Lượt xem của khách bị giới hạn

[Ngôn tình] [Truyện Hoàn] Cô phương bất tự thưởng - Phong Lộng

Trạng thái
Không mở trả lời sau này.
[Ngôn tình] [Truyện Hoàn] Cô phương bất tự thưởng - Phong Lộng

Hoa Tử

Sưu tầm
Tham gia
24/9/19
Bài viết
10,570
Điểm cảm xúc
1,484
Điểm
113
Chương 56:
Sở Bắc Tiệp dẫn theo tướng sĩ ngày đêm lên đường, ẩn giấu tung tích, một mặt liên tục cử đi những mật thám nhanh nhạy nhất để nắm bắt tin tức các nơi.

Cuối cùng đội quân cũng tìm được một nơi ẩn nấp, mọi người tập trung trong trướng soái rách nát, tiếp tục bàn bạc.

“Kế sách của Bạch cô nương quả nhiên rất có tác dụng”, Nhược Hàn vui vẻ bẩm báo, “Ngày Trấn Bắc vương xuất hiện nơi rừng rậm, Nhược Hàn đã làm theo kế sách của Bạch cô nương, sắp xếp mấy người có hình dáng tương tự Trấn Bắc vương xuất hiện ở các nơi tấn công quân Vân Thường, dặn dò họ tự xưng là Trấn Bắc vương. Hiện giờ lòng quân khắp Vân Thường đều hoảng hốt”.

La Thượng hưng phấn gật đầu: “Kế này đúng là một mũi tên trúng hai đích. Binh lính Vân Thường sợ hãi, đồn đại khắp nơi. Nhưng một người không thể cùng xuất hiện ở mấy nơi một lúc, nên đám tướng lĩnh Vân Thường đều cho rằng đây chỉ là kế lừa địch, dù Hà Hiệp có nhận được thông báo, cũng sẽ cho rằng đó chỉ là lời đồn đại. Chỉ cần họ không lập tức cử đại quân bao vây, chúng ta sẽ có cơ hội nghỉ ngơi lấy sức”.

“Tên tặc tử Hà Hiệp đó chắc chắn trúng kế rồi!”, Sâm Vinh cười sảng khoái, “Mật thám về báo, sau khi nhận được cấp báo từ khắp nơi truyền về, Hà Hiệp không hề tập trung đại quân kéo đến Đông Lâm mà dẫn quân xuất phát tới Quy Lạc. Có thể thấy, hắn không tin Trấn Bắc vương đang ở Đông Lâm. Ha ha, nói cho cùng thì đúng là mưu kế của Bạch cô nương đã phát huy tác dụng, thực là kế sách cao minh”.

Ngồi bên cạch Sở Bắc Tiệp, nghe mọi người khen ngợi, vẻ mặt Sính Đình không chút vui mừng mà khẽ thở dài, cười như mếu: “Sính Đình thực xấu hổ, Hà Hiệp đích thân đi Quy Lạc, càng chứng tỏ Phò mã Vân Thường đã nhìn thấu kế dụ địch của Sính Đình”.

“Sao?” Nụ cười của tất cả mọi người đều ngưng lại.

Dưới bàn, Sở Bắc Tiệp khẽ nắm bàn tay Sính Đình, rồi quay qua nhìn nàng, ung dung cười nói: “Ngày Hà Hiệp đến Quy Lạc cũng là ngày đội quân Quy Lạc bị diệt vong. Ý định bổ sung binh lực từ Quy Lạc của chúng ta cũng sẽ trở thành hoang tưởng”.

Quân lực Vân Thường ngày càng mở rộng, đại quân Bắc Mạc và Đông Lâm đã tan rã, nếu đại quân Quy Lạc cũng bị đánh tan, thì lấy đâu đủ binh lực để đối kháng với Hà Hiệp?

Càng không thể lấy một vạn năm ngàn binh mã để đối chọi với mấy chục vạn đại quân Vân Thường.

Các tướng quân vừa vui mừng vì tưởng đã lừa được Hà Hiệp giờ mới hiểu rõ sự tình, sắc mặt bỗng chốc trở nên u ám.

Sau khi thu phục được đại quân Quy lạc, Hà hiệp sẽ không phải lo đến hậu họa. Với thực lực Vân Thường hiện nay, Hà Hiệp hoàn toàn có thể thong thả điều quân đến bao vây họ, từ từ chơi trò mèo vờn chuột.

Thấy các tướng lĩnh không còn lòng tin, Sở Bắc Tiệp liền mỉm cười trêu Sính Đình: “Bạch cô nương kế sách cao minh, liệu có phải đã có cách đối phó với cục diện nguy nan này?”.

Sính Đình đáp lại Sở Bắc Tiệp bằng ánh mắt dịu dàng, thong thả nói: “Vương gia chắc chắn thế kia, nhất định đã có kế hay, hà tất phải hỏi Sính Đình?”.

Sở Bắc Tiệp cười sảng khoái: “Nàng đang lục vấn bản vương?”. Bàn tay nắm chặt bàn tay Sính Đình dưới bàn càng thêm chặt.

Bệnh tình của Đông Lâm vương hậu đã đỡ, nên cũng ngồi tham dự. Lúc này Vương hậu mới lên tiếng: “Đã chứng kiến Trấn Bắc vương lớn lên từ nhỏ, ai gia hoàn toàn tin tưởng vào năng lực cầm quân của Trấn Bắc vương, dù cục diện có tồi tệ đến mức nào, Trấn Bắc vương cũng có thể ung dung ứng phó. Ai gia muốn thưởng thức bản lĩnh của Bạch cô nương”.

Vốn là vương tẩu của Sở Bắc Tiệp, nên một lời nói ra của Vương hậu rất có sức nặng. Biết Vương hậu có ý thử mình, ánh mắt lanh lợi chuyển động, Sính Đình chậm rãi nhìn quanh một vòng trướng soái, khẽ cất lời: “Địch đông ta ít, đây là thế mạnh lớn nhất của Hà Hiệp. Hiện giờ, chúng ta phải biến thế mạnh ấy trở thành điểm yếu”.

Mạc Nhiên cau mày: “Biến thế mạnh thành điểm yếu, điều đó đương nhiên là tốt nhất, nhưng làm thế nào mới thực hiện được?”.

Sâm Vinh lúc nào cũng thẳng thắn: “Rõ ràng là không thể”.

“Sao lại không thể?”, Sính Đình thong thả hỏi lại, giọng điệu nhẹ nhàng nhưng tràn đầy tự tin, từng từ từng câu như hạt trân châu rơi trên đĩa bạc. Nàng phân tích rõ ràng, “Quân Vân Thường bề ngoài thì đang lớn mạnh từng ngày, vì thu nạp được một lượng lớn hàng binh và tù binh. Tướng quân Sâm Vinh, xin hỏi đội quân Vân Thường khổng lồ này có bao nhiêu binh sĩ do một tay Hà Hiệp thao luyện nên?”.

La Thượng tranh phần đáp: “Quân chủ lực của Vân Thường hiện nay do hai bộ phận cấu thành, một bộ phận là quân chính quy của Vân Thường, bộ phận kia là hàng binh của các quốc gia còn lại. Hàng binh gia nhập nửa chừng, độ trung thành không cao, còn quân chính quy của Vân Thường cũng không phải binh mã do Hà Hiệp gây dựng thành. Nếu trong quân Vân Thường xảy ra biến động, Hà Hiệp rất khó khống chế cục diện”.

“Đây cũng là nguyên nhân Hà Hiệp phải áp dụng những chính sách bạo ngược, chấp nhận để dân chúng oán thán mà vẫn không từ thủ đoạn để chinh phục tứ quốc trong thời gian ngắn nhất. Hà Hiệp buộc phải hoàn thành đại nghiệp trong thời gian mình có thể khống chế cục diện, bởi hắn sẽ không chống đỡ nổi một lần bạo động với quy mô lớn trong quân”, Sở Bắc Tiệp hạ giọng nói tiếp.

Mang danh phò mã thống lĩnh đại quân, trên có vương tộc Vân Thường tuy đã diệt vong nhưng vẫn còn trên danh nghĩa, dưới có đại thần văn võ khẩu phục nhưng tâm bất phục, bên ngoài có những tướng sĩ Đông Lâm và Bắc Mạc luôn ôm hận quy hàng.

Đại quân Vân Thường hiện có vẻ uy phong là thế, nhưng kỳ thực lại không có một nền móng vững chắc.

Hà Hiệp hiểu rõ điều này.

“Hà Hiệp vốn chẳng phải là người xấu, chỉ là...” Khuôn mặt thoáng nỗi đau mơ hồ, nhưng Sính Đình nhanh chóng tiếp tục, “Việc chúng ta cần làm hiện giờ là gây ra rối loạn lớn trong nội bộ đại quân Vân Thường”.

Xác định được đối sách, các tướng lĩnh vừa cảm thấy con đường phía trước mênh mông giờ đã kịp lấy lại tinh thần.

“Diệu kế!”, Sâm Vinh cười vang, giơ nắm đấm nói: “So với việc vất vả mở rộng đội quân của chúng ta, chi bằng nghĩ cách phá hoại đội quân địch”.

Mạc Nhiên vẫn chưa chắc chắn, bình tĩnh phân tích: “Biết thì dễ làm mới khó. Hà Hiệp cũng là tướng tài, tất phải có phương pháp luyện binh, đại quân Vân Thường không thể nói loạn là loạn”.

“Mạc Nhiên nói rất có lý, muốn đại quân Vân Thường nội loạn, tất phải nhúng tay vào nhiều phương diện. Thực ra đã có người giúp chúng ta làm việc đầu tiên”, Sở Bắc Tiệp nhìn Mạc Nhiên cổ vũ, “Chắc Mạc Nhiên đã đoán ra bản vương đang nói đến ai”.

Suy nghĩ giây lát, hai mắt Mạc Nhiên sáng lên, ngẩng đầu đáp: “Đúng rồi, là Bắc Mạc thượng tướng quân Tắc Doãn. Tắc Doãn đơn thương độc mã khiêu chiến với Hà Hiệp trước hàng ngàn vạn tướng sĩ Vân Thường, tuy thất bại, nhưng đã đả thương được Hà Hiệp. Chuyện này đã lặng lẽ truyền đi khắp thiên hạ. Hà Hiệp cũng có thể bị thương, nó đã tạo ra một bóng đen trong lòng binh sĩ Vân Thường vốn vô cùng kính phục, ngưỡng mộ, và tôn kính coi Hà Hiệp như thần tướng”.

Rõ ràng Mạc Nhiên đã trả lời đúng, Sở Bắc Tiệp nở nụ cười khen ngợi thuộc hạ bên mình nhiều năm, gật đầu tán thưởng: “Tuy Tắc Doãn là đối thủ của bản vương, nhưng lòng nhiệt huyết, sự cương nghị này thực khiến bản vương khâm phục”.

“Thật là một trang nam tử”, La Thượng trầm giọng.

Nhược Hàn và Sâm Vinh là tướng lĩnh đi theo Tắc Doãn nhiều năm, nay nghe Sở Bắc Tiệp nhắc đến vị thượng tướng quân Bắc Mạc này, họ bỗng thấy sống mũi cay cay.

“Ai gia nghĩ việc thứ hai cũng có người làm rồi”. Vương hậu tham gia thảo luận, “Đó là cho người đi khắp nơi rao tin Trấn Bắc vương đã xuống núi. Trấn Bắc vương và tiểu Kính An vương là hai danh tướng đương thời, sau khi Trấn Bắc vương mất tích, người trong thiên hạ điều coi tiểu Kính An vương là vị tướng bất khả chiến bại. Vì thế, sự xuất hiện của Trấn Bắc vương đã làm dao động hình tượng bất bại mà Hà Hiệp đã phải khó khăn lắm mới gây dựng được trong quân Vân Thường”.

Sở Bắc Tiệp nở nụ cười chua chát, quay sang nói với Sính Đình: “Bản vương thật có chút hối hận. Khi trước giao chiến với Hà Hiệp ở biên giới Quy Lạc, nếu bản vương không giả thua rút lui, mà trực tiếp đánh một trận, trên sử sách sẽ ghi lại một đoạn lịch sử về việc Trấn Bắc vương đánh bại tiểu Kính An vương, như vậy sự xuất hiện của bản vương sẽ càng khiến tướng lĩnh đi theo Hà Hiệp thêm lo lắng”.

Sính Đình tươi cười, hạ giọng: “Hình như Vương gia quên rằng lúc đó Sính Đình đang là quân sư của đại quân Quy Lạc. Nếu thật sự giao chiến, Sính Đình và thiếu gia liên thủ, Vương gia chưa chắc đã giành phần hơn”.

Thấy đôi mắt sắc sảo của Sính Đình liếc qua, toàn thân Sở Bắc Tiệp như đang sảng khoái hát ca, bèn bật cười: “Là bản vương tự cao tự đại, mong quân sư Sính Đình thứ lỗi”.

Ánh mắt chạm nhau, họ đều cảm thấy tim loạn nhịp, mặt đỏ bừng, dường như những lời ngọt ngào đã trào lên tận cổ họng, hận là không thể nói hết ra ngoài. Bao nhiêu người ở trước mặt, lại đang vào thời điểm sinh tử quan trọng nhất, họ sao có thể không biết nặng nhẹ? Sính Đình lặng lẽ thu lại ánh nhìn, định rút tay ra, nhưng vừa có ý định, bàn tay Sở Bắc Tiệp lại càng nắm chặt.

“Việc thứ ba, theo ta chính là nhằm thẳng vào nội bộ Vân Thường. Hà Hiệp chỉ là phò mã, danh phận này không cao không thấp nhưng vô cùng khó xử. Vì thế Hà Hiệp đang tăng cường kế hoạch thành lập tân quốc, muốn chính thức lên ngôi vương, lập danh hiệu mới.”

“Nếu Hà Hiệp thống nhất tứ quốc, thành lập tân quốc, không những Đông Lâm, Bắc Mạc, Quy Lạc không còn tồn tại, mà cả Vân Thường cũng sẽ bị xóa quốc hiệu, vương tộc Vân Thường chính thức biến mất.”

Nhược Hàn lạnh lùng: “Muốn xóa sổ một quốc gia đã tồn tại mấy trăm năm không phải việc dễ dàng. Các đại thần và tướng lĩnh Vân Thường chắc chắn sẽ có người bất mãn. Cũng giống như đối phó với Thừa tướng Vân Thường, Hà Hiệp phải nghĩ cách hãm hại những người Vân Thường không chịu công nhận hắn”.

“Nghe nói cái chết của Công chúa Diệu Thiên cũng rất kỳ lạ. Theo ta thấy, Hà Hiệp không những đối phó với các tướng lĩnh đại thần không công nhận mình, mà còn không tha cho thê tử.”

Sính Đình nghe chuyện, mặt càng u ám.

Sâm Vinh lại vô cùng hứng thú: “Bọn chúng tranh giành quyền lực, chúng ta càng có thể ngư ông đắc lợi. Chúng ta hãy nhân cơ hội này tung tin Hà Hiệp mưu hại Diệu Thiên công chúa, khiến lòng quân vốn luôn trung thành với vương tộc Vân Thường phải hoang mang”.

“Liệu có nên nghĩ cách bí mật liên hệ với những tướng lĩnh Vân Thường bị Hà Hiệp ám hại? Chưa biết chừng họ sẽ phản bội Hà Hiệp, đứng về phía chúng ta”, Mạc Nhiên nói.

“Kế này không thể tùy tiện. Nếu bị Hà Hiệp phát hiện, tương kế tựu kế, chúng ta sẽ gặp nguy hiểm”, Sính Đình đáp, “Nay hai bên không thể đọ sức một cách công bằng, Hà Hiệp sai một bước còn có thể dựa vào thế lực hùng mạnh của mình để cứu vãn tình thế. Nhưng, chỉ cần sai một ly, chúng ta sẽ thua hoàn toàn”.

Sở Bắc Tiệp tán đồng với ý kiến của Sính Đình: “Ý bản vương là, chúng ta sẽ cử mật thám bí mật điều tra nội tình của Vân Thường, làm rõ những người nào có thể đứng về phía chúng ta, người nào bất mãn với Hà Hiệp, nhưng không phản bội lại đại quân Vân Thường. Chúng ta sẽ bí mật liên hệ với họ, xúi giục họ khởi nghĩa”.

Đông Lâm Vương hậu hiểu ra, nói tiếp: “Sau đó bí mật ám sát những kẻ sau, rồi đổ tội cho Hà Hiệp, kích động mâu thuẫn giữa Hà Hiệp với người Vân Thường”.

Sở Bắc Tiệp cười nói: “Vương hậu kiến giải cao minh”.

“Trấn Bắc vương nói rõ ràng đến thế, người không hiểu cũng phải hiểu.”

Sở Bắc Tiệp lại nói: “Tất cả những điều vừa nói chỉ là tạo thế, cũng giống như đổ đầy dầu lên một cánh rừng khô, nhưng muốn cháy vẫn cần một mồi lửa”.

Đây mới là vấn đề mấu chốt, lời này nói ra, tất cả mọi người đều nín thở chờ đợi.

Ai ngờ Sở Bắc Tiệp quay ra, cười nói với Sính Đình: “Chi bằng bản vương đánh cuộc với Bạch đại quân sư? Nếu Bạch đại quân sư nghĩ ra cách tạo mồi lửa, bản vương sẽ hôn lên bàn tay của Bạch đại quân sư mười lần, để biểu thị lòng cảm tạ”, Sở Bắc Tiệp ngứa ngáy trong lòng, buột miệng nói những lời tình tứ.

Hội nghị quân sự căng thẳng bỗng chốc được phủ đầy mật ngọt.

Tướng lĩnh nhìn nhau.

Mạc Nhiên, người tự cho rằng mình hiểu rõ tính tình Trấn Bắc vương, cũng phải toát mồ hôi.

Sính Đình tròn mắt kinh ngạc. Nàng xưa nay vốn trầm tĩnh lạnh nhạt, nay bỗng nhiên bị Sở Bắc Tiệp chiếu một quân trước mặt mọi người, khuôn mặt đỏ bừng, trong lúc liếc mắt qua đã nghĩ ra đối sách, liền mỉm cười: “Cách thì không phải là không có, có điều, phải thay đổi một chút điều kiện của Vương gia, nếu Sính Đình trả lời được, Vương gia phải hứa mười ngày không động vào tay Sính Đình”.

Không đợi Sở Bắc Tiệp từ chối, Sính Đình đã chậm rãi nói tiếp: “Muốn phá hoại đội quân địch, xưa nay vẫn có hai cách thực thi nhất. Một là giao chiến trực diện, đánh cho đối phương tan tác, để quân địch nghe đến tên Vương gia đã không đánh mà tan”.

“Chúng ta phải cố gắng thu hẹp khoảng cách chênh lệch binh lực với Hà Hiệp, mới có thể giao chiến trực diện. Cách này tạm thời không thể dùng”, Sở Bắc Tiệp xua tay, ý nhị: “Xin thỉnh giáo cách thứ hai”.

“Cách thứ hai là cắt đứt lương thảo của quân địch. Binh sĩ đói bụng, chắc chắn sẽ đại loạn.”

Mạc Nhiên đáp: “Đây là việc nói dễ làm khó. Hà Hiệp am hiểu binh pháp, biết rõ tầm quan trọng của lương thực. Muốn cắt đứt kho lương của mấy chục vạn quân, đâu phải chuyện dễ dàng”.

Đôi mắt Sính Đình khẽ chuyển động, nhìn về phía Sở Bắc Tiệp vẻ trêu chọc, dịu dàng hỏi: “Nếu Sính Đình nói không đúng, không biết Vương gia sẽ phạt gì?”.

Sở Bắc Tiệp cau mày lẩm bẩm: “Bạch đại quân sư tùy tiện thay đổi điều kiện khiến người ta đau lòng, bản vương không cuộc nữa, cứ để bản vương tự nghĩ cách”.

“Muộn rồi, điều kiện đã định”, Sính Đình mỉm cười, nhìn về phía các tướng lĩnh, “Muốn cắt đứt lương thảo của Hà Hiệp, chỉ có cách mạo hiểm cướp lấy vùng lương thực trọng điểm của Vân Thường”.

Nhược Hàn thất kinh: “Trọng điểm tồn trữ lương thảo phải ở trong đất Vân Thường. Quân ta vào được đến đó, nhỡ bị phát hiện...”.

“Không vào hang, sao bắt được hổ.” Sính Đình ung dung đáp, khóe miệng nở nụ cười tao nhã, “Chúng ta không những phải vào đất Vân Thường, mà còn phải bất ngờ, thần không biết quỷ chẳng hay chiếm lĩnh thành trì của đối phương. Nếu chỉ một tin tức nhỏ bị lộ ra ngoài, nếu đại quân Vân Thường bao vây, chúng ta nhất định sẽ chết không có đất chôn”.

“Việc này...” Sâm Vinh bỗng thấy lạnh sống lưng, “Việc này sao có thể?”. Tuy không sợ chết, nhưng Sâm Vinh cũng chẳng tán thành việc mạo hiểm tìm đến cái chết.

Đông Lâm vương hậu chậm rãi lên tiếng: “Ngay cả kỳ tích mà tất cả mọi người đều không thể tưởng tượng như Trấn Bắc vương bặt vô âm tín bao ngày bỗng từ trên trời rơi xuống còn có thể xảy ra, thì có việc gì là không thể? Bạch cô nương hãy nói tiếp đi, chắc Bạch cô nương đã xác định được thành trì Vân Thường mà chúng ta sẽ tấn công?”.

Mạc Nhiên nói: “Thành trì trọng yếu canh giữ lương thảo của đại quân Vân Thường là Tổ Tây. Nhưng đó là thành trì quan trọng nhất của Vân Thường, không biết có bao nhiêu quân sĩ canh giữ. Dù chúng ta liều chết chiếm lĩnh được, chắc chắn Hà Hiệp cũng sẽ phát hiện ra”.

“Ai nói sẽ chiếm lĩnh Tổ Tây?” Sính Đình lắc đầu, đôi mắt lấp lánh ánh sáng thông tuệ, “Thành trì tích trữ lương thực tất nhiên quan trọng, nhưng những thành trì nằm trên tuyến đường vận chuyển lương thực đưa tới Tổ Tây lẽ nào lại không quan trọng?”.

Lời này vừa nói ra, ánh mắt ai cũng sáng lên.

Sâm Vinh vỗ đùi đánh đét: “Đúng! Ha ha, rất có lý. Chúng ta tạm thời không chiếm được thành Tổ Tây có đội quân hùng mạnh canh giữ, nhưng có thể đối phó với phần lương thảo đang trên đường vận chuyển tới”.

Rõ ràng La Thượng cũng vô cùng hưng phấn, bèn đứng lên vái Sính Đình một vái, vội vã thỉnh giáo: “Bạch cô nương đừng thử thách mọi người nữa, hãy vui vẻ đưa ra đáp án luôn đi. Rốt cuộc chúng ta phải chiếm lĩnh tòa thành nào của Vân Thường? Cánh tay cầm kiếm của ta bắt đầu ngứa ngáy lắm rồi”.

Nhận một vái của La Thượng, Sính Đình bỗng thấy xấu hổ nên nói luôn: “Thả Nhu”.

“Thả Nhu?”

Sính Đình chậm rãi gật đầu, rồi nhìn vào ánh mắt tươi cười của Sở Bắc Tiệp, khẽ hỏi: “Sính Đình đã thẳng thắn trả lời, Vương gia hãy phân thắng bại”.

Sở Bắc Tiệp cố làm ra vẻ không sao, nén cơn đau mà thở dài một tiếng: “Nàng thắng rồi”.

Các tướng lĩnh lắng đang lắng tai chờ đợi câu trả lời của Sở Bắc Tiệp, nghe thấy lời này thì cười ầm lên. Không khí nặng nề và căng thẳng trong trướng soái đã hoàn toàn biến mất, ngay cả Đông Lâm vương hậu cũng phải giơ tay áo che miệng cười.

“Được rồi, chúng ta quay lại chuyện chính. Đầu tiên, làm thế nào để thâm nhập vào Vân Thường, tiếp cận thành Thả Nhu mà không để Hà Hiệp phát hiện ra?” Sau tràng cười vui vẻ vừa rồi, Sở Bắc Tiệp đã ngồi thẳng dậy, ánh mắt khôi phục vẻ sắc bén, lấy trong người ra một mảnh vải lụa, trải trên bàn, “Mọi người qua đây xem”.

Mọi người lần lượt đứng lên, vây quanh bàn, ngắm nghía tấm bản đồ được vẽ rất tỉ mỉ, rõ ràng.

“Đây là tấm bản đồ bản vương vừa vẽ tối qua dựa trên tin tức báo về của các mật thám. Nơi này chính là mục tiêu tấn công của chúng ta, thành Thả Nhu.”

Vân Thường.

Trong thành Thả Nhu, ánh nắng rạng rỡ. Nhưng, tâm trạng của Thủ thành đại nhân lại vô cùng tồi tệ.

“Quay lại rồi sao?”, Phiên Lộc cầm cây nỏ, uể oải hỏi.

“Vâng.”

“Chẳng phải hôm qua mới ra khỏi thành ư?”

“Bẩm Thủ thành đại nhân, bỉ chức làm theo lời dặn dò của đại nhân, hôm qua đã cung kính mời hai vị đại nhân Bồ Quang và Bồ Thịnh ra khỏi thành, trước khi đi còn chiêu đãi một bữa rượu thịt ê hề. Chỉ là không biết tại sao, ngày hôm nay, hai vị đại nhân đó đã đổi sang y phục dân thường, lại vào thành, đang vui chơi trong tửu lầu kỹ viện, còn nói họ phải thị sát dân tình, vi hành điều tra thành tích của Thủ thành đại nhân, chưa điều tra rõ ràng, sẽ không rời khỏi đây.”

“Dân ý cái con khỉ!” Phiên Lộc đã nhẫn nhịn bao ngày nay, cuối cùng không thể kiềm chế cơn nóng giận, vứt cây nỏ xuống bàn, khiến mấy chén trà va vào nhau, nước sánh ra ngoài, “Hai tên tiểu nhân đó, chỉ chuyên hãm hại các đại thần Vân Thường bất mãn với Hà Hiệp mà được sủng ái. Giờ chúng đã tìm đến bắt chẹt cả bản thủ thành rồi”.

“Đại nhân, Thủ thành đại nhân...” Sư gia Đỗ Kinh đứng đằng sau vội vuốt chòm râu dê mà kề sát tai Phiên Lộc nhắc nhở, “Đại nhân cẩn thận ngôn từ, Vân Thường ta giờ người người đều phải tự lo cho bản thân, Phò mã đang sai người đi khắp nơi điều tra về những người không thuận theo. Lời vừa rồi của đại nhân, nếu để hai vị đại nhân Bồ Quang, Bồ Thịnh nghe thấy rồi tiết lộ với Phò mã hoặc người thân cận với Phò mã...”.

Phiên Lộc lạnh lùng hừ một tiếng.

Hà Hiệp ra tay tàn độc với những phần tử không theo mình, nhanh như sấm rung chớp giật. Phiên Lộc sao không hiểu điều này?

Hắn là quan thủ thành do Quý Thường Thanh đề bạt, cũng coi như người của Quý Thường Thanh, Hà Hiệp hận Quý gia đến thấu xương, tất nhiên cũng chẳng thể có cảm tình với Phiên Lộc.

Giờ Hà Hiệp đang bận đối phó với Quy Lạc ở ngoài, bên trong thì bận đối phó với những tướng lĩnh đại thần nắm quyền ở Vân Thường, tạm thời không còn sức tính toán với một quan thủ thành của cái thành Thả Nhu bé xíu này.

Nhưng tương lai sẽ thế nào?

Đến khi Hà Hiệp gây dựng tân quốc, chính thức đăng cơ, việc lớn đã xử lý xong, chẳng phải sẽ dư thời gian để xử lý những tiểu binh tiểu tướng thế này?

Nỗi lo cho tương lai khoan hãy tính đến, song hiện tại, bọn tiểu nhân dựa hơi Hà Hiệp đã tìm đến tận cửa rồi.

“Họ quay lại thành Thả Nhu ngoài việc ăn chơi hưởng lạc, còn làm gì nữa không?” Phiên Lộc cố kiềm chế cơn tức giận, nhếch mép cười vẻ lơ là.

Thuộc hạ thấy quan trên đã bớt giận, mới dám tiếp tục bẩm báo: “Hai vị đại nhân ăn chơi hưởng lạc đều không trả tiền, nói với ông chủ tửu lầu đến phủ thủ thành thanh toán”.

“Trả cho bọn họ.”

“Cả... lão Bảo của Xuân Diễm lầu cũng tìm đến...”

“Cũng trả luôn cho ông ta.”

“Và cả...”

“Không cần nói nữa, đều trả cho họ. Hầu hạ hai vị đại nhân ấy cho chu đáo, mặc họ muốn làm gì thì làm.”

Dặn dò thuộc hạ ứng phó với Bồ Quang, Bồ Thịnh xong, Phiên Lộc phải xử lý những sự việc lớn nhỏ của thành Thả Nhu. Trong lòng bất bình, nên sau khi vung bút phê duyệt mấy công văn, hắn không thể bình tĩnh hơn, lại cho triệu Sư gia Đỗ Kinh đến, nói: “Những thứ này quá lộn xộn, ngươi chọn ra việc quan trọng, viết ý chính, lát ta xem lại”. Dứt lời, hắn đứng dậy ra khỏi thư phòng.

Ra đến sân, Phiên Lộc rẽ phải theo thói quen, tiến thêm mấy bước đến trước cửa căn phòng quen thuộc. Đúng lúc Túy Cúc ôm xấp y phục đi ra, suýt chút nữa va vào người Phiên Lộc. Túy Cúc giật mình, trợn mắt, nói: “Ngươi là thần giữ cửa à? Cứ như cục đá chắn đường ấy”.

Từ khi Vân Thường xâm lược Đông Lâm, Túy Cúc không có tin tức gì của sư phụ và những người nàng quen biết, Phiên Lộc biết nàng có trốn cũng chẳng thể đi đâu, nên không khóa cửa, để nàng tự do đi lại trong phủ.

“Ngươi lại mang y phục của ta đi vá đấy à?” Ánh mắt Phiên Lộc nhìn về xấp y phục trên tay Túy Cúc.

Nghe Phiên Lộc hỏi thế, Túy Cúc đỏ bừng mặt, đặt y phục vào lòng Phiên Lộc, cắn môi đáp: “Ai thừa thời gian đi vá y phục cho nhà ngươi, ta đâu phải nô tỳ ngươi mua về”.

“Thế ngươi cầm y phục của ta làm gì?”

“Ta...” Túy Cúc nghe Phiên Lộc lạnh lùng truy hỏi liền nổi cơn giận dữ, nghiến răng kèn kẹt, “Ta thấy ngươi thật đáng ghét, y phục bẩn thỉu. Biết rõ đại nương trong phủ giặt không sạch mà chẳng chịu thay người. Đường đường là thủ thành đại nhân mà cũng không có chút hiểu biết cỏn con đó. Hôm nay ta nói rõ với ngươi, ta sẽ không thèm giặt lại y phục cho ngươi nữa”.

“À... ta hiểu rồi.” Phiên Lộc thích nhất những lúc Túy Cúc đỏ mặt tía tai, bèn nghiêng đầu, kề sát bên tai nàng, cười nói, “Ngươi chê ta những lúc ôm ngươi, mùi không dễ chịu đúng không? Thực ra đó chỉ là mùi y phục khó chịu thôi, chứ hương vị trên người bản thủ thành này vô cùng sạch sẽ dễ chịu đấy”.

Những lời cợt nhả của Phiên Lộc càng khiến tim Túy Cúc đập thình thịch. Nàng ôm ngực lùi ra sau, giậm chân nói: “Con người ngươi thực đáng ghét. Ta giúp ngươi giặt y phục thì sao hả? Sao còn nói năng bắt nạt ta như thế”.

Phiên Lộc cố mở thật to đôi mắt nhỏ của mình: “Ngươi mới là nữ nhân đáng ghét, càng ngày càng làm nũng. Ngươi biết rõ bản thủ thành chẳng sợ gì, chỉ sợ ngươi nũng nịu. Đường đường là một thủ thành, sao có thể để ngươi bắt nạt như thế?”.

“Ngươi... ngươi, ngươi...” Bị những lời già mồm át lẽ phải của Phiên Lộc làm cho tức chết, Túy Cúc cắn môi, dụi mắt rồi quay vào phòng.

Phiên Lộc cao giọng nói: “Đừng khóc, đừng khóc. Được rồi, bản thủ thành thu lại lời vừa nói, ngươi không đáng ghét chút nào, ngươi muốn bắt nạt ta thế nào thì cứ bắt nạt, cùng lắm là ta không phản kháng nữa”. Vừa nói, hắn vừa ôm xấp y phục đuổi theo.

Tính tình Phiên Lộc vô cùng cổ quái, cố ý chọc giận Túy Cúc, rồi lại mất bao tâm tư dỗ dành.

Túy Cúc đâu dễ dàng để hắn dỗ dành như thế, vội quay lưng đi, giọng tức giận: “Ta không muốn gặp ngươi nữa, ta sẽ thu xếp tay nải, đi tìm sư phụ”.

“Ta đi cùng ngươi.”

“Ai cần ngươi đi cùng?”

Phiên Lộc nhếch môi: “Được rồi, ngươi không cho ta đi cùng, ta sẽ đi cùng nữ nhân khác”.

Túy Cúc quay phắt lại: “Con người ngươi thật đáng ghét! Muốn đi thì đi ngay đi, đừng ở đây làm phiền ta”.

Hai người đang giận dỗi, thuộc hạ của Phiên Lộc bất chợt chạy vội đến bẩm báo: “Thủ thành đại nhân, hai vị đại nhân Bồ Quang, Bồ Thịnh lại đến”.

Phiên Lộc biết hai tên đó đã ăn uống no nê, lại đến sinh sự, hai hàng mày hơi cau, trầm giọng bảo: “Biết rồi. Các ngươi chuẩn bị phòng tốt, tiếp đãi cho chu đáo, tìm mấy cô nương xinh đẹp về uống rượu cùng, đừng để họ làm phiền ta là được”.

Tên thuộc hạ phụng mệnh quay đi.

Túy Cúc ngạc nhiên hỏi: “Hai hàng mày cau thế kia, kẻ nào lại khiến Thủ thành đại nhân không vui như vậy?”.

“Hai con sâu mọt đáng ghét.” Phiên Lộc không muốn dài dòng lại đưa đẩy, “Mặc kệ hai con sâu mọt đó, việc của chúng ta còn chưa nói xong mà”.

“Cái gì mà chúng ta, ngươi là ngươi, ta là ta.”

“Được rồi, ta đầu hàng.” Phiên Lộc xích lại gần thêm một chút, hạ giọng, “Bản thủ thành nói cho ngươi một bí mật, coi như chuộc tội, được không?”.

“Bí mật gì?”

“Đại nương giặt y phục không sạch đó là do ta cố ý sắp xếp. Ta biết có kẻ ngốc sẽ mắc lừa, mang y phục của ta đi giặt lại một lần... Này, đừng có đánh nữa! Ta bảo ngươi đừng có đánh nữa, ngươi còn đánh mạnh thế, ta đánh lại đấy...”

Cứ như thế, hắn lại mất bao công dỗ dành Túy Cúc nói chuyện với mình. Nỗi bực bội trong lòng vơi đi rất nhiều, Phiên Lộc nhìn sắc trời, đã quá nửa ngày trôi qua, liền đứng dậy vươn vai: “Không chơi với ngươi nữa, ta phải đi xử lý công vụ đây. Những ngày yên vui của bách tính thành Thả Nhu dựa cả vào vị thủ thành đại nhân này đấy”.

Túy Cúc lừ mắt: “Thật là nói khoác không biết ngượng. Mau đi đi”.

“Tối nay ta lại đến dùng cơm cùng ngươi.”

“Không cho ngươi đến.”

Thấy Túy Cúc không phòng bị, Phiên Lộc khẽ véo một cái lên má nàng: “Thế thì ngươi qua ăn cơm với ta”.

Túy Cúc đang định nổi khùng, Phiên Lộc đã nhanh chân bước đi.
 

Hoa Tử

Sưu tầm
Tham gia
24/9/19
Bài viết
10,570
Điểm cảm xúc
1,484
Điểm
113
Chương 57:
Sự kết hợp hoàn hảo giữa Trấn Bắc vương và Bạch Sính Đình khiến chí khí quân sĩ ngày càng tăng, sau hội nghị quân sự, trong lòng các tướng sĩ đã có mục tiêu rõ ràng, bước chân ra khỏi trướng soái cũng nhẹ hơn vài phần.

Nhưng, họ cũng hiểu rằng, chiến lược của Trấn Bắc vương và Bạch cô nương mạnh dạn song vô cùng nguy hiểm, là nước cờ không được phép sai lầm.

Sau khi hội nghị kết thúc, Sở Bắc Tiệp kéo ngay Sính Đình đang đi theo các tướng lĩnh ra khỏi trướng: “Bạch đại quân sư lúc nãy thần uy là thế, sao không ở lại bên cạnh chủ soái mà đi đâu?”.

Sính Đình quay đầu, cười đáp: “Vương gia đừng quên đã đánh cuộc với Sính Đình. Sính Đình thắng rồi, trong mười ngày Vương gia không được chạm vào tay Sính Đình”.

Ánh mắt bỗng lóe sáng, Sở Bắc Tiệp không hề do dự mà rút thanh Thần uy bảo kiếm ra, đưa đến trước mặt Sính Đình: “Nàng chém bản vương mười kiếm, thay cho hẹn ước mười ngày”.

Nhìn thấy thanh kiếm sáng loáng, Sính Đình vội tra kiếm vào vỏ, cau mày đáp: “Chiêu khổ nhục kế của Vương gia không được lòng người. Là Vương gia chọc giận Sính Đình trước, hơn nữa Vương gia đã chuẩn bị cả bản đồ thành Thả Nhu, còn rắp tâm cố ý thử người ta. Nếu lúc nãy không nghĩ ra kế sách, chẳng phải Vương gia làm Sính Đình hổ thẹn sao?”.

Sở Bắc Tiệp hạ giọng: “Không phải là khổ nhục kế. Nàng ở ngay trước mắt ta, mà mười ngày không được chạm vào tay nàng, như thế còn khó chịu hơn nhận mười kiếm. Không gì sánh bằng nỗi khổ nhớ nhung. Bản vương bỏ cái khó chọn cái dễ cũng là lẽ thường”. Khuôn mặt anh tuấn hoàn toàn nghiêm túc.

Sính Đình nghe mà không nói được câu nào, bèn cúi xuống, hồi lâu giọng nói mới như gió thoảng qua tai: “Dù có bỏ qua cái hẹn mười ngày đó, Vương gia cũng không thể lúc nào cũng nắm tay Sính Đình như thế”. Nghĩ lại, vẻ mặt Sính Đình vô cùng ấm ức: “Vương gia ép người quá đáng, bắt Sính Đình bỏ điều khoản đã định, không được, thù này Sính Đình nhất định phải báo”. Sóng mắt nàng mênh mang, vừa ngọt ngào, vừa ai oán.

Nhìn dáng vẻ hoạt bát, dịu dàng của nàng, Sở Bắc Tiệp cười nói: “Nói cho bản vương biết nàng định đi đâu?”.

Nghe hỏi đến, sắc mặt Sính Đình trở nên u ám, khẽ đáp: “Sính Đình phải tự đi gặp Hoắc thần y. Túy Cúc...”. Sính Đình buồn bã thở dài, tròng mắt đỏ hoe.

Sở Bắc Tiệp cũng cảm thấy lòng mình thắt lại.

Sau khi hai người gặp lại nhau, Sính Đình tránh không nhắc đến những gì nàng đã trải qua, dù thỉnh thoảng có nhắc đến, cũng chỉ là thoáng qua.

Sở Bắc Tiệp hiểu rõ rằng, những trắc trở Sính Đình đã trải qua đã tạo thành vết thương đến giờ vẫn chưa kín miệng trong lòng nàng. Cái chết của Túy Cúc càng khiến Sính Đình đau khổ thêm.

Sơn mạch Tùng Sâm quanh năm tuyết phủ đó rốt cuộc đã che giấu câu chuyện bi thảm đến mức nào?

Hài tử của họ cũng bị chôn vùi nơi mênh mang tuyết trắng ấy sao?

Đến tận lúc này, Sở Bắc Tiệp vẫn không dám hỏi Sính Đình việc hài tử đáng thương của họ đã mất như thế nào. Đối với Sính Đình, đó nhất định là nỗi đau khó có thể chịu đựng nổi.

“Ta đi cùng nàng”, Sở Bắc Tiệp nắm chặt bàn tay Sính Đình.

Sính Đình chậm rãi lắc đầu: “Vương gia thứ lỗi, Sính Đình muốn tự mình đối diện với sư phụ của Túy Cúc”.

“Sính Đình...”

“Nếu sau này Sính Đình cần đến...”, Sính Đình ngẩng đầu, hai hàng mi dày run rẩy nhìn Sở Bắc Tiệp, “Liệu Vương gia có chắc sẽ ở cạnh Sính Đình?”.

Trái tim chìm đắm trong ánh mắt đáng thương của Sính Đình, Sở Bắc Tiệp hứa ngay lập tức: “Chắc chắn”.

Nghe thấy thế, Sính Đình cười tươi tắn, khẽ rút bàn tay ra khỏi lòng bàn tay Sở Bắc Tiệp, quay người bước đi.

Sở Bắc Tiệp đứng nhìn theo Sính Đình ra khỏi cửa trướng, bỗng thấy buồn như vừa đánh mất điều gì. Một lúc sau, cảm giác có người đang nhìn mình, Sở Bắc Tiệp mới khôi phục sự nhạy bén, quay đầu cười sảng khoái, dang tay, lên tiếng: “Vương tẩu muốn cười thì cứ cười đi. Người ta nói rằng, vỏ quýt dày có móng tay nhọn, Sở Bắc Tiệp gặp được Bạch Sính Đình cũng coi như hoàn toàn không có cách nào”.

Các tướng lĩnh đã đi cả, Đông Lâm vương hậu ngồi dựa trên ghế, mỉm cười: “Trấn Bắc vương khiêm tốn quá rồi, chiêu khổ nhục kế lúc nãy thật vô cùng rành mạch, sao có thể gọi là không có cách nào? Anh hùng khó qua ải mỹ nhân. Tất cả nam nhân khi gặp được nữ nhân trong lòng mình, đều giống như Trấn Bắc vương”. Vứt bỏ mọi đau buồn ra ngoài cửa trướng, những suy nghĩ của Vương hậu cuốn bay theo gió vượt xa vạn dặm, trở về nơi vương cung Đông Lâm hào hoa quyền quý.

Nghĩ lại trước kia, cung vàng điện ngọc trùng trùng, rượu ngon đàn hay, uyên ương quấn quýt.

Ở bên Đại vương bao nhiêu năm, đến lúc biệt ly, Vương hậu mới thực sự hiểu ra.

Vương hậu không còn là vương hậu của Đông Lâm, mà là thê tử của nam nhân ấy.

Quá khứ bị che phủ trong vinh quang của vương tộc Đông Lâm, giờ mất đi mới biết những điều thực sự đáng hồi tưởng, đáng cảm thán nhất chính là tấm chân tình giữa họ.

Không liên quan đến Đông Lâm, không liên quan đến vương tộc, không liên quan đến đại vương và vương hậu.

Chỉ có phu và thê, chàng và thiếp.

Vì những lễ nghi rườm rà, đã bao lần muốn nắm tay, muốn tựa vào lòng phu quân, nhưng nghĩ đến thân phận mẫu nghi một nước của mình, Vương hậu lại cố nén chút tình ý trong lòng.

“Vương tẩu?”

“Hả?”, Vương hậu bỗng sực tỉnh, gọi, “Trấn Bắc vương, hãy đến cạnh ai gia”.

Sở Bắc Tiệp bước lên phía trước, ngồi đối diện với Vương hậu.

“Có phải Trấn Bắc vương cũng dự định thu nạp binh mã Đông Lâm vào Đình quân?”, Vương hậu hỏi.

Sở Bắc Tiệp vốn cũng định nói rõ việc này với Vương hậu, nên gật đầu, thẳng thắn đáp: “Đúng vậy”.

“Đình quân...” Vương hậu nghiền ngẫm hai từ ấy, cười cay đắng, “Hôm đó Đại vương nói, Trấn Bắc vương bản tính chân thành thẳng thắn, không thích hợp sinh ra trong vương tộc vô tình, đó cũng là điều Đại vương lo nhất cho vương đệ của mình. Nhưng hiện giờ, ai gia không biết nên lo lắng hay cảm thấy may mắn vì điều này. Nếu không vì Trấn Bắc vương yêu sâu sắc Bạch Sính Đình thì sao có được một Đình quân dũng mãnh đối kháng với Hà Hiệp?”. Vương hậu lại hỏi, “Ai gia muốn biết chính xác, Đình quân thu nạp binh mã Đông Lâm rồi, sau này Đình quân đại thắng, Trấn Bắc vương nắm giữ đại quyền, vậy vận mệnh của Đông Lâm sẽ thế nào? Vương tộc Đông Lâm sẽ ra sao?”.

Im lặng hồi lâu, Sở Bắc Tiệp cương nghị đáp: “Chẳng giấu vương tẩu, bản vương sẽ xây dựng tân quốc, lập ra quốc hiệu”.

“Thế còn Đông Lâm?”

“Đông Lâm đã là quá khứ, bản vương xuất chinh không phải vì mở rộng lãnh thổ Đông Lâm, mà bởi muốn đem lại cho Sính Đình một thiên hạ yên vui thái bình. Nếu bình định được đại loạn mà vẫn lấy tên Đông Lâm, thì đâu khác gì Đông Lâm chinh phạt ba nước còn lại, cũng đâu khác gì Hà Hiệp? Tướng sĩ của ba nước còn lại, dân chúng của ba nước còn lại sẽ canh cánh trong lòng, lúc nào cũng muốn phản kháng, thiên hạ sao có thể thực sự yên bình?”, ánh mắt vô cùng kiên nghị, Sở Bắc Tiệp trầm giọng nói, “Đây là lời hứa của bản vương với Sính Đình, không thể thay đổi”.

Ánh mắt Đông Lâm vương hậu bỗng trở nên sắc sảo, nhìn thẳng về phía Sở Bắc Tiệp.

Sở Bắc Tiệp không tránh mà nhìn thẳng lại: “Nếu Vương hậu tức giận, xin hãy trách phạt Bắc Tiệp, nhưng Bắc Tiệp đã quyết việc này”.

Đông Lâm vương hậu nhìn chăm chăm về phía Sở Bắc Tiệp hồi lâu, ánh mắt mất đi vẻ sắc sảo, bất lực thở dài: “Gốc của quốc gia chính là con người, đúng không?”.

“Vương tẩu?”, Sở Bắc Tiệp kinh ngạc.

“Chẳng bức tường nào ngăn nổi gió, đoạn đối thoại giữa Công chúa Diệu Thiên và Trấn Bắc vương trước trận đại chiến Đông Lâm – Vân Thường đã truyền đến tai rất nhiều người.” Đông Lâm vương hậu cười chua xót, vẻ mặt đượm hồi ức, “Sau khi vương cung bị thiêu cháy, ai gia thường nghĩ, cảnh tượng lúc Đông Lâm lập quốc sẽ như thế nào? Chắc cũng là hàng vạn tướng sĩ, lê dân trăm họ trên dưới một lòng, đồng tâm nhất trí, không tiếc đổ máu để bản thân và thê nhi, già trẻ nam nữ được sống những ngày hạnh phúc, yên bình?”.

Tại sao mấy trăm năm sau, quốc gia in hằn trong tim lại quên mất con người?

Hàng ngàn hàng vạn dân, hàng ngàn hàng vạn cuộc sinh ly tử biệt, yêu hận giằng co.

Ánh mắt buồn bã của Đông Lâm vương hậu nhìn về phía Sở Bắc Tiệp, thở dài, hạ quyết tâm: “Quốc gia quan trọng, lẽ nào lê dân trăm họ lại không đáng quý? Không có dân chúng an cư lạc nghiệp, Đông Lâm cũng chỉ tồn lại trên danh nghĩa. Trấn Bắc vương cứ yên tâm mà làm những điều mình muốn”.

Không ngờ Vương hậu lại quyết đoán như vậy, Sở Bắc Tiệp đứng bật dậy, quỳ một gối, nói từng tiếng: “Ơn này của vương tẩu, Sở Bắc Tiệp xin ghi lòng tạc dạ”.

Chàng thật chẳng dám tin lại có thể dễ dàng vượt qua cửa ải khó khăn này như thế.

“Đi đi. Bình định thiên hạ, kết thúc thời thế sinh linh lầm than, trả cho muôn dân những ngày yên ổn.” Vương hậu khẽ nhướng môi, nở nụ cười mơ màng, “Vương tộc cũng được, thường dân cũng chẳng sao, hãy để tất cả mọi người ghi nhớ rằng, đã có may mắn làm người thì phải biết sinh mệnh của mình đáng quý biết chừng nào, phải biết bản thân không phải là con kiến để người ta chà đạp”.

Trấn Bắc vương sẽ xây dựng một đế quốc hùng mạnh.

Đế quốc ấy không phải vì binh cường đất rộng, mà bởi mỗi con người trong quốc gia ấy đã dần biết tôn trọng, không khinh bạc bản thân mình.

Không coi mình là con rối, là công cụ.

Họ sẽ không bị bắt đi chiến trường.

Khi đại chiến ập đến, họ sẽ được lựa chọn, có nên chiến đấu bảo vệ tương lai của mình không, cũng giống như hôm nay họ tham gia vào Đình quân.

Giả dụ, máu của họ đã nhuộm đỏ sa trường, mảnh đất chìm trong nhiệt huyết ấy sẽ bừng lên sức sống mới, mạnh mẽ hơn bao giờ hết.

“Bạch Sính Đình...” Đông Lâm vương hậu ngửa mặt lên trời thở dài, “Khá khen cho một Bạch Sính Đình”.

Quy Lạc, trời chiều hoang vắng.

Nơi thâm cung lạnh lẽo không còn mùi hương yêu thích.

Ổ khóa im lìm bấy lâu bỗng có tiếng động khẽ, Quy Lạc vương hậu đã trút bỏ xiêm y lộng lẫy đờ đẫn ngẩng đầu, nhìn hình bóng uy nghiêm quen thuộc ngoài cánh cửa.

Quy Lạc vương Hà Túc bước qua cửa phòng, nói: “Sau trận chiến với Phi Chiếu Hành, đại ca Nhạc Chấn của nàng sợ đại quân Vân Thường tiếp tục tấn công, nên đã dẫn theo tàn binh trốn khỏi thành đô”.

Hà Túc giọng điệu bình tĩnh, không hề nóng giận.

Bị giam lỏng bao ngày, đây là lần đầu tiên nghe thấy tin tức của huynh trưởng, sau một hồi im lặng, Quy Lạc vương hậu lạnh lùng cất tiếng: “Đại vương đến để ban cho thần thiếp cái chết sao?”.

Hà Túc không lên tiếng, chậm rãi bước đến bên thê tử, giống như thuở còn mặn nồng, lấy ngón tay nâng cằm Vương hậu lên.

“Chẳng lẽ Vương hậu không muốn gặp mặt Thiệu nhi?”, Hà Túc chợt hỏi.

Vương hậu sững người, vẻ không dám tin, nhìn về phía Hà Túc: “Đại vương... chịu cho thần thiếp gặp Thiệu nhi?”. Dù sao nhi tử cũng là cốt nhục của mẫu thân, giọng Vương hậu có phần run rẩy.

“Tại sao lại không?”, Hà Túc thở dài, hỏi lại.

Quy Lạc vương hậu biết tội tất phải chết, cùng lắm là chọn một dải lụa trắng, hoặc ly rượu độc, nên đã sớm có sự chuẩn bị. Không ngờ Hà Túc lại đích thân đến đây, ngôn từ cử chỉ khác hẳn tưởng tượng của Vương hậu. Vốn tình nghĩa phu thê bao năm, lại nghe Hà Túc nhắc đến nhi tử, Vương hậu cũng mềm lòng đi vài phần, thần thái không còn lạnh lùng kiêu ngạo, mà cúi đầu, buồn bã đáp: “Thần thiếp cố tình tiết lộ việc quân mai phục; phụ thân lộng quyền; đại ca chống lại vương lệnh, tự điều quân chống lại Đại vương. Cả Nhạc gia đều phạm phải... tội chết”.

“Vương hậu cũng biết tội của mình?” Hà Túc nghĩ đến hiện trạng loạn lạc của Quy Lạc thì lạnh lùng hừ một tiếng, thấy Vương hậu cúi đầu không đáp, lại chậm rãi thở dài, nói, “Vương hậu đứng dậy đi. Quả nhân miễn tội cho nàng, lệnh cho nàng quay lại chính cung, làm chủ nhân của hậu cung”.

“Sao?”, Vương hậu kinh ngạc ngẩng đầu.

Nhạc Chấn dẫn binh đối đầu với quân thành đô, tội ngang tạo phản, đây là điều cấm kỵ nhất trong vương tộc, không thể được xá tội.

Nhưng, vẻ mặt Đại vương không giống đang đùa.

Lãnh cung u ám trong màn đêm, Hà Túc đứng ngay ở cửa, gần trong gang tấc, nhưng Vương hậu không thể nhìn rõ đáy mắt phu quân, thấy như thật xa cách, chỉ còn cái bóng mơ hồ nơi đó.

Vương hậu ngắm thật kỹ Hà Túc vốn đã ân đoạn nghĩa tuyệt với mình, rồi lại cúi đầu: “Đại vương cứ giết thần thiếp đi. Mười lăm tuổi, thần thiếp đã được gả vào phủ vương tử, rồi Đại vương đăng cơ, phong thần thiếp làm vương hậu, nghĩ lại lúc đó phu thê ân ái, ai ngờ lại có ngày hôm nay. Giờ ván đã đóng thuyền, mọi việc không thể cứu vãn, dù Đại vương có xá tội, thần thiếp cũng chẳng còn mặt mũi nào trở thành vương hậu. Thần thiếp chỉ hối hận, sao có thể vì nhất thời ghen tuông mà sai người bí mật báo tin cho Hà Hiệp... Chẳng qua chỉ là một Bạch Sính Đình, dù Bạch Sính Đình có vào hậu cung, chỉ cần Đại vương vui thì có chuyện gì là to tát? Vì một nữ nhân mà khiến Quy Lạc đại loạn, thần thiếp... thần thiếp thật ngu muội vô cùng...”. Nói xong, hai bờ vai Vương hậu run lên bần bật, rũ xuống đất mà khóc.

Thân phận tôn quý, lớn lên nơi thâm viện, sau này cũng chỉ ở vương cung, trong lòng Vương hậu chỉ biết đến một nam nhân duy nhất là Hà Túc. Lúc trước quen ăn ngon mặc đẹp, xung quanh kẻ hầu người hạ, lại có phụ mẫu sớm hôm kề bên, nên sau khi được sắc phong làm mẫu nghi một nước, Vương hậu mới thành ra tâm kế, mưu mô suy tính thiệt hơn.

Lúc này đây, khi đã trút bỏ xiêm y lộng lẫy, tóc buộc ngang lưng, thân ở nơi lãnh cung nhìn mây trôi lãng đãng, lòng Vương hậu lại nhớ tới những việc cỏn con ngày trước.

Nhớ thời run rẩy bước chân vào phủ vương tử, đêm động phòng hoa chúc, Vương hậu khẽ vén một góc khăn hồng, lặng lẽ liếc nhìn Hà Túc. Nhớ cảm giác hân hoan khi Hà Túc thì thầm vào tai, rằng nàng đã mang cốt nhục của ta. Nhớ cảm giác khi chuẩn bị trang điểm nơi hậu cung, rồi ung dung nhận ngọc tỷ vương hậu trước mặt mọi người.

Một đôi phu thê như thế, sao lại từng bước, từng bước bị cuốn vào quốc hận, thù nhà, đến nay ngoài những buồn thương vướng mắc, liệu còn lại điều gì?

Đang khóc đến đứt gan đứt ruột, bỗng thấy có người chạm vào vai, Vượng hậu ngẩng khuôn mặt đẫm lệ lên, nhìn Hà Túc đang đỡ mình dậy.

“Vương hậu đừng khóc nữa. Ta nói thực với Vương hậu, Nhạc Chấn dẫn quân bỏ chạy, thành đô không còn binh sĩ, nay Hà Hiệp dẫn theo đại quân Vân Thường bao vây chúng ta rồi.”

“Hả!” Vương hậu thất kinh. Bị giam lỏng nhiều ngày nay, Vương hậu không biết đến tin tức bên ngoài nên chẳng thể ngờ rằng tình hình lại tồi tệ đến mức này.

“Mạnh yếu chênh lệch, biết rõ là thua, chi bằng ta không đánh trận này. Giờ này ngày mai, quả nhân sẽ mở cổng thành, tự tay đưa thư hàng cho Hà Hiệp”, Hà Túc cười cay đắng, “Nước đã mất, tội phản quốc của Vương hậu và Quốc trượng, Quốc cữu có gì mà không thể đại xá?”.

Nghe những lời chất chứa sự bất lực và chán nản của Hà Túc, hoàn toàn khác với vẻ lạnh lùng, kiêu ngạo trước đây, trong lòng Vương hậu càng thêm đau đớn hối hận, giọng nói cũng run rẩy: “Nếu không vì lỗi của thần thiếp, Quy Lạc không xảy ra nội loạn, Đại vương có đại quân trong tay, Hà Hiệp đâu thể muốn đến là đến? Thần thiếp...”.

“Đừng nói nữa.” Hà Túc cắt ngang lời Vương hậu, trầm giọng, “Thị nữ đã mang sẵn y phục, trang sức đợi bên ngoài. Vương hậu hãy trang điểm như mọi ngày đi. Lâu lắm rồi Vương hậu không uống rượu cùng quả nhân, đêm nay phu thê ta sẽ cùng nhau thưởng rượu, đừng để người ngoài làm phiền”.

Vương hậu lặng lẽ nhìn Hà Túc, cuối cùng chậm rãi hành lễ: “Thần thiếp tuân lệnh”.

Hà Túc quay người rời đi, những thị nữ bên ngoài thấy Đại vương đi ra thì nhất tề bước vào, trên tay bê những khay vuông, đều là y phục và đồ trang sức Vương hậu quen dùng, còn đủ cả son phấn cũng như các loại hương.

“Vương hậu nương nương.” Gặp được Vương hậu, đám thị nữ nhất loạt hành lễ, nhưng khuôn mặt ai cũng u ám, xem ra, tin Đại vương ngày mai sẽ nộp thư hàng cho Hà Hiệp đã truyền khắp vương cung.

Sau khi tắm gội thay áo, Vương hậu trang điểm đẹp như thần tiên, rồi uyển chuyển di giá đến tẩm cung của Đại vương.

Quả nhiên Hà Túc đã sai người chuẩn bị rượu ngon ở đó. Qua tấm rèm châu, họ cùng nhau thưởng rượu dưới trăng.

Giờ lành cảnh đẹp, sơn hào hải vị, rượu ngon sóng sánh, nghĩ lại những ngày bị giam lỏng nơi lãnh cung không thấy mặt trời thật giống một giấc mơ, Vương hậu bất giác cảm thán đời người sao mà khó đoán.

Cả hai đều trĩu nặng tâm tư, lặng lẽ ngồi đó, uống cạn vài chén. Hà Túc chợt hỏi: “Sao Vương hậu không nói gì?”.

“Thần thiếp...” Khuôn mặt trang điểm kỹ càng của Vương hậu thoáng chút hoang mang, “Thần thiếp không biết phải nói gì”.

Hà Túc nhìn thật kỹ thê tử đang ở trước mặt, bỗng bật cười nói: “Quả nhân bỗng thấy, từ khi trở thành chủ nhân hậu cung đến nay, lúc này nàng đẹp nhất”.

Được Đại vương khen, trái tim nặng nề bỗng nhẹ bẫng, cảm giác xung quanh như bồng bềnh mây trắng, Vương hậu khẽ cúi người, đáp: “Lòng không phiền muộn mới long lanh trong vắt. Cũng có thể vì hôm nay trong lòng thần thiếp đã không còn điều gì giấu giếm Đại vương nữa”.

“Nói hay lắm”, Hà Túc nâng chén, “Vương hậu đêm nay khiến quả nhân nhớ lại ngày đầu tiên nàng bước chân vào phủ vương tử. Thời gian thấm thoắt thoi đưa, hóa ra chúng ta đã là phu thê bao nhiêu năm rồi”. Giọng Hà Túc bỗng dịu dàng như bao năm trước.

Khuôn mặt Vương hậu vừa kinh ngạc vừa cảm động: “Đại vương... có còn nhớ thiếp lúc mới bước vào phủ vương tử không?”.

“Sao lại không?”

“Thật không...” Vương hậu đưa tay vuốt tóc, khẽ nói, “Chẳng giấu gì Đại vương, thần thiếp cũng nhớ”.

Phủ vương tử, phủ vương tử của Hà Túc lúc đó.

Vang giọng ca vui, tiếng đàn véo von.

Một đám danh gia vọng tộc bằng hữu của Hà Túc khi ấy thường tụ tập tán chuyện trên trời dưới đất, có luyện kiếm, có đánh đàn, hoặc luận đàm thi họa, hoặc nói chuyện chí lớn. Ai uống rượu thì uống rượu, ai nói chuyện thì nói chuyện. Dương Phượng đã là người trong phủ vương tử, cộng thêm Hà Hiệp luôn dẫn theo Sính Đình đến.

Chỉ có nhà họ Nhạc gia quy nghiêm ngặt, lại là vương tử phi tôn quý, không như những người khác, nên Vương hậu không thể vui đùa cùng bọn họ, đành ngồi trong bốn bức tường, nghe tiếng nói cười từ xa vọng lại.

Hóa ra... Đại vương vẫn nhớ tất cả những thứ đó.

Nhưng, liệu Phò mã Vân Thường Hà Hiệp đang cầm quân bao vây thành đô Quy Lạc có còn nhớ đến điều này?
 

Hoa Tử

Sưu tầm
Tham gia
24/9/19
Bài viết
10,570
Điểm cảm xúc
1,484
Điểm
113
Chương 58:
Mặt trời đỏ như màu máu đang từ từ nhô lên phía trời đông của thành đô Quy Lạc, thay chỗ cho ánh trăng hiền hòa. Với tư thế đường hoàng giá lâm thiên hạ, vầng dương đem ánh sáng chiếu thẳng vào từng trái tim nặng nề của con dân Quy Lạc.

Nắng ban mai soi tỏ lá cờ Vân Thường đang bay phần phật ngoài thành đô Quy Lạc.

Đoàn quân đến chân thành.

Sau hôm nay, những giọng ca điệu múa say đắm lòng người, những món điểm tâm cầu kỳ nổi danh thiên hạ của Quy Lạc sẽ không còn tồn tại.

Dưới bóng đao kiếm của đại quân Vân Thường, cửa thành nặng nề mở ra.

Đại vương Quy Lạc Hà Túc dẫn theo Vương hậu cùng quần thần Quy Lạc, đầu trần chân đất bước ra cổng thành. Bách tính Quy lạc khiếp sợ quỳ rạp bên đường, giữa hai hàng mâu sáng loáng của binh sĩ Vân Thường. Tất cả đều cố nuốt dòng nước mắt, cố nén tiếng nức nở.

Nước mất rồi.

Tất cả đã hết rồi.

Đêm đó, vương phủ Kính An chìm trong khói lửa, gió nổi mây bay, chỉ qua một đêm, tiểu Kính An vương được dân chúng Quy Lạc kính yêu bỗng trở thành phản thần, bị truy đuổi khắp nơi. Nay, tiểu Kính An vương đã trở về, nhưng Quy Lạc đã không còn nữa.

Trên bình nguyên ngoài thành đô Quy Lạc, Hà Túc đứng trước đại quân Quy Lạc, từ bỏ thân phận tôn quý, quỳ xuống dưới chân kẻ địch.

“Tội nhân Hà Túc không thể trị vì Quy Lạc, dẫn đến dân chúng lầm than. Từ cổ, ngai báu vốn thuộc về tay kẻ tài, Hà Túc nguyện dâng ngọc tỷ của Quy Lạc quốc lên Phò mã Vân Thường, để bày tỏ lòng quy thuận.” Từng tiếng, từng tiếng nghẹn ngào lọt ra khỏi cổ họng Quy Lạc vương.

Hai tay nâng ngọc tỷ, Hà Túc chậm rãi dâng lên.

Ngọc tỷ truyền đời, bảo vật vô giá của cả vương tộc.

Hà Túc quỳ ở đó, tay giơ cao ngọc tỷ quá đầu, hai vai không ngừng run rẩy.

Hà Túc chưa từng nghĩ, Quy Lạc rộng lớn này lại bị hủy hoại trong tay mình.

Trước lúc lâm chung, phụ vương đã dặn riêng Hà Túc: “Mọi việc của vương phủ Kính An, phải cực kỳ thận trọng”.

Đúng là Hà Túc đã thận trọng, sau khi đăng cơ đã bí mật hoạch định, cẩn trọng bố trí, đợi đến lúc thời cơ chín muồi thì ra tay tàn độc, thiêu trụi cả vương phủ Kính An, rồi giăng thiên la địa võng, cuối cùng giết được Kính An vương và Kính an vương phi, chỉ còn lại mình Hà Hiệp.

Đáng cười là tới tận hôm nay, Hà Túc mới hiểu ra bốn từ “cực kỳ thận trọng” kia trầm trọng đến mức nào.

Vương hậu và cả đám đại thần mặt mày trắng bệch như những người mất hồn, quỳ sau lưng Hà Túc.

Đại quân Vân Thường ngay ngắn chỉnh tề, im lặng như tờ, đao gươm sáng lóa.

Hà Hiệp thần trí tỉnh táo, ý chí hăng hái, một tay cầm cương, ánh mắt lơ đãng nhìn về phía ngọc tỷ, nhếch môi nói một câu: “Nhận lấy”.

Tên cận vệ tâm phúc bên cạnh đáp “vâng” một tiếng rồi xuống ngựa đi tới.

Hà Túc bỗng thấy tay nhẹ bẫng, ngọc tỷ đã chuyển sang tay kẻ khác. Cảm nhận sâu sắc rằng Quy Lạc đã thực sự thuộc về người khác, tay chân Hà Túc bất chợt mềm nhũn, gần như sắp đổ ra đất.

Đất đai không còn, quốc gia không còn, Hà Túc còn mặt mũi nào để gặp lại tổ tiên?

Nhưng thời khắc này, dù trong lòng có đau đớn đến mức nào, Hà Túc cũng không thể bỏ mặc đại cục. Nghĩ đến sinh tử của quần thần sau lưng đang phụ thuộc vào một suy nghĩ lúc này của Hà Hiệp, Hà Túc nén cơn đau, cúi đầu nói: “Kính mời Phò mã Vân Thường dẫn quân vào thành, các điện trong vương cung đã được dọn dẹp, mời Phò mã Vân Thường sử dụng”.

Cảm giác lạ lùng chạy dọc sống lưng, biết Hà Hiệp đang ngồi trên tuấn mã cúi xuống nhìn mình, nhưng hồi lâu, Hà Túc mới nghe trên đỉnh đầu vẳng lên giọng nói quen thuộc: “Năm xưa chúng ta cùng nhau đọc sách, từng nghe tiên sinh dạy rằng, quân vương mất nước nếu muốn thể hiện thành ý, thường cam chịu làm nô dịch cho kẻ thắng, chịu mọi sai khiến. Không biết Đại vương có thật là có thành ý với Hà Hiệp?”.

Quần thần Quy Lạc bất an, sắc mặt Hà Túc cũng đổi.

Nghĩ đến mối thù hận xưa, xem ra hôm nay Hà Hiệp không chỉ muốn lấy tính mạng của Hà Túc, mà còn muốn lăng nhục một quân vương đủ bề trước mặt quần thần.

Nghĩ mình như cá nằm trên thớt. Bản thân chết thì không đáng tiếc, nhưng...

Hà Túc nắm chặt hai bàn tay, giấu trong áo, cúi đầu cắn răng nói: “Xin cho Hà Túc dắt ngựa đưa Phò mã vào thành để tỏ rõ thành ý”.

“Đại vương...”, Vương hậu khẽ gọi phía sau, giọng nấc nghẹn.

Tất cả các lão thần cũng lặng lẽ trào nước mắt.

“Đừng nhiều lời.” Hà Túc cương quyết ngắt lời Vương hậu, cam chịu sự sỉ nhục của Hà Hiệp, đứng lên, khó khăn cất bước như đang giẫm trên gai nhọn, từ từ đến dưới chân ngựa của Hà Hiệp, đưa tay định cầm dây cương ngựa.

Hà Túc chưa kịp chạm vào dây cương, bàn tay đã bị thứ gì đó ngăn lại, thì ra là roi ngựa.

Hà Túc ngẩng đầu không hiểu, cứ ngỡ Hà Hiệp lại làm khó mình.

Hà Hiệp lạnh lùng: “Tuy ta hận ngươi, nhưng cũng không đến mức này”. Hà Hiệp vung roi, cao giọng: “Vào thành! Không đến vương cung, ta muốn tới vương phủ Kính An”.

“Vào thành!”

“Vào thành!”

“Vào thành...”

Hai tiếng “Vào thành” nối tiếp nhau, lên bổng xuống trầm, vang vọng không dứt.

Đại quân Vân Thường giống như con mãnh thú khổng lồ vừa choàng tỉnh, chầm chậm tiến vào thành đô Quy Lạc.

Hà Hiệp cưỡi trên lưng ngựa, vương kỳ bay phấp phới, đi giữa đám hộ vệ. Hà Túc dẫn theo quần thần đứt gan đứt ruột bước phía sau.

Vào tới cổng thành, cảm giác quen thuộc mà lạ lẫm bỗng trào dâng trong lòng, thành đô cổ xưa này là nơi Hà Hiệp đã sinh ra và lớn lên, đã từng vui đùa khắp các con ngõ, cưỡi ngựa thong dong trên mọi nẻo phố.

Quy Lạc, vương phủ Kính An của Quy Lạc, tiểu Kính An vương của Quy Lạc.

Lưỡng cầm Quy Lạc, Quy Lạc có Dương Phượng, và có Bạch Sính Đình.

Tất cả những điều này rốt cuộc đã xảy ra như thế nào?

Không ai có thể hiểu nổi tâm trạng của Hà Hiệp lúc này.

Từ sau khi vương phủ Kính An bị thiêu trụi, đây là lần đầu tiên Hà Hiệp quang minh chính đại trở về thành đô Quy Lạc.

Lời thề báo thù đã thành hiện thực, nhưng Hà Hiệp phát hiện ra, nỗi đau luôn canh cánh bên lòng bấy lâu nay vẫn không hề vơi bớt.

Hà Hiệp đã có thành đô Quy Lạc, nhưng nơi đây giờ đã chẳng còn vương phủ Kính An, không còn nụ cười của phụ mẫu, không còn Sính Đình, chỉ còn lại một mình Hà Túc đã trở thành kẻ thù suốt đời suốt kiếp với mình.

Giờ đã báo được thù, có được cả một giang sơn, nhưng Hà Hiệp không biết phải báo tin vui này cho ai. Cả Diệu Thiên cũng không còn nữa.

Tiếng vó ngựa đang đưa Hà Hiệp trở về quê hương. Đến lúc dừng lại, hoa tuôn dòng lệ, chim đau cõi lòng, vương phủ Kính An chỉ còn lại tường vách sụt lở.

“Sau khi bị thiêu trụi, vương phủ Kính An hoang phế đến tận bây giờ.”

Hà Hiệp xuống ngựa, nhìn chăm chăm về phía cổng vương phủ quấn đầy rêu xanh, cuối cùng cũng bước lên từng bậc quen thuộc, đi vào trong.

Cảnh tượng khách nhân đầy sân, ngựa xe nườm nượp như đang tái hiện ngay trước mắt hắn.

Phụ thân đang bàn chính sự cùng các đại thần, đám thị nữ vây quanh mẫu thân đòi nghe những chuyện hứng thú trong vương cung. Thỉnh thoảng mới thấy Hà Hiệp từ ngoài sân đi vào, mẫu thân thường hay đứng dậy, dặn dò: “Hiệp nhi, bên ngoài người đông, lộn xộn lắm. Hiệp nhi ra ngoài nhớ mang theo thị vệ, đừng dẫn Sính Đình chạy lung tung khắp nơi”.

“Hài nhi biết rồi. Hài nhi không đi đâu cả, Vương tử Hà Túc gọi hài nhi, nói bên phủ vương tử đang có một vị tiên sinh nổi danh tới giảng binh pháp, Hà Túc bảo hài nhi sang nghe.”

“Thế con đi đi. Đừng cưỡi ngựa, ngã thì không hay đâu, tốt nhất là ngồi xe ngựa...”

“Hài nhi biết rồi.”

“Con nhớ, nếu muộn mà ở lại phủ vương tử dùng cơm, nhớ... Haizzz, đứa trẻ này...”

Mẫu thân chưa dặn dò xong, Hà Hiệp đã chạy ra đến cổng, tìm thấy Sính Đình, cũng không cần biết Sính Đình đang bận gì, đã cầm tay nàng mà chạy, vừa ra khỏi cổng vương phủ, liền lên ngựa quất roi, đi thẳng.

Những cảnh tượng đã qua cứ hiện về lúc gần lúc xa, lẫn trong từng đám cỏ, trong tường ngói rêu đen, mỗi nơi đều lưu giữ bao nhiêu ký ức.

Muốn quên đi quá khứ lại khó khăn thế này!

Hà Hiệp đứng một lúc lâu trong sân, gương mặt tuấn tú lạnh như băng, hạ lệnh: “Sắp xếp lại chỗ này, bày tiệc, bản phò mã phải uống một trận với quân vương cũ của Quy Lạc ngay tại vương phủ Kính An này”.

Hà Hiệp quyền thế ngút trời, chỉ một hiệu lệnh, không ai dám chậm trễ.

Nhổ hết cỏ dại, quét sạch lá rụng, nền gạch nhẵn bóng theo thời gian dần lộ ra sau lớp bụi mờ.

Lụa đỏ gấm xanh và những dải rèm tơ đủ màu sắc quấn quanh trụ đá còn loang lổ vết cháy, rực rỡ tung bay trong gió.

Thu dọn phế tích, thay vào đó là những bộ bàn trà mới tinh, bên trên sắp đầy hoa thơm trái ngọt.

Trước mỗi cánh cửa, thảm dài tít tắp.

Mặt trời chiều đã ngả về tây, vất vả cả một ngày, vương phủ Kính An bề thế đã được sắp xếp thỏa đáng.

Trong ráng chiều đỏ ối, những bức tường loang lổ vết cháy càng làm nổi bật bộ đồ cổ hiếm quý được chuyển từ vương cung đến, không hề ăn nhập với khung cảnh nơi đây càng khiến lòng người thương cảm.

Rượu ngon cùng thức nhắm nhanh chóng được mang ra, Hà Hiệp ngồi ngay ngắn ở chính giữa, lệnh cho thị vệ lùi sau trăm bước, hộ giá từ xa.

Quy Lạc vương hậu cầm bình rượu, buồn bã ngồi lặng một bên.

Cùng thưởng rượu với Hà Hiệp chỉ có Hà Túc.

“Cạn.” Hà Hiệp nâng chén, làm động tác chạm nhẹ trong không trung.

Hà Túc lòng đầy tâm sự, nhưng việc đã đến nước này, chết còn không sợ, sợ gì ly rượu? Hà Túc nâng chén nói: “Cạn”, rồi ngửa đầu uống cạn, hơi rượu cay nồng xộc thẳng vào cổ họng.

Uống một ly rượu, sầu càng sầu thêm.

Nhìn quanh bốn bề, sự sắp xếp hoa lệ không thể che đi một vương phủ Kính An chỉ còn là phế tích. Tất cả những điều này đều cho một tay Quy Lạc vương làm nên, Hà Túc không nén được tiếng thở dài: “Không ngờ chúng ta vẫn còn lúc uống rượu cùng nhau thế này”.

Quy Lạc vương hậu hơi cúi về phía trước, lặng lẽ rót rượu cho hai người.

“Thế sự khó lường, đúng không?”, Hà Hiệp cười buồn, nói Hà Túc, “Có biết tại sao ta mời ngươi uống rượu không?”.

“Ta không biết.”

Họ vốn quen biết nhau nhiều năm, thuở niên thiếu cũng coi là hảo hữu, ai ngờ lại có ngày hôm nay. Hai đôi mắt sắc bén gặp nhau, không nhân nhượng mà nhìn thẳng đối phương, hồi lâu mới chuyển qua chỗ khác.

Hà Hiệp nâng chén, trầm giọng: “Ta phải cảm tạ ngươi”.

“Cảm tạ ta?”

Khuôn mặt tuấn tú của Hà Hiệp như bao phủ một lớp khói mờ, khiến người ta không thể nhìn thấy điều cay đắng ẩn sâu nơi đáy mắt: “Có được sự uy phong ngày hôm nay, không cảm tạ ngươi, ta phải cảm tạ ai?”.

Trước khi vương phủ Kính An gặp biến cố, Hà Hiệp chưa từng nghĩ sẽ có ngày này.

Hà Hiệp vốn dĩ chỉ là một tiểu Kính An vương phong lưu phóng khoáng, tiếu ngạo tứ quốc.

Có quốc gia cần bảo vệ, có nhà để về, có song thân và Sính Đình, có Đông Chước bên cạnh, được hàng vạn tướng sĩ yêu kính, Hà Hiệp sẵn sàng xả dòng máu nóng để giữ vững Quy Lạc.

Nhưng, tất cả những điều đó đột nhiên thay đổi, nhanh không kịp thở. Hà Hiệp chẳng thể quên nổi cái khoảnh khắc quay đầu nhìn vương phủ Kính An chìm trong biển lửa.

Quy Lạc vương hậu ngồi yên bên cạnh, nhận thấy bao nỗi hận thù đang ẩn dưới vẻ bình tĩnh của Hà Hiệp, bất giác rùng mình.

Hà Túc lại cười, hạ giọng nói: “Ngươi đang hận ta ngày đó ra tay với vương phủ Kính An? Đúng thế, ta và ngươi cùng lớn lên, tình như huynh đệ, Kính An vương cũng là bậc trưởng bối đáng kính, nhưng vì vương quyền, ngày đó ta đã quá độc ác”.

Hà Hiệp đáp: “Không cần nói, ta hiểu hết”.

“Ngươi hiểu?”

“Đúng, ta hiểu.” Hà Hiệp ngẩng đầu, uống thêm một chén.

Rượu đắng, hết chén này đến chén khác đều là rượu đắng.

Hà Túc đã hủy hoại cả vương phủ Kính An.

Còn Hà Hiệp, tiểu Kính An vương từng quang minh lỗi lạc, khi ở Bắc Mạc đã dùng độc kế giết hai vương tử Đông Lâm để hãm hại Sính Đình thân yêu; lúc ở vương cung Vân Thường, chứng kiến Diệu Thiên công chúa, thê tử đang hoài thai cốt nhục của mình chết dần sau cánh cửa khóa chặt.

Sao Hà Hiệp lại không hiểu?

Tịch dương ảm đạm, sân vắng xác xơ.

Hà Hiệp nâng từng ly rượu đắng với kẻ thù của vương phủ Kính An.

Bốn bề tường đổ vách xiêu khiến Hà Hiệp đau lòng đến phát điên, tất cả đều do kẻ trước mặt này đưa đến. Nhưng giờ đây, ngay tại mảnh đất cũ bao yêu dấu, Hà Hiệp lại bày tiệc thưởng rượu cùng kẻ thù.

Bởi Hà Hiệp không còn tìm được ai có thể cùng uống ly rượu đắng, cùng chia sẻ sự hoang vu của vương phủ Kính An.

Còn có ai?

Phụ mẫu đâu? Sính Đình đâu?

Diệu Thiên công chúa, ái thê từng giao cả binh quyền của Vân Thường cho Hà Hiệp cũng đang ở đâu?

Thời gian cứ chạy đi không dừng bước, các thị vệ lặng lẽ châm nến bốn bên.

Hai nam nhân lặng lẽ uống, Vương hậu lần lượt châm rượu.

Hà Túc không hề nhìn sang Vương hậu, mặt không biểu cảm nâng lên uống cạn hết chén này đến chén khác, rồi ngẩng đầu nhìn sắc trời, vầng trăng đã sáng trên bầu trời.

Hà Túc dằn lòng, đặt chén không xuống bàn, khảng khái nói: “Thời khắc đã đến, dù là rượu độc hay đao thương, hãy cứ đưa lên. Nhưng nhớ là ngươi đã hứa với ta, chỉ cần ta bằng lòng tự vẫn, sẽ đảm bảo thê nhi bình an”.

“Keng” một tiếng, chiếc bình bạc rơi xuống nền gạch, rượu đổ lênh láng.

Quy Lạc vương hậu sững người, hồi lâu mới khóc nói: “Đại vương, Đại vương...”, rồi nhào đến chân Hà Túc, cắn chặt môi, không nói thêm tiếng nào.

Cứ ngỡ đầu hàng quy thuận, hai tay dâng lên ngọc tỷ là có thể bảo toàn tính mạng, ai ngờ phu quân phải dùng cả tính mạng để trao đổi với Hà Hiệp sự bình yên của mình và Thiệu nhi.

Trước đêm qua, Vương hậu còn cảm thấy phu thê đã tựa hai người xa lạ, nhưng lúc này đây, trái tim Vương hậu đau như bị đánh bằng roi sắt, không còn thiết sống.

Hà Hiệp thấy Quy Lạc vương hậu quỳ bên chân Hà Túc khóc lóc thảm thiết, khuôn mặt thoáng tia cảm thương mơ hồ, giây lát sau lại vô cùng lạnh lùng: “Nữ nhân này và phụ thân, huynh trưởng của nàng ta đã đoạt quyền gây loạn triều chính, giáng họa cho Quy Lạc, khiến ngươi mất tất cả. Thế mà ngươi vẫn bảo vệ nàng ta, lòng nhân từ kiểu nữ tử này thực không giống với những gì ngươi từng làm”.

Hà Túc nghe vậy, cúi xuống nhìn thê tử đang đau lòng khóc lóc, khuôn mặt thoáng vẻ ấm áp: “Lúc đầu vì việc Nhạc Chấn tạo phản ta đã rất hận nàng, sau khi giam nàng vào lãnh cung, rất nhiều lần ta đã quyết định xử nàng tội chết, trước lúc bức thư chiêu hàng của Phò mã Vân Thường đến, thậm chí ta còn nghĩ, có nên giết nàng trước khi ta chết…”.

Hà Túc thở dài một hơi, như đang trả lời Hà Hiệp, lại như đang tự nói với mình: “Trong thư chiêu hàng ghi rõ, chỉ cần ta tự nguyện dâng lên ngọc tỷ rồi tự vẫn, ngươi sẽ bảo toàn tính mạng của hai người trong vương tộc. Trong thiên hạ không gì sánh bằng tấm lòng phụ mẫu, vì Thiệu nhi, ta tự vẫn thì có gì không đáng? Còn người thứ hai cần bảo vệ, suy đi nghĩ lại, cuối cùng, người mà ta muốn bảo về bằng cả tính mạng mình lại chính là nàng…”.

“Đại vương!”, Vương hậu ngẩng lên, thê thảm gọi một tiếng, giọng nấc nghẹn, “Thần thiếp đáng chết, thần thiếp tội đáng muôn chết!”.

“Nàng không đáng chết, Thiệu nhi đã mất đi phụ thân, sao có thể mất thêm cả mẫu thân?” Hà Túc nở nụ cười buồn bã. Sau khi đăng cơ, xung quanh có biết bao mỹ nhân, Hà Túc lại say mê vương quyền nên ngày càng lạnh nhạt với Vương hậu, giờ đến lúc từ biệt, Hà Túc mới biết nữ nhân ấy đã ở bên mình bao nhiêu lâu nay, chính là người mình thực sự không muốn mất nhất, nên dịu giọng: “Ngày thành thân, ta đã hứa sẽ yêu thương, bảo vệ nàng suốt đời suốt kiếp. Nhưng bao năm qua ta đã quên mất lời thề này, chỉ đến hôm nay, không biết tại sao mới chợt nhớ tới. Vương hậu đừng khóc, ta chỉ đang thực hiện lời hứa của mình thôi”.

Hà Hiệp đứng một bên, ánh mắt lạnh lùng.

Hà Hiệp ôm hận đến đây, chinh phạt Quy Lạc, cả chặng đường đại quân Vân Thường đã đạp bằng mọi gian khó, bất khả chiến bại. Cho đến hôm nay, đại quân ấy đang bao vây dưới thành, không tốn chút hơi sức đã ép được Hà Túc dâng lên ngọc tỷ, tự tìm đến cái chết. Cứ tưởng Hà Hiệp phải thở phào khoan khoái, phải vui sướng đến chừng nào… Nhưng, chiến thắng không phải tiên dược vạn linh, giành được Quy Lạc không những không trị được tâm bệnh của Hà Hiệp, mà khi vào đến thành đô, vương phủ Kính An hoang vu lạnh lẽo này càng khiến Hà Hiệp cảm thấy thêm phần mất mát.

Thấy Hà Túc dịu dàng từ biệt thê tử, Quy Lạc vương hậu đau đớn buồn thương, Hà Hiệp lặng lẽ đứng một bên, nhìn xung quanh, không có một ai, chỉ còn vương phủ Kính An hoang tàn điểm xuyết những tấm lụa đỏ gấm xanh, nỗi cô quạnh ngập tràn trong tim.

Nỗi hận bị người đời phản bội, bỏ rơi như núi lửa bùng phát, nhấn chìm Hà Hiệp.

“Ngươi cũng không bắt buộc phải chết. Nể mối giao tình thuở nhỏ của chúng ta, bản phò mã cho ngươi một cơ hội”, Hà Hiệp cười gằn, “Ba người của vương tộc Quy Lạc, chỉ cần một người bằng lòng tự vẫn, thì có thể bảo toàn tính mạng cho hai người còn lại, thế nào?”.

Vương hậu không ngờ tình thế bỗng nhiên thay đổi, liền nín thinh nhìn sang Hà Hiệp, thật thà hỏi: “Tiểu Kính An vương nói có thật không?”. Nếu được như thế, chỉ cần Vương hậu bằng lòng nhận lấy cái chết là có thể bảo toàn mạng sống của phu quân và hài nhi.

Hà Hiệp chưa kịp trả lời, Hà Túc đã trầm giọng: “Vương hậu đừng nên nhiều lời. Việc này đã quyết, không cần phải thay đổi”.

Hà Hiệp không ngờ Hà Túc lại kiên quyết đến thế, mặt bỗng biến sắc, một tay đặt lên chuôi kiếm, cười lạnh lùng. Nhớ đến Diệu Thiên, từng lời, từng cử chỉ, ánh mắt của hai người trước mặt đều như những lưỡi dao cứa vào tim Hà Hiệp, khiến sát khí trào dâng.

“Đại vương…”, Vương hậu mắt đỏ hoe, khẩn cầu: “Thần thiếp chết không đáng tiếc, chỉ cần Đại vương có thể…”.

“Có thể làm sao!” Hà Túc trừng mắt, ánh nhìn xót thương vô hạn, thấy Vương hậu đẫm lệ bèn cúi xuống, nhẹ nhàng lau đi những giọt nước mắt. Biết đây là cơ hội cuối cùng được trò chuyện cùng thê tử, giọng Hà Túc càng dịu dàng, thở dài: “Ta là phu quân của nàng nên phải bảo vệ nàng. Khắp thiên hạ này có phu quân nào lại nhẫn tâm nhìn thê tử chết ngay trước mắt mình?”.

Hà Túc không biết rằng khi rút gan rút ruột nói với thê tử những lời này, cũng là lúc đâm thẳng một đao vào tim Hà Hiệp.

Khắp thiên hạ này, có phu quân nào lại nhẫn tâm nhìn thê tử chết ngay trước mắt mình?

Nghe những lời này, trong đầu Hà Hiệp bỗng nổ ầm một tiếng, vỡ tung, trước mắt trống rỗng, toàn thân chao đảo, cố gắng lắm mới đứng vững được, lòng bàn tay toát mồ hôi lạnh. Hà Hiệp không cần suy nghĩ, rút kiếm ra, nghiến chặt răng: “Ngươi thật đáng chết!”.

Hà Túc ngẩng đầu, ánh kiếm đã tới trước mắt. Sinh ra đã là vương tử, tuy không bản lĩnh bằng Hà Hiệp, nhưng Hà Túc cũng là người kiêu ngạo, lại có sẵn chủ ý hy sinh tính mạng để bảo vệ thê nhi, nên không hề kinh sợ mà nhắm mắt đứng nguyên chỗ cũ, đợi cơn đau đến.

Bảo kiếm vung lên, thấy Hà Túc thần thái tự tại, nhắm mắt chờ chết, lửa hận trong lòng Hà Hiệp lại càng bừng cháy, cảm thấy nhát kiếm này quá nhân nhượng với Hà Túc. Ánh mắt nhìn sang Vương hậu đang phi thân nhào tới chắn ngang đường kiếm, Hà Hiệp kiếm pháp cao siêu, lưỡi kiếm ngay lập tức đổi hướng, hơi chuyển xuống dưới.

“A!” Một tiếng kêu thảm thiết vang lên.

Hà Túc mở trừng mắt, cúi xuống nhìn, thấy thê tử đã nằm trong vũng máu.

“Vương hậu! Vương hậu!” Hà Túc quỳ xuống, ôm Vương hậu vào lòng, giọng đã khản đặc.

Vương hậu trúng một kiếm vào giữa họng, máu trào ra như suối, toàn thân mềm nhũn, chỉ có thể lặng lẽ nhìn phu quân, ánh mắt vô cùng thanh thản, rồi từ từ nhắm mắt.

Thấy hai tay Vương hậu thõng xuống không còn động tĩnh, Hà Túc toàn thân băng lạnh, từ từ ngẩng lên nhìn Hà Hiệp, hai mắt đỏ ngầu, gằn từng tiếng: “Tại sao ngươi làm vậy?”.

Khóe mắt khẽ co, khuôn mặt đờ đẫn như người mất hồn, Hà Hiệp lạnh lùng: “Bản phò mã chỉ muốn nói với ngươi rằng, chính xác trong thiên hạ vẫn có phu quân phải tận mắt chứng kiến thê tử chết ngay trước mặt mình”.

“Hà Hiệp!”, Hà Túc gầm lên, đứng bật dậy, “Ngươi sẽ chết không toàn thây!”.

Cứ ngỡ ngày càng xa cách với Vương hậu, không ngờ đến khi thê tử chết ngay trước mắt, tim Hà Túc lại tan vỡ đến nhường này. Trong lòng vô cùng đau đớn, Hà Túc giơ hai tay, lao như bay về phía Hà Hiệp, định bất chấp tất cả mà vồ lấy cổ họng hắn.

Một kiếm giết chết Vương hậu, tuy đang lạnh lẽo cười gằn, lời lẽ chua ngoa sắc sảo, nhưng kỳ thực trong lòng Hà Hiệp lúc này đang vô cùng mơ hồ, hình như đã say đến nỗi biết mình đã làm gì, nhưng lại không tin là do mình làm.

Hà Túc xông đến, thị vệ lại ở tận xa, không thể ập vào. Nhưng võ nghệ của Hà Hiệp vốn dĩ cao hơn Hà Túc một bậc, trong tay có sẵn kiếm, đâu còn chỗ cho Hà Túc dung thân? Vừa thấy bóng Hà Túc nhào tới, Hà Hiệp vội lùi ra sau một bước, đâm kiếm ra phía trước.

Dòng máu nóng trào ra, bắn khắp đầu, khắp mặt khiến Hà Hiệp choàng tỉnh. Cuối cùng, Hà Hiệp đã thấy rõ Hà Túc chết không nhắm mắt, vẫn trừng trừng nhìn mình.

Hà Túc bị Hà Hiệp đâm một kiếm xuyên qua ngực, chết ngay tại chỗ.

Hà Hiệp buông tay, thi thể của Hà Túc và cây bảo kiếm cùng đổ xuống bên cạnh Vương hậu.

“Phò mã!”

“Phò mã…” Các cận vệ xông đến.

Hà Hiệp xua tay, lệnh cho họ lui ra.

Trong trung đình hoang vắng của vương phủ Kính An, chỉ còn mình Hà Hiệp cô độc đứng đó.

Đôi phu thê kia đang yên tĩnh nằm trong vũng máu, như đang hung hăng sừng sộ mang cái chết của họ ra chê cười một Hà Hiệp thống lĩnh thiên hạ.

Một Hà Hiệp chinh phục tứ quốc, binh mã đã đi khắp sông dài rừng sâu, hiệu lệnh vang toàn thiên hạ lại bị thi thể của đôi đế hậu mất nước cười chê!

Đáng cười!

“Ha ha ha…”, Hà Hiệp bật cười thành tiếng.

Đêm khuya tĩnh mịch, nơi vương phủ Kính An tiêu điều vang lên những tiếng cười trống rỗng.

Phu thê?

Chẳng phải đôi phu thê này đã từng hận nhau sao? Nếu không, đâu đến nỗi giang sơn loạn lạc, chôn vùi cả Quy Lạc.

“Nếu vương phủ Kính An không gặp biến cố, không biết Diệu Thiên còn có phúc phận được làm thê tử của phu quân?”

Hà Hiệp quay phắt lại.

Sau lưng, không một bóng người.

Giọng nói dịu dàng quen thuộc ấy thuộc về nụ cười tươi tắn như hoa trong miền ký ức.

Ngày đó, mười ngón tay ngọc khẽ vén rèm châu, để lộ đôi mắt linh hoạt, chăm chú nhìn Hà Hiệp.

Khi nàng lặng lẽ rơi nước mắt trên xe ngựa, khi nàng ngồi đoan trang gò bó trong tẩm cung, khi nàng thưởng rượu xem ca vũ cùng Hà Hiệp ở phủ phò mã…

Thật muốn quên hết những điều này.

Quên đi tất cả.

Quên sạch mọi thứ!

Sững sờ nhìn thi thể của Hà Túc và Vương hậu, không khí nặng nề đè nén khiến Hà Hiệp không sao đứng thẳng, đành quỳ sụp xuống.

Hà Hiệp đau khổ buông thõng hai vai, lấy tay bịt mắt.

Không thể nào quên.

Vương phủ Kính An giờ chỉ còn là phế tích, sau đại thắng, không một ai ở bên cạnh Hà Hiệp, không ai vui cùng Hà Hiệp, lo cho Hà Hiệp.

Giờ này, khắc này, cuối cùng Hà Hiệp đã nhận ra mình nhớ Diệu Thiên đến chừng nào.

Cứ tưởng rằng thê tử chỉ là công cụ giúp bản thân có được quyền lực, nhưng hóa ra, Hà Hiệp vẫn luôn nhớ về Diệu Thiên đã mang theo cốt nhục của mình, khóc lóc mà chết đi.

Khi đã có được vương quyền Vân Thường, nỗi đau trong lòng càng thêm bỏng rát, khiến cả người Hà Hiệp hoàn toàn tê dại.

Khóa!

Cửa đang khóa, Diệu Thiên đang khóc.

“Không, không, ta không cần ngự y, ta cần gặp Phò mã… Phò mã…”

“Mau đi, mau đi tìm người gọi Phò mã đến…”

“Lục Y, ta muốn gặp Phò mã… Ta không chịu được nữa rồi, ta muốn gặp Phò mã. Mau đi đi, Phò mã sẽ gặp ta mà…”

Cả người Hà Hiệp run rẩy.

Khóa, khóa.

Cửa đang khóa.

Ổ khóa trĩu nặng, khóa chặt gian phòng nhỏ, khóa chặt Hà Hiệp vào quyền thế hận thù.

Mở nó ra, mở nó ra. Đó chẳng qua chỉ là một ổ khóa, một cánh cửa gỗ, nhưng trong đó là thê tử đã kết tóc xe duyên với Hà Hiệp và cả cốt nhục của họ nữa.

“Mở nó ra! Mở khóa ra, nhanh lên, đập nát nó ra, đập nát nó ra!” Hà Hiệp ôm đầu gầm lên, khuôn mặt anh tuấn co quắp vì đau khổ.

Đã có trong tay tứ quốc, chỉ cần vẫy một cái là có ngay đèn đuốc huy hoàng, ngựa xe lộng lẫy, nhưng Hà Hiệp không thể thay đổi sự yên tĩnh đến chết chóc khiến lòng người trống rỗng này.

Tất cả mọi người đều vô tình đi qua.

Nhà ở đâu?

Gia quyến đang ở đâu?

Từng tiếng gọi của Diệu Thiên trước lúc ra đi như vọng khắp xung quanh, đập vào tai Hà Hiệp.

“Mở khóa… Mở khóa! Người đâu, mở khóa!”

“Phò mã? Phò mã?”

Bên tai bất chợt vang lên tiếng gọi rõ ràng, Hà Hiệp ngẩng đầu, ánh mắt sắc bén.

Người đứng trước mặt thận trọng dò xét thần sắc của Hà Hiệp: “Phò mã sai thuộc hạ mở khóa nào? Thuộc hạ sẽ đi mở ngay”.

Là một cận vệ tâm phúc của hắn.

Hà Hiệp đờ đẫn nhìn người trước mặt, một lúc mới dần tỉnh lại, thở dài, đứng thẳng lên, ánh mắt lại nhìn xuống, thấy thi thể của phu thê Hà Túc đã lạnh, dòng máu đông lại. Hà Hiệp nhìn chằm chằm vũng máu, ánh mắt dữ dằn, hạ giọng: “Giết hắn đi”.

Nhìn thần sắc Hà Hiệp, tên lính cũng vô cùng khiếp sợ, vội cúi xuống nhìn thi thể đã lạnh của Hà Túc, khẽ nói: “Bẩm Phò mã, Quy Lạc vương đã chết rồi”.

“Không…” Sắc mặt trắng bệch, Hà Hiệp trợn trừng hai mắt, lạnh lùng: “Đi giết chết Vương tử của Hà Túc. Giết sạch vương tộc Quy Lạc”.

Ánh mắt Hà Hiệp khiến người khác run rẩy. Tên thị vệ nghe xong mệnh lệnh cũng sững sờ. Hà Hiệp gửi thư cho Hà Túc, đồng ý chỉ cần Hà Túc giao nộp thư hàng, tự vẫn, hắn sẽ giữ lại hai tính mạng còn lại của vương tộc Quy Lạc. Nay Hà Túc và Vương hậu đều đã chết, sao phải giết nốt Vương tử nhỏ tuổi kia?

“Phò mã, chẳng phải Phò mã đã từng nói, Quy Lạc vương tử…”

“Ta đã nói gì?”, Hà Hiệp sừng sộ, “Ngươi cũng to gan thật, dám chống lại quân lệnh của ta? Người đâu, lôi ra ngoài đánh hai mươi trượng cho ta!”. Tên thị vệ đó bị lôi ra ngoài, Hà Hiệp lại gọi người khác tới, hạ lệnh: “Đi giết Quy Lạc vương tử cho ta, ngay lập tức! Ta không cho phép nhi tử của Hà Túc còn sống trên cõi đời này”.

Tuy có được thiên hạ, nhưng Hà Hiệp đã mất đi cốt nhục của mình, vậy sao có thể để hài tử của kẻ thù được sống?

Hài tử của Hà Túc đang bị giam giữ, muốn giết đâu có khó gì.

Rất nhanh, binh sĩ được cử đi đã quay về phụng mệnh: “Phò mã, đã giết xong Hà Thiệu”.

Hà Hiệp nghe xong, mặt vẫn không vui, chỉ nói: “Thế sao?”, rồi đứng lặng trong gió hồi lâu, sau đó quay lại nhìn những thị vệ đứng xung quanh, tất cả đều đang lặng lẽ đứng nhìn Hà Hiệp, ánh mắt lộ vẻ kinh hãi.

Cảm giác khó chịu trào dâng trong lòng, Hà Hiệp khẽ nói: “Hà Túc đã đồng ý tự vẫn nhưng lại hối hận, định cùng Vương hậu phản kháng, mưu đồ giết ta, nên ta mới giết sạch vương tộc Quy Lạc”. Nghĩ đến thị vệ lúc nãy lại gần mình, Hà Hiệp hỏi: “Đồng Trừng đâu?”.

“Bẩm Phò mã, theo quân lệnh của Phò mã, Đồng Trừng đã bị lôi ra ngoài đánh hai mươi trượng, hiện đang quỳ ở ngoài chờ Phò mã xử lý.”

Hà Hiệp đáp: “Bôi thuốc cho hắn, cho hắn nghỉ ngơi hai ngày dưỡng thương”.

Nhìn xung quanh, vương phủ Kính An sao mà xa lạ, Hà Hiệp bất giác thở dài một tiếng.

Mục tiêu chiếm thành Thả Nhu của Vân Thường đã định, Sở Bắc Tiệp dẫn theo tướng sĩ nghỉ ngơi tại doanh trại mười ngày, cũng là để chờ các cánh quân khác đến hợp nhất.

Hôm đó, các tướng lĩnh đang bàn bạc trong trướng, La Thượng bỗng hồ hởi vén tấm màn cửa, bước vào: “Tướng quân Hoa Tham của Bắc Mạc đã tới”.

Mọi người vui mừng nói: “Mau mời vào”.

Lời còn chưa dứt, mọi người đã thấy Hoa Tham bước vào. Hoa Tham là vị tướng trẻ được Nhược Hàn đề bạt sau khi Tắc Doãn quy ẩn, tuy trải qua thất bại Chu Tình, nhưng nhuệ khí của vị tướng quân này vẫn hừng hực. Bao nhiêu ngày trên lưng ngựa, cả người bụi đường bám đầy nhưng ánh mắt vẫn sáng ngời, Hoa Tham nhìn khắp trướng, rồi dừng lại nơi Nhược Hàn: “Thượng tướng quân”. Hắn chắp tay với Nhược Hàn, giọng nói rõ ràng mạch lạc: “Nhận được mật tín của Thượng tướng quân, mạt tướng lập tức lên đường. Sĩ khí Bắc Mạc đang hăng, ngày ngày đều có rất nhiều người tìm đến những điểm chiêu binh bí mật của ta…”.

“Không vội bẩm báo, vào đây làm quen trước đã.” Nhược Hàn gặp lại thuộc hạ, trong lòng vui mừng, vội dẫn Hoa Tham đến gặp các tướng sĩ, cuối cùng dẫn đến trước mặt Sở Bắc Tiệp, “Vị này là Trấn Bắc vương”.

Hoa Tham nhìn Sở Bắc Tiệp, ánh mắt vừa cảnh giác vừa kính phục.

Biết rằng thu phục tướng lĩnh bên phe đối thủ ngày trước không phải việc dễ dàng, nên Sở Bắc Tiệp chẳng hề để ý đến ánh mắt của Hoa Tham, chỉ đánh giá người này một lát, rồi hỏi: “Hoa tướng quân dẫn theo bao nhiêu binh mã đến đây?”.

Cảm giác khi phải bẩm báo tình hình quân ta với Sở Bắc Tiệp có chút cổ quái, Hoa Tham đưa mắt thăm dò ý kiến Nhược Hàn, rồi mới đáp: “Doanh trại của chúng ta ở Bắc Mạc đã thu nạp được khá đông người, nhưng để tránh tai mắt của quân Vân Thường, nên chỉ đưa khoảng một ngàn người tới đây. Tuy phần đông đều là tân binh chưa từng ra chiến trường, nhưng đảm bảo tất cả đều là hảo hán”.

Từ lúc nghe tin Hoa Tham đến, tim Sính Đình đã đập thình thịch. Lúc này, nàng đứng cạnh Sở Bắc Tiệp, cố nén nỗi xúc động trong lòng, lên tiếng: “Hoa tướng quân, có tin gì của Dương Phượng không?”.

Ánh mắt nhìn sang nữ tử thanh tú đang đứng bên Sở Bắc Tiệp, tuy không phải bậc tuyệt sắc giai nhân thường xuất hiện cùng đám quan lại quý nhân, nhưng khí chất trang nhã, phong thái tự nhiên thoải mái, Hoa Tham biết ngay người này là ai, bèn cung kính đáp: “Có, mạt tướng đã sai người đến nơi Bạch cô nương viết trong thư, tìm được Thượng tướng quân phu nhân”. Sính Đình từng trợ giúp Mắc Mạc đối kháng Đông Lâm, nên tất cả các tướng lĩnh Bắc Mạc đều thấy nàng thật gần gũi, thái độ của Hoa Tham với nàng cũng tự nhiên hơn nhiều so với Sở Bắc Tiệp.

Sính Đình vội hỏi: “Họ khỏe cả chứ? Dương Phượng đọc thư ta gửi xong, có nói gì không?”.

Hoa Tham cười đáp: “Thượng tướng quân phu nhân nói, mỗi người đều có chí hướng riêng, trước mắt, Thượng tướng quân phu nhân không có dự định đưa hài nhi về vùng núi an toàn nên phải từ chối ý tốt của Bạch cô nương”.

Sính Đình có chút kinh ngạc, nhìn chằm chằm vào khuôn mặt tươi cười của Hoa Tham, một lúc sau ánh mắt bỗng sáng lên, nàng khẽ reo: “Trời ơi, tỷ ấy đưa cả hài nhi đến đây”.

Dường như cùng một lúc, trái tim Sính Đình có mấy chục con chim bồ câu trắng mang theo niềm vui hân hoan tung cánh bay vút về bốn phương tám hướng.

Dương Phượng đã đến. Một Dương Phượng vẫn căm ghét chiến tranh, trước nay luôn muốn tránh khỏi mọi rắc rối đã đến tận đây.

Các hài nhi đâu?

Trường Tiếu, Trường Tiếu của ta.

Bỗng chốc, Sính Đình không thể ngăn nổi niềm vui, bước vội ra khỏi trướng, nhưng đến cửa bỗng dừng lại. Nàng đổi ý, vội vàng quay người cầm tay Sở Bắc Tiệp kéo đi.

Sính Đình trước nay vẫn ung dung, lúc này lại vô cùng xúc động, ngay cả Sở Bắc Tiệp cũng không hiểu đầu đuôi ra sao. Nhưng được Sính Đình ngoan ngoãn đưa hai bàn tay tới, đương nhiên Sở Bắc Tiệp không đời nào từ chối, cứ mặc nàng kéo ra khỏi trướng, dịu dàng hỏi: “Đi đón Dương Phượng à?”.

Thoáng cái, bóng dáng hai người đã mất hút sau màn trướng.

Thấy hai người dắt tay nhau đi khỏi, quần tướng đều rất ngạc nhiên, nhưng cũng vô cùng hâm mộ.

Hoa Tham vẫn đứng nguyên chỗ cũ, hồi lâu mới quay lại nói với Nhược Hàn: “Bạch cô nương thật lợi hại, mạt tướng vốn định vòng vo, ai ngờ chỉ một câu đã bị đoán ra”.

Đang rất vui vẻ, Nhược Hàn vỗ vai Hoa Tham, cười nói: “Đáng tiếc, ngươi không được tận mắt chứng kiến trận chiến Kham Bố”.

Những người cùng đến với Hoa Tham đang túm năm tụm ba nghỉ ngơi ăn uống trên bãi cỏ.

Sính Đình dẫn Sở Bắc Tiệp bước ra khỏi quân trướng, liếc mắc nhìn quanh đã thấy ngay một dáng người khác hẳn đám đông, sắc mặt Dương Phượng có phần mệt mỏi, nhưng vẫn nguyên một vẻ xinh đẹp, dịu dàng.

Dương Phượng cũng nhìn thấy Sính Đình từ xa, liền mỉm cười vẫy gọi: “Sính Đình!”.

“Dương Phượng!” Sính Đình vui mừng gọi một tiếng, thả tay Sở Bắc Tiệp ra, rồi nắm thật chặt hai bàn tay của Dương Phượng, nhìn một lượt khắp người hảo hữu, ánh mắt mênh mang không che giấu nổi nỗi xúc động. Hai người tay nắm chặt tay, đứng nhìn nhau hồi lâu, Sính Đình mới phá vỡ sự im lặng, giọng có chút trách móc thở than: “Tỷ cũng thật là, binh đao hiểm ác, đáng phải tránh xa. Sao tỷ không nghe lời khuyên của muội? Ở đây nguy hiểm lắm”.

“Muội không chịu yên phận, sao thuyết phục được người khác tránh đi cầu an? Ta cũng có việc muốn làm, đó là muốn đến tận doanh trại, tận mắt chứng kiến việc bình định đại loạn.” Gương mặt dịu dàng thêm phần kiên nghị, Dương Phượng mỉm cười nói tiếp, “Ta nói rồi, ta muốn tận mắt chứng kiến lời của Tắc Doãn phu quân trở thành hiện thực”.

Ánh mắt kiên định ấy chưa từng xuất hiện trên khuôn mặt Dương Phượng trước khi mất đi Tắc Doãn.

Bất giác, Sính Đình cũng thấy ngạc nhiên bèn hạ giọng: “Vậy bọn trẻ làm thế nào?”.

Dương Phượng còn chưa kịp trả lời, cái đầu nhỏ xíu đã thò ra sau lưng mẫu thân, rồi để lộ khuôn mặt tươi tắn: “Dì!”.

“Tắc Khánh lớn nhanh quá.” Sính Đình yêu thương xoa đầu Tắc Khánh, ánh mắt tìm kiếm xung quanh.

Dương Phượng biết Sính Đình đang tìm ai, bèn mím môi cười: “Không phải tìm, ở bên kia kìa”, ngón tay ngọc chỉ về phía sau Sính Đình.

Hài nhi lớn thật nhanh, chưa được bao lâu mà Trường Tiếu đã cao lên không ít. Trường Tiếu còn nghịch hơn cả Tắc Khánh, vừa được đến vùng đất lạ này, nó thấy hiếu kỳ với mọi thứ, ngay cả khi mẫu thân đến trước mặt rồi vẫn không để ý mà chạy đi nơi khác, vì nó vừa nhìn thấy một vật vô cùng quen thuộc.

“Đao, đao…”

Trí nhớ của Trường Tiếu rất tốt, trước đây nó từng được chơi với vật sáng đến chói mắt kia, còn làm liên lụy khiến Tắc Khánh bị Dương Phượng đánh cho mấy cái vào mông. Giờ gặp lại, vừa nhìn đã nhận ra ngay, nó tới gần ôm lấy đùi Sở Bắc Tiệp, kiễng chân sờ vào Thần uy bảo kiếm đeo trên hông chàng.

Sở Bắc Tiệp cúi xuống, thấy một đứa bé nhỏ xíu đang ôm lấy đùi, ngẩng lên nhìn mình. Đôi đồng tử to đen lanh lợi ở giữa hai mắt trong veo, bàn tay nhỏ xinh giơ lên, cố chạm vào bảo kiếm, không hề sợ một Trấn Bắc vương uy danh thiên hạ.

Đứa trẻ này thật to gan.

Trước kia, ngay cả hai tiểu vương tử của sư huynh cũng chẳng dám trèo lên người Sở Bắc Tiệp như thế.

Sở Bắc Tiệp chăm chú nhìn đứa bé cứ ôm lấy đùi mình, sống mũi thẳng tắp, ánh mắt quật cường, càng ngắm càng yêu. Nghĩ đến cốt nhục của mình và Sính Đình đã lặng lẽ mất đi trong vận rủi, Sở Bắc Tiệp bỗng thấy nhói lòng.

Không ngờ, hai hài tử của Tắc Doãn đều đã biết đi.

Cảm giác hâm mộ trào dâng trong lòng chàng.

Sở Bắc Tiệp trước nay không gần gũi với lũ trẻ, lần này cũng thấy mềm lòng, bất giác cúi xuống bế Trường Tiếu, cười khổ véo nhẹ hai má phúng phính của nó: “Tên tiểu tử nghịch ngợm này, sao không ngoan ngoãn đi theo mẫu thân?”.

Đang vui vẻ chơi đùa bỗng được nhắc nhở, Trường Tiếu vội vàng nhìn quanh, cuối cùng đã tìm thấy dáng hình quen thuộc, vội vã kêu lên: “Mẫu thân!”.

Tiếng gọi non nớt vô cùng đáng yêu. Trường Tiếu vừa gọi vừa giơ hai tay về phía Dương Phượng và Sính Đình, đúng lúc Sính Đình nhìn về phía ấy.

Quả nhiên là tình mẫu tử, nghe thấy tiếng gọi của Trường Tiếu, Sính Đình cảm giác trong lòng như nghẹn lại, nỗi xúc động cố nén xuống bất chợt bùng lên. Khi ánh mắt nàng chạm phải Trường Tiếu, hai dòng lệ cứ thế trào ra, lăn dài trên má.

Sính Đình bước đến trước mặt Sở Bắc Tiệp, đón lấy đứa con đang chạy nhảy khắp nơi, ôm chặt vào lòng, dịu dàng nói: “Trường Tiếu, Trường Tiếu, ta nhớ con quá”. Hai má nàng long lanh nước, ánh mắt vô cùng dịu dàng.

Trường Tiếu nào hiểu được cảm giác biệt ly, gặp được mẫu thân, vui quá cứ dụi đầu vào lòng mẫu thân, cười khúc khích.

Sở Bắc Tiệp đứng một bên, chết lặng như tượng.

Từ lúc Trường Tiếu nhào vào lòng Sính Đình, gọi Sính Đình hai tiếng “mẫu thân”, Sở Bắc Tiệp đã hóa đá.

Dường như trước mắt chàng đang xuất hiện một dải cầu vồng, lơ lửng giữa không trung, bảy màu lấp lánh.

Rồi tiếp tục dải thứ hai, thứ ba…

Vô số dải màu sắc ấy đang chuyển động quanh hai bóng người một lớn một nhỏ, ngọt ngào ấm áp, đẹp đến mức chàng không dám tin là thật.

Những dải lấp lánh kia căng tràn trong lồng ngực, bất ngờ ầm một tiếng, niềm vui vỡ òa, nỗi xúc động lan ra toàn thân.

Sính Đình ôm Trường Tiếu, quay đầu lại, bắt gặp ánh mắt Sở Bắc Tiệp thì xấu hổ cúi đầu, vẻ mặt hối lỗi, khẽ bảo: “Vương gia, đây là Trường Tiếu”.

Chỉ một câu dịu dàng ấy cũng đủ sức lay động lòng người hơn tiếng nhạc trên chốn thiên cung. Sở Bắc Tiệp biết, cả đời này kiếp này mình sẽ không quên được câu nói ấy. Đường đường một Trấn Bắc vương, lại đang trào dâng nỗi xúc động muốn khóc òa thành tiếng ngay trước mặt mọi người.

Trường Tiếu, đây là Trường Tiếu.

Nhi tử của Sính Đình.

Cũng chính là nhi tử của Sở Bắc Tiệp.

Cả người chàng lâng lâng như đang bay trên mây.

Sở Bắc Tiệp nhìn chăm chăm về phía mẫu tử tươi cười hạnh phúc trước mắt, không dám để lộ chút ít thần sắc, vì dù chỉ là một cử động nhỏ thoáng qua trên mặt cũng sẽ khiến dòng nước mắt vui mừng đang chực trào ra vỡ òa thành suối.

Đứa trẻ này là kết tinh của chàng và Sính Đình…

Sở Bắc Tiệp cố gắng hồi lâu, hai, ba lần lấy hơi, nhưng vẫn xúc động không cất nổi một tiếng.

Thấy Sở Bắc Tiệp như thế, Sính Đình bất giác lo lắng.

Trường Tiếu quay lại thấy Sở Bắc Tiệp, lại nhìn chăm chăm về phía Thần uy bảo kiếm, vui mừng reo lên: “Đao!”. Nó giơ tay ra muốn thoát khỏi Sính Đình, chạy về phía Sở Bắc Tiệp.

Dương Phượng dắt theo Tắc Khánh, đứng bên cạnh lặng lẽ mỉm cười.

Giống như có bao nhiêu âm thanh ngân vang gào thét bên tai, nếu Sở Bắc Tiệp không thể nhảy lên, hét vài tiếng với đất trời thì không thể hạ bớt ngọn lửa đang thiêu đốt trong lòng. Nhưng toàn thân chàng không chịu nghe lời, cứ đứng nguyên trên đất cũ.

Cổ họng khô rát, khó khăn lắm chàng mới nói ra được ba tiếng khản đặc: “Chờ một chút”.

Sính Đình và mọi người đều ngạc nhiên, nhìn Sở Bắc Tiệp quay phắt đi, phi như bay về phía trướng gần nhất. Sở Bắc Tiệp vừa vào trong, toàn bộ binh sĩ trong đó cũng ùa ra, vẻ mặt vô cùng khó hiểu, rõ ràng là bị đuổi hết ra ngoài.

Đám đông nín thở vây quanh trướng, bên trong bỗng vang lên những tiếng xé gió.

Vù! Vù vù…

Dù đứng cách trướng một đoạn, vẫn nghe rõ tiếng đao xé gió bên trong.

Hình như Trấn Bắc vương đang điên cuồng khua kiếm trong trướng.

Màn trướng dày nặng đang run lẩy bẩy, nó có thể rách tan bất cứ lúc nào.

Một lúc sau, tiếng kiếm xé gió bỗng im bặt, cả trướng quân cũng im lìm theo.

Màn trướng bất chợt bị kéo mạnh, đám đông đang chờ đợi cũng phải giật mình trước uy thế ấy.

Sở Bắc Tiệp đầm đìa mồ hôi, từ trong bước ra, một tay đặt trên Thần uy bảo kiếm, ánh mắt sáng ngời có thần, hoàn toàn khôi phục lại vẻ thản nhiên, trấn tĩnh thường ngày của Trấn Bắc vương, nhưng đôi mắt đỏ hoe đã nói rõ tất cả.

Chàng bước đến trước mặt Sính Đình, nhìn Trường Tiếu chằm chằm, rồi bế lấy nó, nói một câu: “Hài nhi ngoan, gọi phụ thân”.

Trường Tiếu tính khí quật cường, bình thường vẫn không chịu nghe lời, nhưng cũng có thể vì máu mủ ruột rà, lần này lại ngoan ngoãn một cách bất ngờ, ngọng nghịu kêu lên một tiếng: “Phụ thân”, rồi cúi xuống kéo áo bào của Sở Bắc Tiệp.

Sở Bắc Tiệp nghe thấy tiếng “phụ thân” của Trường Tiếu, lòng vô cùng khoan khoái, nhưng cổ họng nghẹn lại, hai tay ôm Trường Tiếu càng chặt. Trường Tiếu nhỏ bé nhẹ bẫng trong cánh tay phụ thân, bàn tay ấy vốn quen cầm kiếm, chỉ cần hơi dùng sức cũng sợ sẽ làm đau sinh linh bé nhỏ này.

Nhỏ đến nỗi khiến người ta xót xa.

Nhưng, chính sinh mệnh nhỏ bé ấy, chính tiếng “phụ thân” ngọng nghịu ấy đã khiến Sở Bắc Tiệp cảm thấy tràn đầy lòng tin hơn bất cứ thứ vũ khí sắc bén nào, hay bất cứ đội binh mã dũng mãnh nào. Sống mũi cay cay, cảm giác ôm nhi tử trong lòng khiến niềm vui của người làm cha bao trùm khắp đất trời, bỗng chốc ý chí bùng phát, Sở Bắc Tiệp cất tiếng cười sảng khoái.

Thiên hạ còn có ai may mắn hơn chàng?

Giang sơn vạn dặm cũng không bằng tiếng gọi non nớt này, không bằng nụ cười của Sính Đình.

Sở Bắc Tiệp cười vang một hồi, vui mừng đến rơi nước mắt, nhưng cuối cùng vẫn nén lại, hạ giọng than với Sính Đình: “Đòn báo thù này của Vương phi thật quá dữ dằn”, giọng nói hoàn toàn bất lực.

Bao nhiêu uất ức khi trước đến lúc này đã hoàn toàn tan biến, nhìn Sở Bắc Tiệp xúc động như vậy, Sính Đình cũng thấy hổ thẹn trong lòng, bèn cúi đầu, giọng nhỏ hơn tiếng muỗi: “Vương gia không hỏi, bảo Sính Đình làm sao mở lời? Việc này đúng là Sính Đình đã quá tùy tiện, Vương gia đừng giận, chàng hãy tùy ý trách phạt Sính Đình, được không?”.

Ánh mắt sáng ngời xuất thần của Sở Bắc Tiệp nhìn nàng chằm chằm như muốn ôm trọn ái thê, mãi mãi lưu giữ hình dáng này nơi đáy mắt.

Tức giận ư?

Cảm giác này đã từng xuất hiện.

Cơn gió thổi qua doanh trại đưa Sở Bắc Tiệp quay lại con đường ruột dê. Ngày hôm đó, bao nhiêu thiện xạ mai phục trên vách đá, mũi tên đặt sẵn trên dây cung, Hà Hiệp xuất hiện trên đầu, anh tuấn khí chất hơn người, ép Sở Bắc Tiệp đưa ra hiệp ước năm năm không xâm phạm Quy Lạc.

Hôm ấy, chàng ngồi trên lưng ngựa, Sính Đình ở trong lòng chàng.

Hôm ấy, nỗi tức giận xen lẫn phẫn nộ.

Chính là ngày hôm đó, lần đầu tiên trong cuộc đời chàng cảm nhận được nỗi đau thương đến tận cùng, lần đầu tiên chàng hiểu rằng mình đã thực sự yêu thương một nữ nhân, lần đầu tiên chàng quyết tâm dấn bước lên con đường tình trắc trở.

Chỉ đến khi yêu và hận, hạnh phúc và khổ đau xen lẫn vào nhau, không thể phân rõ ràng, chàng mới biết tình này không bao giờ thay đổi.

Không, chàng không còn tức giận.

Tại sao phải tức giận? Chàng đã có quá nhiều.

Sở Bắc Tiệp một tay bế Trường Tiếu, cọ mạnh mặt mình vào mặt hài nhi, một tay nắm chặt tay Sính Dình, chỉ mong thời gian mãi mãi lưu giữ khoảnh khắc này.

Bàn tay nằm gọn trong lòng bàn tay to chắc của Sở Bắc Tiệp, Sính Đình ngẩng lên nhìn chàng thân thiết bế nhi tử hoạt bát đáng yêu trong lòng. Cảnh tượng này vốn chỉ xuất hiện trong mơ, đến giờ đã thành hiện thực, nước mắt nàng lại trào dâng.

Sính Đình cắn môi, chăm chú nhìn cảnh đẹp hồi lâu, rồi hạ giọng hỏi Sở Bắc Tiệp: “Vương gia đã bớt giận chưa?”.

“Vương phi bớt giận chưa?”, Sở Bắc Tiệp cười nói, “Một lần giả chết, hôm nay lại thêm một lần, cũng coi như bản vương đã chịu đủ mọi nỗi thống khổ trên đời, mong Vương phi ra tay nể tình, đừng tiếp tục trừng phạt bản vương như thế nữa. Những gì ta đã làm sai trong quá khứ, Vương phi hãy bỏ qua hết cho bản vương”.

Sính Đình xấu hổ chẳng dám ngẩng đầu, môi nở nụ cười ngọt ngào, bàn tay nắm chặt bàn tay Sở Bắc Tiệp: “Vương gia, xung quanh có rất nhiều người”.

“Có người thì sao?”, Sở Bắc Tiệp nhìn quanh một vòng, cười rộ lên, “Để họ biết rằng, người không nên đắc tội nhất trong thiên hạ chính là nữ nhân mình thương yêu nhất”.

Đúng thế!

Nữ nhân luôn có cách trừng phạt nam nhân thân yêu của mình.

Họ chỉ dốc hết tâm tư cho nam nhân mình yêu thương nhất, cũng giống như chỉ tan nát cõi lòng vì nam nhân ấy.
 

Hoa Tử

Sưu tầm
Tham gia
24/9/19
Bài viết
10,570
Điểm cảm xúc
1,484
Điểm
113
Chương 59:
Thả Nhu, Vân Thường.

Trong thành vẫn được coi là thái bình, dân chúng không hề biết tòa thành nhỏ này đã trở thành mục tiêu tiến tới của Trấn Bắc vương nổi danh thiên hạ, mà vẫn bình yên sống qua ngày.

Chỉ có cơn tức giận của Thủ thành đại nhân là đang ngày một dâng cao.

Thuộc hạ đều biết sự tức giận này của Thủ thành đại nhân bắt nguồn từ đâu. Hai vị đại nhân Bồ Quang, Bồ Thịnh sinh sự khắp nơi, cố ý bới móc, khiến cả thành Thả Nhu ngột ngạt. Cơn giận khiến bù nhìn rơm cũng phải động đậy, Thủ thành đại nhân có thể nhẫn nhịn đến ngày hôm nay cũng coi là quá giỏi rồi.

“Họ lại đến ư?”

“Vâng.” Vẻ mặt thuộc hạ vô cùng bối rối, “Cung kính tiễn đi mấy lần, lần nào họ cũng quay lại ngay hôm sau”.

Phiên Lộc nhếch môi, quay đầu, ánh mắt nhìn ra sau.

Đỗ Kinh vội vàng tiến lên trước một bước, khom lưng bẩm báo bên tai quan trên: “Ngân lượng đã đưa cả theo ý đại nhân rồi”.

Haizzz, hai vị đại nhân họ Bồ này cũng quá tham lam. Ai bảo Thủ thành đại nhân của họ đứng nhầm chỗ ngay từ đầu, trở thành người của Quý Thường Thanh? Nay Quý gia không còn, họ gặp ai cũng phải khúm núm, nếu không cũng chẳng đến nỗi bị hai tên quan từ bên ngoài vào chèn ép thê thảm thế này.

Sư gia Đỗ Kinh cũng bị xui xẻo theo, chòm râu dê không biết đã đứt bao nhiêu sợi?

“Đại nhân…”, thuộc hạ hiến sách, “Hai vị đại nhân đó không chịu rời đi, chẳng phải vì chưa kiếm được gì ở thành Thả Nhu chúng ta sao? Nghe nói thành Hiển Nạp họ đến trước đó, Thủ thành Hiển Nạp còn dâng lên hai viên đá đỏ to như hai cái trứng gà, họ mới vui vẻ rời đi. Thuộc hạ nghĩ…”.

Phiên Lộc lạnh lùng hừ một tiếng: “Đá đỏ to bằng cái trứng gà? Ta biết đi đâu tìm cho họ hai viên đá như thế? Chúng ta cũng đã đưa cho họ không ít ngân lượng rồi!”.

Đỗ Kinh đứng bên Phiên Lộc, định nói gì đó nhưng lại thôi.

Phiên Lộc đưa mắt ra hiệu, thuộc hạ kia biết điều lùi đi.

“Đại nhân, sự việc thực ra cũng đơn giản.” Đỗ Kinh bước lên, con mắt nhỏ đảo quanh, “Đại nhân không có châu báu, nhưng ở thành Thả Nhu có người có. Thả Nhu tuy chỉ là một thành nhỏ, nhưng cũng được vài hộ giàu sang, chắc cũng lưu giữ bảo vật của tổ tiên truyền lại có thể vừa mắt hai vị đại nhân Bồ Quang, Bồ Thịnh”.

Sắc mặt Phiên Lộc bỗng đổi: “Ngươi muốn ta sách nhiễu dân chúng, vơ vét đồ gia bảo nhà họ?”. Phiên Lộc xuất thân mật thám, từng trải mọi chuyện, giết người phóng hỏa dễ như trở bàn tay, nhưng thực chưa từng nghĩ đến việc sách nhiễu, cướp bóc của dân.

Đỗ Kinh cười khổ, xoa hai tay vào nhau: “Biết là đại nhân không chịu nên tiểu nhân vốn không dám nói. Nhưng mà đại nhân, hai vị đai nhân Bồ Quang, Bồ Thịnh cứ ở đây cũng không phải cách hay. Chẳng may chọc giận họ, họ về thành đô đặt điều với Phò mã, đại nhân sẽ gặp nguy hiểm đấy. Họ cũng rất có giao tình với Phi Chiếu Hành tướng quân bên cạnh Phò mã”.

Phiên Lộc chán ngán như ăn phải miếng thịt mỡ, cau mày nói: “Bảo vật gia truyền quý giá như thế, ai chịu đưa ra dễ dàng? E là, muốn mua cũng chẳng được”.

Đỗ Kinh mặt ủ mày chau: “Chúng ta không cố tình làm điều ác, mà thực sự chỉ muốn bảo vệ mình. Đại nhân là quan thủ thành, nắm giữ trong tay tính mạng trăm dân trong thành, muốn đánh tiếng mượn đồ, chẳng phải cũng chỉ là chuyện nhỏ sao? Tiểu nhân thực lòng cũng chỉ nghĩ cho đại nhân”.

Phiên Lộc nghe xong những lời này, cảm thấy vô cùng buồn bã. Làm cái chức thủ thành quèn này, thực chẳng phải việc gì hay ho. Từ khi Hà Hiệp lên nắm quyền, Phiên Lộc ngày càng buồn bã, nghĩ lại còn không thoải mái bằng những ngày làm mật thám trong quân.

Nhưng hiện giờ triều chính Vân Thường rối ren, những người có liên quan đến Quý gia vẫn giữ được tính mạng đều run lẩy bẩy, chỉ một chút lơ là họ sẽ lập tức rước họa vào thân, có ai dại đến nỗi tự tìm tới rắc rối?

Phiên Lộc vốn cũng chẳng phải người lương thiện chất phác gì, suy tính trước sau một lượt, rồi nghiến răng gật đầu nói: “Cứ làm như thế đi. Chỉ là không biết nhà ai trong thành có bảo vật này?”.

Đỗ Kinh thấy Phiên Lộc gật đầu, cũng nhẹ cả người, vội vã tiếp lời: “Việc này không cần đến đại nhân nhọc công, tiểu nhân đã chuẩn bị một danh sách rồi”. Nói xong, ông ta lấy trong ống tay áo một tấm thiếp, mở ra định đọc.

Bỗng thấy một sai dịch vội vã bước vào cửa, bẩm báo: “Đại nhân, hai vị đại nhân Bồ Quang, Bồ Thịnh lại đến”.

“Mời họ vào, sắp xếp cho họ ở phòng thượng hạng.” Hai hàng mày cau lại, Phiên Lộc quay sang xua tay với Đỗ Kinh, “Đừng đọc nữa, ngươi cứ xem mà chọn cho thích hợp, cố đuổi họ đi cho nhanh. Hôm nay lại có đội quân lương qua đây, ta phải ra ngoài thành lo liệu mọi việc. Cũng may, khỏi phải chạm mặt với bọn họ, ta chỉ lo nhìn thấy cái mặt buồn nôn của hai kẻ ấy, ta không nhẫn nhịn được mà tặng họ một tên cho xong đời”. Nói xong, Phiên Lộc cầm chiếc nỏ bất ly thân trên bàn, nhẹ nhàng chuồn khỏi hậu đường, để lại Đỗ Kinh đang rầu rĩ cố nặn ra nụ cười, bước ra cổng thành đón tiếp hai vị đại nhân tham lam vô độ.

Túy Cúc ở sau hậu viện, nay nàng có thể tùy ý đi lại trong phủ thủ thành, tự do hơn trước rất nhiều. Chỉ là rảnh rỗi quá lâu, khó tránh khỏi buồn rầu, nàng bèn trồng thảo dược ở mảnh đất nhỏ nơi hậu viện.

Gieo hạt giống chưa được bao lâu, những mầm non đã bắt đầu nứt ra từ khe đất.

Vốn bẩm sinh đã yêu mến các loài thảo dược, Túy Cúc cẩn thận vun từng mầm cây, rồi xoa lưng đứng dậy.

Một sai dịch quen mặt đến bẩm báo: “Túy Cúc cô nương, đại nhân nói phải ra ngoài thành, chắc không kịp về dùng cơm, cô nương cứ ăn trước đi”.

Túy Cúc “ừ” một tiếng, trong lòng rầu rĩ.

Khi Phiên Lộc ở trước mặt, nàng chỉ mong hắn biến mất ngay lập tức. Nhưng không gặp hắn, nàng lại thấy buồn bã trong lòng.

“Cơm tối đưa vào phòng vậy.”

Bữa tối đưa tới, Túy Cúc một mình một bóng, gắp vài miếng, cảm thấy miệng nhạt thếch.

Chắc là đội quân lương của Vân Thường đi qua thành Thả Nhu. Dăm ba bữa, đội quân lương lại đi qua một lần, thật khiến người ta rầu lòng.

Nghĩ đến quân lương, lại nghĩ tới thời thế loạn lạc, nghĩ tới sư phụ giờ không biết đang ở phương nao, và cả Sính Đình linh hồn phiêu dạt, Túy Cúc nhìn lên bóng mình cô độc trên tường, càng thêm buồn bã.

Nàng buông đũa, sống mũi cay cay.

Có tên Phiên Lộc đáng hận đó ở đây, tuy hắn luôn khiến nàng tức giận, nhưng chí ít, nàng cũng không buồn bã như lúc này.

Túy Cúc nâng ống tay áo lên lau nước mắt, bỗng tiếng cười đùa của cả nam lẫn nữ bên ngoài vọng vào, chẳng mấy chốc lại có tiếng nữ tử cười vui, điệu đà hát một khúc. Túy Cúc đứng dậy bước ra cửa, đúng lúc nhìn thấy một tiểu nha đầu đi ngang qua, bèn vẫy lại, cau mày hỏi: “Lại có ai đến à? Sao ồn ã thế?”.

Tiểu nha đầu trả lời: “Thì vẫn hai vị đại nhân gì gì đấy lại đến. Đỗ sư gia đã cho gọi cô nương nổi danh tên là gì gì Xuân đó tới, đang hầu rượu hát hò với hai đại nhân ấy”.

Túy Cúc biết tiểu nha đầu đang nói đến hai người ăn lộc của Hà Hiệp, đem bao nhiêu phiền phức đến cho Phiên Lộc, nên cũng ghét lây, liền trừng mắt nhìn về phía lầu các sáng trưng. Định bụng về phòng, nhưng nghĩ tới tiếng ồn nhức đầu kia, nàng dứt khoát bước ra cửa, đi về phía tiểu đình sau phủ.

Đến bên tiểu đình, gió tối mát rượi, dễ chịu hơn ở lầu các vài phần. Túy Cúc cảm thấy tâm tình thoải mái, ngồi vào trong đình, đang nghĩ xem không biết lúc nào Phiên Lộc mới trở về, bỗng nghe thấy sau lưng vang lên tiếng bước chân, lòng chợt gợn sóng, buột miệng hỏi: “Nam nhân xấu xa, về rồi đó à?”, quay đầu nhìn, cả người bỗng khựng lại.

Bồ Quang bụng phệ chềnh ềnh đã uống say bên cầu các, thấy đệ đệ Bồ Thịnh đang kéo cô nương Nghênh Xuân nổi danh đó làm chuyện hay ho ngay tại chỗ, thì cũng dứt khoát kéo cô nương Quế Hoa xuống lầu, định tìm một gian phòng, vui vẻ suốt đêm.

Không ngờ uống quá nhiều, Bồ Quang ngất ngư dừng lại mấy lần trên đường đi xuống, đến khi quay người đã chẳng thấy Quế Hoa cô nương đâu. Sắc trời tối đen, Bồ Quang loạng choạng va hết chỗ này đến chỗ khác, rồi va ngay vào tiểu đình.

Bỗng nghe thấy giọng nói trong veo êm ái, “Nam nhân xấu xa, về rồi đó à?”.

Bồ Quang ngẩng đầu nhìn, thấy một nữ tử xinh đẹp tươi tắn đang ngồi dưới ánh trăng, trong lòng mừng thầm đã gặp vận may, miệng cười mê đắm: “Bảo bối, ta đã đến đây. Bảo đảm nàng sẽ sướng muốn chết…”. Sẵn có hơi rượu, hắn nhào đến, chạm vào bàn tay mềm mại của Túy Cúc, kề cái mặt khó coi sát lại gần.

“A!” Trong lúc không kịp đề phòng, Túy Cúc bị hắn chạm vào, liền kêu lên một tiếng, đứng bật dậy khỏi ghế đá, vung tay đẩy một cái, khiến Bồ Quang bụng mỡ lảo đảo ngã sang một bên.

Cảm giác nhầy nhụa buồn nôn ở chỗ bàn tay hắn chạm vào vẫn còn nguyên. Túy Cúc từ nhỏ đi theo sư phụ, đến đâu cũng được người khác kính trọng, ngoài tên Phiên Lộc đáng ghét kia, thì còn gã nam nhân nào dám đùa cợt nàng thế này. Thấy vẫn chưa hả giận, Túy Cúc lại gần Bồ Quang, giơ tay tát cho hắn hai cái.

Nhưng nàng là nữ tử, bình thường không đánh ai, sức lực cũng chẳng đến đâu.

Bồ Quang bị hai cái bạt tai, không những không lùi đi, mà còn tiến sát cả người hơi rượu vào gần Túy Cúc hơn, cười dâm đãng: “Tay thật thơm, tiểu mỹ nhân, tặng ca ca thêm cái nữa nào… Hai chúng ta có qua có lại, mỹ nhân tặng ca ca tay thơm, ca ca cho mỹ nhân đồ ăn ngon, cho mỹ nhân chiêm nghiệm điều mới lạ…”.

Túy Cúc chưa từng nghe những lời này, không hiểu hắn đang nói gì, nên cứ đứng nhìn. Đúng lúc đó, một mũi tên xé gió lao tới, cắm phập vào ngực Bồ Quang.

Mũi tên đến không báo trước, vừa nhanh vừa chuẩn, hai mắt Bồ Quang lồi ra như mắt ếch, không kêu lên được một tiếng, cả người đã mềm oặt đổ xuống chân Túy Cúc.

Túy Cúc ngạc nhiên, lùi ra sau, sống lưng bất chợt chạm vào lòng một người. Nàng kinh hoàng quay đầu, nhìn rõ khuôn mặt người đằng sau, bèn thở phào một tiếng: “Là ngươi…”.

Túy Cúc bỗng thấy yên tâm.

Sắc mặt Phiên Lộc cực kỳ khó coi, vẫn trừng mắt đứng đó hồi lâu, rồi một tay xách chiếc nỏ, một tay cầm cổ tay Túy Cúc, kéo nàng lên phía trước.

Túy Cúc bị kéo đến loạng choạng: “Ngươi làm gì thế?”.

Phiên Lộc kéo nàng đến trước thi thể của Bồ Quang. Tuy đã hành nghề y nhiều năm, nhưng là nữ tử nên Túy Cúc vẫn sợ nhìn thấy người chết. Bất giác, nàng cố lùi ra sau, không ngờ bị Phiên Lộc giữ chặt, không cho nàng tránh ra.

Một tay Phiên Lộc lắp mũi tên vào nỏ, rồi đưa cho Túy Cúc: “Cầm lấy”.

Nhìn vẻ mặt đáng sợ của Phiên Lộc, Túy Cúc ngoan ngoãn nhận lấy chiếc nỏ.

Phiên Lộc nhìn xuống thi thể Bồ Quang bên dưới, hất hàm: “Bắn hắn”.

“Hắn chết rồi.”

“Có bắn không?” Phiên Lộc hung hãn nhìn nàng, hai mắt đã đỏ ngầu.

Túy Cúc hơi do dự, cả người Phiên Lộc đã áp sát vào người nàng, cầm tay nàng, giương nỏ, bắn. Túy Cúc nhắm mắt, mũi tên bay đi, vù một tiếng, cắm phập vào cổ họng Bồ Quang.

Người vừa mới chết, máu từ cổ họng bắn tung tóe ra ngoài, vẫn còn nóng nguyên.

Phiên Lộc lấy lại chiếc nỏ trên tay Túy Cúc, vỗ vào trán nàng, bắt nàng mở mắt ra, hạ giọng: “Nếu có kẻ nào dám nói những lời này với ngươi, ngươi không cần nhiều lời, cứ bắn ngay cho hắn một tên, nghe chưa?”.

Phiên Lộc lúc này vừa hung hãn vừa thô bạo, chẳng còn vẻ lôi thôi thường ngày. Túy Cúc không dám làm trái ý hắn, bèn gật đầu, nhưng lại nghi hoặc hỏi: “Ý hắn nói với ta là thế nào?”.

Phiên Lộc lườm nàng một cái, không biết nghĩ đến điều gì, sắc mặt bỗng trở nên cổ quái, rồi nở nụ cười vô cùng sâu xa khó hiểu: “Cũng chẳng phải lời gì xấu xa, chỉ là những lời đó chỉ ta mới được nói với ngươi thôi, kẻ khác không được nói”.

Tuy không hiểu lắm, Túy Cúc cũng đoán ra đó là những lời chẳng hay ho gì, liền trừng mắt: “Miệng chó không thể mọc được ngà voi”. Cảm giác mặt hơi đỏ, đầu Túy Cúc cúi xuống càng thấp.

Phiên Lộc cười ha ha, quay người định đi, Túy Cúc vội kéo hắn lại: “Ngươi đi đâu?”. Dưới chân là một thi thể khủng khiếp, nàng không muốn phải ở lại đây một mình.

Phiên Lộc nhún vai: “Hai huynh đệ họ đến đây, tên này chết rồi, đương nhiên tên còn lại cũng phải đi theo bầu bạn với đại ca hắn chứ. Không lẽ lại giữ tên kia lại để hắn báo thù? Ngươi ở đây trông thi thể này, đừng để hắn biến mất”. Nói xong, Phiên Lộc bước đi mau lẹ, loáng một cái đã chẳng thấy đâu.

Túy Cúc đứng nguyên chỗ cũ, cúi xuống nhìn thi thể của Bồ Quang dưới ánh trăng, bỗng thấy mặt ao đang gợn sóng bên cạnh cũng trở nên ma quái, bất giác cả người nàng lạnh toát, hai tay nắm chặt.

Phiên Lộc đã đi được nửa canh giờ.

Đứng trông thi thể Bồ Quang, Túy Cúc cảm thấy như có lửa đốt, mỗi lần nghe xung quanh có động tĩnh, nàng lại hoảng sợ co rúm người trốn vào sau đình, chỉ sợ người khác chú ý đến thi thể kia. Bồ Quang là quan Vân Thường, nếu người ta phát hiện hắn chết ở thành Thả Nhu, thì thật không phải chuyện nhỏ.

Bốn bề yên tĩnh, nàng lại ngó cổ ra, mong Phiên Lộc mau chóng quay về, nhưng bóng dáng Phiên Lộc vẫn biệt tăm, trong lòng Túy Cúc lầm bầm oán hận Phiên Lộc hết lần này đến lần khác, tự nhủ đợi khi hắn quay lại, mình sẽ quyết không tha.

Bỗng nhiên, thoáng thấy một bóng người, hai mắt Túy Cúc sáng bừng.

Phiên Lộc quay lại cùng Bồ Thịnh mềm nhũn vác trên vai.

“Cuối cùng ngươi cũng quay lại rồi, hại ta lo muốn chết.” Túy Cúc phi ra như bay, thấy Phiên Lộc đến, nàng không sợ nữa.

Phiên Lộc nhìn nàng: “Sao ngươi còn ở đây?”.

Túy Cúc ngạc nhiên: “Chẳng phải ngươi bảo ta trông cái xác này, đừng để nó biến mất còn gì?”.

“Một cái xác thì có gì phải trông? Nó đâu có biết chạy”, Phiên Lộc nheo mắt cười, “Ta chỉ nói đùa mà ngươi tưởng thật à?”.

Túy Cúc tức đến sắp ngất đi, nghiến răng kèn kẹt: “Ta chỉ muốn giúp ngươi, mà ngươi dám đem ta ra làm trò cười”.

Phiên Lộc nhìn một lượt khắp người nàng: “Bộ dạng này của ngươi chỉ khiến ta bận thêm”.

Sát khí lúc trước đã hoàn toàn biến mất, vẻ mặt lại nhăn nhở một cách đáng ghét, Phiên Lộc đá vào người Bồ Quang, rồi ước chừng sức nặng của Bồ Thịnh trên vai, hai hàng mày cau lại: “Nặng quá, một bụng toàn xương máu chúng dân, sớm biết đằng nào cũng cho chúng một tên, mấy ngày trước hà tất còn phải cho chúng ăn sơn hào hải vị?”. Phiên Lộc quay sang nói với Túy Cúc, “Ta phải chôn từng người một, ngươi cứ ngoan ngoãn ở đây chờ ta”.

Túy Cúc gật đầu, nhìn theo dáng Phiên Lộc vác Bồ Thịnh đi xa, bỗng tỉnh ngộ, vẻ hậm hực: “Đáng ghét, ai thèm ngoan ngoãn đợi ngươi?”. Nàng giậm chân mấy cái, mặc kệ cái xác dưới đất, tức giận quay về phòng.

Trong lòng đang tức giận nên nàng không còn kinh sợ như lúc đầu.

Nàng về phòng ngồi một lúc lâu, cảm thấy không hề buồn ngủ, cứ nhìn chăm chăm ra ngoài cửa. Giữa đêm, quả nhiên Phiên Lộc đã trở về, loạng choạng bước vào cửa, rồi ngồi xuống, cầm bình trà trên bàn đổ thẳng vào miệng, nói như lẩm bẩm: “Phải chôn hai xác người, còn phải rửa sạch vết máu trên đất, mất cả buổi tối. Thật là, hai tên kia nặng hơn cả lợn, vất vả lắm mới tha được hai cái xác đến chỗ chôn, đi mất bao nhiêu lâu, vai đau ê ẩm đến nỗi không nhấc nổi tay lên”. Càng nói, hắn càng trưng ra vẻ mặt đáng thương.

Túy Cúc tuy đang bực mình, nhưng biết Phiên Lộc vất vả thế cũng vì mình, trong lòng có chút áy náy không yên, bèn đứng dậy, bước đến cạnh Phiên Lộc, ngượng ngùng hỏi: “Mỏi ở chỗ nào?”.

“Vai.”

Túy Cúc nhẹ nhàng xoa bóp cho Phiên Lộc. Đi theo sư phụ, nàng đã học qua tất cả các kiểu xoa bóp, tay nghề lão luyện, chỉ hơi thiếu sức.

Nhưng Phiên Lộc cũng chẳng để ý nàng có sức hay không, được nàng xoa bóp thế này đã là cái phúc hiếm có rồi, hắn liền lim dim mắt, xuýt xoa: “Thật dễ chịu, chắc chắn bờ vai này kiếp trước tích đức, nên kiếp này mới được bàn tay đẹp đẽ xoa bóp cho”.

Túy Cúc trừng mắt: “Ta biết ngay mà, ngươi không nói nói câu nào cho tử tế. Ngươi còn dám nói thêm, ta không xoa bóp cho ngươi nữa”.

Phiên Lộc thở dài, ngoan ngoãn ngậm miệng.

Một lúc sau, Túy Cúc hỏi: “Chúng chết rồi, ngươi ăn nói thế nào với quan trên?”.

Phiên Lộc không trả lời.

Túy Cúc nói: “Ngươi nói đi, chỉ cần ngươi đừng nói những câu khó nghe, ta sẽ bóp vai cho ngươi”.

Đến lúc này Phiên Lộc mới chịu lên tiếng: “Chúng không chết, mà là đã nhận đủ vàng bạc châu báu, thỏa mãn rời khỏi đây”.

“Sao lại như thế?”

“Ta có biệt tài tạo hiện trường giả mà, nếu không sao phải mất bao công sức thu dọn hai con lợn đó đến tận nửa đêm?”

Phiên Lộc chính xác là cao thủ tạo hiện trường, lừa được cả thiên hạ rằng Bạch Sính Đình đã rơi vào miệng sói, tin ấy cũng chính là từ hắn mà ra.

Nghĩ đến việc Phiên Lộc đi giết tên Bồ Thịnh mất đến nửa canh giờ, chắc là mất thời gian bố trí mọi chuyện, Túy Cúc không truy hỏi gì thêm.

Hai người nói chuyện trong phòng, bất giác cũng có chút buồn ngủ.

Túy Cúc nhìn Phiên Lộc: “Ngày mai không có công vụ ư? Sao còn chưa đi ngủ?”.

Phiên Lộc ngáp một cái: “Ngủ cái gì? Còn có một canh giờ nữa là trời sáng rồi. Ngươi nhìn thấy người chết, nếu ở một mình trong căn phòng tối om này sẽ sợ. Ta ở đây với ngươi đến lúc trời sáng, trời sáng rồi ngươi hãy đi ngủ, chỗ nào cũng sáng trưng, sẽ không thấy sợ nữa”.

Túy Cúc nghe Phiên Lộc nói thế, lòng như nở hoa, giọng nhẹ nhàng: “Ta không sợ, ngươi mệt cả đêm rồi, cứ thức thế này cũng không phải cách hay, mau đi ngủ đi”.

Phiên Lộc thở dài: “Không giấu gì ngươi, mỗi khi giết người, mấy đêm tiếp theo ta đều gặp ác mộng, nên không dám ngủ”.

Túy Cúc cau mày nói: “Ta sẽ kê cho ngươi một đơn thuốc an thần”.

“Ta cũng có đơn thuốc an thần, nhưng thuốc khó kiếm.”

Túy Cúc hiếu kỳ: “Vị thuốc nào lại khó kiếm đến thế? Ta sẽ đi tìm cho ngươi”.

“Một Thần y Túy Cúc chịu cho ta ôm đi ngủ…” Lời chưa nói hết, đã bị Túy Cúc đấm mạnh vào vai, Phiên Lộc giọng bất đắc dĩ, “Ta đã nói là khó kiếm mà”.
 

Hoa Tử

Sưu tầm
Tham gia
24/9/19
Bài viết
10,570
Điểm cảm xúc
1,484
Điểm
113
Chương 60:
Đêm nay thật khó tìm được giấc mộng đẹp, Sở Bắc Tiệp không sao chợp mắt nổi.

Đường Tiếu đang ngủ ngoan trong lòng phụ thân, hơi thở đều đều, thân hình mềm ấm, khuôn mặt nhỏ xíu tựa bên vai Sở Bắc Tiệp.

“Đặt xuống được thật không?” Một lúc lâu bế Trường Tiếu không dám cử động, giờ Sở Bắc Tiệp mới cố hỏi thật khẽ.

“Thật.”

“Đặt xuống có làm hài nhi tỉnh giấc không?”

“Không đâu, Trường Tiếu ngủ say rồi.”

Sở Bắc Tiệp nhìn nhi tử trong lòng, cau mày đáp: “Theo ta thì Trường Tiếu sẽ tỉnh”.

Sính Đình vừa tức vừa buồn cười, liền bước đến bế nhi tử từ tay Sở Bắc Tiệp, rồi đặt nó nằm lên tấm thảm.

“Nhẹ thôi”, Sở Bắc Tiệp lo lắng lên tiếng, “Cẩn thận đừng làm con tỉnh giấc, con có khóc không?”. Nói xong, chàng bước đến bên tấm thảm, chăm chú nhìn thằng bé, ánh mắt sáng ngời có thần.

Sính Đình đặt Trường Tiếu xuống, rồi ngồi thẳng dậy nhìn Sở Bắc Tiệp, lấy ống tay áo che miệng cười: “Người ta nói phụ nghiêm mẫu từ, thiếp thấy Vương gia thì ngược lại”.

Sở Bắc Tiệp biết mình lo lắng quá, khẽ kéo nàng vào lòng, nghiến răng hỏi: “Là ai hại ta thành thế này?”. Sở Bắc Tiệp chẳng buồn dài dòng, cúi xuống cắn nhẹ vào vành tai nhỏ xinh của Sính Đình.

“Ai ya…” Sính Đình khẽ kêu lên một tiếng, cảm thấy vành tai hơi đau, rồi lại ấm nóng ẩm ướt. Sau khi cắn nhẹ một cái, Sở Bắc Tiệp dịu dàng hôn quanh vành tai nàng. Khuôn mặt Sính Đình bất giác đỏ bừng, đưa tay đẩy vào ngực Sở Bắc Tiệp, xấu hổ nói: “Vương gia làm gì thế?”.

“Bản vương đang suy nghĩ, làm thế nào để không đánh mà vẫn khiến người khác khuất phục”, Sở Bắc Tiệp cười, hơi nóng phả vào tai nàng, “Vương phi có nhận thua không?”.

“Chiêu này của Vương gia không đánh mà thắng…”

Thân hình rắn như đúc bằng thép của Sở Bắc Tiệp đâu để Sính Đình muốn đẩy là đẩy được. Giày vò một hồi, chàng mới chịu thôi, rồi cầm tay Sính Đình, lặng lẽ bước ra khỏi màn trướng. Trên trời sao sáng vằng vặc, trước mắt không gian tĩnh mịch.

Sở Bắc Tiệp thở dài: “Tâm trạng thoải mái thế này, có thêm tiếng đàn thì tốt biết bao”, rồi quay sang nhìn Sính Đình.

Sính Đình nói: “Nơi hoang vu như vậy, lấy đâu ra đàn”.

Sở Bắc Tiệp cười không đáp, đôi mắt sâu thẳm nhìn nàng đăm đăm. Sính Đình mặt ửng đỏ, có lẽ trước ánh mắt của Sở Bắc Tiệp, chẳng ai có thể giữ được cảnh giới lòng như nước lặng, nàng bèn dứt khoát nắm tay Sở Bắc Tiệp, vòng qua doanh trại yên ắng, tìm đến nơi vắng vẻ, ngồi xuống.

“Không có đàn, Sính Đình hát một khúc cho Vương gia nghe, được không?”

Sở Bắc Tiệp hỏi: “Khúc gì?”.

Sính Đình cười: “Khúc hàng ca đền tội với Vương gia, có được không?”.

“Hử?”, Sở Bắc Tiệp im lặng giây lát, dịu dàng hỏi, “Nàng sao phải đền tội với bản vương?”.

Không biết tại sao lại có chút sững người, Sính Đình khép hai hàng mi dày, suy nghĩ hồi lâu, rồi chậm rãi đáp: “Bởi Sính Đình quá tùy tiện, khiến Vương gia chịu bao vất vả, nên trong lòng luôn cảm thấy áy náy”.

Sở Bắc Tiệp xót thương nhìn thê tử cúi đầu, khẽ ôm nàng vào lòng, trầm giọng: “Chỉ cần có nàng và Trường Tiếu ở bên, dù ta có chịu bao vất vả cũng chẳng đáng gì”.

Từ khi gặp lại nhau, đây không phải lần đầu Sở Bắc Tiệp ôm Sính Đình như thế, nhưng cảm giác lúc này khiến nàng an tâm hơn tất cả những lần trước, và cũng có thể, cảnh tượng Sở Bắc Tiệp bế Trường Tiếu trong lòng đã in sâu nơi trái tim nàng.

Bất giác, Sính Đình cũng vòng tay, ôm chặt lấy Sở Bắc Tiệp, ngả đầu vào lồng ngực rộng rãi của chàng, hạ giọng hỏi: “Vương gia có hối hận vì đã gặp Sính Đình không?”.

Sở Bắc Tiệp không đáp, mà đưa tay nâng cằm nàng lên, đặt vào làn môi hồng ấy một nụ hôn nóng bỏng.

Sao sáng lấp lánh, rừng cây tỏa bóng nghiêng nghiêng lặng lẽ che chắn cho đôi nam nữ đang tình thắm ý nồng.

“Đêm nay, hãy để bản vương hát một khúc cho nàng nghe.” Cuối cùng, Sở Bắc Tiệp cũng lưu luyến thả Sính Đình ra, mỉm cười, nghĩ ngợi hồi lâu, rồi cất tiếng hát.

“Có xuân nồng mới hận thu sầu; Có thu sầu mới hận biệt ly; Không biệt không ly…”

Giọng hát của chàng thấp trầm, phóng khoáng đa tình, vang vọng không ngừng.

“Không biệt không ly…”

Thanh âm bay lượn giữa đêm khuya thanh vắng, gió rừng cũng như đang than thở cùng năm tháng.

Không đàn.

Nhưng giọng hát thấp trầm của Sở Bắc Tiệp không cần tiếng đàn nâng đỡ.

Chàng hát bằng cả trái tim, chỉ bốn từ “không biệt không ly”, cũng đủ khiến vương phủ Kính An tơ bay bướm lượn ngày trước cuốn theo gió; đủ khiến khí thế đối đầu cùng áo thắm ngựa hăng ngoài thành Kham Bố cuốn bay theo gió; đủ khiến những câu chuyện đau thương trong quá khứ đã từng đánh ngã họ, làm họ đau đớn cuốn bay theo gió.

Tiếng hát bay bổng nơi rừng vắng, gợi lại từng câu chuyện cũ, Sính Đình nghe như mê như say, hai hàng mi dày khẽ động, nước mắt lăn dài.

Khi những giọt nước mắt rơi xuống, chạm vào ngọn cỏ non xanh, nở tung thành bông hoa nước, tiếng hát bỗng ngừng lại.

Rừng cây yên tĩnh, Sính Đình như đang nghe rõ từng tiếng thở, từng nhịp đập trái tim của Sở Bắc Tiệp.

“Sính Đình, đến hôm nay cuối cùng ta đã hiểu”, Sở Bắc Tiệp hát hết một khúc, khẽ nói.

Sính Đình giơ ống tay áo, lặng lẽ lau giọt lệ nhòa: “Vương gia hiểu gì?”.

Sở Bắc Tiệp yêu chiều ôm lấy nàng trong vòng tay, trầm giọng đáp: “Hiểu rằng dù nàng có bao nhiêu thay đổi, ta vẫn giữ nguyên ý nguyện thuở ban đầu”.

“Dù có bao nhiêu thay đổi, vẫn giữ nguyên ý nguyện ban đầu…”, Sính Đình lẩm bẩm.

“Bạch Sính Đình thông minh, Bạch Sính Đình ngốc nghếch, Bạch Sính Đình lương thiện, Bạch Sính Đình độc ác… đều là Bạch Sính Đình mà bản vương yêu thương.” Sở Bắc Tiệp thở ra một hơi thoải mái, “Ta sao có thể hối hận?”.

Đôi mắt lấp lánh nước, Sính Đình ngẩng đầu, nhìn thật rõ sự kiên định dứt khoát trong mắt chàng.

Như tiếng băng vỡ vụn từ nơi nào vọng lại, dần biến thành tiếng sấm xua tan mây đen, vang vọng trong lòng.

Để những đau thương và oán hận cuốn bay theo gió.

Niềm vui được làm mẹ vừa bắt đầu, nàng đã phải gào khóc đổ gục xuống nền đất lênh láng nước thuốc, nỗi tuyệt vọng lấp đầy năm sông bốn biển.

Sau lưng nàng, chàng đang dẫn theo thiên quân vạn mã, cách xa ngàn dặm lao về, sát khí đằng đằng.

Lời thề dưới trăng đã vượt qua bao câu chuyện trong quá khứ, trải qua bao khảo nghiệm.

Nàng nhìn về phía chân trời, bỗng vui mừng cất tiếng: “Trăng lên rồi”.

“Ở đâu?”

Ngón tay thon nhỏ chỉ về phía chân trời, “Ở kia, Vương gia không thấy sao?”.

Sở Bắc Tiệp không nhìn lên trời, mà vẫn chăm chăm hướng ánh mắt về nàng, như muốn nhấn chìm nàng trong hai hồ nước sâu hun hút. Một lúc sau, khuôn mặt tuấn tú của chàng nở nụ cười: “Nhìn thấy rồi, ở đây này”.

Chàng cúi đầu, nhẹ hôn lên hai hàng mi dày của nàng.

Hai người nói suốt một đêm những câu chuyện không đầu không cuối, nhưng chẳng ai cảm thấy mệt. Tảng sáng, trời mờ mờ, từng cuộn mây mù trong rừng bay ra quyện lẫn với ánh sáng yếu ớt, họ mới quay về trướng. Nhìn xuống tấm thảm, Trường Tiếu đã dậy từ lâu, không khóc không ồn, mà đang nghịch những tua rua xung quanh tấm thảm.

“Vừa mở mắt đã nghịch rồi.” Sính Đình vừa nói vừa bế hài tử lên. Trường Tiếu đang mải mê với đám tua rua, bàn tay nhỏ xíu nắm chặt không buông, kéo tung cả một góc thảm.

Sở Bắc Tiệp khen: “Tiểu tử ngoan, tính kiên quyết này thật giống ta”.

Trường Tiếu quay đầu, thấy Sở Bắc Tiệp đang lại gần, hào hứng reo lên, buông đám tua rua ra, khiến tấm thảm rơi xuống. Trường Tiếu cứ giơ hai tay về phía Sở Bắc Tiệp.

Sở Bắc Tiệp càng vui: “Nàng xem, Trường Tiếu thân với ta chưa?”, rồi đưa tay đón lấy Trường Tiếu.

Sính Đình cười nói: “Hài nhi đâu có thân chàng? Hài nhi chỉ muốn có Thần uy bảo kiếm của chàng thôi”.

Quả nhiên, vừa mới vào tay Sở Bắc Tiệp, Trường Tiếu đã một mực chúi về phía bảo kiếm. Thần uy bảo kiếm không nhẹ, Trường Tiếu còn bé, lại đang bị Sở Bắc Tiệp ôm trong lòng, nên dù cố hết sức cũng không với tới được, đành kêu lên: “Đao, đao!”.

“Nhi tử của ta, thích thì ta tặng cho con.”

“Có phụ thân nào như chàng không? Nhi tử mới lớn thế nào mà đã tặng thứ vũ khí sáng lóa như vậy.”

Cả nhà ba người đang vui vẻ, Mạc Nhiên bỗng vén rèm bước vào, hào hứng bẩm báo: “Những người mấy hôm trước Vương gia gửi mật thư triệu tập đều đã có mặt”.

“Một hai ngày cũng phải đến rồi”, Sở Bắc Tiệp lại hỏi, “Đến bao nhiêu người?”.

“Hơn hai mươi người.”

“Cũng đến được tám, chín phần rồi. Thời thế này, chỉ gửi thư đi mà có thể triệu tập được chừng đấy người đã là tốt lắm rồi.” Sở Bắc Tiệp bế Trường Tiếu vẫn đang luôn chân luôn tay, quay sang nói với Sính Đình, “Nàng đi gặp họ cùng ta. Những người này đều là thuộc hạ trước đây của ta, vì những nguyên nhân khác nhau mà quy ẩn, mỗi người đều có bản lĩnh riêng”.

Sính Đình nói: “Thế mới nói thời thế này những người có bản lĩnh đều đã ẩn cư hết rồi. Người được Vương gia triệu đến trong lúc gấp rút chắc chắn đều là nhân tài hiếm có”. Nàng vừa nói vừa bế lấy Trường Tiếu, rồi đặt hài nhi xuống, xoa đầu con, nói, “Trường Tiếu ngoan, đi tìm Tắc Khánh chơi đi”.

Trường Tiếu vui mừng hớn hở, chạy ngay ra ngoài trướng.

Sở Bắc Tiệp có chút không yên tâm: “Tiếu nhi làm sao biết Tắc Khánh đang ở đâu? Lộn xộn thế này”.

“Dương Phượng ở ngay bên cạnh, Vương gia không phải lo, Tiếu nhi sẽ tìm được thôi.”

Hai người còn bận bao nhiêu việc quan trọng, nên không thể để ý nhiều đến nhi tử. Họ bước theo Mạc Nhiên đi gặp mặt những thuộc hạ vừa đến, quả nhiên đó đều là những cao thủ hiếm có trong quân, có người sở trường mê trận, có người trở trường đánh lén, tìm tung tích.

Sở Bắc Tiệp lăn lộn trên sa trường, rất coi trọng những nhu cầu trong quân, nên người được triệu tập đến, ngoài cao thủ lăn lộn trên sa trường, còn có những nhân tài chuyên điều phối, trị liệu và cứu chữa người bị thương.

“Y thuật của Hoắc thần y rất cao cường, nhưng trước nay ông ấy chỉ chữa trị cho các bậc quyền quý, trị liệu rất tỉ mỉ. Khi đánh trận có bao nhiêu người bị thương, thời gian lại gấp rút, quan trọng nhất là phải nhanh. Muốn nhanh, phải là những đại phu thường xuyên hành quân cùng binh lính.”

Dưới sự chỉ dẫn của Sở Bắc Tiêp, Sính Đình lần lượt gặp gỡ những người được triệu đến. Sau đó, cả hai lại vội vàng đi bàn bạc việc quân.

Hai người vào trong trướng, các tướng lĩnh đã có mặt đầy đủ.

Sở Bắc Tiệp có hỷ sự lâm môn, sáng sớm được bế hài nhi, lúc này tay dắt Sính Đình, vẻ mặt hớn hở vui tươi, vừa vào cửa đã cười sảng khoái: “Tân binh của Bắc Mạc hôm qua đã có mặt. Bên Đông Lâm, những thuộc hạ cũ được bản vương triệu tập cũng đã đến nơi. Đợi qua hai, ba hôm nữa khi mọi việc chuẩn bị xong, chúng ta có thể thực hiện theo sách lược đã định, tiến về Vân Thường, chủ động xuất kích. Các tướng quân cảm thấy thế nào?”.

Thấy sắc mặt mọi người đều không được vui như mình, Sở Bắc Tiệp ngạc nhiên hỏi: “Sao thế?”.

Không khí vẫn im lặng, một lúc sau Nhược Hàn lên tiếng: “Vương gia hãy xem bản quân báo vừa nhận được trước đã”. Nhược Hàn lấy quân báo ra, đưa đến trước mặt Sở Bắc Tiệp.

Trong quân quy định, những trường hợp khẩn cấp, quân báo phải được viết bằng màu đỏ để những tướng tĩnh tiếp nhận có thể thấy rõ vấn đề then chốt.

Sở Bắc Tiệp nhận lấy quân báo, mở ra xem, đập vào mắt là những dòng chữ màu máu: “Hà Hiệp đã giết sạch Vương tộc Quy Lạc…”.

Đứng ngay bên cạnh Sở Bắc Tiệp, Sính Đình chỉ hơi ngước lên đã thấy hết hàng chữ ấy, mặt biến sắc.

Toàn bộ vương tộc Quy Lạc?

Không chỉ mình Hà Túc, mà bao gồm cả Vương hậu và Vương tử nhỏ tuổi.

Kẻ cầm đao, không ai khác, chính là Hà Hiệp, là hậu duệ của Kính An vương, là người của vương phủ Kính An hàng trăm năm trung thành hết mực bảo vệ vương tộc Quy Lạc.

Là thiếu gia…

Những nét chữ trong quân báo bỗng như nhảy múa, Sính Đình cảm thấy tức ngực, rồi cánh tay cũng thấy ấm áp hơn, Sở Bắc Tiệp đã đỡ lấy nàng.

Các tướng lĩnh đều biết Quy Lạc là quê hương của Sính Đình, tuy rằng sau khi đăng cơ, Quy Lạc vương đã bất nhân với vương phủ Kính An, nhưng dù sao cũng cùng lớn lên từ nhỏ với Hà Túc, nàng khó tránh khỏi thương xót.

Sở Bắc Tiệp đỡ nàng ngồi xuống ghế, để nàng ngồi vững, mới hạ giọng hỏi: “Nàng không sao chứ?”.

Đông Lâm vương hậu bước tới nói với Sính Đình: “Trong này bức bối đến ngột ngạt, ta muốn cùng Bạch cô nương ra ngoài một lát, nhân tiện ngó xem Trường Tiếu chạy đi đâu rồi”.

Sính Đình đã lấy lại tinh thần, ánh mắt lướt một lượt quanh trướng, thấy mọi người đều quan tâm nhìn mình, thì trấn tĩnh hơn, giọng từ tốn: “Sính Đình không sao, ngồi một lát là đỡ thôi. Việc quân khẩn cấp, các vị cứ tiếp tục, không nên chậm trễ”.

Sở Bắc Tiệp đáp một tiếng, rồi cầm quân báo đọc tiếp. Hàng trăm chữ dài dằng dặc tiếp theo miêu tả tường tận tình hình do thám được. Xem xong, Sở Bắc Tiệp đặt quân báo lên bàn, hỏi: “Các vị tướng quân thấy thế nào?”.

La Thượng nói ra nỗi lo âu lớn nhất của mọi người: “Quy Lạc đã mất nước. Nhạc Chấn bị Phi Chiếu Hành đánh cho tan tác. Hiện đội quân cuối cùng có thể cầm chân Hà Hiệp của tứ quốc cũng đã bị tiêu diệt”.

“Tiếp theo, Hà Hiệp sẽ dốc sức đối phó với chúng ta”, giọng Nhược Hàn vô cùng trầm trọng.

Sao có thể không trầm trọng?

Đại quân Quy Lạc thất bại, tứ quốc đã rơi vào tay Hà Hiệp.

Với thực lực hiện có của Hà Hiệp, muốn đối phó với lực lượng cỏn con này của Đình quân, thật dễ như trở bàn tay.

Các tướng lĩnh trong trướng từng thống lĩnh đội quân, là người có bản lĩnh cao cường, giỏi phân tích tình hình địch ta. Tuy không khiếp sợ, nhưng mỗi người một câu phân tích, mười phần đã có tới tám, chín phần có lợi nghiêng về Hà Hiệp.

Quân địch quả thực quá lớn mạnh.

Sở Bắc Tiệp gõ tay lên bàn, im lặng nghe các tướng lĩnh bàn bạc.

Không lâu sau, các tướng lĩnh đã nói hết những điều cần nói, trong trướng bỗng trở nên yên lặng, chỉ còn tiếng gõ tay rõ ràng mạch lạc.

Tất cả đều chăm chú nhìn về phía thân hình vững chãi như núi, sống lưng thẳng tắp, như không bao giờ khuất phục trước bất cứ việc gì trong thiên hạ. Họ lặng lẽ chờ đợi, không khí càng lúc càng tĩnh mịch, thần sắc Sở Bắc Tiệp cũng mỗi lúc một kiên nghị. Khí thế đánh đâu thắng đấy ẩn hiện qua tiếng gõ tay chậm rãi vang trong trướng.

Tất cả mọi người không hẹn mà cùng im tiếng, họ biết rằng, Sở Bắc Tiệp đang suy nghĩ.

Bất chợt, tiếng gõ tay im bặt.

Không biết tại sao, trái tim lo lắng của quần tướng bỗng nhẹ bớt vài phần.

Sở Bắc Tiệp quay đầu. Mọi người cứ ngỡ chủ soái sẽ đưa ra đối sách vừa suy nghĩ xong, ai cũng hưng phấn chờ đợi. Không ngờ Sở Bắc Tiệp lại nhìn sang Sính Đình, hạ giọng: “Liệu Hà Hiệp có lập tức rời khỏi Quy Lạc, dốc toàn lực đối phó với chúng ta?”.

Câu hỏi hoàn toàn vượt ra khỏi dự đoán của mọi người.

Bỗng chốc, mọi ánh mắt đều đổ dồn về phía Sính Đình đang ngồi bên cạnh Sở Bắc Tiệp.

Sính Đình vẫn ngồi lặng lẽ, sắc mặt không còn nhợt nhạt như trước. Một lúc sau, nàng đứng dậy, mở quân báo trên bàn, đọc qua một lượt, nhìn lại hàng chữ màu đỏ kia, cảm giác như có ai đang cầm kim đâm thẳng vào tim, nàng cau mày, hạ giọng: “Không đâu”.

Câu trả lời này cũng hoàn toàn khác hẳn so với suy đoán của mọi người.

Nhưng, Sính Đình trước nay luôn là người suy nghĩ kỹ càng, lời nói rất có sức nặng. Khi quần tướng còn đang nhìn nhau, Đông Lâm vương hậu lên tiếng hỏi: “Bạch cô nương sao lại nghĩ vậy?”.

Một bàn tay to lớn đưa qua, nắm chặt bàn tay nàng. Sính Đình ngẩng lên, nhìn Sở Bắc Tiệp, rồi quay sang, dịu dàng hỏi Đông Lâm vương hậu: “Vương hậu nương nương có biết tại sao Hà Hiệp lại không từ mọi thủ đoạn để có được thiên hạ?”.

“Vì quyền thế, hư danh.”

Sính Đình cắn chặt môi, cười như mếu: “Vì vương phủ Kính An”.

Vương phủ Kính An.

Vương phủ Kính An từng nhộn nhịp khách nhân, ca múa thâu đêm suốt sáng.

Vương phủ Kính An có mặt hồ yên tĩnh, gió lay bờ liễu.

Nhưng, chỉ qua một đêm tất cả đã chìm trong biển lửa.

“Đại quân Quy Lạc đại bại, tứ quốc đã không còn đội quân nào có thể uy hiếp địa vị của Hà Hiệp”, Sính Đình tiếp tục, “Tứ quốc đã nằm trong tay Hà Hiệp, Hà Hiệp còn có nguyện vọng gì hơn? Ở lại Quy lạc, trở về vương phủ Kính An, hoài niệm cảnh xưa, rồi vội vã xây dựng vương phủ Kính An giờ chỉ còn là phế tích, để vương phủ Kính An có vẻ huy hoàng của vị thế chí cao vô thượng”.

“Ý Bạch cô nương là… Hà Hiệp sẽ ở Quy Lạc, xây dựng lại vương phủ Kính An?”, Mạc Nhiên cau mày suy nghĩ, “Nhưng với bản tính của tiểu Kính An vương, biết rõ Vương gia đã xuất núi, hắn sẽ không mặc kệ mà chú tâm vào việc khác”.

Sở Bắc Tiệp cười nói: “Mạc Nhiên, ngươi không nghe rõ Sính Đình nói đến bốn từ ‘chí cao vô thượng’ sao?”.

“Ta hiểu rồi!”, La Thượng chợt hét lên, “Hà Hiệp sẽ lập tức đăng cơ! Xây dựng tân quốc, lên ngôi vua, đây chính là cách để vương phủ Kính An trở thành chí cao vô thượng”.

Nhược Hàn cũng vỗ đánh đét một tiếng vào tay vịn ghế, “Một khi danh phận đã được xác lập, Hà Hiệp sẽ danh chính ngôn thuận chiếm cứ thiên hạ, tất cả lực lượng phản kháng sẽ bị tiêu diệt”.

“Nếu hắn có thêm chút thủ đoạn, dùng chính sách ôn hòa an ủi lòng dân…”

“Rồi sau cùng mới từ từ đối phó với chúng ta.”

“Đến lúc trở thành nơi gửi gắm hy vọng của tất cả mọi người, Hà Hiệp muốn đối phó với chúng ta, thật dễ như trở bàn tay.”

Như vậy, tuy không thực sự nguy cấp như khi hai bên lập tức đối đầu, nhưng tình thế vô cùng hiểm ác, dù thế nào, Đình quân cũng ở vào thế như cá trong chậu, như chim trong lồng.

Sắc mặt của tất cả mọi người lại trở nên tối sầm.

Mạc Nhiên suy nghĩ một lúc, rồi nhìn Sở Bắc Tiệp, nói: “Rốt cuộc phải làm thế nào, xin Vương gia hãy ra quyết định”.

Thấy Sở Bắc Tiệp mỉm cười, đang định lên tiếng, Sính Đình vội cướp lời: “Không được quay sang thiếp, Vương gia là chủ soái mà”.

Sở Bắc Tiệp sợ nàng vẫn buồn lòng vì tin tức trong quân báo, vốn định đùa một chút, để nàng có thể dẹp bớt ưu phiền. Nhưng nghe nàng nói thế, thì cũng không nỡ để nàng lại xuất đầu lộ diện, Sở Bắc Tiệp bèn hạ giọng: “Vương phi muốn phu quân này chỉ huy đúng không? Bản vương tuân lệnh là được chứ gì”. Tinh anh trong mắt ngưng tụ, chàng lần lượt nhìn quanh tất cả các tướng lĩnh trong trướng, khí thế không hề thua lúc chỉ huy mười vạn binh mã.

Quần tướng biết Sở Bắc Tiệp đã nghĩ ra kế sách, tinh thần phấn chấn hẳn lên, cùng nín thở chờ đợi.

“Đại quân Quy Lạc thất bại quá nhanh, thời gian của chúng ta không còn nhiều. Chúng ta không chuẩn bị thêm nữa, ta sẽ cùng Mạc Nhiên dẫn theo một ngàn tinh binh, lập tức tiến về Vân Thường, đoạt lấy thành Thả Nhu.”

La Thượng đã theo Sở Bắc Tiệp nhiều năm, vốn chắc chắn trận đánh thành Thả Nhu sẽ có phần mình, nay không thấy điểm tên thì sắc mặt chợt đổi, suýt chút nữa đứng bật dậy: “Vương gia…”.

“Đừng vội, ngươi sẽ có nhiệm vụ khác.”

Có thế, La Thượng mới yên tâm ngồi vững chỗ.

“Tân quốc không thể muốn lập là lập ngay được. Hà Hiệp buộc phải mời pháp sư khảo đính thiên thời, tìm kiếm điềm lành an ủi dân chúng. Hắn muốn điềm lành, chúng ta sẽ tạo cho hắn những điềm gở khiến lòng dân hoang mang”, Sở Bắc Tiệp nói giọng quyết đoán, “Nhược Hàn, La Thượng, Hoa Tham, hôm nay bản vương triệu tập đến đây hơn hai mươi thuộc hạ, đều là những hảo hán tài giỏi, các ngươi mỗi người dẫn theo vài người, chọn ra những binh sĩ thông minh lanh lợi trong quân, tập hợp thành ba đội, xâm nhập ba địa điểm khác nhau”.

Nhược Hàn có vẻ hiểu ra, hỏi: “Vương gia muốn chúng ta đi các nơi tạo điềm gở, khiến lòng dân hoảng loạn?”.

Sở Bắc Tiệp gật đầu, lại hỏi: “Những việc mê hoặc người khác không giống như ra chiến trường. Nay khắp nơi đều là quân lính Vân Thường, Nhược Hàn phải cẩn thận. Quan trọng nhất là phải giấu kín hành tung, không được để quân Vân Thường phát hiện ra. Những điềm gở đó, các ngươi cứ thoải mái khai triển, liệu có làm được không?”.

Nhược Hàn còn chưa kịp trả lời, một giọng nói đã xen vào.

“Bùn dính máu, chim yến chết từ trên không trung bất ngờ rơi xuống, tượng đất đổ lệ… Liệu có phải những việc này?”

Sở Bắc Tiệp nhận ra Hoa Tham vừa lên tiếng thì cười nói: “Không ngờ Hoa tướng quân lại là cao thủ trong lĩnh vực này. Đúng thế, chính là những thứ ấy”.

“Việc này không khó”, Hoa Tham cau mày, “Chỉ là tốn công sức khiến dân chúng bất an, nhưng thực tế lại chẳng hề có tác dụng với mấy chục vạn quân của Hà Hiệp”.

Làm mấy việc giả thần giả quỷ tất nhiên không thể kích động lòng người bằng cướp thành Thả Nhu. Tuy trong lòng La Thượng cũng đang buồn bực vì nhiệm vụ này, nhưng, nghe cách nói năng của Hoa Tham với chủ soái không được thuận tai, lập tức hỏi lại: “Hoa tướng quân sao biết được những việc này không hề có tác dụng thực tế? Phải biết, đánh địch cần đánh vào tâm…”.

Sở Bắc Tiệp giơ tay, ngăn La Thượng nói tiếp, rồi quay sang bảo Hoa Tham: “Có tác dụng gì, Hoa tướng quân sẽ biết ngay thôi”. Sở Bắc Tiệp không nói gì thêm về việc này, mà tiếp tục phân công, “Những người khác ở lại doanh trại, do vương tẩu thống lĩnh, vào sâu trong núi, chờ đợi tin tức”. Sở Bắc Tiệp quay lại chắp tay với Đông Lâm vương hậu, trầm giọng, “Vương hậu hãy cẩn trọng, nếu địch tới, chỉ cần tránh, không cần đánh”.

Từ khi nắm giữ vương quyền Đông Lâm, trải qua bao nguy nan, Đông Lâm vương hậu giờ không còn là nữ nhân luôn giấu mình chốn thâm cung nữa. Nghe Sở Bắc Tiệp nói thế, Vương hậu cũng chẳng chối từ, chậm rãi gật đầu: “Trấn Bắc vương yên tâm, ai gia quyết không dám giao chiến, mà chỉ theo một chữ ‘ổn’, trông coi doanh trại ổn thỏa, chờ mọi người quay về”.

“Thế thì bản vương yên tâm rồi.”

Chỉ vài ba câu, Sở Bắc Tiệp đã sắp xếp xong binh mã của cả ba bên. Đều là những tướng sĩ năng chinh thiện chiến, tung hoành trên sa trường, mọi người đã ở đây đến phát chán rồi, chỉ mong sớm có việc để làm. Mạc Nhiên đứng dậy, nói: “Thuộc hạ đi chuẩn bị. Thuộc hạ sẽ chọn trước một ngàn năm trăm tinh binh, sau đó Vương gia chọn ra một ngàn người trong đó đến Thả Nhu, được không?”.

Sở Bắc Tiệp đáp: “Không có nhiều thời gian như thế. Bản vương tin vào nhãn quang của ngươi, hãy chọn ra số binh mã đi theo chúng ta, lệnh cho họ lập tức đổi sang hành trang gọn nhẹ, sẵn sàng xuất phát”.

La Thượng cũng đứng lên, vừa thả lỏng gân cốt, vừa nói: “Bên chúng ta cũng phân thành ba đội, đội nào đi về nước nào, kế hoạch ra sao cũng phải bàn bạc kỹ lưỡng. Nhược Hàn tướng quân, Hoa Tham tướng quân, đi, chúng ta tìm nơi bàn bạc một chút”.

Mấy tướng lĩnh vội vã bước đi, Đông Lâm vương hậu cũng đứng lên: “Nhận mệnh lệnh của Trấn Bắc vương trông coi doanh trại, giờ ai gia cũng phải đi tuần quanh một vòng”. Đi được hai bước, Vương hậu bỗng dừng lại, quay sang hỏi Sính Đình: “Ta nhớ Túy Cúc cũng xảy ra chuyện ở Vân Thường, đúng không?”.

Không ngờ Vương hậu lại đột nhiên nhắc tới Túy Cúc, Sính Đình cũng cảm thấy buồn, khẽ đáp: “Là ở sơn mạch Tùng Sâm giao giữa Vân Thường và Bắc Mạc…”.

“Ừ…”, Đông Lâm vương hậu gật đầu, suy nghĩ giây lát rồi nói, “Lần này đi Thả Nhu, liệu Trấn Bắc vương có thể dẫn theo Hoắc thần y? Hoắc thần y vẫn luôn muốn đi Vân Thường một chuyến, nhưng ai gia lo ông ấy xảy ra chuyện, nên năm lần bảy lượt mang bệnh tật ra để giữ chân ông ấy. Chắc sớm muộn gì ông ấy cũng phải đi một chuyến. Đi cùng các ngươi, ai gia mới yên tâm”.

Sở Bắc Tiệp và Sính Đình nhìn nhau.

Lần này Sở Bắc Tiệp dẫn binh lính đến Thả Nhu, là đi sâu vào vùng bụng Vân Thường, nguy hiểm vạn phần. Hoắc Vũ Nam là sư phụ của Túy Cúc, Sính Đình không hề muốn ông ấy xảy ra chuyện bất trắc.

Nàng nói: “Thi thể của Túy Cúc không còn ở Vân Thường. Khi đi ẩn cư, Sính Đình đã mang theo và chôn cất ở Bắc Mạc rồi”.

“Tuyệt đối không được để ông ấy nhìn thấy phần mộ của Túy Cúc, lão nhân thường không chịu đựng được đâu”, Đông Lâm vương hậu thở dài, “Các ngươi còn trẻ, không hiểu nổi việc này, nếu thấy mộ phần của Túy Cúc, Hoắc thần y sẽ càng đau khổ thêm. Ai gia chỉ muốn các ngươi đưa ông ấy đi một chuyến cho có…”. Nói những lời này, bất giác Vương hậu nghĩ đến hai vương tử đã mất của mình, khóe mắt đỏ hoe, cố ngăn dòng lệ đổ.

Sở Bắc Tiệp không dám từ chối, “Vương tẩu yên tâm, nếu Hoắc thần y muốn đi, bản vương sẽ chăm sóc ông ấy”.

Tiễn Đông Lâm vương hậu đi khỏi, Sở Bắc Tiệp quay lại trướng, thấy Sính Đình vẫn đứng nguyên chỗ cũ. Vốn đã nhìn quen cảnh đầu rơi máu chảy, bản thân lại là một tướng quân giết người vô số, nhưng chàng sợ nhất phải thấy nữ nhân thương yêu của mình đau lòng.

Từ lúc Sính Đình quay về sau hai năm xa cách, Sở Bắc Tiệp luôn thấy nàng giống như con búp bê làm bằng ngọc lưu ly có thể vỡ vụn bất cứ lúc nào, nên mỗi khi thấy nàng phiền lòng, chàng lại vô cùng lo lắng. Sở Bắc Tiệp khẽ khàng đến bên ái thê, dịu dàng hỏi: “Đang nghĩ gì thế? Sao nàng không đi tìm Trường Tiếu?”.

Sính Đình biết Sở Bắc Tiệp lo lắng mình lại buồn chuyện Túy Cúc, nên ngẩng đầu nhìn chàng, mỉm cười, nói: “Hôm nay Vương gia sắp xếp như thế vì đoán chừng Hà Hiệp sẽ lập tức xây dựng tân quốc. Nhưng nhỡ chăng Sính Đình đoán sai, Hà Hiệp không tập trung vào việc đăng cơ mà lập tức dẫn quân đến Đông Lâm bao vây chúng ta, há chẳng phải là sai lầm sao?”.

“Sính Đình sao có thể đoán lầm? Nàng là người hiểu rõ Hà Hiệp nhất.”

Sính Đình lặng lẽ thở dài.

Sở Bắc Tiệp hỏi: “Sao vậy? Nàng không đủ lòng tin vào bản thân ư? Bản vương thì hoàn toàn tin tưởng nàng”.

“Thiếp cứ ngỡ mình rất hiểu Hà Hiệp, Hà Hiệp định làm gì, nếu thiếp không hoàn toàn đoán trúng, thì cũng đoán được bảy, tám phần.” Ánh mắt Sính Đình khẽ chuyển động, nhìn về phía quân báo, thở dài, “Nhưng thiếp chưa từng nghĩ, Hà Hiệp không những giết Hà Túc mà còn giết cả Vương hậu và Vương tử. Hà Túc, Hà Hiệp và thiếp cùng lớn lên bên nhau, Hà Hiệp giết Hà Túc, chắc chắn để báo mối thù hủy diệt vương phủ Kính An, thiếp cũng chẳng có gì để nói, nhưng Vương tử mới được vài tuổi. Khi Vương tử ra đời, mọi người đến chúc mừng, thiếu gia còn tặng Vương tử một dây phỉ thúy, và tự tay đeo vào cổ Vương tử…”.

Không đợi nàng nói hết, Sở Bắc Tiệp ôm chặt nàng vào lòng, hôn lên mí mắt nàng, giọng dịu dàng: “Nàng đừng nói nữa, càng nói càng buồn. Nàng buồn, ta cũng buồn theo. Ta sắp đi Thả Nhu rồi, nàng còn muốn ta mất ngủ sao?”.

Bị Sở Bắc Tiệp hôn đến đỏ cả mặt, Sính Đình tránh sang một bên, nói: “Bị chàng suốt ngày gây phiền phức thế này, thiếp cũng chẳng ngủ được. Mà chúng ta đều đi, có mang theo Trường Tiếu không?”.

Sở Bắc Tiệp ngẩn người: “Nàng cũng theo sao?”.

“Chẳng lẽ thiếp lại không đi?”

Sở Bắc Tiệp nói: “Nguy hiểm như thế, nàng không nên đi”. Hai hàng mày cau lại, khuôn mặt anh tuấn ngời ngời của chàng bỗng có chút sa sầm.

Sính Đình không hề sợ sắc mặt ấy, còn khẽ khàng dựa vào vai chàng, hỏi: “Vương gia không muốn Sính Đình ở cạnh sao?”.

Câu hỏi này thật vòng vo khéo léo, Sở Bắc Tiệp đã bị người ta bỏ thuốc mê bao nhiêu lần, nhưng vẫn không chống đỡ nổi chiêu này của Sính Đình, dù lông mày vẫn cau, nhưng giọng nói đã không còn vẻ kiên quyết lúc nãy: “Đương nhiên không phải thế”.

“Vương gia để Sính Đình lại đây, không sợ đến lúc quay về, chẳng thấy thê tử và hài nhi đâu? Thiên hạ rộng lớn thế này, Sính Đình thật muốn dẫn theo Trường Tiếu, du ngoạn bốn phương.”

Sở Bắc Tiệp ôm chặt Sính Đình, nhẹ cù vào sườn nàng: “Đâu có cái lý do đó, nàng lại định uy hiếp bản vương sao, quen thói rồi đúng không?”.

Sính Đình cười khúc khích, cố tránh khỏi bàn tay Sở Bắc Tiệp: “Không dám, không dám, Vương gia muốn Sính Đình ở lại, Sính Đình tuân lệnh là được rồi”.

Không ngờ nàng lại dễ thuyết phục thế, Sở Bắc Tiệp dừng tay, kéo nàng đến trước mặt mình, cẩn thận vuốt những sợi tóc lòa xòa trước trán nàng: “Sắp xuất phát rồi, ta phải đi gặp Trường Tiếu”.

“Chắc Trường Tiếu đang chơi bên chỗ Tắc Khánh.”

Hai người đi tìm Trường Tiếu, quả nhiên nó đang ở cạnh Dương Phượng, cả hai đứa trẻ lấm lem bùn đất. Thấy Sở Bắc Tiệp, hai đứa liền vây lại để lấy Thần uy bảo kiếm. Nghĩ đến việc sắp phải xa con, Sở Bắc Tiệp liền ôm lấy Trường Tiếu, vừa thơm vừa nựng một hồi lâu rồi mới lưu luyến thả ra. Trường Tiếu đâu biết tâm sự của phụ thân, vừa được thả đã cười ha ha chạy theo Tắc Khánh.

Một canh giờ sau, Mạc Nhiên đã chuẩn bị chu toàn mọi việc, đến bẩm báo: “Binh mã đã chọn xong, sẵn sàng chờ lệnh của Vương gia”.

Sở Bắc Tiệp gật đầu, suy nghĩ giây lát rồi nói với Mạc Nhiên: “Ngươi chọn thêm một con ngựa ngoan cho Sính Đình”.

Mạc Nhiên nhận lệnh, lập tức đi làm.

Đợi Mạc Nhiên đi khỏi, Sính Đình mới nhìn Sở Bắc Tiệp cười nói: “Chẳng phải thiếp đã khuất phục rồi sao? Vương gia chèn ép bắt người ta phải đồng ý không đi, sao giờ còn chọn ngựa cho người ta? Hóa ra Vương gia sợ thiếp dẫn theo Trường Tiếu lưu lạc bốn phương thật”.

Sở Bắc Tiệp tức đến nghiến răng, túm lấy cánh tay Sính Đình kéo vào lòng: “Nàng đừng hòng đi đâu, bản vương sẽ đích thân làm cai ngục canh giữ nàng”.

Hai năm nay vì Sính Đình, Sở Bắc Tiệp đã phải chịu đủ giày vò, nghĩ đi nghĩ lại, tốt nhất vẫn nên đưa Sính Đình đi theo bên cạnh, dù nguy hiểm, nhưng nếu xảy ra chuyện gì, ít nhất chàng cũng ở bên nàng, che chở cho nàng.

Nếu thêm một lần điên cuồng tìm kiếm khắp bốn cửa khẩu của Vân Thường, thì mới thực là đau lòng muốn chết.

“Trường Tiếu thì làm thế nào?”

Nghĩ đến Trường Tiếu, Sở Bắc Tiệp sao lại không yêu thương lưu luyến, thật là khó cả đôi đường. Hồi lâu, chàng mới nói: “Tạm thời cứ gửi chỗ Dương Phượng, ở lại doanh trại cũng an toàn hơn. Cứ giữ chặt mẫu thân, ta lo gì không giữ được nhi tử”.

Tuy không nỡ nhưng gửi Trường Tiếu cho Dương Phượng, Sính Đình cũng thấy yên tâm. Nàng gật đầu, dựa vào lòng Sở Bắc Tiệp, im lặng không nói.

Vốn đang bị nàng chọc cho tức giận, lúc này Sở Bắc Tiệp cúi đầu nhìn xuống, ngọc ấm trong lòng, thanh tú xinh đẹp hút hồn người, bỗng thấy dẫn Sính Đình theo cũng là việc hay. Thế là, chàng khẽ vuốt tóc nàng, đang định rút cây trâm ra, gần gũi một phen. Bỗng ngoài trướng có tiếng bước chân, chàng đành phải kìm lòng, dừng tay lại.

Có người vén màn trướng bước vào, lại là Mạc Nhiên. Mạc Nhiên đến bẩm báo: “Đã chuẩn bị xong ngựa cho Bạch cô nương”.

Sính Đình đã kịp ngồi dậy trước lúc Mạc Nhiên vào, đi sang một bên để sắp xếp hành trang.

“Để tránh sự chú ý của quân Vân Thường, tốt nhất là hành quân ban đêm. Truyền lệnh, tối nay nấu cơm sớm, ăn xong lập tức xuất phát.”

Trong sắc chiều bảng lảng, một đội ngũ nghiêm trang lặng lẽ khởi hành từ rừng sâu, vượt núi xuyên rừng, tiến thẳng đến Thả Nhu.

Tòa thành nhỏ của Vân Thường sừng sững nơi phương xa.

Hành trình thay đổi thiên hạ được bắt đầu từ đây.

Trấn Bắc vương đưa theo thê tử thân yêu, khi chiến mã cất tiếng hý đầu tiên, tất cả đã được định. Trong lịch sử khai quốc huy hoàng vĩ đại của Đình triều, mọi người sẽ mãi mãi khắc ghi về tòa thành Thả Nhu vốn vô danh này.
 

Hoa Tử

Sưu tầm
Tham gia
24/9/19
Bài viết
10,570
Điểm cảm xúc
1,484
Điểm
113
Chương 61:
Trong ánh bình minh chiếu rọi, Phi Chiếu Hành dẫn theo đội quân khải hoàn trên con đường rộng lớn. Xa xa, cổng thành của thành đô Quy Lạc đã hiện ra trước mắt.

Tàn quân thảm bại của Quy Lạc đã bị tiêu diệt gọn ghẽ. Phi Chiếu Hành mang theo hai cái hộp, một đựng thủ cấp của Nhạc Địch và một của Nhạc Chấn.

Đôi phu tử này từng là chủ nhân của Phi Chiếu Hành. Hắn từng đi theo họ, sống chết vì họ, đổ máu và mồ hôi vì họ, để cuối cùng nhận lấy kết cục “thố tử cẩu phanh, điểu tận cung tàn”.

Không cam lòng! Thật sự không cam lòng!

Nỗi lòng đó khiến Phi Chiếu Hành không hề do dự mà lựa chọn phản bội. Chính sự phản bội ấy đã làm nên thành công ngày hôm nay.

Ù… Ù…

Tiếng tù và trầm thấp mà ngân nga chào đón họ trở về.

Cổng thành đã mở. Phi Chiếu Hành cưỡi trên lưng ngựa cao lớn nhất, đi giữa tiếng tù và vang vọng, mang theo niềm vui khoan khoái tiến về nơi đã từng là thành đô Quy Lạc.

Giờ Quy Lạc không còn nữa, Hà Túc đã chết, vương tộc Quy Lạc đã bị diệt vong.

Dân chúng quỳ hai bên đường nghênh đón, rõ ràng những con dân mất nước này đã bị binh sĩ đuổi ra khỏi nhà, khiếp sợ quỳ mọp ở đây, hàng vạn ánh mắt kinh ngạc, khiếp sợ hoặc bi phẫn đan xen, tập trung về phía Phi Chiếu Hành.

Những ánh mắt chẳng mấy thiện cảm đó không hề làm giảm bớt niềm vui và sự đắc ý của Phi Chiếu Hành.

Hắn không cần để ý đến dân chúng thấp kém đang quỳ mọp dưới kia. Họ chưa từng biết đến bạc nhược và bất tài của Hà Túc. Họ không biết rằng, bậc vương giả phải quyết đoán, độc ác và vô tình.

Ai có thể so được với Hà Hiệp? Một tiểu Kính An vương hùng tâm tráng chí, dũng mãnh thiện chiến, kiếm pháp cũng như ánh mắt vô cùng lạnh lẽo.

Ngoài cuộc tỉnh táo, trong cuộc u mê.

Phi Chiếu Hành còn hiểu rõ hơn Hà Hiệp, rằng Diệu Thiên công chúa là một cửa ải của Hà Hiệp.

Khi Diệu Thiên công chúa trút hơi thở cuối cùng ở vương cung Vân Thường, khắp thiên hạ đã không còn điều gì có thể trói buộc, ngăn cản Hà Hiệp.

Vân Thường quốc tang lại khiến Phi Chiếu Hành cảm thấy lòng hăng hái. Đời người là một canh bạc, muốn thắng vẻ vang phải có nhãn quan. Phi Chiếu Hành từng theo lầm Nhạc Chấn, nhưng lần này cũng coi như đã đặt đúng cửa.

Đi theo Hà Hiệp, hắn có cơ hội ngàn năm khó kiếm.

Qua cổng thành, càng tiến vào trong, đường xá càng vắng vẻ. Thỉnh thoảng, Phi Chiếu Hành chỉ thấy những ánh đao lạnh lẽo của binh sĩ Vân Thường, và cả những khuôn mặt bất an của muôn dân.

Trên đường lớn, một thị vệ tâm phúc của Hà Hiệp xuất hiện, ngăn bước Phi Chiếu Hành ý chí đang hăng hái thẳng tiến đến vương cung: “Tiểu Kính An vương không ở trong vương cung, mời Phi tướng quân qua vương phủ Kính An”.

Phi Chiếu Hành gật đầu, thúc ngựa quay đi. Vương phủ Kính An vốn là nhà của Hà Hiệp, Hà Hiệp ở đó hoàn toàn thấu tình đạt lý.

Phi Chiếu Hành xuống ngựa trước cổng vương phủ Kính An. Đập vào mắt hắn là một phủ đệ giờ chỉ còn là phế tích. Sững sờ một lúc, hắn mới theo thị vệ, bước qua bục cổng cao.

Rêu xanh phủ kín vương phủ, cỏ mọc đầy sân.

Phía bên kia, trụ đá cháy nham nhở, Hà Hiệp một mình một bóng đứng giữa hoang vu.

Bóng dáng đó đã có được cả một dải núi sông rộng lớn, từ nay ngàn thu muôn thuở, hậu thế sẽ truyền tụng cái tên của người này.

Phi Chiếu Hành không dám sơ ý, bước đến gần đó, đứng lại, rồi mới cung kính nói: “Bẩm tiểu Kính An vương, mạt tướng đã đem theo thủ cấp của Nhạc Địch và Nhạc Chấn về đây”.

Hà Hiệp sớm đã biết Phi Chiếu Hành đến, bèn quay lại, cười nói: “Vất vả rồi, ngươi làm rất tốt. Ta đã chuẩn bị sẵn phần thưởng cho ngươi. Đến đây, đọc đi”.

Một thị vệ bước đến, giở cuộn gấm trong tay, lần lượt đọc hết, quả nhiên đồ ban thưởng không ít. Phi Chiếu Hành trước đây theo Nhạc Chấn, cũng thường xuyên ra vào vương cung Quy Lạc, nghe thấy trong danh sách ban thưởng của Hà Hiệp có vài món được Quy Lạc vương coi như báu vật vô giá.

Hà Hiệp ngồi xuống, vẻ lạnh nhạt, hình như đang cười, nhưng ánh mắt chẳng hề tươi tỉnh, khiến người ngoài nhìn mà không hiểu.

Phi Chiếu Hành đợi thị vệ đọc xong, hành lễ tạ ơn: “Nhờ phúc của tiểu Kính An vương, mạt tướng mới được đánh một trận vẻ vang như vậy, mạt tướng sao dám nhận nhiều tặng phẩm thế này”. Nói xong hắn lại thận trọng hỏi, “Thủ cấp của Nhạc Địch và Nhạc Chấn, tiểu Kính An vương vẫn chưa nhìn qua, có…”.

“Không cần”, Hà Hiệp lắc đầu, “Ta còn không tin ngươi sao?”.

Hai thị nữ xinh đẹp dâng trà lên Hà Hiệp và Phi Chiếu Hành. Phi Chiếu Hành tạ ơn Hà Hiệp, hai tay nhận lấy chén trà. Chén trà trong suốt mỏng tang, nhìn qua đã biết là đồ quý hiếm, nhưng hoàn toàn không ăn nhập với nơi phủ trạch tiêu điều này.

Hình như biết rõ Phi Chiếu Hành đang nghĩ gì, Hà Hiệp nhấp một ngụm trà, nói: “Ta đã từng cho treo lụa đỏ gấm xanh nơi này, rồi sắp xếp những đồ gia dụng tinh xảo, nhưng vẫn không thêm được chút ít sinh khí. Ta cũng sai người sửa chữa những bức tường đổ nát ấy, nhưng vừa bắt đầu, ta lại hạ lệnh dừng ngay. Ngươi biết tại sao không?”.

Phi Chiếu Hành đặt chén trà xuống, ngồi ngay ngắn lại, rồi thận trọng đáp: “Vương phủ Kính An ngày trước chính là vương phủ Kính An ngày trước, cho dù tu sửa thế nào cũng không thể quay trở lại”.

Đôi môi mỏng của Hà Hiệp khẽ động, hình như đang mỉm cười, nhưng chỉ thoáng qua: “Đúng thế, nếu đã mất đi, sẽ không bao giờ quay lại được. Tại sao vào thời khắc phải chọn lựa lấy hay bỏ, con người ta không thể nhìn thấu điều này? Ta thực sự rất hối hận”. Giữa hai hàng lông mày của Hà Hiệp ẩn chứa nỗi bi thương không hề che giấu.

Không ngờ Hà Hiệp lại nói với mình những lời gan ruột này, Phi Chiếu Hành vừa vui lại vừa sợ, ngôn ngữ cử chỉ càng thêm thận trọng.

Trong mắt Phi Chiếu Hành, Hà Hiệp là bậc kiêu hùng vô song thiên hạ. Hà Hiệp trí dũng hơn người, dã tâm hừng hực, ngôn ngữ cử chỉ thận trọng, luôn giấu kín nỗi lòng, kỵ nhất để người khác nhìn thấu tâm tư.

Phi Chiếu Hành cúi xuống bê chén trà lên, nhấp một ngụm, vờ cho trơn họng.

“Ta đã giết cả nhà Hà Túc”, Hà Hiệp nói xong lại hỏi, “Ngươi có nghe lời đồn bên ngoài không?”.

Phi Chiếu Hành gật đầu: “Có nghe qua”.

“Ngươi thấy thế nào?”.

“Vương tộc mất nước, chẳng qua chỉ là thân con sâu con kiến. Tiểu Kính An vương đã có được cả thiên hạ, giết mấy con sâu con kiến cũng có gì là không được?”.

“Ta không muốn giấu ngươi”, Hà Hiệp nhìn Phi Chiếu Hành, mỉm cười, “Lời đồn ngoài kia cũng chẳng sai, Hà Túc không hề có ý định cùng Vương hậu mưu hại ta, là ta vô cớ giết cả ba người họ”.

Phi Chiếu Hành sững người, đang không biết đáp thế nào, Hà Hiệp đã chuyển sang chuyện khác: “Thương Lộc tướng quân tử trận, cánh quân Vĩnh Xương hiện do ai tiếp quản?”.

Phi Chiếu Hành đáp: “Trên chiến trường mất chủ tướng, phải lập tức quyết đoán, nên mạt tướng đang tạm thời tiếp quản”.

Hà Hiệp chậm rãi nói: “Đông Chước cũng trưởng thành rồi, cần có cơ hội để luyện tập. Hiện giờ Vân Thường đã ổn định, ta muốn điều Đông Chước ra sa trường để rèn luyện bản lĩnh, hãy giao cánh quân Vĩnh Xương cho Đông Chước quản lý. Sau khi trở về, ngươi hãy bàn giao mọi việc”.

Phi Chiếu Hành nhận lệnh.

Không biết tại sao, hôm nay có quá nhiều cảm xúc, Hà Hiệp thở dài, đứng dậy nói với Phi Chiếu Hành: “Đi, ngươi cùng ta đi một vòng xem sao”.

Phi Chiếu Hành theo Hà Hiệp, chậm rãi đi một vòng quanh vương phủ Kính An.

Đình viện đã hoàn toàn hoang phế, mặt hồ đầy bèo, thỉnh thoảng có đám bọt khí trôi qua trôi lại. Nhưng dưới mặt nước không phải đàn cá chép lộng lẫy sắc màu tung tăng bơi lội, mà là những con cá đen sì, chẳng biết chúng đã vào đây bằng cách nào.

Côn trùng rả rích kêu trong đám cỏ.

Hai người một đi trước một theo sau, bước thấp bước cao trên những đám cỏ. Một lúc lâu, Hà Hiệp bất chợt lên tiếng: “Mọi chuyện xảy đến thật nhanh, cả Quy Lạc cũng không còn nữa”, ngôn ngữ chất chứa bao cảm khái.

Phi Chiếu Hành thầm ngạc nhiên, Hà Hiệp đã có được thiên hạ, sao vẫn rầu rĩ? Phi Chiếu Hành vừa nghĩ vừa liếc trộm bóng lưng thẳng và căng như dây đàn của Hà Hiệp.

Cũng có thể vì giờ không còn đại quân nào đủ sức chống chọi với Hà Hiệp, nên lần này gặp lại, Phi Chiếu Hành cảm thấy Hà Hiệp đã xa cách hơn trước rất nhiều, khắp người bắt đầu tỏa ra sự uy nghiêm của bậc chí cao vô thượng.

“Đại quân Quy Lạc đã bị tiêu diệt, tứ quốc đã thống nhất, ta định ra chiếu thư, lấy danh nghĩa của tiểu Kính An vương thành lập tân quốc, lấy quốc hiệu Kính An”.

Chần chừ một lát, Phi Chiếu Hành thử khuyên nhủ: “Lập tân quốc tất nhiên quan trọng, nhưng việc Trấn Bắc vương vẫn chưa giải quyết xong, liệu có nên…”.

“Không cần lo lắng. Dù Sở Bắc Tiệp có bản lĩnh đến mức nào, cũng không thể một mình chống lại mấy chục vạn quân của ta. Tướng không có quân thì có gì đáng sợ?”, Hà Hiệp cười gằn, “Đợi sau khi ta đăng cơ, hắn sẽ không còn là Trấn Bắc vương của Đông Lâm nữa, mà là nghịch tặc của Kính An quốc, giết hắn hoàn toàn là lẽ tất nhiên. Có được một đối thủ thế này cũng chẳng dễ dàng gì, đợi có thời gian, ta sẽ từ từ đối phó với hắn”.

Nghe ý Hà Hiệp, tứ quốc đã thống nhất, giờ không còn đối thủ xứng tầm, nên Hà Hiệp không muốn dồn Sở Bắc Tiệp vào chỗ chết ngay lập tức, mà muốn chơi trò mèo vờn chuột dần dần ép Sở Bắc Tiệp tới đường cùng.

Cũng không thể nói Hà Hiệp tự kiêu tự đại, khắp tứ quốc, những đại quân có thể đối kháng với hắn đã dần bị tiêu diệt. Một mình Sở Bắc Tiệp liệu có được bản lĩnh gì để khiêu chiến với đại quân Vân Thường? Nếu Sở Bắc Tiệp dám công khai chiêu mộ phản quân, ngay lập tức đại quân Vân Thường sẽ kéo đến vây bắt, thế quân đông gấp mười lần, chắc chắn Sở Bắc Tiệp sẽ chết tại trận.

Tuy cảm thấy không ổn, nhưng từng từ của Hà Hiệp đều vô cùng chắc chắn, không thể thay đổi, Phi Chiếu Hành đành im miệng, gật đầu.

Hà Hiệp bất chợt dừng lời: “Có việc này phải giao cho ngươi đi làm”.

“Vâng”.

“Ta muốn ngươi đi thu thập châu báu các nước, đặc biệt là trân châu đá quý hảo hạng và một đội thợ giỏi chuyên khảm nạm đá quý cũng như chế tác đồ trang sức”.

Phi Chiếu Hành hiểu ngay lập tức: “Tiểu Kính An vương muốn chế tạo vương miện?”.

Hà Hiệp lắc đầu, giơ hai ngón tay lên: “Hai chiếc, một mũ vua, một mũ hậu. Cả hai đều phải tinh xảo đẹp mắt không gì sánh kịp, không được để xảy ra bất cứ sai sót nào”.

Phi Chiếu Hành nhận lệnh, nghe Hà Hiệp dặn dò thêm vài câu rồi cáo từ ra khỏi vương phủ Kính An.

Trở về phủ đệ mình vừa được sắp xếp, Phi Chiếu Hành nghĩ đi nghĩ lại, vẫn cảm thấy có chỗ không ổn, bèn gọi một tâm phúc ở Quy Lạc đến, hỏi: “Sau khi trở về Quy Lạc, tiểu Kính An vương có để mắt đến nữ nhân nào không?”.

Tâm phúc kia suy nghĩ kỹ càng, rồi lắc đầu đáp: “Thuộc hạ không nghe nói tiểu Kính An vương gần gũi nữ sắc. Sau khi trở về thành đô Quy Lạc, tiểu Kính An vương chỉ ở trong vương phủ Kính An xử lý sự vụ. Cũng đúng thôi, vương phủ Kính An giờ chẳng còn ai, tiểu Kính An vương quay về đất cũ, khó tránh khỏi lòng thương nhớ chuyện xưa”.

Phi Chiếu Hành nghe xong, cảm thấy có điều gì đó đang nghẹn trong cổ họng, nhưng không thể nói thành lời, chỉ thấy mình đã bỏ sót một số chuyện. Đang suy nghĩ, bỗng một thuộc hạ vào báo, đồ ban thưởng của Hà Hiệp đã được đưa đến.

Phi Chiếu Hành đích thân ra nhận, mở một hộp ra xem, đều là những đồ quý hiếm. Hà Hiệp không tiếc ngàn vàng ban thưởng, xem ra sau này không phải là một đại vương keo kiệt. Phi Chiếu Hành mừng thầm trong lòng, thưởng cho thị vệ đưa tới không ít tiền vàng.

Trưởng thị vệ của Hà Hiệp cũng đích thân đến, sau khi cung kính cười với Phi Chiếu Hành, lại nói: “Huynh đệ ta phụng lệnh đến đây còn có một việc, đó là Đông Chước tướng quân sẽ cai quản cánh quân Vĩnh Xương, mời Phi tướng quân lấy soái ấn bàn giao rõ ràng”.

Phi Chiếu Hành đã sớm biết việc này, nên vui vẻ đóng ấn lên công văn vừa đưa tới, cũng coi như đã bàn giao xong đạo quân Vĩnh Xương, rồi mới tiễn đám thị vệ vừa được ban thưởng không ít tiền vàng ra về.

Vì trong lòng đang vui, nên dù cả chặng đường trở về thành đô mệt mỏi, Phi Chiếu Hành vẫn chưa buồn ngủ, liền gọi mấy tướng lĩnh dưới trướng đến uống rượu chúc mừng.

“Cạn! Chén này chúc cho Phò mã của chúng ta sớm lên ngai vàng! Chén này chúc cho tướng quân của chúng ta thăng tiến vùn vụt, tiền đồ rộng mở…”.

Một phó tướng vội vã hạ giọng: “Đừng nhắc đến hai tiếng ‘Phò mã’ nữa, bên trên đã hạ lệnh, từ nay nhất loạt gọi là ‘tiểu Kính An vương’. Trương tướng quân, ông phải cẩn thận đó, đừng phạm húy”.

“Ồ, ta vốn là kẻ lỗ mãng chỉ quen giết chóc trên sa trường, đâu biết thế nào là phạm húy. Cạn!”

Vị phó tướng lại định khuyên nhủ, Trương tướng quân đã vội xua tay, vẻ mặt bất đắc dĩ: “Biết rồi, biết rồi, chẳng mấy chốc sẽ không gọi là ‘tiểu Kính An vương’ nữa đâu, mà gọi là ‘Hoàng thượng’. Nghe nói đám quan văn đã tự xưng ‘vi thần’ rồi”.

Đều là những tướng lĩnh cầm quân ra trận, kỳ thật trong quân nghiêm ngặt, cấm uống rượu, mồm miệng đã nhạt thếch, nay đến lúc cao hứng, chẳng mấy chốc họ đã uống hết sạch mấy bình rượu, cuối cùng, đến cả Phi Chiếu Hành cũng mơ mơ màng màng được dìu về giường.

Đúng lúc đang ngủ say, không hiểu tại sao Phi Chiếu Hành bỗng cảm thấy toàn thân lạnh toát, giật mình tỉnh giấc.

Phi Chiếu Hành ngồi bật dậy, trợn trừng mắt, tim đập tình thịch, cảm giác bất an trào lên.

Nhất định là có chỗ nào không ổn.

Phi Chiếu Hành vốn rất để ý đến dự cảm của mình.

Khi Nhạc Chấn chuẩn bị giết người diệt khẩu, Phi Chiếu Hành cũng vì cảm thấy bất an mà trở nên cảnh giác, nửa đêm chạy ra khỏi thành, thoát được kiếp nạn. Lúc này, cảm giác lo sợ khiến hắn trở nên thận trọng. Hắn suy nghĩ một lượt tất cả đoạn đối thoại với Hà Hiệp hôm nay, nhưng vẫn không tìm ra điều gì khác lạ.

Những việc Hà Hiệp cần Phi Chiếu Hành làm, hắn đều đã làm hết, không những tiêu diệt đại quân Đông Lâm, tiêu diệt Nhạc Địch và Nhạc Chấn, mà còn trừ khử cả Thương Lộc, chẳng lẽ còn điều gì sơ hở?

Nếu nói bản thân có chút tham lam tiền tài, cũng có thể Hà Hiệp đã biết việc này, nhưng không thể chỉ vì chút chuyện cỏn con đó mà phải đối phó với mình.

Rốt cuộc là không đúng ở điểm nào?

Không lẽ lại là “thố tử cẩu phanh, điểu tận cung tàn”? Sau phút kinh hãi, Phi Chiếu Hành liên tục lắc đầu.

Không, không thể, Hà Hiệp không phải là Nhạc Địch, cũng chẳng phải Nhạc Chấn. Hà Hiệp là tiểu Kính An vương có tài thao lược, có tấm lòng rộng lượng. Đã đánh trận xong, sắp lập nên tân quốc, Hà Hiệp uy nghi lẫm liệt trở thành chủ nhân thiên hạ cũng là thuận theo lẽ trời, chỉ cần vinh hoa phú quý vẫn có phần Phi Chiếu Hành là được.

Phi Chiếu Hành khổ tâm suy nghĩ, nhưng vẫn không thể tìm ra nguyên nhân, cuối cùng lại mơ màng ngủ tiếp.

Song, từ đó trở đi, Phi Chiếu Hành cũng thận trọng hơn.

Binh quý thần tốc, Sở Bắc Tiệp dẫn theo binh mã tiến thẳng đến thành Thả Nhu. Lúc đầu Sở Bắc Tiệp còn lo Sính Đình không chịu nổi đường xa mệt nhọc, nhưng nàng đã thường xuyên viễn chinh theo quân, nên Sở Bắc Tiệp cũng không còn lo lắng nữa, mà một lòng gấp rút lên đường.

Một ngàn tinh binh đến biên cương bắt đầu xé nhỏ thành những tiểu đội, tiến vào vùng bụng Vân Thường, rồi lặng lẽ tập hợp bên ngoài thành Thả Nhu. Đây đều là những binh sĩ tinh nhuệ còn trụ lại sau các trận đại chiến, người nào cũng tinh nhanh, không ai gặp bất trắc, không một tin tức nào lọt ra ngoài.

Quân Vân Thường vẫn không biết Trấn Bắc vương đã gần trong gang tấc. Dân chúng trong thành Thả Nhu càng không cảm nhận được kiếp nạn này.

Phiên Lộc cũng chẳng hề biết mình đã trở thành mồi săn của Trấn Bắc vương.

Vị thủ thành Thả Nhu này còn đang đau đầu vì sự việc khác hoàn toàn không liên quan gì đến Trấn Bắc vương.

“Bọn họ cố tình ép chết ta! Được thôi, đến đi, lão tử ở trong quân bao nhiêu năm, cũng chưa bao giờ phải chịu uất ức như thế này!” Phiên Lộc vò nát tờ công văn vừa đưa đến, vứt xuống đất. Xung quanh đều nghe thấy tiếng gầm quát của Thủ thành đại nhân.

“Ta làm sao biết được hai đại nhân đó chạy đi đâu? Bao nhiêu người tận mắt thấy họ đi khỏi thành Thả Nhu, họ lại thích đi thị sát khắp nơi, chưa biết chừng đã thị sát đến tận biên cương rồi. Người không thấy đâu, sao lại hạ lệnh cho lão tử điều tra? Lão tử đi đâu mà điều tra chứ? Mẹ kiếp!”

Sai dịch phụ trách truyền tin đã ôm đầu chuồn ra ngoài từ lâu, chỉ còn lại sư gia Đỗ Kinh đang cau mày nhìn Phiên Lộc giờ như con hổ bị đá đít, đi đi lại lại trong phòng.

Nộ khí của Thủ thành đại nhân hôm nay thật không nhỏ.

“Đại nhân hãy bớt cơn thịnh nộ, tuy công văn này thật vô lý, nhưng là ý quan trên, chúng ta không thể mặc kệ, việc này…”

“Ta biết là không thể mặc kệ”, Phiên Lộc gầm gừ một hồi, nộ khí cũng đã giảm bớt phần nào, cảm giác nhẹ nhàng hơn, khuôn mặt nở nụ cười, ngón chân đùa với tờ công văn trên đất, rồi bỗng đá vèo nó vào góc tường.

Phiên Lộc chậm rãi ngồi xuống ghế, còn gác cả chân lên bàn. “Điều tra thì điều tra. Sư gia, hãy dán cáo thị khắp thành Thả Nhu cho ta, vẽ hai con… À, vẽ hai vị đại nhân, nhớ là phải vẽ giống một chút, sau đó viết là…”, Phiên Lộc ngậm cán bút, giọng không còn rõ ràng, “Có hai vị quan mất tích, Thủ thành đại nhân phụng mệnh tìm kiếm. Sống phải thấy người, chết phải thấy xác. Tìm được người, thưởng một trăm lạng bạc, tìm được xác, thưởng hai trăm lạng bạc. Cứ thế đi”.

Nghe giọng điệu ấy, biết rõ trong lòng Phiên Lộc đang âu sầu vì hai vị đại nhân kia, nhưng Đỗ Kinh không thể biết có phải Thủ thành đại nhân đang đùa hay không, chỉ biết dở khóc dở cười thưa: “Đại nhân, một, hai trăm lạng bạc, e là hơi ít, theo tiểu nhân, vẫn nên tăng thêm một chút. Vả lại, câu nếu tìm thấy xác, tốt nhất đừng cho vào…”.

“Được rồi, Sư gia cứ làm đi”, Phiên Lộc xua tay, ngáp dài, “Ta đã xử lý xong công vụ ngày hôm nay, Sư gia mau đi dán cáo thị, Thủ thành đại nhân phải đi nghỉ đây”.

Phiên Lộc quay vào hậu viện, tìm thấy Túy Cúc, liền cầm tay, kéo nàng ra cổng.

Tự nhiên bị lôi đi, Túy Cúc kinh ngạc: “Lại làm sao thế hả? Bộ dạng ngươi cứ như chạy loạn ấy”.

“Thời tiết đẹp thế này, hãy cùng thủ thành lão gia ra ngoài giải khuây”.

Túy Cúc nghe thế thì đứng sững lại, rút tay về: “Thả tay ra, ta còn chưa kịp tưới nước cho thảo dược. Vì việc giải khuây của ngươi mà để thảo dược phải chết khô sao?”.

Phiên Lộc túm chặt cổ tay Túy Cúc, không chịu buông ra, quay lại nhìn nàng: “Hôm nay quan trên gửi công văn đến nói, hai vị đại nhân Bồ Quang, Bồ Thịnh đã mất tích, hạ lệnh cho ta điều tra. Này, rốt cuộc ngươi có đi cùng ta không?”.

Túy Cúc thất kinh, vội nhìn xung quanh.

Bồ Quang, Bồ Thịnh đã chết thế nào, hai người rõ hơn ai hết.

Sau khi lên nắm quyền, Hà Hiệp đã ra các chính sách vô cùng tàn khốc, khiến lòng người Vân Thường trên dưới bàng hoàng. Nếu việc này bị điều tra ra, kết cục sẽ thế nào? Có lẽ nàng và Phiên Lộc phải tìm một nơi để bàn bạc thật kỹ. Nàng đang nghĩ hay Phiên Lộc đưa mình ra ngoài tránh tai mắt để bàn bạc việc này, thì cả người bị Phiên Lộc lôi ra ngoài cổng phủ.

Thả Nhu tuy chỉ là một thành nhỏ nhưng đường phố rất nhộn nhịp. Phiên Lộc mặc thường phục ra khỏi cổng, Túy Cúc trước nay vẫn không thích ăn mặc diêm dúa, nên cũng chẳng ai để ý đến họ.

“Kẹo hồ lô không?”

“Tào phớ không?”

Đi trên phố, chỉ cần thấy thứ gì vừa mắt là Phiên Lộc liền móc tiền mua ngay rồi đưa cho Túy Cúc. Lúc đầu, Túy Cúc lắc đầu không lấy, Phiên Lộc tiện tay cho mấy đứa bé bên đường. Cuối cùng, Túy Cúc hết cách, đành phải nhận của Phiên Lộc một con tò he.

Đi hết cả một buổi chiều, Phiên Lộc chỉ toàn nói đến những chuyện chẳng liên quan, không hề nhắc đến việc của Bồ Quang, Bồ Thịnh.

Túy Cúc không thể chờ thêm, bèn hỏi: “Này, vậy phải làm thế nào?”.

“Cái gì làm thế nào?”

“Chúng ta làm thế nào? Có phải đi khỏi thành Thả Nhu không?”

Phiên Lộc quay lại nhìn nàng, hỏi: “Ngươi tưởng chúng ta đi chạy nạn thật à?”.

Nhìn thần thái của Phiên Lộc không giống như đang đùa, nhưng lời hắn trước nay vẫn chẳng thể tin tưởng hoàn toàn, Túy Cúc cố hạ thấp giọng, hỏi: “Vậy tại sao ngươi lại dẫn ta ra ngoài? Quan trên giao cho ngươi điều tra mà? Nhỡ chăng bị phát hiện, người có một trăm cái đầu thì cũng không đủ”.

“Đã nói dẫn người ra ngoài giải khuây cùng ta, ngươi lại có tật giật mình, cố tình nghĩ sang chuyện khác”. Phiên Lộc hất hàm về phía cổng thành, “Lão gia ta đã bắt đầu điều tra rồi, có thấy cáo thị dán trên cổng thành đằng kia không?”

Nói đến chuyện chính, Túy Cúc còn hăng hái hơn Phiên Lộc. Vừa nhìn thấy cáo thị, Túy Cúc chẳng kịp nói gì, vội kéo tay Phiên Lộc tới xem.

Trước nay đều là Phiên Lộc cầm tay Túy Cúc, đây là lần đầu tiên Túy Cúc chủ động cầm tay hắn.

Được bàn tay mềm mại như không xương cầm vào, Phiên Lộc bỗng thấy tim đập thình thịch, quay sang ngó Túy Cúc, nhưng nàng hoàn toàn chẳng hề để ý đến thần sắc Phiên Lộc.

Đỗ Kinh làm việc không chút chậm trễ, quả nhiên cáo thị đã được dán ngay cổng thành. Bao nhiêu cái đầu xúm đen lại xem cáo thị, nhưng trăm dân cũng biết rõ tiếng xấu của Bồ Quang, Bồ Thịnh, nên vẻ mặt ai nấy bình tĩnh như vừa nghe một câu chuyện phiếm. Túy Cúc chen vào đám người đọc hết cáo thị, tạm thời chỉ là điều tra hướng đi của hai vị đại nhân kia, trong lòng nàng cũng thở phào nhẹ nhõm, hạ giọng: “Là ngươi bảo Sư gia viết à?”.

Phiên Lộc hừ một tiếng, chửi đổng: “Mẹ kiếp, Đỗ Kinh dám sửa cáo thị của ta. Sư gia thật chẳng phải thứ gì tử tế”.

Túy Cúc ngạc nhiên: “Đỗ Kinh đã sửa cái gì?”.

“Vốn viết là có hai con lợn mất tích, sao giờ lại đổi thành hai vị quan mất tích?”

Túy Cúc cười khúc khích, rồi cố nhịn cười trừng mắt nhìn Phiên Lộc: “May ngươi còn được là thủ thành lão gia, cả ngày không đàng hoàng, chỉ nghĩ cách chọc người khác”.

Phiên Lộc vốn chẳng chịu thua ai bao giờ, lần này lại chỉ hừ một tiếng, nói với Túy Cúc: “Cáo thị cũng đọc xong rồi, chúng ta đi thôi”.

Hai người dắt tay nhau quay về, bỗng Phiên Lộc hạ giọng hỏi: “Người có sợ nhìn thấy người chết không?”.

Túy Cúc cau mày: “Ngươi lại muốn giết người?”.

Túy Cúc chỉ tiện miệng hỏi thế, ai ngờ Phiên Lộc lập tức trả lời: “Chính thế”.

Túy Cúc run bắn, nắm chặt bàn tay Phiên Lộc.

Giọng Phiên Lộc nhỏ hơn lúc nãy, chỉ thì thầm vào tai nàng: “Có một tên xấu xí cứ theo chúng ta nãy giờ. Ngươi đừng sợ, ta dẫn hắn vào ngõ tối, rồi bắn cho hắn mấy tên như bắn con thỏ trên núi”.

Vòng qua mấy ngã rẽ, tiếng huyên náo cũng bớt dần, hai người bước trong ngõ nhỏ, càng đi ngõ càng hẹp. Hai bên, tường đất kẹp chặt con đường nhỏ, chật đến nỗi ánh mặt trời cũng không sao chiếu vào được.

Càng đi sâu, ngõ càng tối.

Vốn là tay ngang ngược, từ khi trở thành thủ thành, cả ngày chúi mũi vào đống công văn, Phiên Lộc chỉ mong có ai đến là bia đỡ tên cho dứt cơn phiền. Cảm giác của một người từng làm mật thám cực kỳ nhạy bén, biết rõ chỉ có một người đang bám theo mình nên hắn yên tâm rẽ vào con ngõ cụt. Đến trước bức tường đất cuối cùng trong ngõ, Phiên Lộc quay lại, một tay nắm tay Túy Cúc, một tay lấy chiếc nỏ đã căng sẵn tên, rồi hỏi Túy Cúc: “Ngươi muốn ta bắn vào cổ hay tim hắn?”.

Túy Cúc thấy mũi tên sáng loáng thì càng sợ: “Ngươi đừng hỏi ta”, hai tay nàng nắm chặt tay Phiên Lộc.

Trong lòng càng vui, Phiên Lộc khẽ nhếch môi cười gằn: “Vị huynh đệ đi theo hãy bước ra ngoài, chúng ta nói chuyện”.

Phía góc tường thoáng có bóng người, chẳng mấy chốc, một người chầm chậm bước ra, mỉm cười: “Gặp được cô nương thật mừng quá. Cô nương cũng chẳng chịu gửi thư báo với chúng ta một tiếng, cô nương không biết chúng ta đã lo lắng thế nào đâu?”, rõ ràng người này đang nói chuyện với Túy Cúc.

Túy Cúc mở choàng mắt, giọng thất thanh: “Mạc Nhiên!”.

Mạc Nhiên gật đầu, rồi quay sang Phiên Lộc, nói từng tiếng rõ ràng: “Thủ thành đại nhân, đại nhân cũng thật may mắn đấy. Nếu không phải Túy Cúc cô nương đi bên cạnh, đại nhân đã đầu lìa khỏi cổ từ lâu rồi”.

Phiên Lộc cười ha ha, quay sang nói với Túy Cúc: “Ta rất thích cái cổ, một tên bắn đi, hắn sẽ im miệng ngay lập tức”. Hắn đang định bắn tên, bỗng toàn thân cứng đờ.

Một lưỡi đao sắc lạnh giơ ra từ phía sau, chuẩn xác kề vào cổ Phiên Lộc, giọng nam thấp trầm vang lên: “Ta cũng thích cái cổ”.

Phiên Lộc vốn vô cùng tự tin về cảm giác nhạy bén của mình, trước nay chưa từng có người nào có thể lặng lẽ tiến đến sau lưng như thế, trong lòng hắn vô cùng kinh ngạc. Phiên Lộc có sở trường về việc thăm dò địch, nghe khí thế ung dung nói cười của nam nhân sau lưng, biết gặp phải cao thủ, hắn thức thời buông chiếc nỏ trong tay, cố cười nói: “Vòng qua vòng lại, hóa ra chính ta lại là con thỏ xúi quẩy”.

Túy Cúc quay đầu nhìn lại, càng thêm kinh ngạc, bịt miệng kêu lên: “Trời ơi, là Vương gia…”.

Sở Bắc Tiệp đứng sau Túy Cúc, ngó nàng một cái: “Ngươi đã làm Sính Đình đau lòng lâu quá rồi”.

“Bạch cô nương?” Túy Cúc quá kích động, đưa hai tay ôm lấy ngực mình, cảm thấy trước mắt như có từng vòng lửa sáng lóa, nước mắt chỉ chực trào ra. Nàng hít mấy hơi thật dài, ngập ngừng hỏi: “Bạch cô nương… vẫn sống sao? Tốt quá rồi… tốt quá rồi… thế hài nhi? Hài nhi…”.

“Lát nữa hãy hàn huyên. Ngươi nhìn xem, cổ ta vẫn đang có thứ gì này”, Phiên Lộc ngắt lời Túy Cúc.

Túy Cúc đang xúc động, vừa gạt lệ, vừa trừng mắt nhìn Phiên Lộc: “Đến lúc này mà ngươi còn dám lớn tiếng với ta sao? Ngươi có biết sau lưng mình là ai không? Chỉ động tay một chút là đầu ngươi sẽ lìa khỏi cổ”.

Nghe hai người nói chuyện, Phiên Lộc đã đoán ra sau lưng mình chính là Trấn Bắc vương.

Đương nhiên Phiên Lộc có thể coi thường những đối thủ khác, nhưng gặp phải tình thế này, khi kiếm của Trấn Bắc vương đang kề cổ, có lợi hại gấp mười lần hắn cũng không thể thoát. Phiên Lộc vốn nghĩ thoáng hơn người khác, dứt khoát nghe theo số mệnh, nên không còn sợ nữa, cợt nhả hỏi: “Ngươi nỡ lòng nào?”.

Trước mặt Sở Bắc Tiệp và Mạc Nhiên, Túy Cúc bị Phiên Lộc hỏi như thế thì vô cùng lúng túng, mặt đỏ bừng: “Ngươi… ngươi luôn bắt nạt ta, ta sẽ nhờ Vương gia giết ngươi để báo thù!”.

Phiên Lộc đang định nói gì, đã thấy lưỡi đao thoáng qua cổ, đau nhói.

“A!” Túy Cúc nhìn thấy vết máu trên cổ Phiên Lộc, sợ đến hồn bay phách lạc, kêu lên kinh hãi: “Vương gia, Vương gia, Túy Cúc chỉ nói đùa thôi, Vương gia đừng có…”.

Mạc Nhiên thấy hai người họ như thế, cũng đoán được vài phần, bèn nhìn Sở Bắc Tiệp dò hỏi. Thấy Sở Bắc Tiệp lặng lẽ gật đầu, Mạc Nhiên nghiêm giọng: “Hàn huyên tâm sự, đầu mày cuối mắt hãy để sau. Thủ thành đại nhân, hôm nay chúng ta đến đây muốn bàn với người chút chuyện”.

Phiên Lộc nhạy cảm hơn người, Trấn Bắc vương đột nhiên xuất hiện ở tòa thành Thả Nhu nhỏ bé này, còn có thể vì việc gì? Hắn liền đáp: “Các ngươi nhắm đến tòa thành bé tẹo này của ta, chẳng qua là vì số quân lương qua đây. Thực không muốn giấu, Hà Hiệp vì việc của Quý Thường Thanh mà không coi ta là con người, ngay đến con mèo, con chó còn dám đến đây giày vò lão tử, lão tử này chịu uất ức đã quá đủ rồi. Chỉ một câu thôi, muốn ta giao cả tòa thành này cho Trấn Bắc vương cũng được, nhưng ta có một điều kiện”.

Sở Bắc Tiệp thấy Phiên Lộc chỉ một câu đã bóc trần ý định đến đây của mình thì không khỏi kinh ngạc, nghĩ bụng: Một nhân tài hiếm có như thế, sao phải uất ức làm chức thủ thành ở cái thành bé cỏn con này? Thấy Phiên Lộc nói vòng vo, cuối cùng đưa ra điều kiện, Sở Bắc Tiệp đã đoán được bảy, tám phần, lưỡi đao kề trên cổ hắn cũng lỏng hơn, rồi đưa mắt ra hiệu cho Mạc Nhiên.

Mạc Nhiên hỏi: “Điều kiện gì?”.

Phiên Lộc suy nghĩ giây lát, bỗng lại thay đổi: “Sai rồi, Thả Nhu dù gì cũng là một tòa thành trì, đổi lấy một điều kiện thật không đáng giá, ta có hai điều kiện”.

Lần đầu tiên thấy có người trong lúc sống chết mà vẫn lôi thôi như thế, Mạc Nhiên cũng ngẩn người.

Biết bản tính Phiên Lộc, Túy Cúc ngẩng lên thấy máu trên cổ hắn vẫn đang chảy thì càng lo lắng, bụng mắng thầm Phiên Lộc lúc này rồi mà còn chọc giận Sở Bắc Tiệp, vội nói: “Ngươi bớt nói đi vài câu được không?”. Chẳng biết tại sao, bàn tay Túy Cúc cứ run rẩy, nghĩ rằng vì Bạch Sính Đình, chắc Vương gia cũng phải nể mặt mình vài phần, nên nhìn Sở Bắc Tiệp với ánh mắt khẩn cầu: “Vương gia, tính hắn như thế, Vương gia đừng trách”.

Phiên Lộc thấy Túy Cúc như thế, trong lòng ngọt hơn ăn mật, bất chấp tính mạng còn đang trong cơn nguy hiểm, bật cười.

Túy Cúc vừa lo vừa giận, véo tay hắn một cái.

Sở Bắc Tiệp lạnh lùng nhìn hành động giữa hai người họ, suy nghĩ một lúc, hạ giọng hỏi: “Ngươi cứ nói hết cả hai điều kiện đi”.

Sớm biết Sở Bắc Tiệp sẽ đồng ý, Phiên Lộc cười nói: “Thứ nhất, ta muốn có Túy Cúc”.

Túy Cúc kêu lên một tiếng, mặt đỏ đến tận mang tai, đứng đó không được, trốn đi cũng cẳng xong, cúi gằm mặt không dám nhìn ai, hạ giọng mắng mỏ: “Ta đâu phải món đồ, sao người lại ra điều kiện với Vương gia?”.

Phiên Lộc đáp: “Ta đang nói chuyện với Trấn Bắc vương, liên quan gì tới ngươi?”. Túy Cúc nghe mà tức đến sắp ngất đi.

Sở Bắc Tiệp gật đầu, nói: “Điều kiện này, bản vương chấp nhận”.

Phiên Lộc hỏi: “Nàng ấy không phải món đồ, Trấn Bắc vương có thể khiến nàng ấy đồng ý theo ta ư?”.

“Việc này dễ thôi”, Sở Bắc Tiệp chậm rãi, “Ta kề đao sắc vào ngón tay ngươi, sau đó hỏi Túy Cúc có đồng ý không. Túy Cúc nói một câu không đồng ý, ta sẽ chặt một ngón tay ngươi. Đảm bảo chưa chặt hết mười ngón, Túy Cúc sẽ đồng ý ngay”.

Phiên Lộc sững sờ, lẩm bẩm: “Cách này quá tuyệt tình”.

Ba nam nhân yên lặng, bất giác cùng bật cười. Sở Bắc Tiệp nhân cớ này bỏ cây đao ra khỏi cổ Phiên Lộc.

Thấy họ cười, mặt Túy Cúc càng đỏ bừng, cắn răng nói: “Nam nhân thật chẳng có ai tốt đẹp, đều cùng một giuộc”. Nói xong nàng hằn học nhìn Phiên Lộc: “Dù người bị chặt hết mười ngón chân, mười ngón tay, ta cũng mặc kệ. Ta đâu phải nô tỳ bán thân cho Vương gia, các người chẳng ai quản được ta!”.

Sở Bắc Tiệp lạnh lùng: “Thử là biết ngay”.

Túy Cúc thầm kinh hãi. Nàng biết Sở Bắc Tiệp trước nay nói một là một, hai là hai, hơn nữa, nghe ý Mạc Nhiên, Sở Bắc Tiệp vốn định giết quan thủ thành của thành Thả Nhu.

Túy Cúc đã từng nghe những người quyền quý nói chuyện cười đùa về việc sinh sát thưởng phạt, lo mình sẽ hại Phiên Lộc nên chẳng còn vẻ quật cường, im lặng không nói gì thêm.

Mạc Nhiên hỏi: “Điều kiện thứ hai là gì?”.

Phiên Lộc cười đáp: “Còn chưa nghĩ ra. Sau này nói có được không?”.

Sở Bắc Tiệp thấy Phiên Lộc nhanh nhạy hơn người, tính tình hào phóng thì đã có cảm tình, cộng thêm tâm ý của người này với Túy Cúc nên cũng vô tư thoải mái, mỉm cười nói: “Được rồi”.

Phiên Lộc hỏi: “Trấn Bắc vương mang theo bao nhiêu người vào đây?”.

“Chỉ có hai chúng ta”.

“Chỉ có hai người thật sao?”

Phiên Lộc thầm kinh hãi: Lá gan của Trấn Bắc vương cũng thật lớn. Với lai lịch của Trấn Bắc vương, nếu bị phát hiện, chắc chắn sẽ bị quan binh toàn thành truy bắt, nếu bị bao vây, sẽ không có cơ hội sống sót.

Nhưng, Sở Bắc Tiệp chỉ nói một câu: “Hai người là đủ rồi”.

Sở Bắc Tiệp vốn chỉ định cùng Mạc Nhiên vào thành tìm hiểu tình hình, không ngờ vừa vào phủ đã gặp Thủ thành đại nhân mặc thường phục vi hành, và điều không ngờ hơn cả là người hắn dẫn theo lại chính là Túy Cúc cô nương đã khiến Sính Đình đau khổ nhớ thương bao lâu nay. Không ngờ chỉ một con ngõ cụt lại khiến chiến dịch đánh thành Thả Nhu trắc trở gập ghềnh bỗng trở nên dễ dàng.

Cả ba đều là bậc trí dũng, họ lập tức quyết định tối nay sẽ gặp nhau tại phủ đệ của quan thủ thành.

Khi Sở Bắc Tiệp chuẩn bị cáo từ, Phiên Lộc bỗng hỏi: “Trấn Bắc vương không sợ ta hối hận ư?”.

Mạc Nhiên nhìn Túy Cúc, trả lời: “Có Túy Cúc làm con tin, sợ gì Thủ thành đại nhân hối hận”.

Sắc mặt chợt đổi, Phiên Lộc trầm giọng: “Các người đừng hòng đưa Túy Cúc đi”. Suy nghĩ giây lát, Phiên Lộc nở nụ cười uy hiếp, “Chỉ cần không thấy Túy Cúc, ta sẽ lập tức báo lên trên tố cáo các ngươi. Chi bằng, hãy giết ta luôn ở đây”.

Sở Bắc Tiệp thấy Phiên Lộc lo lắng cho Túy Cúc như thế thì cảm thấy hứng thú, hạ giọng: “Chúng ta không đưa Túy Cúc đi. Ngươi dẫn Túy Cúc đi làm con tin, ta đưa sư phụ của Túy Cúc đến làm con tin, cả hai bên đều yên tâm”.

Bất chợt bên ngoài có tiếng người đến, Sở Bắc Tiệp cảnh giác ra hiệu với Mạc Nhiên. Thời gian cấp bách, hai người gật đầu với Phiên Lộc rồi không nói gì thêm, tức tốc rời khỏi.

Phiên Lộc đứng nguyên chỗ cũ, nhìn họ đi thật xa.

Trấn Bắc vương quả nhiên danh bất hư truyền, những cái khác chưa cần nói, chỉ riêng công phu ẩn nấp ám sát kẻ địch đã rất ít người địch nổi rồi. Có thể qua lại với Sở Bắc Tiệp, trừ phi phải có hộ vệ nghiêm ngặt giống như một bậc quân vương, nếu không ai cũng phải phấp phỏng lo âu. Đang mải nghĩ, Phiên Lộc bỗng thấy có người nắm chặt tay mình, lắc mạnh.

Phiên Lộc quay lại nhìn, Túy Cúc vẻ mặt hưng phấn, hai mắt trợn tròn: “Người có nghe thấy không, là sư phụ! Sư phụ đã đến đây… Ta không nghe nhầm chứ? Ta không nghe nhầm, có đúng không?”. Nàng hít thật sâu, ôm lấy trái tim đang loạn nhịp, than thở: “Ông Trời ơi, tất cả tin tốt đều đến trong ngày hôm nay, ra ngoài giải khuây thật quá đúng! Bạch cô nương chưa chết, Vương gia đã đến đây, sư phụ cũng đến nữa…”. Nói tới đây, Túy Cúc lại ôm mặt khóc.

Phiên Lộc vốn đã chán ngán, nhưng thấy Túy Cúc khóc, hắn lại phải dỗ dành: “Lúc vui thì nên cười, sao lại khóc? Trời tối rồi, chúng ta về thôi”.

Túy Cúc vẫn khóc, lắc đầu nói: “Một lúc xảy ra quá nhiều chuyện, trong lòng ta đang rất loạn, chân cũng không đứng vững. Ngươi cứ mặc kệ ta”.

Phiên Lộc cười nịnh: “Vì ngươi mà ta phải bán cả cái thành Thả Nhu này, trong lòng ta càng loạn. Có điều, từ giờ trở đi, ngươi đã là người của ta, ta chịu thiệt một chút cũng được. ta sẽ bế ngươi về phủ”.

Thấy Phiên Lộc nói thế, Túy Cúc lo lắng nhìn hắn, khẽ hỏi: “Ngươi vì ta mà liên kết với kẻ thù của Vân Thường, chắc trong lòng rất khó chịu, đúng không?”.

Phiên Lộc hừ một tiếng: “Vương tộc Vân Thường đã chẳng còn nữa, sau này chắc chắn Hà Hiệp sẽ lập nên tân quốc. Ta làm thế này, không ai có thể nói là ta bán nước. Có bán, chẳng qua cũng chỉ bán Hà Hiệp mà thôi. Có gì mà khó chịu?”.

Lần do thám đầu tiên đến thành Thả Nhu đã thu được không ít, trong lòng Sở Bắc Tiệp không khỏi vui mừng. Quay về đến trại tạm bên ngoài thành, Sở Bắc Tiệp dặn dò Mạc Nhiên: “Việc hôm nay, ngươi đừng vội nói với người khác, ta muốn cho Sính Đình một niềm vui bất ngờ”.

Mạc Nhiên đáp: “Hoắc thần y chắc cũng vui lắm”.

“Tất nhiên rồi”.

Hai người bàn bạc xong, cùng bước vào trướng. Mọi người đều đang đợi tin của họ. Sính Đình lo lắng Sở Bắc Tiệp đi mãi không về, giờ thấy bóng dáng chàng, mới thầm thở phào nhẹ nhõm, đứng dậy đón hỏi: “Tình hình trong thành Thả Nhu thế nào? Ở đây thiếp đã bàn bạc với mọi người, chọn ra vài kế sách, nhưng mỗi kế đều có chút sơ hở. Muốn chiếm được thành Thả Nhu mà không làm kinh động đến quân Vân Thường, thật không dễ chút nào”. Nói xong, Sính Đình đưa cuộn kế sách vừa viết ra cho Sở Bắc Tiệp.

Sở Bắc Tiệp chỉ nhìn qua rồi đặt xuống, vẻ mặt tươi cười: “Bản vương đã nghĩ ra một cách tốt nhất”.

Sở Bắc Tiệp là chủ soái, giọng nói lúc này lại chắc chắn như thế, đây hẳn phải là một kế hay. Mọi người mừng rỡ, nhao nhao hỏi: “Vương gia đã có cách gì?”.

“Mấy người chúng ta quang minh chính đại vào thành, bái kiến Thủ thành đại nhân theo thông lệ, rồi tất cả ngồi xuống bình tâm bàn bạc điều kiện, khuyên hắn giúp chúng ta đối phó với Hà Hiệp”.

Ban đầu mọi người còn chăm chú lắng nghe, nhưng thấy Sở Bắc Tiệp nói mấy câu nhẹ nhàng như thế thì ai nấy xìu xuống, cười như mếu: “Vương gia đang đùa rồi”.

Hiểu rằng Sở Bắc Tiệp không bao giờ mang việc quân đại sự ra đùa, suy nghĩ giây lát, Sính Đình hỏi Sở Bắc Tiệp: “Hôm nay Vương gia đã vào phủ thành Thả Nhu rồi sao? Vị Thủ thành đó là người do Hà Hiệp hay Quý Thường Thanh đề bạt?”.

Chỉ một câu hỏi đã vào thẳng vấn đề, Mạc Nhiên đứng một bên, trong lòng thầm kêu lợi hại.

Nếu không phải vì Phiên Lộc thuộc phe cánh của Quý Thường Thanh, bị bè lũ Hà Hiệp chèn ép ngang ngược, thì dù là Túy Cúc ở đó, Phiên Lộc cũng không vừa gặp đã chịu dâng cả thành Thả Nhu cho Sở Bắc Tiệp.

Thấy đôi mắt đen của Sính Đình nhìn mình, Sở Bắc Tiệp cầm lòng không đặng mà nắm lấy bàn tay nàng, khẽ nói: “Lại để Sính Đình đoán trúng rồi, bản vương thật muốn nhường vị trí chủ soái này cho nàng. Ngoài việc này còn có nguyên nhân khác, nàng thử đoán xem”.

Thấy hai người vô cùng thân mật, mọi người đều im ắng mỉm cười nhìn họ.

Sính Đình hạ giọng đáp: “Nếu đoán thêm một chút nữa, thì có lẽ là Vương gia đã ra tay để Thủ thành đó nếm thử vài phần lợi hại”.

Mạc Nhiên cảm thán: “Không hổ là Bạch cô nương, điều này mà cô nương cũng đoán được ra. Công phu mai phục ám sát của Vương gia khiến cả đại tướng quân địch cũng phải giật mình khiếp đảm”.

Sở Bắc Tiệp mỉm cười: “Vẫn phải đoán thêm chút nữa”.

Sính Đình cau mày suy nghĩ hồi lâu, cuối cùng lắc đầu: “Đoán nữa thì chịu thôi, Sính Đình đâu có phải thần tiên”.

“Ta cho nàng một gợi ý, đêm nay ta sẽ dẫn theo Hoắc thần y cùng vào thành”.

“Ồ, chắc là người mà Thủ thành Thả Nhu coi trọng đang mắc bệnh nặng?”

Nếu không phải Thủ thành bị phe phái của Hà Hiệp chèn ép, lại bị Sở Bắc Tiệp ra tay uy hiếp, cộng thêm việc cấp thiết phải cứu chữa cho người thân của mình, thì thật không còn khả năng nào có thể khiến hắn bắt tay với địch.

Sở Bắc Tiệp nói: “Ai chẳng có người mà bản thân coi trọng. Nhưng dẫu sao thì chúng ta cũng đã nắm chắc phần thắng trong tay, lần này ngay cả bản vương cũng không thể không cảm thán ý trời tác thành. Tối nay đi cùng chúng ta, nàng sẽ biết ngay thôi”.

Gần tối, Sở Bắc Tiệp dẫn theo Sính Đình, cho mới Hoắc thần y, rồi chọn ra mấy thuộc hạ tinh nhuệ, mọi người đều đổi y phục, nhân lúc cổng thành chưa đóng mà ung dung đi vào thành Thả Nhu.

Nhân lúc Sính Đình không để ý, Mạc Nhiên khẽ hỏi Sở Bắc Tiệp: “Thuộc hạ nghĩ đi nghĩ lại, vẫn thấy có chút mạo hiểm, nhỡ chăng Thủ thành đó hối hận, bán đứng Vương gia thì làm thế nào? Bọn thuộc hạ đi theo Vương gia thì không sợ gì, chỉ lo Bạch cô nương và Hoắc thần y…”.

Sở Bắc Tiệp bình tĩnh đáp: “Ngươi vẫn chưa gặp được nữ tử thân yêu của lòng mình, đợi đến khi gặp được, ngươi sẽ hiểu tại sao người đó quyết định không hối hận. Sao, ngươi không tin vào nhãn quan của bản vương?”. Làm chủ soái quan trọng nhất là việc nhìn người, Sở Bắc Tiệp trước nay nhìn người chưa bao giờ có sai sót. Nghe chủ soái nói vậy, Mạc Nhiên cũng hoàn toàn yên tâm.

Một đoàn người đến bên ngoài phủ thủ thành, báo với sai dịch là bằng hữu lâu ngày không gặp của Thủ thành đại nhân từ phương xa đến nhờ vả. Sai dịch được Phiên Lộc dặn dò từ trước, biết rằng mấy hôm nay sẽ có đám người này đến Thả Nhu, bèn lập tức chạy vào phủ thông báo.

Chẳng mấy chốc, Phiên Lộc đích thân ra đón, vừa gặp Sở Bắc Tiệp đã chắp tay nói: “Đã lâu không gặp, lão huynh sức khỏe thế nào?”. Ngôn ngữ, cử chỉ vô cùng ấm áp, hắn dắt Sở Bắc Tiệp vào trong.

Mấy tinh binh đi theo Sở Bắc Tiệp đều không biết vị Thủ thành đại nhân này có âm mưu gì, trước lúc xuất phát ai nấy đều chắc mẩm, đến phủ quân địch, chắc chắn sẽ chín phần chết một phần sống, giờ thấy bộ dạng của viên quan thủ thành, họ mới thầm yên tâm, nhưng vẫn không dám lơ là, tay nắm chắc chuôi kiếm, bước chân theo sát, hộ vệ sau lưng Sở Bắc Tiệp.

Chỉ Sính Đình luôn tin Sở Bắc Tiệp không hành sự lỗ mãng, chàng làm vậy tất đã có phần chắc chắn, nên gót sen nhẹ bước, theo phu quân vào phủ thủ thành.

Phiên Lộc dẫn mọi người vào trong, sau khi đuổi hết những người không liên quan, hắn mới buông tay Sở Bắc Tiệp ra. Mạc Nhiên ở bên cạnh giới thiệu, chỉ vào Sính Đình, nói: “Vị này chính là Bạch cô nương”.

Sính Đình chưa từng gặp Phiên Lộc, đâu biết nam nhân này có dây mơ rễ má đến việc nàng giả chết, nên chỉ coi như người mới quen, lễ độ gật đầu.

Phiên Lộc biết, nếu không phải vì nữ nhân ấy, đời này Phiên Lộc sẽ chẳng được gặp Túy Cúc. Nghĩ đến Túy Cúc, trong lòng hắn lại mênh mang nổi sóng mà mỉm cười cổ quái với Sính Đình.

Mạc Nhiên lại chỉ vào Hoắc Vũ Nam, nói: “Vị này chính là Hoắc thần y”.

Lời vừa nói ra, vẻ mặt Phiên Lộc đã trở nên vô cùng nghiêm túc, quỳ sụp cả hai gối xuống.

Hoắc Vũ Nam thất kinh, biết người này rất quan trọng với Sở Bắc Tiệp nên vội đỡ dậy: “Không dám, không dám, Thủ thành đại nhân có ai bị bệnh, xin hãy dẫn kẻ già này tới xem. Ta tuy bất tài, nhưng y thuật cũng tạm được”.

Phiên Lộc vẫn quỳ nguyên tại chỗ: “Không có ai bị bệnh, nhưng con muốn cầu xin một việc. Con tên là Phiên Lộc, ngoại hình anh tuấn, thân thể cường tráng, một tay nỏ xuất sắc, toàn tâm toàn ý với người khác, thông minh lanh lợi, học thứ gì cũng nhanh hơn người…”.

Phiên Lộc nói một tràng như pháo nổ. Ngoài Sở Bắc Tiệp và Mạc Nhiên, tất cả mọi người đều cảm thấy đầu quay vòng vòng. Sau khi kể hết những sở trường có và không có, Phiên Lộc lại hỏi Hoắc Vũ Nam: “Hoắc thần y thấy thế nào, Hoắc thần y có vừa lòng với kẻ hậu sinh này không?”.

Hoắc Vũ Nam bị Phiên Lộc xoay đến chóng mặt, cứ ngỡ Phiên Lộc muốn làm môn đệ học y thuật, nhưng đời này ông chỉ có mỗi một đồ nhi là Túy Cúc, không có ý định nhận thêm ai. Biết người đó rất quan trọng trong kế hoạch lần này của Sở Bắc Tiệp, tuyệt đối không được đắc tội, nên Hoắc Vũ Nam đành nói một cách không rõ ràng: “Thủ thành đại nhân tuấn kiệt như thế, thật khiến người ta hâm mộ”.

Vừa nghe lời này, Phiên Lộc nói luôn: “Vậy xin Hoắc thần y nhận của con ba lạy”.

“Không… không được”.

Hoắc Vũ Nam chưa nói xong, Phiên Lộc đã dập đầu ba cái, sau đó đứng thẳng lên, vẻ mặt không còn nghiêm túc như lúc trước, cười ha ha nói: “Việc này không thể chậm trễ, Hoắc thần y đã nhận của con ba lạy, sau này con xin được gọi Hoắc thần y là nhạc phụ”.

Lời này vừa nói ra, không những Hoắc thần y, mà cả Sính Đình cũng sững sờ.

Mọi người nhìn nhau, Phiên Lộc thì hớn hở như vừa thắng được một trận lớn, ngó xuống dưới lầu gọi thật to: “Thê tử! Thê tử của Phiên Lộc mau ra đây bái kiến sư phụ của nàng, cũng là nhạc phụ của ta”.

Phiên Lộc lừa Túy Cúc vào gian nhà nhỏ, hứa đi hứa lại khi nào Sở Bắc Tiệp xuất hiện sẽ báo ngay với nàng. Ai ngờ sau khi họ đến, Phiên Lộc không hề thông báo với Túy Cúc, mà dùng mê hồn trận bắt Hoắc Vũ Nam nhận mình là “tế tử” ngay tại chỗ.

Túy Cúc vẫn đang trong phòng mình thấp thỏm không yên chờ sư phụ và Bạch Sính Đình đến, bỗng nghe Phiên Lộc gọi trên lầu, liền vội vàng đứng dậy, chạy như bay lên đó. Vừa bước vào cửa, nàng đã thấy toàn những gương mặt quen thuộc. Nàng nghẹn ngào gọi Sính Đình một tiếng: “Bạch cô nương…”, rồi nhìn sang sư phụ đã gầy hơn nhiều đang đứng trước mặt mình, tuy trong lòng đã có sự chuẩn bị, nhưng nàng vẫn không khỏi sững sờ.

Bỗng chốc, cả căn phòng yên lặng như tờ.

Đờ đẫn đứng đó hồi lâu, hai vai bỗng run rẩy, Túy Cúc òa khóc: “Sư phụ! Sư phụ!”.

Hoắc Vũ Nam cũng mở mắt trừng trừng.

Khi Túy Cúc xuất hiện, dường như Hoắc thần y đã không còn nghe thấy gì nữa, cứ ngỡ mình đang đi trên mây, niềm vui từ trên trời rơi xuống đã cuốn sạch mọi ưu phiền chất chứa trong lòng.

Túy Cúc, chính là tiểu nha đầu Túy Cúc…

Hình dáng ấy, khuôn mặt ấy, đôi mắt đen ấy… đều là của Túy Cúc.

Đôi mắt già nua chưa mất đi vẻ thông tuệ bỗng chốc trở nên mù mịt, môi ông run rẩy, nhưng không nói nổi một lời.

Cảm giác ấm áp dâng trào, có người ôm chặt lấy ông, tiếng khóc vang lên bên tai, âm thanh quen thuộc đến nỗi khiến ông cũng muốn khóc òa.

“Sư phụ… sư phụ… đồ nhi đã gặp được sư phụ rồi…”

Hoắc Vũ Nam cúi xuống, đôi mắt già nua nhìn đồ nhi thân yêu đang ngổn ngang trăm mối gục đầu khóc trong lòng mình. Ông cũng không biết làm gì hơn, chỉ vỗ nhẹ vào lưng Túy Cúc như trước kia, cũng chẳng hỏi gì, mả lẩm bẩm: “Hài nhi của ta, hài nhi của ta…”.

Sính Đình nín thở theo dõi cảnh ấy, cho đến khi cảm thấy tim mình vui đến phát đau, bên cạnh bỗng có người kéo tay áo mình, nàng mới quay qua, đôi mắt lấp lánh nước, Sở Bắc Tiệp cười nói: “Nàng hãy khóc trong lòng ta”.

Sính Đình gục đầu vào lòng chàng, bật khóc.

Hai cô nương khóc nức nở, khiến Hoắc thần y mắt cũng đỏ hoe.

Mạc Nhiên đứng bên cạnh mỉm cười. Cuối cùng mọi người cũng hiểu nguyên do tại sao Sở Bắc Tiệp lại nói đã nắm chắc phần thắng.

Phiên Lộc lặng lẽ đứng bên cạnh, thấy Túy Cúc vẫn khóc mãi không thôi thì quay qua trêu nàng: “Đừng khóc nữa. Sư phụ nàng đã đồng ý nhận ta làm tế tử, ta đã dập đầu ba cái rồi. Này, nàng cũng dập đầu ba cái đi”.

Túy Cúc lau hàng lệ trên mặt, trừng mắt: “Ai cần ngươi dập đầu!”. Vừa rồi vì khóc nhiều, nên mắt nàng mọng đỏ, giọng nói cũng khản đặc, hỏi lại Phiên Lộc: “Sư phụ của ta, sao ngươi lại gọi là nhạc phụ?”.

Phiên Lộc trước nay vẫn nhất nhất nghe theo Túy Cúc, nên vui vẻ đáp: “Được rồi, thế thì ta cũng gọi là sư phụ”.

Hoắc Vũ Nam gặp lại đồ nhi, khó khăn lắm mới cầm được nước mắt. Thấy đồ nhi và Phiên Lộc cãi qua cãi lại rất thân thiết, rồi nhìn hai gò má Túy Cúc đang ửng đỏ, ông bỗng chốc hiểu ra, niềm vui tăng lên vài phần, sống mũi cay cay, vội cười ha ha nói: “Gọi ‘nhạc phụ’ cũng được, chỉ cần người đối tốt với đồ nhi của ta, cũng không cần dập đầu, ‘nhạc phụ’ hay ‘sư phụ’ tùy ngươi gọi”.

Túy Cúc xấu hổ: “Sư phụ!”.

Túy Cúc không cất lời thì thôi, vừa kêu một tiếng, mọi người đều cười ầm lên.

Sính Đình lau nước mắt, ngẩng lên định nói gì. Sở Bắc Tiệp sợ nàng trách mình giấu chuyện gặp Túy Cúc, vội nói: “Việc chính quan trọng, hãy để lúc khác hàn huyên”.

Mọi người đều biết tình thế khẩn cấp, ai nấy lập tức tập trung tinh thần. Phiên Lộc mang ra một cái bàn, trải trên đó cuộn sách, không còn vẻ cợt nhả ban nãy: “Đây là bản đồ xung quanh thành Thả Nhu, năm đường màu đỏ bên trên chính là năm đường vận chuyển quân lương qua Thả Nhu. Tất cả bọn hõ đều nghỉ chân ở Thả Nhu”.

Bản đồ này do Phiên Lộc tự vẽ, rõ ràng hơn những bản đồ khác rất nhiều. Sở Bắc Tiệp xem xong, nhìn Phiên Lộc, gật đầu tán thưởng.

Túy Cúc không hiểu việc hành quân đánh trận. Nàng khóc với sư phụ một hồi, lại nhớ đến Sính Đình, bèn quay sang nói với sư phụ: “Sư phụ, chúng ta sang bên kia, Túy Cúc bóp lưng cho sư phụ được không?”. Nói xong, nàng quay sang mỉm cười với Sính Đình, ánh mắt không nói hết niềm vui. Túy Cúc đi đến nói với Sính Đình: “Bạch cô nương, chúng ta sang bên kia đi”.

Sính Đình cũng chỉ mong được cùng Túy Cúc dốc hết nỗi sầu ly biệt, hai người liền cùng Hoắc Vũ Nam sang phòng bên cạnh. Ba người ngồi bên nhau, Túy Cúc rót cho mỗi người một chén trà, sau đó vừa chậm rãi bóp lưng cho sư phụ, vừa kể lại những chuyện xảy ra sau khi tạm biệt Sính Đình. Vì sợ sư phụ và Sính Đình tức giận với Phiên Lộc nên Túy Cúc cố tình giấu gần hết chuyện xấu xa Phiên Lộc từng làm.

Hoắc Vũ Nam nghe xong, cười nói: “Lúc nào con cũng nói hắn xấu xa, thực ra người ta cũng có làm việc gì xấu đâu”.

Sính Đình thì hỏi: “Ngươi có tình ý với hắn không?”.

Hai má đỏ ửng, Túy Cúc cau mày giận dỗi: “Ai thèm để ý tới hắn chứ!”.

Chỉ cần nhìn qua, trong mắt Hoắc Vũ Nam và Sính Đình đã hiểu rõ: Túy Cúc thực sự có tình cảm với Phiên Lộc.

Khi ba người học nói chuyện, câu chuyện của những nam nhân phòng bên cũng vô cùng rầm rộ.

Sở Bắc Tiệp nói với Phiên Lộc dự định ban đầu của họ, Phiên Lộc cười nói: “Việc này Vương gia tìm đúng người rồi, vốn ở trong quân bao năm, ta hiểu rõ chuyện nội bộ. Những tướng lĩnh nào của Vân Thường có thể lung lạc, những tướng sĩ nào lập trường kiên định, ta đều nắm chắc trong lòng bàn tay”.

Sở Bắc Tiệp quá mừng, quyết đoán ngay: “Thế này là tốt nhất, làm phiền Phiên thủ thành lập tức đưa ra danh sách, chúng ta sẽ lần lượt cân nhắc”.

Ở phòng bên, Sính Đình cũng kể lại với Túy Cúc những chuyện xảy ra sau đó, nghĩ đến việc cả hai đều tưởng người kia đã chết, ngày đêm đau đớn khôn nguôi, không biết đã phải rơi bao nhiêu nước mắt, hai nàng lại sụt sịt, chỉ khi nói đến Trường Tiếu hoạt bát nghịch ngợm, mới ngăn được dòng nước mắt.

Trò chuyện xong, Sính Đình quay lại gian phòng bên cạnh, vừa vào cửa đã hỏi: “Đã bàn bạc xong chưa?”.

Sở Bắc Tiệp quay lại cười đáp: “Trời ban tướng tài cho ta. Ha ha, việc quân lương có chút biến động, phải nhờ Bạch quân sư giúp cho mới được”. Nói xong, chàng chắp tay hành lễ với Sính Đình.

Biết Sở Bắc Tiệp đang đùa mình, Sính Đình quay đi, nói: “Sính Đình không trúng kế của Vương gia đâu, nhận một lễ này, chắc Vương gia lại có việc muốn làm khó thiếp. Việc quân lương, rốt cuộc đã thay đổi như thế nào?”.

Nàng nhìn quanh một vòng, thấy mọi người đều có vẻ bí mật xen lẫn hưng phấn, chắc chắn Sở Bắc Tiệp đã nghĩ ra diệu kế gì.

Sở Bắc Tiệp nhìn nàng cười, một lúc sau mới nói: “Chúng ta không bỏ độc mà là bỏ thuốc”.

Sính Đình nghe xong, cau mày suy nghĩ, chỉ một lát sau hai hàng mày thanh tú đã dần giãn ra, chậm rãi than: “Thật là diệu kế. Vương gia yên tâm, thuốc Vương gia cần, Sính Đình chắc chắn có thể chế ra”.

Những người khác đã quen với một Sính Đình túc trí đa mưu nên chỉ mỉm cười ngồi nghe. Phiên Lộc bất giác nhìn qua phía Sính Đình, trong lòng thầm kinh ngạc.

Sau khi bàn bạc, Phiên Lộc sắp xếp mọi người ở lại trong phủ, chỉ nói với sai dịch rằng đây là bằng hữu lâu ngày không gặp của mình. Xong xuôi mọi việc, Phiên Lộc đi về phía phòng Túy Cúc.

Phiên Lộc vừa đến cửa đã thấy Túy Cúc chạy ra, chắn ngang phía trước: “Ngươi đến làm gì? Tối nay ta phải ở cạnh sư phụ”.

Phiên Lộc vội trêu: “Thế tối mai thì sao?”.

“Tối mai cũng không cho ngươi đến”.

Phiên Lộc nhún vai, quay đi.

“Này”. Như sợ Phiên Lộc tức giận, Túy Cúc vội vã gọi lại, hỏi, “Gặp họ rồi, ngươi cảm thấy thế nào?”.

Phiên Lộc nghĩ một lát, bỗng thở dài: “Cuối cùng ta đã hiểu tại sao Hà Hiệp và Quý thừa tướng lại không từ thủ đoạn nào để ngăn họ ở cạnh nhau”.

Khi Sở Bắc Tiệp và Bạch Sính Đình ở cạnh nhau, trong thiên hạ, còn ai có thể so tài cao thấp với họ?

Giờ nhìn lại, lúc trước Hà Hiệp dốc hết binh lực cả nước, liên minh với Bắc Mạc, cướp Sính Đình từ Đông Lâm về cũng rất có lý…
 

Hoa Tử

Sưu tầm
Tham gia
24/9/19
Bài viết
10,570
Điểm cảm xúc
1,484
Điểm
113
Chương 62:
Gió lay rèm rủ, đình không hoang vắng.

Cùng một ánh trăng.

Hà Hiệp ngồi một mình không ngủ.

Sau bao lời khuyên nhủ, cuối cùng Hà Hiệp đã quay về ở trong vương cung Quy Lạc, nhưng khung cảnh vàng son lộng lẫy nơi đây đâu có hơn gì vương phủ Kính An chìm trong cỏ dại?

Không sao đi vào giấc ngủ.

Sau khi trừ bỏ được những đối thủ hữu hình, thì muôn vàn nguy cơ vô hình lại lần lượt xuất hiện.

Sau khi vó ngựa Vân Thường đạp bằng tứ quốc, tiêu diệt tất thảy những đội quân chính quy dám phản kháng, liền xuất hiện thêm những mầm họa mới.

Lời đồn đại truyền khắp nơi.

Đại quân Vân Thường tạm thời không có đối thủ, nhưng lại khó quản lý hơn trước. Sự tham lam của các tướng lĩnh ngày càng vô độ.

Hà Hiệp bực bội đi lại bên cửa sổ, một lúc lâu mới kìm lòng ngồi xuống, xem kỹ các bản tấu chương trên bàn.

Không có tin tức nào của đám mật thám được cử đi thăm dò tung tích Sở Bắc Tiệp. Sở Bắc Tiệp quả không hổ là Trấn Bắc vương lừng danh thiên hạ, có thể giấu mình như thế, khi đại quân Vân Thường tấn công Quy Lạc, cũng không hề thừa cơ công khai chiêu binh mãi mã, không bước ra kêu gọi triệu tập các bè phái hay đám tàn binh đứng dậy phản kháng. Sở Bắc Tiệp không hề để ý đến cơ hội mà Hà Hiệp đã dự liệu, thậm chí còn là những cơ hội mà hắn cố tình tạo ra cho Sở Bắc Tiệp.

Sở Bắc Tiệp luồn lách như gió, nổi bên đông một lát, nổi bên tây một lát, chỉ cần chút thủ đoạn cũng đủ xoay mấy chục vạn quân Vân Thường như chong chóng.

Giờ lại xảy ra chuyện ở Bắc Mạc, có tin báo rằng Thượng tướng quân Nhược Hàn của Bắc Mạc đang bí mật chiêu mộ tân binh.

Thật có chút ngoài dự liệu.

“Người đâu”.

Sau rèm lập tức xuất hiện hai thị vệ và hai viên quan trực đêm, nhanh chóng đứng thành hai hàng, buông tay, đồng thanh đáp: “Có”.

Hà Hiệp hỏi: “Việc chiêu binh ở Bắc Mạc tiến hành thế nào rồi?”.

“Trên hàng ngàn thôn trang của Bắc Mạc, ngày nào cũng có những người trẻ tuổi bỏ trốn, không rõ đi đâu. Vi thần đã ra mấy nghiêm lệnh trừng phạt những người này, nhưng bọn Bắc Mạc đáng ghét đó đều không sợ chết. Nghe nói tên tiểu tặc Nhược Hàn đang bí mật lập không ít điểm chiêu mộ tân binh ở Bắc Mạc. Vi thần đã cử người đi tiêu diệt hai, ba điểm, nhưng…”

“Ta không hỏi bọn loạn quân đó”, Hà Hiệp lạnh lùng, “Ta hỏi việc chúng ta dán cáo thị chiêu mộ tân binh ở Bắc Mạc, có bao nhiêu người đến tòng quân?”.

Đầu vị quan viên đứng trên càng cúi thấp hơn, chần chừ giây lát, nghe Hà Hiệp lạnh lùng hừ một tiếng, đành miễn cưỡng bẩm báo: “Tính đến nay, chắc khoảng… khoảng ba đến năm trăm người”.

Hà Hiệp giận dữ, suýt chút nữa đập bàn cái rầm, nhưng cố ghìm lại, hạ giọng hỏi: “Chẳng phải ta đã nói, điều kiện chiêu binh không được quá khắt khe sao?”.

Vị quan viên kia run rẩy đáp: “Vi thần đã làm theo sự dặn dò của tiểu Kính An vương, thông báo với dân chúng Bắc Mạc, tòng quân sẽ được ban thưởng hậu hĩnh, tiền thuế đóng của cả hộ cũng được giảm một nửa…”. Nói tới đây, thấy ánh mắt Hà Hiệp quét qua, tên quan sợ quá không dám nói thêm.

Từ khi tin thành lập tân quốc lan ra ngoài, Hà Hiệp có dự định dùng nhân tài các nước, nên thái độ của hắn đối với đám quan Vân Thường này chẳng còn tốt như trước.

Lần trước, Thôi đại nhân quản việc cung ứng trà cho vương tộc đến bẩm báo, cũng không biết đã nói sai điều gì, lúc vào còn đi thẳng, khi ra đã bị đánh cho nằm dài. Các thị vệ khiêng xác Thôi đại nhân ra ngoài, máu chảy ròng ròng trên lối đi lát đá xanh, khiến sắc mặt những vị quan đang chờ bên ngoài cũng trắng bệch, hai vị tuổi cao còn ngất ngay tại chỗ.

“Tình hình Quy Lạc thế nào?”, Hà Hiệp tiếp tục hỏi.

Vị quan chủ quản việc này sớm đoán ra Hà Hiệp sẽ hỏi đến, trong lòng đã có sự chuẩn bị, ông ta tiến lên một bước, thận trọng đáp: “Sau khi có thông báo, chắc được khoảng bốn trăm người”.

Quy Lạc cũng ít thế sao?

Hai hàng mày thẳng tắp của Hà Hiệp cau lại. Năm xưa khi vương phủ Kính An vẫn còn, chỉ cần Hà Hiệp lên tiếng, không biết sẽ có bao nhiêu nam nhi Quy Lạc bất chấp sinh mạng, nguyện quên mình dốc sức cho Hà Hiệp.

Nay lại thành ra thế này…

Hai đầu lông mày đau nhói, Hà Hiệp lấy tay day vài cái, sau đó hạ giọng: “Cũng không thể trách các ngươi. Truyền lệnh của ta, từ hôm nay trở đi, giảm một phần ba thuế má các vùng. Đại quân không được quấy nhiễu dân chúng, cướp bóc của cải, kẻ nào không tuân theo lệnh này, dù là quân hay tướng, giết hết không tha. Còn nữa, hãy tổ chức tang lễ cho ba người Hà Túc theo nghi lễ quốc quân, an táng trọng thể”.

Thị nữ bên cạnh thấy Hà Hiệp có vẻ mệt mỏi, bèn lặng lẽ dâng trà. Hà Hiệp bưng trà, đưa lên mũi, lại hỏi: “Tân quốc sắp thành lập, đã tìm đủ vật cát điềm lành trong thiên hạ chưa?”.

Người dưới kia đang lo Hà Hiệp sẽ hỏi câu này, nghe vậy thì mặt ủ mày chau.

“Nhìn sắc mặt ngươi, xem ra là chưa tìm thấy gì đúng không? Thôi được rồi, tạm thời không nói đến việc này”, Hà Hiệp lại nói, “Gần đây khắp nơi đồn đại, nói cái gì mà thất bại đã rành rành, tai họa sẽ giáng xuống chúng sinh, các ngươi có biết không?”.

Hai vị quan đứng im như gỗ, lén nhìn nhau, không dám lên tiếng.

Hà Hiệp đang toàn tâm toàn ý muốn xây dựng tân quốc, ai dám bẩm báo rằng tứ quốc đều xuất hiện điềm gở chứ?

Gần đây, trên khắp Bắc Mạc, Đông Lâm và Quy Lạc đều đột nhiên xuất hiện không ít những dấu hiệu bất thường. Bùn dính máu, chim yến chết từ trên không trung bất ngờ rơi xuống, tượng đất rơi lệ… Binh mã loạn lạc, nay lại xảy ra chuyện thế này, lòng người càng bàng hoàng. Những điềm dữ này cứ một đồn mười, mười đồn trăm, càng ngày càng huyễn hoặc, càng ngày càng đáng sợ. Nói đi nói lại, đều là việc thành lập tân quốc sẽ gây ra họa lớn.

Những lời đồn đại đó cũng len lỏi vào tận trong quân.

Trong đại quân Vân Thường vốn cũng có những đại tướng không tán thành việc thành lập tân quốc, tuy không dám nói ra, nhưng cứ ấm ức trong lòng. Đối với hàng binh của ba nước còn lại, mười người thì có đến tám người oán hận Hà Hiệp.

Hà Hiệp thấy họ không dám lên tiếng, cũng chẳng làm khó, chỉ cười nói: “Mấy thủ đoạn vặt vãnh này mà cũng dọa được các ngươi sao? Chẳng qua chỉ là có người đang ngầm chọc phá thôi. Truyền lệnh, các vùng tăng cường phòng bị cảnh giác. Các ngươi chọn ra mấy người có tài cán đi khắp nơi điều tra, vạch trần mấy trò này cho ta!”. Nói xong, Hà Hiệp cúi xuống phê duyệt đống tấu chương, rồi mới bảo: “Lui cả ra đi!”.

Hai quan viên như được đại xá, vội vàng lui ra ngoài. Ra khỏi bậc cửa, họ quay lại nhìn nhau, áo ai cũng ướt nhẹp.

Gió đêm thổi đến, lạnh thấu xương.

Đông Chước nhận lệnh cai quản đạo quân Vĩnh Xương, từ Vân Thường đã kịp đến đây. Đông Chước từ nhỏ đã đi theo Hà Hiệp, thân phận hơn người, các quan văn võ khác đều về nơi ở đã được bố trí, Đông Chước vừa đến Quy Lạc, đã vào ở hẳn trong vương cung.

Hai viên quan vừa đi, Đông Chước đã bước vào. Thấy Hà Hiệp đang nhắm mắt ngồi dựa vào ghế, như dưỡng thần, Đông Chước bèn liếc mắt sang đống công văn chất đầy trên bàn, khẽ nói: “Thiếu gia mệt rồi, hay nghỉ ngơi sớm đi”.

Đông Chước nói liền hai lần, Hà Hiệp mới từ từ lắc đầu, mở mắt, nói: “Không sao. Mấy hôm nay ngươi cũng bận rồi, mau về nghỉ đi”.

Đông Chước vâng một tiếng, nhưng vẫn đứng nguyên chỗ cũ lúc lâu vẫn chưa cất bước.

Thấy Đông Chước không chịu đi, Hà Hiệp bật cười nói: “Tên tiểu tử này, giờ ra ngoài ít nhiều cũng là một đại tướng quân rồi, sao vẫn lôi thôi dài dòng như thế? Được rồi, không đi thì ở lại đây, ta cũng đang muốn hỏi xem ngươi cai quản cánh quân Vĩnh Xương thế nào?”.

“Thương Lộc luyện binh rất quy củ, hai hôm nay, Đông Chước đã mấy lần ghé qua nơi đóng quân của đạo quân Vĩnh Xương ngoài thành, binh sĩ thao luyện rất tốt, có thể thấy trước đây họ đã được chuẩn bị một nền tảng rất chắc chắn. Chỉ là…” Đông Chước có chút ngần ngừ, “Cũng có thể vì Đông Chước không có kinh nghiệm luyện binh, trước đây cũng không có cấp bậc trong quân, nên những tướng lĩnh dưới trướng tuy ngoài mặt vô cùng cung kính, nhưng sau lưng lại có người không phục”.

Hà Hiệp khẽ “hừ” một tiếng, không nói gì.

Đông Chước cũng đang suy nghĩ về việc này, bất giác hỏi: “Luận về hành quân đánh trận, Phi Chiếu Hành thực là một nhân tài. Phi Chiếu Hành cũng đã trừ bỏ Thương Lộc, sao thiếu gia không để hắn chỉ huy đạo quân Vĩnh Xương?”.

Nghe thấy cái tên Phi Chiếu Hành, Hà Hiệp bỗng lạnh lùng hừ một tiếng, Đông Chước giật mình, vội vã im miệng.

Sự tĩnh lặng trong cung điện nguy nga lộng lẫy thực khiến người ta ngạt thở.

Đông Chước gần như là lớn lên bên cạnh Hà Hiệp, xưa kia họ vẫn nghĩ gì nói nấy, không hề cấm kỵ. Nhưng mấy năm gần đây, tâm tư của Hà Hiệp ngày càng khó đoán, có những lúc chỉ một ánh mắt lạnh lùng của Hà Hiệp cũng khiến người ta lạnh thấu xương. Vị thiếu gia ngày trước đang dần tiến đến vương vị nhưng cũng chẳng còn là chính mình. Chỉ một tiếng hừ lạnh lúc này, Hà Hiệp cũng đã toát ra sự uy nghiêm của bậc chí cao vô thượng và cả sát khí đằng đằng.

Càng nghĩ, Đông Chước càng cảm thấy buồn.

Một lúc sau, thấy Đông Chước lặng im đứng đó, không dám lên tiếng, Hà Hiệp bèn vẫy Đông Chước vào, hạ giọng: “Có việc này giao cho ngươi làm. Phi Chiếu Hành giấu ta, kết giao với lũ đầu trộm đuôi cướp bên ngoài, tham lam vơ vét không từ thủ đoạn. Ngươi hãy thay ta tìm những tội chứng ấy, nhớ là phải thận trọng hành sự, không được để lộ tin tức ra ngoài”.

Đông Chước lại ngẩn người.

Không cần hỏi, hắn cũng biết thiếu gia đang xử lý Phi Chiếu Hành. Với thủ đoạn của thiếu gia, không ra tay thì thôi, đã ra tay tất sẽ là một đòn sấm sét, không thể giãy giụa. E là Phi Chiếu Hành cũng chẳng thể thoát khỏi kiếp nạn này.

Thiếu gia hiện đã có cả tứ quốc, trong đó không ít công lao là của Phi Chiếu Hành, Đông Chước hiểu rõ những điều này. Không biết Phi Chiếu Hành đã chọc giận gì thiếu gia, mà xem ý thiếu gia, một khi nắm được đầy đủ tội danh sẽ đưa Phi Chiếu Hành ra trừng trị, không cho một cơ hội sửa chữa sai lầm.

Đông Chước đang nghi ngờ, Hà Hiệp lại hỏi: “Nghe rõ chưa?”.

“Nghe rõ rồi”, Đông Chước hạ giọng trả lời.

Ánh mắt quét qua khuôn mặt Đông Chước, Hà Hiệp chợt hỏi: “Có phải ngươi thấy ta quá vô tình?”.

Đông Chước vội vã lắc đầu.

Đôi đồng tử sắc sảo của Hà Hiệp nhìn Đông Chước. Đông Chước không thể che giấu mọi ý nghĩ của mình trước ánh mắt ấy, cảm giác nhưng ruột gan đang bị móc hết ra, nên vô cùng lúng túng.

Hà Hiệp nhìn Đông Chước một hồi, bật cười, nói: “Có ai ngờ việc lại trở thành thế này? Ta sắp lập tân quốc, đăng cơ làm hoàng đế. Một kẻ bộp chộp như ngươi cũng trở thành đại tướng quân thống lĩnh cả một đại quân. Sính Đình…”. Hà Hiệp bỗng dừng lại, khuôn mặt tuấn tú thoáng nỗi thương cảm khó nói thành lời.

Sính Đình, một Sính Đình bầu bạn sớm hôm từ thuở nhỏ, lúc này đáng ra phải ở trong vương cung Quy Lạc, đàn một khúc mừng ta công thành danh toại, giờ lại đang ở đâu?

Hà Hiệp không thể quên đi tiếng cười vang vọng khắp vương phủ Kính An của Sính Đình, trong trẻo như tiếng chuông bạc, nhẹ nhàng rực rỡ như cánh hoa.

Lần theo tiếng cười ấy, Hà Hiệp có thể dễ dàng tìm thấy Sính Đình, kéo nàng ra khỏi tiểu viện, vẻ mặt vô cùng hồ hởi: “Sính Đình, chúng ta đi cưỡi ngựa thôi”.

Chúng ta cùng cưỡi ngựa, cùng vẽ tranh, cùng đọc sách, cùng nghe hát…

Cùng ra chiến trường…

Hà Hiệp nhìn chăm chăm vào ngọn nến, ánh lửa nhảy nhót trên khuôn mặt đã khôi phục chút hiền hòa ngày xưa.

Khoảnh khắc này, Đông Chước như đang được gặp lại tiểu Kính An vương phong lưu đa tình trong vương phủ Kính An ngày trước.

Cơn gió nhẹ thổi bay những mành tơ đẹp đẽ dài quét đất bên khung cửa mở toang.

Đông Chước khẽ hỏi: “Thiếu gia cũng cảm thấy Sính Đình còn sống?”.

“Sở Bắc Tiệp đã xuất hiện, ngoài Sính Đình, liệu ai có thể khiến hắn xuất hiện?” Nhắc tới Sở Bắc Tiệp, vẻ mặt hiền hòa mới đây đã không cánh mà bay, thần sắc Hà Hiệp hoàn toàn thay đổi, ánh mắt vô cùng sắc bén.

Đông Chước suy nghĩ giây lát, không nén được lại hỏi: “Đến giờ, cũng chưa ai tận mắt nhìn thấy Sở Bắc Tiệp, nói gì là Sính Đình. Dù thế nào, chúng ta cũng phải gặp được người…”.

“Gặp được, ta sẽ giết luôn!”, Hà Hiệp bỗng nghiến răng, đập mạnh xuống bàn.

Tai Đông Chước như ù đi, cả người đờ đẫn, hồi lâu mới lắp bắp hỏi: “Thiếu gia… đang nói đến… Sở Bắc Tiệp?”.

Sở Bắc Tiệp xuống núi, rất có khả năng liên quan đến Sính Đình. Việc này Đông Chước đã phần nào đoán ra qua những lời nói của Hà Hiệp. Nếu Sính Đình đang giúp Sở Bắc Tiệp chống lại thiếu gia, thì phải làm thế nào? Đôi trẻ nô đùa ngày trước, giờ như hai ngọn núi đối đầu, bất cứ lúc nào cũng có thể xảy ra cảnh binh đao tương tàn, thực đã tồi tệ đến mức không thể tồi tệ hơn.

Vì điều này mà Đông Chước phải đau buồn ảo não bao ngày nay, không dám hỏi Hà Hiệp. Đông Chước vẫn còn giữ lại chút ngây thơ từ thuở ở vương phủ Kính An, nên muốn nhân cơ hội này nghe ý kiến Hà Hiệp, xem giữa thiếu gia và Sính Đình còn ít khả năng cứu vãn nào không, bởi hắn không tin hai người họ lại nhẫn tâm đến thế.

Hà Hiệp mặt lạnh băng, gằn từng tiếng: “Không, ta đang nói đến Sính Đình”.

Vẻ mặt Hà Hiệp tuyệt đối không phải đang nói đùa.

Chưa bao giờ nghĩ Hà Hiệp lại tuyệt tình đến vậy, Đông Chước bỗng thấy toàn thân lạnh toát, trong lòng như có những móng vuốt sắc đang cào cấu, đau đến khó chịu, phải lùi ra sau một bước.

Ánh mắt hung hãn nhìn chằm chằm về đống công văn trên bàn như đang nhìn kẻ thù, một lúc lâu sau, khuôn mặt căng cứng của Hà Hiệp mới từ từ giãn ra, bất lực đến thê thảm, cười chua chát, lẩm bẩm: “Tại sao Sính Đình lại làm thế? Không hề nể chút tình nghĩa nào ư?”, khuôn mặt tuấn tú trắng bệch trong ánh nến.

Hai người lặng lẽ nhìn nhau, đều cảm thấy không có gì để nói.

Hà Hiệp xua tay bảo: “Đi ngủ đi, ngày mai còn có việc của ngày mai”.

Đông Chước đáp: “Vâng”, rồi lặng lẽ cúi đầu, lùi ra ngoài cửa.

Sau lưng bỗng thấp thoáng vang lên tiếng thấp trầm của Hà Hiệp.

“Phi thiên vũ, trường không mộng, tình nghĩa chưa từng trọng…” Lời hát xen lẫn tiếng thở dài như có điều gì mất mát, ẩn chứa nỗi hối hận không nói thành lời.

Về đến chỗ ở, Đông Chước mới nhớ ra, đó chính là câu thiếu gia ngâm nga trong phủ phò mã hôm nào. Khi cùng Diệu Thiên công chúa thưởng rượu, trong lúc cao hứng, thiếu gia đã tuốt kiếm hát như vậy.

Đêm đó, khắp sân loang lổ dấu tuyết chưa tan hết.

Đám ca vũ mặc y phục Bắc Mạc, màu sắc sặc sỡ, thắt lưng đeo trống, thân hình uyển chuyển linh hoạt, hai tay gõ trống, bộ dạng vô cùng mới mẻ, khiến Diệu Thiên thực sự thích thú.

Phu thê hào hứng uống rượu dưới trăng.

Diệu Thiên cười tươi tắn, Hà Hiệp rút kiếm hát vang.

Phi thiên vũ, trường không mộng, tình nghĩa chưa từng trọng…

Cuối cùng Đông Chước đã hiểu ra, tại sao thiếu gia lại muốn giết Phi Chiếu Hành.

Đông Chước không thể nào quên cái cảm giác như bị ánh chớp xé tan lòng khi nghe Phi Chiếu Hành dâng lời trừ khử Diệu Thiên công chúa với thiếu gia.

Thành Thả Nhu.

Cũng có thể vì chiến loạn, bách tính không còn nhà để về, lưu lạc bốn phương nên gần đây số người vào thành liên tục tăng.

“Người đông thì người đông, người đông có cái hay của người đông. Tốt lắm. tốt lắm!”. Nghe thuộc hạ bẩm báo xong, Phiên Lộc cười khoái trá.

Mấy ngày gần đây Thủ thành đại nhân vô cùng vui vẻ, tâm trạng tốt chưa từng thấy, không còn chút phiền não bất an của mấy hôm trước. Lúc này, Thủ thành đại nhân đang ngồi vắt chân chữ ngũ nói chuyện phiếm với Sư gia, rồi bỗng nhớ ra một chuyện, vội dặn: “Mấy người bằng hữu của ta trong quân ngày trước toàn những người quen với giết chóc, có mấy người không thích qua lại với người ngoài, ghét nhất bị kẻ khác dò la động tĩnh của mình. Ngươi phải cẩn thận, đừng chọc giận họ”.

Biết Phiên Lộc xuất thân trong quân, những lời này thật chứ chẳng đùa, Đỗ Kinh vội vã vâng vâng dạ dạ: “Bằng hữu của đại nhân, tiểu đệ nào dám làm phiền? Không dám, không dám”.

“Có cho ngươi cũng không dám”, Phiên Lộc nhướng môi cười.

Phiên Lộc biết rõ, nếu tin tức phủ thủ thành này chứa chấp Trấn Bắc vương lọt ra ngoài, chưa biết chừng mấy chục vạn quân Vân Thường sẽ lập tức vây đến. Có điều, Sở Bắc Tiệp và những người kia đều là tướng sĩ trải qua trăm trận chiến, trí dũng song toàn, nhạy cảm hơn người, chắc chắn không có sơ hở. Bọn người dưới trong phủ cũng toàn kẻ ù ù cạc cạc, chỉ có sư gia Đỗ Kinh là thông minh hơn một chút, biết đâu sẽ nhận ra điều gì.

Phiên Lộc cũng không lo, vì đã dặn Mạc Nhiên cử một cao thủ giám sát Đỗ Kinh, một khi phát giác ra chuyện gì, sẽ lập tức giết người diệt khẩu.

Dù gì Phiên Lộc cũng là một thủ thành, ở cái thành Thả Nhu bé tẹo này, hắn chẳng khác gì một hoàng đế, muốn giấu ai thì có gì không được? Thuộc hạ bẩm báo gần đây số người vào thành tăng lên, Phiên Lộc đã đoán ra mười người thì có đến chín người là binh lính do Sở Bắc Tiệp đưa tới đang phân tán vào thành.

Phiên Lộc đang tươi cười, bỗng nghe giọng thánh thót đang hỏi sai dịch bên ngoài: “Thủ thành đại nhân có trong này không?”.

Phiên Lộc đứng bật dậy khỏi ghế, cao giọng đáp: “Ta ở trong này!”.

Chẳng mấy chốc, Túy Cúc đã đẩy cửa bước vào, tay bê một khay vuông. Thấy Phiên Lộc, nàng mỉm cười: “Hóa ra cũng có lúc Thủ thành đại nhân chăm chỉ làm việc như vậy”. Túy Cúc tươi cười đặt chiếc khay lên bàn, trong đó là bát cháo còn đang bốc khói.

Phiên Lộc nhìn Túy Cúc, lại nhìn bát cháo, cười thầm trong bụng, nhưng vẫn cố ý nói: “Ta ăn sáng rồi”.

Túy Cúc cũng chẳng giận, chỉ nói: “Thế thì để Sư gia ăn vậy”.

“Hắn dám ăn đồ của ta?”, Phiên Lộc vội ôm lấy bát cháo, không chịu buông.

Đỗ Kinh vội vàng xua tay: “Không dám! Không dám! Đại nhân, tiểu nhân xin phép đi xử lý công vụ”.

Biết đây là việc riêng của Phiên Lộc, những việc không nên xen vào thì Đỗ Kinh cũng chẳng bao giờ dính đến, nên lập tức cáo từ, còn cẩn thận đóng cửa giúp hai người.

Phiên Lộc bê bát cháo lên, lúc thì nói cháo nóng, khi lại chê cháo nguội nhưng vẫn ngon lành ăn hết sạch, còn ợ lên một cái, khen Túy Cúc: “Từ khi gặp nhạc phụ, nàng đã ngoan ngoãn hơn nhiều”.

Túy Cúc hỏi: “Sau này ta cũng sẽ ngoan như thế, có được không?”.

Phiên Lộc gật vội: “Đương nhiên được, đương nhiên được!”.

Túy Cúc nói: “Sư phụ bảo ta phải biết trọng đại thể, lo toàn cục, không được làm hỏng việc. Không làm phí thời gian xử lý việc công của Thủ thành đại nhân, lát nữa ta quay lại sau”. Nói xong, Túy Cúc liền quay đi.

Chẳng mấy khi Túy Cúc dịu dàng ngoan ngoãn thế này, Phiên Lộc vui mừng khôn xiết, lại thấy Túy Cúc khen mình làm việc chăm chỉ thì cố ngăn nỗi kích động muốn vứt bỏ việc công mà xán lại bên nàng, tinh thần trở nên hăng hái xử lý công vụ, dự định làm xong sẽ chuồn sang chỗ nàng.

Đến lúc sắp xong việc, quả nhiên Túy Cúc lại đẩy cửa bước vào, tươi cười nhìn Phiên Lộc, hỏi: “Giờ Thủ thành đại nhân vẫn ổn chứ?”.

Phiên Lộc hỏi lại: “Rất ổn, có gì không ổn ư?”. Nhìn kỹ thần sắc Túy Cúc, Phiên Lộc bỗng giật mình, mặt biến sắc: “Nàng bỏ gì vào cháo?”. Hỏi xong hắn đứng bật dậy, bỗng thấy sức mạnh toàn thân biến đi đâu mất, hai chân run rẩy, toàn thân tê cứng.

Túy Cúc cố nén cười bước tới, cẩn thận thăm mạch cho Phiên Lộc, giọng vô cùng vui mừng: “Bạch cô nương thật lợi hại! Đúng là thăm mạch cũng không nhận ra, không thể phát hiện được là đã trúng thuốc”.

Phiên Lộc căm tức, giơ tay túm lấy Túy Cúc. Nhưng lúc này toàn thân hắn mất hết sức lực, động tác chậm chạp, Túy Cúc đã tránh được sang chỗ khác. Phiên Lộc giận dữ nói: “Sao nàng lại mang ta ra để thử thuốc?”.

Túy Cúc vốn đang cười, nghe Phiên Lộc hỏi vậy, sắc mặt bỗng lạnh băng, trừng mắt nhìn hắn, hai tay chống nạnh: “Ta hỏi ngươi, sao ngươi dám nói với sư phụ… ta… đã động phòng với ngươi?”.

Phiên Lộc vốn đang giận, nhưng thấy nàng mặt đỏ bừng hỏi đến điều này thì ngồi phịch xuống ghế, ôm bụng cười bò.

Túy Cúc chỉ còn cách đứng nhìn hắn chằm chằm.

Phiên Lộc cười xong, mới nói: “Đó chỉ là lời đồn thôi, coi như nàng ra tay có lý do, ta chịu phạt là được chứ gì. Hay thế này đi, đêm nay chúng ta biến lời đồn thành sự thật, như thế gọi là gạo đã nấu thành cơm…”. Còn chưa nói xong, Phiên Lộc đã bị Túy Cúc cho mấy đấm.

Phiên Lộc kêu lên mấy tiếng, hỏi: “Này, cái thứ thuốc ấy công hiệu bao lâu?”.

Túy Cúc đấm được vài cái, trong lòng cũng dễ chịu hơn, “Cái đó còn tùy thuộc vào thể trạng từng người, có người thì rất lâu, có người lại hồi phục ngay”. Sau đó, nàng dương dương tự đắc nói với Phiên Lộc: “Ngươi không biết phải vất vả thế nào mới phối ra loại dược liệu này đâu, ta hành nghề y, chỉ ở bên cạnh giúp sức, nhưng nhìn những thảo dược xanh xanh đỏ đỏ cũng hoa cả mắt, thế mà Bạch cô nương biết hết những thứ ấy. Trộn loại dược liệu này vào gạo, có dùng kim bạc kiểm tra cũng không thể phát hiện ra, ăn vào chỉ thấy toàn thân không còn sức lực, rồi sẽ xảy ra những hiện tượng như tay chân tê dại, buồn ngủ, ngứa ngáy mà không phát hiện ra nguyên nhân. Đảm bảo đám binh lính Vân Thường sẽ vô cùng sợ sệt hoang mang. Việc này cũng thú vị đấy chứ?”.

Phiên Lộc lườm nàng, than thở: “Ta biết vì người bị đem ra thử thuốc là ta nên nàng mới vui mừng thế kia. Nhỡ chăng loại dược liệu này không như mấy người nghĩ, nàng sẽ trở thành kẻ mưu sát phu quân đó”.

Túy Cúc le lưỡi: “Ngươi đoán trúng rồi, ta đang rất vui vì điều này”. Nói xong, nàng mặc kệ Phiên Lộc, bước thẳng ra ngoài.

Vì mấy ngày bận rộn điều chế dược liệu mà Sính Đình không được nghỉ ngơi, đến lúc phối xong thì cũng hết cả sức lực. Hoắc Vũ Nam vội bắt mạch và kê đơn thuốc cho nàng. Buổi tối, Túy Cúc còn đuổi Phiên Lộc đi, sang bầu bạn với Sính Đình đến tận giữa đêm.

Sính Đình khuyên Túy Cúc: “Ngươi cũng ở bên cạnh giúp sức, chắc mệt rồi, về nghỉ đi. Nếu người cũng bệnh thì làm thế nào?”.

Túy Cúc nói: “Túy Cúc ở cạnh cô nương một lúc nữa, khi nào cô nương ngủ, Túy Cúc sẽ về phòng”.

Sính Đình vội đáp: “Ngươi ở đây trò chuyện, ta càng không ngủ được”.

Nghe thế, Túy Cúc đành quay về phòng.

Nằm dựa vào gối một lúc, Sính Đình dần rơi vào giấc ngủ. Mơ hồ cảm thấy có người đang sờ trán mình, nàng mở mắt ra, ánh trăng bên ngoài cửa sổ chiếu tới soi rõ Sở Bắc Tiệp đang ngồi đầu giường, chàng vẫn mặc bộ y phục đi đêm, rõ ràng vừa mới trở về.

Nàng khẽ hỏi: “Vương gia về rồi ư?”.

“Sao trán nàng nóng thế này?”

“Vương gia về thật đúng lúc, hôm nay ở nhà đã chế xong dược liệu. Công hiệu rất đúng ý chúng ta, ngày mai chế thêm đợt nữa, nhiều một chút cho đủ dùng”.

Sính Đình khẽ xoay người, Sở Bắc Tiệp thuận tay ôm lấy nàng, cau mày nhìn ái thê.

Sính Đình biết Sở Bắc Tiệp đang trách nàng không thương xót bản thân thì mỉm cười nói: “Vương gia đã xong việc chưa?”.

“Đột nhập quân doanh, một đao là xong. Lần này ta chỉ dùng cây đao mang bên người, không dùng đến Thần uy bảo kiếm, tránh để lại dấu vết, tiết lộ thân phận”. Chàng một tay tháo đao trên lưng xuống, sắc mặt vô cùng bình thản: “Sau này nếu cùng đường, ta cũng có thể làm một thích khách”.

Sính Đình dịu dàng nói: “Thiếp biết Vương gia không muốn dính tay vào mấy thủ đoạn mờ ám này. Nếu chúng ta có đủ binh mã, chắc chắn Vương gia có thể ra sa trường, so tài cao thấp với tướng địch”.

Sở Bắc Tiệp ôm lấy nàng, trầm giọng: “Vì nàng, ta có thể làm bất cứ việc gì. Huống hồ là hai đội quân đối đầu, phải không từ bất cứ thủ đoạn nào, ám sát cũng có là gì?”.

Họ lặng lẽ tựa người bên nhau một lúc, Sính Đình khẽ hỏi: “Bên ngoài có tin tức gì không?”.

Vốn không định cho nàng biết, nhưng nàng đã hỏi đến, Sở Bắc Tiệp cũng chẳng muốn giấu, bèn thở dài: “Ta cử Nhược Hàn và mọi người đi các vùng khác nhau tạo điềm gở, khiến trăm họ lo lắng, để Hà Hiệp kiêng kỵ mà không lập tức lên ngôi. Nhưng kế này giấu được người khác, chứ không giấu được Hà Hiệp. Hắn đã huy động binh mã, cử tướng tài trong quân Vân Thường đi điều tra… và đã tìm thấy người của chúng ta”.

Sính Đình kêu lên một tiếng.

Sở Bắc Tiệp im lặng giây lát, nói tiếp: “Hoa Tham chết rồi. Không có tin tức của La Thượng, hoàn toàn mất liên lạc, e cũng là lành ít dữ nhiều. Ta đã lệnh cho Nhược Hàn dừng hết mọi hoạt động, tránh sự chú ý của chúng”. Ngừng một lúc, chàng nói tiếp, “Dù thế nào, những điềm gở ấy cũng đã khiến không ít kẻ danh gia vọng tộc phản đối Hà Hiệp lên ngôi vào lúc này. Hà Hiệp cũng biết ý định lập tân quốc của mình chưa chắc đã được văn võ bá quan Vân Thường tán đồng, nên vội vã chiêu mộ quân đội của mình. Hiện hắn đang rầm rộ chiêu binh ở Bắc Mạc và Quy Lạc, nhưng chẳng mấy người muốn tòng quân”.

Sính Đình thở dài, nép người vào lòng Sở Bắc Tiệp: “Thiếu gia càng lúc càng không được lòng người”.

Năm xưa chỉ cần hô một tiếng, không biết sẽ có bao nhiêu nam nhi Quy Lạc bất chấp sinh mạng mà quên mình dốc sức cho tiểu Kính An vương.

Giết hết vương tộc Quy Lạc đã dâng quốc quy hàng, thực là sai lầm trí mạng của Hà Hiệp.

Sính Đình bất chợt rùng mình, phát hiện ra mình đang tính toán từng sai lầm của thiếu gia, mưu đồ lợi dụng điều đó ra sao…

Thế sự trêu đùa, khiến người ta không khỏi có chút vô tình.

Thiếu gia đã quay lại vương phủ Kính An.

Nhưng, mỹ nữ e ấp thẹn thùng, dịu dàng và thấu hiểu lòng người ngày xưa giờ đã chẳng còn nữa.

Dưới vầng trăng này, trong lòng thiếu gia liệu có đang nhớ đến ai?
 

Hoa Tử

Sưu tầm
Tham gia
24/9/19
Bài viết
10,570
Điểm cảm xúc
1,484
Điểm
113
Chương 63:
Thành đô Quy Lạc.

Trong vương cung, người người lặng tiếng, cả bước chân cũng phải rón rén nhẹ nhàng.

Tiểu Kính An vương quyết định quyền sinh tử của mọi người chỉ bằng một lời nói, hôm nay đang lên cơn thịnh nộ.

Phi Chiếu Hành vội vã đi vào, thấy sắc mặt bực bội của chủ nhân thì buông hay tay, cẩn trọng đứng sang một bên, đợi Hà Hiệp cất tiếng.

“Ngươi đến rồi à?”, Hà Hiệp không hề hỏi đến những việc gần đây đã giao cho Phi Chiếu Hành mà chỉ đống công văn cao ngất trên bàn, nói: “Ngươi xem đi, một lũ ngu dốt vô tri! Ta đã nói đi nói lại, tất cả những điềm gở đó đều do có người cố tình chọc phá, binh mã cử đi cũng bắt được một đám loạn đảng trà trộn khắp nơi tung lời xằng bậy mê hoặc chúng dân, thế mà chúng còn liên tục gửi những thứ này cho ta, thỉnh cầu không nên vội vã lập tân quốc, nói là chọc giận ông Trời. Cái gì mà chọc giận ông Trời, chẳng lẽ ông Trời không muốn cho tiểu Kính An vương ta lên ngôi?”.

Phi Chiếu Hành thấy Hà Hiệp đang trong cơn giận dữ, vội vàng tán đồng: “Tiểu Kính An vương nói rất phải, những kẻ vô tri này không hề biết đến việc trọng đại quốc gia, tiểu Kính An vương hà tất phải tức giận vì chúng? Mạt tướng cho rằng, việc lập tân quốc hãy cứ làm theo ý kiến tiểu Kính An vương thì hơn”.

“Ta cũng định như vậy, nhưng không được”, Hà Hiệp đã bớt giận, thở dài, “Sở Bắc Tiệp không có bất cứ động tĩnh nào. Ta đã nghi ngờ liệu có phải đám tướng lĩnh đó nghĩ mình đã vất vả lập được công cao rồi, hoặc sợ Sở Bắc Tiệp nên không dốc sức tìm kiếm? Nếu biết tung tích Sở Bắc Tiệp, ta thật muốn dẫn binh quét sạch…”. Hình như cảm thấy mình không còn giữ được phong thái, Hà Hiệp dừng lại, bê chén trà lên uống một ngụm, lát sau bình tĩnh nói, “Gần đây có quá nhiều việc, chiêu binh không thuận lợi, dù không muốn điều động quân lương từ Vân Thường, nhưng Bắc Mạc, Đông Lâm và Quy Lạc đều trải qua nhiều năm tranh chiến, ruộng đất hoang tàn, không cung ứng đủ số quân lương cần thiết”.

Vì vấn đề lương thảo, phần lớn đội quân đều lưu lại Vân Thường để nghỉ ngơi chỉnh đốn. Mỗi lần ở vương cung Vân Thường, Hà Hiệp lại nhớ đến Diệu Thiên, nỗi đau trong lòng cứ bùng phát, nên luôn trì hoãn không chịu quay về.

Phi Chiếu Hành thầm tính, đạo quân Vĩnh Tiêu của Quý Viêm đã bị tiêu diệt hoàn toàn, sau đó Hà Hiệp tập hợp hàng binh các nước, chỉnh đốn thành đạo quân Vĩnh Tiêu mới. Bảy đạo quân của Vân Thường hiện hai ở Quy Lạc, một ở Đông Lâm, một ở Bắc Mạc, ba đạo quân còn lại đều ở Vân Thường. Thiên hạ vẫn chưa hoàn toàn ổn định, Hà Hiệp là chủ soái, lại rời khỏi Vân Thường quá lâu, thực sự có chút nguy hiểm.

Nếu là trước đây, chắc chắn Phi Chiếu Hành sẽ dâng lời với Hà Hiệp, nhưng từ sau lần vô cớ lo lắng không yên, Phi Chiếu Hành trở nên cẩn trọng với tất cả mọi việc. Hắn đứng một bên suy nghĩ hồi lâu, rồi đề nghị: “Sở Bắc Tiệp là một mầm họa, tuy hiện còn đang giấu mình, nhưng không thể lơ là. Chắc chắn hắn vẫn đang ở Đông Lâm, hắn không có binh mã, chúng ta chỉ cần cử nhiều binh mã càn quét, chắc chắn sẽ tìm ra tung tích hắn. Hay tiểu Kính An vương cử mạt tướng hoặc cánh quân Cam Phượng của Thôi tướng quân đến Đông Lâm, phối hợp vây bắt”.

Hà Hiệp im lặng, vẻ mặt không vui, hạ giọng: “Tin này mới đến sáng nay, chắc ngươi chưa biết, Thôi Lâm Giám bị ám sát rồi”.

“Hả?”

Thôi Lâm Giám là vị tướng mới được Hà Hiệp cất nhắc, chỉ mới hai mươi hai tuổi, nhưng vô cùng tinh nhanh tài cán, vì cảm kích ơn tri ngộ của Hà Hiệp, nên trung thành hết mực. Cái chết của Thôi Lâm Giám là một đòn nặng nề giáng xuống dự định sắp xếp thân tín trong quân, dần khống chế quân quyền của Hà Hiệp.

“Ở ngay trong doanh trại, giữa đêm bị người ta ám sát, đầu còn treo ngoài rèm trướng”.

Phi Chiếu Hành hỏi: “Không lẽ lại là Sở Bắc Tiệp ra tay? Bây giờ cánh quân Cam Phượng mất chủ soái, phải lập tức cử một vị tướng lĩnh tiếp quản”.

“Ngươi nói xem nên cử ai tiếp quản là thích hợp nhất?”

Tất nhiên Phi Chiếu Hành sẽ không tiến cử bản thân mình, bèn dâng lời: “Tuyển tướng cấp bách, rất khó chọn được người thích hợp. Trong Vân Thường, đạo quân Vĩnh Thái của Kỳ Điền đại tướng quân ở ngay gần Cam Túc, chi bằng nhập hai đạo quân làm một, tạm thời do Kỳ Điền đại tướng quân quản lý?”.

Hà Hiệp chậm rãi lắc đầu, hàng mày cau lại: “Sở Bắc Tiệp có được bản lĩnh này, nhưng chưa chắc là hắn. Người không biết về nội bộ quân Vân Thường, sẽ không chọn ra tay với Thôi Lâm Giám. Chỉ e việc này không đơn giản như thế”.

Vốn thông minh, Phi Chiếu Hành lập tức hiểu ý của Hà Hiệp. Một, Thôi Lâm Giám không phải là người Vân Thường; hai, Thôi Lâm Giám cũng chẳng phải lão tướng trong quân, các đại tướng Vân Thường đều dị nghị khi hắn được thống lĩnh đội quân Cam Phượng, Kỳ Điền là người oán nhiều nhất.

Chẳng lẽ do tranh quyền đoạt lợi trong quân, lại có người gan to bằng trời, dám ra tay ám sát thống lĩnh của một đạo quân?

Phi Chiếu Hành thầm trách mình nói năng không cẩn trọng, như thể đang nói đỡ cho Kỳ Điền nên vô cùng hối hận, nhanh chóng quay lại chủ đề chính: “Liệu có nên cử thêm binh mã đi truy bắt Sở Bắc Tiệp? Mạt tướng vẫn đang bận việc mà tiểu Kính An vương giao, e là nhất thời không thể gác lại, hay cử cánh quân Vĩnh Thái của Kỳ Điền qua đó?”.

Hà Hiệp gật đầu: “Cử hắn đi”. Đến trước bàn, Hà Hiệp nâng bút viết quân lệnh, đóng soái ấn, rồi giao cho thị vệ, sau đó mới hỏi Phi Chiếu Hành: “Việc vương miện làm đến đâu rồi?”.

Phi Chiếu Hành bẩm báo: “Mạt tướng đã tìm được một đội thợ, hai người Quy Lạc, một người hiện đang sai binh sĩ sang Đông Lâm tìm. Họ đều là những vị đại sư, do thời buổi loạn lạc, nên trốn đi hết cả, tìm được đều phải mất nhiều công sức. Về cơ bản đã tìm đủ đá quý các màu, mạt tướng dự định dùng một viên đá lam bảo thượng hạng to nhất đặt ở chính giữa, nhưng tạm thời mới tìm được một viên dùng cho mũ vương, còn mũ hậu…”.

“Dùng trước cho mũ hậu.”

“Việc này…”, Phi Chiếu Hành đờ đẫn một lúc.

“Dùng viên đá lam bảo đó cho mũ hậu trước, mũ vương không vội, cứ từ từ tìm. Nhớ kỹ, tay nghề phải tinh xảo, nguyên liệu thượng hạng, đặc biệt là mũ hậu.”

Phi Chiếu Hành nghi hoặc nhìn Hà Hiệp, khuôn mặt tuấn tú như bao phủ lớp sương mù dày đặc khó tan, rõ ràng cả con người Hà Hiệp đang đứng ngay trước mặt mà như cách thật xa. Phi Chiếu Hành chỉ còn cách vâng vâng dạ dạ, rồi lui ra.

Phi Chiếu Hành trở về chỗ ở, thuộc hạ An tướng quân lại hào hứng xuất hiện, rủ đi uống rượu.

An tướng quân cũng là lão tướng trong quân Vân Thường. Sau khi Quý Thường Ninh chết, Phi Chiếu Hành tiếp quản đạo quân Úy Bắc. Về việc này, Phi Chiếu Hành có kinh nghiệm hơn Đông Chước rất nhiều, hắn hoặc công khai hoặc ngấm ngầm lôi kéo mấy vị tướng lĩnh trong quân Úy Bắc, quan hệ với họ rất tốt. Thấy An tướng quân, Phi Chiếu Hành cười nói: “Lại uống rượu ư? Tướng quân lập bao công lao, được tiểu Kính An vương ban thưởng không ít, sao không mua lấy một trạch viện ở đây, chọn thêm mấy mỹ nữ về hưởng phúc? Việc đó hứng thú hơn uống rượu rất nhiều”.

An tướng quân xua tay: “Ta chỉ thích uống hai ngụm rượu ngon. Gối giáo chờ trời sáng, cũng không biết có thể sống đến lúc nào. Nữ nhân một người là đủ, lấy thêm thê thiếp, sau này lại có mấy quả phụ”, An tướng quân thở dài một tiếng, nói tiếp, “Hơn nữa nữ sắc cũng chẳng phải điều gì hay ho. Tướng quân nhìn Sở Bắc Tiệp xem, vì một nữ nhân mà mai danh ẩn tích, nghe nói gần đây lại xuất hiện, theo ta chỉ là lời đồn. Còn Phò mã của chúng ta…”. Bỗng nghĩ đến việc Hà Hiệp ban lệnh cấm người dưới không được gọi mình là “Phò mã”, An tướng quân ngừng ngay câu chuyện.

Phi Chiếu Hành vô cớ giật mình, cười hỏi: “Tiểu Kính An vương thì sao?”.

An tướng quân lắc đầu, nói: “Tiểu Kính An vương cũng thật nặng tình… Tiếc là Công chúa của chúng ta mệnh bạc, khó sinh mà qua đời, nếu còn sống đến ngày hôm nay, Công chúa sẽ hưởng không hết vinh hoa phú quý…”.

Phi Chiếu Hành càng nghe càng cảm thấy không ổn, sắc mặt dần thay đổi, trong lòng vừa nghiền ngẫm vừa hỏi: “Gần đây ta phụng mệnh làm chiếc mũ hậu, còn đang không biết kích thước thế nào… Sau này tiểu Kính An vương đăng cơ, e là vẫn cần tìm một tân hậu?”.

Vốn là người thẳng thắn, An tướng quân không để ý đến tâm tư của Phi Chiếu Hành, liên tục lắc đầu: “Lấy đâu ra tân hậu? Phi tướng quân có thấy tiểu Kính An vương gần gũi nữ nhân không? Dù sau này có lấy, theo ta nhiều nhất cũng chỉ là một thứ phi. Thế nên ta mới nói tiểu Kính An vương đối với Công chúa không tồi, nghe nói bên Vân Thường còn đang trùng tu lăng mộ của Công chúa! Thật là, mấy kẻ tiểu nhân ngấm ngầm phá hoại, nói rằng Phò mã đã hại chết Công chúa, theo ta, với tình nghĩa phu thê của họ, điều đó là hoàn toàn không thể”.

Phi Chiếu Hành nghe hết, bỗng thấy như có một bàn tay vô hình đang tóm sạch những suy nghĩ vướng mắc bấy lâu nay trong lòng, cả người đứng đờ tại chỗ.

Lúc này An tướng quân mới phát hiện có điều gì không ổn: “Phi tướng quân sao thế?”.

Phi Chiếu Hành đờ đẫn đáp: “Ta vừa mới nhớ ra một việc gấp, phải đi xử lý ngay, hôm khác uống rượu vậy”. Dứt lời, hắn đi thẳng về phòng, đóng cửa lại, chặn đứng ánh mặt trời rực rỡ bên ngoài.

Cơn lạnh thấu xương từ gan bàn chân dâng lên.

Hà Hiệp muốn giết người.

Vì Diệu Thiên công chúa, Hà Hiệp muốn báo thù cho Diệu Thiên công chúa.

Chẳng trách, bao nhiêu viên quan, Hà Hiệp lại chọn Phi Chiếu Hành lo việc làm mũ hậu. Bên Vân Thường thì rầm rộ trùng tu lăng mộ của Công chúa, lại phong thanh rằng có người đang điều tra những sai phạm của Phi Chiếu Hành… Quay đầu nhìn lại, đây thực là một tấm lưới đã giăng sẵn chỉ chờ chụp xuống đầu, bắt con cá này.

Chỉ mấy ngày trước Phi Chiếu Hành còn mơ màng đến tiền đồ phú quý, giờ tất cả chỉ còn là ảo ảnh. Hà Hiệp đã là người có quyền lực nhất trong thiên hạ, muốn lấy mạng hắn, thật dễ như trở bàn tay.

Ngày đó đúng là Phi Chiếu Hành đã năm lần bảy lượt khuyên Hà Hiệp trừ bỏ Diệu Thiên công chúa, nhưng đó cũng chỉ vì thực lòng suy nghĩ cho quyền lực của Hà Hiệp. Hà Hiệp tự mình bức tử Công chúa, giờ hối hận khôn nguôi, muốn mang Phi Chiếu Hành ra giải hận.

Mồ hôi lạnh chảy ròng ròng, vừa tức giận vừa ủ ê buồn bã, hai bàn tay nắm chặt, đôi mắt lóe lên tia hung hãn, Phi Chiếu Hành nghiến răng, lầm bẩm: “Không lẽ lão tử này lại chịu bó tay cho ngươi chém giết? Thiên hạ đâu có chuyện dễ dàng như vậy?”.

Bất giác thấy lòng bàn tay đau nhói, hắn cúi xuống nhìn, hóa ra móng tay đã cắm chặt vào thịt tự lúc nào.

Kế dùng dược liệu được tiến hành vô cùng thuận lợi.

Phiên Lộc là người khỏe mạnh, Túy Cúc lại chỉ dùng một lượng nhỏ, nên chưa đến hai, ba ngày sau, Phiên Lộc đã hoàn toàn hồi phục, cũng là lúc được Túy Cúc giao cho nhiệm vụ mới: “Mau nghĩ cách trộn thứ này vào quân lương”. Nói xong, nàng đưa cho Phiên Lộc bọc dược liệu trong tay.

“Trộn thế nào? Quân lương đựng trong bao tải đay, không lẽ bắt ta mở từng bao ra trộn thuốc? Nàng tưởng đám quan trông coi quân lương là đồ ngốc chắc?”

“Ngươi mới là đồ ngốc, ai bắt ngươi phải mở từng bao?” Túy Cúc lấy ít vụn thuốc làm mẫu, “Lấy một chút thuốc hòa vào trong nước, sau đó đổ vào bao, thuốc chẳng ngấm vào gạo đó ư?”.

Chủ ý này thật không tồi. Một bát nước thuốc nhỏ ngấm vào bao, thần không biết, quỷ chẳng hay. Dù trong bao chỉ có một ít gạo bị ngấm thuốc, nhưng trong quân xưa nay vẫn nấu cả bao gạo, chỉ cần nấu cùng một nồi, thì lo gì họ không trúng kế?

Túy Cúc đưa bọc thuốc qua, Phiên Lộc không nhận, trơ mặt hỏi: “Ta giúp nàng làm việc quan trọng thế này, nàng thưởng gì cho ta?”.

Túy Cúc khinh bỉ: “Không có ngươi, người khác làm không được chắc? Một việc đơn giản như thế, Vương gia có thể cho bất cứ ai mạo nhận là thân tín của ngươi đi tuần một vòng kho quân lương là xong. Chẳng qua ta thấy ngươi không có việc gì làm, nên tìm việc giúp người thôi”.

Phiên Lộc bất mãn hừ mấy tiếng, nhưng vẫn nhận lấy bọc thuốc đi làm nhiệm vụ.

Mấy ngày sau, tin tức đã truyền đến.

Đầu tiên binh lính Vân Thường nghi có bệnh dịch, nhưng các đại phu không tìm được nguyên nhân. Thế là quan trên cho tìm đại phu có tiếng các vùng đến, sau đó chẩn đoán rằng, không phải bệnh dịch mà e là môi trường sống không hợp.

“Bọn chúng cũng không ngu, ngay từ đầu chúng đã nghi quân lương có vấn đề, nhưng kiểm tra đi kiểm tra lại, vẫn không điều tra được điều gì. Bản thủ thành đã làm hết phận sự của mình, lập tức sai người sao chép một bản độc vật của Thả Nhu đưa qua, cố ý chỉ rõ có những loại độc dược không thể kiểm tra bằng kim bạc, mà phải dùng cây rong phơi khô nhúng vào nước để kiểm nghiệm, nếu nước biến màu là có độc. Đám đại phu bên đó tha hồ tất bật một phen.”

Những lời của Phiên Lộc khiến mọi người đang ngồi trong phòng cười rộ lên.

Chỉ có Túy Cúc trừng mắt nói: “Sao ngươi lại lừa người ta? Toàn làm những việc tốn công vô ích, nếu để chúng nghi ngờ thì chẳng phải gây ra họa lớn hay sao?”.

Sính Đình ngồi bên cạnh, nghe thế thì khẽ nắm tay Túy Cúc, quay lại cười, giải thích: “Đúng là có loại độc này, Phiên Lộc đâu có lừa người”.

Sở Bắc Tiệp cũng nói: “Chúng ta đang dự định gặp vị tướng quân bên đó, nên phải để Phiên Lộc lấy lòng trước, có chút giao tình cũng tốt”.

Túy Cúc giờ mới biết đã trách nhầm Phiên Lộc, vốn định nhận lỗi, ngẩng lên thấy Phiên Lộc đang dương dương tự đắc nháy mắt với mình, câu xin lỗi lại chui tọt vào bụng.

Mạc Nhiên hỏi: “Còn có tin tức gì khác không?”.

“Tin tốt thì rất nhiều, hình như cả ông Trời cũng đang giúp chúng ta”. Giờ Phiên Lộc phụ trách do thám tin tức nội bộ Vân Thường, mọi người đều quây quanh hắn thành một vòng. Nhắc đến việc quân trọng đại, Phiên Lộc mặt mày hớn hở, tinh thần thêm hăng hái, giọng đĩnh đạc: “Trước tiên là việc Trấn Bắc vương ám sát Thôi Lâm Giám, Trấn Bắc vương dùng đao, mà không dùng Thần uy bảo kiếm, chiêu này thực khiến người ta khâm phục”.

Sở Bắc Tiệp thẳng thắn: “Chọn Thôi Lâm Giám hoàn toàn là công lao của Phiên thủ thành, không có Phiên thủ thành, bản vương không thể tạo được cục diện ngày hôm nay”.

Phiên Lộc nghe câu này của Sở Bắc Tiệp, biết Sở Bắc Tiệp đã đoán được khái quát tình hình. Lúc này Sở Bắc Tiệp cho Phiên Lộc nói ra tình hình, cũng chỉ là để vị thủ thành Thả Nhu này nhanh chóng ra nhập với đội quân của Mạc Nhiên và những người khác. Bất giác, Phiên Lộc cảm kích nhìn qua Sở Bắc Tiệp, rồi nói tiếp: “Cái chết của Thôi Lâm Giám khiến Hà Hiệp nghi ngờ Kỳ Điền. Hà Hiệp đang mưu đồ dùng những tướng lĩnh trẻ tuổi thay thế đội ngũ lão tướng trong quân, việc này khiến các lão tướng Vân Thường vô cùng oán thán, Thôi Lâm Giám cũng chính là một vị tướng trẻ mà Hà Hiệp đề bạt lên cao nhất, lại không phải người Vân Thường”.

Mạc Nhiên nghe rất kỹ càng, bỗng nhiên hỏi Phiên Lộc: “Ngươi còn có cả tai mắt ở thành đô Quy Lạc ư?”.

Phiên Lộc cười ha ha, đáp: “Ta đâu có được bản lĩnh để cài người bên cạnh Hà Hiệp? Nhưng muốn biết được điều này cũng không khó. Vì Thôi Lâm Giám bị giết, đạo quân Cam Phượng mất người thống lĩnh, Hà Hiệp không những không cử Kỳ Điền đang ở gần đó đến tiếp quản đạo quân Cam Phượng mà lại cử hắn sang tận Đông Lâm để truy quét Trấn Bắc vương”. Vừa nói, hắn vừa nhìn sang Sở Bắc Tiệp.

Túy Cúc cười khúc khích: “Tên Kỳ Điền đó thật xui xẻo. Nay đạo quân Vĩnh Thái của hắn, kẻ nào kẻ nấy không còn chút sức lực, mà lại không tìm được căn nguyên, sao có thể hành quân sang Đông Lâm? Làm lỡ quân lệnh, chắc chắn Hà Hiệp sẽ không tha”. Dứt lời, thấy mọi người đều lặng lẽ nhìn mình, Túy Cúc bất giác đỏ bừng mặt, hạ giọng hỏi: “Có phải Túy Cúc đã nói sai điều gì không?”.

Phiên Lộc đáp lời: “Chính vì nàng nói đúng nên mọi người mới hết sức ngạc nhiên”.

Túy Cúc trợn trừng mắt, còn chưa kịp trả miếng, Phiên Lộc đã nhìn sang Sính Đình, chắp tay cảm thán: “Bạch cô nương danh bất hư truyền, khâm phục, khâm phục”.

Sính Đình nói: “Thủ thành đại nhân quá khen, kế nhận biết thời cơ, phát triển ưu thế, lấy yếu thắng mạnh này hoàn toàn do Vương gia nghĩ ra, không có chút công lao nào của Sính Đình”.

Phiên Lộc lắc đầu: “Cũng không thể nói như thế, không có Bạch cô nương, ai sẽ phối ra loại thảo dược tuyệt diệu kia?”.

Túy Cúc suy nghĩ một lát, cuối cùng cũng hiểu ra, khi Sở Bắc Tiệp nghĩ ra kế sách dùng thảo dược là đã có ý định ly gián Hà Hiệp và Kỳ Điền. Ám sát, phối thuốc, dùng thuốc, để Phiên Lộc lôi kéo Kỳ Điền… là một chuỗi những việc có liên quan đến nhau. Túy Cúc khẽ thổi phù một cái, lẩm bẩm: “Nói đến đánh trận, nam nhân các vị đều có sở trường dùng tâm kế, bất kỳ việc gì cũng suy nghĩ tính toán thật kín kẽ”. Bỗng nghĩ tới Bạch quân sư đang ngồi bên cạnh, Túy Cúc lắc đầu lè lưỡi, làm mặt quỷ với Sính Đình.

Hoắc Vũ Nam gần đây cũng hào hứng ngồi nghe mọi người luận đàm việc quân, hôm nay còn hỏi: “Theo tình hình hiện nay, mục tiêu làm dao động lòng quân Vân Thường của Vương gia đã sắp đạt được, liệu Vương gia đã nên ra mặt lôi kéo Kỳ Điền chưa?”.

Sính Đình suy nghĩ rồi lắc đầu: “Thời cơ chưa chín muồi, đại tướng trong quân sẽ không dễ dàng phản bội…”.

“Bản vương cũng thấy thời cơ chưa chín muồi, Kỳ Điền sẽ không lập tức phản bội Hà Hiệp.” Sở Bắc Tiệp quay sang Sính Đình, nở nụ cười anh tuấn khí phách mê hoặc lòng người, rồi chuyển chủ đề, “Nhưng chiến sự khẩn cấp, bản vương vẫn dự định sẽ lập tức đi gặp Kỳ Điền”.

“Vương gia?”

“Thời cơ chưa chín muồi, thì phải thúc cho nó chín.”

Phiên Lộc nghe thế càng hưng phấn: “Trấn Bắc vương hãy đưa Phiên Lộc đi theo. Trước kia ta từng ở cánh quân Vĩnh Thái, chưa biết chừng lại có thể giúp được việc gì”.

Mạc Nhiên hỏi: “Giao tình giữa ngươi và Kỳ Điền thế nào?”.

Phiên Lộc cười ha ha: “Lúc đó chức vị của ta thấp hèn, đâu có cơ hội chạm mặt với Đại tướng quân Kỳ Điền. Nhưng một mật thám có sở trường nhìn người, Đại tướng quân không biết ta, nhưng ta rất hay quan sát ông ấy”.

Việc không thể chậm trễ, mọi người bàn bạc một lúc rồi nhanh chóng quyết định.

Sở Bắc Tiệp và Mạc Nhiên dẫn theo mười cao thủ, thêm Phiên Lộc, mặc thường phục ra khỏi thành.

Đây là lần đầu tiên Phiên Lộc ra ngoài cùng mọi người, nên Túy Cúc có chút lo lắng không yên, bèn kéo ống tay áo Phiên Lộc, gọi ra một góc, khẽ hỏi: “Đi thật đấy à?”.

“Tất nhiên rồi”, Phiên Lộc giơ hai bàn tay ra: “Tay ta cũng ngứa ngáy lắm rồi”.

Túy Cúc bảo: “Không hiểu tại sao, trống ngực ta cứ đánh liên hồi, lần này đi, phải cẩn thận đấy”.

Phiên Lộc ngạc nhiên: “Trống ngực đập liên tục à? Ai ya, đó là điềm không lành rồi, trong quân kỵ nhất việc ấy. Đưa đây, để ta sờ xem có phải đập liên hồi không?”.

Nghe câu thứ nhất, sắc mặt Túy Cúc trắng bệch vì sợ hãi, nhưng đến câu thứ hai nàng nổi giận đùng đùng, lườm Phiên Lộc một cái, hất tay hắn ra, rồi bỏ đi.

Mười mấy người ra khỏi thành, đi một mạch, khi đến gần nơi đóng quân của đạo quân Vĩnh Thái, trời đã tối om. Họ mai phục ở nơi cách đó không xa, chỉ cách một khoảng đất trống, chăm chú quan sát đèn đóm nơi doanh trại đối diện.

Sở Bắc Tiệp hạ giọng sắp xếp: “Ta sẽ vào thẳng quân doanh để gặp Kỳ Điền. Mạc Nhiên và Phiên Lộc cùng vào để có thể tiếp ứng bất cứ lúc nào. Những người còn lại sẽ ở đây, nếu bên trong có biến, hãy lập tức xông vào từ phía đông, chỉ cần đốt lửa, không chạm trán với họ, chỉ cần giúp chúng ta tạo hỗn loạn là đủ rồi”.

Chỉ vẻn vẹn vài câu, Sở Bắc Tiệp đã sắp xếp xong toàn bộ đại cục. Những người này đều là cao thủ, biết tùy cơ ứng biến, cũng không cần Sở Bắc Tiệp nói nhiều. Đôi mắt sáng có thần của Sở Bắc Tiệp nhìn chằm chằm về phía đối diện, cuối cùng cũng có cơ hội, liền hạ lệnh: “Đi”. Mạc Nhiên và Phiên Lộc lập tức theo sau, ba người đều mặc áo đen, bịt kín mặt, như ba cái bóng, lặng lẽ chui vào doanh trại địch.

Đây là nơi đóng quân lâu dài của cánh quân Vĩnh Thái, doanh trại không phải loại màn trướng da bò dựng lên tạm thời mà là khoảng đất rộng với bao lớp hàng rào, hàng hàng dãy dãy phòng gạch đan xen nhau như một phủ đệ được bố trí đơn giản. Gian phòng lớn sáng trưng ngay ở giữa chính là trướng của Kỳ Điền.

Sở Bắc Tiệp tránh hết những tiểu đội canh gác, đến thẳng phòng chủ trướng. Mạc Nhiên và Sở Bắc Tiệp đã quá hiểu nhau, cả hai lặng lẽ nép sát vào bên phía tây của gian phòng.

Phiên Lộc từng ở trong đạo quân Vĩnh Thái, quen thuộc nơi này hơn Sở Bắc Tiệp và Mạc Nhiên, lại là kẻ gan to lớn mật, khi đi qua một gian phòng, phát hiện không thấy ai, hắn liền chui ngay vào lấy bộ binh phục Vân Thường để mặc, sau đó nghênh ngang bước ra ngoài.

Quy định tuần tra, canh gác ở đây vẫn không thay đổi, chỉ cần nghe lén được được khẩu lệnh của đám binh lính đi tuần tra trong đêm là có thể trà trộn vào và qua được mọi cửa ải, bình an đại cát. Phiên Lộc đứng trong góc tối, quan sát đội lính đi qua đi lại chạm mặt nhau.

“Công chúa bình an.”

“Vân Thường đại cát.”

Phiên Lộc nghĩ, Diệu Thiên công chúa đã mất từ lâu, Kỳ Điền cũng coi như có chút lương tâm, vẫn không quên chủ cũ của mình. Biết được khẩu lệnh thì không cần phải lẩn trốn, Phiên Lộc đi hẳn ra ngoài, thừa cơ quan sát xung quanh, cả đường gặp ai hỏi đến, hắn đều nói đúng khẩu lệnh. Đám binh lính thấy Phiên Lộc nói giọng Vân Thường, khẩu lệnh đúng, cử chỉ cũng y như người trong quân nên chẳng chút nghi ngờ.

Nghĩ rằng lúc này chắc Sở Bắc Tiệp đã vào đến tận chỗ Kỳ Điền, Phiên Lộc liền đi thẳng về hướng đó, dự định canh chừng cho Sở Bắc Tiệp. Chưa đến nơi, Phiên Lộc bỗng đứng sững lại, nhìn về phía gian phòng bên tay trái. Hắn vẫn nhớ trước đây gian phòng này trống không, giờ lại tăng cường canh gác, ngoài cửa còn cắm một lá cờ nhỏ dang phần phật trong gió, có thể thấy rõ một chữ “Hiệp” như rồng bay phượng múa.

Đôi mắt mật thám của Phiên Lộc còn nhanh hơn chim ưng, hắn cảm nhận ngay có điều gì bất thường ẩn giấu bên trong.

Phiên Lộc vội nấp sang một bên, quan sát căn phòng, lúc sau bỗng nở nụ cười giảo hoạt, quay đi: “May mà lão tử từng ở đây”. Phiên Lộc lợi dụng bóng tối, tiến thẳng về phía phát ra tiếng nước chảy, lẩm bẩm: “Ta nhớ là ở đây có một con sông”. Con người Phiên Lộc trước nay chưa bao giờ chịu ở yên một chỗ, bẩm sinh đã có sẵn sự nhạy cảm của mật thám, mỗi khi đến nơi nào, việc đầu tiên hắn làm là phải xem xét kỹ càng địa hình ở chỗ đó. Nơi đóng quân lâu ngày của đội quân Vĩnh Thái cũng không ngoại lệ.

Lúc trước, Phiên Lộc đã lặn xuống con sông này, biết bên dưới có dòng nước chảy ngầm dẫn đến căn phòng kia.

Phiên Lộc nhảy vào dòng nước êm như một con cá trạch, không bắn đến một giọt nước. Phiên Lộc nín thở lặn xuống tận dòng sâu, được một lúc, cảm thấy cả người khang khác, hắn lại nổi lên, ra khỏi mặt nước, đỉnh đầu hắn chạm phải một tảng đá, giữa tảng đá và mặt nước có một khe hở, đủ cho Phiên Lộc ngửa mặt lên để thở.

Hắn hít một hơi thật sâu rồi lặn xuống, lần này còn sâu hơn lần trước. Dưới nước tối om, hắn chỉ cố sờ soạng tiến về phía trước, bỗng thấy ngực hơi nóng… Phiên Lộc va phải thứ gì, đưa tay ra sờ thử, phát hiện đó là một hàng rào sắt, thì thầm than trong lòng.

Trước đây, chỗ này không hề có hàng rào sắt, sao giờ tự nhiên lại xuất hiện? Phiên Lộc không thể tiến về phía trước, quay lại thì càng không thể.

Ngực càng lúc càng đau, chợt nghĩ đến lời Túy Cúc nói trước lúc đi, Phiên Lộc than thầm trong lòng: chẳng lẽ số mệnh mình lại chỉ đến đây?

Hắn hối hận mình đã nhất thời hồ đồ, nên đành phải chết uổng thế này.

Ngực đau như có lửa đốt, Phiên Lộc không dám mở miệng vì hiểu rõ lúc này mà mở miệng ra không những hoàn toàn vô dụng mà còn chẳng khác nào tự tìm đến cái chết. Hắn chỉ còn cách giữ chặt lấy hàng rào sắt, ra sức lắc lư.

Cảm giác ngạt thở đang thiêu cháy, đầu óc hỗn loạn, hắn chỉ còn biết dùng lực rung lắc.

Đúng vào lúc đó, hàng rào sắt trong tay khẽ động, tuy chỉ một chút, nhưng cũng khiến Phiên Lộc sực tỉnh, tinh thần hăng hái hẳn lên, ra sức lắc lư, đá mạnh chân trong nước.

Gần hết sạch hơi, sức cũng cạn kiệt, mơ mơ hồ hồ mất một lúc, Phiên Lộc như đang nghe thấy tiếng gọi của Túy Cúc. Trong lúc tuyệt vọng, hàng rào sắt bỗng chuyển, lần này còn mạnh hơn lần trước, như đã lung lay đến tận gốc. Phiên Lộc vội vàng cúi người, giữa hai hàng rào sắt đã đủ chỗ để chịu qua.

Thật là ông Trời giúp ta!

Đúng vào lúc sống chết, Phiên Lộc liều chết, cố sức ngoi lên, mặc kệ thương tích đầy mình, không ngờ mặt nước lại sát với nền đá, chẳng còn chỗ để nổi lên.

Lòng chùng xuống, Phiên Lộc giơ tay sờ nền đá trên đầu, liều mạng bơi về phía trước. Bơi được một lúc, sức lực toàn thân cạn kiệt, bỗng thấy cổ tay mát lạnh, Phiên Lộc mừng quá, cố đạp thật mạnh, đầu ngoi lên mặt nước, gió lạnh ùa tới.

Phiên Lộc thở gấp, ướt lướt thướt ngoi lên, rồi lấy mồi lửa được gói cẩn thận bằng giấy dầu mang theo bên người ra châm, nhìn xung quanh, lẩm bẩm: “Mẹ kiếp, kẻ trời đánh nào lại sửa nơi này thành phòng giam, hại lão tử suýt nữa chết chìm ở đây”…

Xem ra, không chỉ mình Phiên Lộc phát hiện ra con đường dưới nước này, nơi đây rõ ràng đã có kẻ bố trí để lợi dụng nó, nên phải đặt một hàng rào sắt chắn bên dưới.

Cũng có thể người làm hàng rào sắt nghĩ rằng đằng nào cũng ở dưới nước, có làm dối ăn thật cũng chẳng ai trách mắng, nên hàng rào mới dễ bị lung lay như thế, và chính nó đã cứu mạng Phiên Lộc.

Nghĩ mình vẫn đang trên đất địch, Phiên Lộc vội vàng thổi tắt lửa, thận trọng đi vào phòng giam. Trên tường treo một chiếc đèn dầu, ngọn lửa chỉ to bằng hạt đậu, chiếu ra thứ ánh sáng vàng vọt khắp xung quanh.

Hai binh sĩ canh giữ đang nằm bò trên bàn ngủ gà ngủ gật, dưới chân lăn lóc một đống bình rượu hết. Chỗ này nằm trong doanh trại Vĩnh Thái, bên ngoài lại có bao nhiêu binh lính, nên chúng cứ tưởng đã kín như bưng, không còn khe hở nào, ai ngờ giờ bỗng xuất hiện một tên sát tinh từ dưới nước ngoi lên?

Phiên Lộc lặng lẽ đến bên hai tên lính canh cửa, cho mỗi tên một cú vào gáy, khiến chúng ngã lăn ra đất.

“Lão tử phải xem xem ai ở trong này mà quan trọng thế…”

Hắn nhìn vào bên trong, thấy một hán tử dáng hình cao to, ánh mắt sáng trong đêm tối, thần thái vô cùng sắc sảo.

Phiên Lộc từ ngoài cửa hỏi vào: “Này, ngươi là ai?”.

Nam nhân kia bị trói cả chân lẫn tay, lạnh lùng nhìn về phía Phiên Lộc mặc binh phục Vân Thường đột nhiên xuất hiện, cả người ướt lướt thướt, còn đánh ngất hai tên canh cửa, mà chẳng buồn nhướng mày, chỉ hỏi lại: “Thế người là ai?”.

Nam nhân này bị nhốt bao nhiêu lâu, râu tóc lởm chởm che khuất cả nửa khuôn mặt, nhất thời Phiên Lộc chưa thể định hình, nhưng khi người ấy cất tiếng thì tỏ rõ khí thế của một đại tướng quân. Phiên Lộc sững người, nhìn kỹ lại khuôn mặt trong phòng giam, càng lúc càng cảm thấy quen, cuối cùng cũng hoàn toàn tỉnh ngộ, thần sắc vô cùng kinh hoàng: “Ngươi chính là Tắc Doãn của Bắc Mạc!”.

Người trong thiên hạ cứ tưởng rằng sau khi khiêu chiến với Hà Hiệp, Tắc Doãn đã bị giết, ai ngờ Tắc Doãn lại bị bí mật giam giữ trong doanh trại của đại quân Vĩnh Thái!

“Ta đã gặp ngươi, ngươi chính là Thượng tướng quân Tắc Doãn của Bắc Mạc!”.

Tắc Doãn không lên tiếng, cũng coi như thầm công nhận. Thấy Phiên Lộc, Tắc Doãn biết ngay là người thuộc quân Vân Thường nên vô cùng cảnh giác, e là quỷ kế của Hà Hiệp, hắn đã quyết định có thể không mở lời thì quyết không mở lời.

“Sao Thượng tướng quân lại bị nhốt trong này? Đã nhốt bao lâu rồi?”

Hỏi liền mấy câu, thấy Tắc Doãn không trả lời, Phiên Lộc biết Tắc Doãn đang nghi ngờ mình. Nghĩ bụng đã liều mạng để chui vào đây mà Tắc Doãn lại không hề cảm kích nên hắn rất không vui, làm mặt lạnh: “Người không muốn biết ta là ai ư?”.

Tắc Doãn nghe khẩu âm, giọng điệu của Phiên Lộc, càng chắc chắn người này ở trong quân Vân Thường nhiều năm, có khả năng chính là mật thám do Hà Hiệp cử đến, bèn cau mày nói: “Muốn nói thì nói, không nói thì cút”.

“Lão tử là nghĩa phụ của Tắc Khánh nhi tử Thượng tướng quân!” Mấy hôm nay liên tục nghe Sính Đình và Túy Cúc nói chuyện sau khi biệt ly, hắn tất nhiên cũng nghe nói đến Dương Phượng và Tắc Khánh.

Lời chưa dứt, Tắc Doãn đã đứng bật dậy, bước vội về phía trước, rồi đứng sững lại, giọng trầm xuống: “Rất nhiều người biết nhi tử ta tên Tắc Khánh, ngươi đừng hòng lừa ta”.

Phiên Lộc nặng nề hừ một tiếng, cũng chẳng buồn để ý đến Tắc Doãn nữa, tự đến lục người hai tên lính gác, lấy chìa khóa, mở cửa phòng giam, lẩm bẩm: “Nghĩa tử đáng thương của ta, nghĩa phụ vốn định cứu mạng phụ thân ngươi, đáng tiếc là… Xem ra phụ thân ngươi cũng chẳng muốn gặp ngươi, chỉ muốn ở đây chờ chết thôi. Sau này nhi tử không còn phụ thân thương xót, nghĩa phụ lại không ở bên, con côi mẹ góa bị người ta ức hiếp, thật đáng thương”.

Nghe thế, Tắc Doãn cũng thấy xúc động.

Tắc Doãn bị giam ở đây đã bao ngày nay, không hề có tin tức của Dương Phượng và hài nhi, nghĩ đến việc mẫu tử hai người bị chèn ép mà lòng đau như dao cứa.

Phiên Lộc cũng không nhìn Tắc Doãn, chỉ vươn vai nói: “Ta phải đi thôi, ngoài kia có người đợi ta. Có thể trốn ra theo con đường dưới nước, có muốn theo ta hay không, tùy Thượng tướng quân quyết định”. Nói xong, hắn quay ra theo lối cũ.

Sau phút do dự, Tắc Doãn cũng đi theo Phiên Lộc. Tắc Doãn tính, kể cả ra ngoài, cũng quyết không tiết lộ nửa lời, thì dù có là quỷ kế của kẻ thù, chúng cũng không đạt được kết quả gì.

Bên ngoài doanh trại Vĩnh Thái, hai bóng người đang lặng lẽ trở về.

Những người mai phục bên ngoài thấy bóng họ trở về thì thở phào nhẹ nhõm. Sở Bắc Tiệp và Mạc Nhiên hỏi: “Phiên Lộc đã về chưa?”.

Mọi người đều lắc đầu, Mạc Nhiên lòng cũng chùng xuống, trầm giọng: “Ta sẽ quay lại một chuyến”.

“Không cần. Phiên Lộc thông thuộc nơi này hơn chúng ta, cứ đợi thêm lúc nữa.”

Mọi người lo lắng chờ thêm một lúc, trong lòng ai cũng mắng thầm Phiên Lộc, hai hàng mày của Sở Bắc Tiệp cũng chau lại. Nếu Phiên Lộc bị giữ lại trong đó thì biết ăn nói sao với Túy Cúc? Nếu phải xông vào cứu người, đừng nói là cứu không ra, mà e là tất cả kế hoạch đều bị hủy hoại hoàn toàn.

Đang lúc lo lắng, Phiên Lộc bỗng xuất hiện, cả người ướt như chuột lột, lấm lem bụi đất, bộ y phục màu đen đã chuyển thành màu vàng.

Vừa gặp Sở Bắc Tiệp, Phiên Lộc không giải thích mình đã đi đâu, mà hỏi ngay: “Vương gia đã gặp Kỳ Điền chưa?”.

Sở Bắc Tiệp vốn đang định giáo huấn hắn vài câu, nhưng vì không phải lúc nên vẫn trả lời: “Khi bản vương vào đến nơi, Kỳ Điền đang đọc nghiêm lệnh Hà Hiệp quở trách về việc dám gây trở ngại cho quân lệnh, trì hoãn không chịu dẫn quân sang Đông Lâm”.

Thấy Phiên Lộc trở về, Mạc Nhiên cũng yên tâm thay cho Túy Cúc, cười xòa, xoa dịu bầu không khí: “Thực ra khi thấy Kỳ Điền gặp Vương gia mà không gọi người truy bắt, cũng đủ biết ông ấy đang dao động”.

Phiên Lộc tiếp lời: “Kỳ Điền cũng thật xui xẻo, mối giao tình với Hà Hiệp càng lúc càng tồi tệ, đầu tiên bị Hà Hiệp nghi ngờ đã giết Thôi Lâm Giám, tiếp theo lại bị Hà Hiệp nghi ngờ đang mượn cớ binh sĩ nhiễm bệnh, không làm theo lệnh hắn… Giờ lại bị lão tử cho thêm một xui xẻo nữa”.

Sở Bắc Tiệp nghe ra hàm ý trong lời Phiên Lộc: “Thêm xui xẻo gì?”.

Phiên Lộc cười đáp: “Kỳ Điền đã làm mất tội phạm nghiêm trọng mà Hà Hiệp bí mật giam giữ thì có được coi là trọng tội không? Hai việc thứ nhất, Hà Hiệp mới chỉ nghi ngờ mà chưa có bằng chứng để đối phó với một đại tướng như Kỳ Điền. Riêng việc thứ ba, làm mất phạm nhân chính là trọng tội, Hà Hiệp nhất định sẽ nhân cơ hội này mà trừng trị Kỳ Điền luôn thể. Tình thế này, e là Kỳ Điền dù không muốn về phe chúng ta cũng không được”.

Mạc Nhiên hỏi: “Để mất tội phạm nào mà quan trọng đến vậy?”.

Phiên Lộc hỏi: “Thượng tướng quân Tắc Doãn của Bắc Mạc, có quan trọng không?”.

Mọi người vô cùng ngạc nhiên.

“Người hiện đang ở đâu?”

Bộ dạng của Phiên Lộc lại vô cùng uể oải, còn ngáp dài một cái rồi mới chỉ ra dốc núi phía sau: “Đã giấu đi rồi, ta phải qua đây báo trước với Vương gia một tiếng. Hai người từng là kẻ thù trên chiến trường, đừng có vừa mới gặp đã quay ra giết hại lẫn nhau. Ta đã phải liều mạng mới cứu được Tắc Doãn ra ngoài đấy”.

Sở Bắc Tiệp mừng rỡ, hét lên một tiếng, hơn mười người lao về dốc núi phía sau.
 

Hoa Tử

Sưu tầm
Tham gia
24/9/19
Bài viết
10,570
Điểm cảm xúc
1,484
Điểm
113
Chương 64:
Đúng là Kỳ Điền đang lâm vào cảnh ngộ thực sự nguy hiểm.

Từ khi lên nắm đại quyền, thái độ của Hà Hiệp với những đại thần Vân Thường công lao hiển hách cũng dần thay đổi, Tuy Hà Hiệp vẫn liên tục ban thưởng, nhưng khoảng cách giữa họ xa lạ hơn nhiều. Kỳ Điền là người thông minh, sao lại không nhận ra Hà Hiệp đang xây dựng thế lực của mình? Đề bạt Thôi Lâm Giám thống lĩnh đạo quân Cam Phượng chính là một ví dụ điển hình.

Điều này cũng có nghĩa, tương lai khi Hà Hiệp lập tân quốc, chắc chắn sẽ không lấy Vân Thường làm nền tảng, ý rõ ràng rằng con dân tứ quốc hoàn toàn bình đẳng như nhau.

Đối với người Vân Thường, đấy là việc vô cùng tồi tệ.

Sở Bắc Tiệp đêm khuya bí mật xuất hiện, đúng lúc Kỳ Điền đang rối bời vì những lời chỉ trích của Hà Hiệp. Cũng không biết tại sao, khi Sở Bắc Tiệp xuất hiện trước mắt như thần tướng hạ phàm, Kỳ Điền đã không hề hô gọi thị vệ.

Trấn Bắc vương mai danh ẩn tích bao lâu, gần như đã trở thành một câu chuyện thần thoại trong dân gian. Vậy mà, kẻ tử thù của Hà Hiệp lại đột nhiên đứng ngay trước mắt Kỳ Điền, hùng hồn nói năng, thật ngoài sức tưởng tượng. Đây là điều Kỳ Điền chưa bao giờ ngờ tới.

Cũng không thể nói rằng, những lời của Sở Bắc Tiệp là hoàn toàn vô lý.

“Kỳ đại tướng quân đã tận mắt chứng kiến những thủ đoạn của Hà Hiệp đối phó với Quý gia. Quý gia và cả Vân Thường đã bị hủy hoại trong tay hắn, tương lai cũng không thể đảm bảo rằng Kỳ đại tướng quân sẽ không bị hủy hoại bởi tay Hà Hiệp. Kỳ đại tướng quân xuất thân từ vương tộc Vân Thường, chẳng lẽ lại không tính một đường lui cho gia tộc mình?”

Kỳ Điền hạ giọng nói: “Ngươi đừng hòng dùng kế ly gián, ta chẳng có chỗ nào không phải với tiểu Kính An vương, làm gì có chuyện tiểu Kính An vương sẽ đối phó với ta?”.

Thấy những lời vừa rồi của mình vẫn chưa đủ sức nặng, nụ cười của Sở Bắc Tiệp càng thêm ý nhị: “Thế Diệu Thiên công chúa có chỗ nào không phải với Hà Hiệp?”.

Cả người Kỳ Điền như đông cứng: “Công chúa điện hạ vì sinh khó mà quy tiên”.

Cứ tưởng Sở Bắc Tiệp sẽ tiếp tục khiêu khích, không ngờ chàng chỉ buồn bã thở dài: “Kỳ đại tướng quân nghĩ như thế thì bản vương còn có cách gì? Anh hùng hảo hán, phải được chết oanh liệt nơi chiến trường, chứ như Quý Thường Ninh thì sao có thể nhắm mắt?”.

Sở Bắc Tiệp mình vận áo đen, nhưng toát lên vẻ quang minh chính đại. So với vẻ phong lưu khoáng đạt của Hà Hiệp, Trấn Bắc vương lại cam đảm, anh hùng theo một cách khác.

Kỳ Điền nhìn theo dáng hình Sở Bắc Tiệp rời đi, tay vẫn đặt trên cán kiếm.

Sở Bắc Tiệp nửa đêm xuất hiện mà không ra tay với Kỳ Điền, hoàn toàn khác với cảnh ngộ của Thôi Lâm Giám, nếu biết được chuyện này, e là Hà Hiệp sẽ càng thêm nghi ngờ.

Do dự hồi lâu, cuối cùng Kỳ Điền đã không làm kinh động đến đám thị vệ.

Chủ soái và đại tướng nghi ngờ nhau đến mức này, thực khiến người ta lạnh lòng.

Kỳ Điền đờ đẫn qua được một đêm, trời còn chưa sáng, đã thấy một binh lính chạy vào bẩm báo: “Đại tướng quân, không hay rồi, phạm nhân trong nhà lao dưới nước đã trốn thoát rồi!”.

“Cái gì?” Kỳ Điền cả đêm không ngủ, giờ lại bật dậy, mắt trợn trừng, thét hỏi: “Trốn thế nào? Đã sai người đuổi theo chưa?”.

“Hình như trốn theo đường nước ngầm, hàng rào sắt dưới nước đã bị bung ra, cũng không biết hắn làm thế nào mở được phòng giam. Đại tướng quân, chúng ta có nên lập tức bẩm báo việc này với tiểu Kính An vương?”

Kỳ Điền đờ đẫn hồi lâu, trầm giọng: “Việc này tuyệt đối không được để lộ ra ngoài. Các ngươi giữ kỹ cái miệng, ta tự có dự liệu”. Đuổi hết đám cận vệ ra ngoài, Kỳ Điền dậy mặc xiêm y, ngồi không được, đứng cũng chẳng xong, khuôn mặt rầu rĩ. Ra trận giết địch, phải đổ bao nhiêu máu cũng chẳng nề hà, nhưng những chuyện chốn quan trường, thật khiến người ta phiền muộn.

Đúng thật là nhà dột gặp mưa rào.

Vương cung Quy Lạc.

Trên đại điện, Đông Chước đang bẩm báo với Hà Hiệp: “Mật thám phát hiện thấy Nhược Hàn xuất hiện ở Bắc Mạc, hình như đang bí mật chiêu mộ binh mã”.

“Nhược Hàn? Cứ để hắn chiêu mộ”, Hà Hiệp chẳng buồn để ý, “Ta đang mong có người chiêu mộ bọn phản loạn đó lại, để quét sạch một đám. Yên tâm, ta tự có cách đối phó với Nhược Hàn”.

Hà Hiệp vẫn chưa hề biết Tắc Doãn đã được cứu ra.

Hôm đó hắn giữ mạng Tắc Doãn lại, là để sau này dùng đến. Ảnh hưởng của vị thượng tướng quân này đối với Bắc Mạc cũng giống như ảnh hưởng của Sở Bắc Tiệp với Đông Lâm. Giữ lại tính mạng của Tắc Doãn, để đề phòng đến ngày sau tàn quân Bắc Mạc tập hợp lại phản kháng.

Khắp trên dưới Bắc Mạc đều tưởng Tắc Doãn đã hy sinh vì nước, thử hỏi, nếu Thượng tướng quân Tắc Doãn mà tướng sĩ Bắc Mạc một lòng kính yêu bị đẩy ra phía trước, dao sắc kề cổ, thì lòng quân Bắc Mạc có đại loạn một phen?

Quân bài quan trọng, phải giữ lại dùng lúc quan trọng. Đó là một trong những sách lược ra tay là thắng của Hà Hiệp.

“Kỳ Điền đại tướng quân cũng vừa gửi tấu báo đến. Kỳ đại tướng quân nói không dám chậm trễ quân lệnh, chỉ là gần đây đạo quân Vĩnh Thái đột nhiên xuất hiện bệnh lạ, binh sĩ người nào người nấy tay chân uể oải, cả người ngứa ngáy…”

“Hừ!”, Hà Hiệp lạnh lùng, “Còn dám quanh co. Nếu đã là bệnh, thì đã xác định được bệnh gì hay chưa?”.

Đông Chước làm việc rất cẩn thận, trả lời cũng thành thực: “Có vẻ như không phải Kỳ đại tướng quân đang quanh co. Hình như cùng một lúc các doanh trại Vân Thường đều xảy ra tình trạng này, ban đầu mọi người lo là dịch bệnh, may mà bệnh cũng không nặng, không ai mất mạng”.

Hà Hiệp nghe thế thì quan tâm hẳn lên: “Đã kiểm tra quân lương chưa?”.

“Đã kiểm tra rồi, nhưng không hề có vấn đề gì. Xem ra nguyên nhân không bắt đầu từ quân lương.”

Hà Hiệp cười lạnh lùng: “Kiểm tra không ra thì càng đáng nghi. Chẳng lẽ ngươi quên bên cạnh Sở Bắc Tiệp có ai? Các đại doanh đều xảy ra vấn đề, thì không phải là chuyện của một đội quân lương. Gan cũng to bằng trời, dám vào hẳn đất Vân Thường ta”.

Đông Chước nghe Hà Hiệp đang ám chỉ đến Sính Đình, cả người chấn động, nhưng lại cau mày: “Dám động thủ vào quân lương, việc này hoàn toàn không thể, chẳng lẽ bọn họ có bản lĩnh vào tận Thả Tây phá hoại?”.

Quần thần trên điện, đặc biệt là các võ tướng đều lắc đầu không tin.

Hà Hiệp cũng biết Đông Chước nói có lý, suy nghĩ giây lát, sắc mặt bỗng đổi, hét lên: “Mang bản đồ ra đây!”.

Giở bản gồ, Hà Hiệp nhìn qua một vòng, ngón tay chỉ vào một điểm, cố nén giận: “Thế này mà bọn chúng cũng nghĩ được ra để thừa cơ lợi dụng”.

Quần thần đều ở bên dưới, có dướn cổ lên cũng không nhìn thấy Hà Hiệp đang chỉ đến chỗ nào trên bản đồ. Đột nhiên lại nghe Hà Hiệp hỏi: “Ai là thủ thành của thành Thả Nhu?”.

Có người vội vàng tra bảng danh quan lại, bẩm báo: “Là Phiên Lộc”.

Hà Hiệp vừa nghe, biết là người của Quý Thường Thanh thì càng chắc chắn với suy đoán của mình, liền gấp bản đồ, trầm giọng: “Sở Bắc Tiệp chắc chắn đang ở Vân Thường. Lập tức chuẩn bị hành trang, ta sẽ dẫn binh trở về Vân Thường!”.

Hà Hiệp kiêu dũng thiện chiến, chưa từng thất bại. Nói tới việc dẫn binh chinh chiến, hắn tác phong sấm rền gió cuốn, vô cùng hùng mãnh. Dù còn nghi ngờ nhưng quần thần cũng chẳng dám can gián, lần lượt cao giọng hô vang.

Các tướng võ biết rằng ra trận là có thể lập được công lao thì càng nắm chặt tay, hưng phấn vô cùng.

Hà Hiệp nói với Phi Chiếu Hành: “Chiếu Hành, Quy Lạc vẫn chưa ổn, ngươi làm việc cẩn trọng, ta để ngươi lại trông coi mọi việc. Đội tinh binh giữ thành ở đây, giao hết cho ngươi quản lý. Lần này tướng sĩ của đạo quân Úy Bắc sẽ theo ta thân chinh”.

Phi Chiếu Hành lạnh cóng cả người.

Chỉ đôi ba câu, Hà Hiệp đã lột sạch binh quyền của Phi Chiếu Hành, cả mấy tướng sĩ mà hắn phải mất công lung lạc cũng nhất loạt bị điều đi. Nếu trước khi xuất chinh, Hà Hiệp để lại một mật lệnh xử lý, thì Phi Chiếu Hành sao giữ nổi cái mạng của mình.

Phi Chiếu Hành nắm chặt bàn tay, sắc mặt vẫn không hề thay đổi, nhận lệnh của Hà Hiệp.

Hà Hiệp nhận lấy ấn soái từ Phi Chiếu Hành, binh quyền của đạo quân Úy Bắc giờ đã nằm trong tay hắn. Hắn gật đầu nói: “Mọi người mau chuẩn bị đi, ba canh giờ sau sẽ xuất phát ở cổng thành”.

Quần thần dạ vâng, lập tức tản đi.

Phi Chiếu Hành một mình ra khỏi cổng cung, sau lưng bỗng vang lên tiếng gọi: “Phi tướng quân, xin dừng bước!”.

Hắn quay đầu, hóa ra là trưởng thị vệ của Hà Hiệp đang dẫn theo bốn, năm thị vệ đuổi theo, tươi cười nói với Phi Chiếu Hành: “Tiểu Kính An vương có dặn để Phi tướng quân cai quản đội tinh binh giữ thành, ta phụng lệnh dẫn Tướng quân đi tiếp nhận”. Trưởng thị vệ thần thái tự nhiên, cứ tưởng sẽ không để lộ chút sơ hở nào.

Ai ngờ Phi Chiếu Hành vốn tinh hơn người, lại sớm nghi ngờ Hà Hiệp từ lâu.

Ánh mắt Phi Chiếu Hành nhìn về phía mấy thị vệ sau lưng tên trưởng thị vệ kia, hai tay họ buông xuống, nhưng chỉ cần động ngón tay là có thể tuốt kiếm. Phi Chiếu Hành sao có thể không nhận ra ý đồ của họ, xem ra Hà Hiệp đã hạ lệnh xử lý hắn. Phi Chiếu Hành cười gằn trong lòng, song nụ cười ngoài mặt lại hân hoan vô cùng: “Được rồi, làm phiền huynh đệ đưa ta đi một chuyến”.

Họ lên ngựa, khi rẽ vào con ngõ, Phi Chiếu Hành nhanh chóng rút kiếm, đâm vào ngực tên trưởng thị vệ. Đối phương không ngờ hắn lại ra tay trước, chỉ kịp kêu lên một tiếng thảm thiết, rồi ngã xuống ngựa.

Phi Chiếu Hành giật dây cương, thúc ngựa quay đầu bỏ chạy. Mấy người còn lại thấy hắn chạy đi, mới đột nhiên tỉnh ngộ, hò hét đuổi theo. Vì Hà Hiệp hạ lệnh chỉnh trang quân ngũ chờ ở cổng thành để xuất phát, nên cổng thành đã mở toang. Phi Chiếu Hành mặc trang phục tướng quân, phi vèo ra đến đó, các binh sĩ canh cổng vội vàng hành lễ. Họ còn chưa kịp ngẩng đầu, cả người lẫn ngựa của vị tướng quân kia đã phi như bay về phía xa.

Hà Hiệp nhận được tin, nổi khùng: “Có một việc nhỏ như thế mà làm không xong!”.

Nhưng đại quân sắp xuất phát, Hà Hiệp chỉ có thể lệnh cho một phó tướng dẫn quân truy bắt Phi Chiếu Hành, còn mình, sau khi sắp xếp thỏa đáng những việc ở Quy Lạc thì khoác quân trang, đi ra cổng thành.

Thành Thả Nhu.

Vì Tắc Doãn bình an trở về nên tiếng cười vang vọng trong phủ thủ thành mấy ngày không ngớt.

Sở Bắc Tiệp và Tắc Doãn từng là kẻ thù trên chiến trường, nhưng vì Sính Đình, Dương Phượng và vì thời cuộc loạn lạc, cuối cùng họ đã trở thành bằng hữu cùng chung hoạn nạn.

“Ta nhớ nhi tử quá.”

“Ta cũng thế.”

Nói đến nhi tử, cả hai đại tướng đều không tránh được tiếng thở dài.

Tắc Doãn nói: “Trấn Bắc vương còn hơn ta một chút, ít nhất cũng có Bạch cô nương ở bên. Dương Phượng và Khánh nhi đáng thương còn chưa biết ta được bình yên, không biết họ lo lắng đến mức nào”.

Đúng lúc Sính Đình từ ngoài bước vào, liền che miệng cười nói: “Càng xa cách, càng mặn nồng. Dương Phượng đau lòng bao nhiêu, đợi đến lúc gặp được Thượng tướng quân, tỷ ấy sẽ càng mừng vui bấy nhiêu”.

Sở Bắc Tiệp là người từng trải trong việc này, nên hoàn toàn hiểu được cảm nhận của Tắc Doãn, bèn an ủi: “Cũng không có cách nào, binh lực ở Đông Lâm rất ít, để tránh sự chú ý của quân Vân Thường, chúng ta phải cố gắng không được liên lạc với họ”.

Lúc này, Phiên Lộc cũng dắt theo Túy Cúc đi vào, thấy Sở Bắc Tiệp, liền hỏi: “Khi nào Trấn Bắc vương lại đi gặp Kỳ Điền?”.

“Ta trốn được ra ngoài, Kỳ Điền không thể bẩm báo với Hà Hiệp, giờ chắc đang đứng ngồi không yên. Món ăn đã nấu xong, phải bê lên bàn thôi”, Tắc Doãn cười ha ha.

Sở Bắc Tiệp cũng đang có dự định này nên triệu tập mọi người, nói: “Việc không thể chậm trễ, chúng ta lại đi gặp Kỳ Điền một chuyến”. Lần này Sở Bắc Tiệp sẽ cùng đi với Mạc Nhiên và Tắc Doãn, Phiên Lộc ở lại trông coi Thả Nhu.

Phiên Lộc có chút buồn bã, lần trước chỉ đánh ngất hai tên lính gác, mà chưa giết được người nào nên vẫn ngứa ngáy chân tay, không ngờ lần này lại phải ngồi nhà.

Túy Cúc ôm ngực nói: “Hay quá, hay quá, khỉ bị nhốt trong lồng rồi”. Nói xong, nàng nhìn qua phía Phiên Lộc. Sở Bắc Tiệp không để Phiên Lộc mạo hiểm, trong lòng Túy Cúc rất vui.

Họ lại xuất phát giống như lần đầu. Trước khi đi, Sính Đình nói với Sở Bắc Tiệp: “Vương gia đi nhanh rồi về, thiếp cứ có cảm giác lo lắng bất an”.

Sở Bắc Tiệp mỉm cười đáp: “Không có ta bên cạnh, tất nhiên nàng sẽ thấy bất an. Yên tâm, ta sẽ sớm trở về”. Sau đó, chàng khẽ hôn lên gáy Sính Đình. Sính Đình nhắm mắt, ngoan ngoãn đón nhận.

Phiên Lộc đứng cạnh cười nói với Túy Cúc: “Nàng nhìn người ta mà xem, sao mà thân thiết thế. Lần trước ta chỉ muốn giữ tim cho nàng.. Thế mà…”. Lời còn chưa dứt, Phiên Lộc đã kêu ầm lên, rõ ràng phải nhận một đòn của Túy Cúc.

Lần này họ xuất phát từ sớm, khi đến doanh trại của quân Vĩnh Thái, trời vẫn còn sáng. Các phòng trong quân doanh này hầu như đều xây bằng gạch, có nhiều nơi yểm hộ hơn so với những doanh trại khác. Mấy người lặng lẽ lẻn vào doanh trại. Nơi ở của Kỳ Điền hoàn toàn yên ắng, bên ngoài cũng chẳng có bóng ai, hình như đã bị Kỳ Điền đuổi đi hết. Sở Bắc Tiệp nhìn tình thế, cảm thấy có chút chắc chắn nên không ẩn nấp thêm mà tiến thẳng vào phòng Kỳ Điền.

Sở Bắc Tiệp ung dung cười nói: “Kỳ đại tướng quân đã nghĩ xong chưa? Hôm nay bản vương đến để nhận hồi âm”.

Kỳ Điền hạ giọng: “Trấn Bắc vương đã cứu Tắc Doãn thượng tướng quân?”.

Sở Bắc Tiệp mỉm cười không đáp.

“Trấn Bắc vương có biết, chỉ cần ta hô lên một tiếng, Trấn Bắc vương sẽ lập tức chết không có đất chôn”, Kỳ Điền hạ giọng hỏi.

Sở Bắc Tiệp vẫn mỉm cười, ánh mắt kiên định nhìn thẳng Kỳ Điền, một lúc lâu mới hỏi: “Vậy tại sao Kỳ đại tướng quân không hô lên một tiếng?”. Từng cử chỉ lời nói của Sở Bắc Tiệp đều mang phong thái vương giả, ngạo mạn nhìn thời cuộc, không chao đảo trước sóng to gió lớn.

Kỳ Điền trừng mắt nhìn Sở Bắc Tiệp, cuối cùng cũng chùng xuống, thở dài: “Mấy hôm nay, ta đã nghĩ rất nhiều… Vốn dĩ ta dự định nếu Trấn Bắc vương quay lại lần nữa, ta sẽ liều mạng bắt lấy. Có thể tận trung tận lực vì Vân Thường, tính mạng này nào có đáng gì?”.

Trên mặt bàn trước mặt có hai bức thư đang mở, Kỳ Điền cầm một bức lên, đưa cho Sở Bắc Tiệp: “Nhưng ta là võ tướng hộ quốc, ghét nhất kẻ phản bội. Trấn Bắc vương hãy xem… Nếu không phải bức thư này, e là gặp Trấn Bắc vương, ta đã gọi người tới rồi”.

Sở Bắc Tiệp cầm bức thư, cúi xuống xem người gửi, bên trên viết rõ ba chữ “Phi Chiếu Hành”, nét chữ nguệch ngoạc, rõ ràng viết trong lúc vội.

“Phi Chiếu Hành này chẳng phải chính là đại tướng tâm phúc bên cạnh Hà Hiệp sao?”.

“Đúng thế, trên này có cả ấn của Phi Chiếu Hành, không thể là giả.” Kỳ Điền gật đầu, khuôn mặt thoáng sự phẫn nộ và đau đớn không nói nên lời, giọng khản đặc, “Trong thư, Phi Chiếu Hành nói đến việc Hà Hiệp đã… đã hại chết Diệu Thiên công chúa như thế nào”.

Sở Bắc Tiệp hiểu ra ngay lập tức, trong lòng thầm ngạc nhiên sao bức thư này lại đến đúng lúc thế, rồi đọc kỹ một lượt từ đầu đến cuối. Trong lúc vội vã, Phi Chiếu Hành vẫn không hề lộn xộn mà miêu tả vô cùng sinh động và tường tận việc Hà Hiệp giam lỏng rồi bức tử Diệu Thiên công chúa ra sao, vô cùng bi thảm, khiến một người ngoài như Sở Bắc Tiệp cũng thấy không thể chịu đựng, huống hồ là vị đại tướng bao nhiêu năm trung thành hết mực với vương tộc Vân Thường?

Nếu Phi Chiếu Hành viết mười lá thư như thế, gửi đến tay tất cả các đại tướng Vân Thường thì cảnh ngộ của Hà Hiệp đã thực sự gặp nguy hiểm. Chỉ là không biết tại sao Phi Chiếu Hành lại đột nhiên phản bội Hà Hiệp, mà đoạn tuyệt đến mức này.

Kỳ Điền đợi Sở Bắc Tiệp đọc xong bức thư của Phi Chiếu Hành, chợt hỏi: “Trấn Bắc vương từ Thả Nhu tới đây?”.

Lời hỏi thẳng của Kỳ Điền khiến một người điềm tĩnh như Sở Bắc Tiệp cũng phải giật mình, vội hỏi: “Kỳ đại tướng quân làm sao biết được?”.

Kỳ Điền đưa bức thư thứ hai trên bàn cho Sở Bắc Tiệp: “Bức thư này gần như đến cùng một lúc với bức thư của Phi Chiếu Hành. Hà Hiệp muốn ta lập tức dẫn binh xuất phát, trợ giúp hắn tấn công thành Thả Nhu. Hừ, ta chỉ muốn gặp hắn trực diện, đánh cho hắn tan tác một trận!”.

Sở Bắc Tiệp gần như giằng lấy bức thư: “Hỏng rồi!”.

Hà Hiệp dẫn binh bao vây thành Thả Nhu đúng lúc Sở Bắc Tiệp để Sính Đình ở lại đó!

Dù trong lòng vô cùng sốt ruột, nhưng Sở Bắc Tiệp vẫn bình tĩnh hỏi Kỳ Điền: “Kỳ đại tướng quân có thể chỉ huy cánh quân Vĩnh Thái đối phó với Hà Hiệp không? Nếu tướng sĩ Vĩnh Thái không tuân theo lệnh thì làm thế nào?”.

Kỳ Điền hiểu rằng đã có chuyện xảy ra, bèn nói thẳng: “Quân Vĩnh Thái đều là con dân Vân Thường, chỉ cần ta đọc cho họ bức thư của Phi Chiếu Hành, đảm bảo sẽ không còn ai dốc sức cho Hà Hiệp nữa. Chẳng giấu gì Trấn Bắc vương, từ khi chiếm được Bắc Mạc, Đông Lâm và Quy Lạc, chúng dân Vân Thường càng lúc càng bị xem thường”.

“Được!”, Trấn Bắc vương nói, “Vậy Kỳ đại tướng quân hãy lập tức theo ta đến Thả Nhu, đối kháng với Hà Hiệp”.

“Đương nhiên là ta muốn tiến thẳng tới Thả Nhu quyết chiến một trận với Hà Hiệp, nhưng hận một nỗi gần đây binh sĩ của ta mắc bệnh lạ, ai nấy chân tay rã rời uể oải, còn không trèo được lên lưng ngựa.”

Biết chắc chuyến đi này sẽ lôi kéo được Kỳ Điền, nên Sở Bắc Tiệp đã sớm bảo Sính Đình chuẩn bị thuốc giải. Chàng nói với Kỳ Điền: “Kỳ đại tướng quân không phải lo việc này, bản vương đã mang sẵn thuốc giải, chỉ cần pha với nước mỗi người uống một ngụm, đảm bảo sẽ khỏe lại như trước”, rồi vỗ vào tay nải trên lưng.

Kỳ Điền há miệng, hoàn toàn tỉnh ngộ.

“Còn một việc nữa”, Kỳ Điền cau mày, “Không phải ta đánh giá thấp khả năng của Trấn Bắc vương, nhưng Hà Hiệp không hề đơn giản, lại dẫn theo hai cánh quân bao vây thành Thả Nhu. Quân Vĩnh Thái của ta chỉ bằng một nửa binh lực của Hà Hiệp, e rằng không thể địch nổi. Tuy phần lớn hai đạo quân trong tay Hà Hiệp đều là con dân Vân Thường, nhưng hai bên đối đầu, đâu có cơ hội nói rõ nguồn cơn?”.

Sở Bắc Tiệp nhớ đến Sính Đình, lòng như lửa đốt, bàn tay nắm chặt Thần uy bảo kiếm, mồ hôi như đang túa ra, lạnh toát. Biết Kỳ Điền hoàn toàn có lý, suy nghĩ giây lát, Sở Bắc Tiệp hỏi: “Gần đây ngoài đạo quân Cam Phượng, hình như còn có cánh quân Vĩnh Tiêu?”.

“Đúng thế. Trước đây khi tấn công Đông Lâm, cánh quân Vĩnh tiêu đã bị tiêu diệt hoàn toàn, quân Vĩnh Tiêu hiện tại là đội quân do các hàng binh tập hợp mà thành.”

“Binh sĩ ở đâu là chính?”

Trong lòng thầm hâm mộ Sở Bắc Tiệp am hiểu binh pháp, nhạy cảm hơn người, Kỳ Điền vội đáp: “Phần đông là hàng binh của Bắc Mạc và Đông Lâm, binh sĩ Quy Lạc chiếm không nhiều. Hà Hiệp sợ họ không phục nên đặc biệt ưu đãi, lương bổng đều gấp đôi chỗ khác. Có điều, Thường Lượng tướng quân thống lĩnh cánh quân này vô cùng trung thành với Hà Hiệp, dù có đọc bức thư của Phi Chiếu Hành, hắn cũng chưa chắc hận Hà Hiệp như chúng ta”.

Sở Bắc Tiệp cười vang: “Thế thì sợ gì?”. Sở Bắc Tiệp bước ra cửa, gọi khẽ: “Các vị vào đây”.

Mấy đại tướng đang mai phục bên ngoài nghe thấy Sở Bắc Tiệp gọi, biết việc đã thành, lần lượt bước vào phòng.

Việc vô cùng cấp bách, Sở Bắc Tiệp nhanh chóng sắp xếp: “Hà Hiệp đang dẫn theo hai đạo quân xông đến Vân Thường, có thể tấn công thành Thả Nhu bất cứ lúc nào. Ta và Kỳ Điền đại tướng quân sẽ lập tức dẫn theo cánh quân Vĩnh Thái tiến về thành Thả Nhu. Ba mươi dặm về phía bắc của nơi này còn có cánh quân Vĩnh Tiêu, kẻ thống lĩnh là Thường Lượng, tâm phúc của Hà Hiệp, binh sĩ phần đông là người Đông Lâm và Bắc Mạc. Tắc Doãn, Mạc Nhiên hãy lập tức đột nhập vào doanh trại Vĩnh Tiêu, không từ thủ đoạn giết chết Thường Lượng, giành lấy cánh quân này”.

Biết Hà Hiệp sắp tấn công thành Thả Nhu, ai nấy đều lo lắng. Tắc Doãn và Mạc Nhiên mang theo trọng trách, không dám lơ là, nhận lệnh của Sở Bắc Tiệp, đi ngay lập tức.

Sở Bắc Tiệp hít một hơi thật sâu, nhìn Kỳ Điền: “Kỳ đại tướng quân, chúng ta đi báo thù cho Diệu Thiên công chúa”.

Sính Đình, nhất định nàng phải đợi ta trở về.
 

Hoa Tử

Sưu tầm
Tham gia
24/9/19
Bài viết
10,570
Điểm cảm xúc
1,484
Điểm
113
Chương 65:
Trên không trung vang lên tiếng hú dài của chim ưng.

“Kỳ lạ…” Phiên Lộc nghe thấy liền ngẩng lên nhìn chằm chằm về phía chấm nhỏ đang chao lượn trên bầu trời: “Kiểu bay lượn kia rõ ràng là của loại ưng được huấn luyện, sao nó lại đột nhiên bay đến chỗ chúng ta?”.

Sính Đình nhìn theo ánh mắt Phiên Lộc, thấy rõ con chim ưng như đang lo lắng bất an bay trên bầu trời, bèn cau mày đáp: “Khi đến thành Thả Nhu, Vương gia đã sắp xếp một tiểu đội ở lại biên giới của Đông Lâm và Vân Thường để giám sát động tĩnh của quân Vân Thường. Người dẫn đầu có nuôi một con chim ưng, không lẽ là nó? Sao nó lại bay đến đây?”. Nghe tiếng chim ưng kêu mãi không ngừng, hình như việc rất khẩn cấp, Sính Đình vội vàng vào phòng lấy cái vòng chim ưng Sở Bắc Tiệp để lại, giơ lên lắc lắc, chiếc vòng không ngừng phát ra tiếng kêu.

Chiếc vòng này là của chủ nhân con chim ưng đưa cho Sở Bắc Tiệp để giữ liên lạc. Con chim ưng nghe tiếng vòng, biết đã tìm đúng chỗ, lại hú dài một tiếng rồi lao thẳng xuống, vô cùng dũng mãnh.

Phiên Lộc nhanh tay nhanh mắt, vội cầm lấy cái vòng trong tay Sính Đình, vứt sang bàn đá bên cạnh. Ngay lập tức, con chim ưng lao tới, rất thông minh thu gọn đôi cánh, đỗ trên bàn đá, móng vuốt chụp lấy cái vòng.

Dưới chân con chim ưng có buộc một mảnh vải nhỏ, Phiên Lộc giơ tay định lấy.

Túy Cúc đứng cạnh, vội kêu lên: “Cẩn thận nó mổ!”.

Túy Cúc chưa kịp nói xong, Phiên Lộc đã lấy được mảnh vải đó, bèn cười nói: “Con chim ưng này còn dịu dàng hơn nàng, không mổ người bừa bãi. Để ta xem nó đưa tin tốt gì đến”. Vừa giở mảnh vải ra, sắc mặt hắn đã hoàn toàn thay đổi.

Túy Cúc đã ở bên Phiên Lộc bao lâu nay, nhưng chưa từng thấy sắc mặt Phiên Lộc khó coi đến mức này, vội hỏi: “Sao thế?”.

“Hà Hiệp dẫn theo hai cánh quân, đang tiến về thành Thả Nhu.”

“A!” Túy Cúc kinh hãi kêu lên, rồi ôm chặt miệng, nhìn sang Sính Đình.

Sính Đình nghe Phiên Lộc nói vậy, mặt hoa cũng thất sắc, đứng bật dậy, cả người loạng choạng, vội vàng vịn vào bàn đá, hỏi: “Hai cánh quân nào? Bao giờ tới thành Thả Nhu?”.

Phiên Lộc cười khổ: “Trên mảnh vải chỉ viết một câu, ta sao biết được? Có điều nét chữ cẩu thả thế này, chắc chắn tình hình vô cùng khẩn cấp”.

Túy Cúc vội hỏi: “Hà Hiệp đến thì hỏng rồi! Cô nương có cách gì không? Ai ya, sao Vương gia lại không ở đây vào lúc này?”.

Sính Đình lắc đầu nói: “May mà Vương gia chọn hôm nay…”. Đến cuối câu, nàng bỗng im bặt.

Phiên Lộc trầm giọng: “Mọi người ngay lập tức rời khỏi đây. Chỗ này cứ để ta, có thể tránh được Hà Hiệp lúc nào hay lúc ấy”. Vẻ mặt hắn ánh lên sự khảng khái hiếm thấy.

Túy Cúc lo lắng, khuôn mặt như sắp khóc.

Sính Đình suy nghĩ một lúc, rồi ngẩng lên, vô cùng quyết đoán: “Lập tức rút hết. Hà Hiệp đến thành Thả Nhu, chắc chắn đã biết mọi chuyện nên sẽ không để Phiên thủ thành nói được nửa tiếng, kiếm đã xộc tới”.

Hoắc Vũ Nam cùng những người khác vội vã chạy đến, nghe Sính Đình nói thế, liền hỏi: “Không nguy cấp đến mức ấy chứ? Chim ưng nhanh hơn người nhiều, chắc vẫn còn thời gian, chi bằng cứ đợi Vương gia quay lại, đi cho chắc”.

Sính Đình lắc đầu kiên quyết: “Không, phải lập tức rút hết khỏi thành Thả Nhu. Phiên Lộc, ngươi mau nghĩ cách thông báo cho người của chúng ta trong thành, không cần tập hợp, lập tức ra khỏi thành, rút về phía đạo quân Vĩnh Thái”.

Phiên Lộc cau mày: “Không biết tình hình bên Kỳ Điền đại tướng quân thế nào, nếu ông ấy không chịu theo chúng ta mà dẫn quân trợ giúp Hà Hiệp, thì trên đường gặp phải quân Vĩnh Thái sẽ chẳng khác nào tự chui đầu vào rọ ư?”.

Sính Đình thở dài: “Hà Hiệp dẫn hai đạo quân đến, chúng ta ở đây chỉ vẻn vẹn một ngàn người, dù Vương gia giành được đạo quân Vĩnh Thái hay không, chúng ta ở lại thành Thả Nhu cũng cầm chắc cái chết. Nếu đạo quân Vĩnh Thái đi theo Vương gia, chúng ta sớm gặp được thì còn có tia hy vọng”.

Sính Đình nói hết mọi lẽ, cuối cùng mọi người cũng hiểu được tình thế nguy hiểm tới mức nào, ai nấy lòng chùng xuống. Họ bỏ lại hành trang, lập tức rời khỏi thành Thả Nhu.

Phiên Lộc cho gọi mấy sai dịch tới, cho mỗi người một tờ ngân phiếu với số lượng lớn, vẻ mặt hớn hở, dặn dò: “Hôm nay lão gia ta cho các ngươi một việc hay, mỗi người đi dán mười tờ cáo thị, dán ở những nơi bắt mắt nhất trong thành. Nửa canh giờ sau làm xong quay về, ta sẽ thưởng cho mỗi người một tờ ngân phiếu nữa”.

Mấy tên sai dịch chưa bao giờ được tờ ngân phiếu có giá trị lớn như thế, ai cũng cười không khép được miệng, cúi đầu khom lưng hỏi: “Đại nhân cần viết cáo thị gì, tiểu nhân sẽ cho viết thật đẹp”.

Hai hàng mày của Phiên Lộc nhướng lên: “Ai cần các ngươi viết đẹp? Phải nhanh, thật nhanh! Bên trên viết mấy chữ, “Đi ngay, phía đông!”. Chỉ bốn chữ này! Đừng hỏi nghĩa là gì, cứ làm theo lời ta là được. Nghe cho rõ, nửa canh giờ sau phải làm cho xong!”.

Đuổi hết đám sai dịch, Phiên Lộc vội vàng vòng ra cửa sau của phủ thủ thành. Túy Cúc và mọi người đã chọn ra những con ngựa tốt nhất trong phủ, thấy Phiên Lộc thì vứt ngay một dây cương sang. Phiên Lộc nhảy lên ngựa, thét lên: “Đi!”.

Ngay lập tức, tiếng vó ngựa rền vang, một đoàn người phi như bay ra khỏi cổng thành. Hôm nay không họp chợ, cổng thành đóng sớm hơn ngày thường, Phiên Lộc đứng dưới cổng thành, ngẩng đầu, hét vang: “Mở cổng thành! Mau mở cổng thành cho lão tử!”.

Binh sĩ giữ thành nhìn thấy Thủ thành đại nhân thì hoảng hốt làm theo. Chỉ trong chốc lát, những tờ cáo thị sai dịch vừa dán đã phát huy tác dụng, bao nhiêu người cưỡi ngựa từ khắp các ngóc ngách trong thành phi ra. Họ chính là những tinh binh thuộc hạ của Sở Bắc Tiệp đang mai phục trong thành Thả Nhu. Khi cánh cổng thành chuẩn bị mở, bên ngoài đã có hàng trăm người đang chờ sẵn.

Cánh cổng thành cót két mở ra khe hở chỉ đủ cho một người qua. Phiên Lộc cưỡi ngựa đi trước, đang định phi qua, bỗng một mũi tên xé gió lao tới, Phiên Lộc vội nghiêng đầu tránh, “phập” một tiếng, mũi tên cắm vào cánh cửa.

Túy Cúc kêu lên: “Không hay rồi, bọn họ đã đến! Đóng cổng thành lại, biết đâu còn có thể chống đỡ được một lúc!”.

“Không”, Sính Đình lạnh lùng, “Vội vàng bắn tên, đó là đội quân tiền trạm. Nhân lúc vòng vây chưa chặt, chúng ta hãy xông ra. May mà chúng ta vẫn nhanh hơn Hà Hiệp một chút”. Nói xong, nàng khẽ mỉm cười.

Thấy nụ cười ung dung của Sính Đình, mọi người trấn tĩnh lại, hưng phấn tiến lên.

Ở cổng thành có đặt khá nhiều tấm thuẫn dày để binh sĩ thủ thành dùng, Phiên Lộc cầm lấy một tấm, hét lên: “Theo ta!”.

Hai chân kẹp chặt lưng ngựa, hắn lao ra ngoài.

Lần này, những mũi tên sắc nhọn lại liên tục lao tới, bắn rất mau, nhưng không phải hàng loạt mũi tên dày đặc bao vây tứ phía như trên chiến trường.

Phiên Lộc biết Sính Đình đã đoán đúng, hiện đang mai phục ngoài thành Thả Nhu chỉ là những tiểu đội tiền trạm, trong lòng cũng mừng thầm. Phiên Lộc tay giơ cao tấm thuẫn, ngăn hết những mũi tên. Cổng thành đã mở toang, những người sau lưng cũng lấy một tấm thuẫn giống Phiên Lộc, người không có thuẫn nấp sau người có thuẫn, tạo thành một thế trận nhỏ, vây quanh ba người Sính Đình, Túy Cúc và Hoắc Vũ Nam, xông ra ngoài.

Họ bất chấp tất cả lao ra khoảng đất trống ngoài thành, cuối cùng cũng chạm mặt với kẻ thù. Tiểu đội tiền trạm là những người đến thành Thả Nhu sớm nhất, tổng cộng chỉ có trăm người, quân số ít hơn bên Sính Đình, phần lớn lại là những tay cung tiễn. Phiên Lộc hét lên một tiếng, vứt tấm thuẫn đi, rút trường kiếm sau lưng, đâm thẳng về phía trước. Binh mã sau lưng cũng xông lên, họ đều là cao thủ được Sở Bắc Tiệp lựa chọn kỹ càng, cùng một lúc đao kiếm nhất tề vung lên, thành một đoàn chém giết.

Kiếm thuật của Phiên Lộc không cao, nhưng tốc độ nhanh nhạy, đối phương lại không phải cao thủ, nên chẳng mấy chốc đã nghe thấy những tiếng kêu thảm thiết, vài tên lĩnh Vân Thường máu me be bét, ngã xuống ngựa.

Sợ nhất Phiên Lộc làm sao, Sính Đình vội nói: “Phiên Lộc đừng ham đánh, mau đi thôi”.

Phiên Lộc biết Sính Đình có ý tốt, nhưng cũng biết đội cung tiễn tiền trạm này ở cự ly gần thì không đáng sợ, nếu bên ta lui trước, chúng từ phía sau bắn tên đuổi theo thì không dễ đối phó, hắn bèn cao giọng: “Mọi người đi trước đi, để lão tử xử lý xong bọn chúng rồi sẽ đuổi theo”.

Ù… ù… ù…

Phiên Lộc đánh được thêm một tên, bỗng nghe tiếng hiệu lệnh nổi lên, hùng hồn vang vọng, như xuyên thẳng vào tai mỗi người, tấn công tới tận lục phủ ngũ tạng của họ.

Mặt Sính Đình biến sắc: “Hỏng rồi! Đại quân Vân Thường đã tới! Đi thôi!”.

Mọi người nghe thế, trong lòng run sợ, lúc này tiểu đội tiền trạm cũng đã bị tiêu diệt gần hết, họ vội vàng thúc ngựa tiến thẳng về phía đông. Sính Đình quất mạnh roi ngựa, quay lại nhìn, sau lưng bụi cuốn mù trời, thiên quân vạn mã đang lao tới.

“Giết!”

Tiếng hô giết kinh thiên động địa từ phía sau vang tới.

Thiếu gia, thiếu gia đã đuổi đến rồi…

Không, là Hà Hiệp.

Hà Hiệp đã giết Diệu Thiên công chúa, giết Bắc Mạc vương, giết cả vương tộc Quy Lạc.

Mặt đất như nứt toác.

Gió điên cuồng gào thét, cuộn tung bụi đất. Vút, vút, vút, cơn mưa tên từ phía sau đuổi tới, mấy đại hán theo sát Sính Đình ngã lăn xuống ngựa.

Túy Cúc kinh hoàng kêu lên.

Sính Đình hét lớn: “Đừng nhìn! Tiến về phía trước!”. Vừa nói nàng vừa quất mạnh roi vào một con ngựa của Túy Cúc.

Mỗi cơn mưa tên lao tới, lại có mấy hộ vệ ngã xuống. Máu những đại hán ngã xuống như đang nhuộm đỏ con đường sống mong manh của họ.

Những con ngựa trúng tên hí vang, giẫm lên thi thể đã ngã xuống, kinh hoàng tháo chạy, cuối cùng ngã xuống trong màn mưa tên như không bao giờ ngừng.

Tiếng tù và phía chân trời vọng đến bên tai, cào xé tim gan người ta.

Sau lưng mưa tên giăng khắp, tình thế vô cùng thê thảm. Chưa kịp đến dốc núi không xa phía trước, hàng trăm hộ vệ quanh Sính Đình chỉ còn khoảng mười người.

Tiếng vó ngựa như vọng đến từ địa ngục, càng lúc càng gần.

Máu của những hộ vệ bắn tung tóe thành những đường cong quanh Sính Đình.

Tại sao?

Tiểu Kính An vương, tại sao?

Bao nhiêu hồn thiêng đã gửi vào đất trời. Sự dịu dàng, phong lưu, nụ cười tự nhiên thoải mái như gió xuân của thiếu gia ngày trước, đã chôn vùi ở tận nơi đâu?

Giang sơn nhuộm màu máu, thiếu gia giành lấy cũng để làm gì?

Gió điên cuồng táp vào mặt, hai mắt Sính Đình đau rát, máu của những hộ vệ hòa quyện với trời đất vô tình tạo thành một bức tranh chói mắt. Trong mênh mang thê lương, Sính Đình mặc cho dòng nước mắt tuôn.

Vân Thường, Bắc Mạc, Đông Lâm, Quy Lạc…

Quý Thường Thanh, Diệu Thiên công chúa, Hà Túc…

Rốt cuộc, đất trời phải hút bao nhiêu máu mới có thể dệt nên non sông tuyệt mỹ này?

Tiếng hừ tức tối vang lên sau lưng, tiếng đất nứt toác đã sát đến nơi, thêm một hán tử vĩnh viễn nằm lại trên mảnh đất này.

Chẳng bao lâu, phía sau Sính Đình chỉ còn lại ba, bốn người.

Hoắc Vũ Nam cao tuổi nhất, Túy Cúc đã chọn con ngựa tốt nhất cho sư phụ, để ông không bị tụt lại phía sau mọi người. Thấy sư phụ vẫn đang ở phía trước, Túy Cúc yên tâm phần nào.

Phiên Lộc vốn đang bảo vệ cho Túy Cúc và Hoắc Vũ Nam, lúc này lo Sính Đình gặp chuyện nên lùi lại chỗ Sính Đình, trầm giọng: “Để ta bảo vệ cô nương”.

Sính Đình lắc đầu: “Ngươi lên bảo vệ Túy Cúc đi”.

Phiên Lộc nhìn nàng, Sính Đình vung roi quất vào sườn trái con ngựa của Phiên Lộc, ra lệnh: “Bảo vệ Túy Cúc!”.

Cứ đùn đẩy như thế, truy binh phía sau lại gần thêm một đoạn, y như bày sói dữ đang điên cuồng đuổi theo mấy con mồi bé nhỏ.

Bất chợt vang lên tiếng kêu của Túy Cúc, con ngựa nàng đang cưỡi bị trúng một tên, đau quá lồng lên, khiến Túy Cúc cũng bật dậy. Túy Cúc ngồi không vững, chưa kịp rơi xuống, đã được Phiên Lộc lao đến ôm vào lòng.

Liên tục những mũi tên bắn tới, Phiên Lộc một tay giữ Túy Cúc phía trước, một tay khua kiếm, ngăn lại dòng tên đang bắn về phía Túy Cúc. Bỗng thấy lưng đau nhói, Phiên Lộc biết mình đã trúng một tên, nhưng sợ Túy Cúc lo lắng, nên đành cắn răng không kêu lên tiếng nào, cứ phi ngựa về phía trước.

Lúc này, hộ vệ cuối cùng bên cạnh Sính Đình cũng đã ngã xuống,

Hy vọng tiêu tan. Truy binh sau lưng càng lúc càng gần, người cầm đầu chính là Hà Hiệp khoác áo bào đỏ. Trận thế họ tạo ra khi liều mạng chạy khỏi thành Thả Nhu đã bị những tay cung tiễn của Hà Hiệp phá bỏ từng lớp một. Dần dần, họ chỉ còn lại hai, ba kẻ may mắn sống sót.

Khi người hộ vệ cuối cùng ngã xuống, bóng hình mảnh mai quen thuộc bỗng lọt vào tầm mắt Hà Hiệp.

Khoảnh khắc ấy, trái tim Hà Hiệp như đang rơi vào vòng luân hồi.

Nghĩ lại năm xưa, khung cửa luôn mở, rèm ngọc buộc cao.

Mẫu thân dắt tay một bé gái, cười rạng rỡ bước đi trên tuyết.

“Con nhìn xem, một bé gái đáng yêu làm sao, có duyên với vương phủ Kính An ta đó.”

“Hiệp nhi, con có biết thế nào là duyên phận không?”

Không.

Không!

Duyên phận từ đâu đến? Vương phủ Kính An từ đâu đến?

Tiểu Kính An vương đã đi tận đâu?

Hà Hiệp bỗng sực tỉnh, cảnh tượng ấy cũng chỉ là thoáng qua. Cơn mưa tên đã ngừng, các tay cung tiễn đang nhìn Hà Hiệp, chờ lệnh.

“Sao còn không bắn, ai bảo các ngươi dừng lại?”, Hà Hiệp thét lên.

Hắn giành lấy cây cung trên tay hộ vệ bên cạnh, lắp tên, nhắm thẳng phía trước.

Mũi tên vượt qua khu đất trống giữa hai quân không cân sức, mang theo tiếng xé gió,

Tên đã lao ra khỏi cung.

Hà Hiệp đã bắn, chính Hà Hiệp đã buông tay,

Hà Hiệp nhìn theo mũi tên đang lao về phía trước. Khoảnh khắc ấy, thời gian như ngừng trôi.

Những ngón tay bắn tên bỗng trở nên tê dại, Hà Hiệp không còn cảm thấy đó chính là bàn tay mình.

Lồng ngực trống rỗng, Hà Hiệp không còn cảm thấy trái tim mình đang ở trong đó, một nỗi bi thương lấn át, đau khắp cơ thể, thấm vào từng mạch máu.

“Bao nhiêu năm nay, chúng ta cùng nhau học hành vui chơi, thậm chí cùng nhau cưỡi ngựa xuất chinh, cùng nhau vào sinh ra tử.”

“Nhưng muội chỉ coi ta là ca ca, ta chỉ coi muội là muội muội… Ta thực không muốn muội phải chịu ấm ức.”

“Thế năm xưa ai từng nói, phải tìm được một lang quân hợp ý, nếu không thà ở vậy suốt đời?”

Nhưng không thể là Sở Bắc Tiệp…

Tại sao, tại sao chính là Sở Bắc Tiệp?

Mũi tên bắn thẳng vào lưng Sính Đình, nhưng vì Hà Hiệp không dùng hết sức, lúc đến nơi nó đã yếu đi nhiều. Cũng may, Túy Cúc đang ngồi trong lòng Phiên Lộc bỗng quay lại nhìn thấy cảnh này, sợ hãi hét lên, giọng khản đặc: “Cúi đầu!”.

Sính Đình nghe thế, không cần suy nghĩ, lập tức nhào người về phía trước, một mũi tên bay sát qua lưng nàng, cảm giác ớn lạnh chạy dọc sống lưng.

Từ xa thấy Sính Đình không trúng tên, trong lòng Hà Hiệp cũng nhẹ đi vài phần, nhưng lại nổi cơn thịnh nộ, quất một roi lên người Đông Chước, hét lớn: “Ngươi to gan lắm!”.

“Thiếu gia, đó là Sính Đình, là Sính Đình!” Đông Chước nhào đến ôm đùi Hà Hiệp đang trên lưng ngựa, khóc ầm lên.

Hà Hiệp vung roi ngựa, nhưng bị kéo lại. Đến khi ngẩng lên, đã thấy Sính Đình cách thêm một đoạn khá xa, Hà Hiệp vội đá Đông Chước sang một bên, lạnh lùng: “Trở về ta sẽ trị tội ngươi”. Nói xong, hắn rút thanh bảo kiếm, hạ lệnh: “Không bắn tên nữa, tiếp tục đuổi! Bắt sống chúng!”.

Đại quân Vân Thường nhất tề hưởng ứng, tiếng vó ngựa lại vang lên rầm rập.

Sính Đình và những người kia đã dốc hết sức lực, dù có quất roi thế nào, chiến mã cũng đang chậm lại. Tiếng đuổi giết sau lưng càng lúc càng gần, mọi người cắn chặt răng, chỉ mong có thể liều chết lao đến dốc núi đằng kia.

Vừa đến dưới dốc, Sính Đình đã thấy bụi quấn bên cạnh. Giữa mờ mịt đất vàng, nàng hoảng hốt nhận ra gương mặt vô cùng thân quen.

Hà Hiệp, tiểu Kính An vương, Phò mã Vân Thường, bạo chúa tàn phá tứ quốc.

Thiếu gia… nam tử từ nhỏ lớn lên bên nàng…

Nam nhân tuấn tú phong lưu, ánh mắt có thần, giờ đôi mắt ấy lại mang vẻ sầu đau.

Sầu đau đến cô quạnh, sầu đau mà chẳng tìm ra lối thoát.

Một nỗi đau không bao giờ thôi giày vò.

Trong lúc không đề phòng, Sính Đình bị chìm vào nỗi đau ẩn sâu nơi đáy mắt Hà Hiệp.

Đến khi ngẩng lên, nàng bỗng sững lại.

Bao nhiêu ân oán đều có thể kết thúc một cách đơn giản bằng yêu hận và sinh tử. Có thể kết thúc cũng là việc tốt.

Nghĩ đến đây, Sính Đình bất giác mỉm cười với Hà Hiệp.

Sau khi nàng ngã xuống ngựa, ánh mắt Hà Hiệp chưa từng rời khỏi nàng. Nụ cười lúc này của nàng lại có một pháp lực vô song, hóa giải mọi tiếng gầm gào đuổi giết thành trời xanh mây trắng.

Hà Hiệp dừng ngựa. Đại quân sau lưng cũng dừng theo.

Sau hồi hí dài bất tận của chiến mã, không gian ban nãy còn chìm trong máu và tiếng đuổi giết giờ bỗng yên lặng một cách lạ kỳ.

Cả trời đất cũng trở nên im ắng.

Có phải muội không?

Trước mắt ta lúc này có phải người mà ta thân thuộc?

Hay chúng ta đều đã quên đi hình hài trước đây của nhau?

Làn gió nhẹ khẽ thoáng qua nơi ánh mắt giao nhau của Hà Hiệp và Sính Đình. Giữa hai người dường như đang có chiếc lá thu rơi xuống, khiến mặt hồ lăn tăn gợn sóng.

Chính trong khoảnh khắc ngắn ngủi ấy, một tiếng hí dài xé tan bầu không gian đang yên lặng.

“Sính Đình!” Tiếng gọi hồn hậu chắc chắn ẩn chứa niềm tin không đổi, khiến tất cả mọi người có mặt đều phải chấn động.

Một người, một ngựa bất chợt xuất hiện trên dốc núi, như thần tướng hạ phàm. Khi mọi người còn chưa kịp định thần, người ấy đã nhanh như chớp lao về phía Sính Đình.

Mày dậm mắt sáng, uy thế hơn người.

Áo choàng đen lộng gió như đôi cánh đang dang rộng, chao lượn sau lưng chàng.

Sở Bắc Tiệp đã đến.

Trấn Bắc vương đã đến.

Hà Hiệp phản ứng cực nhanh, vừa thấy Sở Bắc Tiệp, đã thúc ngựa đến bên Sính Đình, vung kiếm đâm thẳng, nhưng kiếm chưa tới nơi, đã thấy trước mắt loang loáng ánh bạc, Thần uy bảo kiếm của Sở Bắc Tiệp xuất hiện, Hà Hiệp vội vàng đánh trả.

Keng!

Khi hai thanh tuyệt thế bảo kiếm chạm nhau, không biết từ nơi nào dậy lên tiếng trống dồn vang. Một lúc sau, trên dốc núi xuất hiện hàng ngàn vạn binh lính, cờ xí rợp trời, nổi bật với hai chữ “Vĩnh Thái”. Một đội quân ùn ùn xuất hiện trên dốc núi như thủy triều dâng.

Kỳ Điền dừng ngựa dưới cờ soái, hai mắt ầng ậng nước, giơ kiếm hét vang: “Các huynh đệ, hét theo ta, Hà Hiệp giết Công chúa!”.

“Hà Hiệp giết Công chúa!”

“Giết! Báo thù cho Công chúa!”

“Giết! Giết!”

Hàng ngàn hàng vạn binh sĩ Vân Thường đã khôi phục thể lực đang gào thét, như con mãnh thú chuẩn bị vồ mồi. Binh mã hai bên như hai dòng nước lũ tuôn trào về một hướng rồi hòa vào nhau thành biển máu sục sôi.

“Giết! Báo thù! Báo thù cho Công chúa!”

“Hà Hiệp giết Công chúa!”

“Công chúa!”

“Diệu Thiên công chúa!”

Hà Hiệp thấy quân Vĩnh Thái xuất hiện sau lưng Sở Bắc Tiệp, biết tình thế không ổn, hận mình thủ đoạn chưa đủ thâm độc, không lập tức trừ khử Kỳ Điền, giờ có hối cũng vô ích.

Sở Bắc Tiệp thấy Sính Đình ngã xuống đất, trong lòng xót thương vô hạn, nên dốc hết sức ra tay với Hà Hiệp, từng chiêu trí mạng, đâm thẳng về phía địch. Hà Hiệp vung bảo kiếm đỡ mấy chiêu, nhưng không hề lùi bước.

Tướng sĩ sau lưng nhốn nháo, cũng xông vào quyết đấu. Trong bóng đao ánh kiếm, chẳng còn phân rõ địch ta.

Hà Hiệp và Sở Bắc Tiệp lần đầu giao chiến trực diện. Sau mấy hiệp, cả hai đều thấy tay mỏi rã rời, thở dốc nhìn đối phương, thầm than: Đều là dũng tướng, quả nhiên danh bất hư truyền.

Hà Hiệp đáp trả một kiếm, cười nói: “Trấn Bắc vương thật có bản lĩnh, thuyết phục được cả một đạo quân của ta làm phản, nhưng ta có hai cánh quân, lấy một chọi hai, ngươi tưởng có thể thắng sao?”.

Sở Bắc Tiệp ra tay không chút nể tình, bảo kiếm quét ngang một đường, sượt qua vai phải của Hà Hiệp, khuôn mặt vẫn hoàn toàn bình thản, mỉm cười hỏi lại: ‘Trong tay tiểu Kính An vương có binh ư? Thử hỏi ngàn vạn tướng sĩ ở đây, có một binh một tốt nào tình nguyện dốc sức theo ngươi?”.

Lời này đánh trúng tử huyệt của Hà Hiệp, nghe đạo quân Vĩnh Thái hét vang tên Công chúa, trong lòng đã đau từng cơn, huống hồ còn bị Sở Bắc Tiệp châm chọc thêm, Hà Hiệp sầm mặt: “Hãy xem kiếm của ta!”. Bảo kiếm đâm tới, chưa đến trước mặt Sở Bắc Tiệp, đột nhiên chuyển hướng, quay sang Sính Đình đang ngồi một bên.

“Ngươi dám!”, Sở Bắc Tiệp nổi xung, phi thân đến bảo vệ ái thê.

Hà Hiệp nhếch môi cười, mũi kiếm lại chệch sang, đâm thẳng vào yết hầu Sở Bắc Tiệp. Thấy lưỡi kiếm của Hà Hiệp đã ở ngay trước mắt, nhưng Sở Bắc Tiệp vẫn hoàn toàn thản nhiên, Thần uy bảo kiếm trong tay lùi trước tiến sau, chém thẳng về phía cánh tay cầm kiếm của Hà Hiệp. Dù có đâm trúng Sở Bắc Tiệp, thì cũng mất đi cánh tay phải, Hà Hiệp đời nào chịu vậy, liền mau chóng thu tay về.

Hai người đánh qua đánh lại, tuy chỉ trong chốc lát, nhưng chiêu nào chiêu nấy cũng dốc hết sức, cả hai đều mệt nhoài. Hà Hiệp từ xa đến, tự biết mình thể lực không bằng Sở Bắc Tiệp đã tĩnh dưỡng nhiều ngày, nếu không sớm nghĩ kế sách thì không thể thắng trận này.

Hà Hiệp biết Sở Bắc Tiệp quan tâm đến Sính Đình, trong lúc hiểm nguy sẽ chẳng màng đến sự an nguy của bản thân mà bảo vệ nàng, hắn bèn nhằm vào điểm trí mạng này, suy tính xem làm thế nào để ra tay với Sính Đình.

Sở Bắc Tiệp gần đây không phải dốc sức viễn chinh, đang lúc sung sức, bên cạnh lại có Sính Đình, nên khí thế hoàn toàn áp đảo, vững tựa Thái Sơn.

Lại thêm mấy chiêu, Hà Hiệp dần lộ vẻ mệt mỏi. Sở Bắc Tiệp nóng lòng muốn giành chiến thắng, bất giác di chuyển, không ngờ Hà Hiệp cười gằn một tiếng, nhanh chóng tiến lên trước, đầu gối đập thẳng vào đầu gối Sở Bắc Tiệp, rồi khẽ lật tay trái lấy ra một đoản đao, đâm thẳng về phía Sính Đình sau lưng Sở Bắc Tiệp.

Sở Bắc Tiệp đang ứng phó với bảo kiếm trên tay phải Hà Hiệp, khóe mắt nhướng lên, phát hiện ra tay trái Hà Hiệp có đao mà không kịp ngăn cản, vội hét lên: “Sính Đình!”. Cả trái tim chàng chùng xuống.

Sính Đình được Sở Bắc Tiệp bảo vệ, không nhìn rõ tình thế hai người giao đấu, đúng lúc này ngó đầu ra xem, thì lưỡi đao đã ở ngay trước mặt. Nàng nhìn theo lưỡi đao, ngước lên cánh tay Hà Hiệp, đôi mắt trong veo như làn nước, không chút oán hận xoáy sâu thẳm đôi mắt hắn.

Trái tim Hà Hiệp bỗng như có ai xé đi một mảng, bàn tay lỏng dần, sắc mặt thoáng chút xa xăm rồi chìm trong đau khổ.

“Thiếu gia!”

Tiếng gọi của Sính Đình vang bên tai, Hà Hiệp lùi lại mấy bước, cúi xuống nhìn, vai và ngực đầy máu, mới cảm thấy cơn đau kịch liệt đang ùa tới.

Sở Bắc Tiệp bước lại gần, bỗng một người nhào tới chắn đường, rút đao chém tới tấp. Sở Bắc Tiệp vung kiếm đỡ, đang định một chiêu kết thúc kẻ địch, Sính Đình vội lao đến ôm lấy tay Sở Bắc Tiệp, kêu lên: “Đừng! Đừng giết Đông Chước!”.

Sở Bắc Tiệp nhìn lại người này, hình như chính là tên tiểu quỷ trốn khỏi vương phủ ngày trước, nay hắn đã mang trang phục của một đại tướng quân. Chàng nhìn sang bên, Hà Hiệp đã lên ngựa chạy một đoạn.

Hà Hiệp nén cơn đau, thúc ngựa rời khỏi chỗ Sở Bắc Tiệp, hét lên: “Tập hợp, nghe hiệu lệnh của ta, tập trung về phía tây”. Hôm nay sai ở chỗ để Sở Bắc Tiệp bất ngờ đánh úp, Hà Hiệp cậy mình có nhiều binh lực, chỉ cần tập hợp lại, chỉnh đốn một chút, là có thể dễ dàng đánh tan đạo quân Vĩnh Thái.

Từng cơn đau phát ra từ vai và ngực.

Binh mã của Hà Hiệp đang lo phải đánh giáp lá cà, nghe hiệu lệnh, người nọ truyền người kia:”Tập trung, hướng tây! Hướng tây!”, rồi nhanh chóng tập hợp về phía tây.

Cánh quân Vĩnh Thái vì đau đớn mà hăng hái tiến lên, lấy một chọi hai, giờ đã chẳng còn sức mạnh như ban đầu. Thế là hai bên binh mã lại dần tách ra thành hai thế trận.

Sở Bắc Tiệp nhân khoảng trống này, đỡ Sính Đình lên lưng ngựa, ôm lấy nàng hỏi: “Nàng có bị thương không?”.

Như có chút mất mát gì đó, Sính Đình lắc đầu, chợt hỏi: “Thiếu gia bị thương có nặng không?”.

Sở Bắc Tiệp hận Hà Hiệp suýt chút nữa đã đả thương Sính Đình, chỉ muốn băm vằm cho hả giận, nhưng thấy thần sắc Sính Đình nhưng vậy, đành trả lời: “Ta không biết. Mong hắn bị thương thật nặng”.

Cả người Kỳ Điền cũng dính đầy máu, thấy Hà Hiệp đã tập hợp binh mã, tình thế vô cùng bất lợi, thì vội vàng thúc ngựa đến hỏi Sở Bắc Tiệp: “Trấn Bắc vương, làm thế nào bây giờ? Chúng ta binh ít, e là không ổn”.

Sở Bắc Tiệp khẽ nhếch môi, còn chưa kịp nói gì, đã thấy tiếng tù và từ phía tây nổi lên. Bảy đạo quân của Vân Thường, mỗi đạo có một tiếng tù và khác nhau, Kỳ Điền lắng nghe, vui mừng hớn hở: “Là cánh quân Vĩnh Tiêu”.

Hà Hiệp cũng nghe thấy tiếng tù và, kinh ngạc: “Quân Vĩnh Tiêu?”. Biết cánh quân này đa phần là người Đông Lâm và Bắc Mạc, không thể dùng để đối phó với Sở Bắc Tiệp nên khi bao vây thành Thả Nhu, Hà Hiệp không hề lệnh cho họ đến chi viện. Không triệu mà đến, chắc chắn không phải việc hay.

Nhìn về phía tây, bụi đất cuồn cuộn, tinh kỳ lúc ẩn lúc hiện, binh sĩ từ trong rừng ùa ra như kiến. Tắc Doãn thần thái hưng phấn, cưỡi ngựa tiên phong, hét vang: “Hà Hiệp, nhớ Tắc Doãn ta chăng?”.

Hai tiếng “Tắc Doãn” vừa dứt, binh sĩ Bắc Mạc trong cánh quân Vĩnh Tiêu hò reo vang dội.

Thượng tướng quân, thần tướng trong tim họ đã xuất hiện, ai còn muốn làm hàng binh của tiểu Kính An vương?

Hà Hiệp lúc này mới biết Tắc Doãn đã không còn trong tay mình.

Quần tướng bên cạnh Hà Hiệp vô cùng bàng hoàng, hướng mắt nhìn chủ soái, đợi lệnh. Thần sắc Hà Hiệp vẫn không hoảng hốt mà bình tĩnh ngồi trên ngựa, từ xa nhìn lại, tựa như bức tượng khắc đã hóa đá.

Mạc Nhiên thúc ngựa đến bên Tắc Doãn, cất cao giọng: “Các tướng sĩ, hôm nay Tắc Doãn thượng tướng quân ở đây, Trấn Bắc vương ở bên kia. Không tha cho Hà Hiệp!”.

Hàng binh Đông Lâm nghe đến tên Trấn Bắc vương, thì vui mừng, khua loạn trường mâu.

Mặt đất như đang rung chuyển.

Lúc này, binh lực hai bên đã tương đương. Quân Vĩnh Thái, quân Vĩnh Tiêu chia nhau chặn hai ngả đông tây hai đạo quân của Hà Hiệp. Phía nam là thành Thả Nhu, chỉ còn một con đường là tiến về phía bắc. Ba đại tướng đối phương, Trấn Bắc vương của Đông Lâm, Tắc Doãn của Bắc Mạc, và Kỳ Điền của Vân Thường đều là những bậc dũng tướng uy chấn trên sa trường. Chủ soái tiểu Kính An vương bên này đã bị Sở Bắc Tiệp đả thương, ngay cả những tướng sĩ vẫn một lòng tin vào Hà Hiệp cũng sinh lòng khiếp sợ.

Hà Hiệp một tay cầm dây cương, một tay cầm bảo kiếm, sắc mặt tuy trắng bệch, nhưng thần thái vẫn bình tĩnh lạ thường.

Một phó tướng lên tiếng hỏi: “Tiểu Kính An vương, chúng ta có xông lên không?”.

“Xông lên?” Hà Hiệp nghe xong, ánh mắt khẽ chuyển, cười nhạt, “Nhìn sang phía bắc đi”.

Vị phó tướng tập trung nhãn lực nhìn sang phía bắc. Xa xa, đang xuất hiện động tĩnh khác thường. Những tướng sĩ của Hà Hiệp đã quá hoảng hốt, ngẩng lên lại thấy tinh kỳ phấp phới, càng khiếp vía. Họ nhìn thật kỹ trên lá cờ to nhất viết rõ hai chữ “Đình quân”.

Hóa ra Nhược Hàn đang ở Bắc Mạc, còn biết sớm hơn cả Sở Bắc Tiệp tin Hà Hiệp dẫn quân về Vân Thường, biết việc lớn không ổn, nên vội vã dẫn theo mấy ngàn binh sĩ Đình quân đến chi viện. Mấy ngày mấy đêm không nghỉ, cuối cùng họ đã đến được đây.

Như thế, đại quân của Hà Hiệp đã bị bao vây bốn phía.

Người người hoảng hốt kinh sợ.

Phó tướng vội nói: “Tiểu Kính An vương hãy mau hạ lệnh, trì hoãn thêm nữa sẽ không ổn!”.

Dường như Hà Hiệp không hề nghe thấy gì, chỉ nhìn về phía lá cờ đang tung bay phía bắc, lẩm bẩm: “Đình quân… Đình quân… Hóa ra gọi là Đình quân”.

Hà Hiệp thông minh tuyệt đỉnh, vừa nhìn đã biết cái tên này do ai đặt và từ đâu mà có. Nghĩ lúc nãy vẫn chưa ra tay với Sính Đình, khuôn mặt Hà Hiệp thoáng nét cười khoan khoái, mảng rách trong tim dường như đã thật sự trở thành vết thương lớn, đau nhói. Không thể nén chịu cơn đau do thanh kiếm của Sở Bắc Tiệp khi nãy gây ra, Hà Hiệp nặng nề đưa tay ôm ngực, một dòng máu trào ra từ kẽ ngón tay.

Phịch!

Tiểu Kính An vương san bằng tứ quốc, tiểu Kính An vương đang đi lên như diều gặp gió đã ngã ngựa.

“Thiếu gia! Thiếu gia!” Đông Chước nhào đến từ đám binh sĩ, quỳ bên cạnh Hà Hiệp.

Đông Chước vẫn luôn ở bên cạnh lo cho Hà Hiệp, nhưng sợ mình nói lời không thận trọng, lại khiến thiếu gia tức giận, càng khiến vết thương thêm trầm trọng, nên không dám lại gần.

Hà Hiệp nằm trong vũng máu, vô cùng yếu ớt. Tuy gần đây luôn có cảm giác xa lạ với Hà Hiệp, nhưng chưa bao giờ Đông Chước nghĩ sẽ nhìn thấy một Hà Hiệp như thế này.

“Thiếu gia? Thiếu gia? Thiếu gia…” Gọi mấy tiếng, không thấy Hà Hiệp trả lời, Đông Chước bật khóc.

Nghe tiếng khóc của Đông Chước, những người phía sau đều biết hy vọng đã hết. Một mặt là thành Thả Nhu, ba mặt còn lại đã bị bao vây, thống soái của quân địch lại là Trấn Bắc vương, họ lấy đâu ra cơ hội sống sót?

Không biết trong đại quân của Hà Hiệp, ai là người đầu tiên vứt kiếm khỏi tay, rồi đến người thứ hai, thứ ba… Tiếng binh đao chạm đất liên tiếp không ngừng. Chẳng mấy chốc, binh sĩ cánh quân Úy Bắc và Vĩnh Xương đã bỏ hết vũ khí trong tay.

Có thể sống, còn ai lại muốn chết?

Sở Bắc Tiệp dẫn theo Sính Đình thúc ngựa lại gần, sau lưng là Kỳ Điền và quần tướng, cùng đại quân khí thế ngút trời. Những binh sĩ đầu hàng nhường đường cho họ. Từ xa nhìn lại, cảnh tượng giống như con thuyền dài rộng đang rẽ nước xuôi mái chèo.

Thấy Hà Hiệp nằm dưới đất, người đầy máu, Sính Đình cố xuống ngựa, bước lại gần. Sở Bắc Tiệp sợ Hà Hiệp chưa chết, lại ra tay hại nàng nên bước theo ái thê như hình với bóng.

Đông Chước đang khóc, thấy trước mắt bỗng xuất hiện đôi giày thêu hoa đầy bụi, liền ngẩng đầu lên.

Sính Đình khẽ khàng: “Để ta xem, được không?”.

Đông Chước chần chừ một lát, cuối cùng cũng tránh sang một bên.

Sính Đình quỳ xuống bên cạnh Hà Hiệp.

Dưới ánh tà dương màu máu, sự thật tàn nhẫn đến mức này.

Khuôn mặt thân thuộc, đôi bàn tay múa Kính An kiếm pháp quen thuộc, con người quen thuộc này đã lặng lẽ ra đi.

“Muội đứng yên, cứ đứng yên đó. Để ta vẽ cho muội một bức, sẽ đẹp lắm đó.”

Đây là câu đầu tiên Hà Hiệp nói với nàng.

Bút pháp tài hoa ấy sao phải viết lên câu chuyện bi thảm đến thế này?

Tiểu Kính An vương nổi danh thiên hạ, tiểu Kính An vương sắp trở thành chủ nhân tứ quốc, chẳng lẽ lại chưa từng hối hận?

Giống như nàng, hối hận vì những sinh mạng bất hạnh đã ra đi, hối hận vì những giọt máu đã phải đổ vô nghĩa, hối hận vì không biết nắm giữ chút hạnh phúc quý báu của mình.

“Thiếu gia? Thiếu gia?”, Sính Đình ôm lấy mặt Hà Hiệp.

Khuôn mặt tuấn tú nhuộm đỏ màu máu, nhưng vẫn rất đỗi nhợt nhạt.

Khóe môi khẽ động, Hà Hiệp từ từ mở mắt, ánh mắt mờ mịt vô định. Dường như cũng cảm nhận được bàn tay Sính Đình đang đưa trên mặt mình, Hà Hiệp cố mỉm cười: “Nàng đến rồi?”.

Chỉ ba tiếng đã khiến Sính Đình nước mắt như mưa, nấc nghẹn: “Thiếu gia, muội đã đến đây”.

Như thể không nhìn thấy gì, Hà Hiệp cố mở to đôi mắt không còn thần thái, ra sức thở lấy hơi, giọng dịu dàng, khẽ hỏi: “Sao lại gọi ta là thiếu gia?”.

Sính Đình ngẩn người.

Nụ cười của Hà Hiệp càng rạng rỡ, như đang cười bằng cả sinh mạng mình, bỗng nói: “Công chúa, Công chúa nhìn xem, mũ hậu ta hứa với nàng, ta đã mang đến đây….”.

Mũ hậu hứa với nàng, ta đã mang những viên đá quý đẹp nhất thế gian, chọn ra những người thợ tài hoa nhất để chế tác cho ái thê của ta.

Nàng nhìn xem, ta đã có cả thiên hạ, nhưng giờ ta mới biết, thiên hạ này chẳng qua cũng chỉ để đổi lấy nụ cười thẹn thùng của nàng, như ngày đầu tiên ta lạc hồn bước vào vương cung Vân Thường, nàng vén rèm châu, ban cho ta nụ cười ấy.

Ta sẽ múa kiếm vì nàng, cài đóa hoa tươi thắm nhất lên mái tóc nàng.

Ta nhớ mái tóc đen dài như thác đổ của nàng, làn da căng mịn của nàng.

Ta nhớ nàng thích ta khen nàng dịu dàng, duyên dáng, đẹp không ai sánh bằng.

Ái thê của ta, nàng sẽ là nữ nhân tôn quý nhất trong thiên hạ, từ nay trở đi, không ai dám bắt nạt nàng.

Ta sẽ không để nàng phải gào khóc trong căn phòng tối om đó nữa.

“Mũ hậu, mũ hậu…”, Hà Hiệp rên rỉ.

Hai bàn tay đầy máu run rẩy như muốn lấy ra chiếc mũ hậu tưởng tượng, nhưng dùng hết sức, Hà Hiệp vẫn không đưa được tay vào trong áo.

Sính Đình quỳ bên cạnh, nắm chặt bàn tay Hà Hiệp, như thể chỉ cần buông tay, nàng sẽ không thể nắm giữ sinh mệnh Hà Hiệp đang sắp bị gió thổi bay.

Đôi mắt trống rỗng của Hà Hiệp lấp lánh niềm vui.

Những đường nét vẫn đẹp như xưa, nhưng nhợt nhạt không chút sinh khí, môi Hà Hiệp run rẩy, nói cùng tiếng thở: “Công chúa, mũ hậu… mũ hậu…”. Hà Hiệp dừng lại một chút, hơi thở gấp gáp, hai mắt mở to, cất cao giọng: “Nàng nhìn thấy chưa? Nhìn thấy chưa?”.

Một tay giữ chặt cố ngăn tiếng khóc, một tay nắm chặt bàn tay đã chẳng còn hơi ấm của Hà Hiệp, Sính Đình nghẹn ngào: “Thấy rồi, thiếp thấy rồi”.

Hà Hiệp thở phào, khuôn mặt tuấn tú vẫn nở nụ cười, đó là nụ cười dịu dàng của tiểu Kính An vương khiến người ta như gặp được gió xuân ngày trước.

Hà Hiệp dốc hết sức lực, rút tay khỏi tay Sính Đình, chầm chậm giơ lên, như muốn vỗ về Công chúa trong lòng mình, nhưng giơ lên đến nửa chừng, bàn tay đã phải dừng lại.

Hà Hiệp dốc hết chút sức lực cuối cùng vào những ngón tay không ngừng run rẩy.

Khoảng cách giữa ngón tay Hà Hiệp và khuôn mặt Diệu Thiên công chúa sao mà xa vời. Hà Hiệp nguyện dùng hết đời này kiếp này để chạm đến khuôn mặt ấy.

Chỉ là, đời này kiếp này đã đến tận cùng.

Năm ngón tay run rẩy hồi lâu trong không trung, cuối cùng rũ xuống.

Sính Đình vẫn quỳ ở đó, đến khi Hà Hiệp mãi mãi nhắm mắt, sợi dây nàng giấu tận nơi đáy lòng gặp gió đã đứt phựt.

Đi rồi, thiếu gia đã đi rồi.

Không còn là tiểu Kính An vương, không là danh tướng một thời, cũng chẳng phải ma vương tàn phá tứ quốc, mà chỉ là Hà Hiệp.

Hà Hiệp yêu Diệu Thiên công chúa, đến chết vẫn nhớ về ái thê.

Vinh hoa phú quý, quyền thế hư danh đều không còn liên quan đến người này.

Dường như những cảnh tượng ngày xưa đang ùa về, nhưng nàng nhắm mắt lại, tất cả đã biến mất, chỉ còn bóng tối dày dặc bốn bề vây quanh.

Trong bóng tối, nàng thấy đôi mắt sáng có thần của thiếu gia.

Đôi mắt đã từng bừng sáng xen lẫn ý cười nay chất chứa bao nhiêu khổ đau, nhưng vào thời khắc cuối cùng, khi cố lấy chiếc mũ hậu trong tưởng tượng lại vô cùng hạnh phúc.

Thiếu gia của nàng, vào lúc hấp hối, đã nhận ra rằng nữ nhân mình yêu thương cũng luôn yêu thương mình, thuộc về mình.

Hóa ra, thiếu gia không hề cô quạnh, thê tử đẹp như hoa như ngọc, thê tử xuất thân tôn quý là công chúa Vân Thường, thê tử đã hạ mật lệnh đẩy Phò mã vào chỗ chết… vẫn luôn ở bên thiếu gia, cùng thiếu gia nghe đàn, xem múa, ngắm trăng…

Khi Hà Hiệp có được tất cả, khi Hà Hiệp mất đi tất cả, khi Hà Hiệp phải đánh đổi bằng cả tính mạng mình, cuối cùng Hà Hiệp cũng đã hiểu ra. Tình cảm ngọt ngào và dịu dàng giữa họ, nỗi buồn canh cánh trong lòng, niềm vui và đau khổ trong sâu thẳm trái tim, đều xuất phát từ một tấm chân tình.

Khói hoa đã tàn.

Tất cả đã qua rồi.

Nỗi xót thương bòn rút hết sức lực, Sính Đình mệt rã rời, ngã ra sau.

Nàng rơi vào vòng tay ấm áp.

Đó là vòng tay của Sở Bắc Tiệp.

Dù lúc nào, dù ở đâu, vòng tay ấy vẫn khiến nàng cảm thấy yên ổn.
 
Trạng thái
Không mở trả lời sau này.
Top