hoàng dòng chữ ấy, bật cười khanh khách.

“Phụ hoàng xem kìa, ai đời lại để tên mình làm tên phủ. Ông ấy cứ như sợ người khác không biết đây là nhà mình vậy.”

Càn Đức nhìn Hoán, có chút không hài lòng bảo: “Con không nên bàn tán về vấn đề cá nhân của người khác như thế.”

Hoán cúi đầu vâng dạ, nhưng trong lòng thầm nghĩ, cậu vốn dĩ là thái tử, chỉ nói về tên phủ của một vị quan ngũ phẩm thì có gì mà không được cơ chứ.

Hoán cứ nghĩ Lý Sơn là tướng thì sẽ mang dáng dấp cao to như Bá Ngọc hoặc hào sảng như Du Đô, nhưng khi gặp thì hoàn toàn ngược lại. Ông mặc áo Giao Lĩnh (kiểu áo chéo trước ngực như áo tràng) màu nâu, quần dài màu trắng, tóc búi cao và đội một mũ Đinh Tự(*) cùng màu áo. Lý Sơn dáng cao nhưng không to, gương mặt hồng nhuận với đường nét dễ nhìn, tạo cảm giác thanh liêm hơn uy quyền của một võ tướng. Dương Hoán nghĩ cũng đúng thôi, ông ở đây, làm quan theo hình thức tập ấm (con nối nghiệp cha), lại không có nhiều binh biến để ông phát huy hết khả năng võ tướng của dòng họ. Chó sói xuống đồng bằng cũng thành chó nhà, Lý Sơn ở nơi yên bình như vậy, lâu dần dáng vẻ cũng chẳng khác quan văn là bao.

(*) Mũ hình ống màu sẫm, quây quanh trán và rủ xuống phía sau, phía sau may thêm mảnh vải hình vuông che kín gáy.

Đứng cạnh Lý Sơn là phu nhân của ông – Vạn thị, ngoài ra không có thêm thê thiếp nào khác. Lúc trên xe ngựa Hoán có nghe phụ hoàng nói qua, từ thời cha Lý Sơn là Lý Thuần Liễu, năm xưa vì phải lòng con gái nhà tể tướng là Dương thị mà trì hoãn việc lập gia thất. Dương thị ấy dù là con gái nhưng tính tình rất cởi mở, khác hẳn với các tiểu thư nhà quan và càng không mang nét đầm thắm quy củ như chị ruột Dương hoàng hậu của tiên hoàng. Đến cuối cùng, Dương thị cũng động lòng vì sự si tình của Lý Thuần Liễu, đồng ý gả cho ông.

Trong lễ thành hôn với Dương thị, Lý Thuần Liễu lập lời thề rằng cả đời ông chỉ có duy nhất Dương thị làm vợ, yêu thương duy nhất một mình bà khiến mẹ ruột của ông suýt chốc ngất tại lễ gia tiên. Dương thị nghe như thế lại càng tôn trọng chồng mình hơn, hết lòng phụng dưỡng cha mẹ chồng, sớm sinh được con trai nối dõi là Lý Sơn và một con gái tên Lý Dương Hà. Tiếc rằng Dương thị bạc phước, qua đời khi tuổi còn rất trẻ. Lúc bà sắp mất có căn dặn chồng mình nên cưới thêm vợ để còn chăm sóc ông. Nhưng Lý Thuần Liễu vẫn một mực giữ lòng son sắt với phu nhân, cho đến cuối đời vẫn không có bất kỳ liên hệ nào với người phụ nữ khác.

Có lẽ vì theo gương cha, Lý Sơn cũng chỉ có một người vợ duy nhất là Vạn Thị Khuê. Vạn thị ấy tuổi đã trung niên, thân hình có chút đẫy đà nhưng nhìn vẻ mặt là biết chắc chắn được sống trong một gia đình êm ấm. Dương Hoán chợt nghĩ đến phụ hoàng, đến Sùng Hiền hầu, đến những người đàn ông tại Thăng Long. Vì phụ hoàng là vua nên hậu cung khó tránh khỏi có nhiều phi tần, đến cả mẹ Thần Anh có khi một năm chỉ gặp phụ hoàng số lần đếm được trên đầu ngón tay. Sùng Hiền hầu cũng có ba người vợ và bốn người thiếp. Hoán nghe nói sở dĩ Sùng nạp thê thiếp nhiều như vậy là do năm xưa Linh Nhân thái hậu gây áp lực vì ông và Đỗ thị không sinh được con. Còn lại những viên quan khác, nhà ai lại không có dăm ba thê thiếp, mấy ả hầu phòng. Sống trung trinh mực thước như cha con nhà Lý Sơn kia, liệu thế gian này được bao nhiêu người.
 

Septvn

Tác giả
Tham gia
27/8/22
Bài viết
54
Điểm cảm xúc
132
Điểm
33
Chương 7: Lần gặp đầu tiên



Vì là chuyến vi hành bất ngờ nên Lý Sơn hoàn toàn không nhận được tin báo trước, mãi cho đến khi gia nô vào bẩm rằng có khách quý từ kinh thành đến, ông mới chạy ra xem và nhận ra đây chính là bệ hạ. Đoạn đường đi từ cổng vào nhà khách chưa đầy năm mươi thước nhưng ông đã nói câu này đến tám, chín lần.

“Nếu thần nghênh đón có điều gì không được chỉn chu, cầu xin bệ hạ tha tội.”

Lý Càn Đức chép miệng nói với Lý Sơn.

“Vì không muốn rình rang nên ta không cho truyền tin trước. Chuyến đi này ta cũng không muốn ai biết thân phận mình. Ngươi cứ đối đãi với ta như một vị quan ở kinh thành đến thăm, không cần xưng hô lễ tiết như nghĩa quân thần, rõ chưa?”

Lý Sơn nhanh chóng hiểu ra, cúi đầu nhận lệnh.

Lý Sơn và Vạn thị có ba người con. Con trai cả Lý Thanh Nguyên năm nay mười tám, giữ chức phó tướng dưới trướng Lý Sơn, đang trong ca trực ở cửa Vân Đồn nên không có ở nhà. Con trai thứ hai là Lý Thanh Thuần, mười sáu tuổi, từ nhỏ đã mang nhiều bệnh, không nghe, không nhìn được nên được cha mẹ cho về Thiên Đức sống cùng cô ruột Lý Dương Hà nghiên cứu y học, tìm cách chữa bệnh cho cháu. Con gái út – cũng là đứa trẻ được vợ chồng Lý Sơn hết mực nuông chiều – Lý Tâm Giao, mười bốn tuổi, giờ này có lẽ đang ở nhà tri phủ vùng này là Lưu Khắc Duật để cùng con gái nhà bên ấy là Lưu Hồng Hạnh học may vá thêu thùa.

Lý Dương Hoán không mặn với câu chuyện của phụ hoàng cùng Lý Sơn, trong đầu cậu đang nghĩ về mấy quầy thức ăn ở chợ gần đây mà khi nãy trên xe ngựa cậu đã trông thấy. Lý Dương Hoán xin phụ hoàng ra ngoài dạo vườn, thực chất là tìm cách rời khỏi nhà Lý Sơn, dựa vào trí nhớ để đi về phía chợ, tìm mua các loại bánh kia.

Đang đi, Hoán vô tình va phải một thằng nhóc khác. Thằng kia đáng lẽ không để ý cho đến khi nó quay lại nhìn quần áo trên người Hoán, biết đây là một cậu ấm từ nơi khác đến, không khỏi tò mò.

“Ê, mày là ai đấy?”

Trước nay chưa ai dám dùng thái độ đó nói chuyện với Hoán, cậu không buồn trả lời, định tiếp tục đi. Ngờ đâu hành động ấy chạm đến lòng tự ái của thằng nhóc kia, nó tức giận chặn đường, tay túm lấy cổ áo của Hoán.

“Mày điếc à?”

“Vô lễ!”

Hoán gằng giọng với thằng nhóc kia, nhưng nhìn dáng vẻ cậu lại chẳng có chút đáng sợ nào, càng khiến cho thằng nhóc kia bực bội hơn.

“Ranh con, dám nói tao vô lễ. Để tao cho mày biết sao là vô lễ nhá!”

Nói rồi nó không khách khí, dùng nấm đấm hướng thẳng về phía bụng Hoán. Cơ thể tròn trĩnh chưa bao giờ nhận lấy một lực tấn công lớn như vậy, Hoán không giữ được thăng bằng, ngã lăn ra đất. Thằng nhóc kia chưng hững một lúc, tự nghĩ cú đấm của nó nhẹ như đuổi muỗi, cớ gì thằng béo này lại có thể ngã. Đây rõ ràng là một con heo được nuôi cho béo tốt chứ chẳng được ích lợi gì.

Thằng nhóc có hơi bối rối, chưa biết nên làm gì tiếp theo thì không xa nơi ấy, có một giọng nói trong trẻo vang lên.

"Chó Cắn, mày đánh ai đấy?"

Chó Cắn là con của nhà bán thịt heo trong trấn. Nghe đâu hồi nhỏ nó rất thích chơi với chó nhưng chẳng hiểu sao chó lại không thích nó, cứ gặp nó là rượt đuổi, thậm chí còn cắn cho mấy phát. Lần bị nặng nhất là chó nhà ông Cau cắn vào mông, đến giờ vạch quần ra vẫn còn thấy sẹo, biệt danh Chó Cắn cũng từ đó mà ra. Kể từ đó Chó Cắn lập một lời thề không đội trời chung với chó và càng lớn càng lưu manh. Nó không sợ trời không sợ đất, ấy thế mà chỉ sợ mỗi mẹ và chó mà thôi!

Chó Cắn nghe kêu mình, liếc qua thì thấy đây là con cưng của nhà Lý tướng quân thì có hơi e dè. Nhưng nó không biểu đạt sự e dè đó, ngược lại còn nghênh mặt thách thức.

"Kệ tao. Liên quan gì đến mày."

"Thằng bé kia đã làm gì mày?"

"Mày quen nó sao mà hỏi?"

"Tao quen hay không không quan trọng. Mày muốn giống thằng Hợi à?"

Chó Cắn không sợ Tâm Giao, nhưng nó sợ người đứng sau Tâm Giao. Người đó không phải là Lý Sơn, mà chính là anh cả của nàng. Lần trước thằng Hợi chọi đá trúng mặt Tâm Giao một cái mà đã bị anh cả của nàng tìm đến tận nhà bẻ gãy tay, phải bó thuốc cả năm mới lành. Bởi vậy tụi nó tự hiểu, đắc tội với ai cũng được, nhưng tuyệt đối phải tránh Tâm Giao ra.

Dương Hoán thấy có người đứng ra bảo vệ mình, không biết đã từ khi nào chạy đến chỗ Tâm Giao, nép sau lưng nàng. Chó Cắn biết mình không thể động đến Tâm Giao, liền dè bỉu mấy câu cho bõ ghét.

"Xem nó kìa, núp sau lưng đàn bà hèn hết sức đúng không tụi bây? Thằng này tương lai có thể là chồng mày đấy Giao ạ!"

Theo sau lời của Chó Cắn, đồng minh của nó khoái chí hò hét theo.

"Con Tâm Giao gả cho chồng mập, vừa mập vừa hèn."

Tâm Giao chẳng những không tức giận trước lời trêu chọc kia, còn chống tay lên hông, mạnh miệng kêu lên.

"Thì sao nào. Tụi bây động đến xem có yên thân không."

Nếu Tâm Giao đỏ mặt bẽn lẽn thì còn bị trêu thêm nữa. Đằng này nàng phụ họa theo, bọn kia ngược lại ngậm cục tức vào lòng, sau đó kéo nhau đi theo lệnh của Chó Cắn.

Ả hầu của Tâm Giao là Thanh Minh thở dài nhìn chủ nhân.

"Cô cứ thích gây chuyện. Cô xem có tiểu thư khuê các nào như mình không?"

Tâm Giao chẳng buồn quan tâm đến lời cằn nhằn của Thanh Minh, nàng quay sang nhìn Dương Hoán, mặt mũi dính đầy cát, quần áo lại xộc xệch trông thật thảm hại. Tâm Giao rút khăn tay gắn trên áo lau đi vết bẩn trên người cậu, nhẹ nhàng hỏi thăm.

"Em có đau không?"

Khăn tay chạm đến chỗ bị đánh, Dương Hoán thoáng nhăn mặt nhưng lại nhanh chóng lấy lại vẻ tự tôn, lí nhí nói.

"Không sao."

Dáng vẻ cố tỏ ra mạnh mẽ ấy khiến Tâm Giao bật cười. Sau khi thấy Dương Hoán cứ nghệt mặt nhìn mình, Tâm Giao thấy chột dạ, hỏi thăm.

"Em là ai, từ đâu đến? Trước giờ chị chưa gặp em ở vùng này."

Dương Hoán không trả lời Tâm Giao mà hỏi ngược lại.

"Ngươi biết đường đến nhà tướng quân Lý Sơn không? Ta từ nhà ấy đi đến đây, giờ lại quên đường về."

Tâm Giao ngẩn người nhìn Dương Hoán. Thằng bé này muốn đến nhà Lý Sơn. Đùa nàng chắc?

"Em là người quen của Lý đại nhân à?" Tâm Giao tò mò hỏi.

"Hiện tại có thể xem là vậy."

Tâm Giao lẩm nhẩm người quen trong họ hàng nhưng chưa gặp thằng bé kia. Tuyệt đối không phải bà con gì rồi.

Thanh Minh đứng kế bên cũng định mở miệng nói gì đấy nhưng bị Tâm Giao ngăn lại.

"Thôi được rồi, nhà chị cũng gần đó, để chị dẫn em về."

Tâm Giao nắm lấy tay Dương Hoán nhưng cậu vùng vằng giật ra.

"Ta tự đi được. Có phải trẻ con đâu mà nắm tay dắt đi."

Thanh Minh đi bên cạnh, nhìn thấy cảnh ấy kỳ thực rất không hài lòng. Nếu biết tính khí nó khó ưa như thế, khi nãy đã khuyên tiểu thư đừng quan tâm rồi. Chỉ có Tâm Giao là không câu nệ lắm, ngược lại nàng thấy thằng bé ấy khá thú vị. Để xem nó có thật sự là người quen của nhà nàng không. Nếu phải thì không sao... còn ngược lại, nhất định có chuyện vui xem tiếp rồi.

Ba người tiếp tục cất bước, đi qua năm con phố, cuối cùng cũng dừng chân trước nhà Tâm Giao. Nãy giờ Dương Hoán vẫn quan ngại Tâm Giao, nhưng sau khi thấy đường đi mỗi lúc mỗi quen nên đôi mày cau có cũng dãn ra mấy phần. Đợi đến khi an toàn đứng trước cửa nhà Lý Sơn mới thở phào nhẹ nhõm.

Tâm Giao chỉ chỉ tay vào cánh cửa, ý vị nói với Hoán: "Đến rồi. Chị xong nhiệm vụ rồi nhé!"

Đứa trẻ kia lúc này mới ngắm kĩ Tâm Giao một lần, ngoại hình nàng không xuất sắc lắm nhưng cũng xem như tốt tính.

"Ngươi thích gì? Tiền, trang sức hay bất cứ thứ gì, ta vào lấy cho ngươi."

Lần này Thanh Minh tức chịu không nổi, mở miệng trách móc.

"Con cái nhà ai mà không được dạy dỗ. Nếu không có cô nhà tôi cứu, e là cậu bị tụi kia đánh cho bầm thây rồi. Biết cô tôi là ai không mà bép xép."

Dương Hoán tập trung cao độ, bỏ ngoài tai những lời lèm bèm của Thanh Minh, kiên quyết nhìn Tâm Giao.

"Nói đi chứ! Ngươi thích gì?"

Tâm Giao giả vờ suy nghĩ một lúc rồi ra vẻ nghiêm túc.

"Chị thích gì em đủ khả năng đền đáp sao?"

Hoán gật đầu một cái thật mạnh như chứng tỏ những lời mình nói không phải chỉ là khoác lác nhất thời.

Tâm Giao ngước mắt lên bầu trời, chợt thấy đàn chim đang bay về nơi trú, chu môi lên nói.

"Chị nghe nói chim sẻ trắng hiếm lắm. Nếu có cũng là cống phẩm dâng hoàng thượng. Em có chim sẻ trắng thì trả công chị cứu em. Còn không thì đừng nhắc đến việc này nữa nhé!"

Dương Hoán cau mày suy nghĩ gì đó rồi lại gật đầu.

"Chim sẻ trắng đúng không, nhất định ta sẽ tìm cho ngươi."

Tâm Giao lúc này không nhịn được nữa, lập tức ôm bụng cười. Hoán nhìn Tâm Giao với một ánh mắt không thể nào khó hiểu hơn. Tâm Giao xua xua tay.

"Thôi thôi được rồi, đưa em đến nhà họ Lý rồi đấy, sao không vào trong đi."

"Ừm, ngươi tên gì? Nhà ở đâu?"

Tâm Giao vẫn còn muốn trêu chọc đứa trẻ kia nên chỉ đại một nhà cách đó không xa.

"Em thấy nhà màu xanh đằng kia không. Nếu tìm được chim sẻ thì đến đó nhé!"

Sau khi đã ghi nhớ ngôi nhà Tâm Giao chỉ vào đầu, Dương Hoán mới yên tâm gõ cửa nhà họ Lý. Gia nô mở cửa, trước khi vào trong cậu còn quay lại định bụng chào Tâm Giao nhưng phát hiện nàng đã biến mất tự khi nào.

Một chủ một tớ nép sau thân cây to, ngạc nhiên nhìn đứa trẻ béo ú đi vào nhà mình. Thanh Minh thủ thỉ bên tai Tâm Giao.

"Cô à, đứa trẻ kia thật sự là khách nhà cô."

Tâm Giao lại càng thấy thú vị hơn, môi cong lên như hình trăng non.

"Nếu vậy, chốc nữa biết ta là ai, nó còn ngạc nhiên hơn cho xem."

Mang suy nghĩ thích thú ấy, Tâm Giao ung dung bước vào nhà mình. Chưa vội cho Hoán trông thấy, nàng âm thầm về phòng, để Thanh Minh hầu hạ rửa mặt sạch sẽ. Lúc nàng đang chuẩn bị thay quần áo thì mẹ đã biết nàng về nên cho người hầu sang gọi.

"Bẩm tiểu thư, nhà có khách, phu nhân cho mời cô ra nhà lớn để chào.”

*
* *

Tâm Giao chọn bộ váy màu xanh của nước, trên thân váy còn thêu vài đóa sen hồng. Tóc nàng tết thành một dải rồi quấn quanh đầu, cài hai đóa hoa sen kết bằng lụa phù hợp với xiêm y. Tâm Giao giống Lý Sơn, dáng cao gầy, gương mặt không tròn không xương, ngũ quan nhìn chung chỉ khá một chút chứ không gọi lại sắc sảo. Điểm nhấn duy nhất chắc có lẽ là ba đồng điếu quanh miệng, mỗi khi cười lại hiện rõ, dễ làm người đối diện ngẩn ngơ.

Bước đến nhà khách, Tâm Giao trông thấy một người đàn ông râu tóc đều điểm hoa râm nhưng vẻ mặt vô cùng phúc hậu. Cách ông ngồi, cách ông cười... thần thái đều toát lên một vẻ uy nghiêm. Ngay cả cha mẹ nàng cũng kính cẩn ngồi ghế dưới, đủ để Tâm Giao đoán được địa vị của ông không hề nhỏ. Nhất định nàng phải giữ chừng mực, tránh làm ảnh hưởng đến danh tiếng của cha.

Lý Sơn thấy con gái tươm tất nên cũng hài lòng, giọng kính cẩn giới thiệu khách với Tâm Giao.

"Đây là bác Lý, quan lớn từ Thăng Long đến thăm nhà mình. Con đến chào bác đi!"

Tâm Giao khẽ nhón chân, nhẹ nhàng tiến đến gần một chút, nhún người làm lễ.

"Cháu tên Tâm Giao, xin ra mắt bác."

Lý Càn Đức vui vẻ vuốt râu, trìu mến nhìn Tâm Giao rồi quay sang nói với Lý Sơn.

"Con gái thật ngoan!"

Lý Sơn cúi đầu cảm tạ rồi còn nói thêm vài câu chê bai Tâm Giao. Đại loại con gái còn nhỏ dại nên hành xử non nớt, hy vọng sẽ không làm gì để bác Lý phiền lòng... Tâm Giao lúc này đã yên vị đứng hầu bên cạnh mẹ, mặt tươi như hoa, môi khẽ mỉm cười.

Lý Dương Hoán đứng sau lưng Càn Đức, lúc này cũng đã thay xiêm áo chỉnh tề. Hoán không ngờ người cứu và đưa cậu về đây lại chính là con gái của Lý Sơn. Cảm giác mình bị người khác đem ra làm trò đùa còn khó chịu hơn cả khi bị tụi Chó Cắn đánh. Dương Hoán bực bội nhìn Tâm Giao. Tâm Giao cảm nhận được có ngọn lửa đang bùng lên đâu đó, ngẩng mặt lên nhìn Dương Hoán, còn không quên nháy mắt một cái khiến Dương Hoán hận không thể xuống bóp cổ nàng ngay nơi này!

Dùng cơm tối xong, Lý Sơn mời Càn Đức đến thư phòng để bẩm báo công vụ, Tâm Giao đọc kinh cùng mẹ còn Dương Hoán được gia nô đưa về phòng nghỉ ngơi sau hành trình dài. Đêm nay, có vẻ sau hai ngày mệt mỏi vì đi đường, Hoán nhanh chóng chìm vào giấc ngủ. Thỉnh thoảng trong cơn mơ, cậu mơ hồ nghe được tiếng sóng biển Vân Đồn đập vào bờ rì rào.

Ngày hôm sau Lý Càn Đức theo Lý Sơn ra cảng để quan sát tình hình giao thương của các thuyền buôn và cuộc sống của dân chúng nơi này. Lý Dương Hoán được giao cho Tâm Giao dẫn đi thăm thú khắp nơi.

Thanh Minh vốn không thích tính cách của Hoán, trước mặt giữ phép lịch sự nhưng sau lưng thì dùng ánh mắt không mấy thiện cảm liếc Hoán mãi thôi.

Lưu Hồng Hạnh là con gái thứ của tri phủ Lưu Khắc Duật, cùng tuổi Tâm Giao. Hai nhà Lý Lưu vốn thân thiết nên Tâm Giao và Hồng Hạnh chẳng khác nào chị em ruột. Từ khi sinh ra đến giờ, hai nàng chơi cùng nhau, học cùng nhau, có điều gì mới mẻ cũng chia sẻ với nhau. Hôm nay không phải là ngày học thêu nhưng nghe tin báo Tâm Giao đến, Hồng Hạnh ngạc nhiên chạy ra sân để đón bạn thân, rồi nhanh chóng đổ dồn sự ngạc nhiên ấy lên người Dương Hoán.

“Ơ, cậu bé này?”

Tâm Giao vui vẻ giới thiệu: “Đây là con của bác Lý – người quen của cha mình ở kinh thành đến thăm. Cậu ấy tên…”

Nói đến đây, Tâm Giao mới nhớ ra là mình cũng chưa hỏi tên Hoán nên ngại ngùng: “Em tên gì ấy nhỉ?”

Phụ hoàng đã dặn không được tiết lộ thân phận, Lý Dương Hoán khoanh tay trước ngực đáp: “Ta là Lý Phụng Ân!”

Hồng Hạnh thấp hơn Tâm Giao nửa cái đầu nhưng cơ thể có phần nảy nở, gương mặt cũng mang nét thiếu nữ hơn hẳn Tâm Giao. Hạnh có đôi mắt đẹp, thoáng chút buồn không phù hợp với tuổi của nàng. Nếu ở Thăng Long thì nhan sắc của Hạnh chỉ ở mức khá một tí, nhưng ở nơi Vân Đồn này, so với tất cả phụ nữ Hoán gặp trong phủ Lý hay ngoài đường thì Hồng Hạnh có vẻ nổi trội hơn hẳn. Lúc Hồng Hạnh đưa tay lên chào Tâm Giao, Hoán có để ý qua, đôi tay ấy thon dài, mang một ít vết chai ở đầu ngón, rất giống của mẹ Thần Anh nên có lẽ thị này có sử dụng đàn.

Hồng Hạnh mỉm cười với Hoán rồi nắm lấy tay Giao: “Hôm nay Giao đến vừa hay, hồng trên cây lại có trái chín nghịch mùa nên mình cùng mẹ mới làm một mẻ bánh nhân mứt hồng. Giao và em Ân dùng thử xem thế nào nhé.”

Bánh nướng thơm mùi gạo, bên trong mứt hồng ngọt ngọt bắt vị vô cùng. Tâm Giao cắn một miếng đã xuýt xoa khen ngon, còn Hoán ăn hết một cái mới gật gù: “Cũng tạm được!”

Tâm Giao và Hồng Hạnh nhìn nhau mỉm cười, Thanh Minh đến bên cạnh bĩu môi: “Ngon thì bảo ngon, lại còn ra vẻ.”
 

Septvn

Tác giả
Tham gia
27/8/22
Bài viết
54
Điểm cảm xúc
132
Điểm
33
Chương 8: Chim sẻ trắng và mèo hoang



Ở chơi với Hồng Hạnh một lúc, Tâm Giao lại rời khỏi. Khi đi ngang qua chợ, mắt Dương Hoán không thể rời khỏi những quầy bán con giống bột (tò he) đủ màu xanh đỏ ven đường. Thỉnh thoảng cậu đứng lại ngắm, hỏi người bán xong mới nhận ra bản thân không đem theo tiền để mua. Trước giờ trừ những lúc đến Quốc Tử Giám học, Hoán hầu như không ra đường và cũng không cần dùng tiền. Giờ ra ngoài, được dịp biết nhiều thứ như vậy, Hoán chuyển trạng thái liên tục, từ ngạc nhiên, hào hứng rồi có khi lại ngại ngùng.

Tâm Giao quay lại hai lần đều thấy Hoán mê mẩn các xâu giống bột nên ra hiệu cho Thanh Minh đến mua một con. Hoán nãy giờ hay bị bỏ lại sau lưng nên cũng không dừng xem hàng quán nữa mà đi thật nhanh cho kịp Tâm Giao, bước chân nhỏ nhưng cố tình bước trên Giao một bước. Được thêm một đoạn, Giao gọi tên, Hoán quay lại, nàng cầm một xâu giống bột hình chim công đưa đến cho Hoán.

“Tặng em này.”

Mặc dù rất thích nhưng Hoán vẫn dè dặt: “Sao lại tặng ta?”

“Xem như đây là quà kết thân nhé!”

“Quà kết thân? Là gì?”

“Ở đây, khi để kết giao một mối quan hệ bạn bè, chúng tôi sẽ tặng nhau một món quà. Chúng ta đã biết nhau hai ngày, chị thấy em rất dễ thương, mình kết bạn nhé!”

Lý Dương Hoán ngớ người nhìn Tâm Giao, không ngờ bên ngoài lại có tục lệ này cơ đấy. Lần này về cung, phải kể lại tất cả cho Lý Phụng Ân nghe. Dương Hoán nhận món quà từ Tâm Giao rồi lại xị mặt xuống.

“Nhưng ta không có tiền mua quà cho ngươi.”

Tâm Giao chìa tay ra, nhoẻn miệng cười tươi: “Vậy em bắt tay với chị một cái, xem như là quà rồi.”

“Vậy cũng được ư?”

“Dĩ nhiên là được chứ!”

Lý Dương Hoán chìa tay ra, bắt lấy bàn tay mềm mại của Tâm Giao. Lần đầu tiên từ khi đến Hải Đông này, Dương Hóa thả lỏng cơ mặt, mỉm cười theo nụ cười tươi tắn của cô gái trước mắt. Tâm Giao thật khác những người trước giờ Hoán gặp, bọn họ ngoài mặt cúi đầu dạ thưa nhưng thực chất chẳng mặn mà gì kết giao với cậu. Hoàng thành rộng lớn nhưng thân thiết với Hoán chỉ có mỗi Lý Phụng Ân. Lần đầu tiên Hoán cảm nhận được thứ gọi là tình bạn, Tâm Giao nào biết Hoán là thái tử nên thoải mái vô cùng. Lưu Hồng Hạnh khi nãy tuy dịu dàng nhưng cũng cởi mở, lại còn làm bánh ngon. Thậm chí đến Thanh Minh hay xỏ xiên nhưng Hoán cũng không để bụng, ngược lại cảm giác con người nơi đây thật thà, thân thiện.

Tâm Giao nhìn thái độ của Hoán, biết cậu đã bắt đầu mở lòng nên tâm trạng cũng vui vẻ hơn. Hai người đi song song với nhau, bắt đầu chuyện trò, mở màn bằng câu chuyện về con giống bột.

“Em biết không, con công này không chỉ để cầm chơi, mà còn ăn được nữa đấy.”

“Còn ăn được nữa cơ à?”

“Đúng rồi, nó được làm từ bột mà. Màu xanh này từ lá chàm, màu đỏ từ gấc, màu đen từ cây nhọ nồi và màu vàng từ củ nghệ. Loại chị mua cho em không có đường để có thể giữ được lâu hơn, có đường thì mau xẹp và dễ bị kiến bâu nữa.”

Hoán thích thú nghe Giao nói lại nhìn con công trên tay. Cả hai mải luyên thuyên, cùng nhau đi qua những con phố tấp nập người. Hải Đông này thật sự vui vẻ, và có thêm Tâm Giao lại càng vui hơn. Dương Hoán cẩn thận quan sát Tâm Giao, phát hiện có vẻ cô nàng này rất thích màu xanh lục.

Cả ba dừng lại ở một ngôi miếu hoang cuối đường. Trong khi Hoán còn tò mò thì Thanh Minh đã lấy từ giỏ ra rất nhiều thức ăn thừa, cẩn thận trải lá chuối ra nền rồi rải thức ăn ấy lên. Tâm Giao mở miệng gọi “miu miu”, không lâu sau bầy mèo hoang thi nhau chạy đến, nhai ngấu nghiến những hạt cơm.

“Ngươi nuôi chúng à?” Hoán hỏi.

“Không hẳn là nuôi, chẳng qua chị phát hiện chúng nó ở đây, không ai chăm sóc, thức ăn cũng không đủ nên cứ vài ngày lại mang cơm đến cho chúng ăn. Lần đầu chị thấy, những con mèo này gầy trơ xương, đến nay thì cũng đỡ hơn rồi.”

Một con mèo đến cọ thân mình vào chân Giao, nàng cẩn thận bế lên, xoa xoa đầu mèo, mắng yêu: “Mày lại đi đánh nhau phải không, trên đầu lại có vết thương này!”

Dáng vẻ Tâm Giao lúc này chẳng khác nào một người mẹ mẫu mực đang bảo ban con mình. Dương Hoán cứ đứng đó, ngẩn người nhìn Giao cho đến khi nàng kéo cậu về thực tại để quay về nhà.

Đến ngày thứ ba Lý Càn Đức phải quay về Thăng Long. Gia đình Lưu Khắc Duật cũng đến tiễn vua hồi triều. Cả hai gia đình đều chuẩn bị rất nhiều đặc sản Hải Đông, chất gần đầy xe ngựa. Hồng Hạnh còn ưu ái mang đến cho Hoán một giỏ bánh mứt hồng để cậu ăn trên đường đi. Đêm qua Hoán cũng kể lại những gì mình trải qua trong ngày cho phụ hoàng nghe và bày tỏ ý định muốn tặng lại quà cho những người bạn vừa quen nơi này. Thế là Càn Đức đưa Hoán đi dạo phố đêm, nói với Hoán nữ nhân hầu như đều thích trang sức lụa là. Hoán thầm nghĩ gia đình Tâm Giao và Hồng Hạnh đều là quan, tặng trang sức có phải quá tầm thường hay không. Tuy thế nhưng Hoán vẫn ghé vào tiệm kim hoàn, mua một ít vật phẩm, còn cho người gói cẩn thận vào hộp để làm quà trước khi về kinh.

Tâm Giao và Hồng Hạnh nhận được hai hộp quà thì không nói, nhưng đến cả Thanh Minh cũng có quà thì thật sự ngạc nhiên vô cùng. Bịn rịn tiễn đưa xong, khi chiếc xe ngựa chở Hoán đã khuất dạng, cả ba cô gái mới về phòng Tâm Giao, hồi hộp mở quà.

Hồng Hạnh nhận được một chiếc trâm cài bằng vàng, bên trên còn có hóa hoa đào bằng hồng ngọc.

Quà của Thanh Minh thì là một chiếc vòng bạch ngọc, bên trên có nạm vàng. Cô hầu run run cầm chiếc vòng, thảng thốt kêu lên: “Ôi! Chiếc vòng này em có thể sống được cả năm đấy! Không ngờ cậu ấy lại hào phóng như vậy!”

Hồng Hạnh lấy khăn tay che miệng phì cười, rồi nói với Tâm Giao: “Phụng Ân quả thật rất có lòng, Giao mở xem Giao nhận được gì.”

Thanh Minh cũng hào hứng: “Đúng rồi đó cô, ngay cả em mà còn nhận được món quà giá trị thế này thì chắc của cô cũng phải mua được mấy sào ruộng.”

Tâm Giao cẩn thận mở hộp quà. Nhưng trái với suy đoán của hai người kia, bên trong chỉ đặt một vòng tay đan bằng cỏ, lá cỏ xanh mướt, bên trên còn cài thêm những đóa hoa hồng.

Thanh Minh không tin vào mắt mình, cầm chiếc hộp của Tâm Giao, cẩn thận dò tìm xem còn có ngăn bí mật nào khác không nhưng bên trong hoàn toàn trống rỗng. Thanh Minh ngạc nhiên gãi đầu: “Kì lạ, cô thân với cậu ấy như vậy, không thể nào cậu lại chỉ tặng cô một chiếc vòng cỏ bình thường kia.”

Hồng Hạnh từ tốn giải thích với Thanh Minh: “Cậu bé kia thân phận cao quý, nên chắc chắn xem tiền bạc không có nghĩa lý gì. Chị nhìn kỹ lại xem, chiếc vòng của Giao có lẽ là đích thân cậu ấy làm, tuy vụng về không không có giá trị vật chất, nhưng chắc hẳn bên trong ẩn chứa rất nhiều tâm tư dành cho Giao. Giao có nghĩ vậy không?”

Tâm Giao đeo vòng vào tay, giơ lên ngắm nghía một lúc thật lâu. Chẳng trách đêm qua Giao thấy đèn phòng Hoán đến khi gà gáy canh đầu mới tắt, không ngờ là bỏ công chuẩn bị món quà ý nghĩa này. Tâm Giao bật cười, một chút cảm động len lỏi trong lòng.

*

* *

Trên đường quay về sắc mặt Lý Càn Đức ủ dột hơn so với lúc đi. Hoán nghe nói chuyện hải tặc ở Vân Đồn đã được giải quyết triệt để, nơi đây vốn chẳng có vấn đề gì, không biết phụ hoàng còn bận lòng việc gì. Hoán chợt nghĩ, có khi nào phụ hoàng tìm gặp Lý Sơn để yêu cầu ông ta về lại kinh thành nhưng bị Lý Sơn từ chối.

Hoán vốn không đoán được tâm ý của vua, tất cả những gì cậu làm được từ trước đến nay vốn dĩ chỉ là nghe lời phụ hoàng. Hoán tự nhận mình không phải một người thông minh như Phụng Ân, tài giỏi như Anh Vũ lại càng không phải một đứa trẻ ngoan ngoãn như mong muốn của Thần Anh. Nhưng Hoán nhận thức rõ, việc phụ hoàng nghiêm khắc với cậu, không phải chỉ đơn giản là thương yêu, mà còn cả kỳ vọng về một bậc đế vương sau này. Hoán ở bên cạnh Càn Đức nhiều hơn người khác, cũng đủ tinh tế để nhận ra mấy năm gần đây sức khỏe phụ hoàng đã không còn được như xưa. Hoán không dám cãi mệnh trời, nhưng lỡ một ngày không còn phụ hoàng trên cõi đời này nữa, cậu biết phải làm sao đây?

“Hoán, con thấy Lý Sơn thế nào?”

Lý Càn Đức đột ngột lên tiếng, kéo Hoán ra khỏi đám suy nghĩ vẩn vơ. Hoán không hiểu câu hỏi của phụ hoàng, càng không biết bên trong người lại có ẩn ý gì không nên chọn cách trả lời vô thưởng vô phạt.

“Bẩm phụ hoàng, con thấy Lý Sơn nôm dáng người cũng tín cẩn, lại biết giữ lễ với phụ hoàng. Gia đình ông ta cũng xem là gia đình tốt. Con chưa gặp hai con trai của ông ấy, nhưng con gái Lý thị thì rõ ràng là được nuôi dạy đàng hoàng.”

Càn Đức nhìn xuống bàn tay tròn trĩnh của Hoán đang cầm một cái bánh hồng cắn dở, thở dài.

“Năm xưa thực ra tiên đế Thánh Tông và Lý Thuần Liễu có mâu thuẫn. Nếu không vì lẽ ấy, Lý Thuần Liễu tức giận bỏ đến Hải Đông.”

“Mâu thuẫn ạ?” Lý Dương Hoán ngạc nhiên hỏi.

“Đúng vậy. Thực ra mâu thuẫn ấy xuất phát từ chỗ Dương thị mà ra. Vốn dĩ Thánh Tông và Lý Thuần Liễu cùng nhìn trúng Dương thị ấy. Cuối cùng Dương thị lại chọn Lý Thuần Liễu thay vì Thánh Tông, còn nhà Tể tướng lại nhất quyết để Dương thái hậu vào cung thay Dương thị. Thánh Tông chưa bao giờ thuận mắt Dương thái hậu, lại cứ nghĩ nhà họ Dương có ý đồ nên luôn trong trạng thái đề phòng. Đến cuối cùng khiến nhà Thuần Liễu rời khỏi Thăng Long, Dương thái hậu thì không được sủng ái.”

Lý Dương Hoán càng nghe, càng thấy mịt mù. Thánh Tông vốn dĩ là vua, muốn ai lại không được, cùng lắm là cho cả Dương thái hậu và Dương thị nhập cung thì có phải đơn giản hơn không. Còn nếu đã chấp nhận để Dương thị gả cho Lý Thuần Liễu, hà cớ gì phải mang ấm ức trong lòng. Mà cũng có thể người mang hiềm khích lại là Lý Thuần Liễu kia cũng nên.

Hoán dè dặt hỏi tiếp.

“Nếu vậy, có thể thấy Lý Thuần Liễu vốn rất xem trọng Dương thị.”

Càn Đức gật đầu.

“Không sai. Khi Thái Tổ vừa mất, các hoàng tử của Ngài là Võ Đức vương, Dực Thánh vương và Đông Chính vương đã đem quân đến vây thành để tranh ngôi của Thái tử, gọi là loạn Tam vương. Bốn vị trung thần khi ấy có công phò tá Thái Tông dẹp loạn thuộc bốn dòng họ: Lê, Dương, Ngô, Lý. Đô Thống thượng tướng quân Lê Phụng Hiểu không có kế thừa. Tướng quân Ngô An Ngữ thì sinh ra Việt Quốc Công Lý Thường Kiệt sau này, Việt Quốc Công cũng chính là anh của Ngô thị - bà ngoại của mẹ ruột con. Tể tướng Dương Bình thì có con trai là Dương Đức Thành, cháu nội là Dương Đức Uy. Dương Đức Uy cũng chính là cha ruột của Dương thái hậu và Dương thị kia. Còn lại họ Lý – không ai khác chính là Đại nguyên soái Lý Nhân Nghĩa. Họ Dương nhiều đời làm Tể tướng, lại có con gái nhiều đời làm hoàng hậu nên thế lực trong triều lớn mạnh vô cùng. Nhưng bên cạnh đó, họ Dương và bên chi họ Lý của Lý Nhân Nghĩa cũng có giao hảo tốt hơn hẳn so với Lê và Ngô.”

Dương Hoán chầm chậm hiểu ra, òa lên.

“Bẩm, vậy ý phụ hoàng là… Lý Sơn vẫn còn nặng tình với họ Dương.”

Lần đầu tiên Càn Đức nhìn Dương Hoán bằng một ánh mắt lộ rõ vẻ ngạc nhiên: “Con đã hiểu ra?”

Lý Dương Hoán lúc này cảm thấy Càn Đức đang có ý nghe ý kiến của cậu, cậu cũng không ngần ngại nữa, mở lòng nói tiếp.

“Năm ấy Dương Đức Thao phạm tội mưu phản nên bị xử tử cả gia đình. Dương Đức Uy bị cách chức Tể tướng, cùng gia đình con trai trưởng là Dương Đức Huy lưu đày đến Nghệ An, giáng làm thường dân. Sau này trong cung, lại có lời đồn Việt Quốc Công đứng về phía Linh Nhân thái hậu cố tình mưu sát Dương thái hậu và diệt Dương tộc nên tạo nên hiềm khích trong lòng hai họ Lý Dương. Vì phụ hoàng là con của Linh Nhân thái hậu nên Lý Thuần Liễu không ở lại Thăng Long để tiếp tục phò tá. Còn con… dòng máu chảy trong người con, vừa là của Linh Nhân thái hậu, lại có một phần của Việt Quốc công. Vì lẽ ấy, nếu giờ đây muốn Lý Sơn quy phục, tuyệt nhiên ông ấy sẽ không cam tâm. Con nói như thế có đúng không, thưa phụ hoàng?”

Lý Càn Đức lại một lần nữa ngạc nhiên nhìn Dương Hoán. Đứa trẻ này bình thường truyền đến tai ông chỉ là bày trò nghịch ngợm phá phách, chưa làm được chuyện gì tốt lành, không tin được lại có một sự tinh ý sâu sắc như thế. Không biết là do bản chất, hay là do được Thần Anh dạy dỗ kĩ càng.

Dương Hoán lúc này đây có hơi mất bình tĩnh, hỏi tiếp.

“Phụ hoàng… người là đang suy tính cho con?”

Lúc này đây, Lý Càn Đức không giấu tâm tư mình nữa, chậm rãi gật đầu.

“Dạo gần đây, trẫm thấy cơ thể không còn khỏe mạnh nữa, đầu óc cũng không được minh mẫn như trước. Trong triều con không có cha mẹ ruột có thế lực, Thần Anh thì quá đơn phương yếu ớt, đại trung thần thì tuổi tác đều đã cao. Chẳng may trẫm có mệnh hệ nào, sợ rằng con sẽ phải chịu cực khổ.”

Nghe đến đây, Dương Hoán òa khóc, vòng tay qua ôm lấy cổ phụ hoàng.

“Phụ hoàng đừng nói như thế, con không muốn xa người đâu.”

Lý Càn Đức nhẹ nhàng vỗ lưng Dương Hoán, đợi cho cậu chỉ còn lại tiếng thút thít nho nhỏ mới trầm giọng nói tiếp.

“Sai lầm của trẫm năm xưa là không nghe lời khuyên nhủ của công chúa Ngọc Kiều, để họ Dương từng bước đi vào tuyệt tự. Lời hôm nay của trẫm, con hãy nhớ kĩ, nó sẽ là kim chỉ nam theo con đến suốt cuộc đời.”

Hoán buông tay khỏi Càn Đức, ngồi lại chỉnh tề, cố gắng không khóc để tiếp tục lắng nghe.

“Lưu Khánh Đàm có thể tin. Lý Công Bình có thể dùng. Mâu Du Đô sẽ vì con mà trung thành. Chỗ của Lý Sơn trẫm đang suy nghĩ thêm, nhưng ít nhất, vì máu mủ họ Lý, Lý Sơn sẽ không phản nghịch. Còn lại, nếu thật sự rơi vào tình thế cấp tốc, con hãy liên hệ người này.”

Lý Càn Đức nói nhỏ vào tai Hoán. Cái tên ấy vừa được xướng lên, Hoán thật sự không thể tin vào tai mình. Ngưng một đoạn, giữa cái không gian yên lặng, có thể nghe rõ tiếng bánh xe cộc cạch vang lên, Hoán không nhịn được hỏi.

“Bẩm phụ hoàng, chung quy lại, người đang đề phòng ai?”

Lý Càn Đức không nghi ngại gì nữa, đánh sượt một hơi, nhắm mắt nói.

“Phe cánh của chính cha ruột con!”

Hoán lẩm bẩm trong miệng ba tiếng: Sùng Hiền hầu. Hai tay cậu nắm chặt bên trong ống tay, tự hỏi Sùng Hiền hầu đã và đang làm gì khiến phụ hoàng lo lắng đến mức phải tính hết đường đi nước bước cho cậu. Sùng Hiền hầu rõ ràng là cha ruột của cậu, chẳng lẽ đến tuổi này ông còn muốn phản tử đoạt ngôi?

Ngày hôm ấy, trên xe ngựa là lần đầu tiên cũng là lần cuối cùng Càn Đức nói với Dương Hoán nhiều điều nhất. Sau này vào hoàng cung, chẳng còn mấy cơ hội hai người có thể trao đổi rõ ràng với nhau. Ít tháng sau đó, Lý Càn Đức cũng đổ bệnh, bắt đầu những tháng ngày nằm liệt giường. Lý Dương Hoán từ một thái tử ăn no mặc ấm, không mảy may suy nghĩ chuyện gì cũng trở nên nhạy cảm hơn bao giờ hết. Chỉ là, sự nhạy cảm này, ngoài Thần Anh, không ai có thể nhận ra.
 

Septvn

Tác giả
Tham gia
27/8/22
Bài viết
54
Điểm cảm xúc
132
Điểm
33
Chương 9 : Chuyển dịch



Chuyến đi Hải Đông của Càn Đức và Dương Hoán rơi vào tháng Năm, đến tháng Bảy, Lý Càn Đức bắt đầu đổ bệnh.

Hoán thầm nhớ lại, hôm ấy Mâu Du Đô phục lệnh quay về hoàng cung, vào gặp phụ hoàng suốt cả buổi chiều. Tối đó Hoán đến thỉnh an, thái giám báo trong người vua không khỏe nên miễn tiếp. Ngày tiếp theo, phụ hoàng không thiết triều. Và đến ngày thứ ba, tất cả thái y giỏi từ ty thái y đều được lệnh đến điện Vĩnh Quang và sau đó là lời chẩn vua bị cảm do thời tiết thay đổi. Giai đoạn đầu thái y ra vào điện Vĩnh Quang liên tục, hết chẩn mạch, kê thuốc đến dùng lời lẽ trấn an nhưng sự thật bệnh của vua càng lúc càng nghiêm trọng hơn. Có một lần Hoán hầu tại điện Vĩnh Quang, nghe được Vũ thái y bảo rằng là do vua đau thương quá độ.

Mâu Du Đô cũng bị thương rất nặng nên suốt hai tháng sau đó không xuất hiện ở cấm cung. Hoán có hỏi mẹ Thần Anh nhưng cũng không có tin tức. Đến cuối cùng, vì không chịu được lí do mập mờ khiến phụ hoàng phát bệnh, Hoán đánh liều hỏi người. Nhưng đáp lại câu hỏi của Hoán, Càn Đức vẫn chỉ nói là do tuổi đã cao, khó cãi được quy luật sinh lão bệnh tử của ông trời.

Đến tháng Mười là giai đoạn cực kỳ căng thẳng tại cấm cung. Hoán không được phép vào vấn an phụ hoàng nữa. Thời điểm ấy, tất cả sự kiện diễn ra trong điện Vĩnh Quang đều là bí mật. Những đại thần trong triều như Thái sư Trần Độ, Thái úy Lưu Khánh Đàm, Nội vũ vệ Lê Bá Ngọc, Tham tri Từ Văn Thông và cả Trung thừa Mâu Du Đô đều được lần lượt gọi vào hầu vua. Nhìn những gì diễn ra xung quanh, Hoán hiểu rằng đã sắp đến lúc rời xa phụ hoàng thật rồi. Thần Anh có nói với Hoán, nghe từ ty thái y, sức khỏe của vua giảm sút đáng kể, e là không qua hết mùa đông năm nay. Có lẽ vua và các đại thần trong điện Vĩnh Quang đang thảo di chiếu.

Những ngày tháng ấy Hoán cũng không buồn ăn uống. Mỗi bữa dâng thức ăn lên, Hoán chỉ uống chút canh. Thái giám Trường Sinh thấy vậy, không khỏi đau lòng khuyên.

“Bẩm thái tử, nếu người cứ ăn ít thế này sẽ đổ bệnh mất.”

Hoán ngao ngán nhìn cá thịt trên bàn, lắc đầu.

“Phụ hoàng hiện nay ra sao ta còn không biết thì lấy tâm trạng nào để ăn uống được.”

Có tiếng chiêm chiếp vang lên trong phòng, Hoán quay mặt nhìn về chiếc lồng có một con chim sẻ trắng. Con sẻ này được nhà sư Cao Đình dâng tặng phụ hoàng vào tháng năm, khi thấy Hoán thích thú nên phụ hoàng tặng lại cho cậu. Chim vốn dĩ khỏe mạnh, nhưng từ lúc phụ hoàng đổ bệnh, chim sẻ cũng ủ rũ không khác nào Dương Hoán.

“Đã cho chim sẻ ăn chưa?” Hoán hỏi.

Trường Sinh cúi người, lễ phép thưa.

“Bẩm thái tử, một ngày năm bữa vẫn cho ăn đều. Nhưng có vẻ vật hiểu ý người, dạo gần đây chim sẻ cũng ăn rất ít.”

Hoán bốc một nắm thóc, đi về phía lồng rồi mở cửa đưa tới trước mặt chim sẻ. Nó thấy người cho ăn không phải Trường Sinh, hơi nghiêng đầu qua một bên nhìn rồi lập tức kêu lên mấy tiếng, mổ vào tay Hoán khiến cậu đau mà rụt tay về, thóc đổ vương vãi ra sàn.

Trường Sinh lo lắng định xem tay Hoán nhưng cậu từ chối. Chỉ là một con chim nhỏ, mổ một cái thì có đau đớn gì đâu, làm sao có thể so được với tình trạng của phụ hoàng. Hoán nhìn chim, thở dài.

“Mày cũng như tao, thích quen không thích lạ phải không? Giờ đây, tao chỉ mong phụ hoàng có thể khỏe mạnh bình an như trước thôi!”

Trường Sinh không dám nhìn vào thái tử đành quay mặt sang một bên. Từ trong đáy mắt vị thái giám chưa tới đôi mươi, long lanh giọt lệ.

*

* *

Từ lúc Lý Càn Đức đổ bệnh, Lưu Khánh Đàm được phân phó xử lí chính sự tại điện Hội Tiên. Sau mỗi buổi thiết triều, ông sẽ đến điện Vĩnh Quang, cẩn thận bẩm báo lại cho vua nghe. Hôm nay cũng không ngoại lệ, sau khi kết thúc, vừa định bụng quay về thì vua khẽ nói.

“Thái úy, dạo gần đây trẫm thấy thân thể không còn được như trước.”

“Bẩm bệ hạ, người là thiên tử, thọ trăm tuổi vẫn còn chưa đủ. Chẳng qua dạo này thời tiết thất thường nên dễ cảm vặt, chỉ cần nghỉ ngơi ít hôm sẽ không sao.”

“Cơ thể của trẫm trẫm là người rõ nhất. Biết bao đời nay, bá quan văn võ luôn tung hô hoàng thượng vạn tuế nhưng đã có ai sống được đến một trăm. Huống hồ trẫm cũng chỉ xác thịt bình thường, chẳng qua được trăm dân tin tưởng nên gánh trên vai trọng trách xã tắc. Nhưng mấy ai thoát được quy luật sinh tử, trẫm không vì điều đó mà lấy làm buồn phiền.”

Lưu Khánh Đàm im lặng lắng nghe vua nói, dù ngoài miệng ông trấn an vua, nhưng bên trong cũng lo ngại sắp có điều chẳng lành.

“Năm xưa Việt quốc công Lý Thường Kiệt hết lòng phò tá tiên đế. Đến lúc tiên đế băng hà người lại hết lòng cùng mẫu hậu phò trợ trẫm. Khanh là người của quốc công, trẫm biết khanh cũng một lòng. Mẫu hậu sau này tin dùng hai người là khanh và Lễ bộ thị lang Lê Bá Ngọc. Mặc dù biết các khanh đều dốc sức vì triều đình, nhưng xét lại, trẫm có phần tin tưởng khanh hơn.”

“Bẩm bệ hạ, hạ thần trước nay trung thành, chưa bao giờ có ý nghĩ hai lòng hay ý đồ bất chính.”

“Trẫm biết điều đó nên lần này, trẫm gọi khanh là có việc cần phân phó.”

“Chỉ cần là mệnh lệnh của bệ hạ, hạ thần có chết cũng không quản ngại.”

“Nếu trẫm có mệnh hệ gì, thái tử sẽ lên ngôi. Mặc dù năm nay đã mười hai nhưng trẫm thấy thái tử vẫn còn khá non nớt. Đến lúc ấy, nếu không có đại thần chống đỡ, e là sẽ có đại biến. Năm xưa khi còn nuôi nấng hoàng tử Dương Côn, trẫm rất kỳ vọng vào đứa trẻ này, tiếc là số trẻ yểu mệnh. Sùng Hiền hầu là em ruột của trẫm, con ruột của thái hậu nên trẫm tin Lê Bá Ngọc sẽ hỗ trợ thái tử. Nhưng thế cuộc nhìn gần thế này nhìn xa chưa biết ra sao. Hiện tại, vận mệnh của thái tử, trẫm trông cậy vào khanh và Mâu Du Đô. Biết là sẽ khó cho hai khanh, nhưng hãy cố gắng giúp đỡ thái tử.”

Lưu Khánh Đàm ghi nhớ mọi điều Lý Càn Đức nói, không bỏ sót thứ gì. Khi Khánh Đàm rời khỏi điện Vĩnh Quang thì mặt trời đã lên cao, bóng đổ dưới chân ông. Trọng trách vô hình đè nặng lên vai, Lưu Khánh Đàm không ngại, chỉ là không biết bản thân ông có thể gánh vác được tới khi nào.

Tháng Chạp, sao xấu Thiên Cẩu sa xuống, âm thanh phát ra to như sấm. Trời chiều đỏ tựa máu, nhuộm cả Hoàng thành.

Lý Càn Đức tự biết dương thọ của bản thân sắp cạn, cho gọi Thái úy Lưu Khánh Đàm, Thái sư Trần Độ, Lễ bộ thị lang Lê Bá Ngọc, Trung thừa Mâu Du Đô vào nhận chiếu thư.

"Trẫm nghe phàm các loài sinh vật không loài nào không chết. Chết là số lớn của trời đất, lẽ đương nhiên của mọi vật. Thế mà người đời không ai là không thích sống mà ghét chết. Chôn cất hậu làm mất cơ nghiệp, để tang lâu làm tổn tính mệnh, trẫm không cho là phải. Ta đã ít đức, không lấy gì làm cho trăm họ được yên, đến khi chết đi lại khiến cho thứ dân mặc áo xô gai, sớm tối khóc lóc, giảm ăn uống, bỏ cúng tế, làm cho lỗi ta thêm nặng, thiên hạ sẽ bảo ta là người thế nào! Trẫm xót phận tuổi thơ phải nối ngôi báu, ở trên các vương hầu, lúc nào cũng nghiêm kính sợ hãi. Đã năm mươi sáu năm nay, nhờ anh linh của tổ tông, được hoàng thiên phù hộ, bốn biển yên lành, biên thùy ít biến, chết mà được xếp sau các bậc tiên quân là may rồi, còn phải thương khóc làm gì? Trẫm từ khi đi xem gặt lúa đến giờ, bỗng bị ốm, bệnh kéo dài, sợ không kịp nói đến việc nối ngôi. Mà thái tử Dương Hoán tuổi đã tròn một kỷ (mười hai tuổi), có nhiều đức độ, thông minh thành thật, trung nghiêm kính cẩn, có thể theo phép cũ của trẫm mà lên ngôi hoàng đế. Nay kẻ ấu thơ chịu mệnh trời mà nối mình truyền nghiệp của ta, làm cho rộng lớn thêm công nghiệp đời trước. Nhưng cũng phải nhờ quan dân các ngươi một lòng giúp đỡ mới được. Này Bá Ngọc, ngươi thật có khí lượng của người già cả, nên sửa sang giáo mác, để phòng việc không ngờ, chớ làm sai mệnh, trẫm dù nhắm mắt cũng không di hận. Việc tang thì chỉ ba ngày bỏ áo trở, nên thôi thương khóc; việc chôn thì nên theo Hán Văn Đế, cốt phải kiệm ước, không xây lăng mộ riêng, nên để ta hầu bên cạnh tiên đế. Than ôi! Mặt trời đã xế, tấc bóng khó dừng; từ giã cõi đời, nghìn thu vĩnh quyết. Các ngươi nên thật lòng kính nghe lời trẫm, bảo rõ cho các vương công, tuyên bố ra ngoài".

Ngày Đinh Mão (15/01/1128), Lý Càn Đức băng ở điện Vĩnh Quang.

Bảy ngày quốc tang trời mưa không ngớt. Hoán quỳ trước linh cữu phụ hoàng, khóc đến mức hai mắt đỏ ngầu, sưng húp.

Bốn cửa cấm thành đóng kín không cho người ngoài xâm nhập. Binh lính được tăng cường thêm gấp ba lần để canh gác điện Thiên An. Trước linh cữu của tiên hoàng, Lý Dương Hoán lên ngôi vua, bắt đầu triều thứ năm nhà Lý, đổi niên hiệu thành Thiên Thuận. Tại sân Rồng, Hoán bước ra tuyên bố trước mặt quần thần.

"Không may tiên đế lìa bỏ bầy tôi, ngôi trời không thể bỏ không lâu ngày. Ta còn ít tuổi, cố gượng nối ngôi, các khanh nên bền mãi một lòng, giúp đỡ nhà vua, không những để không phụ lòng tiên đế chú ý trông mong mà còn để con cháu các khanh đời đời hưởng lộc vị".

Sau đó Thần Anh được tôn làm thái hậu. Vào một buổi sáng Hoán đến thỉnh an, bà nhìn sắc diện không tốt của vua, cầm tay cậu dặn dò.

“Mẹ biết việc tiên đế ra đi khiến con rất đau lòng, nhưng người mất thì đã mất, người còn sống phải cố gắng sống tiếp. Con giờ đã là vua, trên vai con còn trọng trách với giang sơn xã tắc mà tổ tiên đã đổ bao xương máu để giữ lấy. Việc con cần làm lúc này là trở thành một vị vua tốt, để xứng đáng với kì vọng mà tiên đế đã trao cho con.”

Hoán không phản bác lời dặn của thái hậu. Người nói đúng, dù sao tiên đế cũng đã đặt giang sơn vào tay cậu, việc của cậu là bảo vệ giang sơn này, tiếp tục công việc còn dang dở của ngài.

Khi ở vị trí của một vị vua, mọi thứ của Hoán đều bắt đầu thay đổi. Đầu tiên, cậu không còn đến Quốc Tử giám học chữ nữa. Về kiến thức có thái sư, thái phó, tham tri chính sự và gián nghị đại phu góp ý. Hoán cũng phải rèn luyện cơ thể, phải học võ, cưỡi ngựa, bắn cung… những thứ này vốn trước đây Hoán luôn né tránh, giờ cậu bắt buộc phải thêm vào lịch trình của mình. Người đảm trách việc này là Lý Công Bình và Mâu Du Đô.

Có vua ắt có hậu. Hoán đã yên ổn lên ngôi thì cũng đến lúc thiết lập hậu cung. Đến cả việc này tiên đế cũng đã chuẩn bị tất cả cho Hoán.

Tiêu chí lập hậu cung từ đời cha ông đã chỉ rõ, một là chọn con gái của công thần – những người cùng vua vào sinh ra tử, định để giang sơn; hai là con gái đại thần có thế lực hùng mạnh trong triều. Triều Lý từ đời tiên đế vốn đã đi vào ổn định, không có thêm công thần. Đến đời này của Dương Hoán, âu chỉ là lựa chọn con gái của đại thần.

Giữa điện Thiên An, quan tham tri là Từ Văn Thông cẩn trọng cầm chiếu chỉ, dõng dạc đọc.

“Truyền chỉ:

Con gái Phụ thiên Đại vương Lê Xương – cháu đời thứ hai của Phụng Càn vương Lý Nhật Trung – em trai Thánh Tông hoàng đế: Lê Diệu An nhan sắc diễm lệ, hiểu biết lễ nghĩa – phong làm Minh Bảo phu nhân.

Con gái Trung thư Lý Nguyên – cháu đời thứ hai của Thái phó Lý Huyền Sư – công thần triều Thái Tông: Lý Gia Viên hiền lương thục đức, tính tình đoan chính – phong làm Thứ phi Chương Anh.

Con gái Tướng quân Lý Sơn – cháu đời thứ hai của Đô thống đại nguyên soái Lý Nhân Nghĩa: Lý Tâm Giao thông minh khả ái – phong làm Lệ Thiên hoàng hậu.”

Dưới triều tiếng bàn tán xì xào, có vài vị quan còn nghi ngại chiếu chỉ không phải do tiên đế lập ra nên muốn đích thân kiểm tra. Nhưng tất cả đều không thể nghi ngờ vì có sự bảo chứng của thái sư Trần Độ, cũng như quan Tham tri Từ Văn Thông. Cả hai trước nay cũng chẳng có quan hệ thân mật gì, và việc danh sách hậu cung được sắc phong cũng chẳng có chút can hệ gì với cả hai người. Thần Anh không hay biết gì về chiếu chỉ này của tiên đế. Bà trước nay vẫn đinh ninh được hậu cung của Hoán sau này chắc chắn phải có cháu gọi bà là cô ruột – Lý Gia Viên. Nhưng về ngôi vị hoàng hậu kia, có nghĩ thế nào bà cũng không nghĩ ra được tiên đế lại sắp đặt cho chi nhà Lý Dương vốn từ lâu không còn ở kinh thành.

Người cay cú nhất chắc có lẽ là Lê Bá Ngọc. Thật sự không ngờ tiên đế lại cho một cú bất ngờ cuối cùng, tính toán cho họ Dương trở lại triều đình. Suốt bao nhiêu năm qua ông vì Linh Nhân thái hậu mà không tiếc thân mình, xử lí hết gốc rễ họ Dương để rồi con trai của bà lại nặng lòng quyến luyến. Năm xưa là hoàng hậu Lan Anh, rồi lại đến hoàng tử Dương Côn. Giờ đây họ Dương không còn gốc, tiên đế lại tính xa đến dòng họ Lý Dương. Ngay cả việc bệ hạ hiện tại mang tên Lý Dương Hoán ông cũng biết Linh Nhân thái hậu vốn dĩ không hài lòng. Nhưng đó chỉ đơn giản là tên, còn đây là đem người Lý Dương về lại triều, nếu sau này Lý Tâm Giao sinh ra thái tử, khác nào máu họ Dương lại thêm một lần chảy trong hoàng tộc Lý triều?!

Lý Gia Viên thì Hoán không còn lạ lẫm. Hoán hay gặp Viên vào cung thỉnh an Thần Anh và cũng có đôi lần chuyện trò. Gia Viên rất xinh xắn, gương mặt của nàng giống Thần Anh đến tám phần, nét hiền dịu và yên tĩnh như mặt nước hồ thu. Gia Viên hay mặc xiêm y màu trắng, tóc búi cao như cánh quạt và cài trâm bạc khắc hoa cúc. Ở nàng toát lên sự nho nhã và một chút yếu đuối nên mặc dù Hoán nhỏ hơn một tuổi, nhưng đứng trước Viên, cậu vẫn có được cảm giác có thể che chở cho nàng.

Lúc trên xe ngựa từ Hải Đông về Thăng Long, Hoán đã biết tiên đế sẽ tính toán vì cậu mà kéo hết thế lực hỗ trợ về lại triều đình. Hoán chỉ không ngờ tiên đế lại chọn cách bắt Lý Sơn phải thả tay, để con gái mình nhập cung, ban cho tước vị mẫu nghi thiên hạ. Hoán đã rất khó nhọc để chấp nhận được việc chỉ sau một đêm, thằng nhóc mười hai tuổi như cậu lại bước lên ngôi đế vương quyền lực. Cậu nhớ đến vẻ mặt trong trẻo của Tâm Giao, liệu khi nghe tin này từ hoàng cung truyền đến, nàng sẽ ra sao khi hay tin bản thân mình trở thành phượng hoàng.

Còn lại là Lê Diệu An, trước nay Hoán chưa từng nghe nhắc đến cho đến khi cái tên ấy được Từ Văn Thông xướng lên.
 
Top