Lượt xem của khách bị giới hạn

[Type sách] Hãy Cố Lên Con - Hải Âu dịch

[Type sách] Hãy Cố Lên Con - Hải Âu dịch
Tham gia
22/5/22
Bài viết
17
Điểm cảm xúc
20
Điểm
3
4. CHA VÀ CON

Thời khắc diễn ra lòng tin cậy trọn vẹn con cái dành cho cha mẹ là một khoảng khắc tuyệt diệu...
Một tối nọ vào năm ngoái, trong khi tôi đang ngồi đọc sách thì Luke, cậu con trai nhỏ của chúng tôi, im lặng xán đến bên ghế tôi vẻ thân thiện. Cháu đứng trong vùng tối của ánh sáng cây đèn đọc sách tỏa ra - một vật dụng đã từng chiếu sáng bàn làm việc trong phòng khám bệnh của cha tôi.

Dạo này Luke thường đến tâm sự với tôi những vấn đề nghiêm chỉnh của cháu trong khi tôi đọc sách. Trước đây không lâu thì cháu cũng làm như vậy, chỉ khác là khi tôi làm vườn chứ không đọc sách. Có lẽ vì cháu cảm thấy thoải mái nhất để tâm sự với tôi về những khó khăn của cháu khi tôi đang làm việc mà cháu cũng đang tập làm. Ví như năm ngoái cháu đã học được cách gieo hạt rồi để yên cho chúng nẩy mầm chứ không đào chúng lên ngay vào sáng hôm sau với nỗi nôn nóng xem chúng đã mọc chưa. Năm nay thì cháu đang học để tự mình có thể đọc sách - mặc dù cháu vẫn không chịu nhận với tôi là cháu có khả năng đó, để bắt tôi vẫn đọc sách cho cháu trước lúc ngủ.

Tôi ngẩng lên nhìn cháu và cháu mỉm cười với tôi. Rồi cháu nhanh chóng trở nên nghiêm nghị giống hệt vẻ nghiêm nghị khó ưa của tôi.

- Con đã làm gãy cái cưa của con rồi.

Cháu vừa nói vừa đưa món đồ chơi cháu giấu sau lưng ra.

- Đây bố ạ!

Cháu không hề hỏi xem tôi có khả năng sửa chữa nó không. Lòng tin tưởng tôi có thể sửa là lời khen tặng của một đứa con trai nhỏ dành cho người thợ tài ba có khả năng sửa từ chiếc xe đạp trẻ con, toa tàu đồ chơi đến đủ loại đồ chơi khác.

Lần này là chiếc tay cầm bằng nhựa màu xanh của cái cưa bị sút ra. Cha tôi, người luôn thích thú sưu tầm đủ mọi thứ dụng cụ trên đời, sẽ không đồng ý mua một cái cưa có cán bằng nhựa vì nó không bền.

- Bị thiếu mất mấy món, con có còn giữ không?

Luke chìa bàn tay nắm chặt ra, trong lòng bàn tay nhỏ bé ấy là những mảnh vụn còn sót lại. Tôi thấy không còn cách nào để sửa được nữa.

Cháu vẫn chăm chú nhìn tôi, nét mặt lộ vẻ tuyệt đối tin tưởng rằng tôi có thể làm được bất cứ chuyện gì. Ánh mắt của cháu làm sống dậy kỷ niệm trong tôi. Tôi xem xét cẩn thận cái cưa bị gãy, lật đi lật lại trong tay những mảnh gãy trong khi đầu óc tôi đang hồi tưởng lại quá khứ…

Năm tôi lên bảy, vào một ngày trong tháng mười một, khi từ trường về tôi vào chơi ngay ở phòng khám bệnh của cha tôi. Cha tôi là bác sĩ giỏi nhất trong vòng một trăm dặm của cái tỉnh nhỏ bên dòng sông Ohio - nơi chúng tôi ở. Tôi - và các bệnh nhân của cha - luôn ngạc nhiên về những điều ông làm được. Ông chẳng những luôn chữa khỏi bất cứ điều gì xảy ra cho bất kỳ ai, mà còn có thể đứng thẳng trên xe trượt tuyết của tôi trượt suốt từ đỉnh Long Hill xuống, hoặc thuần hóa bọn ngựa hoang! Tôi thích luẩn quẩn trong phòng chờ và được nghe những người bệnh gọi đùa tôi là “bác sĩ con”, tôi cũng rất thích được thấy người bệnh ra khỏi phòng khám của cha với vẻ khỏe khoắn hơn lúc bước vào.

Nhưng vào cái ngày ấy, mục đích tôi vào phòng khám của cha là để gặp bạn thân nhất của tôi, Jimmy Hardesty. Jimmy đã nghỉ học ba ngày rồi và mẹ bạn ấy gửi lời nhắn qua cô y tá rằng sẽ đưa Jimmy đến khám bệnh.

Người bệnh cuối cùng ra về rồi mà vẫn chưa thấy Jimmy đến. Cha và tôi bắt đầu đi khám tại nhà. Cha thường cho tôi đi chung bởi vì ông thích kể chuyện trên đường đi. Và có lẽ vì tôi là người chịu nghe nhất mọi chuyện trên đời này do cha tôi kể.

Mãi tới gần bảy giờ tối mới xong việc, cha bảo tôi:

- Ta ghé qua xem Jimmy ra sao đi.

Tôi khoái quá vì nghĩ cha vì tôi mà ghé qua xem bệnh cho Jimmy.

Nhưng khi chúng tôi tới nơi thì thấy đèn sáng ở cửa sau - thường là dấu hiệu thông báo nhà có sự cố

Cha cho xe chạy thẳng vào sân. Chị Alice của Jimmy chạy ra ôm chầm lấy cha tôi, run rẩy khóc

và kể:

- Ôi bác sĩ! Jimmy chết mất! Cha cháu đi tìm bác sĩ khắp nơi. Cám ơn bác sĩ đã tới. Em cháu ban đầu chỉ cảm lạnh, thế mà từ chiều đến giờ mồ hôi em ra như tắm và em cứ nằm yên nhắm mắt.

Chị ấy cứ nói không ngừng và ôm chặt lấy cha tôi. Cha tôi trước nay như chưa hề chạy bao giờ. Ông vẫn bảo không có lý do gì phải chạy cả. Nếu như phải chạy có nghĩa là mình đã xử lý mọi việc không tốt để nước đến chân mới nhảy. Thế mà lần này cha bảo chị Alice buông cha ra rồi ông chạy vội vào nhà.

Tôi chạy theo, qua căn bếp xộc mùi mốc, rồi lên những bậc thang hẹp và tối tăm. Jimmy đang thở rất nhanh và hơi thở rít lên nghe kỳ quặc. Trên người bạn chất đầy chăn nên tôi chẳng thấy được gì ngoại trừ khuôn mặt bạn ấy với những khoảng tối sáng qua ánh đèn dầu tù mù. Nom bạn ấy như đang kiệt sức và da thì ướt rượt.

Mẹ bạn ấy chẳng nói lời nào. Bà là một phụ nữ to béo, mặt tròn xoe và lúc nào tôi cũng thấy bà mặc áo tạp dề làm việc nhà. Bà đứng sau lưng tôi, để hai tay lên vai tôi, trong khi cha tôi nghe phổi cho Jimmy. Ông lấy ống tiêm ra và lắp kim vào trong ánh đèn dầu. Mọi người nín thở nhìn cha bơm giọt thuốc đầu tiên ra khỏi kim rồi tiêm cho Jimmy. Tôi tin tưởng đó là loại thuốc mầu nhiệm mà Jimmy đang cần.

Sau đó cha để một miếng gạc lên miệng Jimmy rồi làm hô hấp nhân tạo. Không một ai cử động và không một tiếng động nào ngoài nhịp thở của Jimmy và của cha tôi.

Thế rồi, bất chợt như một ánh chớp, tất cả chỉ còn nghe một nhịp thở đơn độc của cha tôi, không còn nghe nhịp thở của Jimmy nữa. Tôi cảm thấy đôi bàn tay của mẹ Jimmy bóp chặt lấy vai tôi và dường như bà hiểu, rằng có gì đó đã đứt dây. Nhưng cha tôi vẫn tiếp tục hà hơi vào phổi Jimmy. Lâu sau, mẹ Jimmy đến bên cha tôi và bình tĩnh nói:

- Cháu nó đi rồi, bác sĩ ạ. Vô ích thôi, bác sĩ. Bác sĩ ngưng được rồi. Con trai tôi không còn ở với chúng ta nữa.

Nhưng cha vẫn đứng bên giường Jimmy.

Khi ấy mẹ Jimmy quay lại nắm tay tôi dẫn xuống nhà. Vào tới bếp bà ngồi xuống ghế xích đu và chị Alice, vẻ mặt thất thần mà tôi chưa bao giờ thấy, nhào đến gục vào lòng bà. Tôi ra ngoài ngồi xuống bậc thềm. Trong đêm tối lạnh lẽo. Tôi muốn không ai thấy hoặc nghe tiếng nói của tôi.

Khi ông Hardesty về nhà và thấy xe chúng tôi đậu trước cửa, ông chạy vội vào nhà. Tôi nghe giọng ông và cha tôi trao đổi một lát. Rồi im lặng, rồi lại nói tiếp. Cuối cùng là tiếng bước chân nặng nề trên bậc thềm. Cha tôi bước ra và tôi theo ông ra xe. Và tôi không tài nào mở miệng thốt một lời gì cả. Thế giới mà tôi những tưởng mình biết rõ đã nằm vỡ vụn trong trái tim tôi.

Chúng tôi không về nhà mà ra phòng khám của cha. Ông đứng một lúc lâu trước cửa. Rồi ông gọi tôi thật lớn tiếng, dữ dằn, đưa tôi chìa khóa và bảo

- Mở cửa giùm cha. Cha không mở được.

Tôi rất hoảng sợ. Tôi không quen giúp cha vì thường là cha giúp tôi. Chúng tôi bước vào phòng khám tối om. Cha bảo tôi mở đèn bàn làm việc của cha. Ông bắt đầu lật tung sách lên cầu mong tim ra điều gì đáng lẽ ông phải làm thêm để cứu sống Jimmy.

Tôi muốn ngăn cha lại nhưng tôi không biết phải làm sao. Tôi không thể nghĩ được làm thế nào cho trời sáng. Thỉnh thoảng, không nén được, tôi tấm tức khóc.

Cuối cùng tôi nghe như có ai đó nơi cửa và tôi bước ra phòng đợi, lòng thầm biết ơn bất kỳ ai đã đến đây vào lúc này. Trong một tỉnh nhỏ tin tức đi rất nhanh. Thì ra là mẹ đến với cha con tôi.

Mẹ quỳ xuống, ôm chặt lấy tôi, xoa gáy tôi và tôi bám chặt lấy mẹ, như ngày xưa tôi còn bé tí xíu.

Tôi bật khóc, dựa đầu vào vai mẹ:

- Ôi, mẹ ơi! Sao cha lại có thể thế! Sao cha lại có thể thế!

Mẹ xoa lưng tôi mãi cho tới khi tôi nín. Rồi mẹ bảo:

- Cha con lớn hơn con nhưng nhỏ hơn sự sống; chúng ta không bớt yêu quý ông vì những điều ông không làm được. Tình yêu luôn chấp nhận - bất kể điều gì.

Dù ngay vào lúc ấy tôi không chắc là đã hiểu rõ ý mẹ tôi muốn nói, nhưng tôi biết là tôi nhận thức được tầm quan trọng về những lời mẹ bảo tôi. Rồi mẹ vào phòng gặp cha.

Chuyện ấy xảy ra đã lâu lắm rồi, tôi cũng sống qua mùa đông ấy nên cảm giác như nó đã ra đi mãi mãi. Thế mà nay bỗng chốc nó sống lại trong trí tôi khi tôi xoay xoay trong tay những mảnh vỡ món đồ chơi của con tôi. Tôi bảo cháu:

- Bố e cưa bị gãy rồi con à.

- Con biết là gãy rồi. Bố sửa giùm con đi.

Giọng cháu lộ vẻ nôn nóng.

- Bố không sửa được đâu con.

- Bố chắc chắn sửa được mà.

- Không, bố không sửa được. Bố rất tiếc, Luke à.

Cháu nhìn tôi - và ánh mắt tin cậy tuyệt đối dần dần nhạt nhòa. Môi cháu bắt đầu run lên, và cháu cố cầm không cho nước mắt chảy ra.

Tôi bế cháu lên ngồi vào lòng tôi và cố gắng hết sức mình xoa dịu nỗi đau của cháu dành cho món đồ chơi bị vỡ vụn cùng với thần tượng đang bị sụp đổ. Dần dần cháu nín khóc. Tôi biết chắc chắn cháu đã cảm nhận được nỗi buồn khi thấy chính bố mình chỉ còn là một người trần bình thường. Tôi tin như vậy bởi vì cháu chịu ngồi rất lâu, và bá cổ nép vào tôi.

Cháu ra khỏi phòng sau khi nhìn thẳng vào mắt tôi với ánh mắt thân thiện, tôi như nghe lời mẹ ngày xưa còn vẳng bên tai: “Tình yêu là vô điều kiện”. Có thời là con, nay là cha, tôi đã nhận ra rằng ngoài nỗi buồn của sự tìm ra chân lý ấy thì có sự khởi đầu của sự hiểu ra.

Walter Meade​
 
Tham gia
22/5/22
Bài viết
17
Điểm cảm xúc
20
Điểm
3
5. KỶ NIỆM MỘT DÒNG SÔNG

Chúng tôi chỉ nói chuyện với nhau có một lần nhưng nhờ dòng sông tôi đã hiểu rõ anh ấy.
Khi tôi còn là một chàng trai trẻ, đi du lịch balô được coi như là sống trên mây, ít nhất đó cũng là quan điểm của dân sống vùng bờ đông nước Mỹ. Bọn tôi chỉ có một số nhỏ đi giày thể thao vai đeo balô đến cắm trại ở những suối hồ vùng sâu vùng xa. Vào thời ấy, bất kỳ đi đâu xa bầy đàn ở thành phố đều bị coi là người kỳ quặc.

Mùa hè năm đó, sau khi tốt nghiệp trung học, tôi bỏ hành lý lên chiếc xe Cheviolet già nua rồi lên phương Bắc tìm một ngọn suối vắng vẻ để có thể ngồi một mình câu cá. Tôi bảo với bạn bè là tôi đi thăm một cô bạn ở Vermont. Đi thăm bạn gái được coi là bình thường hơn đi du lịch balô và chính nhờ vào chuyến đi đó mà tôi gặp dòng sông của anh Roger.

Tôi đang lái xe trên một con đường bụi mù ở Vermont thì bắt gặp một con đường mòn không biết dẫn đi đâu và tôi quyết định ngừng xe rẽ vào đi bộ. Con đường ngoằn ngoèo leo lên ngọn đồi dẫn sâu vào khu rừng đây bóng mát tĩnh lặng, lánh xa cái nóng khô ran của đường phố.

Ra đến khoảng trống, tôi thấy anh ngồi dựa gốc cây bình thản đọc sách, balô và cần câu để kế bên. Anh mặc quần soọc kaki và nom anh lớn hơn tôi khoảng năm tuổi.

Balô nặng làm tôi mất thăng bằng suýt ngã chúi xuống khi đứng dừng lại. Anh nhắc tôi:

- Cẩn thận đấy!

Tôi lầm bầm hỏi lại:

- Anh đang đọc sách hả?

- Ờ! Chú em có hay đọc sách không?

- Ồ không đâu! À ý em muốn nói là lúc này em tạm ngưng đọc.

Và thế là giữa cỏ hoang và dương xỉ, chúng tôi chia sẻ với nhau bữa trưa, phần của ai nấy ăn, nhưng chung nhau khoảng khắc và không gian ngoài trời. Anh kể là anh đã đến đây nhiều năm rồi, dòng sông bắt nguồn ở xa tít trên kia. Ở đấy dù mùa hè nóng bức nước vẫn mát lạnh và đầy cá lóc. Tuyệt nhất là chúng hiếm khi bị câu.

Thế rồi anh đi mất, vô danh tính, không theo con đường mòn mà rẽ bụi rậm ra thẳng đường cái. Tôi đã cố ý muốn nói với anh tôi rất đồng cảm về ý thích đi du lịch balô và lòng đam mê không khí núi rừng - nhưng tôi đã không nói thành lời với anh. Thật ra tôi nghĩ giữa hai người hiểu nhau thì lời nói không mấy cần thiết.

Mãi sau, vào cuối mùa hè tôi mới quay lại dòng sông. Tôi đã đăng ký nghĩa vụ quân sự và sắp lên đường vào trại.

Tôi dừng xe Cheviolet rồi đi bộ. Trên thảm cỏ ở khúc quanh của dòng sông tôi thấy lều của anh ấy, có lửa trại được bao quanh bởi những phiến đá, xung quanh lều rất gọn gàng sạch sẽ, đúng như tôi đã nghĩ về anh.

Tôi đi xuống tiếp khoảng nửa dặm rồi cắm lều của chính tôi trên một khoảng đất bằng phẳng.

Chiều tà dần buông khi tôi bắt đầu câu cá nơi thượng nguồn. Chỉ trong vòng có nửa giờ đồng hồ tôi đã câu được năm con cá lóc nhỏ. Tôi sắp câu được con thứ sáu thì tiếng kèn Harmonica của anh vang lên trong đêm tối. Anh đang chơi bài ruột của tôi “Thung lũng sông Hồng”(1). Tiếng kèn chậm buồn. Và tôi đứng đó, để mặc cho khúc nhạc đồng quê và tiếng róc rách của dòng sông phủ lên tôi. Rồi thì tôi chậm bước về lều của mình.

Tôi dự định sáng hôm sau sẽ dậy sớm để trở lên thượng nguồn, ghé lều anh cùng chia với anh những con cá câu được. Nhưng khi tôi thức dậy thì mặc trời đã đứng bóng, thế là tôi đành ăn một mình. Khi tôi định đi câu thì đã khá muộn.

Khi rẽ qua lều trại của anh, nếu không thấy chút tro tàn còn sót lại thì không ai biết anh đã từng cắm trại ở đây. Anh đã chất củi bù vào chỗ anh đã dùng để cho người sau và để lại lá thư:

Nhiệt độ: 72°F

Nước nóng: 66° ở dưới sâu

68 ở trên mặt.

Trời trong, mây ở trên cao, không gió.

Dùng mồi câu số 18.

Bắt ba, thả bốn.

Phía dưới những dòng chữ ấy là một bài thơ viết về tâm trạng của anh khi sắp đi xa dòng sông này.

Tôi cẩn thận gấp mảnh giấy lại và cất nó vào hộp đựng mồi. Rồi tôi đi bộ trở lại xe. Tôi có cảm giác mình đang chia tay với một điều gì đó còn lớn hơn dòng sông đang ở lại.

Sau đó tôi học khóa huấn luyện quân sự cơ bản và nâng cao, rồi lên đường sang đóng quân ở Bắc Hàn. Mặc dù chiến tranh đã chấm dứt nhưng tôi vẫn phải bay thám sát hàng đêm dài dằng dặc.

Đi câu đã trở thành một dĩ vãng xa vời, nhưng những đêm đông giá buốt nằm co ro trong túi ngủ tôi vẫn nghĩ đến dòng sông và anh, người tôi đã thoáng gặp bên bờ sông. Trong trí tôi anh đã mang tên “Roger”. Cái tên ấy rất hợp với anh - cũng như anh và dòng sông hợp với nhau.

Cuối cùng, hết thời gian nghĩa vụ, tôi được xuất ngũ về lại đất Mỹ. Một tuần sau tôi lại lên phương Bắc tìm về dòng sông xưa, dòng sông của anh Roger. Tôi dễ dàng xuyên bụi rậm đến khu lều trại của anh ngay trên khúc quanh của dòng sông.

Nhưng khu đất sạch sẽ mà tôi đã từng biết thì nay đã tràn ngập rác rưởi, bịch nilông, lon rỗng, chai bể.

Sự kỳ diệu như đã ra đi. Tôi quày quả đi bộ trở lại xe.

Ra tới trạm xăng tôi hỏi về anh nhưng chẳng ai biết. Thế là tôi quay lại khu lều trại. Tôi dọn dẹp sạch sẽ như anh Roger sẽ làm.

Vài năm sau tôi gặp một người đi câu khác bên dòng sông. Tôi tả cho anh ta biết về anh và chỉ nơi anh từng cắm lều. Anh này nhớ lại:

- Ồ tôi biết anh ấy. Đáng buồn là anh ấy bị tử trận.

Tử trận?

- Ở nước ngoài. Anh ấy đang bay trên một máy bay trực thăng thì máy bay rớt. Đáng buồn nhưng tôi nghĩ như vậy có lẽ lại tốt hơn cho anh ấy.

Tôi nghĩ chắc chắn là như vậy!

Vài tuần sau, tôi trở lại dòng sông và ngủ qua đêm ở đấy. Tôi không đi cắm trại, không đi câu - mà để chờ đợi. Qua ánh lửa trại tôi thấy anh Roger. Trong đêm tối ánh lửa trại bảo học tôi, trên cao lấp lánh sao khuya. Chỉ có tiếng dòng sông và gió thổi hiu hiu lạnh, không còn tiếng kèn Harmonica dìu dặt thuở nào.

Dù lòng trĩu buồn tôi vẫn nhận ra mình đã được nhiều hơn tất cả những gì mình đã mất. Dù không nhìn thấy dòng sông trong đêm tối, tôi vẫn lắng nghe tiếng dòng sông của anh Roger. Tôi dần cảm thấy bớt cô quạnh khi nhớ tới những lời thơ anh viết:

Ồ, tôi đã nghe tiếng dòng sông vang lên,

Sáng tình minh, ngày và đêm,

Nhưng liệu tiếng dòng sông còn ở bên tôi qua mai này,

Mai này tôi sẽ đi xa, xa lắm!

Ralph D. Conroy​
 
Top