Lượt xem của khách bị giới hạn

[Ngôn tình] [Truyện Hoàn] Cô phương bất tự thưởng - Phong Lộng

Trạng thái
Không mở trả lời sau này.
[Ngôn tình] [Truyện Hoàn] Cô phương bất tự thưởng - Phong Lộng

Hoa Tử

Sưu tầm
Tham gia
24/9/19
Bài viết
10,570
Điểm cảm xúc
1,484
Điểm
113
Chương 36:
Canh ba, Nam Phụng đang ngủ bỗng giật mình tỉnh giấc bởi âm thanh vô cùng bất thường.

“Ai?”, Nam Phụng nhảy dựng lên khỏi đám cỏ, hét lớn.

Không lẽ lại là nữ nhân họ Bạch?

Hắn vén bụi cây nhìn về phía cạm bẫy được giăng sẵn, thòng lọng đã treo lên, rõ ràng có người không cẩn thận chạm phải, nhưng chẳng thấy ai bị buộc vào đó. Thấy vật gì sáng lấp lánh trong bóng tối, Nam Phụng nhặt lên xem, một chiếc giày thêu hoa vô cùng tinh xảo.

“Lão Cao! Lại đây mau!”

Nam Phụng hét lên, lão Cao từ trong rừng chạy ra: “Cái gì thế? Có hoang à?”.

“Một nữ nhân, xem chiếc giày này!”

Dưới ánh trăng, bên hông chiếc giày thêu nổi bật hàng chữ nhỏ xíu – Phủ phò mã chế tác.

“Là của phủ phò mã.”

“Chắc chắn của nữ nhân họ Bạch rồi!”, Nam Phụng hớn hở, “Vừa đi qua, suýt chút nữa vướng phải thòng lọng. Mẹ kiếp, chắc chắn tiện nhân đó chỉ ở quanh đây thôi!”.

Người bên cửa khẩu cũng bị kinh động bởi tiếng hét của hắn: “Nam Phụng, chuyện gì thế?”.

“Lão đại, nữ nhân họ Bạch đang ở trong rừng. Ở đây có một chiếc giày của ả.”

Mấy ngày phiền não mệt mỏi bỗng chốc tan biến vì một chiếc giày thêu hoa, tất cả đều hưng phấn hẳn lên: “Ha ha, đã đến đây mà còn trốn sao?”.

Ngay lập tức, có kẻ dắt ra hai con chó săn cao bằng nửa người. Chúng cúi xuống ngửi chiếc giày, liền sủa inh ỏi, như muốn kéo đứt cả sợi xích trên cổ.

Tên cầm đầu tháo xích cho chúng: “Đuổi!”.

Chó săn lao như bay vào rừng.

Gió đêm lạnh buốt, một đám nam nhân nổi hứng chẳng khác gì dã thú.

“Các huynh đệ, tiến lên!”

“Không được, phải để lão đại dẫn đầu!”

“Tóm lấy hai tiện nhân đó!”

Kiếm rút khỏi bao, sáng loáng. Những bóng người cao lớn nhào vào rừng sâu, đuổi theo hai con chó săn đang lao đi như điên.

“Đuổi theo!”

“Không cho chúng chạy thoát!”

Cả đám nam nhân mồ hôi ròng ròng đuổi vào đến miệng suối. Hai con chó săn hung hăng sủa nãy giờ lao đầu vào nước, uống từng ngụm to.

“Đuổi tiếp! Giờ này còn uống nước cái gì?” Con chó săn bị đá mạnh một cái kêu lên ông ổng, nhưng không chịu rời khỏi nguồn nước.

Cũng chẳng thể trách bọn chúng, bột thuốc trên chiếc giày thêu do Sính Đình đặc chế, chó săn vừa ngoạm vào đã như trúng hỏa độc, toàn thân khô khát khó chịu, chỉ biết chạy như điên đi tìm nguồn nước gần nhất.

Đám người đuổi theo đến trước dòng suối, thấy hai con chó thi nhau uống nước, đều cảm thấy kinh ngạc: “Người đâu? Sao không đuổi theo?”. Chẳng biết kẻ nào giẫm lên cái bẫy cài sẵn của Sính Đình.

Lời chưa dứt, bỗng vèo vèo vèo, tiếng tên bay xé gió.

“A!” Lão Thất trúng ngay một tên vào vai, kêu lên thảm hại.

“Bắn trộm à! Mẹ kiếp, hai con tiện nhân còn có cả cung tên!” Đám đông phẫn nộ chửi mắng, khom lưng tìm chỗ trú, vừa tìm được chỗ trú tạm, chưa kịp định thần đã thấy tên bắn dừng lại.

Thò đầu ra, lại nghe tiếng mũi tên lao vun vút.

“Cẩn thận!”

Trong bóng tối, chúng cũng không biết rốt cuộc có bao nhiêu mũi tên bay tới. Chúng cứ tưởng bắt hai nữ nhân đó chỉ cầm theo kiếm là đủ, nên không mang theo cung tiễn, giờ bị tấn công thế này, chỉ biết tức tối mà mắng chửi lung tung.

“Con tiện nhân đó lại bắn tên!”

“Bắt được nó, phải cho nó cầu sống không được, muốn chết cũng chẳng xong!”

Mũi tên lần này không bắn được bao xa, chưa tới bên suối đã rơi xuống đất. Vốn kinh nghiệm phong phú, lão đại hạ giọng: “Chúng đang vừa bắn vừa lùi! Đuổi theo!”.

Một đám thuộc hạ tay cầm binh khí lội qua dòng suối, nước bắn tung tóe. Vừa qua đến bên kia, đợt tên thứ ba lại bắn tới, càng lúc càng xa.

“Mau đuổi theo!”

“Mẹ kiếp, chạy cũng nhanh thật!”

Đám đông chạy theo thế bao vây, cầm binh khí tiến thẳng về phía mũi tên. Hai nữ nhân bị truy đuổi càng chạy càng xa, tên bắn cũng không chuẩn xác, ngoài lão Thất ban đầu sơ ý bị trúng một tên, chẳng kẻ nào bị thương thêm. Nhưng, những mũi tên ấy đang tố cáo đường trốn chạy của hai người. Đám nam nhân nổi giận đùng đùng, vừa chạy vừa nghĩ làm thế nào để báo thù hai nữ nhân gan to tày trời này, càng đuổi càng hăng.

Sắc đêm mờ mịt, các tảng đá kỳ dị trong rừng đổ bóng gớm ghiếc.

Sau loạt tên thứ bảy, đám nam nhân không còn thấy động tĩnh gì khác.

Nam Phụng cười thành tiếng: “Ha ha, chúng hết tên rồi. Các huynh đệ, xông lên!”.

Đám người có phần trấn tĩnh hơn, hưng phấn hẳn. Chúng đã chờ ở đây mấy ngày, nên quen thuộc địa hình. Phía trước là con đường cụt, hai nữ nhân kia có thể trốn đi đâu? Vòng vây càng lúc càng thu nhỏ, điệu cười đê tiện của Nam Phụng bỗng trở nên lạ lùng: “Chân của ta…”. Cơn đau và ngứa từ chân kéo đến đùi rồi lan dần lên, hắn vội vã vứt kiếm, khuôn mặt nhăn nhó, ôm lấy chân, “Ngứa, ngứa quá… a a a!”. Nam Phụng đưa tay cào vào trong ủng, lại thấy đau như bị ai xé thịt lột da, kêu lên thảm thiết.

Lão đại nổi khùng: “Nam Phụng, lúc này rồi ngươi còn giở trò gì thế? Chết…”. Chưa giấc lời, hắn cũng phát giác ra một cảm giác quái dị ở chân mình. Ban đầu chỉ hơi ngứa hơi đau, lúc sau trở thành không sao chịu được.

Đám người xung quanh cũng lần lượt lăn cả ra đất, kêu gào ôm chân mình.

“A…A! Con tiện nhân… Đau quá! Tiện nhân đã hạ độc!” Mấy nam nhân vừa gào lên như dã thú, khuôn mặt nhăn nhúm vừa khó khăn gằn từng tiếng.

Lão đại ngứa đến phát điên, ra sức gãi, lại đau đến tê dại, nghiến răng hỏi: “Kẻ nào đang giữ ở cửa khẩu?”.

“Tất… tất cả huynh đệ đều đến đây truy đuổi… Ai… Ai… Mẹ kiếp, ngứa quá… Có ai giữ cửa khẩu đâu!” Lão Thất xui xẻo nhất, vai bị thương, chân trúng độc. Không thể chịu đựng cơn ngứa, móng tay hắn cào từng vết dưới chân, đau đến chết đi sống lại.

“Chết rồi, trúng kế rồi!”

Sắc trời dần sáng, vầng dương cũng như đang dần nhướng mày chê cười đám nam nhân to xác.

Chẳng trách Thừa tướng cứ dặn đi dặn lại, không được coi thường nữ nhân họ Bạch đó.

Đáng ghét!

Trên con đường lớn từ thành đô Vân Thường thẳng tới biên cương, chiếc xe ngựa hoa lệ chạy giữa đám thị vệ. Sứ giả truyền tin liên tiếp đến báo với người trong xe.

Tin báo lên đều là tin xấu.

Tin của Thừa tướng Quý Thường Thanh liên tục báo lên, hết thư này tới thư khác. Đầu tiên là tin Bạch Sính Đình biến mất ngay thành đô, sau đó là những người cử đi chặn đón ở đường núi cũng thất bại quay về, còn bị nhiễm bệnh lạ. Quý Thường Thanh gần như đã phải dùng đến tất cả lực lượng bí mật của mình, bố trí bao cạm bẫy dọc con đường thông sang Bắc Mạc, nhưng tất cả đều lần lượt bị hóa giải trong tình trạng chưa hề xảy ra giao tranh trực tiếp với đối thủ.

Bạch Sính Đình và Túy Cúc suốt chặng đường chỉ vượt qua cửa ải, không chém tướng, tựa như thần long thấy đầu mà chẳng thấy đuôi. Chỉ trong bức thư gần nhất mới hay tin có người tìm thấy tung tích của họ. Cứ ngỡ sắp bắt được đến nơi, vậy mà không biết họ dùng mê dược gì khiến cả đám người tay chân rã rời, mắt trợn trừng nhìn hai người đi qua.

“Khen cho một Bạch Sính Đình.” Đọc xong bức thư của Quý Thường Thanh, Diệu Thiên châm lửa, nhìn bức thư cháy thành tro, hạ giọng, “Đám người đó có để lộ thân phận không?”.

“Bẩm Công chúa, Thừa tướng đã nghiêm khắc cảnh cáo từng người, chỉ giả làm thổ phỉ, không được tiết lộ một từ nào trước mặt Bạch Sính Đình.”

“Khó nói lắm”, Diệu Thiên thở dài buồn bã, “Có điều, dù biết thì cũng thế nào? Nàng ta không bị tổn thương đến một sợi tóc, cũng chẳng có chứng cứ rõ ràng, có nói ra cũng mấy ai tin? Bỏ đi, về nói với Thừa tướng, không cần hao tâm tổn sức với Bạch Sính Đình nữa. Chúng ta thất bại hết lần này đến lần khác, có thể thấy ông Trời không tán thành cách làm này. Người cũng đã đi rồi, hà tất phải khổ sở bức ép làm gì?”.

Người truyền tin cung kính đáp: “Những lời Công chúa dặn dò, thần đã ghi nhớ. Thần sẽ về bẩm báo đầy đủ với Thừa tướng”.

“Lui ra.”

Nhìn theo bóng sứ giả dần khuất ngoài tấm rèm, trong xe rộng rãi vang lên tiếng thở dài u sầu của Diệu Thiên. Xe ngựa lấp lánh làm theo sở thích của nàng, khiến không gian trở nên lung linh huyền diệu tựa cõi mộng ảo. Nhưng lúc này đây, Diệu Thiên chẳng còn hứng thú nào để mà thưởng thức.

Một tin xấu khác đang chờ đợi nàng.

Sau khi có được thư của Bạch Sính Đình, nàng giao lại toàn bộ mọi việc ở thành đô cho Quý Thường Thanh, ngay lập tức hạ lệnh bỏ qua tất cả nghi lễ rườm rà khi công chúa nhiếp chính ra ngoài, đích thân khởi hành ra biên cương. So với tâm trạng muốn nhanh chóng kết thúc cuộc chiến phi nghĩa hao tổn bao mạng người vô tội của Công chúa, thì tâm trạng háo hức chờ giao đấu của hai vị tướng Sở Bắc Tiệp và Hà Hiệp có vẻ còn cấp thiết hơn.

Diệu Thiên đang trên đường, hai bên đã có mấy lần giao tranh thăm dò nhau.

Trận đọ sức đầu tiên lấy bình nguyên Tung Dương làm chiến trường, Sở Bắc Tiệp ép Hà Hiệp lui binh hai mươi dặm, đại quân Vân Thường tử thương hàng ngàn người.

Địa điểm của trận đọ sức thứ hai vẫn là bình nguyên Tung Dương, nhưng trung tâm chuyển sang Đông Trắc. Hà Hiệp không hổ là danh tướng, biết Sở Bắc Tiệp vội vã tấn công nên không chịu giao tranh trực tiếp với quân chủ lực của Đông Lâm mà chuyển sang đối phó với cánh quân đơn lẻ bên cánh phải, dụ đại tướng Tiêu Bính của Đông Lâm vào rừng Tung m. Nếu Sở Bắc Tiệp không sớm phát hiện ra, cử người cấp báo lệnh Tiêu Bính rút lui, e là cánh quân phải của Đông Lâm đã bị tiêu diệt. Trận cháy này khiến Sở Bắc Tiệp phải cảnh giác, đại quân Đông Lâm không còn dám tiến bừa về biên giới Vân Thường nữa.

Diệu Thiên ngày đêm vội vã muốn ngăn cuộc chiến, nhưng dọc đường vẫn liên tiếp nhận được tin báo thương vong. Không những binh lực hao tổn, mà cả rừng Tung m, nơi nhân sâm sinh trưởng của Vân Thường, nơi mưu sinh của dân chúng lân cận cũng bị trận lửa ấy thiêu rụi trầm trọng, lòng dân cần được an ủi.

Vân Thường không thể tiếp tục hy sinh vô nghĩa, nàng phải nhanh chóng đến đích. Sở Bắc Tiệp đóng quân ở chân núi Biên Phong, Phò mã Hà Hiệp đóng quân ở cửa Cửu Bạch. Một khi trận chiến chính thức bắt đầu, hậu quả sẽ khôn lường.

Thư báo của Hà Hiệp và các tướng quân đều ở trong tay nàng.

Hà Hiệp chỉ nói qua loa về tình hình chiến tranh cho có lệ, nét chữ mạnh mẽ cứng cáp tràn đầy tự tin. Hơn trăm chữ quân báo phần lớn đều là lời hỏi thăm dạt dào tình cảm gửi về cho nàng. Các tướng lĩnh thì một lòng quan tâm đến chính sự, miêu tả sinh động nỗi thê thảm trên sa trường.

“Quân chủ lực của Sở Bắc Tiệp đều là quân tinh nhuệ, được huấn luyện kỹ càng, hành động mau lẹ. Trận chiến bình nguyên Tung Dương, thực sự có thể nhìn ra tinh hoa luyện binh của Đông Lâm.”

“Ánh kiếm bay giữa không trung, tiếng kêu thảm thiết vang khắp nơi, thi hài kín đất, diều hâu vu đầy. Những kỵ binh dũng mãnh thuộc đội cảnh vệ số ba của Vân Thường ta gần như đã ra đi trong trận giao tranh trực tiếp với Sở Bắc Tiệp.”

“Sở Bắc Tiệp uy dũng cái thế, không thể chống đỡ. Trừ Phò mã, gần như không một tướng nào của ta có thể đánh với người này trên mười hiệp. Phò mã thực sự là vị tướng dũng mãnh nhất của Vân Thường ta.”

“Kế của Phò mã hoàn toàn thích đáng, trước là đổ dầu vào rừng, sau dụ quân cánh hữu của Sở Bắc Tiệp.”

“Lửa khói ngút trời, hai ngày hai đêm không tắt. Ba mươi dặm rừng Tung âm giờ đã thành tro tàn.”

“Nếu không có Phò mã, trận chiến này hoàn toàn vô vọng.”

“Thần dẫn binh nhiều năm, chưa từng thấy đội quân nào chí khí cường thịnh, tướng lĩnh mưu cao đến thế. Tuy Phò mã tài năng, nhưng nếu đại chiến xảy ra, thần e cả hai đều thiệt hại vô khối. Khẩn cầu Công chúa ban bố vương lệnh, lệnh Phò mã ngàn vạn lần không nên vội ứng chiến.”

“Vân Thường có được một dũng tướng như Phò mã là do ông Trời phù hộ cho Vân Thường ta. Nếu lần này có thể đánh bại đại quân Đông Lâm, từ nay Vân Thường sẽ mãi mãi đứng đầu tứ quốc.”

“Khi Đông Lâm còn Sở Bắc Tiệp, Vân Thường ta tuyệt đối không nên châm ngòi chiến tranh. Thần liều chết dâng tấu, khẩu cầu Công chúa suy tính lại.”

Mỗi bản tấu đều là mấy trăm lời sôi sục, dù nghiêng về bên nào, nhiệt huyết của tướng sĩ Vân Thường đều đang hừng hực.

Xem hết tập tấu báo tiền tuyến đưa về, Diệu Thiên day day thái dương, vén tấm rèm che bên cửa sổ.

Vân Thường đang chìm trong màn đêm yên tĩnh, bóng ma chiến tranh như con mãnh thú phủ phục nơi âm u, có thể xông ra bất cứ lúc nào để hút máu, ăn thịt con người.

“Truyền lệnh, nhanh hơn chút nữa. Dung An, chúng ta còn cách đại bản doanh bao xa?”

Trưởng thị vệ Dung An phụ trách đội cận vệ của Công chúa vội kéo ngựa lại gần, đáp: “Bẩm Công chúa, qua ngọn núi trước mặt chính là cửa Cửu Bạc. Trưa mai sẽ đến nơi”.

“Người của đại bản doanh… có biết ta đang trên đường đến không?”

“Phụng nghiêm lệnh, sứ giả lui tới đều không được tiết lộ hành tung của Công chúa, bên đại bản doanh không hề biết Công chúa sắp giá đáo”, Dung An hạ giọng, “Nhưng, nhỡ chăng bị họ nhầm thành quân địch thì không hay. Thần tấu trình sáng sớm ngày mai treo vương kỳ công chúa trên xe để nói rõ thân phận, tránh bị hiểu lầm.

“Cứ thế đi”, Diệu Thiên buông rèm, dựa vào gối mềm.

Tuy ý kiến trong tấu báo của các tướng quân không giống nhau, nhưng đều thể hiện sự trung thành tận tâm tận lực vì quốc gia.

Biết Hà Hiệp kiếm thuật siêu phàm, mưu lược hơn người.

Biết giao chiến với Sở Bắc Tiệp đang trong cơn cuồng điên, dù giành được thắng lợi, cũng là lợi bất cập hại.

Muốn quyết chiến một trận, nhưng lại đau buồn cho những thi thể phủ đầy Vân Thường.

Diệu Thiên mệt mỏi nhắm mắt.

Phu quân nàng chọn quả nhiên có bản lĩnh đối kháng với Sở Bắc Tiệp. Nhưng lúc này không phải là thời cơ tốt nhất để Hà Hiệp thể hiện bản lĩnh ấy. Lưỡng hổ tranh đấu, tất có kẻ bị thương. Hóa giải được, hà tất phải đánh một trận sống mái?

Bạch Sính Đình rời khỏi, Sở Bắc Tiệp điên cuồng vì nữ tử ấy nhất định cũng sẽ đi.

Sở Bắc Tiệp đi rồi, thiên hạ sẽ nằm trong tay người luôn có nụ cười đầy dịu dàng.

“Công chúa yên tâm, Hà Hiệp đời này kiếp này không bao giờ phụ bạc nàng.”

“Hà Hiệp xin thề với trời, sẽ có một ngày, ta biến Công chúa thành nữ nhân tôn quý nhất thế gian, ta sẽ tự tay đội mũ phượng Hoàng hậu tứ quốc lên đầu Công chúa.”

Đêm tân hôn, nam nhân đó quỳ một gối trước mặt nàng, nắm tay nàng, thề với trời, đôi mắt lấp lánh như sao, tựa hai hồ nước sâu thẳm đầy ma lực đang muốn hút người ta xuống tận cùng sâu thẳm.

Hà Hiệp, tiểu Kính An vương, một danh tướng đương thời.

Phò mã của nàng.

Trải qua bao vất vả, nàng mới chọn ra được một nam nhân giữa chúng sinh để trao gửi cả cuộc đời.

Sau lưng mỗi nam nhân luôn có một nữ nhân thuộc về định mệnh của họ.

Bạch Sính Đình, Sở Bắc Tiệp vì ngươi mà đánh trận này, cũng sẽ vì ngươi mà rút trận này. Tiếc thay, một đời anh minh, ý chí hiên ngang lại bị hủy hoại bởi nhi nữ tình trường, hủy hoại trong tay ngươi.

Uổng phí cái tiếng danh tướng.

Hà Hiệp sẽ không như thế. Trong lòng Phò mã, ngươi chẳng qua chỉ là một khách qua đường tạm trú mười lăm năm mà thôi.

Hà Hiệp là phu quân của ta, phò mã của Vân Thường ta. Vĩnh viễn là vậy.
 

Hoa Tử

Sưu tầm
Tham gia
24/9/19
Bài viết
10,570
Điểm cảm xúc
1,484
Điểm
113
Chương 37:
Bôn ba mấy ngày liền, Sính Đình và Túy Cúc vô cùng mệt mỏi.

Phần lớn lộ phí dùng vào việc mua sắm, chế tạo mấy thứ phòng thân, lại phải mua ngựa, mua thức ăn, ở trọ, trong túi hai người đã chẳng còn bao nhiêu. May mà qua biên giới, rất nhiều đường thông sang Bắc Mạc, Thừa tướng Vân Thường không thể bố trí cạm bẫy ở hết mọi ngóc ngách, nên nguy hiểm giảm đi đáng kể.

Sính Đình và Túy Cúc gầy đi nhiều, nhưng mấy ngày đấu trí với những kẻ mưu đồ cản đường, chủ ý của Sính Đình vẫn vô cùng vô tận, họ lần lượt vượt qua nguy hiểm. Cả đời chưa từng trải qua việc gì hiểm nguy hồi hộp đến vậy, ban đầu Túy Cúc còn lo lắng sợ sệt, càng về sau càng thấy thích thú.

“Sơn mạch Tùng Sâm! Đi một ngày nữa sẽ tới Bắc Mạc.” Dãy Tùng Sâm đánh dấu điểm phân cách biên giới giữa Vân Thường và Bắc Mạc cuối cùng cũng hiện ra trước mắt, Túy Cúc vui mừng chỉ cho Sính Đình.

Sính Đình mỉm cười, gật đầu: “Đích thị là dãy Tùng Sâm”. Đi một ngày đường, khuôn mặt thanh tú của nàng đã nhuốm màu mệt mỏi.

Nhìn sắc mặt Sính Đình, Túy Cúc dặn dò: “Hôm nay không cố đi nữa. Phía trước có nhà dân, chúng ta qua đó trọ. Túy Cúc sẽ sắc cho cô nương ít thuốc dưỡng thai, cô nương đừng chê đắng, phải uống hết mới được”.

“Đắng thật mà”, Sính Đình cau mày, “Phương thuốc ta kê chưa bao giờ đắng thế. Mấy hôm nay ta rất khỏe, không hề có cảm giác khó chịu buồn nôn”.

“Không được, Túy Cúc mới là đại phu. Mê dược, độc dược cô nương hơn, nhưng trị bệnh cứu người cô nương không thể bằng Túy Cúc. Giờ cô nương không như trước, tuyệt đối không thể lơ là”, Túy Cúc trừng mắt.

Sính Đình che miệng cười thầm, gật đầu: “Vâng, Túy Cúc thần y”.

Phía trước là ngôi nhà của cặp phu thê già sống bằng nghề săn bắn. Thấy hai cô nương đáng thương đến thuê trọ, họ đồng ý ngay, bèn nhường một phòng nhỏ sạch sẽ cho khách qua đêm.

Giơ tay nải, dược liệu mua dọc đường đã gần hết, phương thuốc dưỡng thai cho Sính Đình chỉ còn thiếu một vị, Túy Cúc lại dọn tay nải, ra ngoài thỉnh giáo lão phu nhân: “Đại nương, trong núi gần đây có mạt thảo không?”.

“Chỗ nào chẳng có, loại cỏ này mọc đầy trên núi, mùa đông cũng không lụi đi. Cô nương đến chân núi phía trước, đào một lớp tuyết sẽ thấy ngay, hái một lúc là được cả ôm to”, đại nương ngạc nhiên, “Cô nương cần mạt thảo làm gì? Đó là loại cỏ dùng cho nữ nhân mới sinh mà?”.

“Vâng…”, Túy Cúc cười đáp, “Không có gì, tiểu nữ và tẩu tẩu đi thăm ca ca. Tẩu tẩu có mang, tiểu nữ muốn hái một ít mang đến chỗ ca ca, chưa biết chừng tới lúc đó tẩu cũng cần dùng”.

“Đúng đấy. Người nghèo không mua được thuốc tốt, dùng loại cỏ này bồi bổ cũng hay lắm. Lão thấy còn tốt hơn cả nhân sâm ấy chứ.” Sống nơi hẻo lánh tĩnh mịch đã quen, hiếm khi có người để chuyện trò dăm ba câu, đại nương cứ cười mãi, những nếp nhăn thời gian hằn rõ trên mặt.

“Vậy tiểu nữ đi hái một chút đây.”

“Trên đường nhiều đá tảng, cô nương cẩn thận.”

Đi được hai bước, Túy Cúc lại không yên tâm quay người: “Tẩu tẩu đi cả ngày đường mệt mỏi, đang ngủ một lúc. Khi nào tẩu tẩu tỉnh, phiền đại nương chuyển lời rằng tiểu nữ đi hái thuốc, sẽ về ngay. Đại nương giúp tiểu nữ chăm sóc tẩu tẩu nhé”.

“Lão biết rồi, cô nương cứ yên tâm!”

Túy Cúc mượn bà cụ chiếc xẻng nhỏ để đào bùn tuyết, rồi mới quay đi.

Ngủ một giấc thật ngon, vừa tỉnh dậy đã gọi Túy Cúc: “Túy Cúc”, nhưng không nghe tiếng trả lời, Sính Đình thấy rất lạ. Nàng ngồi dậy, nhìn tay nải Túy Cúc để bên cạch cùng mấy vị thảo dược ở ngoài.

“Túy Cúc?”, Sính Đình bước xuống giường, lại gọi nhưng vẫn không thấy tiếng trả lời. Nàng nhìn ra ngoài cửa sổ, sắc trời đã gần tối, giọng bèn cao hơn một chút: “Túy Cúc?”.

Có người vén rèm bước vào, Sính Đình vui mừng quay lại, nhận ra là vị đại nương kia.

“Cô nương, muội muội của cô nương đi hái thuốc, nói là đi hái mạt thảo cho tẩu tẩu dùng”, đại nương cười hiền từ, “Cơm lão nấu xong rồi, cùng ăn thôi, cũng chẳng có gì”.

“Đa tạ đại nương”, Sính Đình dịu dàng đáp. Nàng mỉm cười cảm kích, theo đại nương sang gian phòng nhỏ. Vị đại thúc câm đã ngồi bên bàn. Trên bàn bày bát đũa sạch sẽ, một đĩa củ cải sợi, một đĩa cá muối chưng và nửa nồi cháo loãng nóng hổi.

Đại thúc câm ra hiệu: “A A A… A!”.

Đại nương hiểu ý, nói với Sính Đình: “Cô nương, ngồi xuống ăn chút đi. Cô nương đừng lo, muội muội của cô nương bảo chỉ đến chân núi, nên sẽ về ngay thôi”.

“Đa tạ đại thúc, đại nương”, Sính Đình quay đầu ra ngoài, nhìn sắc trời dần tối.

Tuy là cơm canh đạm bạc, nhưng hai lão nhân đối đãi với nhau rất ân cần, khiến căn phòng tràn đầy cảm giác ấm áp. Sính Đình khẽ đặt bát xuống, lại nhìn ra ngoài, trời đã tối hẳn.

Vẫn chẳng thấy bóng dáng Túy Cúc đâu, nàng bỗng thấy vô cùng lo lắng.

“Sao vẫn chưa thấy muội muội của cô nương về nhỉ?” Đại nương cũng lo lắng nhìn ra ngoài, “Chân núi ngay đằng kia, mỗi một đoạn đường. Đáng lẽ về rồi mới phải”.

Trong lòng bất an, Sính Đình đi vòng quanh tiểu viện trước nhà. Túy Cúc lanh lợi, nhưng vùng núi vào ban đêm rất nguy hiểm, gặp phải dã thú ngủ đông đói bụng thì coi như xong.

Lúc ở thành đô, để Túy Cúc chờ trong quán trọ, khi đến nhìn sắc mặt nàng ấy, Sính Đình còn cười chê Túy Cúc nhát gan đa nghi. Giờ nàng mới biết cảm giác lo lắng cho người khác thật không dễ chịu chút nào. Lâu nay, hai người đã như hình với bóng, Sính Đình lo lắng, buột miệng, “ Đại nương, tiểu nữ ra ngoài tìm muội muội”.

Đại thúc câm bỗng ú ớ vài tiếng, ra sức xua tay.

Đại nương bảo: “Đợi thêm lát nữa, nếu muội muội về, không thấy cô nương lại lo”.

“Không, tiểu nữ chỉ đi vòng vòng ở chân núi phía trước rồi về ngay.” Sính Đình mượn cây đuốc, hỏi rõ hướng đi của Túy Cúc, rồi mới dặn dò, “Đại nương, nếu muội muội trở về, đại nương nhớ giữ muội ấy lại, đừng cho ra ngoài nhé. Tiểu nữ tới chân núi tìm, không thấy sẽ về ngay”.

Đại nương thở dài: “Quả nhiên là tình tỷ muội. Lúc muội muội đi cũng dặn dò lão phải chăm sóc cho tẩu tẩu của mình, giờ tẩu tẩu lại dặn lão nhớ chăm sóc cho muội muội. Cô nương tốt, chỉ đi một vòng quanh chân núi thôi, trời tối rồi, chớ có lên núi”.

“Vâng, tiểu nữ biết rồi!”

Trong màn đêm, gió khẽ thổi, Sính Đình bước vội, ngọn lửa bị kéo dài giống như một cái đuôi, như đang đuổi theo cái bóng của nàng. Chẳng mấy chốc, Sính Đình đã đến chân núi. Ánh trăng bàng bạc suốt chặng đường dường như cũng chẳng len nổi đến nơi đây. Vệt đen của cành lá đổ bóng đè lên nàng. Sính Đình giơ đuốc, tìm khắp xung quanh nhưng không thấy hình dáng Túy Cúc đâu.

“Túy Cúc! Túy Cúc!”, nhìn một lúc, nàng gọi to.

Âm thanh vọng lại từ rừng già âm u.

Tìm kỹ nơi bìa rừng, thấy dưới mấy gốc cây to có vết đào bới, Sính Đình liền vội vã qua phía đó. Đúng là đã có người đến đây đào thảo dược, rễ cây bị đứt vẫn còn trong đất. Sính Đình lần theo vết đào tìm kiếm, phát hiện mấy dấu chân in trên tuyết. Nếu không phải đang cầm đuốc, lại tìm kiếm cẩn thận như thế, e là nàng đã bỏ qua mấy dấu chân ấy. Chậm rãi bước theo dấu chân, đến nơi mà bóng đen của rừng rậm hoàn toàn che khuất bầu trời, nàng mới ngẩn lên.

Túy Cúc đã vào đây. Không biết tại sao, Sính Đình bỗng thấy lòng thắt lại, cảm giác lo lắng trào dâng.

“Túy Cúc! Túy Cúc! Ngươi ở đâu?”, Sính Đình ra sức gào thật to.

Cảm giác bi ai thê thảm trào dâng trong lòng, dường như trước giờ nàng chưa từng bất lực thế này. Đối diện với nàng không phải con người, mà là núi rừng im ắng. Ở đây không có kẻ thù, không cạm bẫy, nhưng lại đáng sợ hơn chốn sa trường, khiến nàng không biết phải làm sao.

Núi rừng im lìm như đang nhìn nàng chằm chằm, nỗi cô độc bủa vây quanh nữ tử nhỏ bé.

“Ngươi ở đâu?” Sính Đình giật mình quay lại, ngọn lửa soi rõ khuôn mặt nhợt nhạt của nàng. Dù trí tuệ hơn người, Sính Đình vẫn phải bất lực đứng đây. Tại sao đến lúc gần như đã tìm thấy tự do, nàng lại trở nên khiếp đảm nhường này?

Đứng trên nền tuyết trắng, bên trái là mặt đất lóng lánh ánh trăng, bên phải là rừng rậm âm u, trong tiếng rả rích của côn trùng ngày đông, nàng chợt hiểu ra mình là kẻ cô độc.

“Ngươi đang ở đâu?”, giọng nàng không còn cao như ban nãy.

Lửa vẫn cháy lèo xèo. Thanh âm khẽ khàng lại là tiết tấu duy nhất tồn tại trong không gian tĩnh mịch này.

Trước mắt nàng như hiện lên đôi đồng tử sáng ngời, thâm thúy và sắc bén.

Cứ ngỡ cả đời này sẽ được nắm chặt cánh tay kiên định, mạnh mẽ ấy, ai ngờ giờ nàng phải một mình quanh quẩn giữa đêm đen?

Chàng có kiếm thuật vô song, anh dũng cái thế, nhưng trái tim lại không khiến nàng cảm thấy yên ổn.

Trong đêm khuya chẳng một bóng người, nước mắt Sính Đình bỗng lăn. Ngay cả nàng cũng không hiểu tại sao những sầu khổ chôn chặt tận đáy lòng, giờ lại tuôn trào, hóa thành giọt lệ rơi giữa rừng già mênh mông vô tận, thấm xuống lớp tuyết dưới chân, không một dấu tích.

Nàng cúi đầu, nghiến chặt răng, nhìn hàng lệ chảy trong ánh lửa, rồi ngẩng đầu, gọi: “Túy Cúc! Túy Cúc! Ngươi ở đâu?”. Giọng nói nức nở thê thảm đến run người.

“Cô nương! Túy Cúc ở đây!” Trong rừng sâu yên tĩnh bỗng vang lên tiếng đáp trong trẻo.

Sính Đình sững sờ, giơ cao ngọn đuốc, nhìn về phía vọng lại tiếng nói.

Quả nhiên, một bóng người mờ ảo chạy ào tới phía nàng từ trong rừng sâu, trên tay xách chiếc làn nhỏ, thở hổn hển: “Không ngờ trên núi có nhiều thảo dược tốt như thế, Túy Cúc lần theo các gốc cây, cứ thế đi sâu vào trong. Trời tối, suýt chút nữa không tìm thấy đường ra, may cô nương tìm đến. Ớ…”. Thấy đôi mắt Sính Đình đỏ hoe dưới ánh lửa, Túy Cúc sững người, một lúc sau mới hỏi, “Cô nương sao thế?”.

“Không sao cả.”

“Khóc đến thế kia…” Túy Cúc nắm chặt bàn tay lạnh giá của Sính Đình, “Tại Túy Cúc không tốt, khiến cô nương lo lắng”.

Sính Đình cười mà như mếu.

Nàng vốn được khen là thông minh lanh lợi, nhưng chỉ nàng mới biết lúc này mình bất lực đến mức nào. Túy Cúc làm sao hiểu được trong lòng nàng hiện đang nghĩ gì. Khẽ chớp mắt, một hàng lệ lại lặng lẽ lăn trên má nàng.

Túy Cúc đau lòng: “Cô nương đừng khóc nữa, Túy Cúc đã về đây rồi. Lần sau Túy Cúc không dám thế nữa”.

Sính Đình quay mặt đi, khẽ bảo: “Chỗ thảo dược này cũng không cần dùng ngay. Trời lạnh như vậy, ngươi phải lo cho sức khỏe của mình chứ”. Nói rồi, hai người chậm rãi quay về.

Túy Cúc nhanh nhẹn: “Để Túy Cúc mang”, sau đó cầm ngọn đuốc trong tay Sính Đình, tay kia xách làn. Trong lòng bất an, Túy Cúc cứ liên tục quay lại nhìn đôi mắt đỏ hoe của Sính Đình, dò hỏi: “Cô nương đang nghĩ gì vậy?”.

Sính Đình cúi đầu, lặng lẽ bước đi, như không hề nghe thấy lời của Túy Cúc. Bỗng một lúc sau, nàng lên tiếng: “Ta đang nghĩ đến bức thư”.

Nghe Sính Đình chủ động nhắc tới việc đó, Túy Cúc càng ngạc nhiên, lại sợ động đến nỗi đau trong lòng Sính Đình, nên không dám hỏi thêm, chỉ yên lặng bước đi.

Một lát sau, giọng buồn bã của Sính Đình lại cất lên: “Hôm đó nhấc bút đề thư, tuy viết bao điều, nhưng trong đầu vẫn rối. Giờ nghĩ lại, có lẽ đó chính là tiếng lòng mà ta không biết”.

Túy Cúc hỏi: “Rốt cuộc cô nương viết những gì?”.

Sính Đình dường như định mở lời, khóe môi khẽ động, nhưng lại thở dài: “Nói ra chỉ khiến ngươi thêm phiền lòng”.

Hai người lặng lẽ quay về, đến khi ngẩng lên, đã thấy ánh sáng hắt ra từ khung cửa sổ của căn phòng nhỏ đã gần ngay trước mặt. Bỗng họ nghe âm thanh hung bạo chói tai rít qua kẽ răng: “Kẻ già mãi không chịu chết, còn dám nhiều lời!”, tiếp theo là tiếng cái tát nảy lửa vang lên trong đêm đen.

Lặng lẽ ngó đầu ra quan sát, dưới ánh trăng, họ thấy bóng mấy nam nhân hùng hổ ngay trước gian nhà nhỏ.

“Nếu không có các quan gia chặn Sở Bắc Tiệp lại, người Đông Lâm mà xông tới đây, các ngươi cũng chẳng giữ được cái đầu trên cổ đâu. Đánh trận thì phải nuôi quân, lúc nào rồi còn không chịu nộp thuế? Các ngươi không muốn sống nữa đúng không?”

Giọng hiền từ của đại nương trở nên kinh hoàng, hoảng sợ: “Quan đại gia, phần thuế năm nay, nhà lão đã nộp từ hôm kia rồi…”.

“Đó là hôm kia, còn giờ là hôm nay!”, giọng hung bạo cắt ngang lời đại nương.

Bỗng hàng loạt tiếng gãy răng rắc vang lên, như thế kẻ nào đã giẫm nát cánh cửa gỗ cũ.

“Thực là lão không có gì nữa.”

“Không có? Hừ, thế đây là cái gì?” Một giọng nói hống hách xen vào, nam nhân vừa vào nhà lục soát ôm theo đống đồ ra ngoài, giễu cợt, “Thật không ngờ hai tên già mãi không chịu chết các ngươi lại có đồ tốt thế này”.

“A! A A…” Đại thúc câm khua tay, ngăn nam nhân trước mặt.

Đại nương vội nói: “Đại gia, đại gia, đây không phải đồ của nhà lão. Đây là đồ của hai cô nương ở trọ…”.

“Cút!” Nam nhân hung hãn đá bay đại thúc xuống đất, hằn học, “Trong nhà ngươi lại không phải đồ của ngươi? Lão tử nói cho ngươi biết, những thứ này miễn cưỡng coi như phần của hôm nay. Hai ngày nữa, nếu các ngươi vẫn không chịu nộp, ta sẽ một mồi lửa thêu trụi ngôi nhà này!”.

Ôm lấy tay nải của Sính Đình và Túy Cúc, đám người hùng hổ, nghênh ngang rời khỏi.

Thấy chúng đi qua tảng đá lớn, Sính Đình và Túy Cúc vội rụt đầu, đợi chúng khuất bóng, rồi mới ngó ra nhìn theo.

“Đám tiểu nhân độc địa xấu xa”, Túy Cúc mắng, “Đâu đâu cũng có những tên khốn kiếp thế này. Ở Đông Lâm ta cũng thường gặp chúng, gặp quan trên hay người quyền thế thì như chó cụp đuôi, gặp người nghèo thì hung dữ như loài lang sói. Chúng mà gặp phải sư phụ, chắc chắn sẽ bị dạy dỗ một trận”.

Thấy đám người đã đi khuất, Sính Đình khẽ nói: “Có cách gì chứ? Những ngày này ta luôn hối hận, học đàn, học múa đâu có ích gì, lẽ ra phải học chút võ nghệ kiếm thuật, giữa đường gặp chuyện bất bình còn ra tay cứu giúp. Đáng tiếc, ta lại là kẻ vô dụng, không giúp nổi bản thân thì sao cứu được người khác?”.

Túy Cúc không bằng lòng: “Chẳng phải gần đây cô nương rất giỏi đó ư? Sao giờ bỗng lo được lo mất như thế? Thiên hạ liệu được mấy người tài cán hơn cô nương?”. Ngoài miệng nói vậy, nhưng trong lòng Túy Cúc bỗng nhớ đến Vương gia. Đúng là, nữ nhân dù thông minh đến mức nào cũng thấy sợ hãi khi phải đối diện với kẻ địch. Nếu Vương gia ở bên, Vương gia tất sẽ che chở mọi bề, không để kẻ nào làm tổn thương đến Bạch cô nương dù chỉ một sợi tóc.

Không có người bảo vệ, thì phải tự bảo vệ mình. Phía su tảng đá, hai người cùng đứng lên. Vì đứng dậy quá nhanh, Sính Đình bỗng thấy đầu óc quay cuồng, bước chân lảo đảo, cánh tay run rẩy.

“Cô nương cẩn thận!”, Túy Cúc lo lắng, đưa tay ra đỡ.

“Không sao.” Sính Đình thuận miệng đáp, cảm thấy đã đứng vững, nhưng vừa nhấc chân lên, trời đất lại như quay cuồng, nàng không thể tiếp tục đứng vững như trước, đôi chân khuỵu xuống. Túy Cúc cũng vừa đứng dậy, còn chưa kịp đứng vững, nên chẳng kịp đỡ. Túy Cúc kêu lên kinh hãi, đã bị cả người Sính Đình đổ vào, ngã theo, đầu gối va vào tảng đá bên cạnh, đau nhói.

Đau, nhưng Túy Cúc vẫn bò dậy, không để ý đến vết thương của mình mà đỡ lấy Sính Đình, giọng gấp gáp: “Cô nương sao thế? Có va vào đâu không?”.

Sính Đình ngã đến u mê, được Túy Cúc đỡ dậy, mới cảm thấy đầu óc tỉnh hơn một chút, lắc đầu: “Không sao”. Nghĩ lại, hình như lúc bị ngã đã va vào đâu, nhưng nàng không biết rõ đau chỗ nào.

“Có va vào đâu không?”

“Không”, Sính Đình xua tay, lắc đầu.

Túy Cúc thở phào một hơi: “Làm Túy Cúc hết hồn. Chúng ta về thôi”.

Hai người về đến gian nhà nhỏ, mọi thứ đều bị lục tung, đồ đạc mỗi thứ một nơi. Đại thúc câm thẫn thờ ngồi ở góc nhà. Đại nương đang khóc, thấy Sính Đình và Túy Cúc thì không khóc nữa, ngẩng đầu, ấp úng khó nói thành lời, “Cô nương, tay nải của các cô nương…”.

“Tiểu nữ biết cả rồi, không thể trách đại nương và đại thúc được. Hơn nữa, bên trong cũng chẳng có gì”, Sính Đình dịu dàng khuyên nhủ, hai lão nhân cũng đỡ buồn bã phần nào.

Xếp lại đồ đạc, thu dọn nhà cửa, đến khi mệt rũ, mọi người mới vào phòng đi ngủ.

Nghĩ đến chút ít lộ phí cũng không còn, ngay cả y phục để thay cũng mất hết, hai người không khỏi bàng hoàng, cũng không khỏi cảm thấy nực cười.

“Lộ phí và y phục chỉ là chuyện nhỏ, mạng người mới là quan trọng. Tiền cũng không phải không kiếm được, chỉ cần dọc đường chúng ta chịu khó thăm bệnh cho người ta”, vừa nói, Túy Cúc vừa ra hiệu cho Sính Đình nằm xuống giường, “Cô nương giơ tay ra đi”.

Túy Cúc nhẹ nhàng đặt hai ngón tay lên cổ tay Sính Đình, tĩnh tâm lắng nghe, bỗng nhìn Sính Đình với vẻ nghi ngờ: “Cô nương thấy khó chịu chỗ nào?”.

“Sao? Thai nhi không khỏe ư?”, Sính Đình kinh hãi.

“Cô nương có thấy khó chịu chỗ nào không?”

“Không.”

Túy Cúc nói: “Để Túy Cúc nghe lại xem”. Nghiêng đầu tiếp tục nghe ngóng một hồi, Túy Cúc cau mày, “Mạch tượng có chút kỳ quái, hay do lúc tối cô nương ra ngoài bị lạnh? Thật là, đã bảo cô nương không nên tìm Túy Cúc. Nằm im, đừng cử động lung tung”. Nói xong, Túy Cúc xách làn ra ngoài.

Sính Đình lo cho sự an nguy của hài nhi trong bụng nên nghe lời nằm im. Cơn buồn ngủ kéo đến, trước mắt bỗng trở nên mơ hồ, ánh sáng dần biến mất, bóng tối bao trùm. Nơi cuối cùng của bóng đen, dường như lại xuất hiện một luồng sáng hiền hòa dịu dàng đang lay động.

Đang thiu thiu chợp mắt, bỗng có ai vỗ nhẹ vai nàng. Sính Đình mở choàng mắt, thấy Túy Cúc bê bát thuốc nóng ngồi đầu giường, vừa thổi, vừa dịu dàng nói: “Uống thuốc xong hãy ngủ. Bọn thuế quan độc ác đó lấy cả thảo dược của chúng ta, may hôm nay hái được thảo dược mới”.

Đợi Sính Đình chịu đắng uống thuốc, Túy Cúc mới dọn bát, thổi nến, rồi cùng đi ngủ.

Vất vả một ngày đường, lại lên núi hái thuốc, rồi gặp bao chuyện bất ngờ, Túy Cúc còn mệt hơn cả Sính Đình, vừa đặt lưng xuống giường đã chìm vào mộng mị. Trong giấc mơ, Túy Cúc lại được thấy gương mặt nghiêm túc của sư phụ, nhưng đôi mắt thì vẫn cười hiền từ như thế. Một lúc sau, dường như Túy Cúc quay về vườn mai trong biệt viện ẩn cư, một khuôn mặt hoảng hốt đang ở ngay trước mắt, thẫn thờ nhìn vầng trăng sáng. Hết giấc mộng này đến cơn mơ khác, ly kỳ cổ quái, lan tỏa dư vị ấm áp. Giống như bao con đường đang trải ra trước mắt, và Túy Cúc biết, ở tận cùng mỗi con đường đều có những điều tốt đẹp chờ đợi mình.

Đang lúc mộng đẹp, một cơn đau từ đâu đến. Túy Cúc cố giãy giụa, hình như là đau tay, lại tựa như đau chân, cơn đau dần dần như từ đáy ao trồi lên mặt nước, kéo nàng ra khỏi mộng cảnh.

Mở choàng mắt, lại thấy một cơn đau nữa, cuối cùng Túy Cúc cũng tỉnh hẳn, thấy cổ tay mình đang bị ai đó nắm chặt đến đau điếng.

“Túy Cúc… Túy Cúc…”, tiếng rên rỉ của Sính Đình trong đêm đen vô cùng đau đớn.

Túy Cúc kinh hãi ngồi hẳn dậy, dưới ánh trăng, hai hàng mày thanh tú của Sính Đình đang nhíu chặt, móng tay cắm vào cổ tay Túy Cúc.

“Cô nương sao thế?”

“Đau quá”, Sính Đình ôm bụng, từng giọt mồ hôi to như hạt đậu lăn trên trán, rơi xuống gối.

“Túy Cúc ở đây, đừng sợ.” Hết sức hoảng hốt, giọng trở nên run rẩy, Túy Cúc dò dẫm tìm bàn tay Sính Đình, yên lặng nghe ngóng một lúc, sắc mặt bỗng trắng bệch, “Kim của Túy Cúc đâu?”. Vội vã đi tìm, chợt nhớ ra tay nải bị bọn người kia mang đi rồi, Túy Cúc chẳng kịp khoác áo ngoài, tức tốc chạy tới phòng đại nương, đập cửa ầm ầm, hét gọi: “Đại nương! Đại nương!”.

“Có việc gì vậy, cô nương?”

Túy Cúc nắm chặt tay đại nương: “Kim bạc! Đại nương có kim bạc không?”.

Vừa bị gọi dậy, đại nương vẫn chưa tỉnh hẳn: “Người nghèo lấy đâu ra kim bạc?”.

“Vậy, vậy… kim thường? Kim thêu hoa?”, Túy Cúc lo đến phát khóc.

“Kim khâu y phục lão cũng có một cái. Các cô nương…”

“Đừng hỏi nữa, mau cho tiểu nữ mượn!” Túy Cúc cầm cây kim vội vã về phòng, châm nến.

Dưới ánh sáng mờ mờ, sắc mặt Sính Đình vàng như nến, mồ hôi đầm đìa, thấm ướt gối. Thấy Túy Cúc quay lại, Sính Đình nén cơn đau, yếu ớt hỏi từng tiếng: “Sao thế?”.

“Không sao.” Túy Cúc vội vàng hơ cây kim trên ngọn lửa, trả lời: “Chỉ châm cứu chút là khỏi, cô nương đừng sợ”. Giọng Túy Cúc chắc chắn, nhưng bàn tay run rẩy. Thấy cây kim đã nung đỏ mà vẫn không nóng, Túy Cúc sờ thử mũi kim rồi đến bên giường, nhẹ giọng dỗ dành: “Đừng lo, châm cứu xong sẽ không đau nữa”. Túy Cúc bảo Sính Đình nằm im, nhẹ nhàng nới lỏng áo trong của nàng.

Bụng đau từng cơn, như có con ngựa đang điên cuồng phi bên trong, cố gắng thế nào Sính Đình cũng không chịu nổi những cơn đau đang cuộn lên ấy. Thấy Túy Cúc vê kim, định châm xuống bụng dưới của mình, không biết Sính Đình lấy đâu ra sức ngồi bật dậy, ngăn Túy Cúc lại: “Ngươi không làm hại hài nhi của ta chứ?”.

Túy Cúc chẳng chút do dự: “Không đâu, tin Túy Cúc”.

Nghe vậy, Sính Đình mới chịu buông tay ra. Chẳng còn sức lực nên vừa buông tay, nàng đã đổ xuống giường, mái tóc bết mồ hôi, xõa tung trên gối. Sính Đình nhắm mắt, cảm thấy bụng mình ấm lên từng cơn, hình như Túy Cúc châm liên tiếp đến vài chỗ. Bất chợt cơn đau lại ập đến.

“A!” Sính Đình kêu lên thảm thiết, cuộn người như con tôm, giãy giụa, một lúc sau mới đỡ. Nàng cau mày cảm nhận, sau khi trào lên, cơn đau dần dần rút theo lối cũ.

“Đỡ hơn chút nào chưa?” Bên tai Sính Đình vang giọng nói của Túy Cúc, rất đỗi xa xôi.

Hồi lâu, Sính Đình mới chậm rãi nói được một tiếng: “Ừ…”.

Mồ hôi đầm đìa, nghe lời đáp của Sính Đình, Túy Cúc mới đặt cây kim trong tay xuống, ngồi phịch xuống như đã kiệt sức.

“Hài nhi… không sao chứ?”

Túy Cúc nói: “Túy Cúc nói rồi, cô nương thể trạng yếu, đừng có quá sức. Ai…”.

“Túy Cúc?”

“Cô nương cứ nằm đó, hài nhi không sao.” Túy Cúc ngẩng lên thấy đại nương đang đứng thập thò ngoài cửa, vội chạy ra, xin lỗi, “Làm đại nương và đại thúc tỉnh giấc, thật ngại quá”.

“Cô nương…”

“Tẩu tẩu bị bệnh.”

“À”, đại nương lo lắng nhìn vào bên trong, hỏi nhỏ, “Đã đỡ chút nào chưa?”.

“Đỡ nhiều rồi. Đại nương đi ngủ đi, không sao đâu.”

Khuyên đại nương đi nghỉ xong, Túy Cúc quay lại giường, ngồi xuống nói với Sính Đình: “Không thể đi tiếp được. Cô nương phải nghỉ ngơi tĩnh dưỡng vài ngày”.

Một lúc lâu vẫn chẳng thấy Sính Đình lên tiếng.

“Không thể ở lại đây, sớm mai phải đi ngay. Đám người kia mang theo tay nải của chúng ta, sao biết được đồ ấy sẽ rơi vào tay ai?” Vừa mất sức, Sính Đình giọng thều thào, “Ngộ nhỡ bọn chúng đuổi đến, lúc đó chúng ta muốn đi cũng chẳng được”.

Túy Cúc thở dài.

Sính Định lại hỏi: “Ta bị sao? Có việc gì, ngươi đừng giấu ta”.

Túy Cúc vừa buồn vừa đau lòng, giọng nấc nghẹn: “Cô nương còn không hiểu bản thân mình sao? Vốn thể trạng đã không tốt, suốt chặng đường lại ham tâm tổn sức, liệu cô nương có chịu được không? Nhất định phải nghĩ cách kiếm mấy loại dược liệu thượng hạng, nhân sâm lâu năm hay linh chi đủ tuổi cũng được”.

Sính Đình đầm đìa mồ hôi, bụng đã không còn đau, nhưng lại cảm thấy lạnh. Nàng khẽ kéo chăn đắp lên người, mỉm cười nói: “Ta nghe lời ngươi, sau khi rời khỏi đây sẽ không đi vội nữa, mà cố gắng tĩnh dưỡng. Ngươi hà cớ phải khóc?”.

Túy Cúc lau nước mắt, đáp: “Giờ nghĩ lại càng thấy hận Vương gia. Đã là người thân yêu nhất trong lòng thì phải biết quý trọng, sao lại để cô nương lưu lạc đến bước này? Ngàn cái sai vạn cái sai, đều là của Vương gia!”.

Không ngờ Túy Cúc bỗng nhiên nhắc đến Sở Bắc Tiệp, Sính Đình sững sờ, muốn chê Túy Cúc tính khí trẻ con, nhưng lại thấy từng lời ấy đều đúng với suy nghĩ trong lòng mình. Nàng đã dành trọn tâm huyết cho Sở Bắc Tiệp, để rồi nhận lấy kết cục này, phụ tất cả ước muốn thuở ban đầu. Cuộc đấu tranh giữa tình cảm và nghĩa nặng quốc gia trước nay chưa từng có kết cục hay.

Sính Đình mơ hồ cảm nhận được, nhưng không đủ bản lĩnh để ngăn cản sự việc tiếp diễn đến bước này.

“Bỏ đi”, Sính Đình thở dài buồn bã, nhắm mắt lại, “Đừng hao tâm tổn sức vào con người đó nữa, chỉ rước khổ vào thân”. Nói xong, nàng dịu dàng xoa bụng. Vì mặc áo rộng nên người ngoài không phát hiện, nhưng khi xoa bụng, nàng đã thấy bụng mình bắt đầu nhô ra.

Hài nhi của ta, đừng dính đến tình thù quốc gia. Đạo nghĩa là một thước đo, nhưng sau cùng sẽ biến thành ổ khóa nặng nề giam giữ trái tim con, bịt kín đôi mắt con.

Hài nhi của ta, đừng giống phụ thân con, cũng đừng giống mẫu thân. Yêu cũng thế, hận cũng thế, nhưng đừng quên thuở ban đầu.

Thuở ban đầu, tại sao ngươi lại yêu, tại sao ngươi lại hận?

Đừng quên.

Khói lửa mù mịt cuộn trên bình nguyên, lan tới tận chân trời, bốc lên ngùn ngụt như đang ngạo nghễ báo với nhân gian, đại chiến đã cận kề.

Cờ bay che lấp mặt trời, trống trận dồn vang.

Tiếng tù và từ xa vọng tới cũng chẳng thể che nổi một phần thê lương trong làn nắng sớm.

Nhìn ra xa, bình nguyên dày đặc những đầu người đội mũ sắt cao lêu nghêu, ánh sáng lóa của hàng ngàn hàng vạn thanh đao kiếm chĩa về phía chân trời, đoàn kỵ binh của đại quân Đông Lâm rầm rập khí thế.

Sở Bắc Tiệp oai hùng trên lưng tuấn mã, sừng sững nơi tiền tuyến. Cờ Trấn Bắc vương phần phật bay trên đầu, những hình thù hung hãn, dữ tợn trên đó như muốn nuốt lấy hồn phách kẻ thù.

Trên sườn núi đối diện, sắc cờ khác cũng tung bay trong gió, một đội quân hùng hậu kéo dài đến tận chân trời.

Vân Thường, quốc gia vẫn nghỉ ngơi dưỡng sức, ẩn mình không lộ, giờ đã tích đủ sức mạnh, có một quân lực không thể coi thường.

Sở Bắc Tiệp nheo mắt, nhìn bóng dáng anh tuấn đầy tự tin nơi tiền tuyến địch, chủ soái của đại quân Vân Thường.

Chàng còn nhớ, trên con đường ruột dê ngày ấy, kẻ dẫn theo phục binh lặng lẽ hiện thân trên vách đá với nụ cười ung dung, chính là người này.

Tiểu Kính An vương ngày trước, phò mã Vân Thường bây giờ.

Đó chính là nam nhân cướp Sính Đình khỏi tay chàng!

Cuồng phong xuyên qua hai trận tuyến bỗng nhiên im bặt, như đang lo sợ nơi này sắp biến thành chiến trường tàn khốc. Cờ xí rợp trời cũng rủ xuống vì thiếu gió.

Yên ắng đến bất ngờ khiến trận địa càng thêm căng thẳng. Hàng chục vạn binh lính cùng chiến mã sừng sững giữa bình nguyên, im lìm như những nấm mồ.

Sở Bắc Tiệp lặng lẽ nhìn Hà Hiệp. Cách xa như vậy, nhưng chàng vẫn cảm nhận được ánh mắt của đối phương dành cho mình, lạnh lùng và sắc bén.

Chính nam nhân kia đã cướp đoạt Sính Đình đang mang trong mình cốt nhục của chàng. Bàn tay Sở Bắc Tiệp lặng lẽ đặt lên cán kiếm.

Rút kiếm xung phong, tiến thẳng về phía trước, chỉ cái chết mới có thể ngăn chàng lại.

Đứng cạnh Sở Bắc Tiệp, cũng như các đại tướng khác, Thần Mâu bỗng thấy lòng bàn tay mình toát mồ hôi lạnh. Mọi người đều biết rõ, chỉ cần Sở Bắc Tiệp rút kiếm ra khỏi bao, thiên quân vạn mã sẽ ầm ầm xông tới, máu chảy thành sông.

Vì một người.

Chỉ vì một nữ nhân.

Bạch Sính Đình, tứ quốc sẽ mãi nhớ về cái tên này.

Ánh mắt mọi người nhất loạt dồn về bàn tay Sở Bắc Tiệp. Mười vạn quân sẽ lập tức xông lên theo cánh tay vung kiếm.

Bầu không khí như bị những hơi thở căng thẳng vê thành từng sợi, tựa như dây đàn bị kéo căng, khoảng đất trống giữa hai quân đang dần thu hẹp lại.

Trong không gian tĩnh lặng đến ngạt thở, bỗng vang lên tiếng vó ngựa.

Tuấn mã phi nước đại.

Trên dốc núi phía nam, mấy bóng người bỗng xuất hiện trong nắng sớm, bất chấp hậu quả tiến thẳng vào khoảng đất trống giữa hai quân, giống như bức tranh sơn dầu đang bị cháy, có ai đó cầm đao nhẹ nhàng xẹt qua; giống như trên bức tranh thê lương chợt thêm một nét xuân, quái dị và hoàn toàn không ăn khớp với toàn cảnh.

“Vương kỳ Vân Thường?”, Thần Mâu lẩm bẩm như chẳng dám tin.

Thị lực hơn người, Sở Bắc Tiệp đã sớm nhận ra dòng chữ to in trên lá cờ.

Kỵ binh đầu tiên xông đến mảnh đất trống ghìm dây cương trước mặt Sở Bắc Tiệp, chắp tay, giọng sang sảng: “Vị tướng quân này chính là Đông Lâm Trấn Bắc vương Sở Bắc Tiệp?”.

“Bản vương Sở Bắc Tiệp. Ngươi là ai?”, Sở Bắc Tiệp trầm giọng hỏi.

“Tại hạ Dung An, trưởng thị vệ vương cung Vân Thường. Chủ nhân Diệu Thiên công chúa của tại hạ có lời thỉnh cầu gặp mặt Vương gia.”

“Đại chiến cận kề, Diệu Thiên công chúa hiện đang ở nơi nào?”

“Ở đằng kia.” Dung An chỉ tay về phía sau.

Mọi ánh mắt đổ dồn về phía xa. Trên sườn núi, chiếc xe ngựa hoa lệ xuất hiện trong ánh nắng ban mai, chạy như bay về phía mảnh đất trống giữa hai quân.

Trái tim Sở Bắc Tiệp bỗng như có muôn vàn sợi dây vô hình thắt chặt, chút run rẩy thoáng qua trong sâu thẳm đáy lòng.

Ngoài Sính Đình, liệu nàng ta còn con bài nào để giảng hòa? Trước khi đại quân lâm trận, Công chúa vội vã đến đây mà không sang với binh mã Hà Hiệp thống lĩnh, chắc chắn có liên quan đến Sính Đình.

Trái tim vốn lạnh lùng của chàng bỗng như có ngọn lửa thiêu đốt, nỗi xúc động nhất thời ào tới.

Xe ngựa càng lúc càng gần, rõ ràng đại quân đối phương cũng nhận ra vương kỳ trên xe ngựa, nên cực kỳ chấn động.

Dung An giục ngựa về cạnh Công chúa, cúi người bên cửa sổ xe nhận chỉ thị một hồi, rồi thúc ngựa quay lại: “Công chúa mời Vương gia đến bên xe một lúc”.

Xe ngựa đỗ trên mảnh đất trống. Bốn con tuấn mã mình đầy tuyết trắng dừng bước cúi đầu. Như nhận được lệnh của người trong xe, phu xe tự giác nhảy xuống rời đi, đứng cách đó chừng trăm bước, khoanh tay đợi lệnh.

Thần Mâu cảnh giác: “Vương gia cẩn thận, Hà Hiệp quỷ kế đa đoan, cẩn thận trúng mai phục”.

Sở Bắc Tiệp cười gằn: “Mỗi người một xe ngựa, dù bên trong có chất đầy người cũng không chống nổi bảo kiếp trong tay bản vương”.

Thúc ngựa tiến đến, Sở Bắc Tiệp ung dung hỏi: “Trong xe có phải Diệu Thiên công chúa của Vân Thường? Đông Lâm Sở Bắc Tiệp ở đây, Công chúa có chuyện gì muốn nói?”.

Diệu Thiên vén rèm, ngước mắt nhìn lên. Thấy Sở Bắc Tiệp cưỡi trên tuấn mã, uy phong lẫm liệt, khí thế hơn người, trong lòng thầm cảm thán, nàng dịu giọng: “Diệu Thiên nhận ủy thác của người khác, có bức thư muốn giao cho Vương gia”.

“Chỉ có thư?” Đôi đồng tử của Sở Bắc Tiệp khẽ co lại, không khí xung quanh bỗng chốc băng lạnh, “Người ở đâu?”.

“Người đã không còn ở Vân Thường ta”, Diệu Thiên đáp, “Vương gia đọc thư, tất sẽ biết”.

Ánh mắt Sở Bắc Tiệp càng trở nên lạnh lùng, cách một tấm rèm che cũng khiến Diệu Thiên rùng mình. Chàng nói: “Công chúa xem nhẹ bản vương rồi. Đại quân Đông Lâm lặn lội đường xa tới đây để đòi người về. Vân Thường không trả người, chỉ dựa vào một bức thư mà muốn bản vương lui binh? Đâu có chuyện dễ dàng như thế! Bản vương nói trước, nàng có bị làm sao, bản vương thề sẽ lấy máu tươi nhuộm đỏ vương cung Vân Thường”.

Diệu Thiên im lặng ngồi trong xe ngựa, hồi lâu mới thở dài buồn bã: “Từ lâu đã nghe danh Trấn Bắc vương là bậc anh hùng có kiến thức sâu rộng, Diệu Thiên muốn được thỉnh giáo Trấn Bắc vương vài câu”.

Định phất áo đi, nhưng nghĩ lại, việc này liên quan đến Sính Đình, không thể sơ suất, Sở Bắc Tiệp lại ghìm ngựa: “Công chúa cứ hỏi”.

Diệu Thiên đáp: “Xin hỏi Vương gia, lần này dẫn binh đại chiến, có phải chỉ vì mình Bạch Sính Đình?”.

“Đúng thế.”

“Vậy thì Đông Lâm vương sẽ không đồng ý.”

Sở Bắc Tiệp lạnh lùng: “Đây là chuyện nội bộ của Đông Lâm ta, không liên quan đến Công chúa”.

“Chuyện giữa Vương gia và Bạch cô nương hình như cũng bị cuốn vào hận nước thù nhà. Quốc nặng hay tình sâu? Liệu có phải từ bỏ hạnh phúc cá nhân để phụng sự quốc gia? Đây vẫn luôn là vấn đề vô cùng tàn nhẫn.”

“Công chúa muốn nói những chuyện này với bản vương sao?”

Diệu Thiên thở dài: “Luân lý đạo đức luôn bị đặt chung một chỗ, nhưng thực ra chúng không hoàn toàn tương đồng. Đạo đức xuất phát từ nội tâm, luân lý xuất phát từ đạo đức. Thế là từ đó con người bắt đầu mê muội tin vào giáo điều đạo lý, để rồi không thể tự do nghe theo tiếng lòng mình. Cái gọi là đại nghĩa quốc gia, xả thân vì đất nước, nếu không phải do thực tâm tình nguyện, không xuất phát từ nội tâm mà chỉ là điều bị kìm kẹp trong luân lý thì thật đáng tiếc biết bao. Vương gia bỏ Sính Đình để chọn lấy đại nghĩa quốc gia mà lỡ hẹn mồng Sáu, há chẳng phải cũng vì thế?”.

Sở Bắc Tiệp ban đầu còn thờ ơ, nhưng càng nghe càng xúc động, vẻ mặt vô cùng nghiêm túc: “Công chúa cứ nói”.

“Thực ra quốc gia và cá nhân bên nào nặng bên nào nhẹ, không hoàn toàn nằm ở việc lựa chọn”, ngừng một chút, Diệu Thiên khoan thai nói tiếp, “Vương gia đã bao giờ nghĩ, các bậc tiền nhân thời trước vì muốn sống tốt hơn, muốn được hạnh phúc nên đã quyết định đoàn kết với nhau, cùng chống giặc ngoại xâm, chống ách xâm lược. Từ đó mới có quốc gia. Gốc của quốc gia, trước nay chính là con người. Một quốc gia được bảo toàn bằng cách cướp đi hạnh phúc của người khác, liệu có nên tồn tại? Một nam nhân chỉ biết bảo toàn quốc gia mà không trân trọng hạnh phúc thì có gì đáng phải lưu luyến?”.

Sở Bắc Tiệp thực sự chấn động, nắm chặt dây cương, nghe Diệu Thiên từ tốn: “Như lúc này đây, một tướng quân vì hạnh phúc của mình mà coi nhẹ tính mạng của hàng vạn binh sĩ, nhẫn tâm cướp đoạt hạnh phúc của người khác, sao có thể là bậc anh hùng Bạch Sính Đình thực sự yêu thương? Vương gia ngẫm xem, những tướng sĩ sau lưng Vương gia liệu có thật sự cam tâm tình nguyện vì một nữ nhân mà đánh trận này?”.

Diệu Thiên thở dài, hạ giọng: “Điều Bạch Sính Đình cần là Vương gia hãy mở to mắt, nhìn thật rõ chốn nhân gian điều gì là đáng quý, đáng trọng, nhìn cho rõ dù dân thường cũng cần có tự do và chí hướng, cần được hưởng hạnh phúc thuộc về mình”.

Sở Bắc Tiệp cắn chặt răng, hồi lâu không nói.

Dưới ánh bình minh, nụ cười của Sính Đình dịu dàng như nước, hòa với năm sông bốn biển, biến mất không còn tung tích.

Gốc của quốc gia trước nay chính là con người. Nếu không cam tâm tình nguyện, xuất phát tự đáy lòng, hà tất phải ép bản thân hy sinh điều mình không muốn mất đi, để đổi lấy danh tiếng vì quốc gia?

Quốc gia và cá nhân không cần chọn lựa mà là một thể. Nghe theo tiếng lòng, yêu là yêu, hận là hận mới đúng là bậc anh hùng.

Sở Bắc Tiệp bỗng nhiên ngẩng đầu, mỉm cười với trời, nước mắt lăn trên gò má, hạ giọng: “Đa tạ Công chúa chỉ giáo”.

Một bức thư được chậm rãi đưa qua tấm rèm xe.

“Diệu Thiên hiểu biết nông cạn, sao có được bản lĩnh này. Những điều vừa nói đều là lời trong thư của Bạch cô nương.”

Sở Bắc Tiệp xuống ngựa, giơ hai tay đón bức thư như đón một hài nhi vừa lọt lòng, cảm xúc trào dâng: “Đa tạ Công chúa. Bản vương xin hứa với Công chúa, đại quân Đông Lâm lập tức rút quân”.

Không ngờ Sở Bắc Tiệp lại sảng khoái mà dứt khoát đến thế, Diệu Thiên ngạc nhiên, hỏi lại: “Chẳng lẽ Vương gia không sợ bức thư này là giả, Bạch cô nương vẫn bị giam lỏng?”.

Sở Bắc Tiệp cười đáp: “Nếu không chắc chắn, Sính Đình sao có thể viết bức thư này đưa Công chúa mang đến đây? Nét chữ có thể giả mạo, nhưng ngôn từ ý tứ trong đó liệu giả mạo được chăng?”. Nói xong, Sở Bắc Tiệp thúc ngựa quay về trận địa.

Thần Mâu đợi đến sốt ruột, vội vã tiến đến, hỏi: “Vương gia, rốt cuộc Công chúa Vân Thường đã nói những gì?”.

“Rút quân.”

“Sao?”

Sở Bắc Tiệp cười lên một tràng: “Rút quân! Chúng ta không đánh trận nữa”.

Quần tướng ngạc nhiên, nhưng vô cùng mừng rỡ. Có người hỏi: “Thế Vương phi đâu?”.

“Bản vương sẽ đi tìm”, Sở Bắc Tiệp nhìn về phía chân trời, ánh mắt kiên định, “Dù ở chân trời góc biển, nhất định ta sẽ tìm thấy nàng”.

Trời đã đoái thương ban cho ta Sính Đình. Dù nàng có cánh bay lên trời, Sở Bắc Tiệp cũng nguyện đuổi theo, đến tận cùng thế gian. Từ nay trở đi, yêu thứ ta yêu, hận điều ta hận.

Hiểu rõ bản thân cần có gì, hiểu rõ bản thân cần làm gì.

Hiểu rõ mọi hy sinh đều có giá trị. Những thứ cần quý trọng phải được quý trọng; cần quyết đoán phải quyết đoán.

Hiểu rõ quốc và gia, gia và nhân vốn chỉ là một thể. Người biết cách yêu thương, biết cách trân trọng mới có thể hưng vượng quốc gia, giống như phải có máu chảy trong người, mới có thể cất cao đôi cánh, giương lên chí khí hiên ngang.

Sính Đình, ta đang nghe tiếng lòng mình. Nó nói với ta rằng, đời đời kiếp kiếp không muốn rời xa nàng. Dù đất trời sụp đổ, dù biển cạn đá mòn, tình này vẫn không thay đổi.

“Rút quân!”

“Rút! Rút!”

Đại quân Đông Lâm nhanh chóng lui binh, trận chiến đã được hóa giải ở thời khắc cuối cùng.

Sở Bắc Tiệp nhìn về phía chân trời, vẫn chẳng thấy bóng dáng thân thuộc ấy. Nhưng nhất định chàng sẽ tìm thấy nàng, yêu thương bảo vệ nàng, cùng nàng đánh đàn dưới trăng, ngắm sao trong tuyết.

Chàng sẽ cùng nàng ngắm hài nhi dần trưởng thành, dặn hài nhi luôn ghi nhớ, đạo đức xuất phát từ trái tim, lắng nghe tiếng lòng mới không bị lóa mắt trước thế tục mà lầm đường lạc lối, rơi vào xiềng xích, dạy hài nhi biết, con người có sự tôn nghiêm, có chí hướng và có tự do hạnh phúc của riêng mình.

Điều này không thể dùng quốc gia hay đại nghĩa mà giành lấy.

Gốc của quốc gia trước nay vẫn là con người.
 

Hoa Tử

Sưu tầm
Tham gia
24/9/19
Bài viết
10,570
Điểm cảm xúc
1,484
Điểm
113
Chương 38:
Trời đất luôn biến đổi khó lường.

Nắng đẹp được hai ngày, sớm nay, trời lại bắt đầu sầm sì. Mây đen dày đặc, nặng nề bao phủ cả một dãy núi.

Nhìn sắc trời, Túy Cúc thở dài: “Xem ra sắp có bão rồi”.

Sính Đình vịn vào vách núi, leo lên dốc, vừa thở dài vừa nhìn về phía những bóng người mờ mờ đằng xa: “Tiêu Dương ở ngay phía trước, qua nốt cửa khẩu này vào Bắc Mạc, lúc đó hãy lo đến chuyện giông bão”.

Túy Cúc gật đầu.

Bị bọn quan sai lấy mất tay nải ở nhà đại nương, Sính Đình và Túy Cúc không còn lộ phí, y phục. Trên đường đi, thỉnh thoảng hai người xem bệnh cho người ta kiếm được ít tiền, chặng đường càng thêm vất vả, hai đôi tay nõn nà giờ đã nổi lớp chai sần.

Giờ nhìn thấy Tiêu Dương, cửa khẩu thông sang Bắc Mạc họ cũng thở phào nhẹ nhõm. Sang đến Bắc Mạc, chắc chắn Dương Phượng sẽ thu xếp ổn thỏa cho họ.

Hai người dìu nhau xuống núi, từ thành đô Vân Thường đến đây, họ đã trải qua không biết bao nhiêu gian nguy, nên càng lúc càng cẩn trọng. Họ lặng lẽ giấu kín tung tích trong rừng, rồi ẩn mình bên đường, quan sát động tĩnh ở cửa khẩu Tiêu Dương.

Mấy người dáng như thương nhân dẫn theo đoàn xe chuẩn bị qua cửa khẩu. Trời sắp bão, thương nhân đi đầu lo lắng nhìn sắc trời, rội vội vã lấy trong người ra túi tiền nhét vào tay đội trưởng trạm canh giữ, giọng khẩn cầu: “Quan gia, ngài nhìn sắc trời xem, lại sắp bão tuyết rồi, người còn không chịu nổi thì gia súc sao chịu được? Mong quan gia giơ cao đánh khẽ, giúp cho thương nhân chúng tôi. Tháng nào tôi cũng qua đây ba, bốn lần, sao lại không có giấy xuất quan chứ? Chỉ là cửa khẩu này trước nay không kiểm tra, giờ đột nhiên hỏi tới…”.

“Này, ngươi lại đang trách chúng ta đó hả?”, tên đội trưởng hừ một tiếng, “Trước đây không kiểm tra vì quan trên không bảo chúng ta kiểm tra. Giờ là lúc đánh trận… Đánh trận, ngươi hiểu chưa? Công văn dán ngay ở kia, ngươi biết chữ thì tự ra mà đọc, trên đó viết rất rõ ràng, không có giấy xuất quan, không được ra khỏi cửa khẩu”.

Trong bụi cây ven đường, hai nữ tử đang ngồi nghe trộm vội trao nhau ánh mắt lo lắng.

“Nơi này cũng giống như cửa khẩu Hách Mông, phải xuất trình giấy xuất quan mới được ra khỏi đây.” Vẻ mặt vô cùng lo lắng, Túy Cúc hỏi, “Giờ phải làm thế nào? Mất công chúng ta chịu bao vất vả từ cửa khẩu Hách Mông tới Tiêu Dương”.

Đôi mắt đen của Sính Đình nhìn chằm chằm về phía cánh cổng Tiêu Dương giờ chỉ hé ra một lối đi hẹp: “Xem ra tất cả cửa khẩu từ Vân Thường thông sang Bắc Mạc đều được nghiêm lệnh, buộc phải kiểm chứng người đi qua”.

Đáng lẽ họ phải nghĩ ra, thời kỳ chiến loạn, cửa khẩu tất phải kiểm soát gắt gao.

Với hiện trạng của Vân Thường, đang lúc khai chiến với Đông Lâm, Vân Thường không thể lơ là Bắc Mạc sẽ thừa cơ giậu đổ bìm leo.

“Làm thế nào bây giờ?”

“Không có cách nào khác.” Sính Đình ngẩng lên, nhìn về phía sơn mạch Tùng Sâm cao đến tận mây xanh.

Núi non trùng điệp chia cắt biên giới hai nước Vân Thường và Bắc Mạc. Những vùng núi thấp đều có các cửa khẩu. Mùa đông, vùng núi cao rét buốt, dã thú đói khát, chỉ kẻ điên mới có ý đồ qua biên giới theo đường đó.

“Cô nương?”, Túy Cúc lo lắng nhìn Sính Đình.

Sính Đình mỉm cười, ung dung: “Nếu không thể qua cửa khẩu, chúng ta đành phải đi qua rừng dày núi cao của dãy Tùng Sâm”.

“Mạo hiểm như thế…”, Túy Cúc nói, “Chi bằng chúng ta cứ lưu lại biên cương một thời gian, đợi…”. Ánh mắt dừng nơi bụng Sính Đình, Túy Cúc ngừng lại.

Sính Đình lắc đầu: “Cửa khẩu sẽ ngày càng thắt chặt hơn. Giờ Diệu Thiên công chúa chắc cũng ra đến tiền tuyến rồi, Hà Hiệp sẽ nhanh chóng đoán ra hướng chạy của chúng ta. Ta biết Hà Hiệp lợi hại cỡ nào, đến khi Hà Hiệp từ chiến trường trở về, tập trung ra tay truy đuổi, chúng ta sẽ chẳng còn cơ hội rời khỏi Vân Thường”.

Nhìn sơn mạch Tùng Sâm âm u dưới màn mây đen, Túy Cúc bỗng thấy lạnh sống lưng.

Nhưng, Túy Cúc nhanh chóng trấn tĩnh: “Trước khi lên núi, chúng ta phải hái sẵn thảo dược, mạt thảo dưỡng thai chỉ mọc ở chân núi”.

Khi Sính Đình dự định vượt qua sơn mạch Tùng Sâm, trận quyết chiến giữa Vân Thường và Đông Lâm đã được hóa giải bởi bức thư Diệu Thiên công chúa đưa tới.

Hà Hiệp ngồi trên lưng ngựa, lạnh lùng nhìn đại quân Đông Lâm từ từ rút lui.

Khói lửa dần tan.

Dây đàn đang căng giờ chùng xuống, hiu quạnh và thất vọng.

Trước lúc mười vạn quân hào hùng xuất trận, lá cờ cao quý của Vân Thường bỗng xuất hiện giữa chiến trường, còn Hà Hiệp, tướng lĩnh quân sự cao nhất Vân Thường, lại chẳng hề hay biết.

Trước bao con mắt nhìn vào, Sở Bắc Tiệp và Diệu Thiên ở ngay chính giữa chiến trường rộng lớn, bình thản chuyện trò với nhau.

Thấy Sở Bắc Tiệp thúc ngựa quay lại trận địa, thấy đại quân Đông Lâm rung chuông hồi trận, Hà Hiệp hiểu rõ, tất cả đã xảy ra.

“Đông Lâm rút quân rồi?”

“Đông Lâm rút quân rồi!”

Bên cạnh, sau lưng, những binh sĩ Vân Thường đang chờ đợi trận huyết chiến không dám tin vào kỳ tích xảy ra ngay lúc đại chiến cận kề. Họ xôn xao vì vui mừng.

Phó tướng bên cạnh Hà Hiệp hạ giọng bẩm báo: “Bẩm Phò mã, Đông Lâm rút quân rồi”.

Ánh mắt Hà Hiệp đột nhiên tối sầm.

Khoảnh khắc ấy, hắn chỉ muốn rút kiếm ra khỏi bao, hét lệnh tấn công. Hai bên lực lượng tương đương, trong lúc quân Đông Lâm rút đi, binh sĩ Vân Thường xông tới, chắc chắn hắn có thể giành thế thượng phong.

Chỉ cần tiến về bên ấy, Hà Hiệp chắc chắn có thể chặt đầu Sở Bắc Tiệp.

Bàn tay nắm chặt chuôi kiếm, Hà Hiệp khổ sở đè nén niềm khao khát đang trào dâng trong lòng.

Nhưng, hắn không thể hạ lệnh.

Dù có vung kiếm, lúc này ba quân cũng không nghe theo hiệu lệnh của hắn.

Diệu Thiên công chúa ở kia, lá cờ cao quý nhất Vân Thường đang tung bay ở kia, Hà Hiệp chỉ là một phò mã, một võ tướng.

“Phò mã, Đông Lâm rút quân rồi”, phó tướng hạ giọng bẩm báo thêm lần nữa.

Sắc mặt xám xịt, Hà Hiệp nhếch môi nở nụ cười lạnh lùng: “Ta thấy rồi”.

Hắn mỉm cười, nhìn xe ngựa của Diệu Thiên đang chậm rãi tiến về phía đại quân. Trong chiếc xe ngựa cô độc và hoa lệ ấy là thê tử của Hà Hiệp, chủ nhân của Vân Thường.

Đại quân bỗng trở nên im lặng.

Hóa giải trận huyết chiến này chính là chủ nhân Vân Thường, là Diệu Thiên công chúa mà tướng sĩ một lòng tận trung tận nghĩa.

Xe ngựa lặng lẽ lại gần, dừng trước trận địa, sau lưng là đại quân Đông Lâm vừa rút đi, trước mặt là hàng vạn tướng sĩ Vân Thường và cả Hà Hiệp.

Ngồi ngay ngắn trong xe, phục sức nặng nề tầng tầng bao phủ trên người, Diệu Thiên vẫn cảm nhận được cái ớn lạnh khiến người ta bất an.

Sau khi thuyết phục Sở Bắc Tiệp, Diệu Thiên nhất thiết phải đối diện với vấn đề khó mà nàng không hề muốn đối diện. Ánh mắt Hà Hiệp như đang xuyên qua màn xe. Nàng đã không còn dũng khí để vén rèm trước mặt lên, gặp Hà Hiệp.

Bạch Sính Đình không còn trong phủ phò mã.

Đã không còn.

Ngàn vạn lý do lấy đại cục làm trọng, nhưng Bạch Sính Đình đã không còn ở đó.

Trên đường đến đây, Diệu Thiên đã bao lần suy nghĩ xem nên giải thích với Hà Hiệp thế nào về tất cả những việc này.

Thấu tình đạt lý, mang thân phận tôn quý của chủ nhân Vân Thường ra khuyên bảo, hay lấy thân phận của một nữ nhân mà thẳng thắn với Hà Hiệp, hoặc mang theo nỗi đau bất đắc dĩ…

Vô ích, chuyện đã ở ngay trước mắt, những lý do cũng chẳng có đất dụng võ.

Xe ngựa từ từ dừng trước trận địa, trong đầu Diệu Thiên chỉ hiện lên hình bóng Hà Hiệp ngồi trên lưng ngựa.

Đúng vào lúc ấy, nàng nghe thấy tiếng rút kiếm ra khỏi bao.

Dứt khoát, vui tai, quyết đoán, chẳng chút do dự.

Không ai có thể rút kiếm như thế, trừ nam nhân nàng yêu sâu sắc.

Phò mã, Phò mã, chàng hận Diệu Thiên sao?

Chàng muốn giết Diệu Thiên?

Diệu Thiên nhắm mắt.

Hà Hiệp nhìn chằm chằm tấm rèm xe, rút thanh bảo kiếm.

Bảo kiếm không ngừng rung. Mũi kiếm chỉ thẳng lên trời, Hà Hiệp dùng hết sức, gào lớn: “Công chúa vạn tuế!”.

“Công chúa vạn tuế!”

“Công chúa vạn tuế!”

“Vạn tuế! Vạn tuế! Công chúa vạn tuế!”

Tiếng mọi người đồng thanh, vang như sấm.

“Vạn tuế!”

“Công chúa vạn tuế!”

Tiếng hô vang vọng khắp bình nguyên.

Tấm rèm tựa lá chắn bỗng bị kéo ra, khuôn mặt Hà Hiệp xuất hiện trước mặt Diệu Thiên.

“Công chúa.”

“Phò mã…”, Diệu Thiên khẽ đáp.

“Đa tạ Công chúa.”

Diệu Thiên sững sờ nhìn khuôn mặt tuấn tú mà dù dùng cả đời này để ngắm nàng cũng không biết chán, khẽ hỏi: “Phò mã đa tạ thiếp điều gì? Phò mã biết không, thiếp đã thả Bạch Sính Đình mà chàng phải tốn bao tâm sức đưa về, mới có thể khiến Đông Lâm rút quân”.

Biểu cảm trên mặt Hà Hiệp vẫn hoàn toàn bình thường. Hắn chăm chú nhìn Diệu Thiên, giọng thản nhiên: “Trải qua việc này, ta mới biết tấm chân tình Công chúa dành cho mình”.

“Phò mã!” Nước mắt Diệu Thiên trào ra, mặc kệ bao con mắt đang nhìn, nhào vào lòng Hà Hiệp. Hà Hiệp ôm chặt lấy nàng, Diệu Thiên vẫn khóc nức nở, “Diệu Thiên thả Bạch Sính Đình, đã phụ lòng Phò mã”.

“Công chúa sai rồi.” Hà Hiệp dịu dàng vỗ về thê tử trong lòng: “Chỉ nữ nhân hiểu được tình yêu thực sự mới có lòng ghen. Công chúa chịu cho Bạch Sính Đình một con đường sống, Hà Hiệp… cảm tạ vô cùng”.

Diệu Thiên vẫn không thôi nức nở trong lòng phu quân. Bờ vai rộng này đem đến cho nàng một sức mạnh vô biên.

Hà Hiệp khẽ khàng nói những lời ấm áp, nhưng ánh mắt lại phản chiếu cờ xí của đại quân Đông Lâm đang dần xa.

Sính Đình được thả sẽ không ở lại Vân Thường, không quay về Đông Lâm.

Nơi duy nhất nàng tới chỉ có thể là Bắc Mạc.

Sơn mạch Tùng Sâm sắp có bão tuyết.

Bước thấp bước cao giẫm trên nền tuyết, Sính Đình và Túy Cúc vừa thở vừa nhấc chân leo lên núi cao.

“Sắp có bão tuyết rồi.”

“Trước khi bão tuyết, liệu chúng ta có tới được mỏm đá không?”

Sính Đình trầm ngâm: “E là không kịp”.

Lòng Túy Cúc bỗng chùng xuống, mười đầu ngón tay túm chặt tay nải nhẹ bẫng, lo lắng: “Làm thế nào bây giờ? Khắp rừng toàn cây cối trơ trọi, gió tuyết đến không có nơi để trú, chúng ta sẽ bị đóng băng ở nơi này thôi”.

Mấy ngày khám bệnh kiếm tiền, ngoài việc mua bộ kim bạc rẻ dùng để chữa bệnh và đồ ăn, chỗ tiền còn lại dùng hết vào việc mua y phục giữ ấm. Nhưng dù đã mặc những y phục dày nhất lên người, Sính Đình và Túy Cúc vẫn chẳng chịu nổi trận gió tuyết khi ở ngoài trời thế này.

Sính Đình ngẩng lên, nhìn đám mây đen dày đặc như sắp rót mực xuống mặt đất. Gió tuyết vẫn đang giấu mình trong mây, chưa thèm xuất hiện. Trời không chút gió.

“Túy Cúc, châm lửa.”

“Ôi, lúc này châm lửa làm gì? Bão tuyết đến, lửa cũng vô dụng thôi.”

Sính Đình ung dung đáp: “Châm lửa đun nước”. Khuôn mặt thanh tú của nàng thoáng nụ cười khoan thai.

Túy Cúc đang định nói gì, thấy nụ cười của Sính Đình lại thôi, nói: “Được rồi, châm lửa đun nước”.

Những cành khô trong rừng bén lửa rất nhanh, trên mặt tuyết không có gió, củi cháy lách tách.

“Đào cái hố dưới nền tuyết.”

Tuyết rất xốp, hai người quỳ xuống, đào bằng tay. Chẳng mấy chốc, tay họ đã chạm được lớp bùn dưới tuyết. Bùn được bao phủ bởi lớp tuyết, hấp thu độ ẩm từ lòng đất nên chắc và khó đào hơn nhiều.

Túy Cúc chau mày: “Thế này chưa đủ sâu, phải đào tiếp”.

“Không cần”, Sính Đình nói, “Lấy cành cây xếp thành cái lều nhỏ”.

Thời gian không còn nhiều, mây đen lan rộng trên đỉnh đầu như đang tìm chỗ trút cơn giận dữ.

Hai người dùng những cành cây khô gác trên miệng hố thành một cái lều nhỏ. Sính Đình tìm thêm rất nhiều lá khô, phủ lên trên lều.

Túy Cúc luống cuống giúp sức, lo lắng hỏi: “Cái này có tác dụng gì, gió thổi là đổ ngay”.

Rải đủ lá khô, Sính Đình mở tay nải, lấy ra hai bộ y phục còn lại của hai người, phủ trên lều.

“Cô nương đang làm gì vậy?”

“Mang nước sang đây, đổ lên trên.”

“Nước vẫn chưa sôi mà”, Túy Cúc ngạc nhiên.

Sính Đình vừa bực vừa buồn cười: “Băng tan ra thành nước là được rồi, cần nước sôi làm gì?”.

Túy Cúc nhìn ngôi lều, lại nhìn nồi băng đã tan thành nước, cuối cùng cũng vỡ lẽ: “À! À!”, đôi mắt to sáng bừng, “Được rồi, Túy Cúc sẽ bê qua ngay”.

Đổ nước lên trên, lớp lá khô ở giữa cành cây và y phục thấm nước, một lớp băng mỏng từ từ xuất hiện nơi đó.

“Thật hiệu nghiệm!”, Túy Cúc hào hứng hẳn lên.

“Đừng vội cười, nước không đủ đâu, nhanh nhanh lên, lấy nhiều thêm một chút.”

“Được rồi, Túy Cúc đi ngay.”

Cứ như vậy, băng tuyết gặp lửa tan thành nước.

Đổ hết mấy nồi nước lên nóc lều, tầng băng càng lúc càng dày.

Lớp y phục nằm gọn dưới tầng băng óng ánh trong veo. Ngôi lều với mái tròn trông giống như gian nhà băng tí hon.

Túy Cúc bên nồi nước, đổ thêm lượt nữa lên nóc: “Đủ chưa?”. Nước đổ lên, trôi xuống bốn phía, chưa kịp rơi xuống mặt tuyết đã kết thành một tầng băng.

“Trận bão tuyết này không nhỏ đâu.” Sính Đình nhìn mây đen lan rộng trên đầu, “Đổ thêm ít nữa mới được”.

Đùng…

Tiếng sấm bực bội thoát khỏi tầng mây đen, như trải qua chặng đường dài mới đến được chốn nhân gian.

Trên mặt tuyết trầm lặng thoáng làn gió lạnh.

Sắc mặt Sính Đình chợt đổi: “Không kịp đổ nước nữa rồi, mau trốn vào trong”.

Sính Đình vội vã kéo Túy Cúc chui vào cái cửa bé tí họ để lại từ trước. Không gian bên trong vô cùng chật chội, hai người chỉ còn cách ôm chặt lấy nhau.

“Trong này ấm quá.” Ngôi lều tuy chật, nhưng Túy Cúc vẫn thở phào thoải mái.

“Lớp bùn dưới tuyết hút hơi ẩm từ đất, chúng ta đào tuyết lên, dựng lều trên đó nên ấm hơn ngoài kia.”

Cuồng phong đã nổi.

Nửa phần lều chìm dưới lớp tuyết, nóc kết bằng băng chắc chắn, giúp hai người chống lại trận bão tuyết.

Sính Đình và túy Cúc lo lắng nghe tiếng động đáng sợ vọng vào lều.

Khác hẳn bên ngoài, trong này yên tĩnh lạ thường.

“Chúng ta qua được sơn mạch Tùng Sâm chứ?”

Sính Đình im lặng, một lúc sau mới nói: “Chắc chắn rồi”.

“Cô nương?”

“Hả?”

“Cô nương đang suy nghĩ à?”

“Ừ.”

“Nghĩ gì thế?”

Sính Đình khẽ cựa mình, chậm rãi đáp: “Túy Cúc, dù ngoài kia bão tuyết bao lâu, trong này ấm áp thế nào, chúng ta tuyệt đối không được ngủ. Nếu tuyết rơi phủ kín cửa vào, chúng ta lại ngủ say, rất dễ chết ngạt”.

Đang thấy ấm áp đến buồn ngủ, nghe thế bỗng giật mình, cơn buồn ngủ tiêu tan, Túy Cúc trả lời: “Túy Cúc biết rồi”, nhưng lại thở dài.

Trong lều vô cùng yên tĩnh, ngồi sát Túy Cúc, Sính Đình nghe rõ tiếng thở dài ấy.

“Sao lại thở dài?”, Sính Đình hỏi.

“Không có gì.”

Im lặng hồi lâu, Sính Đình khẽ hỏi: “Có phải ngươi đang nghĩ, nếu chết ngạt ở đây, sau này sẽ chẳng ai biết được tung tích chúng ta?”.

Túy Cúc lại thở dài: “Bạch cô nương, sao cô nương thông minh đến vậy?”.

Khóe miệng Sính Đình khẽ nhếch, nở nụ cười cay đắng.

Trong lều lại trở nên yên lặng.

Chẳng biết bao lâu, Túy Cúc không chịu được bèn hỏi: “Nếu chúng ta bỏ mạng ở sơn mạch Tùng Sâm này thật…”.

“Không đâu”, Sính Đình ngắt lời Túy Cúc, dịu giọng, “Không đâu, Túy Cúc”.

Sống mũi cay cay, Túy Cúc không hiểu tại sao mắt mình tự nhiên đỏ hoe. Túy Cúc đưa tay tìm kiếm, chạm phải ngón tay Sính Đình, rồi nắm chặt cổ tay nhỏ nhắn của nàng.

Hai bàn tay đã xước xát chai sần nhưng rất nhanh nhẹn linh hoạt nắm chặt lấy nhau trong bóng tối.

Trời đất yên tĩnh càng trở nên tĩnh lặng đến lạ lùng. Sính Đình như cảm nhận, ngón tay Túy Cúc đang dán chặt vào cổ tay mình.

Hồi lâu sau, Túy Cúc tiếp tục thở, tiếng thở có phần gấp gáp.

“Bạch cô nương, mạch của cô nương… rất loạn”, giọng Túy Cúc có chút hoảng hốt, “Túy Cúc phải châm cứu ngay bây giờ”.

“Không cần gấp, Túy Cúc”, Sính Đình lạnh nhạt.

“Không được, phải châm cứu ngay lập tức.” Theo thói quen, Túy Cúc đưa tay ra sau tìm tay nải, khuỷu tay chạm phải bức tường lều kiên cố, đau rát.

“Tay nải đâu rồi?”, Túy Cúc bỗng sững người.

“Chúng ta vào vội quá.” Trong bóng tối, giọng Sính Đình nhẹ nhàng, trấn tĩnh, “Túy Cúc, tay nải ở bên ngoài. Còn nhớ không? Chính là lúc ta mở tay nải lấy y phục”.

Cuồng phong dữ tợn mang theo băng tuyết đập vào đỉnh lều, phát ra những âm thanh tàn phá.

Sự yên ắng đến chết chóc trong lều, và cuồng phong gào thét ngoài kia là hai thế giới hoàn toàn khác nhau.

Đôi mắt đen của Túy Cúc lấp lánh trong đêm, không chừng chừ, nghiến răng nói: “Túy Cúc ra ngoài lấy, chắc ở ngay đây thôi. Chỉ cần thò đầu ra, giơ tay là có thể tìm thấy”.

“Không”, Sính Đình nhẹ nhàng nhả ra một tiếng.

Túy Cúc bỗng phát hiện, vị trí của Sính Đình chặn ngay chỗ lối ra.

“Bạch cô nương, Túy Cúc biết tâm ý của cô nương, nhưng Túy Cúc muốn tìm kim bạc”, Túy Cúc hạ giọng, “Túy Cúc là đại phu”.

Trong đêm, hình dáng Sính Đình mờ ảo đến nỗi không nhìn rõ những đường nét. Bóng tối và Sính Đình dường như đã hòa vào làm một, con người gầy yếu nhường ấy lại vững chãi như Thái Sơn, không gì lay chuyển được.

“Túy Cúc, ngươi có biết kim bạc ở đâu không? Bão tuyết nổi lên, chẳng biết chúng bị cuốn đến nơi nào rồi?”

“Chưa biết chừng lại mắc ngay trên mấy cành cây gần đây, Túy Cúc vẫn cứ tìm thì hơn.” Túy Cúc tiến về phía trước, đụng phải cánh tay Sính Đình. Bàn tay Túy Cúc chậm rãi tìm đến bàn tay Sính Đình, nắm thật chặt, “Bạch cô nương, Túy Cúc nói rồi, nhất định Túy Cúc sẽ bảo vệ cô nương và hài nhi”.

Khuôn hình Sính Đình sừng sững bất động, tựa như bức tượng điêu khắc có từ ngàn năm. Bàn tay nàng cũng nắm chặt bàn tay Túy Cúc.

“Ta cũng nói rồi, chúng ta không chết đâu, sẽ không chết, Túy Cúc.”

Hai bàn tay lạnh cóng, nhỏ nhắn, yếu mềm nắm chặt vào nhau, chút ấm áp từ đôi tay siết chặt dần dâng lên.

Lều ẩn thân của họ quá nhỏ, thậm chí còn không có chút không gian nào cho Sính Đình cử động.

“Nhưng, hài nhi…”, giọng Túy Cúc lẫn tiếng sụt sùi vang lên trong đêm tối. Túy Cúc buông bàn tay đang nắm chặt, rồi di chuyển về phía cổ tay Sính Đình, thăm mạch cho nàng.

Mạch tượng hỗn loạn khiến đầu ngón tay Túy Cúc run rẩy.

Giọt nước mắt ấm nóng rơi trên vạt áo.

Màn đêm tĩnh mịch, tiếng lệ rơi rõ ràng.

Kim bạc, sao lại quên cây kim bạc quan trọng nhất?

Cả chặng đường Túy Cúc liên tục dùng thảo dược và châm cứu để củng cố thể chất, ổn định mạch tượng cho Sính Đình, sao lúc bão tuyết đổ xuống lại quên sạch như thế?

Gió bão gầm thét bên ngoài sẽ cuốn tay nải có chứa kim bạc đến tận đâu?

Có lẽ, cả đời Túy Cúc cũng không quên trận bão tuyết tàn nhẫn này.

“Đừng lo, hài nhi sẽ không sao đâu.”

Túy Cúc có nghe nhầm không?

Giọng Sính Đình chất chứa sự dịu dàng và ung dung.

Vốn cảm nhận được mạch tượng hỗn loạn và lời lẽ bình tĩnh của Sính Đình, đối với Túy Cúc, từng tiếng một như những mũi kim đâm thẳng vào tim.

Trong bóng tối, Túy Cúc nghe giọng nói xen lẫn ý cười, dịu dàng như một giấc mộng: “Hài tử trong bụng ta đang ngủ ngoan. Ta là mẫu thân nó, ta sẽ bảo vệ nó. Gió bão lớn thế kia, nhưng hài nhi ở trong nay sẽ rất ấm áp và an toàn”.

Nghe vậy, Túy Cúc như có thể tưởng tượng ra nụ cười nơi khóe môi Sính Đình trong lúc này.

Dịu dàng lay động lòng người, như làn gió xuân mang mưa tới.

Đúng là Sính Đình đang mỉm cười.

Cẩn thận đến mấy cũng có lúc sai sót, sai sót ấy lại thường xảy ra vào những thời khắc quan trọng nhất.

Khi giông bão ập đến, họ vội vã chui vào lều, Sính Đình đã nghĩ đến tay nải và kim bạc. Nhưng cùng lúc ấy, nàng biết đã chẳng thể cứu vãn nữa. Cơn bão tuyết ở nơi trời băng đất tuyết này không những có thể thổi bay tay nải, mà còn thổi bay được cả con người.

Sính Đình biết mạch tượng của nàng đã loạn.

Đầu óc rối bời, mắt đã mờ mịt, không rõ vì trời tối hay điều gì khác, sức lực của Sính Đình dường như đã bị rút cạn.

Cũng chính bởi vậy, nàng càng phải mỉm cười.

“Đừng lo cho mẫu tử ta, Túy Cúc. Chúng ta sẽ qua được trận bão tuyết này.”

Hài tử tuy nhỏ, nhưng không hề yếu ớt như ngươi tưởng.

Con được thai nghén vào một đêm đông.

Trong bụng mẫu thân, hài nhi đã cảm nhận được những ngày êm đềm ở biệt viện ẩn cư, được nghe tiếng đàn lừng danh tứ quốc, thưởng thức ánh trăng đến đau lòng.

Hài tử đã phải trải qua bầu trời đêm lửa cháy ngút trời, máu nhuộm đỏ nền tuyết, và cả nỗi tuyệt vọng trải dài khi mẫu thân bước lên xe rời đi.

Hài nhi còn kiên cường, dũng cảm hơn chúng ta.

Phụ thân của con là danh tướng đương thời, Trấn Bắc vương bất bại.

Dòng máu chảy trong người con là huyết mạch của Sở Bắc Tiệp.

Dòng máu mạnh mẽ nhất thế gian.
 

Hoa Tử

Sưu tầm
Tham gia
24/9/19
Bài viết
10,570
Điểm cảm xúc
1,484
Điểm
113
Chương 39:
Sáng sớm, muôn vàn vạt nắng màu cam xuyên qua tầng mây, tỏa ánh sáng mơ màng.

Tiếng vó ngựa bất ngờ xé tan không gian tĩnh lặng, dồn dập vang lên trên con đường lớn phủ tuyết trắng xóa.

Cộp cộp cộp…

Một kỵ sĩ từ xa lại gần, trên lưng ngựa cắm cờ biểu trưng cho việc quân khẩn cấp, đảm bảo cả chặng đường không gặp lại trở ngại.

“Mở cổng! Mau mở cổng thành! Đông Lâm rút quân rồi! Đông Lâm rút quân rồi!”

Sứ giả truyền tin ngẩng đầu hét lên với cánh cổng thành vẫn đang đóng chặt. Dù sức cùng lực kiệt nhưng hắn vẫn không ngăn nổi niềm hân hoan.

Thị vệ trên thành nghi ngờ lắng tai nghe, ngó đầu nhòm xuống hỏi: “Huynh đệ vừa nói gì?”.

“Mau mở cổng thành, ta còn về bẩm báo với Thừa tướng. Đông Lâm rút quân rồi!”

“Đông Lâm rút quân rồi! Đông Lâm rút quân rồi! Đại chiến đã kết thúc!”

Cánh cổng thành dày và nặng từ từ mở ra cùng những tiếng kêu cót két, tin Đông Lâm rút quân như mọc thêm cánh, bay lên bầu trời Vân Thường, lướt qua từng trái tim đang phấp phỏng không yên, nhanh chóng truyền đến thành đô Vân Thường.

“Thừa tướng, Thừa tướng! Đông Lâm rút quân rồi!”

Tuy đã chuẩn bị tâm lý từ trước, nhưng lão thần Quý Thường Thanh cũng phải ngồi bật dậy khỏi giường: “Rút thật rồi sao?”.

“Rút rồi, Công chúa điện hạ đích thân ra chiến trường đàm phán với Sở Bắc Tiệp, sau đó đại quân Đông Lâm rút luôn.” Người truyền tin quỳ xuống, bẩm báo rõ ràng dứt khoát, “Quân ta đã cử rất nhiều mật thám theo dõi chặt chẽ động tĩnh của đại quân Đông Lâm. Quân địch không hề có hành động gì khác thường, rút thật rồi”.

Quý Thường Thanh vừa vội vàng sai người hầu hạ thay áo, vừa hỏi: “Công chúa và Phò mã thế nào?”.

“Công chúa và Phò mã đang trên đường dẫn quân về thành đô.”

“Phải đón tiếp long trọng.” Quý Thường Thanh hớn hở quay lại, chỉ một cận vệ, “Đi, mời các quan tư lễ[1] đến đây ngay lập tức. Tất cả các quan phụ trách mua bán, lễ nghi, nhạc trống đều gọi hết đến đây cho ta. Khoan đã…”. Thừa tướng suy nghĩ giây lát, lại dặn dò, “Trận chiến Đông Lâm – Vân Thường lần này vẫn có những con dân Vân Thường tử trận, đi mời Việt Lão phụ trách quân vụ đến đây, chúng ta bàn chuyện an ủi gia đình họ”.

[1] Quan tư lễ là quan coi sóc việc lễ nghi.

Thị vệ gật đầu liên tiếp, ghi nhớ rõ ràng, quay người định đi.

Đùng đùng đùng! Mấy tiếng nổ lớn đột nhiên vang lên, mạnh đến nỗi bụi trên trần nhà rơi xuống lả tả. Tất cả mọi người trong phòng sợ hãi, sắc mặt Quý Thường Thanh đổi hẳn: “Thành đô xảy ra chuyện gì? Mau đi điều tra!”.

Chẳng mấy chốc, thị vệ được cử đi xem xét tình hình chạy về bẩm báo: “Bẩm Thừa tướng, tin Đông Lâm rút quân đã truyền đến thành đô, khiến mọi người choàng tỉnh, ca hát uống rượu khắp trên phố. Nơi nơi đốt pháo, tiệm pháo lớn nhất thành đã đem bảo bối trấn tiệm ra đốt, mấy tiếng động khủng khiếp vừa rồi chính là do họ gây ra. Thừa tướng, có cần bắt họ lại không?”.

Quý Thường Thanh nghe ra, lắc đầu cười nói: “Bắt làm gì? Nhà ai mà không có người tòng quân? Đại chiến kết thúc, dân chúng vui mừng, chúng ta cũng không còn lo lắng”. Thừa tướng hạ lệnh, “Người đâu, lấy một ngàn lạng bạc trong phủ của ta đi mua rượu, đặt ở quảng trường trước vương cung để dân chúng uống cho thỏa thích”.

Thị vệ đáp: “Thừa tướng, rượu đầy trong kho của vương cung, cần gì phải mang bạc đi mua rượu của dân”.

“Chỗ rượu đó phải đợi Công chúa và Phò mã hồi cung mới được mang ra dùng. Bao nhiêu tướng sĩ như vậy, một việc trọng đại thế này, ta còn lo số rượu trữ trong cung chẳng đủ dùng.” Nghĩ đến cuộc đại chiến sẽ khiến quốc lực kiệt quệ đã được hóa giải, trong lòng Quý Thường Thanh vô cùng sảng khoái.

Vân Thường luôn đi theo quốc sách dưỡng sức tránh chiến tranh, công của Quý Thường Thanh thực sự không hề nhỏ.

Chẳng bao lâu sau, thị vệ đi lo việc lúc trước đã quay lại, bẩm báo: “Bẩm, các quan đã có mặt đông đủ, đang đợi Thừa tướng ở đại sảnh”.

“Được.” Quý Thường Thanh sửa lại quan phục, bước ra khỏi cửa phòng.

Ông ta đi dọc con đường nhỏ trong phủ thừa tướng, vòng qua hậu viên, tiến thẳng đến tiền sảnh. Trong lòng rộn rã, bước chân nặng nề cũng trở nên nhẹ nhàng hơn. Đến bên hồ nước đang kết băng, Thừa tướng lại nghe thấy điệu dài giọng quen thuộc của người truyền tin: “Báo! Việc quân cấp báo! Báo!”. Giọng nói từ xa vọng lại, một người chạy như bay về phía Thừa tướng.

Quý Thường Thanh chợt giật mình.

Đông Lâm đã rút quân, tiền tuyến còn việc gì cấp báo?

Không lẽ lại có biến?

“Các ngươi lui ra.” Quý Thường Thanh xua tay cho đám người hầu lui ra.

Quay đầu lại, sứ giả truyền tin đã đến trước mặt ông ta.

“Báo! Việc quân cấp báo!”

Quý Thường Thanh dừng bước trên bậc thang của cây cầu nhỏ, hạ giọng: “Có phải đã phát hiện ra đại quân Đông Lâm vờ rút không?”.

Sứ giả truyền tin từ trên lưng ngựa xuống, thở hổn hển, lắc đầu đáp: “Bẩm, không phải, bỉ chức không đến từ tiền tuyến”.

“Hử?” Trong lòng Thừa tướng đỡ lo hơn, “Có việc quân gì?”.

“Bẩm Thừa tướng, những cửa khẩu tiếp giáp với Bắc Mạc gần đây liên tục bị khiêu chiến.”

Quý Thường Thanh ngạc nhiên: “Có chuyện này sao? Khiên chiến ở những cửa khẩu nào? Đối phương có bao nhiêu người? Có phải quân Bắc Mạc không?”.

“Các cửa khẩu Thống Lâm, Hách Mông, Tiêu Dương, Doãn Liêu đều bị khiêu chiến. Đối phương không phải quân Bắc Mạc. Người đó từ trong Vân Thường ta tới.”

Quý Thường Thanh kinh ngạc: “Người đó?”.

“Vâng.” Vẻ mặt sứ giả truyền tin vẫn không khỏi kinh ngạc, “Đơn thương độc mã, liên tiếp khiêu chiến bốn cửa khẩu của Vân Thường. Kẻ khiêu chiến xuất hiện bất ngờ, kiếm pháp sắc bén. Vì đại chiến với Đông Lâm, phần lớn tướng sĩ tinh nhuệ ở các cửa khẩu đã theo Phò mã rút hết ra tiền tuyến, các thị vệ còn lại về cơ bản không dám giao chiến với người này”.

Quý Thường Thanh suy nghĩ giây lát, lại hỏi: “Xương tướng quân trấn giữ một phương, chẳng lẽ lại không nghe, không biết việc này?”.

“Thuộc hạ tâm phúc của Xương tướng quân cũng theo Phò mã ra trận. Vừa nghe đến việc này, Xương tướng quân đã lập tức cử người còn lại đi vây quét. Nhưng kẻ này vô cùng lợi hại, đi không thấy hình, đến chẳng thấy bóng, còn tinh thông việc truy kích ngược, chỉ chọn các cửa khẩu ít người, ung dung tự tại. Đến khi đại quân dàn trận thì đã biến mất tăm. Xương tướng quân cũng chẳng biết làm sao, đành lệnh cho các cửa khẩu tạm thời đóng chặt, không cho kẻ đó đi qua.”

“Đã khiêu chiến đến bốn cửa khẩu, xem ra người này không phải muốn đi qua Bắc Mạc.”

“Không phải, mỗi lần đến, người đó đều bắt đội trưởng canh giữ ở đó, để truy hỏi tung tích một nữ tử. Hắn giơ bức tranh gấm vẽ hình một nữ tử, rồi hỏi người nơi cửa khẩu đã gặp nữ tử này chưa, có biết hướng đi của nàng ta hay không? Kẻ ấy dũng mãnh phi thường, người thường đứng trước mặt hắn, chỉ cần bị hắn nhìn qua cũng đủ kinh hồn bạt vía.”

Nghe tới đây, Quý Thường Thanh đã đoán được vài phần, cười nói: “Các ngươi biết người này là ai không?”.

Sứ giả truyền tin ngạc nhiên: “Mỗi lần xuất hiện, người này đều đội mũ rộng vành, mang khăn che mặt, người ngoài nhìn vào chỉ thấy một đôi mắt. Không lẽ Thừa tướng đã biết là ai?”.

Khóe miệng Quý Thường Thanh nhếch lên một nụ cười. Ông ta chắp tay sau lưng, ngẩng lên nhìn bầu trời dần sáng, thở dài cảm kích: “Còn có thể là ai ngoài Sở Bắc Tiệp?”.

Tin Đông Lâm rút quân vừa về thành đô, Sở Bắc Tiệp đã tìm tới bốn cửa khẩu, thần tốc đến mức khiến người ta kinh sợ. Chắc chắn sau khi hạ lệnh rút quân, Sở Bắc Tiệp đã một mình khởi hành tới đó.

Có thể thấy, Sở Bắc Tiệp lo lắng đến chừng nào.

“Đông Lâm Trấn Bắc vương?” Sứ giả truyền tin vô cùng ngạc nhiên, mở to đôi mắt, hồi lâu mới sực tỉnh, gật đầu, “Chẳng trách người đó lợi hại như thế. Ngay đêm nay, bỉ chức sẽ rời khỏi thành đô, về báo tin này với Xương tướng quân”.

Việc quân vô cùng quan trọng với mỗi quốc gia, có thể đảm nhận việc truyền tin đều là những người trung thành và nhạy bén, lanh lợi hơn binh sĩ thông thường khác. Có chút chần chừ, sứ giả truyền tin lại nói: “Bỉ chức bạo gan xin dâng lời này, Đông Lâm Trấn Bắc vương xâm phạm Vân Thường ta, kẻ địch lớn của Vân Thường. Nay Trấn Bắc vương đơn thương độc mã xuất hiện ở biên giới Vân Thường, đây chính là cơ hội tuyệt diệu để trừ bỏ người này”.

Sao Quý Thường Thanh lại không nghĩ đến việc này? Đông Lâm Trấn Bắc vương là mối đại họa của giới quyền quý ba nước còn lại, ai không muốn diệt trừ?

Sở Bắc Tiệp đơn thương độc mã xuất hiện ở biên giới Vân Thường, chẳng khác nào món điểm tâm đẹp đẽ nóng hổi bày ra trước mắt những người đang đói cồn cào. Lão tướng Quý Thường Thanh phải khổ sở đè nén mới bỏ được ý nghĩ ngay lập tức điều quân bao vây Sở Bắc Tiệp.

Vả lại, Sở Bắc Tiệp có thể dễ dàng để người ta vây bắt thế sao?

Băng tuyết phủ khắp sơn mạch Tùng Sâm, huy động đại quân đi vây bắt một mãnh tướng tinh thông ẩn giấu tung tích là một việc gian nan không thể tưởng tượng.

Một người như Sở Bắc Tiệp, nếu không thể một lần vây bắt thì thật khó có được cơ hội thứ hai.

Huống hồ…

“Dù có thể điều động đại quân, giết được Sở Bắc Tiệp thì sẽ thế nào?”, Quý Thường Thanh lắc đầu ảo não, không thể không từ bỏ ý niệm vô cùng mê hoặc này, “Chẳng may tin này lọt ra ngoài, đại quân Đông Lâm đang rút về sẽ quay lại tàn sát, và họ sẽ quyết tâm chiến đấu đến một binh một tốt cuối cùng”.

Cục diện yên bình mà khó khăn lắm họ mới giành được sẽ bị hủy diệt trong phút chốc.

Đây là kết cục Quý Thường Thanh không bao giờ muốn nhìn thấy.

Đã nghe đến uy danh của Sở Bắc Tiệp từ lâu, biết Quý Thường Thanh nói hoàn toàn có lý, sứ giả truyền tin không dám nhiều lời, quỳ xuống: “Đêm nay, bỉ chức sẽ rời thành đô, xin hỏi Thừa tướng có điều gì chỉ dạy?”.

“Chuyển lời đến Xương tướng quân. Có hai việc, thứ nhất, không được cử quân vây giết Sở Bắc Tiệp, tướng này dũng mãnh gan dạ, không giết được đâu, mà sẽ làm tổn thương đến quân sĩ Vân Thường ta. Hơn nữa, chiến sự vừa kết thúc, không nên chọc giận chủ soái đối phương. Còn về cửa khẩu, Sở Bắc Tiệp chỉ đến tìm người, chẳng làm bị thương đến ai, không cần thiết phải chống cự. Thứ hai…”, Quý Thường Thanh ngừng lời, ánh mắt sáng lấp lánh, trầm giọng: “Thông báo cho tất cả các cửa khẩu, dù phải dùng đến cách gì, quyết không để Sở Bắc Tiệp gặp được nữ nhân ấy”.

“Rõ.”

“Nhớ thật kỹ điều thứ hai ta vừa nói.”

“Rõ, bỉ chức ghi nhớ.”

Quý Thường Thanh không vội cho sứ giả lui mà thong thả nhìn xung quanh. Mặt hồ rộng lớn, sau lưng là cây cầu nhỏ phủ trắng những tuyết, không ai có thể lại gần họ mà không bị phát hiện. Quý Thường Thanh hỏi: “Ngươi có quen thuộc sơn mạch Tùng Sâm?”.

“Bỉ chức đóng quân tại sơn mạch Tùng Sâm, vô cùng quen thuộc địa hình nơi đây.”

“Ngươi tên gì, có chức vụ gì trong quân?”

“Bẩm Thừa tướng, bỉ chức Phiên Lộc, là đội phó trong quân.”

“Giờ ta phong ngươi thành Kiêu tướng hiệu úy.”

“Dạ?” Phiên Lộc ngạc nhiên ngẩng đầu, nhìn biểu cảm hoàn toàn nghiêm túc trên khuôn mặt Quý Thường Thanh mới biết Thừa tướng không hề nói đùa. Hai mắt hắn sáng hẳn lên, lời đáp sang sảng, “Tạ ơn Thừa tướng! Bỉ chức nhất định dốc hết sức lực để đền đáp công ơn của Thừa tướng”.

Quý Thường Thanh bước xuống, cúi người, hạ giọng: “Còn có điều thứ ba, điều nay cho mình ngươi nghe. Ra khỏi miệng ta, vào ngay tai ngươi”.

“Rõ.” Phiên Lộc nghiêm nghị đáp, dỏng tai chờ Quý Thường Thanh nói tiếp.

“Nữ nhân đó có thể đang ở quanh sơn mạch Tùng Sâm, quyết không được để nữ tử ấy và Sở Bắc Tiệp gặp nhau. Ngươi phải tìm thấy nữ tử đó trước Sở Bắc Tiệp.”

“Giết nàng ta?”

“Không”, Quý Thường Thanh khẽ đáp, “Đừng để trên người nữ tử ấy có dấu hiệu bị giết hại”.

Ánh mắt Phiên Lộc thoáng tia hung ác của một quân binh: “Nơi đó dã thú xuất hiện quanh năm, bỉ chức biết phải làm thế nào rồi”.

“Đã thấy tranh vẽ nàng ta chưa?”

“Chưa, chỉ những binh sĩ bị Sở Bắc Tiệp tra hỏi mới thấy. Nhưng cũng chẳng mấy nữ nhân qua lại sơn mạch Tùng Sâm vào lúc này.”

“Nhớ kỹ, người này luôn mang bên mình chiếc trâm nạm những viên dạ minh châu, đó là thứ trang sức duy nhất luôn ở bên cạnh nàng ta từ khi từ Đông Lâm sang Vân Thường.”

Túy Cúc quên mất mình đã chờ bao lâu trong đêm tối, từng phút từng giây trôi qua đều thấp thỏm, giày vò khiến người ta thấy bóng tối như đã kéo dài tận mấy vòng luân hồi.

Túy Cúc nắm chặt cổ tay Sính Đình, không chịu buông. Túy Cúc sợ rằng chỉ cần buông tay, mình sẽ lạc mất Sính Đình. Không khí cũng run rẩy theo nhịp thở của hai nàng.

Ông Trời ơi, xin ông phù hộ cho Sính Đình cô nương và hài tử trong bụng qua được cửa ải này. Thầm mong trong lòng, Túy Cúc bỗng cảm thấy má mình ướt ướt, nước mắt rơi xuống tự lúc nào.

“Gió bão khi nào mới chịu ngừng?”, Túy Cúc cố nói cho thật thoải mái, không có tiếng nấc nghẹn.

“Có lẽ rất nhanh”, Sính Đình dịu dàng đáp.

Sính Đình càng thản nhiên, trong lòng Túy Cúc càng rối loạn.

Im lặng một lúc, trong đêm lại vang lên tiếng Túy cúc.

“Túy Cúc rất hận Vương gia”, Túy Cúc nói khẽ.

“Túy Cúc?”

“Túy Cúc hận Vương gia”, Túy Cúc vẫn nghiến răng nghiến lợi.

Túy Cúc chỉ biết trách Sở Bắc Tiệp, chỉ có thể hận Sở Bắc Tiệp. Nam nhân bản lĩnh to bằng trời, sao lại để nữ nhân mình yêu thương nhất phải chịu khổ chốn đây?

“Đều là lỗi của Vương gia, đều là lỗi của Vương gia. Chẳng phải nam nhân cần bảo vệ nữ nhân của mình sao? Chẳng phải nam nhân cần giữ lấy nữ nhân mình yêu thương trong vòng tay để che chở sao?”

Túy Cúc càng nghĩ càng giận, càng nói càng bất bình.

Sính Đình thở dài, nắm bàn tay Túy cúc, giọng dỗ dành: “Túy Cúc, đừng nói nữa”.

“Đáng lẽ Vương gia phải ở đây, nếu Vương gia ở đây, bên cạnh cô nương thì tốt biết bao.”

Những lời không nên nói ra khỏi miệng, sự trầm mặc bất ngờ bao phủ không gian nhỏ hẹp. Túy Cúc bỗng nhận ra, mình sắp phát điên vì bóng tối và giông bão.

Sở Bắc Tiệp, giả dụ chàng ở đây, gió bão cũng có là gì? Bờ vai chàng rộng lớn, có thể che mưa chắn gió cho Sính Đình

“Cô nương…”, Túy Cúc hối hận, “Túy Cúc không nên nhắc đến người ấy”.

“Ngươi nói đúng”, Sính Đình buồn bã, “Nếu chàng ở đây thì tốt biết bao”.

Nếu thật là dù biển cạn đá mòn, chết cũng không thay đổi thì tốt biết bao!

Gió bão che khuất mặt trời, sơn mạch Tùng Sâm chìm trong sắc trắng, cuồng phong cuồn cuộn, va vào núi đá, phát ra tiếng kêu gào chói tai.

Sở Bắc Tiệp ngồi trên núi đá, vuốt ve thanh bảo kiếm trong tay.

Nửa đời hành quân đánh trận, trải qua nhiều điều còn đáng sợ gấp trăm lần trận gió tuyết này, chàng biết phải làm thế nào để tìm được nơi an toàn nhất mà náu mình vượt qua cơn gió bão.

Chẳng buồn để tâm đến gió bão, chàng lặng lẽ chờ nó qua đi. Chỉ cần bớt gió, chàng sẽ lại xuống núi, tiếp tục vào cửa khẩu Tiêu Dương thêm lần nữa.

Tiêu Dương là cửa khẩu phòng thủ mỏng nhất của Vân Thường. Nếu đi Bắc Mạc, rất có khả năng Sính Đình sẽ chọn nơi này. Cũng có thể hôm nay, Sính Đình sẽ đi qua Tiêu Dương.

Nhưng nhỡ chăng hôm nay chàng vẫn không thu được kết quả gì? Đáy mắt Sở Bắc Tiệp bỗng trở nên u ám.

Mấy ngày nay, chàng đã đến cả bốn cửa khẩu của Vân Thường song chẳng ai từng gặp mặt Sính Đình. Không lẽ Sính Đình không đi Bắc Mạc?

Điều khiến người ta lo lắng hơn cả chính là nàng ở lại Vân Thường. Dù Diệu Thiên công chúa chịu thả nàng đi, e rằng Hà Hiệp cũng chẳng cam tâm, truy binh hắn cử đi chỉ một, hai hôm nữa sẽ tới đây.

Tiếng sấm đinh tai nhức óc cùng những tia chớp màu máu như đang xuyên thẳng vào tim và xé nát cõi lòng Sở Bắc Tiệp. Tất cả như rơi xuống đêm đen vô tận, chỉ còn lại sự trống rỗng và một trái tim đau đớn, lo lắng đến tột cùng.

Sính Đình nàng đang ở đâu?

Núi non trùng điệp, cuồng phong bão tuyết, thân mang hài tử, nàng phải băng qua bao rừng núi gập ghềnh?

Ta chỉ muốn ôm nàng trong vòng tay, dùng thân thể mình để che bão tuyết cho nàng.

Nếu được như vậy, Sở Bắc Tiệp sẽ trở thành nam nhân hạnh phúc nhất trên đời, nam nhân được ông Trời ân sủng nhất.

“Nàng ở đâu? Nàng đang ở đâu?” Sở Bắc Tiệp nhìn chằm chằm vào chuôi kiếm, hoa văn trên đó khiến chàng nhớ tới chiếc trâm cài trên mái tóc nàng.

Giờ khắc này, chàng khao khát được cảm nhận hơi ấm của nàng, được nhìn thấy nụ cười ung dung nhàn nhã của nàng.

Tiếng gào thét của cơn cuồng phong dần yếu đi, trời không còn âm u như ban nãy, là dấu hiệu trận giông bão sắp qua.

Tinh thần phấn chấn hẳn lên, chàng đứng phắt dậy. Nếu hôm nay không tìm thấy tin tức của nàng ở Tiêu Dương, rất có khả năng Sính Đình đã tìm thấy một con đường khác để sang Bắc Mạc.

Chàng sẽ không do dự mà lao thẳng đến Bắc Mạc.

Dù phải đi khắp chân trời góc bể, Sở Bắc Tiệp cũng phải tìm lại được Bạch Sính Đình.

Cứ ngỡ không chịu được hết cơn bão tuyết, nhưng dường như những lời khẩn cầu của Túy Cúc linh nghiệm, tuy mạch của Sính Đình vẫn không ổn định, nhưng cũng chẳng có dấu hiệu xấu đi.

“Hình như bão tuyết sắp tan rồi.”

Trong đêm tối, vang lên giọng nói nhẹ tựa hơi thở của Sính Đình: “Thế sao?”. Tấm lưng vẫn luôn giữ thẳng của nàng bỗng chùng xuống, như người kiệt sức đang gắng gượng lần cuối cùng để đạt được mục đích.

“Cô nương!”, Túy Cúc kinh hãi kêu lên.

Sính Đình cố giữ vững thân người: “Không sao đâu”, giọng cũng yếu đi.

Túy Cúc đưa tay ra, đặt lên vầng trán ướt mồ hôi của nàng: “Có tức ngực không?”.

“Ừ”, Sính Đình đáp một tiếng.

“Gió bão sắp ngừng rồi.”

Sính Đình khẽ cựa mình, để hở lối ra vào. Lối vào không được tưới nước, nên không kết thành tảng băng dày. Y phục dùng để cố định nóc lều rũ xuống một góc, bên trên có ít băng vụn gió bão đưa tới. Sính Đình dùng sức giật một cái, phần y phục kết dính phát ra những tiếng kêu tách tách, giật thêm lần nữa, ánh sáng đã lọt vào gian lều nhỏ.

Tuy chỉ là chút ánh sáng, nhưng so với bóng tối ban nãy, đã hoàn toàn khác biệt.

Gió lạnh xuyên qua khe hở vào trong căn lều băng ấm áp khiến Túy Cúc và Sính Đình rùng mình. Tuy lạnh, nhưng tuyết sắp dừng. Gió tuyết điên cuồng quật gãy cành cây cũng dần yên tĩnh lại. Cuối cùng, họ mở toang lối ra, bò ra ngoài.

Gian lều băng bảo vệ họ qua kiếp nạn lóng lánh dưới ánh mặt trời, nhỏ đến mức khó có thể tưởng tượng rằng đã có hai nữ tử trốn trong đó tránh bão tuyết. Khí lạnh hân hoan xộc thẳng vào mũi, xen lẫn mùi vị tươi mới rất riêng của núi rừng. Cuối cùng bão tuyết đã tan, ánh sáng lại tràn về, cơ hội trốn chạy quay về bên họ, Túy Cúc hăng hái: “Cô nương, chúng ta tiếp tục lên đường thôi”.

“Ừ.”

“Để Túy Cúc bắt mạch lại đã, cô nương còn tức ngực không?”

Sính Đình lắc đầu: “Đỡ hơn rồi”.

Túy Cúc nhìn nàng, định nói gì lại thôi.

Sính Đình không nói sai, bão tuyết quật ngã thân cây, chẳng biết tay nải họ để quên giờ bị cuốn đến tận phương nào.

Không còn kim bạc, không còn cả thảo dược đã chuẩn bị sẵn.

Túy Cúc lo lắng: “Cô nương còn đi được không?”.

“Ừ.”

“Mong ông Trời tiếp tục phù hộ cho chúng ta tìm thấy ít thảo dược. Không còn kim bạc, thì có thể hái lá tùng dùng tạm”, Túy Cúc nói, “Cô nương ngồi đây, Túy Cúc đi tìm lá tùng, châm vài kim, cô nương sẽ bớt khó chịu”.
 

Hoa Tử

Sưu tầm
Tham gia
24/9/19
Bài viết
10,570
Điểm cảm xúc
1,484
Điểm
113
Chương 40:
Vương cung Đông Lâm.

“Tin vui! Tin vui, Đại vương!” Lão Thừa tướng Sở Tại Nhiên tay cầm quân báo, vội vã chạy vào tẩm cung của Đông Lâm vương, chưa vào đến cửa, tiếng hô xúc động của ông đã vang vào tận trong cung.

Đông Lâm vương bệnh đã nhiều ngày, liên tục hôn mê, Vương hậu phải đích thân hầu hạ bên long sàng, nghe vậy liền quay lại, đúng lúc thấy Sở Tại Nhiên vào tới, bèn hỏi: “Có chuyện gì?”.

“Nương nương, Trấn Bắc vương rút quân rồi, kết thúc đại chiến rồi.”

Vương hậu sững sờ, hồi lâu vẫn không dám tin: “Trấn Bắc vương không giao chiến với đại quân Vân Thường nữa ư?”.

Bàn tay cầm quân báo của Sở Tại Nhiên vẫn run rẩy: “Chỉ một chút nữa thôi. Thần nghe nói hai bên đã dàn trận sẵn sàng nghênh chiến, Công chúa Vân Thường bỗng nhiên xuất hiện, thuyết phục Trấn Bắc vương lui binh. Nương nương, vậy cũng coi như giữ được hàng vạn tính mạng của tướng sĩ Đông Lâm”.

“Nói lại lần nữa”, giọng yếu ớt vang lên trên long sàng.

“Đại vương! Đại vương tỉnh rồi?”, Vương hậu ngạc nhiên, vội vã đỡ Đông Lâm vương đang cố ngồi dậy: “Đại vương cẩn thận, ngự y nói, người cần tĩnh dưỡng”.

Đông Lâm vương yếu ớt xua tay, ánh mắt nhìn về phía Sở Tại Nhiên: “Thừa tướng nói lại xem, Trấn Bắc vương làm sao?”.

“Bẩm Đại vương, Trấn Bắc vương rút binh rồi. Đại quân Đông Lâm và Vân Thường không giao chiến”. Tuy mái tóc đã hoa râm, nhưng Sở Tại Nhiên vẫn khỏe mạnh, lòng đầy nhiệt huyết.

“Ồ?” Đông Lâm vương như đang nghiền ngẫm từng lời Sở Tại Nhiên nói, có lẽ nhất thời chưa tiếp nhận được tin bất ngờ này. Đôi mắt mờ dần vì bệnh tật bỗng có thêm vài phần sinh khí, sáng hẳn lên, bàn tay Đông Lâm vương đặt lên vai Vương hậu, cúi người về phía trước, giọng khẩn thiết: “Quân báo đâu? Mau đưa quả nhân xem”.

Sở Tại Nhiên lập tức hai tay dâng lên quân báo.

Sợ Đông Lâm vương dốc hết sức lực, Vương hậu nhận lấy quân báo, rồi mở ra, để Đông Lâm vương tựa vào gối đọc.

Đông Lâm vương xem đi xem lại quân báo mấy lần mới thở ra khoan khoái, cảm thấy toàn thân dễ chịu, mọi mệt mỏi và buồn bực những ngày qua bỗng chốc tiêu tan. Đông Lâm vương bảo Vương hậu gấp quân báo lại, cười nói: “Quả nhân biết mà, vương đệ… Trong lòng vương đệ còn có đại cục… Khụ khụ khụ…”. Đông Lâm vương ho liên tục không dứt.

Vương hậu vội vã xoa lưng giúp Đại vương lưu thông khí huyết, giọng dịu dàng: “Đại vương phải chú ý giữ gìn sức khỏe. Trấn Bắc vương kịp ghìm cương trước vực thẳm, chiến sự đã dừng, chỉ cần Đại vương hồi phục, đó chính là phúc của bách tính Đông Lâm”.

Đông Lâm vương ho đến khổ sở, thở dốc, lại hỏi: “Đại quân đang ở đâu?”.

“Đang trên đường trở về. Trấn Bắc vương hạ lệnh, quân trấn giữ ở các cửa khẩu sau khi về đến biên cảnh Đông Lâm, lập tức trở về vị trí cũ.”

Đông Lâm vương trầm tư một hồi, ra lệnh: “Thừa tướng hãy thảo cho quả nhân một bức thư, sai người đưa tới cho Trấn Bắc vương, nói rằng, những lá thư trước quả nhân gửi đều là lời lẽ lúc nóng nảy. Đông Lâm vương tộc là của hai huynh đệ chúng ta, quả nhân vẫn đặt hết kỳ vọng vào vương đệ. Mong vương đệ sớm trở về, đừng rời khỏi thành đô nữa”.

Sở Tại Nhiên bỗng sững lại, do dự giây lát rồi hạ giọng bẩm báo: “Bẩm Đại vương, Trấn Bắc vương đã không còn trong quân, Đại quân hiện giờ do Thần Mâu chỉ huy”.

Đông Lâm vương và Vương hậu đều sững sờ.

“Không ở trong quân?” Hàng mày vừa giãn ra của Đông Lâm vương lại cau, miễn cưỡng ngồi thẳng dậy, hỏi: “Chuyện này là thế nào?”.

“Người truyền tin nói, Trấn Bắc vương hạ lệnh rút quân, giao toàn quyền chỉ huy cho Thần Mâu, rồi một mình cưỡi ngựa rời đi, đến nay vẫn không rõ tung tích.”

Trời vừa quang đã lại bị mây đen che phủ. Đông Lâm vương thở dài, ngả người ra sau, bất lực dựa đầu vào thành giường.

“Có tin của Bạch Sính Đình không?”, Vương hậu xen vào một câu.

“Cũng không rõ tung tích của Bạch Sính Đình. Còn một việc…”, Sở Tại Nhiên ngẩng lên nhìn sắc mặt Đông Lâm vương, lời muốn nói tắc nơi cổ họng.

“Có việc gì Thừa tướng cứ nói thẳng ra.”

“Chuyện này… chỉ là lời đồn, chưa được chứng thực.” Sở Tại Nhiên khom người, cẩn trọng bẩm báo: “Nghe nói khi bị Hà Hiệp đưa đi, Bạch Sính Đình đã…”.

Thầm cảm thấy không hay, Vương hậu trở nên cảnh giác, vội hỏi: “Đã làm sao?”.

“Đã mang trong mình cốt nhục của Trấn Bắc vương.”

Lời vừa dứt, không những Vương hậu mà đến cả Đông Lâm vương cũng hết sức ngạc nhiên: “Có chuyện này sao?”.

“Đại vương, chuyện chỉ là đồn đại…”

“Huyết mạch của vương tộc Đông Lâm chúng ta lại rơi vào tay Hà Hiệp?”, Đông Lâm vương giận đến trừng mắt, không thể nói thêm, lại tiếp tục ho.

Trong lòng Vương hậu như chất đầy băng tuyết, tay chân luống cuống xoa lưng giúp Đông Lâm vương, nước mắt lã chã rơi. Đợi mãi Đông Lâm vương mới ngăn được cơn ho, Vương hậu quỳ sụp xuống, khóc nói: “Đại vương, thần thiếp tội đáng muôn chết! Đây đều là tội của thần thiếp!”.

Sững sờ hồi lâu, Đông Lâm vương thở dài: “Việc này không liên quan đến Vương hậu, quả nhân sai rồi. Trời trêu đùa, vương tộc Đông Lâm mãi mới có hy vọng… Thừa tướng…”.

“Có thần.”

“Lập tức ban vương lệnh, sai người tìm Bạch Sính Đình. Nhất định phải bảo vệ mẫu tử Bạch Sính Đình”, Đông Lâm vương chậm rãi nói, “Nếu tìm thấy Bạch Sính Đình, hãy nói rằng, chỉ cần sinh hạ cho vương đệ một nhi tử, quả nhân sẽ lập tức phong cho Bạch Sính Đình là Trấn Bắc vương phi”.

Sức khỏe của Đại vương không được như trước, sau khi Đông Lâm mất đi hai vương tử, thì người đủ tư cách kế thừa vương vị chỉ có Trấn Bắc vương và hậu duệ của Trấn Bắc vương mà thôi.

Sơn mạch Tùng Sâm kéo dài đến hàng trăm dặm. Mùa đông, vạn vật khô héo, chỉ có cây tùng không sợ lạnh vẫn đứng sừng sững giữa trời cao. Mấy ngày nay Túy Cúc vừa đi đường, vừa lấy lá tùng làm kim châm cứu cho Sính Đình, Sính Đình mới có sức tiếp tục lên đường.

Hai nàng biết rằng lúc này có kêu trời, trời không thấu, kêu đất, đất chẳng hay, chỉ có thể dựa vào sự nỗ lực của bản thân để tìm lấy con đường sống. Tuy rằng vất vả, nhưng cả hai đành cắn răng chống chọi, không kêu than dù chỉ một tiếng.

Mạch tượng của Sính Đình lúc tốt lúc xấu. Rừng núi trắng xóa một màu không thấy điểm kết thúc, đường đi như càng lúc càng dài. Hai người còn bị lạc đường mấy lần, lòng vòng mãi mới tìm được phương hướng.

Chân Sính Đình dần vô lực, giờ đây sức nàng bỏ ra để tiến một bước bằng mười bước trước kia. Cũng biết chẳng gắng gượng được bao lâu, lại sợ ảnh hưởng đến Túy Cúc, Sính Đình chẳng hề nói một tiếng muốn nghỉ ngơi.

Hôm đó sau giờ Ngọ, khó khăn lắm họ mới đến được một núi đá. Ở đây có loại quả chín mọng kết trái vào mùa đông, tuy không ngon miệng, nhưng với họ lúc này chẳng khác nào loại thức ăn thượng hạng.

“Cô nương ngồi đây một lúc, Túy Cúc đi tìm thứ gì ăn.” Túy Cúc đỡ Sính Đình ngồi xuống rồi quay đi. Chẳng mấy chốc, Túy Cúc đã đem theo một vạt áo đầy những quả chín mọng quay về. Thân cây quả này chi chít gai, đầu và tay Túy Cúc đầy những vệt xước.

Cả chặng đường chịu bao vất vả, giờ Túy Cúc chẳng hề để ý đến việc này. Túy Cúc đặt những quả chín trước mặt Sính Đình, hai người tranh thủ lúc trời nắng đẹp mà ăn cho no bụng.

“Chúng ta sắp qua sơn mạch Tùng Sâm rồi?”

“Ừ.”

“Trời ơi, thế là cũng sắp qua rồi. Sau này hài nhi ra đời, nhất định phải kể cho hài nhi nghe những ngày này, để hài nhi biết, mẫu thân mình đã phải trải qua bao vất vả mới…”, Túy Cúc vừa nói vừa quay lại, cúi xuống nhìn Sính Đình.

Sính Đình ngồi xếp bằng, tựa lưng vào mỏm đá, vẻ mặt lạnh nhạt, Túy Cúc bỗng cảm thấy bất an.

“Cô nương?”, Túy Cúc khẽ gọi, rồi quỳ xuống hỏi, “Bạch cô nương?”.

“Ừ”, Sính Đình khẽ động, đôi mắt mở ra, làn môi run run, “Túy Cúc…”.

Túy Cúc lo lắng, tiến lại gần: “Bạch cô nương, cô sao thế?”. Túy Cúc vội vàng bắt mạch cho Sính Đình.

Sính Đình vội đẩy Túy Cúc, chầm chậm lắc đầu.

Nàng vẫy Túy Cúc lại gần thêm chút nữa, rồi ghé sát vào tai người bên cạnh, thì thào: “Sơn mạch Tùng Sâm nối giữa hai vùng Vân Thường và Bắc Mạc, từ đây đi thẳng xuống sẽ vào thẳng đất Bắc Mạc. Dương Phượng và Tắc Doãn ẩn cư ngay cạnh núi Tùng Sâm này. Ngươi đi…”.

“Không!”, Túy Cúc hét lên, hai mắt trợn tròn, “Cô nương, cô nương đang nói gì thế? Chúng ta phải cùng đi. Chúng ta sắp đến rồi, sắp đến rồi. Cô nương nhìn xem, Túy Cúc còn tìm được cả ít thảo dược, để Túy Cúc sắc cho cô nương uống, còn nữa… chúng ta phải châm cứu, Túy Cúc đã hái ít lá tùng tươi, cọng nào cũng cứng”.

“Túy Cúc…”

“Không! Không được!”

Sính Đình thường ngày vẫn ung dung giờ bỗng yếu ớt đến bất lực.

“Túy Cúc, ta thực sự không đi được nữa. Nếu không có ngươi, ta đã chẳng bước nổi từ lâu rồi”, Sính Đình cố nở nụ cười.

Túy Cúc nhìn Sính Đình, chợt thấy sau lưng lạnh buốt, liền hoảng hốt quay lại, nhìn xung quanh.

Một màu tuyết phủ, sao giờ lại đáng sợ đến thế!

“Cô nương…”, làn môi run run, một dự cảm chẳng lành bất chợt ào đến, như đang muốn nhấn chìm Túy Cúc.

“Giờ ta chỉ biết nhờ vào ngươi. Ở đây có bản đồ, ngươi hãy đi tìm Dương Phượng.” Sính Đình cắn môi, cố lấy trong người ra tấm bản đồ, “Tắc Doãn là thượng tướng quân, chắc chắn bên cạnh có dũng sĩ quen việc trèo núi. Gặp được Tắc Doãn, Tắc Doãn sẽ sai người đến đón ta ngay”.

Túy Cúc liên tục lắc đầu: “Cô nương không đi được. Túy Cúc có thể cõng cô nương. Cô nương vẫn còn sức…”.

“Làm thế chỉ khiến cả hai ta cùng chết ở nơi này. Không có lương thực, trước mặt e là cũng chẳng còn núi đá cho chúng ta trú chân. Giờ ngươi vẫn còn sức, đi một mình chắc chỉ hai ngày là xuống núi. Thuộc hạ của Tắc Doãn quen với vùng núi này, họ có thể tìm thấy ta chỉ trong một ngày.”

“Không được, không được thật mà.”

Sính Đình mở trừng mắt, cố nói to hơn một chút: “Ngươi cõng ta, mười ngày cũng không ra khỏi khu rừng này”. Không còn đủ sức, ngực Sính Đình bắt đầu đau. Nàng ngẩng đầu thở dốc, nhét tấm bản đồ vào tay Túy Cúc, “Cầm lấy!”.

Túy Cúc cầm bản đồ, trong lòng hoảng hốt.

Túy Cúc biết Sính Đình đã sức cùng lực kiệt, vì nếu còn có cách, nàng sẽ chẳng chịu dừng bước.

Chỉ là, Túy Cúc chưa từng nghĩ đến việc rời xa Sính Đình vào lúc này.

“Đi tìm Dương Phượng, bảo tỷ ấy cử những thuộc hạ tài giỏi nhất đến tìm ta, cả đi và về chỉ hết ba ngày”, Sính Đình đưa mắt nhìn quanh, “Núi đá này có chỗ tránh mưa tránh gió, cả quả chín mọng có thể hái ăn. Ta sẽ đợi mọi người ở đây”.

Túy Cúc bất giác vò nát tấm bản đồ.

Dường như toàn sức lực của Túy Cúc dồn cả vào đôi tay, tấm bản đồ nhăn nhúm bị vò đến sắp rách.

“Túy Cúc biết rồi.” Gần như cách cả thế kỷ, Túy Cúc mới tìm thấy giọng nói đứt đoạn của mình. Nàng nhìn chằm chằm Sính Đình, “Túy Cúc sẽ tìm đến chỗ Dương Phượng, bảo nàng ấy cử cao thủ leo núi đến đây, mang theo cả nhân sâm lâu năm nữa. Túy Cúc sẽ ở chỗ Dương Phượng chuẩn bị mọi thứ, sắc sẵn thảo dược đợi cô nương về”.

Sính Đình dịu dàng nhìn Túy Cúc, đôi môi nhợt nhạt hơi nhếch lên, cố nở nụ cười: “Đúng rồi. Chính là như thế”. Nàng khó khăn giơ tay lấy chiếc trâm trên đầu, cánh tay run rẩy hồi lâu vẫn không thể lấy ra.

Càng nhìn càng xót xa, Túy Cúc vội lấy giúp chiếc trâm xuống, đưa cho Sính Đình.

Sính Đình không nhận lấy, chỉ nói: “Ngươi cầm lấy cây trâm này. Đây là thứ Dương Phượng tặng ta, ngươi có thể mang ra làm tín vật”.

Túy Cúc đáp một tiếng, nhưng lúc lâu vẫn không thấy nhúc nhích, ánh mắt dán chặt vào Sính Đình.

Biết Túy Cúc không đành lòng, Sính Đình lại gọi: “Túy Cúc…”.

“Vâng?”

“Mau đi.”

Túy Cúc chỉ đáp một tiếng, giọng đã nghẹn ngào, rồi chầm chậm đứng dậy, một tay cầm tấm bản đồ, một tay cầm chiếc trâm dạ minh châu: “Cô nương, Túy Cúc đi đây”. Do dự mãi, cuối cùng Túy Cúc cũng quay người rời đi.

Sính Đình mở to mắt nhìn theo bóng dáng Túy Cúc dần khuất sau tảng đá, thở phào.

Nàng gắng gượng ngồi dậy, định đi xem địa hình nơi đây, nhưng sức lực đã cạn kiệt.

Cứ nghỉ ngơi một lát, đằng nào nàng cũng không đi tiếp. Sính Đình nhắm mắt, đầu dựa vào tảng đá. Chẳng mấy chốc, nàng nghe thấy tiếng bước chân giẫm trên lá khô, bèn kinh ngạc mở mắt.

“Cô nương…” Túy Cúc quay lại mang theo bao quả chín, “Cái này để lại cho cô nương”. Túy Cúc cẩn thận đặt lại đống quả xuống trước mặt Sính Đình, nhìn nàng hồi lâu, khẽ bảo, “Lần này Túy Cúc sẽ đi thật”.

“Túy Cúc.” Nhìn theo bóng Túy Cúc, Sính Đình gọi.

Túy Cúc vội vã quay đầu: “Cô nương sao thế?”.

Sính Đình nhìn chăm chăm về phía Túy Cúc hồi lâu, rồi mỉm cười đáp: “Không có gì, ngươi cũng phải cẩn thận. Sớm xuống núi an toàn.”

“Vâng, Túy Cúc biết rồi”, Túy Cúc gật đầu.

Lần này Túy Cúc đi thật.

Trận huyết chiến đang hồi căng thẳng đã nhanh chóng được hóa giải bởi một cuộc trò chuyện không ai biết nội dung giữa Công chúa Vân Thường và Đông Lâm Trấn Bắc vương.

Cứ ngỡ máu sắp chảy thành sông, nhưng binh đao bỗng chốc hóa thành ngọc ngà tơ lụa. Cảm thấy thất vọng nhất chính là quân chủ hai nước còn lại trong tứ quốc.

Nghĩ lại ngày đó, vương phủ Kính An công lao hiển hách mấy đời, nắm giữ binh quyền Quy Lạc, khiến Đại vương cũng phải đề phòng. Quy Lạc tân vương Hà Túc lên ngôi chưa đến một năm đã nhân lúc Hà Hiệp khải hoàn, lừa hắn mang binh khí vào cung yết kiến, rồi vu cáo Hà Hiệp tạo phản.

Âm mưu độc địa của Quy Lạc vương đã hủy hoại cả vương phủ Kính An công lao hiển hách hàng trăm năm chỉ trong nháy mắt.

Mối thâm thù ấy, Hà Hiệp sao có thể quên?

Vừa nghe Sở Bắc Tiệp triệu tập đoàn quân Đông Lâm, quyết chiến một trận với Phò mã Vân Thường, niềm sảng khoái và chờ đợi trong lòng Quy Lạc vương thật khó diễn tả thành lời.

Thậm chí đội quân Quy Lạc đã chuẩn bị sẵn sàng, chờ lệnh xuất phát. Một khi Hà Hiệp bại trận, quân tướng Quy Lạc sẽ gia nhập cuộc chiến, công phá Vân Thường, tiêu diệt Hà Hiệp - mối đại họa của Quy Lạc vương.

Nào ngờ Công chúa Vân Thường vừa lộ diện đã hóa giải hoàn toàn tình thế này.

“Không phải Công chúa Diệu Thiên.” Quy Lạc vương đứng lên khỏi vương tọa, giãn gân giãn cốt. Ngồi nghe quân báo cả nửa ngày, cuối cùng Hà Túc lạnh lùng buông một câu.

“Đại vương?”, Quốc trượng Nhạc Địch kinh ngạc hỏi: “Ý của Đại vương là quân báo nhầm lẫn?”.

“Không, ý ta là người khiến Sở Bắc Tiệp lui binh không phải Diệu Thiên công chúa.” Quy Lạc vương ngửa mặt lên trời thở dài, thần thái có chút trống rỗng, không cam lòng, “Là Bạch Sính Đình”.

Sắc mặt Nhạc Địch bỗng đổi: “Bạch Sính Đình? Bạch Sính Đình của vương phủ Kính An?”.

Tại sao phải luôn nghe thấy cái tên này? Nàng ta chỉ là một thị nữ trong vương phủ, chẳng qua cũng chỉ biết gảy đàn, nay lại có thể khuynh đảo đại cục? Ngay cả lần trước nói chuyện riêng với Vương hậu, Vương hậu cũng nhắc đến cái tên này.

“Quốc trượng cũng thấy không thể tin nổi đúng không? Bậc anh hùng như Sở Bắc Tiệp lại vì một nữ nhân mà phát động chiến tranh, rồi lại vì một nữ nhân mà dừng cuộc chiến. Giờ nghĩ kỹ, vận mệnh của Vân Thường và Đông Lâm dường như nằm cả trong tay nữ nhân ấy.”

Nhạc Địch không cho là vậy: “Đại vương nghĩ nhiều rồi. Nữ nhân phải ở trong khuê phòng, lo chuyện hầu hạ phụ thân và phu quân. Sở Bắc Tiệp vì một nữ nhân mà làm chuyện ngu xuẩn, lầm đường lạc lối. Hắn từng dẫn quân xâm phạm lãnh thổ Quy Lạc ta, giờ lại tự diệt vong, đó quả là may mắn lớn của Quy Lạc”.

Quy Lạc vương xua tay cho kẻ truyền tin đã bẩm báo xong lui ra, không biết nghĩ đến việc gì, khóe môi bỗng nhếch lên, cười mà như không: “Ta nói cho Quốc trượng một việc, khi Bạch Sính Đình bị Hà Hiệp đưa từ Đông Lâm sang Vân Thường, quả nhân đã cử quân vào Đông Lâm phục kích Hà Hiệp, hy vọng có thể đưa Bạch Sính Đình về Quy Lạc”.

“Hả?”, Nhạc Địch sững người.

“Quả nhân không bàn với Quốc trượng, vì quả nhân biết Quốc trượng sẽ không đời nào đồng ý.” Dưới ánh nến, những đường nét trên khuôn mặt Quy Lạc vương toát lên vẻ cương nghị của bậc vương giả, “Chẳng giấu Quốc trượng, việc đã đến nước này, quả nhân vẫn nghĩ mãi một vấn đề. Năm đó, Bạch Sính Đình chẳng qua chỉ là một thị nữ trong vương phủ Kính An, bao năm ở ngay trước mắt quả nhân, nay bị Hà Hiệp và Sở Bắc Tiệp tranh qua giành lại, giá trị bỗng gấp đến trăm lần. Sớm biết thế này, trước đây quả nhân nên nạp Bạch Sính Đình vào hậu cung?”.

Câu chuyện đột nhiên chuyển sang vấn đề hậu cung.

Sắc mặt Nhạc Địch thay đổi, mớ suy nghĩ trong đầu quay cuồng như bánh xe. Nữ nhi của ông ta là đương kim vương hậu Quy Lạc, chính nhờ có được nữ nhi bảo bối trở thành quốc mẫu, thanh thế của Nhạc gia mới lên như diều gặp gió. Sau khi vương phủ Kính An gặp nạn, Nhạc gia đường hoàng tiếp quản binh quyền Quy Lạc.

Suy nghĩ hồi lâu, Nhạc Địch mỉm cười đáp: “Đại vương nói đùa rồi. Bạch Sính Đình xuất thân hèn kém, chỉ mang thân phận thị tì, nghe nói cũng chẳng hề xinh đẹp. Hà Hiệp vì lưu luyến tình chủ tớ năm xưa, Sở Bắc Tiệp bởi tầm nhìn thiển cận, hám lợi mất khôn mà thôi”.

“Ta nói đùa sao?”, Quy Lạc vương cười nhạt, quay lại, ngồi xuống, tựa nửa người vào tay vịn ngai vàng, dịu giọng, “Quốc trượng sai rồi”.

“Hả?”

“Cái đẹp của Bạch Sính Đình không nằm ở dung mạo mà ở khí phách và tấm lòng. Luận về điểm này, không vị quốc mẫu nào trong tứ quốc so được với Bạch Sính Đình. Nếu không, một bậc kiêu hùng như Sở Bắc Tiệp sao có thể vì một bức thư của nữ tử ấy mà lui hết đại quân của cả nước?”, Quy Lạc vương thở dài, “Ta và Quốc trượng nhìn người thật không bằng Sở Bắc Tiệp”. Nói rồi, Hà Túc cười chua chát.

Nhạc Địch đang không biết tiếp lời thế nào, ngoài điện bỗng vang lên lời bẩm báo: “Vương hậu nương nương giá đáo”.

Tiếng trang sức va vào nhau vui tai, cửa điện lặng lẽ mở, Vương hậu tươi tắn xuất hiện.

“Nương nương đến rồi.” Nhạc Địch mừng thầm trong lòng, có thể nhân cớ này mà chấm dứt chủ đề đau đầu kia, bèn vội vã đứng dậy.

“Đại vương.” Vương hậu thướt tha hành lễ với Quy Lạc vương, rồi quay sang Nhạc Địch, giọng dịu dàng, “Phụ thân cũng đến ạ? Người mau ngồi đi”. Vương hậu vừa ngồi xuống cạnh Quy Lạc vương, vừa nói chuyện thường ngày, “Mấy hôm nay thời tiết thay đổi, sợ chứng đau chân của phụ thân tái phát, bản cung đang định sai người mang thuốc đến, lại gặp đúng lúc phụ thân vào cung, Quốc sự quan trọng, nhưng vẫn phải giữ gìn sức khỏe”.

Nói tới đây, Vương hậu quay sang nhìn Quy Lạc vương nở nụ cười xinh đẹp: “Đêm nay Đại vương lại thức khuya rồi? Không lẽ đã xảy ra đại sự gì?”.

Quy Lạc vương mỉm cười ôn hòa, lắc đầu: “Vân Thường và Đông Lâm ngừng chiến thì còn có thể xảy ra đại sự gì? Quả nhân chỉ đang nói đến Bạch Sính Đình với Quốc trượng thôi”.

Nghe thấy ba tiếng “Bạch Sính Đình”, trong lòng Vương hậu chợt thấy chán nản, nụ cười trên môi có vài phần không được tự nhiên: “Nghe nói Bạch Sính Đình đã theo Hà Hiệp tới Vân Thường, không biết hiện giờ ra sao?”.

“Sở Bắc Tiệp vì một bức thư của Bạch Sính Đình mà lui binh, Vương hậu có biết chăng?”

“Có chuyện này sao?”, Vương hậu nén tiếng thở dài, chậm rãi hỏi.

Không khí trong điện bỗng dưng chùng xuống.

Luận đàm quốc sự với Quy Lạc vương, gần sáng Nhạc Địch mới cáo lui. Vừa ra khỏi vương cung, bước lên xe ngựa, ông ta đã trầm giọng ra lệnh: “Mau đến phủ tướng quân!”.

Phu xe xuống gọi cổng lớn phủ tướng quân. Nhạc Chấn tướng quân đêm qua chè chén hát ca cùng tiểu thiếp, lúc này còn chưa đi nghỉ, nghe nói phụ thân đến bèn vội vã bò khỏi giường.

“Phụ thân đến có việc gì? Có việc, phụ thân sai người đến gọi hài nhi là được rồi.” Nhạc Chấn đứng đón ở cửa, thấy sắc mặt phụ thân sa sầm.

Nhạc Địch không nói gì, bước thẳng về phía thư phòng. Vào đến nơi, ông ta cho lui hết đám người xung quanh, rồi đóng cửa lại, hạ giọng: “Đại vương sinh nghi rồi”.

“Hả?”, Nhạc Chấn vội hỏi, “Đại vương nói gì?”.

“Đại vương liên tục nhắc đến Bạch Sính Đình, thậm chí còn nói đã hối hận vì trước kia không nạp nàng ta vào cung”, Nhạc Địch nhìn nhi tử, hừ một tiếng, “Đại vương cảnh cáo chúng ta, ngôi vị của nương nương không gì là chắc chắn”.

Nhạc Chấn tỏ vẻ khinh thường: “Một thị nữ sao có thể so sánh với nương nương? Nhạc gia chúng ta đời đời là trọng thần của Quy Lạc, nương nương là Thái tử phi do đích thân Tiên vương sắc phong”.

“Mấy đời trọng thần? Vương phủ Kính An là tấm gương còn rành rành ra đó. Huống hồ, giờ Bạch Sính Đình đã chẳng đơn thuần chỉ là một thị nữ. Liên quan đến nàng ta, không chỉ có Phò mã Vân Thường, mà còn cả Đông Lâm Trấn Bắc vương nữa. Ngay cả các đại tướng Bắc Mạc cũng có mối quan hệ khó xác định với nàng ta.”

“Phụ thân…”

“Ngươi đã xử lý kẻ được cử đi báo tin với Hà Hiệp chưa?”

Nhạc Chấn đáp: “Phụ thân yên tâm, hài nhi đã sắp xếp cho hắn rời khỏi thành đô, chắc chắn sẽ không bị Đại vương phát giác”.

“Không!”, ánh mắt Nhạc Địch sa sầm, “Phải trừ cỏ tận gốc, không được để lại hậu họa”.

Nhạc Chấn có vẻ chần chừ: “Phi Chiếu Hành là tướng tài hiếm có trong đám thuộc hạ của hài nhi, từ nhỏ đã theo hài nhi, trung thành hết mực…”.

“Đừng nhiều lời, hãy làm theo ý ta”, Nhạc Địch lạnh lùng, “Đại vương sai người phục kích Hà Hiệp, chúng ta lại âm thầm báo tin ấy cho hắn. Nếu chuyện này tiết lộ ra ngoài, chúng ta sẽ mang tội phản quốc, sẽ bị diệt tộc. Nay thanh thế Nhạc gia ngày càng lớn, Đại vương đã có phần lo lắng, nhỡ chăng để Đại vương tìm được sơ hở, chắc chắn chúng ta sẽ đi theo vết xe đổ của vương phủ Kính An”.

Ngừng lời, ánh mắt thoáng tia lạnh lẽo, Nhạc Địch nghiến răng nói: “Phi Chiếu Hành nhất định phải chết! Hắn chết sẽ chẳng còn nhân chứng, dù có sinh lòng nghi ngờ, Đại vương cũng không thể vô cớ trách tội nương nương, hỏi tội một quốc trượng ta và một đại tướng quân ngươi”.

Vẫn còn do dự, Nhạc Chấn suy nghĩ hồi lâu, cuối cùng cũng nhẫn tâm gật đầu: “Hài nhi hiểu rồi”.

Sính Đình ăn hết hơn nửa quả chín.

Gió lạnh gào thét suốt đêm, may có động đá này náu thân, Sính Đình mới tránh được nguy cơ đông cứng. Nàng ngó đầu ra khỏi động, thấy bầu trời quang đãng, hy vọng hôm nay cũng là một ngày nắng, Túy Cúc đi trên đường sẽ không gặp gió tuyết, bình an đến được chỗ Dương Phượng.

Ba ngày, nói dài không dài, nói ngắn cũng chẳng ngắn.

Tuy rằng hết lòng tin tưởng Túy Cúc, nhưng lúc này đây Sính Đình thấy trống rỗng vô cùng, không có chút chắc chắn về điều gì. Hài nhi vẫn ngủ yên trong bụng mẹ. Bụng nàng đêm qua không còn đau như mấy hôm trước. Nhưng chính cái cảm giác quá đỗi yên tĩnh này lại khiến Sính Đình lo lắng.

Bảo bối của ta, con sẽ không sao.

Nàng nhẹ nhàng xoa bụng, hy vọng có thể nghe thấy tiếng hài nhi cựa mình. Đứa bé đang dần lớn lên, những lúc đi đường, nàng đã cảm nhận được bàn chân bé xíu của hài tử đạp trong bụng mình.

Túy Cúc nói thai nhi còn nhỏ, giờ chưa biết đạp, nhưng Sính Đình chắc rằng con đang đạp nàng. Động tác của sinh mệnh nhỏ bé ấy tràn đầy phấn chấn, dù là rất khẽ cũng khiến nàng cảm động đến rơi nước mắt.

“Hài tử của ta, mong cho dì Túy Cúc bình an, mong mẫu tử ta qua được kiếp nạn này.” Sính Đình khẽ khàng xoa bụng, dịu giọng thầm thì.

Nàng biết những lời thầm thì tựa như nói mê này sẽ chẳng có tác dụng gì, nhưng, trong giấc mộng, con nàng cũng mang khí phách đầu đội trời chân đạp đất giống hệt phụ thân, cũng đủ sức mạnh để bảo vệ bất kỳ ai.

Bảo vệ?

Sính Đình nhếch môi cười chua chát. Chỗ quả chín mọng Túy Cúc hái về vẫn còn một ít, ở ngay cạnh tay nàng. Nhưng sau một đêm, những quả ấy đã kém tươi hơn. Nhìn đống quả đã chẳng còn đẹp mắt như hôm qua, Sính Đình như ngây đi, tâm tư bay đến thâm cốc dưới cầu treo Vân Nha.

Nơi thâm cốc không người lui tới bị rừng cây bao phủ ấy cũng rụng đầy quả chín.

Nàng và Sở Bắc Tiệp đã ở đó nghi ngờ lẫn nhau.

Dáng hình Sở Bắc Tiệp rõ ràng dưới ánh trăng, kiên nghị, tràn ngập khí khái anh hùng, hiếm ai bì kịp.

Nàng đã thẳng thắn: “Là thiếp sai người chặt đứt cầu treo để ngăn chàng đột kích quân doanh”.

Đôi mắt hổ lạnh lùng nhìn nàng hồi lâu, Sở Bắc Tiệp ngửa mặt lên trời cười thành tiếng: “Sở Bắc Tiệp ơi là Sở Bắc Tiệp, ngươi đúng là đồ ngốc!”.

Tiếng cười của chàng thê thảm đến thấu xương.

Sính Đình bỗng giật mình choàng tỉnh. Nàng cúi xuống, quả chín trong tay đã nát nhừ, nước đỏ dính đầy bàn tay.

Đúng rồi, quả chín.

Lúc đó, nàng cũng hái những quả chín mọng này. Chàng còn đang giận. Đường đường là một đại tướng, nhưng đến lúc giận dỗi cũng chẳng khác gì một đứa trẻ. Chàng mặc kệ vết thương trên cánh tay, cậy mình sức khỏe, không chịu để nàng băng bó vết thương, cũng chẳng thèm ăn quả nàng hái về.

Những quả ấy cũng rất đắng, rất chát, giống hệt đống quả bây giờ.

Nhưng, sau đó sao hai người lại dựa vào nhau?

Chàng còn cười với nàng, hôn lên môi nàng.

Hơi thở nóng rẫy len lỏi vào tận tâm can nàng, ngang ngược như muốn bố cáo với toàn thiên hạ rằng: Bạch Sính Đình thuộc về Sở Bắc Tiệp.

Chàng từng nói: “Ta ở Đông Lâm đợi nàng”.

Khi nhìn nhau cười, họ cứ ngỡ tương lai cũng giản đơn mà hạnh phúc như vậy.

Sau đó thì sao?

Và cả sau này nữa?

Dường như sóng gió vẫn không ngừng, có phải ông Trời chẳng chịu buông tha họ? Giọt nước mắt ấm nóng nhỏ xuống vạt áo, Sính Đình mới phát hiện ra má mình đẫm lệ.

Không, không được tiếp tục nghĩ đến chàng, sẽ chẳng có kết cục gì tốt đẹp cả.

Dù thật lòng hơn nữa, dù dốc cạn tâm huyết, cũng chỉ như đỗ quyên kêu đến trào máu, không thoát khỏi kết cục bi thương.

Đừng nghĩ nữa, đừng làm thương tổn trái tim mình nữa.

Sính Đình cố gắng xua đi cảm giác ấm áp trong tim. Sau một đêm nghỉ ngơi, lấy lại chút sức lực, nàng run rẩy vịn tay vào tảng đá đứng lên, định đi hái thêm ít quả tươi.

Đi được hai bước, cơn đau dữ dội bất chợt từ bụng lan khắp toàn thân, tựa như lưỡi dao nung đỏ đang đâm thẳng vào bụng nàng.

“A!” Sính Đình kêu lên thảm thiết, ôm chặt lấy bụng rồi ngã xuống đất.

Mồ hôi lạnh túa ra toàn thân.

Hài nhi, bảo bối của ta, con làm sao thế?

Con chê quả rừng đắng?

Hay chê thời tiết lạnh?

Phụ thân không có ở đây, mẫu thân sẽ che chở cho con.

“A! A!” Từng cơn đau cuộn lên khiến Sính Đình lăn lộn trên đất, những giọt mồ hôi to như hạt đỗ từ trán lăn xuống, mười ngón tay nàng túm lấy nền đất rồi thả ra, để lại những vết hằn trên đó.

“Bắc Tiệp, Bắc Tiệp…” Nàng mở choàng mắt, nhìn bầu trời xám xịt càng lúc càng sà xuống gần mình, “Sở Bắc Tiệp, chàng đang ở đâu?”.

Sao chàng không ở cạnh thiếp?

Nếu lúc này chàng xuất hiện trước mặt thiếp, thiếp xin thề với trời, sẽ mãi mãi ở bên chàng, đánh đàn múa hát bên chàng.

Chỉ cần chàng nắm tay thiếp, nói một câu, “Sính Đình, ta đến tìm nàng”, thiếp sẽ quên đi tất thảy, quên hết chuyện trước đây, quên cả chiến tranh khói lửa, quên vầng trăng tàn nhẫn đêm mồng Sáu.

Thiếp sẽ nhặt từng mảnh tim vỡ, chỉ cần chàng xuất hiện.

Thiếp muốn gặp chàng, muốn nhìn thấy chàng.

Chàng đã nói yêu thiếp.

Chàng đã nói sẽ trở về. Thiếp đã dốc toàn sức lực đợi vầng trăng mồng Sáu lên đến đỉnh, nhưng chẳng thấy bóng chàng.

Thiếp muốn nhìn thấy chàng, dù chỉ là cái bóng.

Chàng có biết, thế gian này, không từ nào có thể lột tả hết nỗi tuyệt vọng trong thiếp?

Chàng từng nói chúng ta thề với ánh trăng, cả đời này không phụ bạc.

Có thể không phụ bạc chăng?

Có thật là không phụ bạc?

“Hận chàng…”

Bầu trời xám xịt dần trở nên tối đen, trong cơn đau đớn như đứt lìa thân xác, Sính Đình nghe thấy tiếng khóc kiệt sức đến khản đặc của bản thân: “Thiếp hận chàng! Thiếp hận chàng!”.

“Hận chàng! Hận chàng…”

Toàn bộ sức lực phát tiết, cho đến khi chìm vào màn đêm đen tối, nàng mới cảm nhận được rằng, hận một người dễ hơn nhiều so với quên đi một người.
 

Hoa Tử

Sưu tầm
Tham gia
24/9/19
Bài viết
10,570
Điểm cảm xúc
1,484
Điểm
113
Chương 41:
Ngoài Quy Lạc, một đội quân nữa vẫn đang nhìn chằm chằm về phía đại quân Vân Thường và Đông Lâm.

Sau khi Tắc Doãn từ quan ẩn cư, Nhược Hàn lên nắm giữ vị trí thượng tướng quân. Nhược Hàn theo Tắc Doãn đã nhiều năm, nam chinh bắc chiến, công trạng hiển hách, lại có tài ứng biến, lần này thăng quan nằm trong dự đoán của tất cả mọi người.

Nhược Hàn dẫn theo đại quân đóng ở một nơi cách biên cương Bắc Mạc không xa. Lần trước, suýt chút nữa đội quân Bắc Mạc đã tan tành trong tay Sở Bắc Tiệp, các tướng sĩ Bắc Mạc coi Sở Bắc Tiệp như họa hổ lang. Có thể nhân lúc đại chiến Vân Thường - Đông Lâm nổ ra mà giậu đổ bìm leo, giết được Sở Bắc Tiệp thì quả là có lợi lớn đối với Bắc Mạc.

Nhưng…

“Đại chiến kết thúc rồi.”

“Không phải kết thúc, mà là chưa hề xảy ra.”

“Việc này là thế nào?”

Trong trướng soái, Nhược Hàn đặt quân báo xuống bàn, chắp hai tay sau lưng, ngẩng lên nhìn đỉnh lều tròn tròn.

“Thượng tướng quân?”

“Bạch Sính Đình…” Nhược Hàn có vẻ đang hồi tưởng, suy nghĩ của hắn dường như quay về thành Kham Bố ngày đó, “Bạch cô nương, rốt cuộc bức thư của cô nương viết những gì mà có thể hóa giải được cả một trận đại chiến? Nhược Hàn thật không biết nên thất vọng, hay khâm phục cô nương.” Khóe môi Nhược Hàn nhếch lên nụ cười chua xót.

Cho đến bây giờ, hắn vẫn nhớ rõ tiếng đàn ngày hôm ấy. Tường thành Kham Bố tan hoang, lung lay sắp đổ, mấy vạn tinh binh của Sở Bắc Tiệp xuất hiện bên ngoài, đúng lúc đó, họ nghe thấy tiếng đàn du dương nhất thế gian.

Bạch Sính Đình ở trên thành, ống tay áo phần phật đón gió tựa như muốn bay lên.

Nàng đã cứu Kham Bố, cứu Bắc Mạc, thậm chí có thể nói, chức vị thượng tướng quân ngày hôm nay của Nhược Hàn cũng nhờ vào cái tài hoạch định trong trướng soái của nàng ngày ấy.

Nhưng, nữ tử đã khiến tất cả tướng lĩnh Bắc Mạc cam tâm quỳ xuống giờ đang ở đâu?

“Thượng tướng quân, Đông Lâm đã rút quân, chúng ta làm thế nào?”

“Đại chiến chưa xảy ra, sinh lực của đại quân Đông Lâm không hề bị tổn thương, lúc này chúng ta không thể ngu ngốc đến mức chủ động xuất kích. Nếu đã chẳng có được cơ hội này, chi bằng chúng ta rút quân.” Nhược Hàn cương quyết hạ lệnh, “Truyền lệnh, đêm nay nghỉ ngơi, sáng sớm ngày mai nhổ trại quay về”.

Các tướng lĩnh nhận lệnh rời đi, Tả kỳ tướng quân Sâm Vinh đi sau cùng, đến cửa trướng bỗng dừng lại, nghĩ ngợi giây lát, rồi quay đầu: “Thượng tướng quân có tin gì của Bạch cô nương không?”.

“Nghe nói Bạch cô nương đã rời khỏi Vân Thường, hiện không rõ tung tích”, Nhược Hàn thở dài.

Sâm Vinh cau mày: “Bạch cô nương có thù giết hại vương tử với Đông Lâm vương, Vân Thường lại có Hà Hiệp giăng lưới chờ sẵn, Quy Lạc chẳng thể quay về. Thượng tướng quân nói xem, liệu có phải…”.

“Ta cũng nghĩ vậy”, Nhược Hàn gật đầu, “Ngày mai ngươi chọn lấy ba mươi thuộc hạ tài giỏi ở lại, tìm kiếm quanh biên giới. Nếu có thể gặp Bạch cô nương, ít nhất chúng ta có thể giúp được phần nào”.

Sâm Vinh vội vã gật đầu: “Đúng thế, thuộc hạ cũng nghĩ vậy. Haizzz, thật khó diễn tả cảm xúc trong lòng, chúng ta cũng chỉ biết làm thế thôi”. Sâm Vinh nhìn Nhược Hàn, muốn nói gì, nhưng lời nói chưa ra khỏi miệng đã lại nuốt xuống.

Trong trướng soái giờ chỉ còn lại hai người là huynh đệ vào sinh ra tử nơi chiến trường, thấy điệu bộ của Sâm Vinh, Nhược Hàn sao không hiểu tâm tư của vị tướng quân này, bèn hạ giọng: “Không cần nói nữa, trong lòng chúng ta đều hiểu. Từ khi Tắc Doãn thượng tướng từ quan, suy nghĩ của Đại vương ngày càng khó đoán. Điều không ngờ nhất là Đại vương lại đồng ý liên minh với Hà Hiệp, huy động ba mươi vạn quân uy hiếp biên giới Đông Lâm, ép Đông Lâm vương giao Bạch Sính Đình. Lấy oán báo ân, người người khinh ghét, nhưng vương lệnh không thể không theo. Sâm Vinh, ta cầm quân nhiều năm, song chưa lần nào cảm thấy cầm binh lại bất an đến thế”.

Tâm tư của hai người thật giống nhau. Sâm Vinh giẫm mạnh chân, bực bội: “Đừng nói nữa, càng nói càng giận. Nếu còn ở đây, nhất định Thượng tướng quân Tắc Doãn sẽ khuyên nhủ Đại vương không nên liên minh với tặc tử Hà Hiệp đó. Nếu như… Haizzz…”. Sâm Vinh lớn tiếng thở dài, vén tấm màn trướng, bước ra ngoài.

Nhược Hàn ở lại một mình trong trướng soái, như đang có tâm sự.

Tuy rằng đại chiến Vân Thường - Đông Lâm vẫn chưa xảy ra, nhưng tình hình tứ quốc đã trở nên bí hiểm. Tứ quốc đều âm thầm tích lũy lực lượng, chờ khoảnh khắc sấm sét đánh tan sự yên tĩnh này. Xem ra chưa đến ba năm nữa, cuộc đại chiến thực sự giữa tứ quốc sẽ bắt đầu. Đến lúc đó, liệu binh lực của Bắc Mạc có đủ để chống đỡ kiếp nạn sẽ giáng xuống bất cứ lúc nào?

Nhược Hàn chậm rãi đi lại trong trướng soái, suy nghĩ rành rọt về những điều cần chỉnh sửa trong quân đội, rồi quay người ngồi xuống, mở giấy, nhấc bút viết quân báo gửi Bắc Mạc vương.

Viết xong mấy trăm chữ quân báo, Nhược Hàn nhẹ nhàng thổi khô vết mực, đang định gọi người cấp tốc gửi về thành đô, ngẩng đầu lên, toàn thân bỗng cứng đờ.

Trước mắt là dáng người cao lớn, không biết đã đứng đó tự bao giờ.

“Ta đánh cuộc rằng, trước khi Thượng tướng quân kịp hét lên, đã bị ta rạch rách cổ họng rồi.” Kẻ đến mình vận áo đen, mặt che khăn đen, chỉ để hở đôi mắt sáng có thần, tay phải đặt lên cán kiếm.

Lưỡi kiếm chưa ra khỏi bao, sát khí đã bao trùm khắp trướng.

Trải qua cả trăm trận chiến, qua bao thời khắc sinh tử, nhưng giờ nhìn ánh mắt lạnh lùng mà ung dung của người này, Nhược Hàn như thấy hơi lạnh đang ùa vào.

Khí thế bậc này, gan dạ bậc này, mưu trí bậc này, liệu có thể là ai?

“Giết được ta thì sao? Ngươi cũng chẳng giữ được cái mạng mà rời khỏi nơi này”, Nhược Hàn nhìn chằm chằm vào đôi mắt ấy, hạ giọng.

Kẻ áo đen cười nói: “Ta lại đánh cuộc với Thượng tướng quân, giết người xong, không những ta có thể thoải mái ra khỏi đây, mà thậm chí còn đủ thời gian để tiện tay chém thêm vài đại tướng khác của Bắc Mạc. Đại chiến giữa Vân Thường và Đông Lâm đã được hóa giải, nỗi căng thẳng của binh sĩ Bắc Mạc cũng được hóa giải. Ngươi hạ lệnh sớm mai quay về, giờ đã là nửa đêm, tất nhiên họ sẽ tranh thủ nghỉ ngơi, mười người thì có đến tám, chín người đã chìm vào giấc ngủ”.

Dù không phải lúc chiến tranh, phòng thủ có phần lỏng lẻo, nhưng có thể dễ dàng lọt vào trướng soái, trung tâm của doanh trại Bắc Mạc, cũng đủ thấy bản lĩnh người ấy thế nào.

Nhược Hàn nhìn chăm chăm kẻ lạ mặt.

Bàn tay người ấy màu lúa mạch do phơi nắng lâu ngày, để lộ làn da khỏe khoắn, tựa như gang đã qua tôi luyện, như bức tượng được đục đẽo kỳ công, không thể công phá.

Đôi tay ấy vô cùng chắc chắn, đặt nhẹ trên chuôi kiếm, dù chỉ đứng yên ở đó, nhưng nam nhân này giống như đang thống trị toàn thiên hạ.

Nhìn người bên cạnh hồi lâu, Nhược Hàn khẽ nén tiếng thở dài: “Sở Bắc Tiệp?”.

“Người kế vị Tắc Doãn cũng gọi là có chút hiểu biết.” Sở Bắc Tiệp khẽ cười, bỏ khăn che mặt ra, để lộ khuôn mặt góc cạnh.

Đây là lần đầu tiên Nhược Hàn được nhìn rõ kẻ địch lớn nhất của Bắc Mạc ở khoảng cách gần như vậy.

Chẳng trách, khí thế bậc này, hùng dũng bậc này. Vào tận trung tâm doanh trại Bắc Mạc dễ như một trò chơi, đây chính là Đông Lâm Trấn Bắc vương, Sở Bắc Tiệp danh tiếng lẫy lừng thiên hạ.

Nam nhân mà Bạch Sính Đình yêu tha thiết.

“Trấn Bắc vương đêm hôm đột nhập quân doanh vì muốn ám sát ta?”

“Tính mạng của ngươi, tạm thời bản vương chưa muốn lấy.” Sở Bắc Tiệp đáp, “Bản vương đến đây vì muốn ngươi chuyển một câu đến Bắc Mạc vương”.

“Câu gì?”

“Bắc Mạc vương dám cử binh sĩ nhòm ngó đại quân Đông Lâm ta, hoang tưởng có thể giậu đổ bìm leo, thì phải gánh lấy hậu quả.” Sở Bắc Tiệp cúi xuống, lạnh nhạt nhìn thanh bảo kiếm trong tay, “Đại chiến với Vân Thường không xảy ra, bản vương đang ngứa tay lắm. Từ nay trở đi, bản vương sẽ dùng mọi cách, giết từng đại tướng của Bắc Mạc, để Bắc Mạc vương không còn tướng dùng, chỉ biết ngồi nhìn đội quân của mình từ từ tan rã. Đây chẳng phải một việc hay sao?”.

Nhược Hàn sững người, cười nhạt: “Nói đi nói lại, vẫn là đến để giết người”. Dù phải chết, Nhược Hàn cũng chẳng sợ. Hắn đứng bật dậy, rút bảo kiếm, ngẩng đầu hét lớn, “Doanh trại Bắc Mạc đâu phải chỗ ngươi có thể tùy tiện ra vào. Hôm nay dù phải chết ở đây, ta cũng quyết giết ngươi thay Đại vương. Người đâu!”. Hắn cao giọng gọi một tiếng, đợi lúc lâu cũng không thấy ai xuất hiện.

Nhược Hàn sững người.

Sở Bắc Tiệp khinh miệt: “Muốn hét thì hét to lên một chút. Những cận vệ ngoài trướng của ngươi giờ đã đầu lìa khỏi thân rồi, trướng gần nhất cũng phải cách đây ngoài năm trượng. Đều tại quy định trong quân của các ngươi không hợp tình hợp lý, trướng soái lại giữ khoảng cách với trướng của binh sĩ”.

Nhược Hàn cảm thấy lạnh lòng, những cận vệ tâm phúc ngoài trướng soái đều là các tử sĩ dũng mãnh, nhưng đã bị Sở Bắc Tiệp lặng lẽ giải quyết hết. Hết sức giận dữ, Nhược Hàn hét lớn: “Người đâu! Có thích khách!”, rồi mũi kiếm đâm thẳng.

Sở Bắc Tiệp lạnh lùng nhìn kẻ địch giơ kiếm trước mặt, đôi đồng tử co lại, nhanh chóng rút bảo kiếm.

Ánh kiếm sắc lạnh giao nhau choang một tiếng. Nhược Hàn bỗng thấy như có luồng sức mạnh cản lại, cánh tay tê dại, chưa kịp định thần, bóng dáng lay động dưới ánh nến của Sở Bắc Tiệp đã biến mất. Cảm thấy không ổn, Nhược Hàn bèn khua kiếm sang hai bên trái phải, lùi lại phía sau hai bước, sống lưng toát mồ hôi lạnh, kêu lên thảm thiết, vùng bụng đã trúng một đòn.

Nhược Hàn cố chịu đau, tiếp tục đâm kiếm, thành ra tự đưa tay mình đến trước mặt Sở Bắc Tiệp. Sở Bắc Tiệp thuận thế kéo một cái, nắm vào vùng hổ khẩu[1] trên bàn tay Nhược Hàn. Nhược Hàn đau điếng, bảo kiếm rơi xuống bàn, làm đổ giá nến. Giá nến lăn hai vòng trên đất, rồi tắt phụt, trướng soái chìm trong bóng tối.

[1] Hổ khẩu: Vùng giao giữa ngón cái và ngón trỏ.

Trước mắt tối đen, Nhược Hàn chỉ cảm thấy cái lạnh xông thẳng đến cổ, biết là bảo kiếm của Sở Bắc Tiệp đã kề bên.

Khi ở thành Kham Bố, trước mặt hai quân, chỉ trong ba chiêu, nam nhân này đã lấy mạng Mông Sơ, thuộc hạ hung hãn nhất dưới trướng Tắc Doãn. Anh hùng cái thế, quả nhiên danh bất hư truyền.

Tự biết mình đã hết đường, nhưng Nhược Hàn cũng chẳng xin tha, nghe tiếng bước chân hoảng loạn ngoài kia, bèn nghiến răng nói: “Ngươi muốn giết thì giết, nhưng ngươi không thoát được khỏi đây đâu”.

Sở Bắc Tiệp vô cùng ngạo mạn, cười nhạt: “Muốn giết ta cũng phải giết tướng lĩnh to nhất, mạng của ngươi cứ tạm thời giữ lại. Gặp Bắc Mạc vương, nhớ nhắc nhở ông ta đừng dại gì mà chọc giận Đông Lâm”.

Đang định lên tiếng, Nhược Hàn đã thấy sau gáy đau điếng, ngất lịm.

Sơn mạch Tùng Sâm chìm trong băng tuyết, ánh mặt trời chiếu trên nền trắng, sáng lấp lánh. Một bóng dáng nhỏ bé đang vội vã bước thấp bước cao đi trên đường.

Tuyết cao gần đến đầu gối, sau mỗi bước chân, bàn chân lún xuống, phải tốn không biết bao nhiêu sức, Túy Cúc mới nhấc nổi lên.

Túy Cúc thở dốc. Nắng chiếu trên tuyết sáng đến chói mắt, khiến nàng không còn nhìn rõ con đường phía trước. Có những lúc, Túy Cúc phải vịn tay vào gốc cây mà nuốt khan một hơi, nhưng nếu dừng bước, trái tim lại khó chịu như bị mèo cào.

Sính Đình đã sức cùng lực kiệt, đang đợi nàng ở núi đá.

Sính Đình và hài nhi trong bụng đang đợi nàng.

Sính Đình đang gắng sức, trong lòng Túy Cúc hiểu hơn ai hết. Nàng là đại phu, sao lại không hiểu tình trạng của Sính Đình? Nhưng hai người cùng đi sẽ càng không có hy vọng. Sính Đình nói đúng, để một người tới tìm Dương Phượng, rồi hỏa tốc quay lại cứu viện, là con đường sống duy nhất.

Con đường sống trong con đường chết.

Ông Trời ơi, sao lại thế này?

Hoa mai nơi biệt viện ẩn cư vẫn nở, hương thơm thanh khiết phiêu du trong gió. Cảnh vẫn đây mà người mãi đâu, trong chớp mắt đã đến tận cùng, đến con đường tuyệt vọng?

Sao một nữ nhân thông minh tuyệt đỉnh yêu một nam nhân anh hùng cái thế lại có kết cục như vậy?

Chiếc trâm dạ minh châu Dương Phượng tặng Sính Đình nặng tựa ngàn vàng đè lên đầu Túy Cúc. Đây chính là sinh mạng của mẫu tử Sính Đình.

Túy Cúc lấy bản đồ ra, nhìn thật kỹ.

“Lại lạc đường sao?”, Túy Cúc lo lắng cau mày. Cả sơn mạch Tùng Sâm chìm trong màu trắng bàng bạc khiến người ta không nhận được phương hướng. Biết đã sắp đến nơi, Dương Phượng chỉ ở quanh đây, nên Túy Cúc cố sức bước đi, không dám ngơi nghỉ.

Ngọn núi thuộc sơn mạch Tùng Sâm, kề sát Bắc Mạc chính là đích đến.

Gần ngay đây, chắc chắn là ở gần ngay đây.

“Ai ya!” Đường trơn, Túy Cúc trượt chân ngã trên nền tuyết.

Không có gì nghiêm trọng, nàng đã chẳng nhớ nổi mình đã ngã thế này mấy trăm lần rồi. Sư phụ, sư phụ ơi, chắc sư phụ không thể ngờ rằng, có một ngày Túy Cúc con lại dũng cảm đến thế.

Tiết trời giá buốt, nhưng trong lòng Túy Cúc lại như đang có ngọn lửa thiêu cháy tâm can.

Nàng cắn răng, cố đứng dậy, vừa ngẩng đầu lên, dáng hình một nam nhân bỗng lọt vào tầm mắt. Túy Cúc giật mình, bôn ba ở sơn trạch Tùng Sâm lâu như thế, đây là lần đầu tiên nàng gặp một người không phải Sính Đình.

Một nam nhân.

Nam nhân mặc y phục gọn nhẹ thích hợp với việc leo núi, tay xách bó cung tên đang chắn ngay trước mặt nàng.

Bắt gặp ánh mắt lạnh lùng của nam nhân kia, Túy Cúc có phần cảnh giác.

Nàng chậm rãi đứng thẳng lên.

Phiên Lộc lặng lẽ đánh giá nàng, cuối cùng nhếch môi, buông ra ba chữ: “Bạch Sính Đình?”.

“Ngươi là ai?”

“Hóa ra ngươi là Bạch Sính Đình.” Hắn nhìn chằm chằm vào mái tóc Túy Cúc, khen một câu, “Chiếc trâm thật tinh xảo”.

Túy Cúc run rẩy, một dự cảm chẳng lành như cây chùy từng chút đập thẳng vào tim nàng.

Nàng trừng mắt nhìn Phiên Lộc, từng bước lùi ra sau.

Cây nỏ trong tay Phiên Lộc từ từ đưa lên, mũi tên âm u lạnh lẽo đang nhằm thẳng vào ngực Túy Cúc.

Túy Cúc bỗng thấy khoảnh khắc này nàng như đã chết rồi, cả người lạnh toát, sởn gai ốc. Chiếc trâm dạ minh châu trên đầu nặng trịch, nặng đến nỗi nàng thấy mình sắp ngã xuống.

Không được, nàng không được chết.

Túy Cúc chợt nghĩ đến Sính Đình.

Sính Đình đang nằm nghiêng trên giường đọc sách, đang gảy đàn trong tuyết, đang hái những nụ mai, đang suy sụp mà đổ vật xuống sàn, khóc đến đứt gan đứt ruột khi trăng chếch sang bên.

Mình không được chết, Túy Cúc giận dữ nhìn Phiên Lộc. Không thể phản kháng với cây nỏ trong tay Phiên Lộc, nhưng nàng có thể giận dữ nhìn hắn.

Phiên Lộc gần như đã bị mê hoặc bởi ánh nhìn của nàng. Hắn chưa từng biết có nữ nhân không hề sợ chết thế này. Trong khoảnh khắc nam nhân trước mặt còn do dự, Túy Cúc nhanh chóng quay người chạy mất.

Không, nàng không thể chết.

Như được trời cao tiếp thêm sức, nàng chạy như bay vào rừng.

Vút!

Tiếng xé gió rất nhẹ bên tai, một mũi tên sượt qua mặt nàng, cắm phập vào thân cây bên cạnh. Túy Cúc kinh hãi, bước chân càng loạn.

Vút! Vút!

Tiếng xé gió lại vang lên, hết mũi tên này đến mũi tên khác ghìm chặt vào cây và cắm xuống đất. Túy Cúc kinh hoàng, luống cuống trốn chạy, tránh hết lần này đến lần khác.

Ông Trời, ông đang giúp con sao?

Xin ông hãy giúp con đến tận cùng, hãy cho con sống để gặp Dương Phượng, để nói với Dương Phượng rằng, Bạch cô nương đang chờ nàng ấy tới cứu.

Cả hài nhi trong bụng Sính Đình nữa, cốt nhục của Vương gia, huyết mạch của vương thất Đông Lâm.

Hốt hoảng trốn chạy, đến khi kinh hãi phát hiện trước mắt trống rỗng, chân Túy Cúc bất chợt rơi vào khoảng không.

“A…”, Túy Cúc kinh hoàng kêu lên, cả người ngã xuống.

Lớp tuyết dày đỡ lấy nàng, nhưng chẳng may chân phải va vào khối đá trồi lên.

Bụp!

Cơn đau đáng sợ từ chân dâng lên, khiến cả người Túy Cúc gần như mất đi cảm giác.

“A…” Nàng kêu lên, cố chống người ngồi dậy, hy vọng có thể tự xem chân mình.

Chắc chắn là gãy xương rồi, nàng đau đến toàn thân run rẩy.

Làm sao bây giờ? Nàng còn phải đi tiếp, phải báo tin, tuyệt đối không thể dừng bước.

Thảo dược, chỉ cần có chút thảo dược, hãy cố gắng chịu thêm chút nữa.

Chỗ nào có thảo dược?

Nàng quay đầu, đưa mắt nhìn quanh tìm kiếm. Không gian chỉ một màu trắng xóa, cây khô xen lẫn những khối đá trong tuyết… còn gì nữa không?

Nhìn sang phía đông, Túy Cúc sững sờ như không dám tin vào mắt mình, liền vội vã đưa tay dụi mắt.

“A, ở đó!” Túy Cúc ngạc nhiên, reo lên vui mừng, khóe mắt ươn ướt.

Thấy rồi, nhìn thấy rồi! Ngọn núi Dương Phượng ẩn cư đang ở ngay trước mắt. Hóa ra nàng đã xuống đến chân núi, hóa ra nó ở ngay đây.

Túy Cúc mừng đến rơi lệ, cuối cùng nàng cũng đã tìm thấy. Bạch cô nương, chúng ta được cứu rồi.

“Bạch cô nương, hãy đợi Túy Cúc, Túy Cúc nhìn thấy rồi.”

Chân đau từng cơn, nhưng Túy Cúc vẫn gắng đứng dậy. Lên được một nửa, thì không thể gắng gượng thêm, nàng lại ngã xuống.

“Không sao, không sao đâu”, nàng tự nói với mình, “Mình có thể bò qua, mình có thể bò lên núi”. Đôi đồng tử của nàng lấp lánh như hạt trân châu dưới đáy biển, được thai nghén bằng tinh hoa của trời đất, đến hôm nay bỗng phát sáng.

Túy Cúc cố gắng trườn trên tuyết. Đoạn đường sao lại dài thế kia? Nàng cắn chặt môi, ra sức lết về phía trước. Cứ ngỡ nàng đã vượt qua chân trời để đến nơi góc biển, thế nhưng quay đầu lại, vẫn một sắc tuyết in.

Đường máu ngoằn ngoèo trên nền trắng, thật chẳng khác nào một bức tranh diễm lệ.

Tiếng bước chân từ xa tiến lại, nàng ngẩng đầu nhìn. Nỗi tuyệt vọng dâng trào tựa những ngón tay ma quỷ, khẽ khàng, lạnh lùng bóp nghẹt trái tim nàng.

Phiên Lộc đứng ở chỗ cao, lạnh lùng nhìn xuống.

Ánh chiều tà đỏ như màu máu, quầng sáng ấy bao quanh Phiên Lộc, khiến hắn hệt như một tử thần.

Không, không… Túy Cúc ngẩng đầu nhìn hắn với cơn thịnh nộ.

Ngươi không thể cướp đi đường sống của ta như vậy, ta đã đến được đây.

Chỉ cách một bước, chỉ còn cách một bước.

Phiên Lộc không buồn động thủ, tay phải cầm nỏ, tay trái cầm bó tên. Những mũi tên vừa bắn ra, hắn đã nhặt hết cả lại, hai mươi bảy tên, không thiếu một mũi.

Túy Cúc chằm chằm nhìn hắn cũng với những mũi tên kia.

Không thể, nàng không thể chết.

Sính Đình đang đợi nàng trong gió tuyết, thời hạn cho mẫu tử Sính Đình chỉ là ba ngày.

Sở Bắc Tiệp đã lỡ cái hẹn mồng Sáu, chôn vùi đi hạnh phúc của Sính Đình. Giờ nàng không thể tiếp tục lỡ hẹn một lần nữa mà chôn vùi sinh mạng của mẫu tử họ.

Nền tuyết và núi xanh lạnh lẽo vô tình, cảm giác cái chết quanh quẩn đâu đây, thấm vào tim phổi, mà không sao che được cơn tuyệt vọng khiến tim nàng tan nát.

Túy Cúc ngẩng đầu, bi phẫn gào lớn: “Dương Phượng! Dương Phượng! Cô nương ở đâu? Cầu xin cô nương hãy ra đây!”.

“Dương Phượng! Thượng tướng quân phu nhân Dương Phượng, cô nương có nghe thấy không?”

“Ai cũng được, Sở Bắc Tiệp, Hà Hiệp, hãy cứu Bạch Sính Đình! Các người quên mất Bạch Sính Đình rồi sao?”

“Sở Bắc Tiệp, người là kẻ hèn nhát, người quên Bạch Sính Đình rồi sao?”

Đó là thê tử của người, cốt nhục của người, sao lại phải lưu lạc nơi chân trời góc bể, bỏ xác trên sơn mạch Tùng Sâm?

“Sao người không xuất hiện? Tại sao lại thế…”, Túy Cúc bất lực gào khóc, “Người còn nhớ tới Bạch Sính Đình không? Người còn nhớ những lời mình đã nói không? Sao có thể quên…”.

Từng tiếng nói vọng lại từng hồi, nhưng kỳ tích vẫn chẳng xảy ra.

Không công bằng, thật không công bằng.

Ngẩng đầu nhìn, qua làn nước mắt, nàng thấy Phiên Lộc đang nhếch môi cười.

Ánh tịch dương dần khuất ở đầu bên kia ngọn núi, bóng tối từ từ chiếm chỗ.

“Ngươi có ngửi thấy hương thơm của tuyết không?” Lần đầu tiên gặp mặt, Sính Đình đã hỏi nàng như vậy.

Nàng đã theo sư phụ đi khắp vương cung phủ đệ, gặp gỡ bao người và việc, nhưng chưa từng thấy mối tình nào lại thâm trầm đến vậy.

Bạch Sính Đình và Trấn Bắc Vương.

Tình yêu của bậc vương giả sao mà bi ai, thê thảm, khiến lòng người tan nát nhường ấy.

Ông Trời sao mà nhẫn tâm?

Sao ông không thương xót cho tình yêu sâu sắc ấy.

Chỉ một Túy Cúc bé nhỏ, dù cam tâm tình nguyện từ bỏ tính mạng, cũng chẳng thể thay đổi kết cục không hạnh phúc này.

“Dương Phượng! Dương Phượng! Cô nương mau ra đây! Cầu xin cô nương mau ra đây!”

Rừng núi vọng lại tiếng khóc sầu thảm của Túy Cúc. Phiên Lộc lặng lẽ ngồi trên cao, nhìn nàng vùng vẫy chẳng cam lòng.

Hắn không cần thiết phải giương nỏ nữa.

Giọng Túy Cúc khản đặc, họng như lửa đốt. Dường như đã khóc cạn sức lực, nàng ngừng lại để thở, hương thơm của tuyết phảng phất đâu đây. Lẫn trong đó là mùi tanh của máu, máu từ chân nàng chảy ra.

Bỗng sực tỉnh, Túy Cúc chống người ngồi dậy, lo lắng nhìn xung quanh.

Bóng đêm đã bao phủ, trong rừng thấp thoáng những đốm sáng màu xanh đang lặng lẽ lại gần nàng.

Bầy sói!

Cuối cùng, nàng hiểu ra hàm ý nụ cười lúc nãy của nam nhân kia.
 

Hoa Tử

Sưu tầm
Tham gia
24/9/19
Bài viết
10,570
Điểm cảm xúc
1,484
Điểm
113
Chương 42:
“Thượng tướng quân? Thượng tướng quân! Mau tỉnh lại”

Cảm thấy đầu đau dữ dội, Nhược Hàn mở mắt ra, trướng soái sáng trưng, xung quanh là gương mặt lo lắng của các tướng lĩnh.

Sở Bắc Tiệp đâu?

Nhược Hàn ôm đầu, cố gắng ngồi dậy khỏi giường: “Người đâu? Có bắt được người không?”.

Quân tướng nhìn nhau. Sâm Vinh bị mọi người đùn đẩy, tiến lên phía trước, giọng buồn bã: “Bọn thuộc hạ nghe thấy tiếng kêu của Thượng tướng quân, bèn xông vào trong trướng, nhưng chỉ thấy tối om. Lúc đó không biết Thượng tướng quân sống chết thế nào, mọi thứ lộn xộn, tới khi châm được ngọn đuốc, tìm kiếm khắp nơi đã chẳng thấy tung tích thích khách đâu”.

Nhược Hàn thở dài một tiếng, vỗ đùi: “Đáng tiếc, đáng tiếc!”. Nhưng nghĩ lại, Sở Bắc Tiệp đâu phải người dễ dàng để người ta bắt như vậy. Có lẽ khi đột nhập vào doanh trại, Sở Bắc Tiệp đã sớm tính đến đường lui.

Long nghiêu tướng quân Hoa Tham mới nhậm chức hạ giọng bẩm báo: “Có mười lăm binh sĩ ngoài trướng soái bị giết. Tất thảy đều bị một kiếm đâm thẳng vào họng mà mất mạng, xem ra bị đột kích. Kiếm pháp của thích khách thật đáng sợ”.

Các tướng lĩnh đã đích thân kiểm tra những thi thể kia, ai cũng thấy võ nghệ của thích khách thật cao cường quá sức tưởng tượng, vẻ mặt mọi người đều vô cùng sợ sệt.

Sâm Vinh lắc đầu: “Đúng là trong tứ quốc, chưa ai nghe nói đến một thích khách đáng sợ đến thế. Chúng ta cũng nên sửa đổi quy định trong quân doanh, nhỡ chăng Thượng tướng quân xảy ra chuyện, đại quân mất đi thống soái thì làm thế nào?”.

“Đúng thế, rốt cuộc thích khách là ai?”

Trầm mặc giây lát, Nhược Hàn đáp: “Là Sở Bắc Tiệp”.

Trướng soái rộng lớn bỗng chìm trong im lặng. Quần tướng nhìn nhau, không biết nên nói gì. Sâm Vinh thở hắt ra, cuối cùng cũng sực tỉnh, miệng mở to, hỏi: “Có thật là Trấn Bắc vương?”.

Đối với họ, cái tên Sở Bắc Tiệp quả là ác mộng.

Trong trận chiến Kham Bố, Sở Bắc Tiệp gần như sắp tiêu diệt cả đất nước họ. Vị đại tướng này có tài hoạch định, mưu trí khiến người khác kinh sợ, võ công xuất chúng khiến người ta run rẩy.

Lần này, Sở Bắc Tiệp lại thể hiện bản lĩnh một mình xông vào trướng soái quân địch và sở trường ẩn giấu tung tích cao siêu.

Có kẻ địch như thế, ai lại không đau đầu?

“Rốt cuộc hắn muốn làm gì?”

“Ta cũng không rõ.” Sắc mặt Nhược Hàn vô cùng khó coi, “Hắn muốn ta chuyển một câu đến Đại vương”. Nhược Hàn rành rọt thuật lại những điều đã xảy ra. Chuyện đại sự trong quân không cho phép xảy ra sai sót, nên việc bị đánh đến ngất đi tuy mất mặt, nhưng Nhược Hàn vẫn hai năm rõ mười kể đủ đầu đuôi.

Biết kẻ đến là Sở Bắc Tiệp, biết Nhược Hàn vừa thoát khỏi miệng hổ, mọi người đâu dám nghĩ điều gì khác. Thấy Sở Bắc Tiệp cuồng ngôn, nói sẽ lần lượt giết hết đại tướng Bắc Mạc như thế, ai nấy tức đến đỏ mặt, mắng mỏ một hồi.

Nhược Hàn đáp: “Những lời Sở Bắc Tiệp nói cũng không phải là không có căn cứ. Nếu phòng thủ trong quân doanh của chúng ta tiếp tục lỏng lẻo như hiện nay, sẽ chẳng thể chống chọi với những cao thủ như hắn”.

Lời này nói ra, quần tướng có chút hổ thẹn.

Trong lòng họ hiểu rằng, quân doanh Bắc Mạc không nghiêm ngặt bằng đại quân được huấn luyện kỹ càng của Đông Lâm. Binh lính do một tay Sở Bắc Tiệp đào tạo ra, e là cũng chỉ có Hà Hiệp mới có thể đối kháng.

Nhược Hàn nhìn ra ngoài màn trướng, trời vẫn chưa tỏ, chỉ có chút ánh sáng màu cam lẫn trong mây xám.

“Hành trình không đổi, ngày mai xuất phát. Quần tướng hãy lui ra, ta cần suy nghĩ một lát.”

Sau khi cho những người kia lui ra, Nhược Hàn gọi Sâm Vinh lại, “Ngươi ở đây”.

Sâm Vinh gật đầu, ngồi xuống suy nghĩ, rồi cau mày: “Thượng tướng quân, có việc này thuộc hạ nghĩ mãi không thông. Sở Bắc Tiệp dọa giết hết đại tướng Bắc Mạc, nhưng sao đã đột nhập thành công, hắn lại chỉ muốn Thượng tướng quân chuyển lời, mà không ra tay sát hại?”.

Nhược Hàn đáp: “Ta cũng đang cảm thấy việc này kỳ quái. Nhìn thần sắc của hắn, ỷ thế võ công cao cường, nên vô cùng kiêu ngạo. Hắn tuyên bố sẽ bắt đầu từ tướng lĩnh lớn nhất Bắc Mạc ta, từng người, từng người một, giết sạch cho đến khi Bắc Mạc không còn tướng cầm quân”.

“Nhưng, Thượng tướng quân đã là tướng lĩnh cao nhất trong quân Bắc Mạc. Nếu thực sự muốn làm vậy, Sở Bắc Tiệp sẽ phải bắt đầu từ Thượng tướng quân.”

Thần sắc Nhược Hàn chợt đổi: “Thôi chết rồi! Ta hiểu rồi!”.

Sâm Vinh kinh ngạc: “Thượng tướng quân đã nghĩ ra việc gì?”.

Vẻ mặt vô cùng nặng nề, Nhược Hàn chậm rãi: “Thượng tướng quân, Tắc Doãn thượng tướng quân”.

Lần này đến lượt sắc mặt Sâm Vinh thay đổi: “Đúng thế, người đầu tiên hắn muốn giết chính là Tắc Doãn thượng tướng quân!”.

Tắc Doãn là trụ cột trong quân Bắc Mạc, dù đã quy ẩn, nhưng danh tiếng của Tắc Doãn vẫn không suy giảm, có địa vị tương đương với Sở Bắc Tiệp trong quân Đông Lâm.

Giả như tin Tắc Doãn bị Sở Bắc Tiệp ám sát lan ra ngoài, lòng quân Bắc Mạc đang rệu rã sẽ không chịu nổi một đòn tấn công.

Sâm Vinh cũng là lão tướng theo Tắc Doãn nhiều năm, nên vô cùng lo lắng cho Tắc Doãn, giọng nói trở nên luống cuống: “Làm thế nào bây giờ? Việc có liên quan đến sự sống chết của Tắc Doãn thượng tướng quân, chúng ta không thể ngồi nhìn”.

“Thượng tướng quân là danh gia kiếm thuật của Bắc Mạc ta, bên cạnh còn có những hộ vệ tâm phúc, chỉ sợ Sở Bắc Tiệp đột kích lúc Thượng tướng quân không đề phòng.”

“Phải lập tức thông báo để Tắc Doãn thượng tướng quân đề phòng Sở Bắc Tiệp.” Sâm Vinh như bỗng nghĩ ra điều gì, ảo não, “Sau khi từ quan, không biết Thượng tướng quân đã ẩn cư nơi nào, chúng ta phải lập tức cử binh mã tìm kiếm, đưa tin đến đó. Sở Bắc Tiệp nắm quân quyền của Đông Lâm, tai mắt khắp nơi, tuyệt đối không thể để hắn tìm được Thượng tướng quân trước chúng ta”.

Nhược Hàn suy tính kỹ, cười nói: “Việc này ngươi không phải lo. Ta biết, giờ ta sẽ viết thư. Thượng tướng quân là bậc anh hùng, chỉ cần Thượng tướng quân có phòng bị, tuyệt đối sẽ không để Sở Bắc Tiệp được đắc ý”.

Nắng sớm vừa xuất hiện, tuấn mã đã lao ra khỏi quân doanh Bắc Mạc, phi như bay về phía sơn mạch Tùng Sâm.

Vẫn chờ sẵn ở dốc cao khác, Sở Bắc Tiệp đứng bật dậy, nhìn theo bóng dáng kẻ đưa thư đang mỗi lúc một nhỏ dần, khẽ vuốt ve con ngựa yêu bên cạnh: “Phải lên đường rồi, chúng ta mau đi tìm nữ chủ nhân của ngươi”.

Chàng nhảy lên ngựa, ung dung quất roi.

Tuấn mã hí vang, tung bốn vó cuốn bay bụi đường, đuổi theo người đưa thư.

Nhìn theo hướng người đưa thư đi, đúng như Sở Bắc Tiệp dự đoán, nơi ẩn cư của Tắc Doãn và Dương Phượng ở ngay giữa sơn mạch Tùng Sâm mờ mịt.

Sính Đình, nàng vẫn hay nhắc với ta về người hảo hữu Dương Phượng.

Nếu Dương Phượng ẩn cư ngay gần biên giới Vân Thường, chắc chắn nàng sẽ đến đó, đúng không?

Nàng đã gặp được Dương Phượng chưa? Hay vẫn đang trên đường tới đó?

Sở Bắc Tiệp ta là kẻ bất tài, ta đã xông vào các cửa khẩu của Vân Thường mà vẫn không tìm thấy tung tích nàng đâu. Bảo kiếm trong tay tuy sắc bén, nhưng ở nơi biển tuyết mênh mông, ta cũng chẳng thể ép hỏi trời xanh hướng đi của nàng.

Ta chỉ làm được một việc là xông vào doanh trại Bắc Mạc, dụ Nhược Hàn liên lạc với Tắc Doãn. Vốn là người kế vị, Nhược Hàn chắc chắn sẽ biết nơi ẩn cư của Tắc Doãn.

Sính Đình, xin nàng hãy dừng bước, đừng tiếp tục phiêu dạt một mình nữa. Ta xin nàng đừng quên hảo hữu Dương Phượng của mình, hãy đến gặp nàng ấy.

Ta sẽ ở đó đợi nàng, ngăn nàng lại, ôm lấy nàng, hôn nàng, và cầu xin nàng tha thứ.

Vì nỗi tương tư thanh khiết như nước giữa hai ta, vì mùi hương còn vấn vương quyến luyến, vì những đợi chờ, và vì tình yêu kiên định như núi của hai ta.

Ta đã hiểu, thế nào là biển cạn đá mòn, là bãi bể nương dâu, và thế nào là cả đời không phụ bạc.

Thành đô Vân Thường, tiếng ca hát thâu đêm suốt sáng. Pháo hoa đủ màu sắc mặc sức bung tỏa trên bầu trời đêm, bụp một tiếng, soi rọi những nụ cười rạng rỡ trên khuôn mặt chúng dân trong thành.

Công chúa cùng Phò mã trở về.

Trên chiếc xe ngựa hoa lệ, tấm rèm từ từ được vén lên. Diệu Thiên cười rạng rỡ, hạnh phúc dựa vào Hà Hiệp. Cảnh tượng khiến người ta cảm động mà hân hoan này như khắc sâu vào lòng dân chúng Vân Thường.

Làm nền cho đôi trai tài gái sắc là hàng vạn binh lính Vân Thường bình yên trở về đoàn tụ cùng với gia đình. Họ mang theo tinh thần quyết tử khi ra trận, nhưng may mắn được ông Trời đoái thương nên không phải trải qua khói lửa chiến tranh.

Tưng bừng chào đón họ là tiếng reo vui hòa lẫn pháo hoa khắp trời.

Và có cả rượu ngon.

Các ca vũ cơ diễm lệ thướt tha qua lại nơi đại điện. Trăm quan sảng khoái thưởng rượu. Hà Hiệp tươi cười nhận rượu các quan kính lên, rồi xua tay tạm thời ngăn dòng người mời rượu, tự mình bưng một chén, ngồi xuống trước mặt Quý Thường Thanh vẫn đang mỉm cười bên cạnh.

“Chén rượu này, ta muốn mời Thừa tướng.”

Quý Thường Thanh có chút ngạc nhiên, vội vàng nâng chén: “Thần không dám, rượu này phải mời Phò mã. Phò mã dẫn binh viễn chinh, vất vả rồi”.

Hà Hiệp đã uống không ít, khuôn mặt tuấn tú ửng đỏ, ánh mắt thoáng chút say: “Thừa tướng khiêm tốn quá. Dẫn binh đánh trận là việc dùng sức. Thừa tướng trấn giữ thành đô mới thực hao tâm tổn trí”.

Quý Thường Thanh vốn trước nay không uống rượu, nhưng vào lúc đại chiến được hóa giải, người không uống rượu cũng hào hứng uống lấy mấy chén chúc mừng. Lòng hăng hái, Quý Thường Thanh giơ chén, nói: “Được, thần và Phò mã cạn chén này, chúc cho Công chúa điện hạ phúc thọ vô biên, sớm sinh quý tử”.

Hà Hiệp cười ha hả: “Ước nguyện này rất thực tế, đa tạ Thừa tướng!”. Dứt lời, Hà Hiệp ngẩng đầu uống cạn.

“Phò mã…”

“Lục Y?” Quay lại, thấy cung nữ tâm phúc bên cạnh Diệu Thiên, Hà Hiệp nhìn một vòng các quan đang huyên náo chúc tụng, rồi gọi Lục Y sang một bên, hạ giọng, “Công chúa muốn triệu kiến?”.

Lục Y lắc đầu, dí dỏm cắn môi dưới, cười bảo: “Không phải. Công chúa sai nô tỳ đến nói với Phò mã, Công chúa đi cả chặng đường dài mệt mỏi, tắm gội xong muốn đi nghỉ, mời Phò mã đến mai hãy gặp. Công chúa còn nói, Phò mã giữ gìn sức khỏe, đừng uống quá nhiều rượu. Phò mã đi đường vất vả, uống nhiều rượu sẽ rất có hại”.

Hà Hiệp cười vang: “Ta còn đang lo không dễ ứng phó với trăm quan đang háo hức kính rượu ở đây, có vương lệnh này của Công chúa, vừa hay ta có thể cáo từ họ, về nghỉ ngơi”.

Ngay lập tức, Hà Hiệp lấy lời công chúa để ngăn những quan viên vẫn muốn kính rượu, rồi rời khỏi vương cung, trở về phủ phò mã.

Trước cổng phủ phò mã, bao nhiêu thị vệ đã đứng chờ sẵn. Đông Chước dẫn đầu bọn họ, nghển cổ trông ngóng về phía dòng người qua lại. Tiếng vó ngựa lộp cộp bất chợt vang lên, đội binh mã đang lại gần.

“Cung nghênh Phò mã!”

Ngựa dừng, Đông Chước vội vàng tiến đến, đón dây cương, ngẩng đầu nói: “Thiếu gia đã về”.

“Ừ”, Hà Hiệp đáp một tiếng, nhảy xuống ngựa, bước nhanh về phía đại môn. Thấy bao nhiêu thị vệ, thị nữ cung kính nghênh đón mình, hắn khẽ cau mày: “Nhiều người đứng ở cổng thế này làm gì? Giải tán”.

Đông Chước ném dây cương cho thị vệ bên cạnh, xua tay ra hiệu tất cả lui về, một mình bước theo Hà Hiệp.

Hà Hiệp bước nhanh, không hề dừng lại, Đông Chước phải vội vã đuổi theo.

Chỉ đến khi vào hậu viện, vòng hai, ba ngã rẽ, trước mặt là phòng của Sính Đình, Hà Hiệp mới dừng bước, ngẩn người đứng bên ngoài.

Đông Chước nhìn Hà Hiệp không rời mắt khỏi phòng Sính Đình, ngây người như bức tượng gỗ. Tình cảnh này thật khiến người ta cảm thấy thê lương.

Ban đầu cứ ngỡ Hà Hiệp vô tình, nên lúc Diệu Thiên làm khó, Đông Chước cũng mắt nhắm mắt mở mà thả Sính Đình đi. Nay nhìn Hà Hiệp như vậy, hắn lại thấy thiếu gia mình thật đáng thương.

Lo lắng xen lẫn buồn bã, Đông Chước không ngăn được bước đến bên cạnh, khẽ gọi: “Thiếu gia…”.

Hà Hiệp sực tỉnh, lơ đãng quay lại nhìn Đông Chước, rồi chậm rãi bước lên trước, đẩy cửa.

Kẹt…

Cánh cửa chuyển động, phát ra tiếng kêu thật khẽ. Bài trí trong căn phòng dần lọt vào tầm mắt hai người.

Chậu cảnh trên bệ cửa sổ đã héo khô, trên giường thu dọn rất gọn gàng, dây tua hai bên rũ xuống. Dưới gầm giường đặt đôi giày thêu hoa.

Nơi bàn trang điểm vẫn chiếc gương đồng, bên cạnh là hộp trang sức mạ vàng mà Hà Hiệp đã đặt làm cho Sính Đình.

Đàn vẫn yên lặng nằm đó, phủ lớp bụi mờ mờ.

Hà Hiệp tiến vào phòng, bước chân rất khẽ, như sợ làm kinh động đến điều gì, rồi ngồi xuống chiếc ghế lạnh lẽo, đặt bảo kiếm lên bàn.

Hà Hiệp đã từng múa thanh bảo kiếm này.

Ngay tại phủ phò mã này.

Kiếm dịu dàng ra khỏi vỏ, như giao long gặp nước, mặc sức vẫy vùng, lại như thân mây cuốn quanh cành cây, biến ảo khôn lường.

Sính Đình cũng ở đó, ngồi dựa người vào trụ đình. Họ lặng lẽ nhìn nhau.

Ánh mắt Sính Đình như khói, như nước, ngón tay linh hoạt dệt nên khúc Cửu thiên. Khoảnh khắc tiếng đàn vang lên, suýt chút nữa Hà Hiệp tưởng rằng, tất cả vẫn chưa hề đổi thay.

Suýt chút nữa Hà Hiệp tưởng rằng, những năm tháng kiêu ngạo, phong hoa tuyết nguyệt chưa từng mất đi.

Hà Hiệp đã sai.

Lúc này, trong sâu thẳm ánh mắt Hà Hiệp như đang ngưng tụ những tia lạnh lẽo. Hà Hiệp đã sai, năm tháng kiêu ngạo xưa giờ đã chẳng còn nữa, phong hoa tuyết nguyệt cũng không còn tồn tại.

Mưu lược và võ công đấu không lại quyền thế hiển hách.

Chỉ cần một vương lệnh của Diệu Thiên cũng đủ phá nát mộng cảnh đẹp đến hư ảo mà Hà Hiệp đã bao năm hao tâm tổn sức, cố gắng lưu giữ lại.

Diệu Thiên, thê tử của Hà Hiệp, chủ nhân của Vân Thường.

Đối diện với căn phòng vắng bóng Sính Đình, với phủ phò mã không còn hơi ấm, Hà Hiệp sực tỉnh trước sự thực phũ phàng.

Một ngày còn sự tồn tại của Diệu Thiên, Hà Hiệp sẽ chỉ có thể là phò mã.

Một phò mã không thể bảo vệ được cả thị nữ của mình.

“Thiếu gia, cây đàn cổ này… có cất đi không?”

“Cứ để đấy.” Hà Hiệp nhìn chăm chăm về phía cây đàn cổ, môi khẽ nhếch, “Cứ để đấy, chờ Sính Đình quay về”.

Sính Đình sẽ quay về, về bên cạnh ta.

Ta sẽ không cho phép bất cứ kẻ nào tiếp tục lấy đi những thứ của riêng ta.

Ta sẽ không cho phép bất cứ một ai làm ô nhục bốn chữ “Vương phủ Kính An”.

Ta sẽ không để vương tộc Vân Thường cùng lão già dối trá Quý Thường Thanh kia trói buộc tay chân mình.

Ta sẽ không để hùng tâm tráng chí phải khuất phục trước vẻ dịu dàng và vương uy của Diệu Thiên.

Sẽ không còn kẻ nào dám đối xử với ta như thế.

Cả chặng đường dài bám theo dấu vết lính đưa thư, Sở Bắc Tiệp dừng ngựa trước sơn mạch Tùng Sâm, ngẩng đầu nhìn lên.

Dãy núi hùng vĩ chìm trong tuyết trắng đẹp một cách thần bí.

Dương Phượng ẩn cư trong núi này.

Sính Đình, chắc nàng cũng đang ở đây.

Có thể nàng đang gảy đàn, đang đọc sách, cũng có thể đang hát khúc anh hùng giai nhân, dùng binh không ngại dối lừa.

Ngẩng đầu nhìn dãy núi hùng vĩ trước mắt, Sở Bắc Tiệp không sao ngăn nổi nhịp đập thình thịch của con tim.

Chàng khát khao được nhìn thấy Sính Đình.

Bao nhớ nhung không ngừng gào thét trong đêm đen, giày vò chàng cả trong những giấc mộng… nhưng tất thảy vẫn không đủ để ngăn nỗi sốt ruột này.

Theo lời dặn dò của Nhược Hàn, lính đưa thư cẩn trọng lên đường, liên tục kiểm tra xem có ai bám theo không. Nhưng, dù hắn có khôn ngoan tài giỏi đến mức nào cũng không thể là đối thủ của Sở Bắc Tiệp.

Lặng lẽ theo sau hắn, khi đến được ngọn núi Tắc Doãn ẩn cư, chàng mới thúc ngựa đi lên con đường núi, cuối cùng cũng nhìn mấy mười mấy gian nhà gỗ ẩn mình trong núi rừng. Sở Bắc Tiệp hiên ngang tiến tới, chưa đến cổng, bên đường bỗng xuất hiện mấy đại hán ngáng đường, hét lên: “Đứng lại! Có biết đây là nơi nào không, mà dám tự ý xông vào?”. Ánh kiếm loang loáng trong tay mấy người vung lên, có thể thấy thân thủ của họ cũng không tồi.

Mấy thứ dọa dẫm này đối với Sở Bắc Tiệp thật chẳng khác nào trò đùa. Chàng chẳng buồn tránh né, vẫn ung dung ngồi trên ngựa, nhìn quanh một vòng, rồi hạ giọng: “Nói với Tắc Doãn, Sở Bắc Tiệp đến rồi”.

“Sở Bắc Tiệp?”

“Đông Lâm Sở Bắc Tiệp?”

“Trấn Bắc Vương?”

“Chính ta.” Khóe môi nhếch lên một nụ cười, Sở Bắc Tiệp nói, “Ta đến đón vương phi của ta, Bạch Sính Đình”.

Thống lĩnh đại quân Đông Lâm chinh chiến bốn phương, vị ma vương thần chết khiến mọi người kinh sợ lại xuất hiện ngay trước mắt họ.

Một người cánh tay run rẩy, suýt chút nữa đánh rơi thanh kiếm.

“Còn ngẩn ra đó làm gì? Mau đi thông báo.” Con ngựa của Sở Bắc Tiệp phì một tiếng, tiến về phía trước.

Đám đông vội vã lùi ra sau, vẻ mặt vô cùng cảnh giác. Trong trận chiến Kham Bố, vị danh tướng đương thời này đã làm cho Thượng tướng quân Tắc Doãn của bọn họ hoàn toàn bó tay, suýt chút nữa hủy cả Bắc Mạc.

Kẻ nhanh nhạy nhất gào lên một tiếng rồi quay người chạy đi báo tin. Mấy tên còn lại cố nén nỗi sợ hãi, giương đao bao vây Sở Bắc Tiệp, mọi ánh mắt dồn cả vào bảo kiếm của chàng.

Tương truyền, mỗi khi bảo kiếm này rút ra khỏi bao, máu lại chảy thành sông.

Sở Bắc Tiệp ngồi trên lưng ngựa, tựa như thần tướng từ trên trời xuống chốn trần gian. Đứng trước vòng vây hung dữ, thần thái chàng vẫn vô cùng an nhàn tự tại, mang theo niềm hân hoan chờ đợi.

Sính Đình, ta đến rồi.

Nàng đang làm gì?

Có phải nàng đang đánh cờ với Dương Phượng?

Nàng từng nói, Dương Phượng tinh thông thuật đánh cờ. Có thể cho phép Sở Bắc Tiệp ta đứng cạnh quan sát không? Cho ta ngồi cạnh nàng, ngắm ngón tay thon nhỏ của nàng nhặt từng quân đen trắng đặt lên bàn cờ. Cảnh tượng ấy chắc chắn sẽ khiến người ta vui lòng, nhìn cả đời không thấy chán.

Người đi báo tin nhanh chóng quay lại, vẻ mặt vô cùng lạ lùng, không dám đứng quá gần Sở Bắc Tiệp, chắp tay nói: “Trấn Bắc vương, Thượng tướng quân có lời mời”.

Sở Bắc Tiệp vui vẻ gật đầu, đi theo tên thị vệ dẫn đường đến trước đại môn. Trước cổng yên tĩnh, chẳng một bóng người, không thấy Dương Phượng hay Sính Đình, cũng chẳng thấy Tắc Doãn đâu. Vốn võ nghệ cao cường, gan dạ hơn người, một thân một mình quyết chiến với đội ngũ thị vệ trong vương cung Đông Lâm, Sở Bắc Tiệp còn không sợ, huống hồ là mấy gian nhà gỗ bé này.

Xuống ngựa, tay đặt vào bảo kiếm, chàng ngẩng đầu, đi thẳng vào trong.

Bước vào trong phòng, Sở Bắc Tiệp bỗng sững lại. Đập vào mắt chàng là một màu tang thương, rèm rủ, màn che màu trắng, cả khách sảnh rộng lớn không một chỗ ngồi, chỉ có chiếc quan tài gỗ cô độc nằm ngay chính giữa.

Sở Bắc Tiệp đang bước vào một linh đường.

Trong phòng chỉ có một nam nhân vẻ mặt trầm buồn, hai hàng mày đậm, ánh mắt lấp lánh: “Trấn Bắc Vương?”.

Sở Bắc Tiệp ung dung đón ánh nhìn sắc bén của người kia: “Bắc Mạc thượng tướng quân?”.

Bỗng tiếng nữ nhân thất thanh vang lên: “Sở Bắc Tiệp! Sở Bắc Tiệp ở đâu?”.

Trong lòng đang nghĩ về Sính Đình, nghe thấy giọng nữ, Sở Bắc Tiệp đoán là Thượng tướng quân phu nhân Dương Phượng, bèn cất tiếng, sang sảng đáp: “Bản vương Sở Bắc Tiệp ở đây”.

Lời còn chưa dứt, bất chợt có ai kéo mạnh tấm rèm che phòng bên, một bóng dáng nhỏ nhắn chạy ra ngoài. Sắc mặt Dương Phượng trắng bệch, đâm thẳng vào ngực Sở Bắc Tiệp như một kẻ điên.

Dương Phượng xuất hiện bất ngờ, nhưng sao có thể làm Sở Bắc Tiệp bị thương. Kiếm chưa kịp đâm vào ngực, Sở Bắc Tiệp đã giơ tay, nắm ngay lấy cổ tay Dương Phượng.

Tắc Doãn không ngờ Dương Phượng lại xách kiếm lao tới từ bên trong, lúc phát hiện ra thì đã muộn, khuôn mặt biến sắc: “Ngươi dám làm bị thương thê tử ta?”, rồi tung người nhào tới.

Sở Bắc Tiệp chỉ một chiêu đã giữ được tay Dương Phượng, nhưng nghĩ đây là hảo hữu của Sính Đình nên chẳng dám làm gì, ngón tay chỉ ấn mạnh lên cổ tay trắng nõn của Dương Phượng, rồi theo đà đẩy một cái, Dương Phượng lảo đảo ngã về phía sau.

Tắc Doãn kịp thời lao đến, đỡ lấy Dương Phượng. Biết Sở Bắc Tiệp lợi hại thế nào nên Tắc Doãn chỉ lo Dương Phượng bị thương, vội hỏi: “Nàng có bị thương không?”.

Dương Phượng lắc đầu. Tóc nàng rối tung, hai mắt đỏ ngầu, không còn chút điệu bộ an nhàn trấn tĩnh thường ngày. Nàng quay sang trừng mắt nhìn Sở Bắc Tiệp, rồi lại khóc rống lên, nắm tay áo Tắc Doãn khẩn cầu: “Chàng hãy giết hắn giúp thiếp! Chàng hãy giết hắn đi!”.

Sở Bắc Tiệp đã nghe Sính Đình kể Dương Phượng là người dịu dàng lễ độ, không ngờ lần đầu tiên gặp, nàng ấy lại điên loạn thế này. Trong lòng sinh nghi, đôi mắt quét qua cỗ quan tài đặt giữa sảnh, Sở Bắc Tiệp bỗng cảm thấy không hay, trái tim thắt lại, hạ giọng: “Sính Đình đâu?”.

Dương Phượng như không nghe thấy câu hỏi của Sở Bắc Tiệp, cứ liên tục đánh mạnh vào ngực Tắc Doãn, khóc lóc khẩn cầu: “Phu quân, hãy giúp thiếp giết hắn! Hắn hại chết Sính Đình, chính hắn đã hại chết Sính Đình!”.

Như bị sét đánh trúng, Sở Bắc Tiệp bật lên trước mấy bước, hét lên: “Ngươi nói gì? Người vừa nói gì?”.

Tiếng hét như hổ gầm, khiến Dương Phượng sực tỉnh. Nàng không còn đánh Tắc Doãn đang an ủi mình nữa, sững sờ quay lại nhìn Sở Bắc Tiệp, đôi mắt đỏ ngầu như đang nhỏ máu, gằn từng tiếng: “Ngươi hại chết Sính Đình, ngươi hận Sính Đình, đẩy muội ấy vào tay Hà Hiệp, khiến muội ấy phải cô độc chết nơi đất tuyết”. Từng từ rít qua kẽ răng, giọng nói âm u, như vọng lên từ nơi sâu thẳm của quỷ vực.

Sở Bắc Tiệp lùi lại một bước, quay sang nhìn cỗ quan tài giữa sảnh, cố cười thành tiếng: “Không thể nào, việc này không thể nào. Các người đang lừa ta, vì Sính Đình không cam lòng nên các người nghĩ kế lừa ta”. Tuy miệng nói như vậy, nhưng cả người Sở Bắc Tiệp vẫn lạnh như rơi xuống động băng.

Dương Phượng là hảo hữu của Sính Đình, cùng lớn lên với Sính Đình. Sở Bắc Tiệp đi nhiều hiểu rộng, tất nhiên biết rõ nỗi đau lúc này đây của Dương Phượng không thể là giả.

Cả cuộc đời, chàng chưa từng trải qua cảm giác lạnh toát thế này, cái lạnh cắt nát thịt da, tàn phá gân cốt.

“Các người lừa ta, Sính Đình đang ở đây, đang trốn ở đây.” Sở Bắc Tiệp cười lớn, khuôn mặt nhăn nhúm, ánh mắt lướt tới Tắc Doãn đang ôm Dương Phượng trong lòng.

Cánh tay vẫn đặt trên kiếm, như thể chỉ cần Tắc Doãn nói sai một từ, Sở Bắc Tiệp sẽ lập tức rút kiếm, băm vằm hắn ra thành trăm mảnh.

Tắc Doãn không nói gì, vẫn lặng lẽ an ủi ái thê đang nức nở, thẳng thắn đón nhận ánh nhìn của Sở Bắc Tiệp.

Trong ánh mắt Sở Bắc Tiệp, ngoài sự kiên nghị, cương trực, cố chấp, ngang ngược, còn ẩn chứa cả tia sợ hãi xen lẫn chờ đợi khẩn cầu.

Nơi sâu thẳm đôi mắt ấy đang trào dâng cơn sóng dữ, dần nhấn chìm nỗi tuyệt vọng không dám tin.

Sở Bắc Tiệp bỗng thấy trên khuôn mặt Tắc Doãn - kẻ địch trước đây của mình - thấp thoáng sự cảm thông.

“Không thể nào, không thể nào…” Như bị đao sắc đâm thẳng vào tim, Sở Bắc Tiệp gầm lên, loạng choạng lùi về sau mấy bước, gọi lớn. “Sính Đình, Sính Đình! Nàng mau ra đây! Ta đến rồi, Sở Bắc Tiệp đến rồi!”.

“Ta đến để đền tội với nàng! Tùy nàng trách phạt! Sính Đình, nàng ra đây!”

Sở Bắc Tiệp gầm lên như con mãnh thú bị thương, chấn động cả núi rừng, khiến những bông tuyết đang đậu trên cành cây cũng kinh hãi rơi xuống. Cả sơn mạch Tùng Sâm trầm mặc trong tiếng gào thét bi thương của Sở Bắc Tiệp.

Sao có thể? Điều này sao có thể xảy ra?

Những ngón tay khéo léo ấy, nụ cười tuyệt thế ấy, hương thơm ngây ngất lòng người và cả dáng hình mềm mại ấy, sao có thể mất đi?

Chàng nghe rất rõ, nàng đang đánh đàn, hát khúc anh hùng giai nhân, hỗn loạn làm sao, thành làm vua bại làm giặc, dùng binh không ngại dối lừa, hát khúc đa tình tương tư, vừa gặp đã vui.

Rõ ràng nàng đang ở đây, ngay trong gió, trong sương, trong mây, trong tuyết, với nụ cười nhàn nhã, đôi mắt đen lặng lẽ nhìn chàng như muốn dốc bầu tâm sự.

Ở đâu? Sính Đình đang ở đâu?

Sở Bắc Tiệp đờ đẫn quay người, nhìn về phía cỗ quan tài cô độc đằng kia.

“Nàng ấy đã đến được chân núi, nhưng gặp bầy sói dữ, chỉ còn cách một đoạn”, Tắc Doãn trầm giọng, “Chỉ còn cách một đoạn đường…”.

Dương Phượng dần bình tĩnh, nhìn Sở Bắc Tiệp bằng đôi mắt vằn những tia máu, giọng thê thảm: “Muội ấy đến tìm ta, ta biết muội ấy sẽ đến tìm ta. Muội ấy vẫn cài cây trâm dạ minh châu ta tặng, vượt qua sơn mạch Tùng Sâm, vượt qua ngàn dặm xa xôi để đến đây tìm ta. Sao ta lại không sớm sai người xuống núi? Tại sao? Tại sao…”. Gục đầu vào Tắc Doãn, hai vai Dương Phượng run lên bần bật.

Sở Bắc Tiệp vẫn nhìn chằm chằm vào cỗ quan tài, không còn hồn phách.

Chàng tiến đến bên cỗ quan tài, từng bước chân như giẫm lên mây, hư ảo, không chút thực tại.

Tất cả tựa một giấc mộng, có lúc cỗ quan tài ở ngay trước mắt, có lúc lại như ở rất xa. Chỉ cách mấy bước chân mà chàng phải dốc hết sức lực mới có thể đi đến.

Cuối cùng, Sở Bắc Tiệp cũng chạm được vào cỗ quan tài, khí lạnh từ đầu ngón tay lan tới tận tim, khiến một Sở Bắc Tiệp uy danh lẫy lừng khắp thiên hạ cũng phải rùng mình.

“Sính Đình, nàng ở đây…”, Sở Bắc Tiệp dịu dàng thì thầm với cỗ quan tài.

Chàng muốn mở nắp quan tài, ôm lấy ái thê, vương phi của chàng, Bạch Sính Đình của chàng.

Nhưng, khi mười ngón tay chạm vào nắp quan tài, Trấn Bắc vương hùng dũng ngày nào giờ lại chẳng còn chút sức lực. Bàn tay chai sần run rẩy, cố gắng thế nào cũng không thể ngừng run.

“Nàng ấy gặp phải bầy sói, chỉ còn lại cây trâm dạ minh châu, bộ y phục rách nát, và cả…”, nắm tay thật chặt, Tắc Doãn hạ giọng, “Và cả mấy khúc xương”.

Từng tiếng nặng tựa ngàn cân, đập thẳng vào tim, hai đầu gối không còn sức lực, Sở Bắc Tiệp khuỵu xuống.

Chàng vẫn khẽ khàng mân mê cỗ quan tài vừa lạnh vừa cứng.

Sính Đình đâu có thế này. Nàng nhỏ nhắn, hoạt bát. Những ngày đông, má nàng phớt hồng như áng mây. Nàng thích ngắm sao trong đêm tuyết, lúc ấy nàng hệt như con mèo tìm đến lồng ngực ấm áp và vững chãi của chàng, thoải mái tựa đầu vào đó.

“Sính Đình…” Sở Bắc Tiệp mở rộng vòng tay, dốc hết sức ôm nàng vào lòng.

Chàng đến muộn rồi, muộn đến thảm hại.

Đáng lẽ chàng phải về vào đêm mồng Sáu, mở rộng vòng tay ôm lấy Sính Đình đang tựa cửa ngóng trông. Chàng phải ôm lấy nàng, không cho bất cứ việc gì có thể làm tổn thương nàng, để tất cả nguy hiểm rời xa, để nàng mỉm cười, để nàng uể oải đọc sách trong những ngày đông ấm áp, để nàng tự do tự tại, vô lo vô nghĩ mà thai nén hài nhi của họ.

“Gả cho ta nhé?”

“Tại sao?”

“Nàng giỏi đàn, giỏi ca hát, có cốt cách, lại khéo léo”, nụ cười tuấn tú khôi ngô của chàng tựa như thuốc độc ăn mòn trái tim nàng, “So với những nữ nhân kia, ta bằng lòng lấy nàng”.

“Thiếp…”

“Chúng ta thề với ánh trăng, không bao giờ phụ bạc.”

Không phụ bạc? Không bao giờ phụ bạc ở đâu?

“Chàng sống, thiếp cũng sống. Chàng chết, thiếp nguyện chết cùng chàng.”

Nụ cười của nàng, cái nhíu mày của nàng như vẫn đang trong không trung, trong hương hoa.

Ở bất cứ nơi đâu.

“Vương gia đi đánh trận sao?”

“Vương gia không cần giải thích với Sính Đình. Ngoài Vương gia, hiện giờ Sính Đình không muốn có bất cứ vướng bận nào.”

“Sính Đình một thân đón sinh thần của mình, sinh thần của Vương gia, chúng ta có thể ở bên nhau không?”

Chàng không làm được, chàng đã phụ nàng.

Để nàng giẫm lên từng mảnh tim vỡ, dưới ánh đao sắc bén, bước lên xe ngựa tiến về nơi xa.

Để nàng mang trong mình cốt nhục của chàng lưu lạc đến Vân Thường, vượt qua núi tuyết, nếm đủ nỗi thống khổ chốn nhân gian.

Để nàng bị bầy sói dữ bao vây, giằng xé thịt da, cắn hết gân cốt.

“Không!” Sở Bắc Tiệp điên cuồng thét dài một tiếng, rồi dứt khoát rút bảo kiếm.

Bảo kiếm uy chấn thiên hạ bị Trấn Bắc vương vứt xuống đất, lưỡi kiếm chạm tới nền đá, “keng” một tiếng, tóe lửa.

Sở Bắc Tiệp chậm rãi quay lại nhìn Dương Phượng: “Ta đã phụ Sính Đình, ngươi ra tay đi”. Không nhiều lời, chàng ngẩng đầu, nhắm mắt.

Im lặng hồi lâu, Dương Phượng bỗng vùng khỏi vòng tay Tắc Doãn, tiến tới nhặt bảo kiếm trên đất. Thanh kiếm rất nặng, dù Dương Phượng đã bê bằng hai tay, nhưng vẫn vô cùng run rẩy.

Mũi kiếm chĩa thẳng vào cổ họng Sở Bắc Tiệp. Chỉ cần chạm nhẹ, danh tướng đương thời, Trấn Bắc vương mà quân vương các nước đều muốn diệt trừ cho hết hậu họa sẽ mãi mãi biến mất khỏi cõi đời này.

Tách, tách…

Linh đường vô cùng yên ắng, chỉ còn lại tiếng giọt nước mắt của Dương Phượng đang nhỏ từng giọt, từng giọt xuống đất.

Vừa rồi còn hận nam nhân này đến thế, hận đến nỗi sẵn sàng cùng hắn tìm đến cái chết, nhưng lúc này đây, khi đang cầm kiếm chĩa thẳng vào cổ họng hắn, nàng lại run rẩy.

Sính Đình, Sở Bắc Tiệp khiến muội đau lòng rơi lệ, khiến muội tuyệt vọng đến tan nát cõi lòng đang ở dưới kiếm của ta.

Liệu hắn có từng làm nàng mỉm cười hạnh phúc?

“Thiên hạ mênh mông, muội có thể đi đâu?”

“Muội phải về nhà.”

“Về nhà?”

“Có người đang đợi muội.” Sính Đình cười nhẹ, trong mắt ánh lên vẻ dịu dàng và khao khát, khẽ đưa tay vuốt lại những sợi tóc bị gió thổi bay.

Dương Phượng nhớ rất rõ, Sính Đình đứng bên cửa sổ, ánh mắt tha thiết hướng về phía Đông Lâm xa xôi, nơi có Sở Bắc Tiệp.

Cánh tay cầm kiếm của nàng run rẩy, những ngón tay vẫn nắm chặt dần buông ra, bảo kiếm rơi xuống chân Dương Phượng.

Sở Bắc Tiệp ngạc nhiên, mở mắt.

Dương Phượng lạnh lùng: “Ta không cho phép ngươi xuống suối vàng làm phiền Sính Đình. Muội ấy không muốn gặp lại ngươi”. Dương Phượng đờ đẫn vỗ về cỗ quan tài, nhẹ giọng, “Sính Đình, ta biết muội mệt rồi. Muội hãy nghỉ đi, từ nay về sau muội sẽ không còn phải đau lòng vì ai nữa”.

Ở ngay kia, đang nằm đó là nữ nhân thân yêu trong lòng Sở Bắc Tiệp, vương phi của chàng, mẫu thân của con chàng. Sở Bắc Tiệp còn sống hay đã chết đều không còn mặt mũi nào gặp lại Sính Đình.

Đúng thế, đúng là chàng đã hại chết nàng.

Sính Đình sẽ không bao giờ tha thứ cho chàng, dù cho chốn nhân gian hay xuống tận suối vàng.

Chết, chàng chẳng còn mặt mũi nào mà xin nàng tha thứ. Sống, chàng không còn mặt mũi nào tìm kiếm thi thể của nàng.

Tuyệt thế giai nhân mà chàng dốc lòng theo đuổi đã bị chính chàng đẩy vào chỗ chết.

“Ngươi nói đúng…” Ánh mắt trống rỗng, Sở Bắc Tiệp như bức tượng bùn, chầm chậm đứng dậy, “Ngươi nói đúng…”. Chàng lưu luyến nhìn cỗ quan tài, nhưng không đủ dũng khí để chạm tay thêm lần nữa.

Chàng có tư cách gì mà chạm vào đó?

Sở Bắc Tiệp quay đi, trong mắt chàng không còn bất cứ ai, không có Dương Phượng, không có Tắc Doãn, cũng chẳng thấy cả con đường.

Chàng quên bảo kiếm, quên tất cả, bước ra đại môn, đờ đẫn nhìn đằng trước, đi về phía rừng sâu. Tuấn mã đang gặm cỏ khô ngoài cổng hí vang một tiếng, chạy theo sau Sở Bắc Tiệp.

Nó không thể hiểu, tại sao chủ nhân đi vào căn nhà gỗ, sau khi bước ra lại không còn hồn phách.

Thuộc hạ của Tắc Doãn nhìn thấy một người một ngựa rời đi, hạ giọng hỏi: “Thượng tướng quân, người này là kẻ địch lớn nhất của Bắc Mạc, chúng ta có nên nhân cơ hội…”.

Tắc Doãn chăm chú dõi theo bóng hình Sở Bắc Tiệp, lắc đầu thở dài: “Người ấy không còn là cường địch của bất cứ ai”.

Trấn Bắc vương uy danh hiển hách đã không còn nữa.

Trái tim chàng cũng đã chết
 

Hoa Tử

Sưu tầm
Tham gia
24/9/19
Bài viết
10,570
Điểm cảm xúc
1,484
Điểm
113
Chương 43:
Đại quân Bắc Mạc đang trên đường trở về.

Nhược Hàn nhận được thư của Tắc Doãn do lính đưa thư mang về.

Trái tim đã trải qua bao trận chiến chùng xuống theo từng câu chữ.

Bức thư mỏng bỗng trở nên nặng trĩu, hai tay Nhược Hàn nắm chặt bức thư, nhìn về phía Sâm Vinh thở dài: “Bạch cô nương mất rồi”. Khuôn mặt của vị tướng lĩnh đứng đầu Bắc Mạc như phủ đầy một lớp sương băng giá.

Đi rồi, nữ thống soái phong thái trác tuyệt ấy đã đi rồi.

Nàng chết ở sơn mạch Tùng Sâm băng lạnh, xương cốt bị bầy lang sói tha đi khắp nơi, chỉ còn lại cây trâm dạ minh châu tinh xảo sáng trên nền tuyết.

Trận chiến Kham Bố, nàng ung dung cười nói trước đại quân Đông Lâm… Ai ngờ, bậc kỳ nữ ấy lại có kết cục thế này?

Sâm Vinh sững sờ hồi lâu, giọng rất khẽ: “Có thật không?”.

Thật không thể tin, thật khiến người ta không thể nào tin.

Bạch Sính Đình, một khúc đàn của nàng đã đuổi lui mười mấy vạn quân dưới thành Kham Bố.

Chỉ cần một khúc.

“Thượng tướng quân phu nhân Dương Phượng cũng đổ bệnh rồi.” Ngừng một chút, Nhược Hàn cười chua chát, “Chúng ta đều đã lầm”.

Sâm Vinh không hiểu.

Nhược Hàn đáp: “Sở Bắc Tiệp vì không biết nơi ẩn cư của Thượng tướng quân Tắc Doãn, nên nửa đêm mới xông vào doanh trại quân ta, lớn tiếng dọa dẫm. Hắn đã đi theo lính truyền tin của chúng ta đến chỗ Thượng tướng quân Tắc Doãn”.

Sâm Vinh biến sắc: “Đó chẳng phải vì…”.

“Sở Bắc Tiệp không đến để giết người, mà đến để tìm người, tìm vương phi của mình, Bạch Sính Đình.”

“Sở Bắc Tiệp chẳng màng sống chết, nửa đêm xâm nhập quân doanh của chúng ta không vì quốc gia đại sự mà chỉ bởi vì nhi nữ tình trường.” Sững sờ hồi lâu, Sâm Vinh thở dài, “Hóa ra Sở Bắc Tiệp tấn công Vân Thường vì Bạch cô nương. Đây không phải cái cớ, mà thực sự là như vậy”.

Nhược Hàn gật đầu, đáp: “Đúng vậy, nay Bạch cô nương đã bỏ mạng ở sơn mạch Tùng Sâm, hùng tâm tráng chí của Sở Bắc Tiệp cũng hết. Tuy hắn và Bắc Mạc ta có mối thâm thù, nhưng hắn thực sự là bậc anh hùng khó kiếm thời nay”.

Đáng tiếc và đáng buồn thay.

Một kẻ là anh hùng, một người là giai nhân.

Ông Trời thật biết trêu đùa con người.

Hai vị chiến tướng từng đi theo Sính Đình trong trận đánh Kham Bố nên lòng không khỏi buồn thương. Trầm ngân giây lát, Sâm Vinh khẽ bảo: “Dù người khác nghĩ thế nào, tối nay Sâm Vinh cũng phải tìm một nơi thắp nén nhang cho Bạch cô nương. Thuộc hạ sẽ lấy bên quản lương quân vụ ít rượu thịt ngon, còn nữa, trong doanh trại còn mấy vò rượu, thuộc hạ cũng lấy hết. Thượng tướng quân, trong quân không cho phép tướng lĩnh uống rượu, nhưng Sâm Vinh mong Thượng tướng quân nể tình, cho phép tối nay thuộc hạ được uống cho thỏa, được không?”.

“Sao lại không được?”, Nhược Hàn cảm khái, “Đêm nay, tất cả tướng lĩnh Bắc Mạc từng tham gia trận chiến Kham Bố sẽ vì Bạch cô nương mà uống say một trận dưới trăng”.

Say sẽ quên nỗi đau, sao có thể không say?

Thế gian này, liệu có mấy Bạch Sính Đình?

Sắc trời sao cứ mãi u ám, u ám đến nỗi như mang điềm chẳng lành.

Và cả đôi mắt nàng cũng như có ai đang bịt chặt, không thể mở ra được?

Trong trí nhớ, nàng đã ở giữa mênh mông tuyết trắng, hương thơm của tuyết xộc vào mũi, thấm vào gan, vào ruột.

Nàng cũng từng mặc xiêm áo lộng lẫy, chân trần đứng trên ca đài tinh tế của vương phủ, khẽ cất giọng hát. Bất chợt nhìn xuống, nàng thấy những khuôn mặt thân thuộc đi ngang qua bị giọng hát của nàng níu lại, mọi người đều say mê lắng nghe.

Nhưng rồi tất cả đều tan biến.

Khi nào? Tại sao? Nỗi bi ai bỗng đè nặng khiến người ta không hiểu rõ nguyên nhân, dường như không có lý do, bi ai vì số trời đã định, hay để bù lại sự thông minh mà ông Trời ban tặng?

“Cô nương? Cô nương?”, giọng nói từ xa vọng lại.

Sính Đình mở mắt, đôi đồng tử dần thu lại ở một điểm. Bóng người trong mắt có chút quen thuộc, nhưng nàng nhất thời không nhớ ra là đã gặp ở đâu.

Đây là đâu? Nàng quay lại, muốn nhìn xung quanh, nhưng cả người ê ẩm như bị ai đánh, khẽ động một sợi tóc cũng thấy đau.

“A…” Nàng từ từ thở ra một hơi, chờ cơn đau đi qua.

Hài tử đâu?

Đúng rồi, hài tử của nàng! Nàng bỗng choàng tỉnh, mở mắt, hai tay ôm lấy bụng, khao khát nghe được dù chỉ một động tĩnh nhỏ nơi ấy.

“Đừng sợ, chúng ta đã cho cô nương uống thuốc rồi. Cô nương và cả đứa bé trong bụng đều không sao”, khuôn mặt trước mắt nàng cười vui vẻ.

Nỗi lo lắng được dẹp yên, nàng nhìn lên trần nhà. May quá, hình như đã rất lâu rồi nàng không thấy trần nhà, mà quanh nàng chỉ có đá và tuyết, như thể sẽ không bao giờ lại được thấy trần nhà nữa.

May quá, cuối cùng nàng cũng được cứu.

“Túy Cúc đâu? Dương Phượng đâu?”, Sính Đình nhìn quanh.

“Túy Cúc là ai? Dương Phượng…” Khuôn mặt vuông vức có chút không hiểu, nhưng chỉ lúc sau lại bật cười vui vẻ, “Ta biết rồi, cô nương đang nói tới Thượng tướng quân phu nhân? Ai ya, cô nương vẫn chưa tìm thấy Thượng tướng quân phu nhân sao? Bao lâu rồi, ngựa đã sinh ra ngựa con rồi mà cô nương vẫn chưa tìm thấy người”.

Nhất định nàng đã quên mất việc gì. Lo lắng nhìn khuôn mặt đang tươi cười kia, Sính Đình sực nhớ, vội hỏi: “Huynh chính là đại hán cao lớn ta gặp trên đường tới sơn trại Đóa Đóa Nhĩ, tên A Hán?”.

“Ha ha, cô nương nhớ ra rồi đấy! Chính là ta, A Hán! Cô nương còn tặng ngựa cho ta, bảo ta giữ lại tiền tìm một thê tử tốt”, A Hán cười sang sảng, “Nói cho cô nương biết, ta đã có thê tử, sắp có tiểu A Hán rồi”.

Nóc nhà như cũng đang rung theo tiếng cười của A Hán.

Sính Đình cười theo, ngạc nhiên hỏi: “Huynh không biết Túy Cúc ư? Thế sao huynh lại biết ta ở trên núi?”.

“Ta gặp cô nương mà. Ta lên núi tìm thỏ rừng về bồi bổ cho thê tử. Có con thỏ xám bị trúng tên, nhưng vẫn chạy rất nhanh, nó chui vào đống đá nên không thấy đâu. Ta vào tìm, ai ya, thỏ đâu chẳng thấy, chỉ thấy một cô nương bị lạnh cóng trong đó”, A Hán hưng phấn kể lại, giọng vui vẻ.

“Huynh đã cứu ta?”

“Tất nhiên, tất nhiên rồi!”, A Hán làm động tác, “Cõng cô nương từ trên núi tuyết về đây, còn mang cả cung tiễn và thỏ rừng, may mà ta vẫn đủ sức. Cô nương sắp bị đông cứng, uống bao nhiêu canh thỏ rừng mới đỡ đấy. Canh thỏ rừng bồi bổ cơ thể mà. Còn cả thuốc an thai là nhờ người lấy cho thê tử nữa, đều mang ra chăm sóc cô nương”.

Nghe A Hán nói vậy, trong lòng Sính Đình vừa cảm kích vừa ái ngại.

“Xin lỗi đã làm phiền huynh.”

“Không sao, thê tử ta da dày xương khỏe, mang thai tiểu A Hán vẫn làm việc được, không sợ đâu.”

Đúng lúc A Hán đang đắc ý, bên kia nhà một nữ nhân mặc chiếc áo bông to đùng tiến lại, bụng đã nhô cao, cười hỏi: “A Hán, chàng lại đang nói chuyện một mình đấy ư?”.

“Thê tử, lại đây, cô nương ấy tỉnh rồi!”, A Hán vẫy nữ nhân đó tới, vui vẻ giới thiệu với Sính Đình, “Đây là thê tử của ta”, rồi chỉ xuống bụng thê tử, giọng rất vui, “Còn đây là tiểu A Hán”.

A Hán tẩu cười véo A Hán một cái: “Hết củi rồi, đi chặt củi đi”, rồi nói với Sính Đình, “Cô nương tỉnh rồi. Ngày đông giá buốt, sao cô nương lại một mình lên núi tuyết thế? Sơn thần Tùng Sâm không dễ đùa đâu, mùa này đến nam nhân còn không dám lên đó, A Hán là đồ ngốc mới giấu ta lên đó săn thỏ rừng”.

A Hán tẩu cũng nhiệt tình giống hệt A Hán, bô lô ba la một hồi không ngớt. Có lẽ bởi người được cứu đã tỉnh, A Hán tẩu cảm thấy rất vui, thích thú ngắm nghía Sính Đình: “Ăn thêm con gà béo nữa là sắc mặt cô nương sẽ tốt lên ngay”.

Nhưng lúc này trong lòng Sính Đình lại nghĩ đến chuyện khác.

Đã hết kỳ hạn ba ngày chưa?

Giả như cứu binh tới tìm mà không thấy nàng, Dương Phượng và Túy Cúc sẽ lo lắng biết chừng nào?

Nhưng, ông Trời vẫn từ bi cho mẫu tử nàng qua được kiếp nạn này.

Hài tử của ta thật phúc lớn, mệnh lớn.

Sính Đình dịu dàng xoa bụng, bên trong hơi cồm cộm, vừa như mềm mềm, lại như cứng cáp, một cảm giác ấm áp không nói nên lời. Đó là cảm giác của sự sống.

“A Hán tẩu, ta muốn…”

“Đói rồi à? Để ta đi lấy đồ ăn cho.” Vị A Hán tẩu này nói là làm, thật là một đôi trời sinh với A Hán.

“Không, không…”, Sính Đình lắc đầu, “Ta muốn lên đường”.

A Hán tẩu trợn mắt: “Lên đường? Bộ dạng cô nương lúc này, muốn đi đâu? Không được, không được, ta vẫn chuẩn bị ngày mai làm một con gà béo”.

“Ta nhất định phải đi”, Sính Đình cố nhổm dậy, “Ta phải đi tìm Dương Phượng, tìm Thượng tướng quân Tắc Doãn”.

A Hán ở bên ngoài chặt củi, nhưng vẫn dỏng tai nghe ngóng động tĩnh bên trong, lúc này bèn ngó đầu vào, hét lớn: “Thượng tướng quân quy ẩn rồi, cô nương không tìm được đâu. Nghe nói Đại vương cũng không tìm thấy ông ấy”.

“Không, ta biết Tắc Doãn ở đâu. Ta phải đi ngay, không tìm thấy ta, họ sẽ rất lo lắng.”

Dương Phượng và Túy Cúc nhất định sẽ rất lo lắng.

Cơn rét đậm sắp qua, ánh mặt trời chiếu rọi, nước tuyết men theo những chỗ đất trũng, chậm rãi chảy khắp nơi.

Tuyết trên sơn mạch Tùng Sâm cũng sẽ tan ra như thế sao?

Cầm hổ phù của Vân Thường, dẫn binh xuất chinh, hôm nay lên triều đường, trước mặt bá quan văn võ, Hà Hiệp hai tay kính cẩn hoàn trả hổ phù.

Trận chiến đã kết thúc, quyền lực điều động đại quân phải trả về cho Công chúa Diệu Thiên.

Thấy hổ phù trong tay Hà Hiệp quay trở về tay Công chúa trước bao ánh mắt nhìn vào, trong lòng Quý Thường Thanh thầm thở phào.

Diệu Thiên đối với Hà Hiệp tình nghĩa sâu nặng, nếu không có lão Thừa tướng này liên tục nhắc nhở, nàng sẽ không đời nào chịu ban bố vương lệnh thu hồi hổ phù.

“Phò mã giận sao?” Kết thúc buổi chầu sớm, Diệu Thiên nhìn chằm chằm hổ phù vừa được trả về, trong lòng thấp thỏm không yên, bèn vội vã sai Lục Y triệu Phò mã đến. Thấy Phò mã thần thái hưng phấn, nhận lệnh đến ngay, trong lòng nàng mới bớt lo.

Hà Hiệp ngạc nhiên: “Sao Hà Hiệp phải tức giận?”.

“Diệu Thiên thu lại hổ phù.”

Hà Hiệp hiểu ra, cười ha ha, nhìn Diệu Thiên vừa như thương xót, vừa như không biết làm thế nào cho phải, rồi lắc đầu nói: “Sao Công chúa lại nghĩ thế? Chẳng lẽ ta và nàng không phải phu thê? Ta dù đố kỵ ai thì cũng không thể đố kỵ với thê tử của mình”. Hà Hiệp ngồi xuống cạnh Diệu Thiên, nắm tay nàng, vẻ mặt bỗng trở nên thần bí, hạ giọng: “Thừa tướng chúc Công chúa sớm sinh quý tử, làm thế nào mới xin được Công chúa vương lệnh cho bản phò mã giúp một tay đây?”.

Diệu Thiên thấy Hà Hiệp ngồi xích lại, hạ giọng thì thầm, cứ ngỡ có việc gì đại sự, nên lắng tai nghe, mới biết người này đang đùa mình. Hai má đỏ bừng, nàng cau mày quay sang một bên, giận dỗi: “Vừa kết thúc buổi chầu sớm, Phò mã đã không đứng đắn rồi, để Thừa tướng biết được, chẳng biết sẽ bị giáo huấn bao nhiêu lâu”.

“Công chúa nói lời này không đúng rồi”, Hà Hiệp cực kỳ nghiêm túc, ngồi thẳng lưng, e hèm mấy tiếng, “Sinh con đẻ cái là việc lớn trong đời, ngay cả lão thần cẩn trọng như Thừa tướng cũng đã nhắc đi nhắc lại chuyện đó, sao có thể gọi là không đứng đắn? Dù Công chúa có hạ vương lệnh hay không, bản phò mã cũng phải giúp nàng việc này”.

Trong lòng cảm thấy ngọt như ngậm đường phèn, Diệu Thiên đỏ mặt: “Không tìm Phò mã giúp thì tìm ai?”, giọng nói nhỏ như tiếng muỗi kêu, khiến người ta gần như không nghe thấy.

“Thế thì tối nay ta ở phủ phò mã cung nghênh Công chúa đại giá.” Hà Hiệp khấp khởi, mặc kệ lễ nghi vương thất, khẽ thơm một cái vào má Diệu Thiên, rồi đứng dậy, “Ta đi xử lý quân vụ, Công chúa nhớ kỹ cái hẹn tối nay”.

Diệu Thiên nhìn Hà Hiệp cất bước, dáng như hổ, như rồng, khóe môi không giấu nổi nụ cười tự hào. Đúng lúc Lục Y mang chè hạt sen đường phèn đến, nhìn vẻ mặt Diệu Thiên, bèn cười nói: “Nô tỳ đã nói sáng sớm thế này cần gì phải mang nước đường lên, Công chúa vừa gặp Phò mã đã thấy ngọt đến phát ngấy rồi, sao có thể nếm vị ngọt khác được”.

“Lục Y, giờ ngươi giỏi lắm rồi, còn dám trêu cả ta?”, Diệu Thiên quay về vẻ đoan trang thường thấy, nạt một câu: “Chắc chắn là học theo Phò mã rồi”. Nhưng không nhịn được, nàng cũng bật cười.

Đêm đó khi đến phủ phò mã, xuống xe ngựa, nàng vẫn không thấy Hà Hiệp đâu. Đông Chước chạy đến thỉnh an: “Công chúa điện hạ, Phò mã sai người đến chuyển lời, hôm nay Phò mã phải xử lý việc quân, nên về muộn một chút. Cơm tối đã chuẩn bị xong, Phò mã dặn chuẩn bị toàn những món Công chúa thích ăn, Công chúa dùng cơm ở phòng bên của hậu viện được không?”.

Diệu Thiên nghe thấy Hà Hiệp chưa về, không khỏi cảm thấy thất vọng, đành gật đầu: “Tùy ngươi”.

“Vậy bảo bọn họ bày đồ ăn ở phòng bên của hậu viện.”

Cơm canh quả nhiên vừa miệng, Diệu Thiên vẫn thường đến phủ phò mã, các đầu bếp trong phủ đã quen với khẩu vị của nàng nên dốc hết tâm huyết vào từng món, thậm chí còn làm tinh tế hơn các đầu bếp trong vương cung.

Nhưng Hà Hiệp không có ở đây, Diệu Thiên cảm thấy thực vô vị. Nàn uể oải nhấc đũa, mấy lần ngẩng lên nhìn sắc trời, rồi bảo Lục Y sai người đi nghe ngóng tình hình.

Lục Y đáp: “Không cần Công chúa dặn dò, nô tỳ đã sai người đi hỏi từ trước rồi. Tuy đại chiến đã kết thúc, nhưng phải trợ cấp khao thưởng quân sĩ, cũng rất bận rộn”.

Diệu Thiên thở dài buồn bã.

Đợi đến hơn nửa canh giờ, Lục Y nãy giờ vẫn chăm chú nhìn ra ngoài cửa sổ bỗng kêu lên: “Phò mã về rồi!”.

Diệu Thiên mừng thầm, nhanh chóng đứng dậy nhìn ra ngoài cửa sổ, quả nhiên, hình bóng oai phong quen thuộc ấy đang tiến về phía này. Hà Hiệp vừa vào đến cửa đã lau mồ hôi, cười hỏi: “Công chúa đã dùng cơm chưa?”.

“Ăn rồi, Phò mã ăn chưa?”

“Đâu có thời gian mà ăn!” Hà Hiệp vứt chiếc khăn trắng lau mồ hôi cho người theo hầu, ngồi xuống bên bàn. Diệu Thiên vội sai thị nữ mang cơm canh nóng lên, rồi tự mình lấy cho Phò mã đôi đũa. Hà Hiệp nhận lấy, cười với nàng, vừa gắp thức ăn vừa giải thích: “Ta cũng muốn về sớm, nhưng việc hôm nay không làm cho hết, ngày mai càng không có thời gian. Bắt Công chúa phải đợi, thực là lỗi của ta”.

“Việc quân bận như thế, thiếp thấy hay là điều hai vị quan võ qua, giúp Phò mã gánh vác một phần công việc.”

Hà Hiệp vội vã và cơm, lắc đầu nói: “Giờ không lo người ít, chỉ lo người đông, điều hai người nữa tới lại càng thêm bận”.

Thấy Diệu Thiên không hiểu. Hà Hiệp nhẫn nại giải thích: “Những việc trợ cấp khao thưởng, bình xét cấp bậc đều không khó. Cái khó nằm ở chỗ điều động tiền lương[1]. Trong phạm vi cai quản của ta không có kho tiền lương riêng chỉ dùng cho việc quân, món tiền nào cũng phải xin lĩnh bên quốc khố. Xin lĩnh một món không biết phải có bao nhiêu cái gật đầu của các quan, phải viết bao nhiêu tờ khai. Ta có thể đợi, nhưng các binh sĩ trong quân thì đợi thế nào? Hôm nay ta mất bao nhiêu thời gian ở bên quốc khố, họ mới chịu phê duyệt tiền thưởng cho năm ngàn người đầu tiên, ngày mai lại tiếp tục phải sang bên đó”.

[1] Thời trước, khi thu thuế ruộng, có thể thu lương thực, có thể thu tiền, nên gọi chung là tiền lương.

Diệu Thiên nghe rất chăm chú, tay cũng cầm đôi đũa, vừa gắp thức ăn cho Hà Hiệp, vừa chậm rãi đáp: “Đây không phải chuyện nhỏ, khao thưởng trợ cấp chậm trễ thế này, các binh sĩ sẽ không vui, như thế chẳng phải sẽ khiến lòng quân dao động sao?”.

Rõ ràng Hà Hiệp đã rất mệt, bát cơm đầu tiên nhanh chóng chui vào bụng, lại bảo thị nữ xới thêm bát nữa. Hà Hiệp tán đồng: “Công chúa nói rất đúng. Nhưng hiện giờ ta không lo lắng điều này, cùng lắm thì ta mệt thêm một chút, kiểu gì cũng xong. Nhưng điều động tiền lương cho quân chậm chạp như vậy, nhỡ khi chiến tranh xảy ra, tình thế nguy cấp, lấy đâu thời gian mà xin xỏ hết cấp này đến cấp khác? Quân Đông Lâm đã đến đây một lần, quen thuộc đường sá địa hình, lần sau đến, chưa chắc họ đã cho chúng ta thời gian chuẩn bị như lần này”.

Hà Hiệp trước nay nổi danh tướng tài, Diệu Thiên cũng đã chấp chính nhiều ngày, biết hắn nói không sai, nên chẳng hề do dự mà bảo ngay: “Đúng là quân binh cần có kho tiền lương riêng của mình. Buổi chầu sớm mai thiếp sẽ hạ vương lệnh, lập ra một kho mới giao cho Phò mã quản lý. Có tiền, có lương thực mới dễ cầm quân”.

Hà Hiệp khẽ cười khuyên giải: “Công chúa đừng vội hạ lệnh, hãy cứ bàn bạc với Thừa tướng trước thì hơn. Đến lúc làm rồi mà Thừa tướng không biết, ông ấy sẽ lại giáo huấn chúng ta”.

“Phò mã yên tâm, những việc có lợi cho Vân Thường, Thừa tướng vẫn luôn đồng ý.”

Nói xong chuyện chính, Hà Hiệp cũng dùng cơm xong, bèn thoải mái vươn vai. Hà Hiệp nhìn sang Diệu Thiên, mỉm cười tà ý: “Đã nói xong việc quốc gia đại sự, giờ đến chuyện giữa phu thê chúng ta. Công chúa muốn nghe lời ngon tiếng ngọt gì, xin hãy hạ vương lệnh”.

Diệu Thiên giận dỗi: “Phò mã đàng hoàng lúc nãy chạy đi đâu mất rồi? Thiếp sẽ chẳng bao giờ ra vương lệnh này, Phò mã toàn nói những lời ngon tiếng ngọt, khiến người ta không nghe nổi”.

Hà Hiệp sảng khoái tiếp lời: “Được, vậy từ nay ta sẽ không nói nữa, Công chúa đừng có đau lòng. Để ta nghĩ xem, nếu đã không thể nói những lời ngọt ngào, thì phải làm gì để vui lòng ái thê của ta”.

Diệu Thiên nhìn Hà Hiệp nghĩ ngợi sâu xa, dưới ánh nến, hai hàng mày nhướng lên khiến khuôn mặt càng thêm tuấn tú, có thêm chút tà ý khiến người ta yêu thích. Xung quanh toàn tâm phúc, không có người ngoài, Diệu Thiên cũng không còn vẻ gò bó của chủ nhân một nước nữa, mà tươi cười chọc ngón tay vào vai Hà Hiệp, nũng nịu: “Phò mã không được giả vờ, nhìn bộ dạng chàng thế này, chắc chắn còn đang giấu thiếp điều gì. Phò mã mau mang ra tiến cống, nếu không đừng trách thiếp dùng gia pháp hầu hạ”.

Thấy ái thê nũng nịu, Hà Hiệp liền nắm lấy cổ tay Diệu Thiên, hơi dùng lực. Diệu Thiên kêu lên một tiếng, người co lại. Hà Hiệp ôm lấy eo nàng, rồi thuận đà bế nàng ngồi lên đùi mình, vuốt ve khuôn mặt nàng, hỏi: “Ca vũ có thích không?”.

“Ca vũ gì?”.

Đôi mắt lấp lánh như kim cương đen nhìn chăm chăm Diệu Thiên, Hà Hiệp bất ngờ cúi xuống, cắn nhẹ vào gáy nàng. Diệu Thiên kêu lên một tiếng, còn chưa kịp trách cứ, Hà Hiệp đã trêu: “Công chúa lại gạt ta rồi. Hôm trước phủ phò mã có mời một đoàn ca vũ Bắc Mạc, người nào cũng xinh đẹp đến động lòng. Chuyện lớn như thế mà không ai bẩm báo với Công chúa sao? Nàng không biết thật à? E là đã ghen bóng ghen gió từ hôm đó tới nay rồi… A, đau quá…”.

Diệu Thiên giận dữ véo Hà Hiệp một cái, rồi thu tay về, quay mặt đi, nói: “Phò mã nhìn nhầm người rồi, thiếp không phải nữ nhân ghen bậy”.

Hà Hiệp xoa cánh tay bị véo: “Nếu không ghen sao lại mạnh tay như thế?”, rồi áp sát lại gần, hạ giọng nói khẽ vào tai Diệu Thiên, “Bẩm Công chúa, hai ngày nay ta bận việc, còn chưa kịp nhìn qua một lần. Chi bằng đêm nay gọi họ ra ca múa, chúng ta uống rượu lấy hứng, cũng là tránh cho Công chúa một mình ở trong cung ghen bóng ghen gió”.

Diệu Thiên nghe Hà Hiệp nói chưa từng gặp những nữ nhân đó, trong lòng vô cùng vui vẻ, quay sang, hỏi: “Thú vị thế sao? Vậy thiếp phải xem xem ca múa Bắc Mạc có gì đặc sắc”. Nàng xoa tay cho Hà Hiệp, thẹn thùng: “Đau thật à?”.

Không hỏi thì thôi, hỏi đến, Hà Hiệp liền nhăn nhó ngay lập tức: “Đau lắm, đau hơn bị trúng một kiếm”.

Diệu Thiên lại đấm cho Hà Hiệp một cái, khẽ mắng: “Cái gì mà danh tướng thiên hạ, uy danh lẫy lừng, sao cứ gặp thiếp là lại thiếu đứng đắn thế này?”.

“Nàng đâu phải binh lính của ta, ta đứng đắn làm gì?” Hà Hiệp không còn gây chuyện, cười vang sảng khoái, hào khí ngút trời.

Lính truyền lệnh đã cho đám ca nữ Bắc Mạc đến, múa hát ngay trên bậc thềm đá trước tiểu đình trong hậu viện. Phu thê hai người ngồi trong đình vui vẻ thưởng rượu.

Đêm đó, ông Trời cũng như tác thành cho họ, vầng trăng tròn vành vạnh trên cao soi tỏ một vườn tuyết vẫn chưa tan hết.

Đám ca vũ mặc y phục Bắc Mạc, màu sắc vô cùng sặc sỡ, thắt lưng đeo trống, thân hình linh hoạt, hai tay gõ trống. Diệu Thiên chưa bao giờ được xem nên cảm thấy vô cùng mới mẻ, hứng thú.

Rõ ràng đã mệt nhọc cả ngày, nhưng Hà Hiệp còn hứng thú hơn cả Diệu Thiên. Hết một điệu, hắn vỗ tay tán thưởng: “Múa rất đẹp, vì điệu này, chúng ta cùng cạn ba chén”.

Diệu Thiên uống cùng Hà Hiệp một chén, rồi che miệng, lắc đầu nói: “Phò mã, tửu lượng của thiếp không so được với chàng, không cần uống ba chén, một chén là đủ rồi”.

Hà Hiệp đang vui, cũng không cố ép, bèn gật đầu: “Công chúa cứ tùy ý, nhưng điệu múa uyển chuyển này thật khiến người ta mê đắm. Nhất định ta phải uống ba chén góp vui”.

Uống liền hai chén, hắn giơ kiếm hát vang.

“Phi thiên vũ[2], trường không mộng, tình ý chưa từng trọng…”

[2] Đây là điệu múa mà các cô gái múa cùng dải tơ lụa trong tiếng tiêu và tiếng đàn tỳ bà.

Giọng hát trong, làn hơi dày, vô cùng êm ái. Đã nghe quen những lời ngon ngọt của Hà Hiệp, nhưng chưa từng biết phu quân mình còn hát hay đến thế, ánh mắt Diệu Thiên vô cùng ngạc nhiên.

Hà Hiệp chỉ hát một câu rồi thôi, cánh tay cầm kiếm cũng ngừng lại, quay đầu cười nói: “Điệu múa trống lúc nãy rất đẹp, còn điệu trống nào nữa không? Múa tiếp một điệu nữa đi”.

Cứ thế, trăng đã lên cao, tám, chín phần rượu đã chui vào bụng Hà Hiệp. Dù tửu lượng tốt đến mức nào, thân thể hắn cũng phải loạng choạng.

Diệu Thiên sợ Hà Hiệp uống nhiều hại đến sức khỏe, dịu giọng khuyên: “Ca vũ tuy hay, nhưng chúng ta cũng đã thỏa hứng. Vào phòng nghỉ ngơi được không?”.

Hà Hiệp không tham uống, trước nay lại hết sức chiều chuộng Diệu Thiên nên đặt ngay chén xuống: “Đúng thế, cũng nên nghỉ ngơi, Công chúa mệt rồi”.

Hắn đứng dậy, muốn đuổi lui đám thị nữ thị vệ, một mình bế Diệu Thiên, bước vào phòng.

Hai người vui vẻ đến quá nửa đêm, đám người hầu hạ cũng đã buồn ngủ, thấy chủ nhân cuối cùng cũng biết là phải nghỉ ngơi, trong lòng họ thầm hô vạn tuế, đám ca vũ Bắc Mạc thì càng như được đại xá.

Chỉ đợi Hà Hiệp và Diệu Thiên vào phòng, ở hậu viện người tắt đèn thì tắt đèn, người thu dọn thì thu dọn, chẳng mấy chốc hậu viện huyên náo ồn ào ban nãy giờ đã chìm trong yên tĩnh.

Chỉ có vầng trăng vẫn sáng vằng vặc trên trời cao.

Khí lạnh từ từ chuyển động.

Đông Chước cũng mệt cả một ngày, vừa lên giường nhắm mắt đã ngủ ngay. Không biết tại sao đang ngủ hắn bỗng choàng tỉnh, mở mắt nhìn ra ngoài. Trăng vẫn sáng vằng vặc, xem ra hắn chưa ngủ được bao lâu.

Bất giác Đông Chước nhớ đến Sính Đình.

Sính Đình không những thích ngắm trăng, mà còn rất thích ngắm sao. Chẳng biết hiện giờ Sính Đình thế nào.

Nghĩ đến đây, Đông Chước tỉnh hoàn toàn, dứt khoát đứng dậy, bước ra khỏi phòng. Gió lạnh ùa tới khiến hắn giật mình.

Gió như mơ hồ mang đến cả điều gì.

Bỗng cảm thấy lạ, Đông Chước dừng bước, lắng tai nghe. Đúng thế, quả là có tiếng gì đó. Hắn cứ bước, vòng qua hậu viện, tiếng kiếm xé gió càng lúc càng mạnh.

Ngẩng lên nhìn, Đông Chước bất giác ngẩn người.

Ánh trăng vằng vặc, đường kiếm âm u lạnh lẽo.

Nơi hậu viện lạnh giá, một bóng người thoăn thoắt trên nền tuyết trắng.

“Thiếu gia…”, Đông Chước khẽ gọi.

Dường như Hà Hiệp hoàn toàn không biết bên cạnh có người, hai mắt ngời sáng, bảo kiếm đến đâu, ánh trăng đến đấy.

Thấy Hà Hiệp thế kiếm đang hăng, tiếng gió vun vút khắp nơi như muốn trút sạch mọi nỗi oán hận chốn trần gian, Đông Chước chỉ biết đứng yên một bên.

Không ai có thể làm phiền Hà Hiệp lúc này.

Danh tướng thiên hạ, tiểu Kính An vương, đương kim phò mã Vân Thường, lúc này trong tay đang nắm chắc bảo kiếm.

Dưới ánh trăng, Hà Hiệp say múa cùng bảo kiếm.

Múa hết bộ Kính An kiếm pháp, trán đầy mồ hôi, chiếc áo mỏng dính chặt vào cơ thể, Hà Hiệp mới thu kiếm về, khuôn mặt chẳng chút cảm xúc, lúc ngang qua Đông Chước, lạnh nhạt buông một câu: “Bắc Mạc có câu, Sính Đình đi rồi”.

Xách kiếm quay về tẩm phòng có Diệu Thiên đang ngủ, Hà Hiệp khẽ đẩy cửa, bước vào phòng.

Cửa phòng yên ắng khép lại.

Đông Chước đứng im trong gió.

Không gian tĩnh mịch, mọi người chìm sâu trong giấc mộng ngọt ngào.

Tiếng trống canh từ xa vọng lại, khiến nơi đây càng thêm vắng lặng.

Sính Đình, khóe miệng duyên những lúc mỉm cười.

Sính Đình, tỷ tỷ thích ngắm trăng.

Đã đi rồi.
 

Hoa Tử

Sưu tầm
Tham gia
24/9/19
Bài viết
10,570
Điểm cảm xúc
1,484
Điểm
113
Chương 44:
“Chết hay lắm, đáng chết từ lâu rồi.”

Hương thơm vấn vít khắp phòng, trong làn hương bay, Quy Lạc vương hậu cười gằn, giọng uể oải: “Con thị nữ này cũng gọi là có bản lĩnh, đầu độc chết hai vương tử Đông Lâm, dụ dỗ Sở Bắc Tiệp. Tiểu Kính An vương coi như có chút tình chủ tớ thì cũng thôi, ai ngờ, sau khi ả chết còn được cả tướng lĩnh Bắc Mạc tế bái. Hừ, người trong thiên hạ điên hết cả rồi hay sao?”.

“Nương nương nói rất đúng.” Nhạc Địch lúng túng vuốt bộ râu được cắt tỉa kỹ càng, “Chính xác Bạch Sính Đình chẳng đáng là gì cả. Có điều, nghe nói ả vừa chết, Sở Bắc Tiệp cũng coi như bị một đòn trí mạng, không thể gượng dậy. Điều này ảnh hưởng rất lớn đến tình thế hiện nay của tứ quốc”.

“Không thể gượng dậy”, Vương hậu ngạc nhiên, ánh mắt bỗng trở nên ai oán, thở dài, “Đúng là trên đời này vẫn có những nam nhân thật lòng, nhưng sao chỉ một mình nữ tử họ Bạch kia có được? Nếu Đại vương của chúng ta được một nửa Trấn Bắc vương cũng là cái phúc của bản cung”.

“Nương nương đừng vội cảm khái vì Sở Bắc Tiệp, trước mắt chúng ta còn việc quan trọng cần lo liệu.”

“Việc gì?”

Nhạc Địch mở cửa nhìn quanh, rồi khép lại, bước đến trước mặt Vương hậu, hạ giọng: “Nương nương còn nhớ Phi Chiếu Hành không?”.

Suy nghĩ giây lát, Vương hậu như đã nghĩ ra: “Chính là thuộc hạ của ca ca. Lần đó Đại vương sai người xâm nhập Đông Lâm, tập kích đoàn xe của Hà Hiệp và Bạch Sính Đình, chúng ta đã cử hắn…”.

“Đúng thế.”

“Sao thế, chẳng phải nên xử lý kẻ này từ lâu rồi sao?”

“Nếu đã xử lý thì còn gì phải lo? Nói đến việc này, tất cả đều tại ca ca bất tài của nương nương.”

Nhạc Địch thở dài, nói tiếp, “Nhạc Chấn trong lòng không đủ cứng rắn, nghĩ hắn theo mình từ nhỏ, cũng là chỗ tâm phúc, nên sau khi hắn trở về đã không sai người giết hắn mà chỉ cho hắn tiền, bảo hắn trốn đi thật xa”.

Vương hậu biến sắc: “Sao ca ca lại hồ đồ như thế? Đây đâu phải chuyện có thể mềm lòng? Haizzz, nhưng dù ca ca có suy nghĩ không chu đáo thì phụ thân cũng phải giáo huấn ca ca mới phải”.

Chuyện này không to không nhỏ, nhưng nếu lộ ra ngoài, đó sẽ là tội làm lộ việc quân, giết sạch cả họ.

Nhạc Địch cau mày: “Sao lại không giáo huấn? Nhạc Chấn đã nghe lời ta, lập tức sai người đi tìm Phi Chiếu Hành. Ai ngờ hắn quá tinh khôn, biến mất không một tung tích”.

Trong lòng Vương hậu thầm hận phụ thân làm việc không chu đáo, nhưng chẳng biết làm thế nào, chỉ lạnh lùng: “Tên Phi Chiếu Hành từ nhỏ đã tinh khôn như một con quỷ. Thả hổ về rừng, nếu hắn đã cảnh giác, chúng ta càng không dễ gì giết hắn”.

“Một ngày hắn còn sống là một ngày chúng ta còn thấy bất an. Nếu để Đại vương tìm thấy hắn trước…”

“Bản cung biết rồi”, Vương hậu suy nghĩ một lát, dặn dò, “Việc của Phi Chiếu Hành, bản cung sẽ sai người xử lý. Phụ thân gặp ca ca, hãy dặn ca ca đừng để ý đến chuyện khác mà phải dẫn binh cho tốt, phải biết lôi kéo tướng lĩnh. Chỉ cần nắm chắc binh quyền, ngay cả Đại vương cũng không dám tùy tiện làm gì Nhạc gia chúng ta. Hừ, vết xe đổ của vương phủ Kính An còn ngay trước mắt, chúng ta không thể làm một trung thần ngu xuẩn như Kính An vương, vất vả cả đời để nhận lấy họa diệt môn”.

Nhạc Địch gật đầu: “Nương nương nói chí phải”. Như bỗng nhớ ra việc gì, ông ta hỏi tiếp: “Đại vương đã biết tin Bạch Sính Đình chết chưa?”.

“Các tướng quân Bắc Mạc làm lễ cúng tế cho tiện nhân ấy, thiên hạ này còn ai không biết?” Nghĩ đến chuyện này, Vương hậu lại cảm thấy tức giận, đằng nào trước mặt cũng có mỗi phụ thân của mình, nên chẳng cần che đậy, nghiến răng nói: “Không biết một nữ nhân xuất thân thị nữ thì có được bản lĩnh gì, hơn nữa cũng chẳng phải là mỹ nhân. Biết tin ả chết, Đại vương cả ngày chẳng nói năng gì. Bản cung còn nghe nói Đại vương định ban bố vương lệnh, rằng tài đàn của Bạch Sính Đình là quốc bảo, ngự phong ả là Quy Lạc cầm tiên, còn định lập bia cho ả nữa. Đây chẳng phải là trò cười hay sao?”.

Nhạc Địch ưu tư: “Nương nương, Đại vương làm vậy hình như để cảnh cáo nương nương”.

Sắc mặt vương hậu tối sầm, bất đắc dĩ thở dài: “Sao bản cung lại không biết? Vương phủ Kính An không còn nữa, quyền thế của Nhạc gia ngày một lớn, phụ thân xem những tướng lĩnh dẫn binh trong triều, có người nào không phải do phụ thân và ca ca tiến cử? Trước kia vì việc của Dương Phượng, Đại vương đã cố nhẫn nhịn, nay lại vì Bạch Sính Đình, Đại vương càng cảm thấy bản cung không thuận mắt”.

“Nói ra, Vương hậu cũng thật lợi hại.” Nhìn sắc mặt Vương hậu, Nhạc Địch cẩn trọng lên tiếng, “Đại vương là vua một nước, bên cạnh có thêm vài mỹ nhân cũng là chuyện bình thường. Giống người có tên Lệ Nhi kia, nếu năm đó nương nương rộng lòng một chút, cho nàng ta làm thứ phi cũng có sao? Đằng này nương nương lại ép Đại vương phải tặng nàng ta cho Đông Lâm vương”.

Vương hậu khẽ hừ một tiếng: “Chẳng phải bản cung đã giúp nàng ta sao? Nàng ta đi theo Đông Lâm vương, được phong là Lệ phi, còn sinh hạ được một công chúa. Phụ thân đừng nói nữa, bản cung đang phiền lòng, việc gì cũng không như ý, phụ thân đừng chọc giận thêm”.

Biết nữ nhi hay ghen, Nhạc Địch thầm thở dài một tiếng, định khuyên nhủ tiếp, bỗng cảnh giác nghe thấy tiếng bước chân đang tới gần, liền vội vã dừng lại.

Ông ta trở về chỗ ngồi, nâng chén trà lên, còn chưa kịp uống, đã nghe thấy thị nữ tâm phúc của Vương hậu là Ngưỡng Dung đứng ngoài cửa, bẩm báo: “Nương nương, Đại vương sai người đến chuyển lời”.

“Vào đi.” Vương hậu cho gọi kẻ chuyển lời vào, vừa uống trà, vừa hỏi, “Đại vương chuyển lời gì?”.

“Bẩm nương nương, Đại vương đã ban bố vương lệnh, phong Bạch Sính Đình làm Quy Lạc cầm tiên, ngày kia sẽ tiến hành nghi lễ tế bái tại cổng chính vương cung. Đại vương nói, hôm đó mời nương nương tới cùng tế bái, làm gương cho nữ tử Quy Lạc.”

Nghe được một nửa, Vương hậu như muốn bóp nát chén trà trong tay, giận đến nỗi bàn tay run rẩy. Nhạc Địch ngồi bên cạnh vội nhìn sang, muốn nữ nhi nhẫn nại một chút.

Vương hậu nén cơn giận, khẽ cười: “Ta biết rồi. Ngày kia, cổng chính vương cung, đúng không? Đi nói với Đại vương, ta sẽ chuẩn bị”.

Thị vệ nhận lệnh, vội vã đi chuyển lời.

Nhạc Địch đóng cửa, quay lại, nhìn nữ nhi mặt đã biến sắc.

“Quả nhiên, quả nhiên! Lại là Bạch Sính Đình, âm hồn không tan!”, Vương hậu nghiến chặt hàm răng nhỏ đều, “Ả đã làm những gì mà phải khoa trương như thế? Đường đường một đại vương, lại ra lệnh ngự phong cho một thị nữ, phải ăn nói thế nào với bách tính Quy Lạc đây?”.

Khuôn mặt Nhạc Địch cũng sa sầm, nhưng suy nghĩ sâu xa hơn nhiều: “Đại vương muốn dùng vương phủ Kính An để áp chế Nhạc gia chúng ta. Tuy vương phủ Kính An không còn nữa, nhưng bách tính Quy Lạc vẫn chưa quên họ. Chính Đại vương đã phán tội vương phủ Kính An, nên không thể trực tiếp dùng họ để trấn áp Nhạc gia, mà phải mượn một đứa a hoàn trong phủ, thị nữ của Hà Hiệp để tạo thanh thế”.

“Phụ thân nghĩ rất đúng.” Vương hậu đã bình tĩnh hơn, ngữ điệu chậm rãi, dừng một chút, cười chua chát: “Có điều, bản cung không tin Đại vương chỉ vì muốn tạo uy thế, mà không có chút tình ý nào với Bạch Sính Đình”.

“Bạch Sính Đình đã chết rồi mà?”

“Chết rồi mới càng đáng hận.” Những móng tay dài của Vương hậu làm hằn lên các vệt trắng trên tay vịn của chiếc ghế gỗ, “Tâm tư của nam nhân, không nắm bắt được là tốt nhất”.

Không có gì bất hợp lý hơn việc này, cũng chẳng có gì hợp lý hơn việc này.

Tin Bạch Sính Đình chết đã lan khắp tứ quốc.

Cái chết của một thị nữ trong vương phủ Kính An lại chấn động toàn thiên hạ.

Nàng là Quy Lạc cầm tiên, là thị nữ của Hà Hiệp, từng là tướng lĩnh quân sự cao nhất của Bắc Mạc, đồng thời cũng là thê tử của Trấn Bắc vương.

Tuy chưa có hôn lễ long trọng, nhưng những người từng gặp nàng và Trấn Bắc vương đều hiểu rằng, chỉ mình Bạch Sính Đình mới là thê tử suốt đời suốt kiếp của bậc anh hùng đầu đội trời chân đạp đất ấy.

Bạch Sính Đình đã không còn.

Sở Bắc Tiệp thì sao?

Dũng tướng vô địch thiên hạ ngày trước giờ đang ở đâu?

Đông Lâm vương hậu nhìn chăm chăm người trước mặt, cố nén tiếng thở dài, giọng cương quyết: “Hoắc thần y, ở đây không có người ngoài, không có gì phải giấu giếm, ông cứ nói thẳng ra đi”.

“Khởi bẩm Vương hậu, bệnh của Đại vương… e là không kéo dài được bao lâu.” Chỉ một thời gian ngắn mà Thần y Đông Lâm Hoắc Vũ Nam như già thêm cả chục tuổi, chòm râu đen đã lẫn những sợi bạc.

“Nói thực với ta, còn được bao lâu?”

“E là… e là không quá bảy ngày.”

Vương hậu đờ đẫn, hồi lâu mới sực tỉnh, sống lưng như sắp nhũn ra vì không thể chịu nổi tin tức này, đành dựa hẳn vào lưng ghế. Ôm ấp tia hy vọng cuối cùng, Vương hậu nhìn về phía danh y Đông Lâm, người có thể quyết định sống chết của kẻ khác: “Cho dù không thể qua được, nhưng có thể cố kéo dài vài tháng chứ?”.

“Vương hậu nương nương…” Hoắc Vũ Nam dù không muốn cũng phải nói rõ, đành cố sức dằn từng tiếng, “Thần đã hết cách rồi, Vương hậu nên chuẩn bị hậu sự cho Đại vương…”.

“Nương nương, nương nương!” Thị nữ từ ngoài tấm rèm tức tốc chạy vào, cắt ngang lời Hoắc Vũ Nam, hành lễ với Vương hậu, giọng vội vã: “Nương nương, Đại vương tỉnh rồi, người đang tìm Vương hậu”.

Vương hậu đứng bật dậy, trước mắt bỗng tối sầm, cả người lảo đảo như sắp ngã.

“Nương nương!”

“Vương hậu nương nương!”

Cả thị nữ và Hoắc Vũ Nam đều kêu lên kinh hãi, nhanh chóng đỡ lấy Vương hậu.

Vương hậu day day huyệt thái dương, cảm thấy đã đỡ hơn: “Ta không sao”.

Sắc mặt và làn môi Vương hậu vô cùng nhợt nhạt.

Từ khi tin tức về cái chết của Bạch Sính Đình truyền đến, sắc mặt Vương hậu chẳng còn màu huyết.

Tất cả đều đã hết.

Trong bụng Bạch Sính Đình là huyết mạch của vương tộc Đông Lâm.

Cho đến nay, cả Đại vương và Trấn Bắc vương đều không có người nối dõi.

Sao lại thế này? Tại sao lại thành ra thế này?

Khi ba mươi vạn đại quân Bắc Mạc - Vân Thường đe dọa biên cương, sao họ không lường đến kết cục ngày hôm nay?

Nỗi hối hận thiêu đốt cả đầu óc và cơ thể Vương hậu, bao nhiêu vấn đề khó khăn đang bày ra trước mắt. Rốt cuộc kiếp trước vương tộc Đông Lâm và Bạch Sính Đình đã có nghiệt duyên gì, mà dai dẳng đến cả kiếp này, không thể ngừng lại?

Vương hậu vội vã bước vào tẩm cung, nơi nam nhân mà mình đã sát cánh suốt cuộc đời đang nằm trên giường.

Đông Lâm vương cũng từng là bậc anh hùng đầu đội trời chân đạp đất, cũng như Trấn Bắc vương, từng nắm chắc bảo kiếm, uống rượu trên lưng ngựa, tiếng cười hào sảng vang vọng.

“Đại vương, thần thiếp đã đến.” Vương hậu ngồi bên giường, khẽ nắm bàn tay Đông Lâm vương.

Bàn tay ấy gầy quá, gầy đến trơ xương, khiến người ta đau lòng.

Sống mũi cay cay, Vương hậu cố nén dòng nước mắt: “Đại vương gọi thần thiếp đến có gì sai bảo?”.

Đôi mắt Đông Lâm vương đã mờ đục, không chút ánh sáng.

“Vương đệ đâu? Vương đệ về chưa?”, Đông Lâm vương giọng đã khản đặc.

“Đã sai người đi tìm, Trấn Bắc vương sẽ nhanh trở về thôi.”

Đông Lâm vương khó khăn ngẩng đầu, nhìn thê tử: “Vương hậu muốn khóc thì cứ khóc đi”, giọng nói khản đặc yếu ớt, nhưng vô cùng dịu dàng, “Trong lòng quả nhân hiểu rõ, Bắc Tiệp sẽ không trở về”.

“Đại vương!”

“Bạch Sính Đình… Ba mươi vạn quân Vân Thường - Bắc Mạc đe dọa biên cương, vương lệnh điều động chủ soái doanh trại Long Hổ Đông Lâm…”, Đông Lâm vương thở dốc, “Chúng ta… binh lực ba nước hợp lại dồn thê tử của vương đệ vào chỗ chết”.

“Đây là sai lầm của thần thiếp…”

“Đừng tự trách mình.” Đông Lâm vương nắm chặt bàn tay Vương hậu, như muốn truyền tất cả sức lực cuối cùng của mình sang ái thê, “Không thể trách Vương hậu, ông Trời đã sắp đặt hết chuyện này. Những điều chúng ta lo lắng cuối cùng đều đã xảy ra. Tính tình vương đệ từ nhỏ đã thế, quả nhân cứ ngỡ lần này có thể mài giũa vương đệ trở nên vô tình một chút. Có sai, thì là quả nhân đã sai”.

Đại vương nhìn quanh, hạ lệnh: “Các ngươi lui ra đi. Lão Thừa tướng, canh cửa giúp quả nhân”.

“Vâng.” Sở Tại Nhiên vẫn luôn túc trực bên Đông Lâm vương. Vốn gặp nhiều hiểu rộng, biết Đông Lâm vương sắp đi xa, ông ta không cầm được những giọt nước mắt lã chã rơi. Sở Tại Nhiên quỳ xuống đập đầu, run rẩy và chậm chạp lùi ra, nhẹ nhàng khép cửa lại.

Trong tẩm cung chỉ còn lại Đông Lâm vương cùng Vương hậu.

“Vương hậu, nàng mở chiếc hộp ngọc ở đầu giường ra, trong đó có một vương lệnh, mang lại đây.”

Vương hậu cầm vương lệnh, nhẹ giọng khuyên giải: “Đại vương sức khỏe không tốt, tạm thời đừng lo đến chính sự. Những việc này cứ giao cả cho lão Thừa tướng xử lý, được không?”.

Đông Lâm vương chậm rãi lắc đầu: “Nàng mở ra đi”.

Thấy Đại vương cương quyết, Vương hậu cũng thuận theo, mở vương lệnh ra, cúi xuống nhìn, dòng đầu tiên đã là mấy chữ rất to. Di lệnh Vương hậu nhiếp chính. Vương hậu vô cùng ngạc nhiên: “Đại vương, tuyệt đối không được…”.

“Đây là di lệnh của quả nhân.”

“Đại vương, nhất định Trấn Bắc vương sẽ trở về. Trấn Bắc vương là đệ đệ của Đại vương, người trong vương tộc Đông Lâm sao có thể vì một nữ nhân mà từ bỏ giang sơn của mình?”

“Vương hậu…”, giọng Đông Lâm vương bỗng trở nên dịu dàng, cố hết sức nhìn về phía Vương hậu: “Khoan nói đến những chuyện đó. Nàng ngồi xuống đây, ngồi cạnh quả nhân”.

Vương hậu nghe lời dịu dàng đó, lòng càng tan nát, bèn ngồi xuống. Thấy Đông Lâm vương giơ tay ra, Vương hậu vội vã đưa hai tay đón lấy.

“Vương hậu, quả nhân muốn hỏi nàng một chuyện.”

“Đại vương cứ hỏi. Bất cứ chuyện gì, thần thiếp cũng xin trả lời Đại vương.”

Giọng Đông Lâm vương càng khẽ hơn, hơi thở yếu ớt: “Không phải chuyện quốc gia đại sự gì, câu hỏi này quả nhân muốn hỏi Vương hậu lâu lắm rồi, nhưng lại cảm thấy thật ngớ ngẩn. Đến hôm nay, nếu vẫn không hỏi, quả nhân sẽ chẳng bao giờ nghe được câu trả lời nữa”.

Vương hậu quay đầu, lặng lẽ lau nước mắt, giọng dịu dàng: “Đại vương hỏi đi”.

“Vương hậu, hôn sự của chúng ta do tiên vương chỉ định, duyên phận phu thê… như nước chảy thành dòng, không hề sóng gió.” Đông Lâm vương ngẩng đầu, nhìn vào mắt Vương hậu, hỏi: “Giả dụ chúng ta cũng giống như Trấn Bắc vương và Bạch Sính Đình, sinh ra ở hai nước thù địch, dốc sức cho hai người thù địch, liệu Vương hậu có… muốn ở cạnh quả nhân suốt đời suốt kiếp?”.

Suy nghĩ hồi lâu, Vương hậu khẽ đáp: “Có”.

Suốt đời suốt kiếp.

Có, chỉ là làm được sẽ rất khó mà thôi.

Thệ hải minh sơn? Nếu sinh ra đã là thù địch, rồi nảy sinh tình yêu, vậy thì đến cuối cùng, ai sẽ phụ bạc ai? Cuối cùng sẽ là không sao quên được quốc ân hay không thể từ bỏ niềm vui trong chốc lát mà lao vào vòng tay người yêu dấu?

May mắn thay, họ không phải Sở Bắc Tiệp và Bạch Sính Đình.

Nhưng nếu phải thì sao?

Nếu nỗi bất hạnh ấy lại lựa chọn họ thì sao?

Vương hậu nhắm mắt, nắm chặt bàn tay gầy trơ xương của phu quân.

Có, tuy rằng rất khó, khó như muốn bắc thang lên trời.

Nhưng, có.

“Chúng ta sinh ra ở hai nước thù địch”, Đông Lâm vương nói.

“Vâng.”

“Chúng ta sinh ra ở hai trận địa đối nghịch.”

“Vâng.”

“Chúng ta vẫn sẽ suốt đời suốt kiếp?”

Vương hậu im lặng một lúc lâu.

Cuối cùng vẫn là một tiếng: “Vâng”.

Đông Lâm vương hít sâu một hơi. Mùa đông sắp qua, hương vị của mùa xuân đang thấp thoáng trong không khí, lành lạnh, căng tràn lồng ngực mãn nguyện của Đông Lâm vương.

Chắc chắn, chắc chắn thế.

Đông Lâm vương nhắm mắt.

Khóe môi khẽ nở nụ cười hạnh phúc.

Mấy ngày sau, thư của Nhược Hàn lại được chuyển đến sơn mạch Tùng Sâm.

Tuyết trên đất bằng đã tan hết, cỏ non đâm chồi mạnh mẽ. Mùa xuân vẫn chưa thực sự gõ cửa, nhưng trong lòng mọi người đã tràn ngập niềm vui và hy vọng.

Lính truyền tin không chỉ mang tới những loại thảo dược thượng đẳng Nhược Hàn đã tìm kiếm khắp nơi, mà còn mang theo cả lời thăm hỏi của Bắc Mạc vương.

“Cây nhân sâm ngàn năm này là của Đại vương ban tặng.”

Tắc Doãn cảm kích nhận lấy, rồi hướng về phía vương cung xa xôi hành lễ.

Vốn năm xưa cũng là lính dưới trướng Tắc Doãn, sau khi chuyển tin, giao hết lễ vật, người truyền tin quan tâm hỏi: “Thượng tướng quân, bệnh của phu nhân… có đỡ chút nào không?”.

Tắc Doãn lắc đầu, vẻ mặt u sầu: “Nếu có chút chuyển biến thì trong lòng ta cũng dễ chịu phần nào. Đây là tâm bệnh, tâm bệnh khó chữa”.

Sau khi chôn cất Sính Đình, Dương Phượng cứ cầm cây trâm dạ minh châu đứng bên mộ cả đêm, rồi ngã bệnh không dậy nổi.

Cây trâm sáng lấp lánh trong đêm, người cài trâm đã nằm sâu dưới lớp đất vàng.

“Cái chết của Sính Đình là tại thiếp.”

Sính Đình là người thông minh, rõ ràng đã vùng vẫy, nên mới thoát khỏi Hà Hiệp, thoát khỏi Sở Bắc Tiệp, một mình từ Quy Lạc đến Bắc Mạc.

Sính Đình đi tìm Dương Phượng, muốn quên nỗi bất hạnh trước kia, vậy mà nàng lại quỳ xuống, nói đôi ba câu đã đẩy Sính Đình vào giữa quân Bắc Mạc và Sở Bắc Tiệp.

Hai quân đối đầu, áo thắm ngựa hăng, sát khí ngút trời, bắt đầu từ đây.

Nàng phải phiêu bạt đến chốn rừng sâu Bách Lý, rồi vương cung Đông Lâm, tới biệt viện ẩn cư, sau đó là phủ phò mã Vân Thường, để rồi cuối cùng kết thúc ở sơn mạch Tùng Sâm ngập màu tuyết trắng.

Một người chẳng màng danh lợi, điềm đạm như Sính Đình, sao phải chịu kết cục không toàn thây như thế?

Dương Phượng không thể tha thứ cho mình.

Bao nhiêu bất hạnh, Dương Phượng là nhân, Sính Đình là quả.

“Dương Phượng, ái thê, nàng còn nhớ hài tử của chúng ta không?”, Tắc Doãn cẩn thận đỡ Dương Phượng dậy, “Nàng không thể bỏ mặc ta và Khánh nhi, nàng đã hứa sẽ ở bên ta suốt đời suốt kiếp. Nàng hãy cố gắng uống lấy chút thuốc này”.

“Khánh nhi…” Ánh mắt Dương Phượng khẽ chuyển.

“Khánh nhi cứ khóc đòi mẫu thân. Dương Phượng, đừng tự trách mình nữa. Sính Đình đã không còn, nàng cứ giày vò bản thân thế này. Sính Đình cũng chẳng thể sống lại. Sính Đình ở trên trời chắc cũng không muốn thấy nàng như vậy. Nàng uống thuốc đi cho mau khỏe.”

Tắc Doãn nếm thử bát thuốc nóng trên tay, rồi mới đưa lên miệng Dương Phượng: “Uống đi, coi như là vì Khánh nhi”.

Trong lòng Dương Phượng trống rỗng, thi thể Sính Đình và phần mộ cô độc trong tuyết cứ hiện lên trước mắt nàng, không hề dừng lại. Tắc Doãn dịu dàng an ủi, hai từ “Khánh nhi” như đánh thức tình mẫu tử nơi nàng, khiến nàng tìm lại được chút thần trí.

Dương Phượng chậm rãi ngước mắt nhìn phu quân.

Chàng đã từng là Thượng tướng quân của Bắc Mạc, nhưng gương mặt tiều tụy lúc này thật khiến người ta thương xót.

Tất cả là vì nàng.

Nàng buồn bã thở dài, khẽ mở miệng.

Tắc Doãn thấy nàng nghe lời uống hết bát thuốc, giọng vui mừng: “Đây là phương thuốc do Nhược Hàn sai người mang tới, sắc kỹ lắm rồi, nàng uống từ từ thôi, kẻo sặc”.

Một tay đỡ Dương Phượng, một tay bê bát thuốc, thấy ái thê đã uống hết, trái tim lo lắng của Tắc Doãn cũng dịu bớt phần nào, nhẹ giọng: “Nhược Hàn nói, bệnh của nàng cứ uống theo phương thuốc này, liên tục mấy ngày…”.

Chưa dứt lời, Tắc Doãn đã thấy Dương Phượng run rẩy trên cánh tay mình, cả người thẳng dậy, cúi xuống bên giường “ọe” một tiếng, nôn sạch cả bát thuốc vừa uống ra ngoài.

Dương Phượng gần như nôn ra cả mật xanh mật vàng, sắc mặt trắng bệch, mãi mới ngẩng đầu lên được, rồi đổ vật xuống giường.

“Dương Phượng!” Tắc Doãn ôm lấy nàng, thấy nàng nằm trong lòng mình, hai mắt nhắm nghiền, gương mặt hồng hào mọi khi giờ không còn sinh khí, trong lòng đau đớn mà chẳng biết nên làm thế nào, buồn đến rơi nước mắt: “Thê tử của ta, nàng hà tất phải thế? Lẽ nào ngoài Bạch Sính Đình, trong lòng nàng không hề có ta và Khánh nhi?”.

Dương Phượng thở khó nhọc, nghe những lời của Tắc Doãn, nàng từ từ mở mắt, cười chua chát: “Thiếp nào có muốn bỏ mặc phụ tử chàng, chỉ là tâm bệnh quá nặng, không thể cứu chữa. Thiếp và Sính Đình cùng lớn lên bên nhau, tình như tỷ muội, đều do thiếp… do thiếp hại chết Sính Đình”.

“Nàng đừng khóc, đừng khóc nữa. Bệnh thành thế này, kỵ nhất là đau lòng…” Bàn tay thô ráp của Tắc Doãn khẽ lau nước mắt cho Dương Phượng, nhưng càng lau dòng lệ càng tuôn chảy.

Tắc Doãn vừa lo lắng vừa đau lòng, đôi mắt hổ đỏ hoe.

Nức nở một hồi, thở dốc một hồi, Dương Phượng ngẩng lên, hơi thở yếu ớt nói với Tắc Doãn: “Không phải thiếp muốn bỏ mặc phụ tử chàng, mà tình trạng thiếp thế này, chắc vì Sính Đình muốn thiếp đi theo bầu bạn. Vương cung và sa trường hiểm ác, thiếp không muốn sau này Khánh nhi phải đi theo con đường của Bạch Sính Đình và Sở Bắc Tiệp. Chàng đã đồng ý với thiếp quy ẩn sơn lâm thì hãy giữ lời hứa, đừng bao giờ ra khỏi đây, cũng đừng để Khánh nhi dính dáng đến những chuyện đó. Chàng… chàng hứa với thiếp”.

Những từ này của Dương Phượng thật chẳng khác gì lời giao phó hậu sự, rõ là điềm gở. Cả người lạnh toát, Tắc Doãn chỉ biết ôm chặt Dương Phượng, giọng lo lắng: “Nàng đang nói lung tung gì thế? Ta không đồng ý, không đồng ý một điều gì hết!”.

“Phu quân, thiếp không đợi được đến mùa xuân đâu.”

“Nói bậy.”

“Không thể cùng chàng thưởng hoa, không thể may áo cho Khánh nhi…”

“Nói bậy!”

“Thiếp phải đi gặp Sính Đình, tạ tội với nàng ấy…”

“Nói bậy! Nói bậy! Đừng nói nữa!”

Tắc Doãn ôm chặt Dương Phượng, luôn miệng bảo nàng dừng lại. Đột nhiên bên ngoài có tiếng bước chân vội vã, kẻ nào lại dám vô ý chạy ầm ĩ ở hành lang? Vẻ mặt lo lắng của Tắc Doãn dần hóa thành cơn thịnh nộ, gầm lên: “Kẻ nào đang ở ngoài kia? Ta đã nói phải giữ yên cho phu nhân tĩnh dưỡng, các ngươi điếc cả rồi sao?”.

Rèm cửa bị kéo ra, một thị vệ chạy vào, hốt hoảng như gặp ma. Hắn vừa lau mồ hôi vừa báo với Tắc Doãn vẻ mặt đang sa sầm: “Thượng tướng quân, có người cầu kiến”.

“Không gặp ai cả, đuổi hết đi cho ta!”

“Người đó… Người đó…”

“Phu nhân đang tĩnh dưỡng, dù là ai cũng đuổi hết đi cho ta!”

“Người đó…” Thị vệ cau mày, như thấy lời mình sắp nói ra vô cùng khác thường, “Người đó nói, mình là Bạch… Bạch Sính Đình!”.

Sính Đình?

Tắc Doãn và Dương Phượng cùng mở trừng mắt, ngây người.

Việc này sao có thể?

Ngay cả Tắc Doãn đã nhiều năm chinh chiến trên sa trường, quen phong ba bão táp cũng đờ người ra hồi lâu mới biết phải làm thế nào, quát lên: “Mau, mau mời vào!”.

“Phu quân…” Dương Phượng lo lắng dựa vào lồng ngực Tắc Doãn.

Nghe tin này, bệnh tật trong người Dương Phượng như đã rút lui ba mươi dặm, ánh mắt vừa có hồn, vừa hy vọng vừa lo lắng nhìn chằm chằm về phía tấm rèm.

Đôi mắt như chuông đồng của Tắc Doãn cũng mở to, nhưng không tránh khỏi có chút lo âu, thầm tính: Nếu là giả mạo, càng khiến Dương Phượng thêm đau lòng… Dù là kẻ nào dám mạo phạm, ta cũng sẽ băm vằm thành ngàn mảnh!

Nhưng, kẻ nào lại to gan như vậy, dám đến tận chỗ Dương Phượng mạo nhận là Bạch Sính Đình?

Chưa nói đến chuyện làm thế nào kẻ đó lại biết được chỗ ẩn cư của họ.

Trong lúc đang lo lắng không yên, ngoài hành lang đã vọng đến tiếng chân nhẹ bước.

Năm ngón tay Dương Phượng túm thật chặt vạt áo Tắc Doãn, cố ngồi thẳng người ngóng ra cửa. Tấm rèm từ từ được vén lên, ánh sáng bên ngoài chiếu vào khiến người ta chói mắt. Dương Phượng chỉ cảm thấy mọi thứ trước mắt như vụt qua, một bóng người lọt vào tầm nhìn.

“Dương Phượng, sao tỷ lại bệnh thành ra thế này?” Giọng nói dịu dàng mà quen thuộc, vừa nghe đã khiến người ta rơi lệ.

Dương Phượng nín thở, nhìn thật kỹ khuôn mặt trước mắt, khẽ kêu lên một tiếng, “Trời ơi…”. Nàng thở ra một hơi, chút sức lực cuối cùng cũng cạn kiệt, cả người mềm nhũn, đổ vật vào vòng tay Tắc Doãn.

Sính Đình ngạc nhiên: “Dương Phượng! Tỷ sao thế?”.

“Ái thê, ái thê!”

Hai người thi nhau gọi, đám người hầu vội vã mang khăn bông nóng vào.

Dương Phượng được đắp khăn bông nóng lên trán, dần tỉnh lại, ánh mắt dán chặt vào Sính Đình, sợ rằng chỉ cần chớp mắt, người hảo hữu này sẽ biến mất, sau đó thở dài: “Sính Đình, muội còn sống à? Ông Trời cũng coi như từ bi một lần”.

“Mọi người đều tưởng muội chết rồi sao? Chẳng trách đám thị vệ lúc nãy thấy muội mà sắc mặt như gặp ma.” Sính Đình vô cùng áy náy, “Là muội không tốt, không giữ đúng lời hẹn ba ngày ở đó đợi mọi người. Không tìm thấy muội, chắc tỷ và Túy Cúc lo lắm. Túy Cúc đâu? Mau bảo Túy Cúc ra đây, để nàng ấy yên tâm”.

“Ai là Túy Cúc?”

Sính Đình sững người: “Túy Cúc không đến tìm mọi người sao?”.

Cả Tắc Doãn và Dương Phượng đều ngơ ngác, lắc đầu không hiểu.

Trong lòng cảm thấy không ổn, Sính Đình vội hỏi: “Nếu không gặp Túy Cúc, không lên núi tìm kiếm, không phát hiện ra muội mất tích, làm sao mọi người lại đoán muội đã chết?”.

“Chúng ta tìm thấy dưới chân núi một bộ y phục và xương cốt của nữ nhân bị sói ăn thịt, trong đó có cây trâm dạ minh châu Dương Phượng tặng tiểu thư, Dương Phượng cứ ngỡ tiểu thư đã…”

“Ông Trời ơi…” Cả người cứng đờ, Sính Đình bịt miệng, hai mắt mở trừng trừng, mãi một lúc sau mới đứt ruột đứt gan kêu lên một tiếng, “Túy Cúc!”.

Cảnh cuồng phong bão tuyết ở sơn mạch Tùng Sâm như lại hiện ra trước mắt nàng.

Trong nỗi hốt hoảng, Túy Cúc quay đầu, vê cây kim bạc. Cây kim bạc phản chiếu ánh tuyết, càng lúc càng sáng, như thể chỉ cần cây kim ấy cũng đủ soi sáng cả đất trời.

Nhưng, sau khoảnh khắc cực sáng, trời đất lại tối sầm. Toàn thân Sính Đình mệt mỏi rã rời, cảm thấy trước mắt trời đất bỗng chao đảo, hai đầu gối khuỵu xuống, ngã ra đất.

Dương Phượng thất kinh: “Sính Đình! Sính Đình! Muội làm sao thế?”. Dương Phượng cố bước xuống giường. Tắc Doãn sợ Dương Phượng ngã, nhanh chóng đỡ lấy nàng, nói: “Dương Phượng, cẩn thận…”.

“Mặc kệ thiếp, chàng mau đi xem Sính Đình đi, đi đi!”

Tắc Doãn vội bế Sính Đình đã ngất xỉu, quát lên: “Đại phu, mau gọi đại phu”.

“Mau đi hầm ngay loại nhân sâm tốt nhất.”

“Phu nhân, nhân sâm là để chữa bệnh cho phu nhân…”

Gặp được Sính Đình, tâm bệnh không còn, cả người khỏe lên được một nửa, Dương Phượng nhướng mày, nói: “Sính Đình vẫn sống, thiếp còn có bệnh gì? Mau đi”.

Quát tháo một hồi, thấy đám người hầu đã nghe lệnh chạy đi hầm nhân sâm, Dương Phượng mới dừng lại. Vừa trải qua một trận ốm, Dương Phượng cũng cảm thấy tim đập thình thịch, tay chân không còn sức, bèn gọi một thị nữ đến, thều thào: “Đi, sắc thuốc luôn cho ta rồi mang lên đây”.

Còn sống.

Đều vẫn còn sống.
 

Hoa Tử

Sưu tầm
Tham gia
24/9/19
Bài viết
10,570
Điểm cảm xúc
1,484
Điểm
113
Chương 45:
Thật ấm áp.

Ai đã từng trải qua gió tuyết ở sơn mạch Tùng Sâm, qua đêm nơi đá băng đất lạnh mới có thể thực sự cảm thán trước sự ấm áp trong chiếc chăn bông dày sụ.

Xương gãy đau nhức đến co giật, người hôn mê đến mấy cũng phải tỉnh dậy.

Mở choàng mắt, Túy Cúc không kìm nổi mà đưa tay chạm vào vết thương. Có người đã quấn qua loa chỗ gãy giúp nàng, dưới lớp vải băng bó thoảng mùi thảo dược.

Nhưng vẫn có cái gì là lạ, nàng cau mày nghĩ một lúc, lại thò tay vào trong chăn, chạm phải làn da trơn mềm của chính mình.

“A…” Túy Cúc thất kinh, xấu hổ rụt tay.

“Ha ha.” Từ góc tối của căn phòng bỗng vang lên giọng cười giễu cợt của một nam nhân.

Túy Cúc trừng mắt: “Y phục của ta đâu?”.

“Ở trong đất tuyết.”

Đúng rồi, đất tuyết, Dương Phượng, cứu viện…

Sính Đình…

Chết rồi, Sính Đình!

Nàng vội vã sờ lên tóc, bên trên không có thứ gì.

“Trâm dạ minh châu của ta?”, Túy Cúc lo lắng hỏi.

“Ở trong đất tuyết. Khó khăn lắm ta mới tìm thấy thi thể của một nữ nhân, rồi cài cây trâm vào đó. Có điều, chắc đến một nửa người đã vào bụng sói.”

“Bao lâu rồi?”

“Cái gì bao lâu rồi?”

Trong lòng lo lắng cho Sính Đình, Túy Cúc hỏi dồn dập: “Từ lúc ngươi đuổi ta vào đàn sói cách bây giờ bao lâu rồi? Nửa ngày? Hay một ngày? Ta phải làm thế nào mới tìm lại được y phục và cây trâm của ta ngươi bỏ trong tuyết? Nhất định ta phải tìm cho bằng được!”.

“Nửa tháng.”

“Cái gì?”, Túy Cúc nhìn về phía góc phòng vẻ không thể tin.

Phiên Lộc bước ra khỏi bóng tối, tay vẫn nghịch cây cung tinh xảo, nhếch môi: “Tuyết trên đường đã tan cả rồi. Ngươi đã ngủ được nửa tháng”.

Như bị ai đâm thẳng vào ngực, suýt chút nữa ngạt thở, Túy Cúc lắc đầu, nói: “Không thể nào, không thể nào!”.

Ba ngày, Sính Đình nói sẽ đợi ba ngày.

Sính Đình đang ở trên núi đá trong sơn mạch Tùng Sâm với mạch tượng đã loạn.

“Bản lĩnh la lối của ngươi, ta đã lĩnh giáo đủ rồi. Nếu không làm ngươi hôn mê, sao mang ngươi đi được?”

“Ngươi…”

Hắn ngắt lời, hỏi: “Ta cứu mạng ngươi, sao còn không đa tạ?”.

Túy Cúc giận dữ nhìn người trước mặt, im lặng một lúc lâu, bỗng nghiến răng nghiến lợi hét lên: “Ngươi là đồ khốn! Tên trời đánh! Kẻ đáng chết! Sao ngươi hại ta? Rồi lại cứu ta? Ta phải giết ngươi! Giết ngươi!”.

Mắng mỏ hết hơn nửa canh giờ, sức cùng lực kiệt, nàng thở hổn hển, vết thương trên đùi lại đau dữ dội, nên đành phải dừng lại, ôm chăn nằm trên giường thở dốc.

Nhưng da mặt tên Phiên Lộc không biết được làm bằng gì, dù Túy Cúc có nói khó nghe đến đâu, hắn vẫn thờ ơ đứng đó, mặc cho lời mắng mỏ chui lọt vào tai. Chỉ đến khi Túy Cúc dừng lại, hắn mới hỏi: “Ngươi mắng đủ chưa?”.

“Chưa đủ!” Nỗi bi phẫn trong lòng Túy Cúc sao có thể mắng mà hết được? Nàng ngẩng phắt đầu, lại nghiến răng nghiến lợi lôi hết những câu chửi khắp tứ quốc ra mà mắng thành bài bản.

Phiên Lộc nghe mãi, nghe mãi, khẽ mỉm cười, khoanh tay đứng bên tường nhìn. Túy Cúc càng hận, hít một hơi thật sâu, càng mắng càng hăng.

Vừa cười vừa nghe một hồi, bỗng Phiên Lộc không cười nữa, sắc mặt sa sầm, nói: “Đủ rồi, ngươi còn nói thêm một câu nào nữa, ta sẽ kéo chăn của ngươi ra”.

“Ngươi…”, Túy Cúc khựng lại, im bặt.

Vốn không sợ chết, nhưng lúc này đang chẳng mảnh vải che thân dưới chăn, nếu bị hắn kéo chăn ra nhìn cho hết, đến lúc chết nàng còn mặt mũi nào mà gặp ma? Nữ nhân khắp thiên hạ, có mấy người không sợ sự uy hiếp này?

Thấy nàng như vậy, Phiên Lộc nở nụ cười vô cùng tà ý.

Im lặng một lúc, Túy Cúc như dịu đi, lạnh lùng: “Ta không cần ngươi cứu mạng, hãy giết ta đi”. Qua cơn tức giận, nỗi ai oán dâng lên, nàng co người trong chăn, quay đi chỗ khác.

Nghĩ đến Sính Đình ở trên núi tuyết nửa tháng nay, có khi đã chẳng còn trên thế gian, nước mắt Túy Cúc lại trào ra.

Nhưng trong lòng nàng lại có chút hy vọng, nghĩ tên xấu xa này tưởng nàng là Bạch Sính Đình, vậy cũng bớt được một bọn người tìm cách hãm hại Sính Đình trên sơn mạch Tùng Sâm. Biết đâu ông Trời đoái thương, cho Sính Đình một con đường sống.

Nghĩ như vậy, nàng những mong được chắp thêm đôi cánh bay đến sơn mạch Tùng Sâm để xem xem. Nhưng, bộ dạng nàng lúc này có thể đi được đâu?

Tuyệt đối không thể để tên ác nhân trước mặt biết được bí mật ấy.

Nước mắt như chuỗi hạt trân châu bị đứt, lăn dài trên má.

Phiên Lộc thấy nàng co rúm một góc, nhỏ bé trên giường, bờ vai run run, chắc là đang khóc thì cũng chẳng thèm để ý. Hắn quay đi, một lúc sau, bê bát cơm trở lại.

“Ăn chút gì đã.”

Túy Cúc đâu nghĩ đến chuyện ăn, đang hận hắn như thế nên cắn răng chẳng thèm lên tiếng.

Thấy nàng vẫn nằm im, thừa biết nàng đang nghĩ gì, Phiên Lộc lạnh lùng: “Không phải ta đang cầu xin ngươi, mà là đang ra mệnh lệnh cho ngươi. Ngoan ngoãn mà ăn, để ta ra tay, đừng trách ta không thương hoa tiếc ngọc”.

Cảm giác thấy cái chăn bông đang đắp trên người đang bị kéo ra, Túy Cúc sợ hãi, vội vàng ngồi dậy, túm chặt cái chăn, vừa hoảng hốt vừa giận dữ: “Ngươi… ngươi định thế nào?”.

Khóe môi Phiên Lộc lại nhếch lên một nụ cười, ánh mắt vô cùng hung hãn: “Vất vả lắm ta mới cứu được ngươi về đây, trên đường ngày nào cũng phải bón nước cháo cho ngươi ăn, không biết đã tốn bao nhiêu công sức. Nếu ngươi định tìm đến cái chết, hãy để ta đòi lại chút công sức đã”.

Hắn giơ tay ra, Túy Cúc vội vàng co rúm lại trên giường, ánh mắt khiếp sợ.

Cố ý dọa nàng, tay Phiên Lộc giơ ra đến nửa chừng thì dừng lại, khoanh trước ngực, uể oải dựa lưng vào tường, hất hàm về phía cơm canh đặt bên giường: “Ăn sạch cho ta”.

Đôi mắt sáng hằn những tia máu, Túy Cúc giận dữ trừng trừng nhìn người bên cạnh. Thấy hắn lại có vẻ sắp ra tay đến nơi, nàng đành miễn cưỡng bưng bát cơm lên, và vài hạt.

Túy Cúc đã chịu đủ đói khát trên núi tuyết, sau khi hôn mê chỉ uống toàn nước cháo, trong lòng tuy buồn rầu oán hận, nhưng ăn một hai miếng, bụng đã sôi lên sùng sục, càng ăn càng thấy ngon.

Cuối cùng, không những nàng ăn hết một bát cơm, mà còn ăn sạch cả hai đĩa thức ăn.

Buông bát đũa, ngẩng đầu lên, mới phát hiện tên ác nhân đó vẫn đứng quan sát mình ăn, Túy Cúc bất giác trừng mắt nhìn hắn.

Sợ Phiên Lộc kéo chăn ra, nàng chỉ biết trừng mắt nhìn, mà không dám nói thêm một tiếng.

“Ngươi vẫn thường trừng mắt nhìn Trấn Bắc vương thế này sao?”, Phiên Lộc bỗng hỏi.

Túy Cúc sững người, chợt nhớ đến việc hắn vẫn tưởng mình là Bạch Sính Đình, tất nhiên nàng sẽ chẳng trả lời câu hỏi này của Phiên Lộc, chỉ mím môi đáp: “Không liên quan đến ngươi”.

Phiên Lộc không lên tiếng, lặng lẽ nhìn Túy Cúc.

Ánh mắt hắn vừa to gan vừa vô lễ, Túy Cúc đã cuộn mình trong chăn, nhưng vẫn có cảm giác cả người không mảnh vải che thân đang bị người ta nhìn trộm. Nàng cố gắng chịu đựng, đến lúc không thể chịu thêm bèn nhìn thẳng vào mắt Phiên Lộc, gằn giọng hỏi: “Ngươi nhìn gì?”.

Phiên Lộc không trả lời, vẫn tiếp tục nhìn nàng, một lúc sau mới nói: “Người ta đồn rằng ngươi không đẹp, nhưng ta thấy đâu phải vậy”.

Trong lòng vô cùng sợ hãi, Túy Cúc cảnh giác nhìn hắn, mười đầu ngón tay túm chăn càng chặt.

Hai người không ai lên tiếng, bầu không khí bỗng chốc cô đặc khiến người ta khó thở.

Phiên Lộc cũng chẳng rời bước, cứ lặng lẽ nhìn Túy Cúc.

Túy Cúc thấy ánh mắt hắn còn đáng sợ hơn bầy sói, khắp người nổi gai ốc, cảm giác sống lưng như đang chạm phải vật gì rất cứng, hóa ra nàng đã lùi tít tới góc giường, áp lưng vào tường.

“Đây là đâu?”, Túy Cúc hỏi.

Phiên Lộc nhếch môi, không đáp.

Túy Cúc phẫn nộ: “Ngươi cười cái gì?”.

Phiên Lộc nói: “Ta đang đánh cuộc với mình, trong vòng một tuần hương, ngươi sẽ nói chuyện với ta, quả nhiên là vậy”. Hắn nở nụ cười gian tà để hở hàm răng trắng bóng.

“Ngươi sợ ta?”

“Hừ, nghĩ hay lắm.”

Lời chưa nói hết, Phiên Lộc đã lao tới như con mãnh thú.

“A!” Túy Cúc kêu lên thất thanh, bị một lực rất mạnh ép vào tường không thể cử động.

Hàng mi khẽ mở, ngay trước mắt nàng, khuôn mặt Phiên Lộc gần trong gang tấc.

“Ngươi… ngươi muốn làm gì?”

“Nhìn bộ dạng ngươi, rõ ràng là chưa biết sự đời.” Phiên Lộc không hề nể nang, túm chặt cằm nàng. “Theo Sở Bắc Tiệp bao lâu như thế, chẳng lẽ hắn lại chưa từng chạm vào người ngươi?”

Túy Cúc từ nhỏ đã theo sư phụ, được sư phụ yêu chiều, ra vào đâu đâu cũng được danh tiếng “đệ tử Thần y” che chở, ngay cả người trong vương tộc Đông Lâm còn đối xử với nàng vô cùng quy củ, đâu có chuyện bị tên nam nhân uy hiếp ở cự ly gần thế này.

Hơi thở nóng rẫy của Phiên Lộc phả vào mặt còn đáng sợ hơn cả khi nàng bị ném vào giữa bầy sói. Túy Cúc vừa sợ hãi vừa xấu hổ, vội nói: “Tránh ra! Ngươi mau tránh ra!”.

“Rốt cuộc ngươi là ai?”

“Bạch Sính Đình, ta là Bạch Sính Đình!”

“Bạch Sính Đình?”, Phiên Lộc hừ một tiếng, thả nàng ra, bước xuống giường.

Túy Cúc như được cải tử hoàn sinh, thở phào nhẹ nhõm, người càng áp sát vào tường.

Xuất thân mật thám, là người nhạy bén, Phiên Lộc rất biết quan sát sắc mặt người khác, đánh giá tình hình quân địch. Đã đến lúc này, liệu còn điều gì chưa rõ?

Nữ nhân này không phải Bạch Sính Đình.

Dù vì bất cứ lý do gì mà cài lên đầu cây trâm dạ minh châu, nữ nhân này cũng không phải là Bạch Sính Đình.

Biết Bạch Sính Đình đã chết, trong lúc vui mừng, Thừa tướng đã lập tức thăng quan cho hắn, phong hắn làm thủ thành của thành Thả Nhu.

Hắn bất chấp tội chết, giở trò lừa gạt, khai man về cái chết của Bạch Sính Đình, còn tưởng đã kiếm được hàng hiếm giá cao.

Kết quả lại là một trò cười.

Trong đầu Phiên Lộc quay cuồng bao ý nghĩ, đuôi mắt quét qua nữ nhân đang cảnh giác nhìn mình.

Nữ nhân này không phải Bạch Sính Đình, cũng có nghĩa là chẳng còn chút giá trị nào.

Hơn nữa, nếu để Thừa tướng biết được sự việc này, hắn chỉ có một con đường chết.

Giết người diệt khẩu?

Tay Phiên Lộc chậm rãi tiến về phía cây nỏ đặt trên bàn. Khi chạm phải tay cầm quấn gân bò quen thuộc, hắn bỗng dừng lại.

Giết nàng ta thì có tác dụng gì? Nếu Bạch Sính Đình một lần nữa xuất hiện trước mắt người đời, thì dù có giết nữ nhân này, sự thật vẫn bị phơi bày.

Phiên Lộc quay lại, ánh mắt dán vào nữ nhân trên giường đang nhìn mình thù địch.

Đôi mắt to đen, mái tóc dày mượt, làn môi quật cường.

Hôm đó thần xui quỷ khiến thế nào mà mình lại cứu nàng ta?

Ngoài việc tưởng nữ nhân kia là hàng hiếm giá cao, nàng ta còn điều gì đáng để mình bất chấp nguy hiểm, liều mạng cướp ra khỏi miệng sói?

Hắn nhìn nàng, một lúc lâu mới nói: “Nơi này là Thả Nhu, một thành nhỏ của Vân Thường”.

Hắn nhìn Túy Cúc, khóe miệng lại nhếch lên nụ cười tà ý chỉ mình hắn có: “Ta vừa tiếp quản chức quan thủ thành của thành này, là chức quan to nhất ở đây. Nếu ngươi muốn chạy, ta sẽ bắt lại ngươi như bắt một con thỏ”.

Dừng lại giây lát, hắn bồi thêm một câu: “Sau đó, lột trần ngươi như lột da thỏ, treo trên tường thành”.

Dương Phượng ngồi trên giường uống thuốc, đầu hơi tựa vào thành giường. Tâm bệnh đã hết, nàng cảm thấy cả người dễ chịu. Trong lòng vẫn lo cho Sính Đình, Dương Phượng bèn gọi thị nữ lại.

Thị nữ e dè: “Phu nhân, Thượng tướng quân đã nói, Bạch cô nương đang nghỉ trong khách phòng[1] ở cuối hành lang, khi nào đại phu bắt mạch và viết xong đơn thuốc, Thượng tướng quân sẽ qua với phu nhân. Bạch cô nương đã có người chăm sóc, phu nhân hãy lo dưỡng bệnh”.

[1] Khách phòng là phòng được chuẩn bị cho khách nghỉ ngơi.

Dương Phượng ngồi dậy, thò chân xuống tìm giày: “Ngươi đừng sợ Thượng tướng quân, có ta ở đây. Ngươi yên tâm, ta không cậy khỏe, chỉ qua đó nhìn một lát rồi quay về nằm. Lúc nãy mới chạm mặt, ta chưa được nhìn kỹ Sính Đình. Còn đứng đó làm gì? Mau lại đây đỡ ta”.

Thị nữ sợ Tắc Doãn giận, thấy bộ dạng của Dương Phượng như thế thì cũng sợ chọc giận nàng, khó cả đôi đường. Cuối cùng, a hoàn đấy đành đỡ Dương Phượng, rồi gọi thêm một người nữa, hai người dìu phu nhân đi.

Thị nữ cầu xin: “Có thật là phu nhân chỉ sang nhìn thôi không? Nếu Thượng tướng quân trách tội, tốt xấu gì phu nhân cũng phải nói đỡ một lời cho nô tỳ”.

“Ta biết rồi”, Dương Phượng bật cười, “Các ngươi thông minh thật. Sợ Thượng tướng quân mà không sợ ta?”. Hai tay đặt trên vai hai thị nữ, nàng từng bước rời phòng.

Ba người vừa bước tới hành lang, đúng lúc Tắc Doãn và đại phu ra khỏi khách phòng. Ngẩng lên thấy Dương Phượng, Tắc Doãn vẻ mặt sa sầm, bước nhanh qua, hai tay bế lấy nàng, giọng trách móc: “Bảo nàng nằm im một chỗ, sao đã xuống giường rồi? Sính Đình ở đây, muốn gặp lúc nào chẳng được?”.

Hai thị nữ thấy ánh mắt lạnh lùng của Tắc Doãn quét tới, sợ hãi quá lùi về sau.

Vừa dễ chịu vừa thoải mái trong vòng tay Tắc Doãn, Dương Phượng ngẩng lên cười ngọt ngào với nam nhân thân yêu của mình: “Chàng đừng trách họ, họ làm sao dám trái lệnh của đường đường một thượng tướng quân phu nhân? Phu quân, Sính Đình thế nào rồi? Bệnh có nặng không?”.

“Sính Đình thể trạng yếu, cả chặng đường vất vả, cũng không dễ dàng gì.” Tắc Doãn vừa bế Dương Phượng về phòng, vừa hạ giọng: “Sính Đình hoài thai rồi”.

Dương Phượng vô cùng ngạc nhiên.

“Đó nhất định là cốt nhục của Sở Bắc Tiệp”, Dương Phượng khẽ nói.

“Chắc chắn rồi”, Tắc Doãn thở dài, “Trong bức thư hôm qua, Nhược Hàn có nói, Đông Lâm vương bệnh nặng, hai vương tử của Đông Lâm vương đều đã chết trong tay Đại vương chúng ta và Hà Hiệp…”. Tắc Doãn cúi xuống đặt Dương Phượng vào giường, nhẹ nhàng đắp chăn cho nàng.

“Trong bụng Sính Đình là huyết mạch của vương tộc Đông Lâm.” Dương Phượng buồn bã thở ra một tiếng, lại hỏi, “Thế Sở Bắc Tiệp đâu? Hắn đang ở đâu?”.

“Mọi người đều đang tìm kiếm tung tích của Sở Bắc Tiệp. Sau khi biết Sính Đình đã chết, Sở Bắc Tiệp cũng biến mất luôn. Đại vương của chúng ta đang vui mừng, vì việc này mà mở tiệc rượu ba ngày ở vương cung. Nếu Đại vương biết Bạch Sính Đình chưa chết, còn mang trong mình cốt nhục của Sở Bắc Tiệp, chắc chắn sẽ lập tức đến đây.” Tắc Doãn ngừng lời, nhìn Dương Phượng.

Dương Phượng chần chừ, suy nghĩ hồi lâu, rồi thở dài: “Sở Bắc Tiệp tuy đáng thương, nhưng cũng đáng hận. Đừng nhìn hiện tại hắn vì Sính Đình mà đau lòng muốn chết, chưa biết chừng ngày sau gặp lúc quốc gia nguy nan, vào thời khắc sống chết hắn lại tặng Sính Đình cho người khác. Theo thiếp, khắp thiên hạ đều cho rằng Bạch Sính Đình đã chết, chi bằng đã nhầm thì cho nhầm luôn, để Sính Đình được sống yên tĩnh”.

“Việc này…”

“Việc này đương nhiên phải xem ý Sính Đình. Để thiếp nói với muội ấy, rồi muội ấy cũng sẽ hiểu ra”, Dương Phượng cân nhắc một lúc, “Thời thế loạn lạc, thiếp sẽ không để Sính Đình rời khỏi tầm mắt mình. Phú quý cũng được, bần hàn cũng thế, tỷ muội bên cạnh nhau, chăm sóc lẫn nhau”.

Tắc Doãn biết trong lòng Dương Phượng vẫn áy náy vì trận chiến Kham Bố, có bù đắp cho Sính Đình đến hết cuộc đời cũng không đủ. Chỉ cần Dương Phượng cảm thấy yên ổn thì có gì là không được? Vốn làm việc không bao giờ do dự, Tắc Doãn cương quyết gật đầu: “Được, nếu Sính Đình muốn ẩn cư cùng chúng ta, vậy thì chúng ta sẽ lập tức thu dọn hành lý, rời khỏi chỗ này tìm một chỗ khác. Nơi này đã không còn an toàn, Nhược Hàn biết, Đại vương biết, Sở Bắc Tiệp cũng đã tìm tới, chưa biết sau này sẽ còn ai ghé thăm chúng ta”.

“Lần ẩn cư này, chúng ta sẽ không còn bất cứ liên quan nào với Bắc Mạc. Cho dù là Nhược Hàn hay Đại vương, chúng ta cùng đều cắt đứt mọi qua lại.”

Tắc Doãn chăm chú nhìn ái thê, trầm giọng đáp: “Được”.

“Phu quân…”, Dương Phượng rất cảm động.

Băng tuyết dần tan gió xuân đang đến.

Sính Đình, còn nhớ lúc chúng ta hát hò vui vẻ ở phủ vương tử của Hà Túc, ngắt cành dương liễu, cười vang mặt hồ…

Còn nhớ khi chúng ta so tài cao thấp ở vương phủ Kính An, mừng sinh thần của muội…

Nay Hà Túc đã là quân vương một nước, vương phủ Kính An hóa thành tro tàn.

Hà Hiệp rời đi ngàn dặm, đến Vân Thường xa xôi, trở thành phò mã.

Cuộc đời như bãi bể nương dâu, nếu chưa từng trải qua thì có lẽ không thể tưởng tượng được.

Nhưng may mắn thay, cả ta và muội đều vẫn ở đây.

Để Dương Phượng sớm hồi phục, Tắc Doãn hạ nghiêm lệnh, không cho ái thê xuống khỏi giường, ngoài ra còn sai người chăm sóc Sính Đình, tất nhiên cũng vô cùng chu đáo, thoải mái cho dùng các loại thuốc bổ quý hiếm.

Dương Phượng hết cách, đành nhẫn nại bảy, tám ngày. Nàng tuân thủ tất cả các lời dặn của đại phu, ngày ngày uống thuốc đúng giờ nên hồi phục rất nhanh. Thỉnh thoảng Tắc Doãn lại đưa hài tử sang thăm mẫu thân, nàng mừng rỡ ôm lấy hài tử, thơm hôn rồi ghé vào tai hài tử thì thào: “Khánh nhi, lát nữa mẫu thân dẫn sang thăm dì Sính Đình. Trong bụng dì Sính Đình có một tiểu đệ đệ, sau này sẽ chơi cùng con đấy”.

Khánh nhi mới gần một tuổi, làm sao hiểu những lời này, chỉ thấy đôi mắt đen láy nhìn quanh, thi thoảng lại toét miệng cười với mẫu thân.

Tắc Doãn ở bên cạnh nhìn mẫu tử hai người, cũng cảm thấy buồn cười: “Sao nàng biết trong bụng Sính Đình là một tiểu đệ đệ?”.

“Thiếp đoán thôi mà. Sính Đình đã đỡ hơn chút nào chưa?”

Vẻ mặt có chút u ám, Tắc Doãn lắc đầu: “Sính Đình không chịu nói chuyện, có vẻ rất đau lòng. Túy Cúc là thị nữ của Sính Đình à?”.

Dương Phượng cũng lắc đầu: “Vương phủ Kính An không có người này, nếu là thị nữ thì cũng là người của Sở Bắc Tiệp”. Dương Phượng chưa từng gặp Túy Cúc, tuy biết nàng ấy chết thảm, nhưng cũng không đến nỗi đau lòng như Sính Đình.

Dương Phượng đổi chủ đề, hỏi Tắc Doãn: “Nhìn ý Sính Đình, chàng bảo rốt cuộc trong lòng Sính Đình còn nghĩ đến Sở Bắc Tiệp không? Sở Bắc Tiệp hành sự hiểm ác, nhưng trong bụng Sính Đình mang thai cốt nhục của hắn, thiếp chỉ sợ Sính Đình lại mềm lòng”.

Tắc Doãn hơi sững người, khi dẫn binh đánh trận, mọi việc thật mạch lạc rõ ràng, nhưng chuyện này đúng là hắn mù tịt, nên lắc đầu nói: “Làm sao mà đoán được tâm tư của nữ nhân, ta không biết”.

Dương Phượng yêu kiều lườm phu quân một cái, cười bảo: “Thiếp có thể nhìn ra được đấy. Thượng tướng quân, bệnh của người ta đã khỏi từ lâu rồi, chàng hãy mở lòng từ bi giải nghiêm lệnh, cho thiếp xuống giường đi. Thượng tướng quân không biết là nước chảy mới không dậy mùi, trục cửa quay mới không mọt sao? Người bệnh cũng phải hoạt động thích hợp thì mới khỏi được chứ”.

Tắc Doãn thấy Dương Phượng cười tươi như hoa, lòng say ngây ngất. Nghĩ lại, đúng là nàng đã bị trói chân trên giường đến mấy ngày rồi, hắn cũng thấy mềm lòng. Tắc Doãn khẽ vuốt những lọn tóc mềm mại của thê tử, nói: “Nàng đừng cậy khỏe, vừa đỡ chút xíu đã đòi đi chỗ này chỗ nọ. Giờ đang lúc tuyết tan, trời vẫn rất lạnh. Nàng muốn gặp Sính Đình, ta sẽ bế nàng qua”. Nói rồi, hắn cúi xuống bế Dương Phượng vào lòng.

Tiểu Tắc Khánh bị bỏ lại trên giường, khóc ầm lên, bất mãn.

Tắc Doãn nhìn nhi tử, cười: “Con ngoan, con còn nhỏ lắm, sau này lớn lên, con sẽ bế nữ nhân của mình”.

Thấy phu quân dỗ con như vậy, Dương Phượng lắc đầu, vừa giận vừa buồn cười.

Hai người âu yếm vào đến khách phòng, tâm trạng phơi phới bỗng chùng xuống vì không khí yên lặng bên trong.

“Sính Đình?”

Sính Đình đã tỉnh. Nàng cũng phải chịu nghiêm lệnh “Không được xuống giường” của Tắc Doãn. Lúc này, Sính Đình đang ngồi trên giường, dựa lưng vào gối, người đắp một chiếc chăn. Nghe thấy tiếng Dương Phượng, Sính Đình có chút ngạc nhiên, vội quay đầu lại, mái tóc đen xõa dài trên vai: “Dương Phượng?”.

Vẻ thông minh sắc sảo khi trước vẫn còn đây, chỉ là khuôn mặt Sính Đình giờ gầy hơn nhiều, thật khiến người ta đau lòng.

“Sính Đình, Sính Đình…” Hai mắt Dương Phượng đỏ hoe, như sắp khóc đến nơi.

Tắc Doãn đặt Dương Phượng xuống, để nàng ngồi cạnh Sính Đình trên giường.

“Khóc gì chứ?” Sính Đình nắm tay Dương Phượng, cười nói, “Nghe nói tỷ đã đỡ nhiều, hôm nay được ra ngoài rồi ư?”. Vừa nói, Sính Đình vừa ngẩng lên nhìn sang bên.

Tắc Doãn vẫn đứng yên bên cạnh như tượng sắt, vẻ mặt đúng là “phải bảo vệ thê tử như thế”.

“Đỡ nhiều rồi”, Dương Phượng hỏi, “Còn muội?”.

Sính Đình cảm kích đáp: “Muội cũng đỡ nhiều rồi, may mà có Thượng tướng quân”.

“Muội nhớ uống thuốc an thai đúng giờ đấy.”

“Ừm.” Sính Đình cúi xuống, dịu dàng xoa phần bụng đã hơi nhô ra của mình, “Hài nhi ngoan, mấy hôm nay không đạp nhiều nữa”.

Dương Phượng thở dài: “Muội cũng biết đứa bé quan trọng, nên đừng đau lòng quá. Sính Đình, đừng tự trách mình nữa. Túy Cúc đã chết, dù muội có giày vò bản thân đến thế nào, nàng ấy cũng không thể quay về. Túy Cúc thân thiết với muội như vậy, ở trên trời cũng chẳng muốn thấy muội thế này”.

Tắc Doãn cau mày, cảm thấy như đã từng nghe những lời này ở đâu.

Nghe thấy hai từ “Túy Cúc”, nụ cười trên môi Sính Đình cũng hoàn toàn biến mất. Nàng thở dài, ngẩng lên nhìn Dương Phượng: “Muội biết điều này, nhưng muội vẫn buồn, cứ nghĩ đến Túy Cúc, trong lòng muội lại đau như bị kim châm. Vốn dĩ muội bảo nàng ấy xuống núi, vì muốn cứu mạng nàng ấy, một người sống còn hơn hai người cùng chết đói, chết rét. Không ngờ lại thành hại nàng ấy…”.

Dương Phượng thấy Sính Đình đau lòng, vội chuyển chủ đề: “Hôm nay ta sang đây muốn bàn với muội một việc. Ta nói trước là ta đã suy nghĩ kỹ rồi, sau này ta sẽ không để muội rời khỏi ta mà phiêu dạt khắp chốn, khiến ta lo lắng không yên. Chúng ta sẽ chuyển đến nơi khác, cùng nhau ẩn cư, được không? Việc đã thế này, dù muội không lo cho bản thân thì cũng phải lo cho hài nhi trong bụng. Muội đừng quá đau lòng, phải chuẩn bị cho tương lai”.

Sính Đình biết Dương Phượng nói có lý, cũng không muốn để Dương Phượng lo lắng cho mình, nên cố lấy tinh thần, suy nghĩ một lúc rồi gật đầu, đáp: “Ẩn cư cũng được. Nhưng Thượng tướng quân nhà tỷ danh tiếng quá lớn, bên cạnh có bao nhiêu cận vệ thị nữ, bao gia tài, ẩn cư thế nào? Dù đổi sang nơi khác, e là chưa đến ba ngày, sẽ lại có tướng lĩnh Bắc Mạc tìm đến. Muội không muốn để người khác biết mình vẫn còn sống. Tốt nhất là mẫu tử muội sẽ tìm một nơi yên tĩnh khác”.

Thấy Sính Đình không nhắc đến tên nam nhân đáng ghét Sở Bắc Tiệp, ngôn từ cử chỉ đã lấy lại vài phần thần thái đắn đo suy tính trước kia, Dương Phượng vô cùng vui mừng. Nhưng nghe đến đoạn sau mới biết Sính Đình có dự định khác, nàng vội nói: “Chuyện đó có gì? Cận vệ thị nữ, ai về nhà nấy, nếu đã định ẩn cư, không lẽ còn lưu luyến xa xỉ của phủ thượng tướng quân?”.

Sính Đình nhìn Dương Phượng, lắc đầu: “Tỷ và muội không giống nhau, muội đã từng chịu bao vất vả, bị bọn quan lại cướp mất tay nải, phải leo lên núi tuyết, chịu đói, chịu rét, đã nếm trải đủ thế nào là gian khổ. Tỷ từ nhỏ đã ở trong phủ vương tử quen với áo gấm bát ngọc, đến Bắc Mạc thì trở thành thượng tướng quân phu nhân, đâu hiểu được thói đời ấm lạnh ra sao?”.

Dương Phượng ngồi thẳng người lên, giọng nghiêm túc: “Sính Đình, ta không đùa đâu. Lần trước để muội rời khỏi phủ thượng tướng quân đến Đông Lâm gặp Sở Bắc Tiệp, ta đã hối hận đến đứt gan đứt ruột rồi. Chuyện mẫu tử muội ẩn cư, sau này ta không cho phép nhắc lại nữa. Trước kia ở vương phủ Kính An, muội cũng quen với áo gấm bát ngọc, địa vị chẳng khác gì một thiên kim tiểu thư, giờ muội chịu được khổ, có gì ta lại không?”. Như bỗng nhớ ra điều gì, Dương Phượng đuổi hết đám người hầu ra ngoài. Sống những ngày bần hàn không chỉ là việc của một mình Dương Phượng, mà cũng phải hỏi qua Tắc Doãn một tiếng. Nghĩ tới đây, nàng bỗng ngừng lời, quay lại nhìn Tắc Doãn.

Tắc Doãn trầm giọng: “Không quan trọng. Ta sẽ xử lý”.

Năm xưa khi Dương Phượng nhận lời mình, Tắc Doãn đã hứa sẽ quy ẩn sơn lâm, toàn tâm toàn ý cùng nàng vui sống. Thị nữ, cận vệ, gia sản, đâu có đáng gì?

Dương Phượng hiểu được tâm ý phu quân, vừa cảm động lại vừa cảm kích.

Ở bên cạnh nhìn, Sính Đình bỗng nhớ tới Sở Bắc Tiệp, trong lòng đau như bị kim châm, không sao tự chủ nổi. Sợ Dương Phượng nhận ra, nàng khẽ quay sang bên, lặng lẽ lau những giọt lệ nơi khóe mắt.

Vốn nói được làm được, ngay tối hôm đó Tắc Doãn cho gọi đám gia nhân đến đại sảnh, nói: “Ta đã hứa với phu nhân, lần này quy ẩn sẽ không xuất núi. Núi rừng hoang vắng, phu thê ta cũng không cần nhiều người hầu hạ thế này. Các ngươi vẫn còn trẻ, nam nhi nếu có lòng muốn dốc sức cho quốc gia, thì hãy trở về thành đô, ta sẽ viết thư giới thiệu, nhờ Nhược Hàn thượng tướng quân sắp xếp cho các ngươi một chỗ ổn thỏa. Còn các thị nữ, có nhà thì về, không có nhà thì tự tìm đường cho mình. Đồ dùng và những vật bài trí trong nhà đa phần đều là phần thưởng cho công lao giết chóc của ta trên sa trường, đều là bảo vật cung đình, các ngươi hãy mang ra mà chia nhau, rồi đem bán lấy tiền, hoặc để làm của hồi môn, hay dưỡng lão”.

Lời vừa dứt, mọi người bắt đầu xôn xao.

Thần sắc không hề thay đổi, Tắc Doãn trầm giọng: “Tính cách của ta, các ngươi đều hiểu, một lệnh ban ra, cả ba quân còn phải tuân theo, huống hồ là các ngươi? Đừng lôi thôi dài dòng, khắp thiên hạ, không có bữa tiệc nào là không tàn, phóng khoáng tụ họp, vui vẻ giải tán mới là bản sắc của người Bắc Mạc ta. Còn một việc nữa, ở đây có thêm một người, ít nhiều các ngươi cũng đoán ra đó là ai. Thiên hạ đều cho rằng người này đã chết, nên không ai được tiết lộ nửa lời về việc người ấy còn sống. Các ngươi theo ta đã nhiều năm, ta tin các ngươi. Nhưng, ta vẫn muốn các ngươi thề độc một lần, quyết không nói việc này cho bất cứ ai”.

Nói đến đây, ai cũng hiểu rằng Tắc Doãn đã quyết.

Các cận vệ theo Tắc Doãn vào nam ra bắc, đều là những nam tử hán mang bầu nhiệt huyết, đa phần họ đều trông chờ đến một ngày Tắc Doãn sẽ quay lại thành đô, dốc sức cho quốc gia giống như xưa. Nay nghe lời này của Tắc Doãn, họ đều khẳng khái thề quyết không tiết lộ một câu, một từ về việc Bạch Sính Đình còn sống.

Phần đông các thị nữ từ nhỏ lớn lên trong phủ thượng tướng quân, hết lòng trung thành với Tắc Doãn, tuy không hiểu chuyện quốc gia đại sự, nhưng biết Bạch Sính Đình là hảo hữu của phu nhân, nên cũng cất lời thề.

Tắc Doãn làm việc dứt khoát ngay lập tức sai người mang ra bút nghiên, giải quyết nhanh gọn mọi chuyện, viết hết thư tiến cử cho cận vệ. Sau đó, hắn lại đem những bảo vật quý giá còn thừa lại chia cho các thị nữ, đảm bảo cho họ ngày sau không lo đói rét. Bận rộn tới tận đêm khuya mới coi như mọi việc được sắp xếp ổn thỏa, nhưng họ bỗng gặp phải một vấn đề khác.

Cận vệ Ngụy Đình là người duy nhất không chịu rời đi. Ngụy Đình mắt đỏ hoe, nói: “Thuộc hạ, theo Thượng tướng quân bao năm như thế, lấy đâu ra chỗ nào để đi? Thượng tướng quân cũng biết cái tính khí thối tha của thuộc hạ, các tướng khác sai bảo, thuộc hạ đều không chịu nghe. Cho dù Thượng tướng quân quy ẩn thì cũng cần người gánh nước, đuổi dê. Nếu Thượng tướng quân không cho thuộc hạ ở lại, hôm nay thuộc hạ sẽ chết ngay tại đây”. Nói xong, hắn tuốt kiếm kề ngay lên cổ.

Vốn là người thẳng thắn, chẳng rành đoán ý người khác, Ngụy Đình không biết đã xung đột với bao tướng quân trong cung, ngay cả Nhược Hàn cũng chẳng ngoại lệ. Khi đánh trận, hắn gan dạ dũng mãnh, không sợ hiểm nguy, trung dũng có thừa. Vì điểm này, Tắc Doãn rất coi trọng Ngụy Đình, và giữ hắn lại bên mình.

Tắc Doãn biết tính tình của Ngụy Đình, nếu lắc đầu, chưa biết chừng hắn sẽ cứa cổ ngay tại đây. Lại nghĩ đến thời còn dẫn quân, Ngụy Đình đã đắc tội với không biết bao nhiêu đại tướng Bắc Mạc, nay giới thiệu về không biết hắn sẽ chịu bao ấm ức, Tắc Doãn đành gật đầu, nói: “Cũng được, ngươi ở lại đi”.

Ngoài Ngụy Đình, còn có Hứa bá và vú nuôi đã trông coi Tắc Doãn từ bé. Hai người này tuổi đã cao, tất nhiên Tắc Doãn phải đưa đi cùng để phụng dưỡng và lo liệu cho họ.

“Mọi sự đã chu toàn, chỉ cần tìm một nơi ẩn cư thích hợp nữa là xong.”

Suy nghĩ giây lát, Sính Đình đáp: “Muội nghĩ ra một nơi, là một thôn trang nhỏ yên tĩnh ở chân núi phía bên kia của sơn mạch Tùng Sâm. Ở đó có đất để trồng trọt, có cỏ để chăn thả gia súc. Tuy bần hàn một chút, nhưng con người chốn ấy rất tốt”.

“Một nơi mà ngay cả muội cũng phải khen, chắc chắn sẽ rất tuyệt.” Trước nay luôn tín nhiệm những đề nghị của Sính Đình, Dương Phượng hỏi Tắc Doãn, “Chúng ta ở đó nhé, được không?”.

Tắc Doãn nhìn Dương Phượng yêu chiều: “Nếu nàng thích thì chọn chỗ đó.”

“Còn một việc nữa”, Sính Đình nói, “Muội muốn chuyển cả mộ phần của Túy Cúc đến đó, không thể để Túy Cúc một mình cô đơn ở đây”.

Dương Phượng nói: “Chuyện này dễ thôi, chúng ta thỉnh di cốt ra, rồi đưa đi theo”.

“Sư phụ của Túy Cúc là Đông Lâm thần y Hoắc Vũ Nam. Nghe nói ông ấy chỉ có mỗi mình Túy Cúc là đệ tử, luôn coi Túy Cúc như viên minh châu trong lòng bàn tay.” Sính Đình lấy trong ống tay áo ra một bức thư, “Sính Đình đã viết một bức thư, nhờ Thượng tướng quân sai người đưa đến cho ông ấy. Nếu có hỏi ai viết, thì cứ nói một bằng hữu của Túy Cúc”.

Tắc Doãn nhận lấy: “Tiểu thư yên tâm, ta nhất định sẽ đưa đến nơi”.

Hôm đó trở về phòng, Tắc Doãn chợt hỏi Dương Phượng: “Bức thư này có gửi đi không?”.

Dương Phượng ngạc nhiên: “Sao lại không gửi?”.

“Hoắc Vũ Nam là danh y của Đông Lâm, thường xuyên ra vào vương cung, có giao tình thân thiết với vương cung Đông Lâm. Bức thư này đưa tới, rất có thể sẽ khiến Hoắc Vũ Nam nghi ngờ. Nếu Túy Cúc đã chết, vậy Sính Đình đang ở đâu? E là họ sẽ đoán ra điều mấu chốt ở đây.”

Dương Phượng lúc này mới hiểu ra, mặt bỗng biến sắc: “Hiện giờ Sính Đình đang mang trong mình cốt nhục của Sở Bắc Tiệp, Sở Bắc Tiệp lại không rõ tung tích. Những cuộc tranh giành đấu đá trong vương tộc vô cùng đáng sợ, nếu chẳng may lại bị cuốn vào cuộc chiến tranh giành vương vị… Liệu họ có sai người đến giết Sính Đình?”.

Tắc Doãn gật đầu: “Ta đang lo chính là điều này.”.

“Nói như thế, bức thư này tuyệt đối không thể gửi đi.” Trước tiên phải lo bảo vệ cho sự an toàn của Sính Đình, đâu còn để ý gì đến Thần y Đông Lâm, Dương Phượng suy nghĩ giây lát, rồi đưa tay ra, “Đưa cho thiếp”. Nàng nhận thư, châm vào lửa.

Nhìn làn khói xanh chầm chậm bốc lên, Dương Phượng hạ giọng lẩm bẩm: “Sính Đình, ta biết muội là người tốt, không nhẫn tâm để sư phụ của Túy Cúc khổ sở tìm kiếm đệ tử. Nhưng, sự an nguy của muội cũng vô cùng quan trọng. Việc này cứ để ta quyết định”.

Những người trong sơn trang ẩn cư đều tuân thủ tác phong làm việc như sấm rền gió cuốn của Tắc Doãn, tuy vô cùng lưu luyến nhưng họ không hề buồn thương, hay do dự.

Trong vòng mấy ngày, mọi người đều đã đi gần hết. Đồ cổ, đồ mỹ nghệ quý giá, đồ trang trí trong nhà cũng được chuyển đi.

Còn lại ba người nhà Tắc Doãn cùng Sính Đình, Hứa bá, vú nuôi và cả Ngụy Đình, cả thảy bảy người mang theo chỗ vàng bạc Tắc Doãn để lại, lên đường xuất phát, chính thức cáo biệt vương thất Bắc Mạc với bao vương vấn trong lòng.
 
Trạng thái
Không mở trả lời sau này.
Top