Lượt xem của khách bị giới hạn

[Kiếm hiệp] [Truyện Hoàn] Lộc Đỉnh Ký - Kim Dung

Trạng thái
Không mở trả lời sau này.
[Kiếm hiệp] [Truyện Hoàn] Lộc Đỉnh Ký - Kim Dung

Hoa Tử

Sưu tầm
Tham gia
24/9/19
Bài viết
10,492
Điểm cảm xúc
1,412
Điểm
113
Chương 232: Bạc thua cãi cố phải ăn đòn
Mấy trăm binh tướng La Sát vừa bò ra khỏi đống gỗ đá thì đột nhiên nghe những tiếng đoàng đoàng vang dội từ dưới lòng đất tung lên. Bọn này người thì bị hất tung lên cao đến mười mấy trượng, kẻ bị đứt đầu gãy chân, máu thịt tan tành bắn tung tóe. Tên nào may mắn chưa chết hốt hoảng bò quay trở lại. Đồ Nhĩ Bố Thanh thấy hai mặt trước sau đều không đường rút lui đành thúc thủ vô sách. Một tên quan binh cực kỳ dũng mãnh dẫn mấy chục tên ở đội cảm tử trèo lên vách núi mé Bắc với ý định xung sát địch quân tìm đường thông lộ chạy đi. Nhưng vách núi đứng dựng lại nhẵn nhụi, không có chỗ đặt chân để lấy đà. Bọn này mới trèo lên được mấy trượng đã có hơn mười tên rớt xuống, chẳng chết cũng bị thương. Quân Thanh ở trên đỉnh núi liệng đá đẩy lui mấy chục tên còn lại phải nhảy xuống hết. Bọn này bể óc chết ngay lập tức. Lúc này đại pháo quân Thanh nổ đoàng đoàng không ngớt. Quân La Sát chen chúc nhau trong khe núi kêu rú cực kỳ thê thảm. Xem chừng chỉ một lúc nữa là toàn quân phải tiêu diệt, Đồ Nhĩ Bố Thanh liền hô lớn:

- Không đánh nữa! Xin đầu hàng! Xin đầu hàng! Nhưng tiếng súng nổ và tiếng binh tướng kêu la át hẳn thanh âm của hắn. Mấy tên quan binh đứng gần thấy chủ tướng muốn đầu hàng, liền đồng thanh la lên:

- Đầu hàng! Đầu hàng! Tiếp theo bao nhiêu quân La Sát đều hô •đầu hàng• vang dội cả vùng sơn cốc. Quân Thanh dừng tiếng súng. Có người dùng tiếng La Sát hô:

- Quẳng hết súng ống đao thương, cởi bỏ y phục toàn thân. Đồ Nhĩ Bố Thanh tức giận vô cùng la lên:

- Chỉ quăng vũ khí, không cởi áo quần. Trong đám Thanh binh lại có tiếng hô:

- Quăng vũ khí cởi bỏ áo quần rồi ra đây uống rượu. Kẻ nào không thoát y phục là tử man cơ. Đồ Nhĩ Bố Thanh lại la:

- Nhất định không cởi bỏ áo quần. Hắn vừa dứt lời, những tiếng đoàng đoàng lại nổi lên. Quân Thanh bắn súng lớn xuống. Trong đoàn quân La Sát, một số sợ chết tới tấp quẳng khí giới và bắt đầu thoát y. Đồ Nhĩ Bố Thanh rút súng lục bắn chết một tên đang cởi áo. Hắn quát:

- Tên nào cởi áo đều phải xử tử. Quân Thanh bắn dữ quá. Nghiêm lệnh của chủ tướng, quân La Sát không lý gì đến. Chớp mắt đã mười mấy tên mình trần trùng trục trèo qua đống gỗ đá ra ngoài. Quân Thanh ở hai bên sườn núi đều vỗ tay cười rộ, la lớn:

- Cởi bỏ áo quần cho mau! Cởi bỏ áo quần cho mau! Số binh sĩ thoát y mỗi lúc một nhiều. Đồ Nhĩ Bố Thanh nổ súng lục liên thanh bắn chết hai tên nữa mà vẫn không ngăn cản được. Về sau cả trong đám quan binh cũng có người mình trần như nhộng bò ra ngoài. Quân Thanh tạm ngưng nổ súng. Trên đỉnh núi vẫn có tiếng hô lớn:

- Muốn sống phải thoát y cho lẹ!Lúc này quân La Sát không còn ý chí phấn đấu, mười phần có đến tám, chín tới tấp cởi áo tụt quần. Đồ Nhĩ Bố Thanh buông tiếng thở dài, giơ súng lục lên toan bắn vào huyệt Thái Dương để tự sát, nhưng phó tướng đứng bên hắn đoạt lấy súng nói:

- Tướng quân! Làm thế không được. Chim ưng để hai cánh lại mới bay qua được núi cao. Câu thành ngữ La Sát này cũng đồng nghĩa với câu "Non xanh còn đó lo gì hết củi đun". Lại nghe trong đám quân Thanh có người hô bằng tiếng La Sát:

- Anh em hãy lột quần áo Đồ Nhĩ Bố Thanh đi! Không thì ta lại nổ súng. Câu nói tiếng La Sát này rất đúng điệu. Hiển nhiên là những quân La Sát đã đầu hàng vâng lệnh tuyên bố. Đồ Nhĩ Bố Thanh cực kỳ phẫn nộ cơ hồ không chịu nổi, lại thấy mấy tên bộ thuộc trợn mắt lên nhìn mình tỏ ra muốn hành động bất pháp, hắn liền xoay tay rút yêu đao. Nhưng tay hắn vừa đụng vào đốc đao thì một tên quân ở phía sau nhảy xổ lại ôm chặt lấy đầu hắn. Năm, sáu tên quân nữa xô lại đè hắn xuống đất động thủ lột hết quần áo của chủ tướng rồi khiêng ra ngoài. Bọn binh tướng La Sát trước đây một khắc đều ủ rũ lo âu, đột nhiên thấy chủ tướng bình nhật rất oai nghiêm hà khắc mà bây giờ cũng biến thành tình trạng thảm hại này. Chúng không nhịn được nổi lên tràng cười hô hố. Trên núi dưới núi chỗ nào cũng toàn những tiếng cười vang dội tưởng chừng để khua tan làn mù thảm mây sầu. Cứ một tên quân La Sát vừa bò ra là lại có hai tên Thanh binh đón lấy bắt quặt hai tay chúng buộc ra sau lưng rồi áp giải đến khu bình nguyên rộng rãi cách đó chừng vài dặm. Đoàn quân La Sát lúc ra đi là hơn hai nghìn người. Bây giờ trừ những kẻ bị chết và bị trọng thương không nhúc nhích được độ sáu, bảy trăm tên. Hiện còn một nghìn tám trăm vừa quân vừa tướng đều bị trói chặt cánh khuỷu, thân thể trần truồng xếp thành đội ngũ.Quân Thanh áp giải Đồ Nhĩ Bố Thanh đến đứng trước đội quan binh La Sát. Quân La Sát thấy chủ tướng mình trần như nhộng hở cả đít ra, mấy chục tên không nhịn được phải phì cười. Người ta nói tiếng cười rất dễ truyền nhiễm. Mấy người cười trước rồi sau cả toán cùng cười. Hơn nghìn quan binh đều cười rộ vang dội cả một vùng. Đồ Nhĩ Bố Thanh tức muốn vỡ mật quay lại lớn tiếng quát:

- Lập nghiêm! Cười cái gì? Trên người hắn không còn một mảnh áo lại làm bộ oai nghiêm, coi càng hoạt kê vô cùng! Bọn quân tướng ngày thường đối với hắn đều sợ hãi rất mực, nhưng lúc này không thể nhịn cười được. Giữa lúc tiếng cười huyên náo, bỗng nghe những tiếng đùng đùng nổi lên rồi đến tiếng trống tiếng tù và vang dội. Một đội quan quân bên Thanh từ sau núi đi ra. Những quân cầm cờ xanh bày hàng ở phương Đông. Tiếp theo ba đội quân Thanh nữa trương cờ hiệu màu hồng, màu trắng, màu lam đứng sắp hàng ở ba mặt Nam, Tây, Bắc quây bọn quân La Sát ở giữa. Quan binh La Sát thấy quân Thanh hoặc cầm trường thương, hoặc sử đại đao, hoặc dùng cung tên, lại có cả đội lính súng. Hàng ngũ chỉnh tề, khôi giáp rực rỡ, khí giới sắc bén, cực kỳ oai nghiêm, mà bọn chúng đều mình trần trùng trụ, càng cảm thấy bị địch quân uy hiếp. Tên nào tên nấy không dám cười nữa. Sắc mặt đều lộ vẻ khủng khiếp. Đội ngũ quân Thanh sắp hàng đâu đấy rồi, phía sau núi nổ ba tiếng súng lớn, tiếp theo là tiếng đàn sáo nổi lên. Hai lá cờ lớn tung bay trước gió. Lá cờ mé tả viết hàng chữ "Phủ Viễn Đại tướng quân Vi". Lá cờ mé hữu viết bốn chữ "Lộc Đỉnh Công Vi". Mấy trăm tên quân cầm đao hộ vệ một vị tướng quân nhỏ tuổi cưỡi ngựa đi ra.Vị tướng quân này đầu đội mũ chóp đỏ, mình mặc áo giáp vàng, mặt mày hớn hở. Tay trái phe phẩy cây quạt lông theo điệu Gia Cát Lượng. Tay mặt cầm ngược thanh đại đao, nghiễm nhiên như Quan Vân Trường. Viên tướng này chính là Vi Tiểu Bảo. Gã tung người nhảy xuống rồi ngửa mặt lên trời cười ha hả ba tiếng. Đây là gã bắt chước bộ điệu của Tào Tháo trong tuồng hát. Đáng tiếc bên mình gã không có người đóng trò ra hỏi một câu:

- Sao tướng quân lại bật cười? Đồ Nhĩ Bố Thanh đang tức giận đầy ruột không nơi phát tiết, hắn chẳng sợ hãi gì nữa vì đã gác chuyện sinh tử ra ngoài, hắn lớn tiếng thóa mạ:

- Tên tiểu quỷ Trung Quốc kia! Ngươi dùng ngụy kế bắt được ta, không đáng mặt anh hùng. Ngươi muốn giết thì giết đi, sao còn làm nhục ta? Vi Tiểu Bảo vừa cười vừa hỏi lại:

- Ta làm gì mà bảo là vũ nhục tướng quân? Đồ Nhĩ Bố Thanh tức giận đáp:

- Ta... ta thành người thế này mà còn bảo... không phải vũ nhục ư? Vi Tiểu Bảo cười hỏi:

- Quần áo của tướng quân bị ai lột ra? Gã nói câu này khiến Đồ Nhĩ Bố Thanh câm họng. Hắn nghĩ bụng:

- Ta bị bọn thuộc hạ bóc lột quần áo mà trách mạ tên tiểu quỷ Trung Quốc kể ra không đúng lý thực. Hắn tức giận như người điên, mặt đỏ bừng lên, xông lại định liều mạng với Vi Tiểu Bảo. Bốn tên thân binh đi kèm Vi Tiểu Bảo vội chĩa mũi trường thương sáng loáng nhằm vào trước ngực và dưới bụng Đồ Nhĩ Bố Thanh. Vi Tiểu Bảo hỏi:

- Tướng quân có chịu đầu hàng không?Đồ Nhĩ Bố Thanh đáp:

- Không hàng! Ngươi băm nát ra như tương, lão gia cũng không đầu hàng. Vi Tiểu Bảo cất giọng cao hỏi bọn quan binh La Sát:

- Các ngươi có chịu đầu hàng không? Bọn quan binh La Sát cúi đầu xuống, lẳng lặng không đáp. Vi Tiểu Bảo trỏ vào đội cờ trắng ở mé Tây nói:

- Những quan binh và binh sĩ đầu hàng thì đứng qua bên đó. Bọn quan binh La Sát vẫn đứng thộn mặt ra không nhúc nhích. Sự thực rất nhiều quan binh muốn đầu hàng, nhưng không thấy người nào tiến ra, nên chẳng ai dám đi trước. Vi Tiểu Bảo nói:

- Hay lắm! Các ngươi không ai chịu đầu hàng cả. Nhà bếp đâu? Đội đầu bếp mười mấy tên ở phía sau đội thân binh, nửa người trên để mình trần, tay cầm tiêm đao, dùi nhọn tiến lên khom lưng vâng lệnh. Vi Tiểu Bảo nhìn Đồ Nhĩ Bố Thanh nói:

- Ngày trước ta qua Mạc Tư Khoa đã được nếm món "Hà Thư Ni Khắc" của nước La Sát các ngươi. Món đó quả thật ngon lành. Bây giờ ta lại muốn ăn. Gã quay lại bảo mười tên đầu bếp:

- Các ngươi hãy làm món "Hà Thư Ni Khắc"! Mười tên đầu bếp dạ ran đáp:

- Xin tuân lệnh! Lập tức hai mươi tên binh sĩ đẩy mười cái lò sắt lớn ra. Trong lò đã đốt than hồng. Bọn quan binh La Sát thấy tình trạng này không khỏi ngơ ngác nhìn nhau. Chúng vẫn chưa hiểu vị tướng quân Trung Quốc muốn dở trò gì.Vi Tiểu Bảo vẫy tay một cái. Hai mươi tên thân binh liền chạy đến lôi mười tên quân La Sát lại. Vi Tiểu Bảo hô bằng tiếng La Sát:

- Xẻo thịt bọn chúng đem nướng làm món "Hà Thư Ni Khắc". Nguyên Hà Thư Ni Khắc là món thịt xiên chả nướng trên than lửa và là một món ngon nhất của nước La Sát. Mười tên đầu bếp thân thể to lớn sấn đến trước mặt mười tên quân La Sát. Chúng giơ mũi tiêm đao sáng loáng lên rồi bổ xuống. Mười tên quân La Sát bật tiếng rú thê thảm. Bọn thân binh đem mười tên quân La Sát ra phía sau sườn núi. Máu tươi lênh láng trên mặt đất. Mười tên đầu bếp tay trái đều cầm những dùi sắt xâu thịt đem vào lò nướng. Bọn quan binh La Sát ngó thấy kinh hãi nhìn nhau. Bốn bề im lặng như tờ, chỉ nghe tiếng than nổ lách cách cùng tiếng mỡ rót xuống lửa cháy xèo xèo. Vi Tiểu Bảo lại hô lớn:

- Lôi mười tên quân La Sát khác ra làm Hà Thư Ni Khắc. Hai mươi tên thân binh dạ một tiếng chạy lại bắt quân La Sát. Trong mười tên quân này, bốn tên la:

- Đầu hàng! Đầu hàng! Vi Tiểu Bảo nói:

- Hay lắm! Hay lắm! Tên nào đầu hàng thì đưa qua bên kia. Bọn thân binh liền đưa hàng binh đến đứng dưới lá cờ trắng và đem rượu thịt cho ăn uống. Bốn tên đầu hàng rồi, bọn thân binh lại kéo bốn tên khác thay vào. Bốn tên này thấy bọn đầu hàng khỏi chết lại được uống rượu ăn thịt. Còn kẻ không chịu đầu hàng bị xẻo thịt là Hà Thư Ni Khắc đều khiếp sợ vô cùng!Tuy chúng không nhìn rõ bọn Thanh binh lóc thịt ở chỗ nào nhưng thấy toán đầu bếp cứ mắt la mày lét nhìn xuống hạ bộ mình lại càng kinh tâm động phách, bất giác lớn tiếng hô:

- Đầu hàng! Sáu tên quân La Sát lúc trước rất quật cường bây giờ cũng nhìn ra. Chúng không nhịn được, hô theo:

- Đầu hàng! Đã có người dẫn đầu cuộc đầu hàng, cánh quân La Sát chẳng dám sinh cường mà cũng không e dè nữa, liền chịu đầu hàng hết. Phần lớn không chờ bọn thân binh lại dẫn đi mà tự động chạy đến đứng dưới lá cờ trắng. Chỉ trong khoảnh khắc, hơn nghìn quan quân La Sát đều đầu hàng hết. Chỉ còn một mình Đồ Nhĩ Bố Thanh vẫn đứng sừng sững đương trường. Vi Tiểu Bảo hỏi:

- Tướng quân có đầu hàng không? Đồ Nhĩ Bố Thanh đáp:

- Ta thà chết chứ không đầu hàng. Vi Tiểu Bảo nói:

- Hay lắm! Vậy ta tha ngươi trở về thành Nhã Tát Khắc. Gã sai Hồng Triều đem năm trăm quân hộ tống Đồ Nhĩ Bố Thanh trở về Nhã Tát Khắc. Đồ Nhĩ Bố Thanh đã tưởng mình quật cường như vậy là vị tướng quân bên Thanh sai đem chém đầu. Hắn không ngờ gã lại buông tha, liền nói:

- Ngươi đã buông tha ta thì trả lại áo quần cho ta mặc. Vi Tiểu Bảo cười đáp:

- Không thể trả quần áo được. Gã quay lại dặn Hồng Triều:- Tướng quân đưa y đến chân thành Nhã Tát Khắc và truyền tướng lệnh của ta hãy tạm đình việc đánh thành rồi dắt vị tướng quân La Sát trần truồng này đi vòng quanh trên tường thành ba lượt xong hãy thả y vào thành. Hồng Triều lĩnh mệnh dẫn quân áp giải Đồ Nhĩ Bố Thanh đưa đi. Lâm Hưng Châu hỏi:

- Xin hỏi đại soái: Đã bắt được tướng La Sát sao lại buông tha? Xin đại soái cho hay chỗ ảo diệu bên trong được chăng? Vi Tiểu Bảo cười hỏi lại:

- Tướng quân có biết cuộc đại thắng của chúng ta bữa nay là theo kế hoạch nào không? Lâm Hưng Châu đáp:

- Đây là thần cơ diệu toán của đại soái. Thuộc hạ khâm phục vô cùng. Vi Tiểu Bảo lắc đầu nói:

- Không phải thần cơ diệu toán của bản soái mà là xảo kế của Hoàng thượng. Đức Hoàng thượng phán bảo: Ngày trước Gia Cát Lượng thất cầm Mạch Hoạch là kế rất hay. Ngài dặn ta phải theo kế đó. Rồi gã hỏi:

- Tướng quân đã coi vở tuồng "Thất cầm Mạch Hoạch" bao giờ chưa? Dù chưa coi tuồng hát thì chắc cũng được nghe thầy đồ giảng sách rồi. Trong tích này Gia Cát Lượng phái Ngụy Diên thua liền mười lăm trận, bỏ bảy tòa doanh trại cho Mạch Hoạch cướp lấy mới dẫn dụ được hắn xông vào Bàn Xà cốc rồi phóng hỏa đốt cánh quân đằng giáp. Kế hoạch của chúng ta bữa nay là theo kế của Gia Cát Lượng ngày trước. Chúng tướng nghe gã nói đều bái phục. Vi Tiểu Bảo lại nói:

- Đức Hoàng thượng tâm địa nhân từ. Ngài bảo Gia Cát Lượng hỏa thiêu đằng giáp binh là tàn nhẫn quá đến nỗi phải giảm thọ. Nếu quân La Sát chịu đầu hàng thì tha mạng cho chúng.Phó đô thống Lang Thản nói:

- Nếu không được đại soái dùng kế "Hà Thư Ni Khắc" xẻo thịt mười tên quân La Sát đem nướng chả khiến chúng kinh hồn táng đởm thì bọn quân La Sát quật cường kia chưa chắc đã chịu đầu hàng. Diệu kế này còn hơn cả Gia Cát Lượng. Vi Tiểu Bảo cười nói:

- Mười tên đầu bếp đã dấu mười miếng thịt bò sống. Chúng chỉ rạch mấy dao vào đùi bọn quân La Sát cho chúng kêu rú lên. Còn thịt nướng chả là thịt bò thượng hảo. Các vị thử nếm coi mùi vị thế nào? Chúng tướng đều cười ồ. Vi Tiểu Bảo sai bọn đầu bếp đem món Hà Thư Ni Khắc bằng thịt bò thái ra cho mọi người ăn. Món này quả nhiên vừa thơm vừa mềm, ăn rất ngon lành.

- Chúng tướng lại hỏi: Đại soái bắt được tướng giặc lại tha về, phải chăng là theo phép "Thất cầm thất túng" để từ nay hắn không dám phản nghịch nữa? Vi Tiểu Bảo đáp:

- Không phải đâu. Vụ này bản soái khi ở Bắc Kinh đã thỉnh thị Hoàng thượng. Bản soái hỏi: Hoàng thượng là Điểu sâng dủy thang rộng lượng khoan hồng. Chúng ta có nên bắt chước Gia Cát Lượng khi tóm được nguyên soái nước La Sát cũng tha hắn bảy lần không? Hoàng thượng đáp: Cái đó không được. Học Gia Cát Lượng là phải học một cách linh động chứ không thể học một cách mù quáng. Mạch Hoạch là một tù trưởng đất Man di. Y tuyên bố không phản là vĩnh viễn không bao giờ tạo phản nữa. Còn hoàn cảnh nước La Sát lại khác hẳn. Những nhân vật cầm quyền nước này là Sa hoàng và Nữ Nhiếp chính vương. Nguyên soái chỉ là kẻ vâng lệnh bậc quân thượng đem quân đến xâm lược bờ cõi nước ta, có thể thay đổi luôn, không chỉ định một ai. Chúng tướng gật đầu khen phải. Vi Tiểu Bảo lại nói:

- Thám tử về báo quân thủ thành Nhã Tát Khắc cực kỳ hung hăng, hỏa pháo vô cùng lợi hại. Sĩ tốt của chúng ta đánh thành bị tử thương rất nhiều mà không hạđược. Ta tha cho nguyên soái La Sát trở về nhưng lột trần truồng người hắn dong đi quanh trên mặt thành ba vòng để quân La Sát trong thành ngó thấy đem lòng khinh khi hắn. Nguyên soái mất hết oai phong thì về sau hiệu lệnh tất không linh nghiệm nữa. Chư tướng lại đồng thanh khen phải. Lâm Hưng Châu hỏi:

- Có phải đức Hoàng thượng đã chỉ thị cho đại soái lột hết áo quần của tướng soái bên địch không? Vi Tiểu Bảo cười ha hả đáp:

- Đức Hoàng thượng là đấng tôn nghiêm khi nào chỉ thị những điều hỗn loạn như vậy? Ngài chỉ bảo ta nghĩ cách làm phấn khởi ý chí của quan binh bên mình mà hủy diệt oai phong của quân tướng La Sát. Ngài phán: quân La Sát vừa cao lớn, đầy mình lông lá, chẳng khác người man dã. Hỏa khí của chúng lại cực kỳ lợi hại. Quân ta ngó thấy hình dạng man mọi thường sinh lòng khiếp sợ. Phải làm mất nhuệ khí của họ là mình thắng trận dễ dàng hơn. Gã dừng lại một chút rồi tiếp:

- Hoàng thượng lại dặn: "Tiểu Quế Tử! Ngươi cũng nhiều trò khôi hài, vậy tìm cách khiến quân binh bên ta từ trên xuống dưới coi thường bọn Man tử là được". Bản soái nghĩ lui nghĩ tới không tìm được biện pháp gì. Thế rồi một hôm chợt nhớ tới chuyện đánh bạc ngày còn nhỏ... Các tướng ngơ ngác tự hỏi:

- Chủ soái đánh bạc hồi nhỏ thì có dính líu gì đến chuyện đi đánh La Sát. Vi Tiểu Bảo mỉm cười nói tiếp:

- Hồi nhỏ ta ở Dương Châu cùng người đánh bạc thua rồi không có tiền trả đành phải cãi xóa, họ muốn đánh muốn chửi như thế nào ta cũng không sợ. Một lần ta đã bị họ chỉnh rất thảm hại. Người được bạc bắt ta lột hết quần áo để ta trần truồng chạy về nhà. Lúc đi qua đường phố, ai ngó thấy cũng vỗ tay cười hô hố. Từ đó ta đánh bạc phải thận trọng hơn. Các tướng nghe gã nói đều cười ồ.Vi Tiểu Bảo lại nói:

- Hoàng thượng dạy phép chiến đấu cần linh động, biến hóa. Ngài chỉ đưa ra những phương lược, những kế hoạch đại khái, còn lúc thực hành đi vào chi tiết thì chính ta phải huy động cân não làm cho nên việc. Ta nghĩ rằng ngày mình nhỏ tuổi đã sợ kẻ khác lột quần áo thì khi nào binh tướng La Sát lại không sợ? Quả nhiên vừa bị lột quần một cái, bọn chúng riu ríu đầu hàng. Các tướng đồng thanh ca ngợi, trong lòng rất khâm phục. Có người lẩm bẩm:

- Phép lột quần áo trong "Tôn Tử binh pháp" cũng không nói đến. Vậy điều này phải kêu bằng "Vi Tử binh pháp" và là một điểm rất lợi hại. Vi Tiểu Bảo sai bọn hàng binh La Sát mặc áo giáp của quân Thanh vào, gã lại phái một tên tham tướng dẫn hai nghìn quân Thanh áp giải hàng binh đến Bắc Kinh tâu trình Hoàng đế hiến công. Một vị sư gia ở trong trướng viết biểu chương tâu về triều đình nói: Phủ Viễn Đại tướng quân Vi Tiểu Bảo tuân theo phương lược ngự chế của Hoàng thượng mở cờ đắc thắng. Quân La Sát ngưỡng mộ Trung Hoa thượng quốc, tận tâm quy thuận, Thánh đức của Ngô hoàng bao la thiên địa, cảm hóa man di... Tối hôm ấy Vi Tiểu Bảo hạ lệnh mở tiệc khao thưởng ba quân. Sáng hôm sau gã thân hành dẫn quân đến ngoài thành Nhã Tát Khắc. Chủ tướng đánh thành này là Bằng Xuân vào trướng bẩm báo nói hỏa pháo ở trong thành rất mãnh liệt, không thể tới gần để tấn công. Vi Tiểu Bảo hạ lệnh:

- Chúng ta bắc súng lớn bắn con mẹ nó vào. Bằng Xuân truyền lệnh ra ngoài. Chẳng bao lâu cả bốn mặt Đông, Nam, Tây, Bắc súng nổ vang trời bắn vào trong thành. Người La Sát kinh doanh thành Nhã Tát Khắc từ lâu, cách kiến trúc cực kỳ kiên cố. Binh tướng La Sát ẩn ở phía trong thành lũy. Quân Thanh khai hỏa bắn sập rất nhiều phòng ốc, nhưng quân La Sát vẫn kiên thủ không ra, nên Thanh binh chẳng làm gì được.Cuộc đánh kéo dài mấy ngày rồi, Hà Hựu dẫn một nghìn dũng sĩ tiến gần lại trèo lên, nhưng súng ống ở trên mặt thành bắn xuống từng loạt. Bên Thanh binh bị chết bốn, năm trăm người. Bằng Xuân thấy tình thế bất lợi liền khua chiêng thu binh. Quân La Sát đứng trên mặt thành vỗ tay gieo cười. Lại có mấy chục tên vén quần đi tiểu xuống thái độ rất ngạo mạn.
 

Hoa Tử

Sưu tầm
Tham gia
24/9/19
Bài viết
10,492
Điểm cảm xúc
1,412
Điểm
113
Chương 233: Vi Tiểu Bảo niệu xạ Lộc Đỉnh Sơn
Hắc Long Giang tướng quân là Tát Bố Tố cả giận, thân hành đốc suất quan quân đánh thành. Trên mặt thành hàng loạt súng bắn xuống. Tát Bố Tố trúng đạn ngã ngựa. Thanh quân rối loạn cả lên. Cửa thành mở, mấy trăm quân La Sát xông ra. Lâm Hưng Châu dẫn đội đằng bài lăn mình dưới đất xông vào, tay cầm đại đao vung múa. Quân La Sát vội tung mình nhảy lên né tránh. Đội quân đằng bài này do Lâm Hưng Châu ra tay huấn luyện phép "Địa đường đao pháp" cực kỳ thuần thục. Bọn chúng lăn mình dưới đất, tay trái cầm đằng bài che đỡ súng đạn bên địch. Tay mặt vung đại đao chém vào chân quân La Sát. Đồ Nhĩ Bố Thanh thấy tình thế bất lợi vội hạ lệnh thu binh. Lâm Hưng Châu cứu Tát Bố Tố đưa về. Tát Bố Tố bị trúng đạn ở trán may chưa vào tới óc. Hắn bị thương rất nặng nhưng không nguy đến tính mạng. Trận này cả hai bên cùng tổn thất, có điều quân Thanh bị tử thương nhiều hơn. Vi Tiểu Bảo đã đưa quân y đi theo, liền cho Tát Bố Tố ở trong trướng trị thương và trọng thưởng Lâm Hưng Châu. Gã hạ lệnh lui binh hai mươi dặm hạ trại. Tối hôm ấy Vi Tiểu Bảo ở trong trướng hội họp chư tướng, thương nghị kế hoạch đánh thành. Có người nói:

- Bữa nay quân đằng bài đã lập được công lớn, vậy sáng mai lại khiêu chiến dẫn dụ bọn quỷ La Sát ra ngoài thành rồi huy động quân đằng bài chém quân giặc. Có kẻ bàn:

- Quân địch đã mất hết nhuệ khí, e rằng chúng không dám xuất chiến. Chi bằng đắp lũy cao bốn mặt vây hãm cho chúng chết đói. Lại có người bày kế: Nên đào đường hầm tiến quân vào thành tấn công. Theo địa đạo đánh thành nguyên là kế hoạch từ xưa của Trung Quốc. Câu này nhắc nhở Vi Tiểu Bảo nhớ tới trong thành Nhã Tát Khắc đã có đường hầm. Nguyên năm trước gã ôm Tô Phi á Công chúa thân thể lõa lồ dưới địa đạo, nhưng hiện nay nàng đã thành Nhiếp Chính Nữ Vương, địa vị rất tôn quý, trong tay nắm đại quyền về quân chính của nước La Sát, mà gã lại đang đánh nhau ở đây với bộ hạ của nàng. Bất giác gã lẩm bẩm:

- Giả tỷ nàng chỉ huy binh tướng ở trong thành Nhã Tát Khắc thì ta theo địa đạo chuồn vào bò lên giường nàng để sờ. Một ta sờ, hai ta sờ, sờ vào tấm thân mềm nhũn của nàng, tất nàng phải chịu đầu hàng. Các tướng nghị luận một hồi thấy Vi Tiểu Bảo trầm ngâm không nói, miệng lại tủm tỉm cười, thì cho là gã đã nghĩ ra diệu kế, nên ai nấy thảy đều im tiếng, lẳng lặng chờ đợi nghe lệnh của đại soái. Ai mà biết được trong lòng gã lúc này đang nghĩ tới chuyện sờ soạng vào da dẻ đầy lông lá của nàng Tô Phi á. Bỗng thấy cặp mắt gã nửa nhắm nửa mở, miệng lảm nhảm:

- Hỏng bét! Không tiêu được! Các tướng ngơ ngác nhìn nhau. Bỗng nghe đại soái nói:

- Con mẹ nó! Mình bị phát đá từ trên giường rớt xuống. Chúng tướng cũng chẳng hiểu ra làm sao. Vi Tiểu Bảo lại nói:

- Nước La Sát tuy lợi hại, nhưng rồi lão gia sẽ có biện pháp đối phó. Bằng Xuân nói theo:

- Đại soái nói phải lắm! Bọn quỷ La Sát dù lợi hại đến đâu, chúng ta cũng có cách đối phó. Vi Tiểu Bảo giật mình mở bừng mắt ra hỏi:

- Chúng ta nào? Ngươi cũng có đến đó ư? Nhưng rồi gã tỉnh ngộ ngay cười ha hả nói:- Phải rồi! Phải rồi! Đường địa đạo đó hẹp quá chỉ lọt một người đi vào mà cửa hầm lại ở trong phòng tướng quân. Chắc hiện nay họ vít chặt rồi. Chúng ta nên đào đường khác là hơn. Các tướng lại càng mờ mịt chẳng hiểu chi hết. Vi Tiểu Bảo đứng dậy nói:

- Kế hoạch của các vị tướng quân đều tuyệt diệu. Những cửa Thanh Long, Bạch Hổ, Thiên Môn của chúng ta đều ăn thông hết. Sáng sớm mai chúng ta chia nhau đôn đốc đắp thành bao vây, đào đường hầm, đồng thời nổ súng lớn dẫn dụ bọn La Sát xuất chiến, để quân đằng bài lăn vào chém chân bọn quỷ sứ. Các tướng thấy kế hoạch của mình đề nghị đều được đại soái thu dụng, ai nấy hoan hỷ lui ra. Hôm sau, trời chưa sáng rõ, các tướng đã dẫn bọn bộ thuộc chia nhau hành động. Bằng Xuân đốc suất binh lính đắp tường đất bao vây. Lang Thản chỉ huy đội phóng pháo. Hà Hựu đôn đốc việc đào đường hầm. Hồng Triều dẫn năm trăm quân đã học được ít tiếng La Sát của bọn hàng binh về những câu chửi bới, đến chân thành lớn tiếng thóa mạ. Đáng tiếc là người La Sát hủ lậu kém văn chương, rất ít từ ngữ thóa mạ. Thanh âm của binh lính tuy vang dội nhưng hàm nghĩa rất bình thường, quanh đi quẩn lại chỉ có mấy câu "Ngươi là con heo thối tha", "Ngươi ăn phân không biết thối..." Những lời thóa mạ của nước La Sát so với Trung Hoa thật còn kém xa, làm gì có chuyện biến hóa vô cùng? Vi Tiểu Bảo nghe một lúc rồi phát ngán. Bọn quân La Sát hôm qua đã nếm mùi chặt chân đau khổ, lại thấy quân Thanh thế mạnh, quả nhiên kiên thủ không ra. Chúng ẩn mình ở sau tường để chửi lại. Quân Thanh nổ súng bắn vào thành, nhưng không gây được tổn hại đáng kể. Nên biết thời bấy giờ nhồi hỏa dược vào nòng súng rồi đốt lửa để bắn đạn sắt đạn chì. Ai bị trúng đạn trực tiếp mới bị bong gân gẫy xương, còn đạn rơixuống đất thì không sao. Đâu có được như đời sau một phát đạn nổ sát thương rất nhiều người. Trăm họ ở quanh vùng này đã bị quân La Sát tàn hại mười mấy năm. Nhà tan người chết không biết bao nhiêu mà kể! Nay họ được tin Hoàng thượng phái binh đến đánh bọn quỷ La Sát, ai nấy mừng rỡ như phát điên. Kẻ đem cơm rượu úy lạo ba quân, người đem quang gánh thuổng cuốc giúp việc đào đất đắp lũy bao vây. Tin tức truyền đi rất mau chóng cả nhân dân ở ngoài mấy trăm dặm cũng đến trợ lực cuộc tấn công. Đồ Nhĩ Bố Thanh lên mặt thành nhìn xuống thấy người đông như kiến cỏ, hăm hở đào đất đắp lũy bao vây ngoài thành mỗi ngày một cao. Cứ tình thế này thì quân La Sát sẽ bị vây hãm đến chết. Hắn chỉ mong thành Ni Bố Sở ở phía Tây phát binh cứu viện, nội ngoại giáp công mới có cơ thủ thắng. Ngờ đâu Vua Khang Hy đã tiên liệu chuyện này, chỉ thị cho một đội kỵ binh kéo đến giả vờ tấn công thành Ni Bố Sở để cầm chân. Tướng thủ thành Ni Bố Sở cũng mong Đồ Nhĩ Bố Thanh đem quân đến cứu viện. Súng ống La Sát vừa mạnh vừa bắn xa khiến quân Thanh không dám tiến vào gần tấn công. Thành Nhã Tát Khắc lại dùng làm căn cứ địa của quân La Sát để tiến về phía Đông, nên được gia cố rất vững vàng. Người La Sát hoài bão dã tâm rất lớn, chuẩn bị chiếm cứ giải đất rộng mông mênh ở miền Hắc Long Giang và Trung Hoa Giang rồi sẽ tràn xuống phía Nam, mưu đồ lấy cả Trung Quốc sát nhập vào nước La Sát, khiến mấy trăm triệu người trở thành nông nô cho chúng. Tường thành Nhã Tát Khắc rất kiên cố. Trong thành đạn dược đầy đủ, lương thảo chất thành non. Dù phải cố thủ mấy năm cũng không lo thiếu thốn. Ngoài ra, chúng còn đào giếng sâu để giải quyết vấn đề nước uống. Đồ Nhĩ Bố Thanh sợ người Trung Quốc ở trong thành nổi loạn để làm nội ứng, nên lôi hết lên mặt thành giết chết rồi quẳng xác xuống.Người Trung Quốc ở ngoài thành thấy vậy vô cùng phẫn nộ, lớn tiếng thóa mạ. Hiện thời đường địa đạo đã đào đến bên thành. Vi Tiểu Bảo nghĩ tới núi Lộc Đỉnh là chỗ long mạch phát tích đế nghiệp của nhà Thanh, nếu đào đường là tổn thương long mạch, nguy hại đến tính mạng Nhà Vua là một điều không ổn. Gã liền hạ lệnh không được đào đường hầm tiến thẳng vào trong thành, mà chỉ đào men theo chân tường rồi đặt chất nổ phá thành cho đại quân xông vào. Không ngờ một hôm trong thành có mấy chỗ nước giếng vọt lên. Đồ Nhĩ Bố Thanh chuyên nghề dụng binh được tin báo, hắn suy nghĩ rồi đoán biết địch quân đào đường hầm trúng phải mạch nước mới có hiện tượng này. Hắn liền suy đoán phương vị, đặt chất nổ trên đường địa đạo rồi châm ngòi cho nổ tung. Hơn trăm quân Thanh bị chết dưới địa đạo và đường hầm cũng bị vít lại.

Việc đánh thành Nhã Tát Khắc không thể hạ được trong một thời gian ngắn, khí trời lại mỗi ngày một thêm khá lạnh. ở miền cực Bắc này, tới mùa thu khí hậu đã hàn lạnh phi thường. Sang mùa đông nước đóng thành băng. Người nào bất cẩn một chút hay phòng vệ không được chu đáo là lỗ mũi lỗ tai nước đọng nghẹt cứng. Còn chân tay cóng lại rồi bị hủ nát là chuyện thường. Mấy ngày trời xuống tuyết lớn, trăm họ đến giúp cuộc tấn công không chịu nổi phải từ biệt quan quân trở về để chờ mùa hạ sang năm tuyết tạnh băng tan sẽ trở lại trợ lực. Mọi người còn khuyên quan quân lui về phía Nam để tránh giá lạnh nơi băng thiên tuyết địa. Bọn Tát Bố Tố, Lang Thản đã đóng quân lâu ngày ở miền Bắc đều biết cục diện mùa đông rất nguy hiểm. Nếu đêm đến gặp hàn trào thì quan binh bị chết rét phân nửa là sự thường. Quân La Sát ở trong phòng đã có tường vách ngự hàn, nên đỡ phần giá lạnh. Còn quân Thanh ở doanh trại ngoài hoang dã muốn đốt lửa sưởi cũng không được.Vi Tiểu Bảo buồn rầu nghĩ thầm:

- Đức Hoàng thượng phái ta dẫn quân Bắc chinh mà không hạ nổi một tòa thành đã phải lui binh thì thật là đồ vô dụng. Gã do dự mấy bữa thủy chung không tìm được chủ ý gì thì bộ tướng vào báo mấy chục thương binh không chịu nổi giá lạnh chết cóng rồi. Vi Tiểu Bảo đang chán nản bỗng có thánh chỉ đưa tới. Vua Khang Hy ban thượng dụ nói:

- "Phủ Viễn Đại tướng quân Vi Tiểu Bảo ra quân đắc lợi thật đáng khen thưởng. Nay đã phái hàng tướng La Sát mang sắc thư của nhà Đại Thanh đến Mạc Tư Khoa tuyên dụ cho Quốc vương La Sát bãi chiến lui binh để hai nước vĩnh viễn hòa hảo. Hiện nay tiết trời giá lạnh, binh tướng lao khổ, nằm băng giãi tuyết khiến lòng trẫm không khỏi đau thương. Vậy Vi Tiểu Bảo lui quân về phía Nam đóng ở hai thành ái Huy và Hô Mã Nhi để sĩ tốt nghỉ ngơi điều dưỡng. Nếu sang xuân quân La Sát vẫn ngoan cố không chịu hàng phục sẽ hạ lệnh tiến binh đánh dẹp. Nay ban cho Phủ Viễn Đại tướng quân cùng quan binh dưới trướng từ Đô thống, phó Đô thống trở xuống đều được dự phần y phục, kim ngân tửu thực. Các tướng hãy thể theo ý trẫm, thương xót ba quân, chớ có tham công tốc chiến để sĩ tốt và nhân dân phải chịu gian lao, giá lạnh. Cuộc Bắc chinh của vương sư nguyên vì mục đích bảo vệ nhân dân mà binh sĩ cũng là nhân dân vậy".

"Khâm thử" Vi Tiểu Bảo cùng các tướng tiếp chỉ tạ ơn. Các tướng đều biết đức Vạn tuế thương yêu tướng sĩ, ơn đức bao la. Có điều mọi ngươi nghĩ tới bây giờ triệt binh bỏ dở cuộc bao vây không khỏi uổng phí tiền công, nên trong lòng hối tiếc.Quan khâm sai truyền chỉ dụ đến các doanh trại ban thưởng ba quân, sĩ tốt hoan hỷ reo hò như sấm dậy. Hôm sau, Vi Tiểu Bảo hạ lệnh cho Tát Bố Tố dẫn binh rút lui trước. Gã lại sai Hà Hựu và Lâm Hưng Châu lĩnh binh đoạn hậu. Nếu quân La Sát kéo ra đuổi theo thì phải đánh giết chúng tơi bời hoa lá. Quân La Sát thấy Thanh binh triệt thoái, trong thành reo hò vang dội cả góc trời. Mấy trăm tên quân La Sát đứng trên mặt thành đi tiểu xuống. Vi Tiểu Bảo tức quá cũng hạ lệnh cho sĩ tốt nhất tề ngó lên thành mà đi tiểu. Trên thành dưới thành tiếng cười hô hố pha lẫn với tiếng thóa mạ náo loạn cả lên. Có điều quân La Sát ở trên cao đi tiểu xuống thì được, còn quân Thanh ở dưới không thể bắn nước tiểu lên thành đành là chịu thua. Mé tường thành chỗ nào cũng có nước tiểu mà gặp gió lạnh chỉ trong khoảnh khắc đã đóng lại thành một mửng vàng khè. Vi Tiểu Bảo nổi tính trẻ nít, không chịu được cái tức này. Gã trỏ lên mặt thành chửi cha chửi mẹ quân La Sát. Quan Khâm sai liền tìm lời khuyên giải nói:

- Quân La Sát chẳng khác gì bầy dã thú. Đại soái bất tất phải chấp với chúng. Vi Tiểu Bảo đáp:

- Không được! Mình thua là mất thể diện. Gã hạ lệnh lấy vòi rồng đến. Vòi rồng là đồ dùng cứu hỏa, dĩ nhiên quân đội phải đem theo để phòng khi chữa lửa. Bọn thân binh kéo mười mấy cái vòi rồng đến. Vi Tiểu Bảo sai chúng bắc lên mặt lũy.Hiện thời nước sông đóng lại thành băng không thể dùng được. Gã liền sai hỏa phu bắc những nồi lớn lên đun cho băng chảy ra rồi đổ nước nóng vào vòi rồng. Vi Tiểu Bảo lại vén quần đi tiểu vào nước nóng và hạ lệnh cho thân binh: Các ngươi hãy thụt nước lên thành. Bọn thân binh thấy chủ soái nghĩ ra được diệu kế liền hăm hở huy động vòi rồng phun nước nóng lên mặt thành. Bọn thân binh vừa thụt nước vừa hô:

- Vi đại soái ban nước tiểu cho bọn quỷ La Sát các ngươi giải khát. Nước nóng bắn vào, quân La Sát kêu la, thóa mạ ầm ĩ và tới tấp né tránh. Các tướng có người lẩm bẩm:

- Nhộn quá! Có người muốn lấy lòng đại soái, đứng lên reo hò để trợ oai. Nhưng trời lạnh quá nước trong vòi rồng chỉ sau giây lát đã đóng thành băng, cứ phải đổ nước nóng hoài. Vi Tiểu Bảo thấy mình thắng được một trận chiến đấu bằng nước tiểu, trong lòng rất cao hứng, mình lại tự khen mình:

- Gia Cát Lượng hỏa thiêu Bàn Xà Cốc, Vi Tiểu Bảo niệu xạ Lộc Đỉnh Sơn. Cả hai vụ đều oai phong chẳng kém gì nhau. Đột nhiên hai mắt gã trợn ngược, ngơ ngẩn xuất thần. Hắn quát một tiếng lớn rồi nhảy lên cười ha hả hô:

- Tuyệt diệu! Thật là tuyệt diệu! Phó Đô thống là Lang Thản đứng bên ca tụng:

- Một bầu nước tiểu của đại soái đủ làm cho bọn quỷ La Sát phải chùn nhụt nhuệ khí. Vi Tiểu Bảo lại sai đánh trống triệu tập chúng tướng vào trong trướng hỏi:

- Trong doanh trại chúng ta cả thảy có bao nhiêu vòi rồng?Tên tham tướng phụ trách quân nhu đáp:

- Khải bẩm đại soái! Tất cả có mười tám bộ. Vi Tiểu Bảo chau mày hỏi:

- ít quá! ít quá! Sao không mang nhiều đi? Tham tướng dạ một tiếng. Hắn nghĩ bụng:

- Quân doanh thất hỏa chẳng phải là chuyện thường xảy ra. Mười tám bộ vòi rồng đủ dùng rồi. Vi Tiểu Bảo hỏi:

- Ta cần dùng một nghìn bộ vòi rồng. Bây giờ sai người đi trưng dụng ở các thành thị lân cận thì bao giờ mới có đủ? Nơi đây là biên thùy cực Bắc, đất rộng người thưa. Thành thị gần nhất cũng xa tới mấy trăm dặm. Thị trấn lại nghèo nàn, lèo tèo chỉ mấy trăm nhà, chứ không sầm uất như ở Trung Nguyên. Tại thị trấn chưa chắc đã có vòi rồng. Muốn trưng tập nghìn bộ thì nhất quyết không sao tìm đủ được. Tên tham tướng vẻ mặt đăm chiêu đáp:

- Khải bẩm đại soái! ở quan ngoại mà muốn kiếm đủ một nghìn bộ vòi rồng thì e rằng không sao có đủ. Vậy phải tiến vào quan ải đến Bắc Kinh, Thiên Tân thu thập và chuyển vận tới đây. Vi Tiểu Bảo tức giận nói:

- Thối lắm! Từ đây trở về Bắc Kinh, Thiên Tân lấy được vòi rồng đưa tới mất bao nhiêu ngày giờ? Việc đánh nhau là phải thần tốc, nửa ngày còn không chậm được. Tên tham tướng vâng dạ luôn miệng. Hắn sợ hãi thất sắc than thầm:

- Phen này thì cái đầu ta đến phải lìa khỏi cổ mất! Quan Khâm sai ngồi bên không nhịn được liền khuyên giải:- Đại soái! Quý niệu đã bắn lên mặt thành của người La Sát rồi. Cái đó... cái đó quý ở chỗ tinh vi chứ không cần nhiều. Chúng ta đã thắng một trận rồi. Theo ngu kiến củ tiểu đệ thì giặc đến bước đường cùng không nên... bắn theo nữa. Vi Tiểu Bảo lắc đầu đáp:

- Không được. Phải đủ một nghìn vòi rồng mới làm nên đại sự. Viên Khâm sai bụng bảo dạ:

- Gã này làm đại soái mà rắc rối quá chừng! Vụ bắn nước tiểu để tranh hơi, ngẫu nhiên đùa giỡn một chút thì không tổn thương gì đến đại thể, đâu có thể mở cờ gióng trống làm trò vô vị. Thiếu niên Hoàng đế ưa dùng tướng quân nhỏ tuổi. Quân thần họ ý hợp tâm đầu nên người ngoài không dám nói nhiều. Nhưng gã đùa dai thái quá chẳng còn ra thể thống gì nữa, tất không tránh khỏi bị thiên hạ chê cười. Y muốn đưa lời khuyên giải, bỗng nghe Vi Tiểu Bảo hỏi:

- Các vị tướng quân! Vị nào nghĩ ra được diệu kế gì điều động đến đây ngay lập tức một hai nghìn cỗ vòi rồng để dùng chăng? Đây là một công lao rất lớn. Bằng Xuân hỏi lại:

- Xin hỏi đại soái: Phải chăng đại soái muốn dùng một nghìn vòi rồng để... để bắn nước tiểu lên thành? Vi Tiểu Bảo cười đáp:

- Nếu chúng ta có đủ nghìn vòi rồng mà dùng vào việc bắn nước tiểu lên thành thì lấy đâu ra được nhiều nước tiểu như vậy? Bản soái tưởng cả trăm vạn nhân mã đi tiểu cũng không đủ dùng. Bằng Xuân cười nói:

- Đúng thế! Thuộc hạ thật là ngu muội! Xin đại soái chỉ thị cho. Vi Tiểu Bảo cười hỏi:

- Vừa rồi bản soái thấy "quý niệu" của bản soái bắn lên mặt thành lập tức đóng lại thành băng. Nếu chúng ta dùng một vài nghìn cỗ vòi rồng suốt ngày thâu đêm bắn nước nóng lên mặt thành thì sẽ ra sao?Chúng tướng sửng sốt một chút ròi những người đầu óc linh mẫn nổi lên hoan hô. Về sau ai cũng vỡ lẽ, tiếng reo hò như sấm động trong doanh trướng. Chúng tướng hô lớn:

- Diệu kế chân diệu kế! Nước tràn Nhã Tát Khắc! Băng đóng Lộc Đỉnh Sơn! Sau một lúc, tiếng hoan hô dừng lại. Có người nói:

- Dù phải đến Bắc Kinh, Thiên Tân lấy một nghìn vòi rồng cũng phải ra sức đi suốt ngày đêm vận tải đưa về đây. Lập tức mấy tên phó tướng, tá lãnh tự nguyện tận tâm kiệt lực và xin lệnh đi trưng tập vòi rồng, Hồng Triều chức vị thấp kém đứng ở hàng sau cùng, bây giờ mới khom lưng lên tiếng:

- Khải bẩm chủ soái! Mạt tướng xin đưa ra ý kiến nông cạn để chủ soái định đoạt. Vi Tiểu Bảo đáp:

- Tướng quân có ý kiến gì cứ nói ra. Hồng Triều nói:

- Mạt tướng là người ở Phúc Kiến, làng mạc nghèo nàn không làm nổi vòi rồng. Khi hương thôn phát hỏa, nhân dân liền dùng ống thụt bằng tre để chữa cháy. Thứ ống thụt này chỉ cần dùng một cây bương lớn đục cho rỗng ruột. Một đâu khoan lỗ nhỏ bằng đồng tiền. Còn một đầu lắp khúc gỗ vừa khít. Khi cứu hỏa thì dùng đầu có lỗ nhỏ xuống nước, kéo mạnh khúc gỗ lên hút nước đầy vào ống tre. Tiếp theo đẩy mạnh khúc gỗ để bắn nước vào chỗ lửa cháy. Vi Tiểu Bảo ồ lên một tiếng rồi suy nghĩ cách làm ống thụt. Hà Hựu nói:

- Khải bẩm chủ soái! ống thụt này muốn làm lớn nhỏ thế nào cũng được. Hồi ty chức còn nhỏ thường cùng bạn bè dùng ống thụt nước bắn nhau chơi. Trò này rất thú vị. Y dừng lại một chút rồi tiếp:- Đáng tiếc giải đất này không có giống tre bương thật lớn để làm ống thụt đựng nhiều nước. Thứ tre này phải qua sông Trường Giang mới có nhiều. Vi Tiểu Bảo lại hỏi Hồng Triều:

- Tướng quân còn có biện pháp nào không? Hồng Triều đáp:

- Mạt tướng nghĩ rằng: Nơi đây tuy không có trúc lớn nhưng rất nhiều cây tùng cây sam. Chúng ta chặt nhiều cây lớn khoét ruột đi có thể làm thành ống thụt nước. Vi Tiểu Bảo nói:

- Muốn khoét ruột cây súng lớn đâu phải chuyện dễ dàng? Một tên phó tướng họ Ban xuất thân là thợ mộc ở Sơn Tây tiến ra đáp:

- Khải bẩm chủ soái! Vụ này không khó khăn gì. Trước hết lấy cưa xẻ dọc cây gỗ lớn ra làm hai nửa. Mỗi nửa khoét ruột rỗng thành hình bán nguyệt bào cho nhẵn rồi lắp hai nửa vào thì thành cái ống tròn rỗng ruột. Khi lắp hai nửa muốn cho đẹp thì dùng khâu sắt đóng vào, bằng làm sơ sài thì chỉ đóng đinh sắt cũng được. Vi Tiểu Bảo cả mừng reo lên:

- Tuyệt diệu! Thật là tuyệt diệu. Rồi gã hỏi:

- Làm một cây ống thụt lớn như vậy phải mất bao nhiêu thì giờ? Ban phó tướng đáp:

- Tiểu tướng tự mình ra tay thì một ngày có thể xong một cây. Làm cả đêm thì được hai cây. Vi Tiểu Bảo chau mày nói:

- Chậm lắm, chậm lắm! Tướng quân đến khắp doanh trại tìm kiếm những tay trợ thủ, cần thật đông người làm. Tướng quân đóng vai sư phụ dạy cho các đồ đệ khởi công tức khắc. Gã dừng lại một chút rồi tiếp:- Vụ này chỉ cần làm cho được việc chứ có phải tân nương tử về nhà chồng đâu mà làm đồ đẹp. Cũng chẳng phải tài chủ đóng quan tài cần làm cho kỹ. Vỏ cây làm ống thụt cũng không cần đến nữa. Chỉ cốt sao bắn nước lên thành là được. Gã lại lớn tiếng hô:

- Chư tướng! Chúng ta lập tức động thủ, phạt mộc làm ống thụt. Chúng tướng được lệnh liền dẫn quân bộ thuộc vào rừng đốn cây phạt mộc.
 

Hoa Tử

Sưu tầm
Tham gia
24/9/19
Bài viết
10,492
Điểm cảm xúc
1,412
Điểm
113
Chương 234: Hạ Thành không mát một tên quân
Bên ngoài quan ải, khắp nơi mọc đầy những cây tùng, cây sam. Cả một giải ven sông Ngạch Nhĩ Cổ Lạp chi chít rừng rậm. Cây cao ngất trời hàng trăm năm không biết bao nhiêu mà kể. Quân Thanh phát động không đầy nửa ngày đã đốn được mấy ngàn cây lớn. Binh sĩ trong quân có hơn trăm tên nguyên là thợ mộc được Ban phó tướng điều động khởi công. Hắn lựa thêm bốn, năm trăm quân khéo tay giúp việc chế tạo ống thụt ngay đêm hôm ấy. Chính Ban phó tướng làm một cây kiểu mẫu. Cây ống thụt này đường kính hai thước, dài hơn một trượng. Đầu ống thụt lắp khúc gỗ để nằm ngang. Sáu tên quân chia ra đứng hai bên nắm quai khúc gỗ này thụt ra thụt vào. ống thụt hút nước nóng vào rồi, Ban phó tướng hạ lệnh cho sáu tên quân hết sức xô đẩy khúc gỗ nằm ngang để bắn nước nóng ra xa được hai trăm bộ. Vi Tiểu Bảo coi diễn thử trầm trồ khen ngợi. Gã nói:

- Cái này không phải là ống thụt mà là súng bắn nước. Gã ngẫm nghĩ nói tiếp:

- Chúng ta phải dặt cho nó một cái tên, kêu bằng... Bạch Long thủy pháo. Gã lấy vàng bạc khao thưởng Ban phó tướng và quan binh chế tạo thủy pháo. Đồng thời gã đốc thúc binh tướng làm việc suốt ngày đêm. Đồ Nhĩ Bố Thanh thấy quan Thanh đã rút lui rồi quay trở lại, liền lên mặt thành quan sát. Hắn ngó thấy trong trại binh xếp từng đống gỗ rất lớn, nghĩ thầm:

- Bọn man tử Trung Quốc đốn nhiều gỗ thế kia là để làm củi đốt lửa sưởi ấm. Chắc bọn chúng ở lại vây thành không rút lui nữa. Rồi hắn lẩm bẩm:

- Hừ! Chỉ nửa tháng nữa là gió to tuyết dữ. Ta thử coi bọn ngươi có chịu nổi không? Dù các ngươi đốt bao nhiêu củi lửa cũng chẳng thể cản được âm phong hàn khí ở trong vòng địa ngục này tiết ra. Hắn trở về doanh trướng sai thân binh đốt lò lửa, rót thứ rượu mạnh La Sát ra uống, lại gọi hai thiếu nữ Trung Quốc bắt được từ trước vào trướng hầu rượu. Bên này bọn Bằng Xuân, Hà Hựu sai kỵ binh thu lượm nồi đồng, chảo gang của trăm họ để lại trong mấy dặm vuông vào một chỗ. Chúng lại sai binh sĩ đào đất làm bếp. Củi khô cùng băng tuyết xếp thành từng đống cao như những trái núi nhỏ. Bao nhiêu Bạch Long thủy pháo đều dùng cành cây che lấp để bọn quân La Sát khỏi phát giác. Đến ngày thứ chín, Ban phó tướng báo cáo đã chế tạo được ba ngàn Bạch Long thủy pháo. Hôm sau là ngày hoàng đạo, Vi Tiểu Bảo thăng trướng từ giờ mão. Gã nổi trống tụ tập chúng tướng rồi hạ lệnh khiêng hết thủy pháo đặt lên mặt lũy. Miệng súng nằm hướng vào thành Nhã Tát Khắc. Trong quân hiệu trống và tù và nổi lên inh ỏi. Súng nổ đoàng đoàng liền chín phát. Tướng sĩ các doanh trại nhất tề động thủ khuân băng tuyết bỏ vào nồi đồng chảo gang và đốt lửa đun lên. Đồ Nhĩ Bố Thanh đang trùm chăn ngủ kỹ chợt nghe ngoài thành pháo nổ rầm trời. Hắn hốt hoảng bổ dậy, vội vã mặc quần áo, bên ngoài khoác áo cừu, rồi lật đật lên mặt thành quan sát. Lúc này gió to tuyết dữ, bầu trời ảm đạm, Đồ Nhĩ Bố Thanh chỉ nhìn thấy lờ mời trên mặt tường lũy, quân Thanh đặt đầy những cây gỗ lớn mà không hiểu để làm gì? Đồ Nhĩ Bố Thanh còn đang nghi hoặc, bỗng nghe quân Thanh lớn tiếng reo hò, uy thế tựa trời long núi lở.Đột nhiên mấy ngàn cây gỗ lớn phun nước ra. Cả bốn mặt tám phương đều bắn nước vào thành. Đồ Nhĩ Bố Thanh cả kinh. Bỗng hắn thét lên một tiếng:

- úi chao! Một làn nước nóng bắn trúng ngực hắn. Tiết trời lạnh quá. Nước nóng bắn tới nơi nhiệt lực đã giảm sút rất nhiều, nhưng Đồ Nhĩ Bố Thanh chân không đứng vững, lảo đảo người đi rồi ngã quay ra. Bọn thân binh đứng bên vội lại đỡ hắn dậy. Bốn mặt tiếng quân reo hò pha lẫn với tiếng ào ào lướt qua trên đầu bọn quân La Sát. Chúng ngửng mặt lên nhìn tưởng chừng đoàn Bạch Long đang phun tên nước vào thành. Chỉ trong khoảnh khắc, trên thành Nhã Tát Khắc bao phủ một làn mù mịt mờ do hơi nước gặp khí lạnh gây ra. Đồ Nhĩ Bố Thanh ruột rối như mớ bòng bong, trong lòng cực kỳ xao xuyến, hắn lớn tiếng la:

- Bọn Man tử Trung Quốc lại dùng yêu pháp rồi! Hắn thấy nước từ trong cây lớn phun ra rất lấy làm kỳ và cho đây là bên quân Thanh thi triển yêu pháp, không còn nghi ngờ gì nữa. Trong lúc hoang mang, Đồ Nhĩ Bố Thanh hô lớn:

- Các ngươi phải nổ súng, đừng để bọn Man tử Trung Quốc xông lên mặt thành. Nhưng từ hôm hắn bị Vi Tiểu Bảo lột trần truồng dong đi trên mặt thành ba vòng, uy tín hắn bị tổn thương rất nhiều. Trước kia, một khi hắn phát hiệu lệnh là bọn thuộc hạ đều tuân theo răm rắp, mà lần này chúng tỏ ra uể oải, lơ là. Có điều quân La Sát thấy Thanh binh vây thành đánh rát, chúng sợ thành vỡ tất không thoát chết mà phải cố sức phòng thủ. Lúc này chúng thấy tình thế biến đổi bất ngờ. Mấy nghìn thủy pháo bắn tên nước vào thành, bỏ chạy tán loạn, chẳng còn ai nhìn đến chủ tướng nữa.May mà quân Thanh chỉ bắn nước lên chứ không thừa cơ đánh thành. Binh tướng La Sát hoang mang một lúc, vừa bình tĩnh được một chút, lại thấy dưới đất nước đóng thành băng. Trên đầu từng cây cột nước như rót vào đổ xuống ầm ầm. Bao nhiêu đàn ông Trung Quốc ở trong thành Nhã Tát Khắc đã bị quân La Sát giết sạch sành sanh. Chúng chỉ lưu lại bọn phụ nữ ít tuổi làm doanh kỹ để chúng gian dâm thủ lạc. Ngoài bọn quân tướng La Sát trong thành chỉ có những quan văn do Mạc Tư Khoa phái đến, hoặc những giáo sĩ truyền giáo, hay những người thương mại đi theo trong quân để bán hàng. Bọn này nghĩ rằng cuộc Đông tiến là một dịp đại phát tài, nên rất nhiều quân trộm cắp trà trộn vào. Chỉ trong khoảnh khắc, người nào người nấy ướt như chuột lột. Ban đầu nước còn hơi ấm, nhưng sau một lúc áo ướt bắt đầu kết lại thành băng. Quân dân thấy vậy kinh hãi vô cùng, tới tấp cởi áo tụt giầy. Nên biết áo ướt một khi đóng thành băng là dính liền vào da thịt, mà ngón tay mọi người giá lạnh cứng đơ, không còn sức để cởi nữa. Dù có bạn giúp đỡ, cũng chỉ thọc tay vào xé rách áo quần mới lôi ra được. Như vậy vẫn nguy hiểm vô cùng. Nước đọng dưới đất đóng lại mỗi lúc một cao. Trên mặt đất bầy nhầy trơn như mỡ đổ. Bọn người La Sát tụt bỏ hết giầy dép, chỉ còn chân không dẫm lên băng giá lạnh thấu xương. Chúng không chịu nổi, hai chân nhảy lên như cào cào, miệng kêu la:

- Lạnh đến chết người, lạnh đến chết người! Mọi người tới tấp chạy lên chỗ cao để tránh nước đọng. Có kẻ liều lĩnh bò lên nóc nhà. Bỗng trong đám đông, một người hô lớn:

- Đầu hàng đi, đầu hàng đi! Nếu không đầu hàng là chết sạch đến nơi bây giờ.Đồ Nhĩ Bố Thanh mình khoác áo cừu, tay trái cầm dù. Hắn cưỡi trên lưng con ngựa lớn, đầu cao nghêu nghện, đi lại tuần tiều, vừa nghe tiếng hô •đầu hàng• liền nổi giận quát tháo:

- Kẻ nào ở trong này làm náo loạn quân tâm? Bọn gian tế rồi! Phải bắn chết đi! Mọi người thấy hắn khoác áo da cừu chống được nước, trong mình vẫn ấm áp, mới đi lại diễu võ dương oai. Xung quanh hắn toàn là quân dân mình trần trùng trục bị khí lạnh hành hạ còn thiếu chết đi sống lại, ai cũng đem lòng căm phẫn. Giữa lúc ấy, một người cúi xuống lượm khối băng dưới đất, nhắm Đồ Nhĩ Bố Thanh liệng tới. Đồ Nhĩ Bố Thanh liền giơ súng lục lên bắn vào đám đông •đẹt đẹt• hai phát. Lập tức hai người ngã lăn ra chết. Những người đứng kế bên thấy thế càng cáu giận, đều lượm mảnh băng ném vào hắn loạn lên. Lại có người nhảy xổ tới lôi hắn xuống ngựa. Bọn vệ binh múa đao chém giết cũng không cản trở được. Đang khi náo loạn, một đội kỵ binh chạy tới, bọn loạn dân La Sát mới bị giải tán. Đồ Nhĩ Bố Thanh lồm cồm bò dậy. Giữa lúc ấy, trên đầu hai tia nước rót thẳng vào khiến toàn thân hắn ướt đầm. Hai chân nhảy loạn lên, Đồ Nhĩ Bố Thanh lớn tiếng thóa mạ, đồng thời bọn vệ binh giúp sức cởi áo tụt giầy. Quân Thanh bắn thủy pháo có lúc nước dựng lên như cây cột có luồng phun ra tản mát như thủy châu trên mặt thành, lại tựa hồ mưa rào đổ xuống. Có tia nước bắn lên cao, có tia bắn thấp hơn văng trúng vào người. Nên biết những thủy pháo này chế tạo một cách rất thô sơ. Có cây luồng lực đạo bắn đi xa, có cây xạ trình rất gần. Lại có nhiều cây chỉ bắn mấy lần ống súng đã bể nát làm bị thương khá nhiều "pháo thủ" bên Thanh.Ba nghìn cỗ thủy pháo bắn trong vòng hơn một giờ, đã có sáu bảy trăm cây bị hư hại. Mặt khác, việc đun băng tuyết tan thành nước nóng chậm hơn không đủ cung ứng cho thủy pháo. Về sau "đạn dược" tiếp ứng không kịp. Quân Thanh thấy tình trạng quân La Sát trong thành tất tưởi khốn đốn, chúng đứng trên mặt lũy reo hò như sấm dậy. Một số đông lại cất tiếng Nam giọng Bắc ca hát râm ran. Trong đám này có cả Vi Tiểu Bảo cử bài "Thập Bát mô"... một ta sờ, hai ta sờ... Bằng Xuân cùng các tướng lật đật trong việc chỉ huy đội pháo binh. Ban phó tướng cũng cực nhọc điều động bọn mộc tượng sửa chữa những cây pháo bị hư hoại. Đội binh sĩ phụ trách đun nước, gia sức cuốc băng bỏ vào chảo. Đội thủy binh khuân hết thùng lớn thùng nhỏ nước nóng đổ vào nòng súng. Nòng súng đầy nước rồi, đội pháo thủ ấn đầu súng cho miệng súng hướng lên rồi hô:

- Một, hai, ba, bắn! Sáu tên pháo thủ liền đẩy mạnh phiến gỗ thụt bắn nước vào thành. Cuộc bắn tiếp tục hơn nửa giờ nữa, số thủy pháo mỗi lúc hư hại một nhiều. Nước nóng mỗi lúc một thiếu hụt thêm. Sau chỉ còn tám, chín trăm cỗ thủy pháo phát xạ. Dĩ nhiên uy lực giảm đi rất nhiều. Vi Tiểu Bảo đang cảm thấy trong lòng nao núng, bỗng cổng thành Nhã Tát Khắc mở rộng. Mấy trăm người La Sát mình trần như nhộng ào ào kéo ra, lớn miệng hô:

- Đầu hàng, đầu hàng! Lúc này Tát Bố Tố, vết thương trên đầu đã lành được quá nửa liền dẫn một nghìn kỵ binh chạy lại hô:

- Ai đầu hàng thì ngồi cả xuống đất!Người La Sát ngơ ngác nhìn nhau chẳng hiểu hắn nói gì. Một tên bá tổng trong đội quân Thanh liền ngồi xuống đất la lên:

- Ngồi xuống! Ngồi xuống! Giữa lúc ấy, cổng thành đóng sập lại. Trên mặt thành từng loạt súng bắn xuống làm chết mấy chục người La Sát. Bọn người ra hàng thấy trên thành bắn súng xuống bỏ chạy tán loạn. Quân Thanh liền lái thủy pháo nhằm bắn vào binh tướng La Sát đứng trên mặt thành nổ súng. Bọn chúng hoảng sợ tới tấp nhảy xuống. Lúc này trong thành ngập nước đến hơn hai thước đã đóng thành băng. Nếu muốn toàn thành đầy nước để trở nên một tòa đại băng thành thì phải tiếp tục bắn nước lên hàng nửa tháng hay ít ra cũng phải mười ngày. Nhưng quân tướng La Sát đã không quần áo lại chẳng thể đốt lửa sưởi ấm, người nào người nấy bị rét cóng, toàn thân run bần bật như thằn lằn đứt đuôi, sắc mặt xanh xám. Mấy tên quân phải ôm nhau cho đỡ lạnh. Đồ Nhĩ Bố Thanh vẫn lớn tiếng quát tháo, đốc thúc binh tướng thủ thành, nhưng sĩ tốt ngoảnh mặt làm ngơ, không lý gì đến hắn. Đồ Nhĩ Bố Thanh tức quá giơ tay lên tát một tên quân. Tên quan quân này lùi lại né tránh. Đồ Nhĩ Bố Thanh rượt theo trượt chân té xuống. Một tên quân sĩ đứng bên liền đưa tay ra đẩy hắn xuống hố đầy nước đọng. Đồ Nhĩ Bố Thanh hết sức giẫy dụa để bò lên, nhưng chân tay lạnh cóng không sao lên được. Hắn lớn tiếng la:

- Cứu ta! Cứu ta! Các binh tướng lờ đi như không nghe thấy, xúm quanh khối nước dương mắt lên nhìn hắn. Chẳng bao lâu, nước trong hố đóng thành băng vít chặt Đồ Nhĩ Bố Thanh thành một khối không nhúc nhích được. Nửa người trên hắn chìa ra ngoài hố, miệngthở hồng hộc. Từ ngực trở xuống chìm vào trong khối băng như người bị chôn sống. Các binh tướng La Sát chẳng ai bảo ai mà cùng chung một quan điểm, mở rộng cửa thành, hô lớn:

- Đầu hàng, đầu hàng! Quân dân La Sát, ngoại trừ những người bị rét cóng không nhúc nhích được, hết thảy kéo ùa ra như đàn ong để xin đầu hàng. Vi Tiểu Bảo sung sướng như người phát điên. Gã khoa chân múa tay, miệng nói ba hoa. Hiệu lệnh của gã chẳng còn ra đường lối nào nữa. May ở chỗ những tướng lĩnh bên Thanh toàn là tay lão luyện trong quân trường, trải qua rất nhiều chiến trận. Miệng chúng lớn tiếng hô:

- Xin tuân lệnh. Rồi tự ý xử trí với cuộc tiếp thu đầu hàng, cùng thi hành thủ tục tiếp thu, nhập thành, kiểm soát khí giới, thanh lý mọi việc cần thiết rất có phép tắc, thường khi ra ngoài hiệu lệnh của đại soái. Có điều trước khi bắn nước vào thành chỉ lo không đủ, mà bây giờ trái lại thấy nhiều quá. Công cuộc hóa băng, tiêu nước trong thành thật không phải chuyện dễ dàng, Lang Thản đốc thúc quan binh trước hết là dọn dẹp Tổng đốc phủ, mời Vi Tiểu Bảo, Sách Ngạch Đồ và quan Khâm sai vào ngồi. Kế đó hắn đi niêm phong những kho hỏa dược, súng ống, kim ngân và phái binh coi giữ. Hiện thời uy thế Thanh triều mới cường thịnh, kỷ luật trong quân rất nghiêm minh, chẳng ai dám tơ hào đụng chạm đến. Dĩ nhiên các quan lớn là bọn Vi Tiểu Bảo, Sách Ngạch Đồ càng thừa cơ phát tài. Tối hôm ấy thành nội thành ngoại giết trâu mổ cừu mở tiệc khánh chúc. Bọn Sách Ngạch Đồ hết lời tâng bốc Vi Tiểu Bảo, ca tụng Vi đại soái dụng binh như thần. Dù Tôn, Ngô phục sinh cũng không thể bì kịp.Viên Khâm sai theo hùa lên tiếng:

- Chuyến này tiểu đệ dời khỏi kinh sư, đức Hoàng thượng ân cần nhắn nhủ Vi đại soái không nên làm tổn thương nhân mạng quá nhiều. Bữa nay Vi đại soái hạ thành khắc địch dĩ nhiên là một kỳ công, nhưng tuyệt ở chỗ chẳng cần động dụng đến đao thưng kiếm kích, cung tên hỏa khí. Bên thành không một ai chết trận. Trong một ngày trời phá đại địch, hạ thành trì, mà không hao tổn một chiến tướng, một tên quân thì tự cổ chí kim chỉ có một mình Vi đại soái làm được mà thôi. Tiểu đệ nhận thấy đây là công cuộc chẳng những tiền vô cổ nhân mà còn dám chắc hậu vô lai giả nữa. Vi Tiểu Bảo nhơn nhơn đắc ý lại càng ba hoa khoác lác. Gã đáp:

- Muốn phá thành Nhã Tát Khắc sự thực không phải là việc khó, nhưng khó ở chỗ hoàng ân bát ngát, thương tiếc quân dân, mình phải giữ sao tránh được thương vong quá nhiều cho khỏi trái với tâm nguyện của Hoàng thượng. Vì thế mà tiểu đệ phải chờ tới bữa nay mới trù liệu xong kế hoạch, để Khâm sai đại thần thân hành chứng kiến: Bọn tiểu đệ vì Hoàng thượng ra sức phá giặc đoạt thành mà thành công không phải chuyện lạ. Cái khó là ở chỗ phải ngừa tuân thánh ý, thắng trận nhưng không giết người. Các tướng tuy biết gã khoe khoang khoác lác, nhưng sự thực thắng trận hạ thành mà không giết một người nào quả là một việc khó khăn hơn cả lên trời, nên ai cũng lẩm nhẩm gật đầu ra chiều rất khâm phục. Sách Ngạch Đồ nói:

- Trước công cuộc hiện đại này, Sách mỗ chỉ có thể kết luận bằng một câu: Đây là hồng phúc của Hoàng thượng, kỳ tài của Vi đại soái. Vi Tiểu Bảo cười đáp:

- Công cuộc bữa nay phải nói là từ trên xuống dưới, ai cũng đóng góp một phần công lao rất lớn. Tỷ như không được Khâm sai đại nhân và Sách đại nhân thân lâm trận thượng, ra sức đốc chiến thì bọn tiểu đệ làm sao thắng trận được dễ dàng? Khâm sai và Sách Ngạch Đồ nghe gã nói trong lòng khoan khoái lại vô cùng cảm kích. Lúc đối trận vừa rồi, hai vị văn quan này ẩn lánh ở đằng xa, chỉ sợ tênbay đạn lạc, làm gì có chuyện thân lâm trận thượng, gia sức đốc chiến? Nhưng Vi Tiểu Bảo đã tuyên bố như vậy là trong bản tâu báo tin thắng trận, họ cũng dự một phần công lớn trong vụ này. Người ta thường nói: "Rung rinh cỗ kiệu người khiêng người". Sách lễ cũng nói: "Có đi có lại mới toại lòng nhau". Vi Tiểu Bảo là một tay rất thạo nghề làm quan. Gã dâng Khâm sai một phần công lớn là được ơn mà chẳng thiệt gì cho mình. Chuyến này Khâm sai trở về Bắc Kinh, dĩ nhiên sẽ thổi phồng gã lên ở trước mặt Hoàng đế. Dù công lao gã chỉ đáng ba phần, lão cũng tăng lên mười phần. Còn những chuyện vượt ra ngoài vòng luật pháp ở trong quân, Khâm sai cùng Sách Ngạch Đồ dĩ nhiên bưng kín miệng bình. Mọi người ăn uống một lúc rồi, bộ hạ của Lâm Hưng Châu đưa bọn hàng binh La Sát vào báo cáo là chúng đã đào hố băng lôi Đồ Nhĩ Bố Thanh ra ngoài, hiện khiêng đến để dưới thềm. Lúc này Đồ Nhĩ Bố Thanh đã chết cóng từ lâu. Toàn thân hắn biến thành màu xanh xám. Vi Tiểu Bảo ngó thấy liền thở dài nói:

- Cha này đặt cái tên xúi quá! Nếu hắn không phải là Đồ Nhĩ Bố Thanh mà là Đồ Nhĩ Bố Tài thì chẳng đến nỗi chết xanh chết xám thế này mà còn phát tài nữa. Gã lại sai người lấy quan tài gỗ để thu liệm Đồ Nhĩ Bố Thanh. Đêm hôm ấy Vi Tiểu Bảo ngủ với Song Nhi ở trong ngoài phòng tại phủ Tổng đốc. Nơi đây đã có lửa đỏ hồng, lại đủ chăn đoạn đệm gấm, đầy vẻ xuân tình. Ngày trước Vi Tiểu Bảo đã vào phòng này. Cựu địa trùng du, gã mở nắp rương ở cạnh giường lên coi thấy trong rương đựng toàn quân phục cùng súng ống. Song Nhi cười hỏi:

- Phải chăng tướng công mở rương coi xem có Công chúa La Sát chui lên. Vi Tiểu Bảo cũng cười đáp:

- Nàng là Công chúa Trung Quốc, so với Công chúa La Sát còn hay hơn nhiều.Song Nhi lại cười nói:

- Đáng tiếc là Công chúa Trung Quốc của tướng công hiện ở Bắc Kinh chứ không có ở đây. Vi Tiểu Bảo hỏi:

- Hảo Song Nhi! Bữa nay chúng ta có thể coi như "Đại công cáo thành" được không? Song Nhi mỉm cười, hai má đỏ hồng. Tuy thị cùng Vi Tiểu Bảo thành vợ thành chồng đã lâu ngày, nhưng nghe trượng phu nhắc câu "Đại công cáo thành" thị vẫn bẽn lẽn. Vi Tiểu Bảo giang tay ra ôm lưng thị. Hai người sóng vai ngồi ở cạnh giường. Gã nói:

- Song Nhi giáp tấm địa đồ hao tổn rất nhiều tâm huyết. Nay chúng ta lại lấy được Lộc Đỉnh Sơn. Đức Hoàng thượng đã phong thành làm Lộc Đỉnh công, chắc ngài giao thành thành này quản thủ. Trong lòng đất dưới đây cất dấu số Kim ngân tài bảo. Chúng ta từ từ đào lên mà lấy. Ta phải đổi tên Vi Tiểu Bảo thành tên Vi Đa Bảo cho hợp. Song Nhi đáp:

- Tướng công hiện đã có rất nhiều vàng bạc, tiêu xài không hết, lấy thêm châu báu cũng bằng vô dụng. Tiện thiếp tưởng cứ là Vi Tiểu Bảo hay hơn. Vi Tiểu Bảo khẽ hôn vào má thị, nói:

- Đúng lắm, đúng lắm! Mấy bữa nay ta không quyết định được chủ ý. Nếu đào đất tìm châu báu e làm đứt long mạch nguy hại đến tính mạng tiểu Hoàng đế. Ngài là đại cữu tử mà trước nay đối đãi với ta rất tử tế. Nếu hành động của mình làm ngài chết oan thì yên tâm thế nào được? Nhưng không đào lên để lấy bảo vật thực cũng đáng tiếc. Bây giờ đành thế này vậy. Chúng ta tạm thời hoãn việc khai quật bảo tàng, chờ sau khi Hoàng thượng ngự giá thăng thiên mà chúng ta nghèo đói, khi ấy sẽ bắt đầu khai quật cũng chưa muộn... Gã vừa nói tới đây, bỗng thấy bức rèm lay động rồi trong rương gỗ bật lên những tiếng lạch cạch.Hai người đưa mắt ra hiệu với nhau, chăm chú nhìn xuống rương gỗ. Sau một lúc lâu không thấy động tĩnh gì nữa, Vi Tiểu Bảo khẽ vỗ tay ba cái. Song Nhi ra mở cửa phòng. Lập tức bốn tên thân binh chầu chực bên ngoài chạy vào khom lưng chờ lệnh. Vi Tiểu Bảo trỏ cái rương khẽ nói:

- Trong đó có người. Bốn tên thân binh giật mình kinh hãi chạy lại mở nắp rương thì chỉ thấy bên trong xếp đầy quần áo. Vi Tiểu Bảo đánh tay ra hiệu. Bọn thân binh liền bốc quần áo bỏ ra ngoài, lật đáy rương lên ngó thấy huyệt động. Giữa lúc ấy, bỗng nghe tiếng nổ rùng rợn. Một cây súng từ trong huyệt thò lên. Một tên thân binh bật tiếng la:

- úi chao! Vai gã trúng đạn, người ngả về phía sau. Song Nhi vội kéo Vi Tiểu Bảo đưa ra sau lưng để che chở cho gã. Vi Tiểu Bảo trỏ vào đống than lò lửa rồi đánh tay làm hiệu. Một tên thân binh liền tiến lại bưng lò than đổ xuống huyệt động. Trong động nổi lên những tiếng kêu rú bằng La Sát ngữ. Tiếp theo là tiếng ho sù sụ không ngớt. Vi Tiểu Bảo hô bằng tiếng La Sát:

- Quẳng súng lên trước rồi hãy chui ra. Lập tức một cây súng lục từ trong huyệt động liệng ra. Tiếp theo một tên quân La Sát thò đầu lên. Một tên thân binh nắm tóc tên quân La Sát giật ngửa về phía sau. Một tên thân binh nữa chí đao vào cổ hắn.Hàm râu tên quân La Sát đang bị lửa cháy chưa tắt. Hắn đau quá thét lên be be, lồm cồm bò ra ngoài, trông rất thảm hại. Vi Tiểu Bảo hỏi:

- ở dưới còn người nào không? Trong động có tiếng hô:

- Còn một người. Đầu hàng, đầu hàng.
 

Hoa Tử

Sưu tầm
Tham gia
24/9/19
Bài viết
10,492
Điểm cảm xúc
1,412
Điểm
113
Chương 235: Nịnh không phải đường bị quở trách
Vi Tiểu Bảo đáp:

- Liệng súng lên đi! Cửa động lấp loáng ánh bạch quang. Một thanh mã đao quăng ra. Tiếp theo một vùng lửa cháy nhô lên. Nguyên tên quân La Sát này đầu tóc đang bị cháy đỏ hồng. Đội thân binh canh giữ ngoài cửa nghe tiếng đại soái ở trong phòng quát tháo liền có một bọn chạy vào. Bảy tám tên giữ lấy hai tên quân La Sát, dập tắt lửa cháy trên râu tóc bọn chúng rồi trói lại. Đột nhiên Vi Tiểu Bảo trỏ vào một tên quân La Sát hô:

- Ô kìa! Ngươi là Vương Bát Tử Kê. Tên quân đó lộ vẻ vui mừng reo lên:

- Dạ dạ! Trung Quốc tiểu hài đại nhân! Nô tài chính là Hoa Bá Tư Cơ. Một tên nữa cũng reo lên:

- Trung Quốc tiểu hài đại nhân! Nô tài... là Tề Lạc Nặc Phu. Vi Tiểu Bảo chú ý nhìn hắn thấy hàm râu cháy xém tơi bời, mặt mũi chỗ đỏ chỗ sưng, nhưng sau gã cũng nhận ra liền đáp:

- Phải rồi! Ngươi là Trư La Nọa Phu. Tề Lạc Nặc Phu cả mừng hô:

- Đúng lắm, đúng lắm! Trung Quốc tiểu hài đại nhân! Nô tài là bạn cũ của đại nhân. Nguyên Hoa Bá Tư Cơ và Tề Lạc Nặc Phu là hai tên vệ sĩ của Tô Phi á Công chúa. Ngày trước chúng đã làm quen với Vi Tiểu Bảo ở thành Nhã Tát Khắc rồi lại cùng đi Mạc Tư Khoa. Hai tên vệ sĩ này hồi ở Liệp cung đã theo bọn lính súng làm phản lập được chút công lao. Khi Tô Phi á Công chúa lên nắm quyền quốc chính liền thăng quan cho bọn vệ sĩ hầu cận để đền công chúng đã tùy tùng và ra sức. Chuyến này có bốn tên vệ sĩ đi theo Đồ Nhĩ Bố Thanh trong cuộc Đông tiến và chúng đều làm Đội trưởng. Trong bọn một tên chết trận, một tên chết rét. Còn lại hai tên này gặp cơn binh biến, thành vỡ, lén lút chui xuống đường hầm định trốn ra ngoài thành, không ngờ cửa ra đã vít chặt. Hai tên hết đường tiến thoái rồi tung tích bị bại lộ. Ngày trước Vi Tiểu Bảo kêu chúng bằng Vương Bát Tử Kê và Trư La Nọa Phu

(Nguyên Hoa Bá Tư Cơ đọc hơi giống Vương Bát Tử Kê nghĩa là gà chết khốn nạn, Tề Lạc Nặc Phu đọc tương tự Trư La Nọa Phu nghĩa là chó lợn hèn hạ. Vi Tiểu Bảo hô tên chúng như vậy cho dễ nhớ và cũng là để chế diễu chúng). Hai tên này đâu có hiểu được ý nghĩ của Vi Tiểu Bảo, chúng vui vẻ chịu liền, hễ gọi đến tên Vương Bát Tử Kê và Trư La Nọa Phu là chạy tới ngay. Hoa Bá Tư Cơ và Tề Lạc Nặc Phu nghe Công chúa kêu Vi Tiểu Bảo là "Trung Quốc tiểu hài", ban đầu chúng cũng xưng hô gã như vậy. Sau Vi Tiểu Bảo lập được công trạng, Công chúa phong tước cho gã. Bọn vệ sĩ mới kêu gã bằng

"Trung Quốc tiểu hài đại nhân" để tỏ lòng tôn kính. Vi Tiểu Bảo hỏi rõ lai lịch rồi sai bọn thân binh cởi trói và lấy rượu thịt khoản đãi chúng. Bọn thân binh sợ dưới đường hầm còn có gian tế liền chui xuống soát hết một lượt, lại điều tra khắp mọi chỗ thì trong phòng ngoài đường hầm này không có địa đạo cùng ngõ ngách nào khác, chúng mới lui ra. Tên đội trưởng bọn thân binh sợ hãi vô cùng, luôn miệng xin tha tội. Hắn nghĩ rằng đây là cái may tầy đình... Nếu hai tên quân La Sát này chờ tới nửa đêm ở dưới đường hầm chui lên đâm chết Vi đại soái thì hắn sẽ bị toàn gia tru lục. Hôm sau Vi Tiểu Bảo kêu Hoa Bá Tư Cơ và Tề Lạc Nặc Phu ra hỏi thăm tình hình Tô Phi á Công chúa.Hai tên cho gã hay: Công chúa điện hạ nắm hết công việc triều chính. Vương công đại thần, tướng quân, chủ giáo trong toàn nước La Sát không ai dám chống cự nàng. Hai vị Sa hoàng còn nhỏ tuổi, nhất thiết đều nghe theo lời tỷ tỷ. Tề Lạc Nặc Phu còn nói:

- Công chúa điện hạ vẫn tưởng nhớ Trung Quốc tiểu hài đại nhân. Điện hạ dặn bọn nô tài tới đây dò la tin tức của đại nhân và hễ gặp đại nhân thì mời qua Mạc Tư Khoa du ngoạn, điện hạ sẽ ban thưởng cho. Hoa Bá Tư Cơ nói:

- Công chúa điện hạ chưa biết Trung Quốc tiểu hài đại nhân đem binh đến đây chinh phạt. Nếu không thì hai bên thân ái vui vẻ như tình bằng hữu. Cuộc chiến cũng không xảy ra nữa. Vi Tiểu Bảo nói:

- Các ngươi nói nhăng nói càn để lừa gạt ta. Làm gì có chuyện Công chúa dặn dò như vậy? Hai tên liền thề sống thề chết là đã nói đúng sự thực, không nửa lời sai trái. Vi Tiểu Bảo nghĩ bụng:

- Bản tâm Hoàng thượng muốn ta nghĩ cách giảng hoà cùng La Sát. Vậy ta bảo hai tên này về tâu lại với Tô Phi á Công chúa cũng chẳng hề gì. Gã nghĩ vậy liền nói:

- Ta muốn gửi thư cho Công chúa các ngươi, nhưng không biết viết chữ ngoằn ngoèo như giun bò của nước La Sát, vậy các ngươi viết giùm ta. Hoa Bá Tư Cơ và Tề Lạc Nặc Phu ngơ ngác nhìn nhau ra chiều khó nghĩ. Cả hai tên này chỉ biết cưỡi ngựa bắn súng, còn chuyện viết chữ thì chẳng hiểu gì. Tề Lạc Nặc Phu đáp:

- Trung Quốc tiểu hài đại nhân! Đại nhân muốn viết thư tình thì bọn nô tài không làm được. Để nô tài... đi kêu một vị giáo sĩ đến viết dùm cho. Vi Tiểu Bảo ưng ngay, sai chúng đi kiếm trong bọn người La Sát đã đầu hàng. Lát sau hai tên dẫn vào một vị giáo sĩ râu quai nón.Thời bấy giờ phần lớn quân nhân La Sát không biết chữ. Những giáo sĩ đi theo trong quân ngoài việc cầu đảo Thượng đế, khích lệ chiến sĩ, còn chức vụ trọng yếu là viết gia thư giùm cho các binh tướng. Vị giáo sĩ này người cao lớn lại vận quân phục của Thanh binh, áo quần chật hẹp như người đóng rọ rất tức cười. Giáo sĩ sợ run bần bật theo hai tên đội trưởng vào tham kiến Vi Tiểu Bảo. Y hô:

- Cầu đức Thượng đế ban phước lành cho Trung Quốc đại tướng quân! Đại tước gia! Cầu chúc Trung Quốc đại tướng quân toàn gia an bảo. Vi Tiểu Bảo bảo y ngồi xuống rồi nói:

- Ngươi viết cho ta một phong thư gửi đến Tô Phi á Công chúa. Giáo sĩ vâng dạ luôn miệng. Bọn thân binh đã lấy văn phòng tứ bảo để trên bàn. Giáo sĩ tay cầm bút lông, mở to giấy bản, viết chữ La Sát ngùng ngoèo. Y nhận ra cây bút lông mềm nhũn quá, nét chữ chỗ lớn chỗ nhỏ coi rất tức cười, nhưng y tuyệt nhiên không dám bình luận gì về bút mực Trung Quốc, chỉ sợ vị Trung Quốc tướng quân này nổi giận. Vi Tiểu Bảo nói: Ngươi theo lời ta đọc mà viết:

- "Sau buổi chia tay, lúc nào ta cũng tưởng nhớ Công chúa, chỉ mong lấy được nàng làm vợ..." Giáo sĩ giật bắn người lên. Tay run rẩy, ngọn bút lông chấm xuống giấy một vết mực lớn. Tề Lạc Nặc Phu đứng bên cổ vũ giáo sĩ:

- Vị Trung Quốc tiểu hài đại nhân này là người yêu của Tô Phi á Công chúa điện hạ. Công chúa điện hạ rất thương mến đại nhân. Điện hạ thường nói tình nhân Trung Quốc hay hơn tình nhân La Sát gấp trăm lần. Hắn muốn lấy lòng Vi Tiểu Bảo nên đã phóng đại ra như vậy.Vị giáo sĩ vâng dạ luôn miệng, đáp:

- Phải rồi! Phải rồi! Hơn gấp trăm lần, hơn gấp trăm lần... Trong lòng hồi hộp, văn tứ trì trệ, nhưng y không dám dừng bút nghĩ ngợi, đành dùng những câu thường nhật đã viết giùm binh tướng La Sát gửi cho vợ con hoặc tình nhân ở cố hương và toàn là những câu tha thiết về thể xác. Nào là "Có gần gũi mới thỏa lòng", nào là "Đêm qua ta lại mộng thấy mình", nào là "Hôn mình muôn ngàn cái"...v.v Vi Tiểu Bảo thấy giáo sĩ cầm bút viết như gió cuốn, rất lấy làm thỏa mãn. Gã đọc tiếp:

- "Quân La Sát của nàng chiếm đất Trung Quốc của ta và giết tróc trăm họ người Trung Quốc. Trung Quốc đại Hoàng đế tức giận vô cùng, phái ta đem quân đến đây để bắt hết bọn binh tướng của nàng xẻo từng miếng thịt nướng thành Hà Thư Ni Khắc..." Giáo sĩ lại giật mình kinh hãi, bất giác bật tiếng la:

- Trời ơi! Rồi miệng hô:

- Lạy đức Thượng đế! Lạy đức Thượng đế! Vi Tiểu Bảo đọc tiếp:

- "Nhưng ta nể mặt Công chúa, tạm thời hãy để chúng đó, chưa xẻo thịt nướng chả. Nếu nàng ưng chịu từ nay trở đi không cho quân La Sát đến xâm phạm cương giới Thanh thì ta sẽ tha hết bọn chúng. Đồng thời Trung Quốc và nước La Sát vĩnh viễn thành tình bằng hữu. Bằng nàng không chịu nghe lời, ta sẽ phái binh đến giết cho kỳ hết đàn ông La Sát, nàng không còn nam nhân để ngủ chung nữa. Nếu nàng muốn ngủ chung với nam nhân thì khắp thiên hạ chỉ có đàn ông Trung Quốc mà thôi". Giáo sĩ rất lấy làm bất phục, bụng bảo dạ:

- Trong thiên hạ ngoài đàn ông La Sát, bao nhiêu nước khác thiếu gì nam nhân, há phải riêng một Trung Quốc mới có? Câu này thật vô lý không thể viết vào được.Y lại nhận định viết thư lên Công chúa điện hạ, nhất thiết không thể hành văn một cách vô lễ. Y liền nhất quyết đổi mấy câu này vừa tỏ ra kính cẩn vừa đầy vẻ thân mật. Giáo sĩ tiên liệu vị tướng quân Trung Quốc này không biết chữ La Sát, tất chẳng khám phá ra nổi. Nhưng bản tính thận trọng, y sợ Vi Tiểu Bảo nhìn thấy chỗ sơ hở liền viết bằng chữ La Tinh. Thỉnh thoảng trên môi lại điểm một nụ cười. Vi Tiểu Bảo đọc tiếp:

- "Nay ta sai Vương Bát Tử Kê và Trư La Nọa Phu đưa phong thư này đến tay nàng, lại tặng lễ vật cho nàng nữa. Nàng muốn làm tình nhân hay là kẻ thù của ta, cái đó tự nàng quyết định lấy" Giáo sĩ còn đem mấy câu sau cùng đổi thành lời văn rất kính cẩn. Y viết:

- "Kẻ tiểu thần ở Trung Quốc lúc nào cũng nhớ đến ân thâm đức trọng của điện hạ. Nay kính cẩn dâng đồ cống vật để tỏ chút dạ trung thành. Tiểu thần còn sống ngày nào, năm nào cũng là kẻ thần hạ trung tâm bất nhị ngày ấy năm ấy của điện hạ. Tiểu thần chỉ mong lưỡng quốc hòa hợp. Những quân La Sát hiện còn ở Nhã Tát Khắc mà được trùng qui cố thủ đều là nhờ ơn đức cao dầy của điện hạ" Mấy câu sau cùng do tâm tư của giáo sĩ nghĩ ra. Y cho rằng vạn nhất cuộc nghị hòa của hai nước không thành thì y cùng bao nhiêu người La Sát đầu hàng tất phải chết vùi chết dập ở nơi tha hương đất khách, vĩnh viễn không mong gì trở về quê quán. Vi Tiểu Bảo chờ giáo sĩ viết xong, nói:

- Hết rồi! Ngươi đọc lại cho ta nghe. Giáo sĩ hai tay cầm tờ giấy đứng nghiêm trang tuyên đọc. Những chỗ nào y thay đổi vẫn đọc theo ý của Vi Tiểu Bảo. Vi Tiểu Bảo hiểu biết tiếng La Sát chẳng được bao nhiêu, gã nghe giáo sĩ đọc lại chắc là không sai trật. Gã lại tiên liệu chẳng khi nào giáo sĩ dám tự ý thay đổi lời lẽ của mình. Vi Tiểu Bảo nghe giáo sĩ đọc xong, nói:- Hay lắm! Đoạn gã lấy ấn "Phủ Viễn đại tướng quân Vi" đóng dấu son vào. Thế là phong thư này thư tình chẳng ra thư tình, công văn chẳng ra công văn, nhưng cũng xong việc. Vi Tiểu Bảo cho giáo sĩ lui ra lĩnh thưởng. Gã lại sai vị sư gia trong doanh trại bỏ thư vào bao, ngoài đề bằng chữ Trung Quốc gửi cho Tô Phi á Công chúa. Sư gia mài mực thật đặc, dầm bút cho kỹ. Hàng đầu viết:

- "Đại Thanh Quốc Lộc Đỉnh Công, Phủ Viễn Đại tướng quân Vi phụng thư". Hàng thứ hai viết:

- "Nga La Tư Quốc Nhiếp chính nữ vương Tô Phi Hà Cố Luân trưởng Công chúa điện hạ". Nguyên hai chữ "La Sát" trong kinh Phật là một thứ quỷ dữ, nếu dùng để xưng hô nước Nga là có điều khinh mạn, nên trong văn thư kêu bằng "Nga La Tư". Sư gia lại nhận thấy ba chữ "Tô Phi á" không được thuần nhã và chữ "Phi" nghĩa là phất phơ khiến cho người ta tưởng đến câu "Phương thảo phi phi" nghĩa là cỏ thơm phất phơ, tựa hồ có ý chê toàn người nàng đầy những lông lá, nên y đổi là "Tô Phi Hà" (Phi Hà là ráng chiều bay). Y dùng điển cố trong câu "Lạc hà dữ cô tế tề thí" nghĩa là ráng chiều bay song song với chim trĩ. Lại có câu "Phi hà phát diện" tả cảnh đẹp ráng bay trước mặt. Còn "Cố Luân trưởng Công chúa" là một phong hiệu rất tôn quý của một vị Công chúa Thanh triều. Em gái Hoàng đế kêu bằng trưởng Công chúa. Con gái Hoàng đế là cười. Tô Phi á đã làm đến Nhiếp chính, lại là tỷ tỷ của hai vị Sa hoàng, dĩ nhiên nàng là Công chúa hàng đầu. Lại nghe Vi Tiểu Bảo cười nói:

- Giữa ta và nàng Công chúa La Sát này đã có mối liên quan. Mấy năm chưa gặp, không hiểu tình trạng nàng hiện nay như thế nào?Tên sư gia liền viết vào mặt sau bao thư hai hàng chữ:

- "Phù hòa Nhung Địch, quốc chi phước dã. Như nhạc chi họa vô sở bất tài. Thỉnh dữ tử lạc chi". Y nghĩ bụng:

- Những câu này lấy trong sách Tả Truyện, nhưng La Sát là một nước Nhung Địch chưa chắc đã hiểu được những câu trong kinh truyện nước Trung Hoa. ý nghĩa ở hai câu song quan lại càng khó hơn. Thực ra chẳng những "Cố Luân trưởng Công chúa nước Nga La Tư" quyết chẳng thể nào hiểu được ý nghĩa sâu sắc về những chữ Trung Quốc này, mà cả đến "Đại Thanh quốc tam đẳng Lộc Đỉnh Công, Phủ Viễn đại tướng quân Vi Tiểu Bảo" thì ngoài ba chữ tên mình và hai chữ "Đại", "Tiểu" là gã mù tịt. Vi Tiểu Bảo thấy sư gia viết trên bao thư đầy những chữ là chữ, liền nói:

- Đủ rồi! Đủ rồi! Ngươi viết chữ hay lắm! Hay hơn cả tên rậm râu nước La Sát. Gã lại dặn sư gia chuẩn bị một món lễ vật quý trọng mà là những đồ đã thu được ở trong thành Nhã Tát Khắc, chứ không tốn một đồng một chữ nào. Vi Tiểu Bảo kêu hai tên Hoa Bá Tư Cơ và Tề Lạc Nặc Phu đến, truyền cho chúng lựa lấy một trăm người trong bọn hàng binh La Sát để làm vệ đội và lập tức đăng trình về Mạc Tư Khoa đưa thư. Hai tên đội trưởng mừng như bắt được vàng, sì sụp lạy mãi không ngớt. Chúng lại kéo tay Vi Tiểu Bảo ra mà hôn vào lưng bàn tay gã rất lâu. Vi Tiểu Bảo bị hàm râu của hai tên đội trưởng xát vào lưng bàn tay ngứa ngáy không chịu được, gã bật lên tràng cười hơ hớ. Thành Nhã Tát Khắc nhỏ bé không đủ chỗ để cho đại quân đồn trú. Vi Tiểu Bảo liền cùng Khâm sai và Sách Ngạch Đồ thương nghị việc đóng quân. Gã phái Lang Thản, Lâm Hưng Châu lĩnh hai nghìn quân ở lại trong thành phòng thủ. Còn đại quân kéo xuống miền Nam chia ra đóng ở hai thành ái Huy và Hô Mã Nhi để chờ đợi thánh chỉ. Đồng thời phái kỵ binh chạy về Bắc Kinh báo tin thắng trận lên Hoàng đế.Lúc ra đi, Vi Tiểu Bảo căn dặn hai tướng Lang Thản và Lâm Hưng Châu không được đào giếng hay đào đường hầm trong thành Nhã Tát Khắc. Đại quân rầm rộ nhằm hướng Nam tiến phát. Vi Tiểu Bảo cung bọn Sách Ngạch Đồ, Bằng Xuân đóng ở ái Huy. Tát Bố Tố lãnh một cánh quân đóng ở Hô Mã Nhi. Vi Tiểu Bảo nhàn rỗi không có việc gì làm, chỉ uống rượu đánh bạc vui chơi, bất tất phải tường thuật. Gã sai hàng binh La Sát mặc quân phục Thanh binh và phái người dạy tiếng Trung Hoa, cần cho chúng thuộc lòng những câu "Nga hoàng vạn tuế, vạn tuế, vạn tuế"... "Trung Quốc Hoàng đế đức bì tứ hải, uy chấn tuyệt vực"... "Vạn tuế gia thần thánh văn võ, Hoàng ân hạo đăng"... "Thánh Thiên tử vạn thọ vô cương"... Đó toàn là những câu cầu chúc và phụng sự nhà Vua. Sau khi bọn hàng binh La Sát thuộc kỹ những câu này rồi, Vi Tiểu Bảo phái binh đưa chúng về Bắc Kinh và dặn chúng khi đi qua những đường phố tại kinh thành phải hô lớn những khẩu hiệu đã thuộc kỹ. Nhất là lúc vào triều kiến Vua Khang Hy càng phải hô thật lớn. Gã bảo chúng: Tên nào hô càng lớn, đức Hoàng thượng càng ban thưởng nhiều. Sau hơn một tháng, Vua Khang Hy ban chiếu thư đến khen ngợi nhiệt liệt các tướng sĩ xuất chinh. Vi Tiểu Bảo được thăng tước Nhị Đẳng Lộc Đỉnh Công. Kỳ dư các tướng sĩ đều được thăng thưởng. Viên Khâm sai truyền chỉ lại giao cho Vi Tiểu Bảo một cái hộp gỗ niêm phong sơn đỏ nói là của đức Hoàng thượng ngự tứ. Vi Tiểu Bảo dập đầu tạ ơn, mở hộp gỗ coi, gã không khỏi ngẩn người. Nguyên trong hộp gỗ đựng một cái bát ăn cơm bằng Hoàng kim, trong bát khắc bốn chữ "Gia quan tấn tước" phảng phất giống như cái bát mà Thi Lang đã tặng gã ngày trước. Có điều những hoa văn và tự tích bị sây sứt thì đã được tu bổ hoàn chỉnh.Vi Tiểu Bảo nhớ lại cái bát vàng này ngày trước để ở Bá Tước phủ trong hẻm Đông Mạo. Đêm hôm ấy, gã hoang mang chạy trốn không kịp đem theo. Sau khi ngẫm nghĩ hồi lâu, gã hiểu liền ra lý lẽ. Đêm hôm ấy chắc là sau khi nổ súng bắn vào Bá Tước Phủ, đội quân Tiền Phong Doanh nhặt nhạnh những đồ vật còn lại, cả những thứ bị sứt mẻ cũng kê vào thành đơn phúc trình Hoàng thượng. Cái bát vàng này tuy đã vỡ nhưng chưa đến nỗi tan tành. Nhà Vua liền sai thợ hàn gắn lại và bây giờ ban cho gã. Dĩ nhiên nhà Vua muốn nhắn nhủ gã: Cái bát vàng gã đã bị sứt mẻ một lần, phen này phải giữ gìn cẩn thận đừng để nó phải tan tành. Vi Tiểu Bảo nghĩ vậy rồi tự nhủ:

- Tiểu Hoàng đế đã dùng nghĩa khí đối đãi với ta thì ta cũng phải có đi có lại, không đào hầm hố để khỏi tổn thương long mạch mà gây tai hại đến vận mạng của ngài. Qua mười mấy bữa nữa, Vua Khang Hy lại ban thượng dụ tới nơi. Lần này ngài nặng lời quở trách, phán rằng: Vi Tiểu Bảo có những hành động phá quấy vì gã bắt hàng binh La Sát hô khẩu hiệu "Vạn thọ vô cương" là một điều rất đáng buồn. Trong thượng dụ nói:

- "Bậc nhân quân giữ việc chăn dắt nhân dân phải thể theo lòng trời, thương yêu bách tính".

"La Sát tuy là nước Man Di, xa với vương hóa, nhưng dân tộc nước này cũng là người. Chúng đã quy thuận hàng phục, thì không thể khinh nhờn vũ nhục họ được".

"Ngươi đã làm đại thần nên can gián quân thượng những điều tàn tệ, thi hành nhân chính tới muôn dân".

"Nếu trẫm có ơn huệ với trăm họ thì dù chẳng sống lâu cũng là bậc minh quân. Bằng trẫm kiêu sa tàn bạo thì "Vạn thọ vô cương" chỉ tổ làm khổ thiên hạ".

"Kẻ đại thần xu nịnh quân thượng, đưa chúa vào hành vi bất đức là tội nặng lắm. Ngươi phải nhớ mà răn mình".Chuyến này Vi Tiểu Bảo bợ đít ngựa mà lại vỗ vào chân để nó đá hộc máu mồm. Nếu ở địa vị người khác tất lấy vụ này làm lo âu, buồn bã. May ở chỗ gã là kẻ mặt dầy, vẫn chẳng quan tâm. Trước mặt quan Khâm sai truyền chỉ, gã tự mắng mình tội thật đáng chết, nhưng trong lòng lại tự nhủ:

- Trong thiên hạ còn ai là người không ăn phỉnh? Nhất định vụ này bọn quân La Sát thốt lời Trung Quốc không được hoàn hảo, khiến tiểu Hoàng đế nghe chẳng ra sao nên mới bực mình. Gã liền kêu mấy tên sư gia đã dạy Hoa ngữ cho bọn quân La Sát đến thống mạ một hồi. Sau đó gã lại cùng bọn chúng mở cuộc đánh bạc. Gã gieo mấy bàn xúc xắc rồi là bao nhiêu lời huấn giới của Nhà Vua bay lên chín tầng mây hết. Thì giờ thấm thoát, đông qua xuân tới, Vi Tiểu Bảo ở thành ái Huy tuy được nhàn hạ, nhưng thường thường nhớ tới bọn A Kha, Mộc Kiếm Bình mấy người thê tử. Thỉnh thoảng gã lại sai thân binh đưa đồ về nhà. Sáu vị phu nhân cũng gửi ra y phục cùng phẩm vật. Ai cũng biết gã không hiểu chữ nghĩa nên không gửi gia thư mà chỉ dặn lời là trong nhà đều bình yên cả, mong mỏi Đại soái ca khúc khải hoàn về kinh cho sớm. Một hôm, có thượng dụ ban ra, khâm mạng cho Vi Tiểu Bảo và Sách Ngạch Đồ làm những đại thần trong cuộc nghị hòa để cùng sứ thần nước La Sát kiềm đính hòa ước. Trong kinh còn phái đến bốn nhân vật giúp đỡ công cuộc này là Hán quân Hoàng Kỳ Đô thống Đông Quốc Cương, Hộ quân thống lĩnh Mã Lạt, Thượng thư A Nhĩ Ni và Tả đô Ngự sử Mã Tề. Đông Quốc Cương tuyên đọc thượng dụ xong, lại lấy ra một đạo công văn đọc tiếp. Đạo công văn này là Quốc thư của hai vị Sa hoàng La Sát gửi lên Vua Khang Hy. Tờ quốc thư đã do hai vị truyền giáo sĩ người Hà Lan ở Bắc Kinh dịch ra Hán văn. Bức quốc thư như sau:"Cẩn phụng thượng: Đức Đại thánh Hoàng đế. Ngồi chơi hoa hạ, ảnh hưởng bao trùm hoàn vũ, hướng dẫn tôi hiền trong cuộc phân chia cương thổ, cai trị muôn dân. Trung Quốc gồm thâu Mãn Hán, oai danh lừng lẫy bốn Phương. Nguyên tiền triều A Liệt Khắc Tịch Mễ Hàn ở hạ quốc đã phái bọn Ni Quả Lai qua thiên triều mưu việc giao hảo cho hai nước. Kẻ sứ thần không am tường điển lễ Trung Quốc, cử chỉ có điều thô lỗ, ngữ ngôn lại thiếu văn hóa, đành trông vào đức độ khoan hồng của thượng quốc. Cả việc ca tụng Hoàng đế cũng không khỏi phạm vào thất thể, vì hạ quốc ở nơi hẻo lánh xa xăm, vương hóa khó bề phổ cập. May mà thượng quốc cũng không hạch tội. Ngày trước Hoàng đế đã gửi quốc thư, nhưng hạ quốc không ai biết chữ, chẳng hiểu thánh ý ra sao. Sau bọn Ni Quả Lai trở về, Hạ quốc hỏi ra mới biết thượng quốc chất vấn về vụ bọn Cán Đặc Mộc Nhĩ bôn đào qua hạ quốc. Trong quốc thư còn đề cập đến những việc quấy nhiễu biên thùy. Mới đây hạ quốc được tin Hoàng đế hưng binh đến vùng biên cảnh, khiến tình giao hảo hai bên bị tổn thất. Nếu dân gian hạ quốc ở chốn biên cương quả đã gây hấn làm càn thì thiên triều chỉ cần minh thị là hạ quốc bắt về nghiêm trị ngay, hà tất phải dấy động can qua? Nay hạ quốc phụng tiếp chiếu chỉ mới rõ đầu đuôi, liền hỏa tốc hạ lệnh cho tướng sĩ không được giao binh. Cung thỉnh thiên triều minh xét những tên nào đã gây họa loạn để hạ quốc đem ra chính pháp. Ngoài việc phái sứ thần quyết định biên giới, hạ quốc lại sai bọn Phật Nhi Ngưu Cao, Nghi Phiên, Pháp Nga La Ngõa mang thư đi suốt ngày đêm để dâng thượng quốc.Xin thiên triều rút cuộc bao vây Nhã Tát Khắc. Nếu còn xẩy chuyện lôi thôi, cứ phái sứ thần đưa thư hiểu dụ là hai nước vĩnh viễn giữ cuộc hòa mục. Một vị đại thần ở thượng quốc là Vi Tiểu Bảo các hạ năm trước có quen biết Hoàng tỷ ở hạ quốc là Nhiếp Chính Nữ Vương Tô Phi á điện hạ. Vi đại nhân lại tới kinh thành Mạc Tư Khoa giúp việc dẹp loạn lập nên công lớn ở hạ quốc. Đây thật là một ơn huệ của thượng quốc ban cho. Chúa tôi hạ quốc không bao giờ quên ơn đức này. Kính dâng trọng lễ trên Đại thánh Hoàng đế bệ hạ. Thứ nhì là trọng lễ phụng tặng Vi Tiểu Bảo đại thần các hạ, để tỏ lòng thành tín hòa mục của hạ quốc". Đông Quốc Cương đọc quốc thư rồi, sư gia liền đem những ý tứ trong thư giải thích cho Vi Tiểu Bảo cùng chúng tướng nghe. Đây là một thông lệ ở trong quân, vì những văn thư qua lại thường gặp chữ

nghĩa sâu xa khó hiểu mà số đông binh tướng lại không biết chữ. Dù nhiều người đã đọc sách mấy năm, nhưng kiến thức vẫn còn kém cỏi. Những văn kiện trong quân quan hệ đến quân cơ đại sự, nếu xảy chuyện hiểu lầm sẽ đưa tới hậu quả cực kỳ nghiêm trọng. Vì thế mà quân chế nhà Mãn Thanh phải đặt sư gia vào việc giải thích văn thư. Đông Quốc Cương nói:

- Vị Nhiếp Chính Nữ Vương La Sát vẫn nhớ mối tình cố cựu với Vi đại soái, đưa tặng rất nhiều lễ vật. Đức Hoàng thượng phải tiểu đệ đêm hết tới đây để giao lại cho đại soái thu nhận. Vi Tiểu Bảo chắp tay đáp:

- Đa tạ, đa tạ! Gã nói tiếp:

- Người La Sát không hiểu lễ tiết, chẳng nhún mình là lòng thành lễ bạc lại khoe khoang đồ lễ quý trọng. Phần lễ trọng nhất dâng lên Hoàng thượng, còn phần lễ trọng thứ hai gì đó đưa tặng tiểu đệ. Họ nói thế mà không sợ người ta cười cho. Đông Quốc Cương nói:- Vi đại soái phái quân giải bọn người đầu hàng nước La Sát về kinh thành, đức Hoàng thượng thân hành thẩm vấn. Ngài phát giác trong bọn tiểu tốt có một vị đại quan La Sát trà trộn vào... Vi Tiểu Bảo "ủa" lên một tiếng, nhảy bổ lên hỏi:

- Có chuyện đó ư? Đông Quốc Cương đáp:

- Người này thật giảo quyệt! Hắn trà trộn vào trong đám tiểu tốt, nhất thiết không động thanh sắc, hôm ấy Hoàng thượng thẩm vấn bọn người đầu hàng đã sai một vị giáo sĩ Hà Lan làm thông ngôn. Sau Hoàng thượng nói mấy câu Lạp Đinh (La Tinh) với giáo sĩ. Trong bọn người La Sát đầu hàng có một tên tiểu binh đột nhiên lộ vẻ khác lạ. Hoàng thượng liền hỏi có phải hắn hiểu tiếng Lạp Đinh không, nhưng hắn chỉ lắc đầu. Hoàng thượng lại dùng tiếng Lạp Đinh ra lệnh: •Đem tên tiểu binh này ra chém đầu!•. Hắn sợ hãi thất sắc, quỳ xuống năn nỉ xin tha và thú nhận có hiểu tiếng Lạp Đinh. Vi Tiểu Bảo hỏi:

- Tiếng Lạp Đinh là thế nào? Có phải người La Sát khi lôi bọn tráng đinh đi vận tải quân nhu thì nói thứ tiếng này? Sao Hoàng thượng lại hiểu được ngôn ngữ đó? Đông Quốc Cương đáp:

- Tiểu đệ cũng không hiểu đạo lý vụ này. Khi nào đại soái có dịp bái kiến Hoàng thượng khẽ dập đầu xin ngài giải thích cho. Vi Tiểu Bảo gật đầu hỏi:

- Hoàng thượng xử trí với hắn ra sao? Đông Quốc Cương đáp:

- Người đó không thể dấu diếm được, phải thổ lộ hết chân tình. Tên hắn là á Nhĩ Thanh Tư Cơ, làm Đô tổng quản hai thành Ni Bố Sở và Nhã Tát Khắc. Mọi người nghe nói không khỏi giật mình kinh hãi, bất giác •ủa• lên một tiếng.Vi Tiểu Bảo hỏi:

- Thế ra chức quan của thằng cha đó lớn lắm ư? Đông Quốc Cương đáp:

- Phải rồi! Những quan chức mà nước La Sát phái đến mặt Đông, địa vị hắn lớn hơn hết. Hôm thành Nhã Tát Khắc bị hạ, hắn cải trang làm tên tiểu tốt nên không ai nhận ra được. Vi Tiểu Bảo lắc đầu cười nói:

- Ngày hạ thành Nhã Tát Khắc thì người La Sát từ Đại tướng cho đến tiểu tốt, từ quan lớn cho đến quan nhỏ, nhất thời đều bị lột trần như nhộng. Ngó lui ngó tới ai cũng như ai, trong mình chẳng còn tý gì để phân biệt. Như vậy thì vụ này không nhận ra tên đại quan La Sát này cũng không phải là lỗi ở bọn tiểu đệ. Chúng tướng nổi lên tràng cười ha hả. Mọi người liền thuật lại tình hình hôm đánh phá thành Nhã Tát Khắc cho Đông Quốc Cương nghe. Đông Quốc Cương cười nói:

- Té ra là thế. Như vậy quả không trách ai được. Lão lại kể tiếp:

- Đức Hoàng thượng phán: Vi Tiểu Bảo bắt được Đô tổng quản của nước La Sát trông coi hai thành Ni Bố Sở và Nhã Tát Khắc là một công trạng rất lớn. Đáng tiếc y tưởng người này cũng là tên tiểu tốt tầm thường. Y đã phạm vào tội làm việc hồ đồ, vậy công kia chuộc lại lỗi này là xong. Việc đó thành ra vô thưởng vô phạt. Vi Tiểu Bảo nói:

- Đức Hoàng thượng cầm cân nảy mực rất đúng. ¥n điển của ngài khiến cho bọn nô tài chúng tôi muôn vàn cảm kích. Đông Quốc Cương nói:

- Đức Hoàng thượng thẩm vấn á Nhĩ Thanh Tư Cơ liên tiếp sáu ngày liền. Chẳng những ngài biết hết về quân chính đại sự nước La Sát, mà cả việc phân chia cương vực, phong tục tập quán, thổ sản địa Phương ngài cũng hiểu rõ một cách tỷ mỷ. Đức Hoàng thượng của chúng ta quả được trời ban cho tài trí thông minh khác đời. Ngài chỉ biết qua thái độ của á Nhĩ Thanh Tư Cơ mà phát hiện ra chuyện bí mật. Lão nhìn Vi Tiểu Bảo vừa cười vừa nói tiếp:

- Theo lời Vi đại soái thì á Nhĩ Thanh Tư Cơ lúc bị bắt cũng thân thể trần truồng như mọi người. Ai ngờ hắn vẫn dấu được văn kiện bí mật.
 

Hoa Tử

Sưu tầm
Tham gia
24/9/19
Bài viết
10,492
Điểm cảm xúc
1,412
Điểm
113
Chương 236: Trai La Sát toàn là đồ bỏ
Vi Tiểu Bảo tức mình thóa mạ:

- Tổ bà nó! Thằng cha á Nhĩ Tử Kê gì đó quả là quỷ kế đa đoan. Lần sau còn gặp hắn phải xét kỹ mới được. Văn kiện bí mật hắn dấu ở chỗ nào? Đông Quốc Cương đáp:

- Bọn người La Sát đầu hàng trước khi vào triều kiến Hoàng thượng dĩ nhiên đã bị bọn Ngự tiền thị vệ lục soát trong mình rất kỹ. Người ta moi móc cả trong túm râu, mớ tóc. Chúng còn phải tụt giầy cởi quần để thị vệ khám xét không sót một chỗ nào. bọn người Phiên bang lòng dạ hiểm sâu khôn lường! Chỉ sơ hở một chút để chúng mang lợi khí trong mình thì nguy hiểm vô cùng!... Lão dừng lại một chút rồi tiếp:

- Tên á Nhĩ Thanh Tư Cơ này dĩ nhiên cũng bị lục soát như ai. Trong người hắn chẳng có vật gì. Nhưng đức Hoàng thượng rất tinh tế. Ngài thấy trên vai bên phải hắn cao gồ lên một chút. Thỉnh thoảng hắn lại liếc mắt nhìn vào chỗ đó. Hoàng thượng liền hỏi hắn: Trên cánh tay có vật gì. á Nhỉ Thanh Tư Cơ kéo tay áo lên. Cánh tay hắn buộc băng vải thật dày. Hắn nói là đã bị thương ở Nhã Tát Khắc. Vi Tiểu Bảo hỏi:

- Hắn dấu văn kiện trên vai hay sao? Đông Quốc Cương kể tiếp:

- Hoàng thượng bảo hắn tiến gần lại rồi bóp mạnh cánh tay hắn một cái. á Nhĩ Thanh Tư Cơ la lên một tiếng "úi chao!" nhưng tiếng la không lộ vẻ gì đau đớn... Vi Tiểu Bảo bật cười nói:

- Thú thật! Tên quỷ La Sát này giả vờ bị thương rồi. Đông Quốc Cương nói:

- Nhất định là thế, Hoàng thượng liền sai thị vệ cởi bỏ băng quấn trên cánh tay hắn ra. Lập tức mặt hắn tái mét, toàn thân run bần bật. Đông Quốc Cương nói tới đây, nhìn Vi Tiểu Bảo hỏi:

- Vi đại soái! Đại soái thử đoán xem á Nhĩ Thanh Tư Cơ đã dấu vật gì dưới lần băng đó? Vi Tiểu Bảo đáp:

- Khâm sai vừa nói trong người hắn có văn kiện bí mật, phải chăng là cái đó? Đông Quốc Cương vỗ tay cười nói:

- Chính thị! Trách nào Hoàng thượng thường khen ngợi đại soái rất thông minh, quả nhiên đoán việc gì cũng trúng. á Nhĩ Thanh Tư Cơ dấu một văn kiện bí mật dưới lần băng tay kia. Văn kiện này là một đạo mật dụ của Sa hoàng nước La Sát hửi cho hắn. Đông Quốc Cương kể tiếp:

- Hoàng thượng liền gọi giáo sĩ Hà lan dịch văn kiện đó ra Hán văn. Bản sao tiểu đệ có đem tới đây. Lão nói rồi lấy bản văn kia ra lớn tiếng đọc:

- "Ngươi nên nói cho Hoàng đế Trung Quốc biết rằng:"

"Nga Hoàng bệ hạ thống lĩnh toàn bộ Đại Nga La Tư, Tiểu Nga La Tư, Bạch Nga La Tư, độc tài đại quân chủ Hoàng đế cùng đại vương kiêm trị nhiều nước, quyền oai rất lớn bao trùm cả những nước xa xôi. Rất nhiều quân vương các nước đã được đặt dưới quyền thống trị tối cao của Đại Hoàng đế bệ hạ."

"Vậy Hoàng đế Trung Quốc cũng nên cầu khẩn được lĩnh ơn huệ của Đại Hoàng đế bệ hạ như toàn bộ Đại Nga La Tư, Tiểu Nga La Tư, Bạch Nga La Tư. Đại Hoàng đế bệ hạ sẽ hết lòng bảo vệ cho Hoàng đế Trung Quốc được hưởng hoàng ân bát ngát và giữ cho địch nhân khỏi xâm phạm cương thổ. Hoàng đế Trung Quốc chỉ phải triều cống Đại quân chủ bệ hạ là vĩnh viễn bình yên vô sự"

"Ngoài ra Đại Hoàng đế bệ hạ còn ưng chuẩn cho những thuộc quốc được doanh thương tự do ở Trung Quốc."

"Ngược lại, Trung Quốc Hoàng đế cũng chuẩn cho sứ thần của Đại Hoàng đế bệ hạ được đi lại không bị cản trở.""Ngươi lấy thư phúc đáp của Hoàng đế Trung Quốc đưa về trình Đại Hoàng đế bệ hạ." Đông Quốc Cương cứ đọc một câu là Vi Tiểu Bảo lại mắng một tiếng:

- Thối lắm! Lão đọc hết bản mật dụ, không hiểu Vi Tiểu Bảo đã mắng bao nhiêu câu

"thối lắm!". Đông Quốc Cương lại nói:

- Hoàng thượng phán rằng: Người La Sát dã tâm bồng bột, lại cực kỳ vô lễ! Vị Hoàng đế La Sát ra đạo mật dụ này là phụ thân của hai vị Sa hoàng hiện nay. Vị Hoàng đế kia đã chết rồi. Khi ấy họ chưa hiểu người Trung Quốc ta lợi hại nên mới coi thường. Nhưng hiện nay người La Sát đã nếm mùi đau khổ, chắc không dám càn rỡ như trước nữa. Có điều khi nghị hòa cùng chúng, ta cần phải vừa cương vừa nhu, chớ có khinh suất. Vi Tiểu Bảo nói:

- Đúng thế! Hoàng thượng đã dặn dò như vậy thì chúng ta cứ việc tát vào mặt, đá đít bọn chúng. Đồng thời còn đập vai, sửa lưng chúng nữa. Đông Quốc Cương nói:

- Vị nữ Nhiếp Chính Vương La Sát cũng giảo quyệt vô cùng! Y giả vờ không biết thành Nhã Tát Khắc đã bị chúng ta hạ rồi, nói là hạ lệnh cho binh tướng La Sát không được giao phong với quân ta. Nhưng y đã khôn lại không ngoan, trong quốc thư để lòi đuôi ở câu: Xin Hoàng thượng trả những người La Sát bị bắt về cho họ chính pháp. Vi Tiểu Bảo cười đáp:

- Đâu có chuyện dễ dàng thế được? Y tặng cho tiểu đệ mấy tấm da điêu, vài viên bảo thạch mà bảo là trọng lễ thứ nhì để đòi thả quân binh của y mà được ư? Đông Quốc Cương nói:- Hoàng thượng dặn bảo: Người La Sát đã cầu hòa thì mình nghị hòa với họ cũng không sao, nhưng chúng ta phải đem đại quân đi để họ cùng ký điều ước

"thành hạ chi minh". Vi Tiểu Bảo hỏi:

- Thành hạ chi minh là cái gì? Đông Quốc Cương đáp:

- Hai nước giao binh. Đại quân bên ta vây thành trì Phiên bang. Phiên bang xin hòa. Ta cùng họ ký hòa ước ở dưới chân thành. Cái đó kêu bằng "thành hạ chi minh". Phiên bang tuy không đầu hàng, nhưng thế là đã nhận thua. Vi Tiểu Bảo nói:

- à thì ra thế. Thực tình chúng ta ra quân hạ Ni Bố Sở cũng chẳng khó gì. Đông Quốc Cương đáp:

- Hoàng thượng phán bảo: Muốn thắng mấy trận nữa, kể ra mình đã nắm vững, nhưng La Sát là một nước lớn trên thế giới hiện nay, có rất nhiều nước nhỏ bị đặt dưới quyền thống trị. Nếu bọn họ thua xiểng liểng ở mặt Đông thì oai phong bị tổn thương rất lớn, khiến cho những nước nhỏ thuộc quyền bất phục. Trường hợp này mà xảy ra, tất La Sát phải kéo đại quân đến báo thùm gây nên nạn binh hỏa lâu dài, lại đưa đến nỗi cừu địch khó bề thu thập, chẳng biết bao giờ mới kết thúc... Lão dừng lại một chút rồi tiếp:

- Đức Hoàng thượng đã thẩm vấn á Nhĩ Thanh Tư Cơ và biết rằng phía Tây nước La Sát có một nước lớn nữa là nước Thụy Điển. La Sát và Thụy Điển đang lâm vào tình trạng căng thẳng, chỉ va chạm thêm một chút là chiến tranh bùng nổ. Nếu La Sát bị cả hai mặt Đông Tây giáp công tất phải điên đầu. Chúng ta nhân cơ hội này ký hòa ước với La Sát là chiếm phần tiện nghi nhiều lắm. ít ra mình khỏi lo về mặt Bắc và giữ được thái bình hàng trăm năm. Vi Tiểu Bảo sau mấy trận đại thắng, những muốn thừa thế xông lên tấn công hạ thành Ni Bố Sở. Gã nghe nói Hoàng thượng thuận cho La Sát cầu hòa, không khỏi cụt hứng. Đây là quyết sách của Hoàng đế thì gã muốn "ngồi trong cái gì đểquyết thắng ra ngoài cái gì" cũng đành đình chỉ, vì chẳng khi nào kẻ vi thần dám chống lại mệnh lệnh của Nhà Vua. Rồi gã lại nghĩ:

- Lão là mẫu cửu của Hoàng thượng, đồng thời cũng là mẫu cửu của cô vợ ta. Kể theo vai vế, lão là trưởng bối trên ta một bậc. Mặt khác lão là Nhất Đẳng Công, còn ta vừa mới được thăng Nhị Đẳng Công. Thế mà chuyến này đi nghị hòa với La Sát, Hoàng thượng lại phái lão làm phó cho ta, là ngài nể mặt ta lắm. Gã nghĩ tới chi tiết đó, trong lòng rất lấy làm đắc ý. Nguyên phụ thân của Đông Quốc Cương là Đông Đồ Lại. Đông Đồ Lại là phụ thân của Hiếu Khang Hoàng hậu, mẹ Vua Khang Hy, cũng dòng Hán tộc. Vì thế mà người ta nói huyết thống Vua Khang Hy nửa phần là Mãn, nửa phần là Hán. Hiện nay, Đông Đồ Lại chết rồi. Đông Quốc Cương tập ấm được phong làm Nhất Đẳng Công. Ngày trước Đông Đồ Lại lập được nhiều quân công lừng lẫy, oai danh rất lớn, nhưng Vi Tiểu Bảo nhận thấy lão rất dở. Gã lẩm bẩm:

- Đồ Lại! Đồ Lại! Đồ Lại nghĩa là chỉ chực cãi cối. Cái đó thuyết minh hễ lão thua bạc là cãi cối. Đường đường một vị quốc trượng, sao lại chơi kiểu đó? Tối hôm ấy, sau bữa tiệc tiếp phong, các đại thần theo lời đề xướng của Vi Tiểu Bảo mở cuộc đánh bạc. Đông Quốc Cương thua bạc liền lấy ngân phiếu sáu trăm lạng ra trả đàng hoàng và thản nhiên như không, chẳng cãi cối chi hết. Vi Tiểu Bảo thấy lão chơi sòng phẳng, không giống phong độ của ông bố, gã không khỏi ngạc nhiên. Khi về phòng lên giường ngủ, gã chợt tỉnh ngộ, bụng bảo dạ:

- Tên lão này là Đông Cốt Quang (Quốc Cương gã đọc trạnh thành Cốt Quang) đã chứng minh lão đánh bài thua mà vẫn quang minh lỗi lạc. Vậy đổ tính của lão rất tốt, ta nên kết bạn với lão. Hôm sau, Vi Tiểu Bảo cùng các đại thần thương nghị quốc sự. Các quan đều nói: Ta đã cùng đối phương sắp ký hòa ước "thành hạ chi minh" vậy nên dẫn đạiquân đến trước chờ họ tức là kế "dĩ dật đãi lao" (Mình nhàn rỗi đối với bên kia nhọc mệt). Vi Tiểu Bảo khen phải. Gã liền phát tướng lệnh cho hai cánh quân đống ở ái Huy và Hô Mã Nhĩ nhắm thành Ni Bố Sở tiến phát. Cuộc hội sư sẽ diễn ra ở dưới chân thành này. Hiện thời đã hết xuân sang hạ, băng rữa tuyết tan, khí trời ấm áp. Việc tiến quân rất phương tiện. Một hôm đại quân đi tới bờ sông Hải Lạp Nhĩ, đội tiên phong báo cáo có toán quân La Sát nhỏ xin ra mắt đại soái. Vi Tiểu Bảo truyền cho vào. Hai tên đội trưởng toán quân này là Hoa Bá Tư Cơ và Tề Lạc Nặc Phu. Vi Tiểu Bảo cả mừng nói:

- Hay lắm! Hay lắm! Té ra là Vương Bát Tử Kê và Trư La Nọa Phu. Hai người khom lưng thi lễ xong, đệ trình bức thư phúc đáp của Tô Phi á Công chúa. Vị giáo sĩ La Sát vẫn còn lưu lại trong quân trướng để phòng khi có việc dùng đến. Vua Khang Hy cũng sai một giáo sĩ Hà Lan đến giúp việc trong công cuộc kiềm đính hòa ước. Vi Tiểu Bảo truyền cho cả hai vị giáo sĩ vào trong trướng để họ phiên dịch phúc thư của Công chúa. Giáo sĩ La Sát ngày trước đã thay đổi nguyên ý trong bức thư tình của Vi Tiểu Bảo, lúc này trong lòng rất là hồi hộp. Y chỉ sợ trong phúc thư của Công chúa sẽ lòi ra những điều không ăn khớp với bức thư kia. Y vội cầm lấy bức phúc thư coi hết một lượt, chẳng thấy chỗ nào đáng ngại mới yên lòng. Y liền đem văn tự La Sát trong thư dịch ra chữ La Tinh. Kế đó vị giáo sĩ Hà Lan lại dịch sang Hoa ngữ. Trong thư nói: Từ buổi chia tay ta hằng tưởng nhớ. Mong rằng sau khi ký hòa ước, Vi Tiểu Bảo qua Mạc Tư Khoa một chuyến để tự sự tình cố nhân. Vi Tiểu Bảođược quân thượng hai nước cùng có lòng sủng ái, vậy nên giải thích những chỗ hiểu lầm cho đôi bên, hầu tiêu trừ mọi xích mích, xây dựng nền hòa hảo muôn đời trong lưỡng quốc. Trong thư còn nói:

- Trung Hoa và La Sát một nước ở mé Đông, một nước ở phương Tây đều là nước lớn nhất trên thế giới. Nếu lưỡng quốc liên minh là có thể bao trùm thiên hạ, chẳng còn quốc gia nào kháng cự được. Bằng nghị hòa bất thành, cuộc chiến tranh còn kéo dài, tất không tránh khỏi cả hai bên cùng bị kiệt quệ. Vì những lẽ trên, Tô Phi á Công chúa mong Vi Tiểu Bảo xúc tiến giúp vụ này cho thành tựu, dĩ nhiên gã lập công lớn ở Trung Quốc. Đồng thời nước La Sát cũng đền ơn trọng hậu. Công chúa lại xin Vi Tiểu Bảo tiến ngôn lên Hoàng đế Trung Quốc thỉnh cầu ngài buông tha những tướng sĩ La Sát bị bắt cho họ trở về đoàn tụ vui vẻ với gia đình. Giáo sĩ Hà Lan dịch thư xong, Vi Tiểu Bảo thấy Hoa Bá Tư Cơ và Tề Lạc Nặc Phu đưa mắt ra hiệu mấy lần. Gã biết là còn có biệt tình, liền cho hai vị giáo sĩ lui ra rồi hỏi:

- Các ngươi còn điều chi muốn nói? Hoa Bá Tư Cơ nói:

- Công chúa điện hạ dặn bọn tiểu nhân nói với Trung Quốc tiểu hài đại nhân là ngài vẫn tưởng nhớ đại nhân. Bọn đàn ông La Sát kém lắm, chỉ có Trung Quốc tiểu hài đại nhân là hay nhất thiên hạ. Ngài nhất định mời đại nhân qua Mạc Tư Khoa. Vi Tiểu Bảo hắng giọng một tiếng, nghĩ bụng:

- Đây là mê thang của nước La Sát, ta không thể tin được. Tề Lạc Nặc Phu nói:

- Công chúa điện hạ còn mấy việc nữa muốn nhờ Trung Quốc tiểu hài đại nhân lo dùm. Cái này là Công chúa điện hạ tặng cho đại nhân.Hắn nói rồi cời sợi giây đồng buộc trên cổ xuống. Đầu dưới sợi dây buộc một cái túi da. Hoa Bá Tư Cơ cũng cởi cái túi da ở trên cổ xuống. Đây chắc là hai người bạt thiệp trường đồ sợ xảy chuyện thất lạc mà phải dùng giây đồng buộc vào cổ. Miệng túi da khóa bằng khóa đồng. Hoa Bá Tư Cơ lại cởi chiếc chìa khóa ở giây lưng ra mở khóa đồng trên túi da của Tề Lạc Nặc Phu. Tề Lạc Nặc Phu cũng lấy chìa khóa mở túi da của Hoa Bá Tư Cơ. Hai người kính cẩn đặt túi da lên án trước mặt Vi Tiểu Bảo. Vi Tiểu Bảo cầm túi da đảo lộn nghe những tiếng loảng xoảng vang lên. Gã đổ ra mấy chục viên bảo thạch, màu sắc khác nhau coi rất ngoạn mục. Những viên bảo thạch này rất lớn và đủ thứ: Hồng bảo thạch, Lam bảo thạch, Lục bảo thạch, Hoàng bảo thạch. Còn cái túi da nữa trong đựng kim cương, toàn thạch và ngọc phỉ thúy. Trong lúc nhất thời, Vi Tiểu Bảo trông hoa cả mắt. ánh bảo quang tỏa ra khắp quân trướng. Châu báu đối với gã là thường, nhưng những viên bảo thạch vừa lớn vừa nhiều thế này thì gã chưa từng được thấy qua. Gã liền cười nói:

- Công chúa đưa hậu lễ tặng ta thế này, ta nhận thế nào được?

(Lời chú của tác giả: Theo bài lược khảo về cuộc mậu dịch sơ khởi giữa Trung Hoa và nước Nga của Lưu Tuyển Dân đăng trên Yên Kinh Học Báo số 25 thì Nga hoàng phái đại sứ là Quả La Văn sang Trung Quốc đàm phán về việc chia cương thổ và việc thông thương giữa hai nước. Dọc đường Đông du, Quả La Văn lại tiếp được mật dụ của Nga hoàng trịnh trọng chỉ thị: Nếu cuộc đàm phán về cuộc giao thương với Trung Quốc mà thắng lợi thì dù có phải nhường thành Nhã Tát Khắc cho Trung Quốc cũng được, miễn làđừng để tổn thương đến uy danh Nga hoàng. Sứ giả còn bí mật đưa lễ vật đút lót đại biểu Trung Quốc.) Hoa Bá Tư Cơ nói:

- Công chúa điện hạ còn dặn tiểu nhân trình Trung Quốc tiểu hài đại nhân là nếu làm xong đại sự, Công chúa điện hạ sẽ tặng lễ vật quý trọng. Ngoài ra còn lựa mỹ nữ của mười nước là Đại Nga La Tư, Tiểu Nga La Tư, Bạch Nga La Tư, Kha Tát Khắc, Thát Đát, Thụy Điển, Ba Tư, Ba Lan, Lập Đào Uyển, Đan Mạch mỗi nước một cô, cô nào cô ấy đều nhỏ tuổi xinh đẹp và toàn là xử nữ chứ không phải quả phụ đưa đến tặng cho Trung Quốc tiểu hài đại nhân. Vi Tiểu Bảo cười khanh khách đáp:

- Hiện ta đã có bảy cô vợ mà mình ứng phó chưa được chu đáo, nếu lại thêm mỹ nữ mười nước thì cái mạng của Trung Quốc tiểu hài đại nhân này đến phải ô hô ai tai mất! Hoa Bá Tư Cơ vội nói:

- Không phải đâu! Không phải đâu. Mười vị xử nữ xinh đẹp này, Công chúa điện hạ chuẩn bị cả rồi. Chính mắt bọn tiểu nhân đã trông thấy, cô nào tướng mạo cũng như bông mai côi, da mỡ như sữa bò, tiếng nói như dạ oanh. Vi Tiểu Bảo trống ngực đánh thình thình hỏi:

- Công chúa điện hạ muốn ta làm việc gì? Tề Lạc Nặc Phu đáp:

- Việc thứ nhất là hai nước hòa hiếu, hoạch định cương giới một cách công bằng. Từ nay trở đi không xảy cuộc giao binh nữa. Vi Tiểu Bảo tự nhủ:

- ý kiến của Hoàng đế cũng muốn như vậy. Việc này có thể làm được. Nhưng gã chau mày hỏi:

- Phía Tây nước La Sát các ngươi có một nước Thụy... Thụy gì đó đã phái sứ giả đến yêu cầu Trung Quốc chúng ta đồng thời ra quân giáp công La Sát cả hai mặt Đông và Tây để chia đôi giang sơn của các ngươi. Khi đó thì những gì Đại NgaLa Tư, Tiểu Nga La Tư, bất dại bất diểu Trung Nga La Tư, Hắc Nga La Tư, Bạch Nga La Tư, Ngũ Hoa Thập Sắc Nga La Tư chẳng thiếu gì giai nhân mỹ nữ, muốn bao nhiêu có bấy nhiêu, chẳng cần phải Công chúa điện hạ của các ngươi đưa tặng nữa. Huống chi mỗi thứ chỉ đưa tặng có một cô là keo kiệt quá! Hai tên đội trưởng La Sát nghe Vi Tiểu Bảo nói vậy không khỏi giật mình kinh hãi. Hồi ấy, Quốc Vương nước Thụy Điển là Lý đệ thập bát mới lên ngôi là một vị anh quân niên thiếu, chỉnh đốn quân cơ, sửa sang võ bị, có ý muốn khởi binh đánh La Sát. Bọn văn võ đại thần ở triều đình Mạc Tư Khoa đều lấy làm lo lắng, vì ngày ngày cho đại đội binh mã không ngớt kéo qua mặt Đông. Chẳng ngờ Thụy Điển lại toan tính đến việc liên minh với Trung Quốc. La Sát tuy cường thịnh, nhưng hai mặt trước sau đều thụ địch thì đại cuộc tất lâm nguy. Vi Tiểu Bảo nhìn mặt Hoa Bá Tư Cơ và Tề Lạc Nặc Phu biết là mình đánh đòn gió đã sinh hiệu lực, liền nói tiếp:

- Nhưng giữa ta và Công chúa điện hạ là chỗ hảo bằng hữu tâm đầu ý hợp thì khi nào còn nhận lời đề nghị của bọn man tử nước Thụy gì gì đó? Hiện giờ Trung Quốc Hoàng đế chưa quyết định chủ ý, nếu quả nước La Sát thành tâm cầu hòa thì ta đuổi sứ giả nước Thụy gì đó về. Hai tên đội trưởng cả mừng vội đáp:

- Nước La Sát rất mực chân thành, tuyệt chẳng có điều chi giả dối. Xin Trung Quốc tiểu hài đại nhân đuổi ngay sứ giả Thụy Điển về nước, hay chặt đầu hắn đi càng tốt. Vi Tiểu Bảo lắc đầu nói:

- Việc chặt đầu sứ giả thì không được đâu. Huống chi hắn lại đưa tặng ta rất nhiều kim cương bảo thạch và mỹ nữ mười mấy nước thì làm sao chém chết hắn cho đành? Có đúng thế không? Hai tên đội trưởng luôn miệng khen phải. Chúng nghĩ thầm:

- Té ra nước Thụy Điển cố ý giao hảo với Trung Quốc. Họ thả vỏ quít trước rồi ăn mắm rươi sau. Thủ đoạn của họ còn sáng nước hơn mình.Rồi chúng tự nhủ:

- May mà gã Trung Quốc tiểu hài đại nhân này giao hảo với Công chúa nhà mình, không thì vụ này thật nát bét, khó bề vãn hồi được. Vi Tiểu Bảo lại hỏi:

- Công chúa còn muốn ta làm việc gì nữa? Hoa Bá Tư Cơ mỉm cười đáp:

- Công chúa điện hạ chân thành mời Trung Quốc tiểu hài đại nhân tới điện Cẩm Linh thành Mạc Tư Khoa để cùng bàn việc trong tẩm thất. Vi Tiểu Bảo bật tiếng cười khành khạch bụng bảo dạ:

- Đây lại là món mê thang của La Sát hay gọi tắt là La Sát thang cho tiện, La Sát thang ăn được nhưng không thể tin được. Gã cười nói:

- Té ra bọn đàn ông La Sát toàn là đồ bỏ. Tề Lạc Nặc Phu mỉm cười đáp:

- Chẳng phải đàn ông La Sát toàn là đồ vô dụng, nhưng Công chúa điện hạ đặc biệt tưởng niệm Trung Quốc tiểu hài đại nhân. Vi Tiểu Bảo lẩm bẩm:

- Lại thêm một chén La Sát thang nữa. Gã liền hỏi:

- Chỉ có vậy thôi, không còn việc gì nữa chứ? Hoa Bá Tư Cơ đáp:

- Công chúa thỉnh cầu Trung Quốc Hoàng đế bệ hạ chuẩn cho các nhà buôn hai nước được đi lại tự do thông thương. Tề Lạc Nặc Phu nói theo:

- Một khi thương nhân hai nước đi lại thường xuyên, Công chúa thời thường có thể viết thư, đưa lễ gửi sang cho đại nhân.Vi Tiểu Bảo mắng thầm:

- Con mẹ nó! Lại thêm một chén La Sát thang nữa. Gã liền hỏi:

- Ngươi nói thế thì hai nước giao thương là làm việc riêng cho Công chúa hay sao? Tề Lạc Nặc Phu đáp:

- Dạ dạ! Hoàn toàn vì Trung Quốc tiểu hài đại nhân. Vi Tiểu Bảo nói:

- Hiện giờ ta không còn là trẻ nít, các ngươi không được xưng hô Trung Quốc tiểu hài gì gì đó. Hai tên liền khom lưng hô:

- Dạ dạ! Trung Quốc đại nhân các hạ. Vi Tiểu Bảo mỉm cười đáp:

- Được rồi! Các ngươi hãy lui về nghỉ ngơi. Bọn ta sẽ đến Ni Bố Sở. Các ngươi cùng theo đi là xong. Hai tên kinh hãi đưa mắt nhìn nhau tự hỏi:

- Đại quân Trung Quốc kéo đến Ni Bố Sở làm gì? Chẳng lẽ họ lại đánh thành? Vi Tiểu Bảo nói tiếp:

- Các ngươi cứ yên lòng. Ta đã nhận lời với Công chúa là hai nước hòa hiếu, không còn chuyện giao tranh nữa. Hai tên khom lưng nói:

- Đa ta Trung Quốc tiểu... à quên... đại nhân các hạ. Hoa Bá Tư Cơ lại nói:

- Công chúa nghe nói những cầu ở Trung Quốc xây cất rất hay. Bất luận trường giang đại hà đều dùng đá lớn để bắc cầu. Phía dưới không cần thạch trụ, kiều đôn. Công chúa đem lòng yêu mến Trung Quốc đại nhân các hạ, nên ưu thíchcả những cái gì của Trung Quốc. Điện hạ xin đại nhân phái mấy tên thợ giỏi chuyên nghiệp bắc cầu qua Mạc Tư Khoa để dựng mấy tòa thạch kiểu thuần kỳ. Hàng ngày Công chúa điện hạ ra chơi thạch kiều Trung Quốc, đi lại tản bộ trên cầu cũng như hàng ngày được thấy mặt đại nhân các hạ. Vi Tiểu Bảo lẩm bẩm:

- La Sát thang đưa hết chén này đến chén khác, ta mà ăn mãi vào tất phải ộc ra mất. Tại sao Công chúa La Sát lại đặc biệt thẩm mỹ những tòa thạch kiều của Trung Quốc? Trong vụ này tất có điều chi ngoắt ngoéo. Ta không thể để mắc vào cạm bẫy của hồ ly tinh nước La Sát. Gã liền đáp:

- Công chúa mà tưởng niệm ta cũng bất tất phải bắc cầu đá cho tốn nhiều công trình. Ta tặng nàng mấy tấm chăn bông và gối đầu ở Trung Quốc là đủ. Khi nàng ngủ cứ ôm chăn và gối của ta thì cũng như nàng ngủ chung với Trung Quốc đại nhân các hạ. Hai tên đội trưởng La Sát đưa mắt nhìn nhau, vẻ mặt đều ra chiều bẽn lẽn. Tề Lạc Nặc Phu ngập ngừng nói:

- Cái đó... dường như... Hoa Bá Tư Cơ đầu óc linh hoạt hơn, liền đỡ lời:

- Chủ ý của đại nhân các hạ rất cao minh. Chăn gối Trung Quốc do bọn tiểu nhân đưa về để Công chúa điện hạ không ôm Trung Quốc đại nhân các hạ thì ôm chăn gối Trung Quốc cũng hay rồi. Có điều chăn gối chỉ được mấy năm là rách nát, chẳng thể kiên cố bằng cầu đá. Vậy xin đại nhân phái mấy kỹ sư qua dựng thạch kiều mới là tuyệt diệu. Vi Tiểu Bảo nghe giọng lưỡi hai tên đội trưởng La Sát rất tha thiết về việc phái kỹ sư đi bắc cầu, liền nghi là chúng có âm mưu ngụy kế. Gã chưa hiểu thời bấy giờ kỹ thuật bắc cầu của Trung Quốc đứng vào bậc nhất thiên hạ. Người ngoại quốc đến Trung Hoa thấy những cây thạch kiều hùng vĩ đều tấm tắc khen là kỳ dị. Ai cũng tán thưởng không ngớt. Họ tự hỏi:- Những cây thạch kiều ở đáy dưới không có cột chống mà sao bắc qua sông được? Thật là thần diệu khôn lường! Người La Sát cũng mong học được phương pháp bắc cầu bằng cách này, vì họ rất ca ngợi môn kỹ thuật về khoa học của Trung Quốc mà thôi, chứ chẳng có âm mưu nào khác.

(Lời chú của tác giả:

"Năm Khang Hy thứ 15 những Nga phái Tư Ba Tháp Lôi (N. G. Spatinary) làm khâm sai, đem theo những chuyên gia về bảo thạch, chuyên gia về dược tài đến Bắc Kinh, đưa ra mấy khoản yêu cầu. Trong những khoản này có một điều xin chuẩn cho nước Nga được mượn kỹ sư bắc cầu của Trung Hoa. Viên Khâm sai La Sát vì không chịu quỳ xuống dập đầu trước mặt Hoàng đế Trung Quốc nên bị Thanh đình đuổi về nước.") Vi Tiểu Bảo bụng bảo dạ:

- Những tên này đòi hỏi hết điều nọ đến điều kia. Chúng càng đòi hỏi, ta càng không chịu ưng thuận. Gã liền nói:

- Ta biết rồi. Các ngươi hãy lui ra. Hai tên đội trưởng không dám nói gì nữa. Chúng thi lễ rồi rút lui. Đại quân lên đường tiến về phía Tây, một hôm đến gần thành Ni Bố Sở. Khâm sai đại thần nước La Sát là Phi Yến Đa La được tin báo đại quân bên Thanh kéo đến không khỏi giật mình kinh hãi. Y vội viết thư sang xin quân Thanh đồn trú ở ngoài rồi y lập tức đến tương hội. Vi Tiểu Bảo đáp:

- Bất tất phải khách sáo. Cứ để bọn ta đến chào khách là được. Quân Thanh rầm rầm rộ rộ kéo đến tận chân thành Ni Bố Sở. Bọn Bằng Xuân, Tát Bố Tố, Mã Lạt chia lấy ba đội nhân mã đi quanh giữ ba mặt Bắc, Tây, Nam thành Ni Bố Sở, đóng trên những yếu đạo để ngăn chặn đườngrút lui của quân La Sát trong thành, lại cản trở cả đường viện binh của quân tiếp viện từ mặt Tây kéo đến. Vi Tiểu Bảo, Sách Ngạch Đồ cùng bọn Đông Quốc Cương thống lĩnh trung quân đồn trú ở ngoài thành phía Đông. Trung quân bắn pháo thay phiên. Bốn mặt cũng nổi hiệu súng vang rền. Các đại thần và quan quân La Sát trong thành Ni Bố Sở thấy quân Thanh tập hợp đông như kiến, khí thế rất là hùng dũng, không khỏi khiếp sợ. Phi Yến Đa La liền sắp sửa lễ vật phái người đưa đến doanh trướng quân Thanh và đệ thư lên khâm sai đại thần Trung Quốc. Trong thư nói: Hoàng đế hai nước đã quyết định bãi binh nghị hòa, vậy cuộc hội ngộ này chuyên về việc kiềm đính hòa ước. Quân đội hai bên không nên gần nhau quá để tránh khỏi xảy cuộc xung đột bất ngờ, có thể đưa đến chỗ tổn thương tình giao hảo giữa hai nước. Vi Tiểu Bảo cùng các đại thần thương nghị, đều nói: Trung Hoa là thượng quốc không xử sự ngang trái, cần giữ điều tiên lễ hậu binh. Vi Tiểu Bảo liền hạ lệnh lui binh mấy dặm, đồn trú ở phía Đông sông Thân Nhĩ Khắc. Đồng thời gã ra lệnh cho ba cánh quân đóng ở ba mặt Bắc, Tây, Nam cũng rút vào trong núi chờ đợi. Phi Yến Đa La thấy quân Thanh triệt thoái mới hơi yên dạ. Y lại viết văn thư đưa ra bốn điều kiện về cuộc tương hội. Điều thứ nhất: Cuộc hội kiến diễn ra tại khu vực giữa thành Ni Bố Sở và sông Thập Nhĩ Khắc. Điều thứ hai: Ngày hội kiến, Khâm sai hai nước đều đêm bốn chục tùy viên. Điều thứ ba: Hai nước đều giàn hàng năm trăm quân. Quân Nga sắp hàng ở dưới chân thành. Quân Thanh sắp hàng ở bờ sông. Điều thứ tư: Hai nước đều đem kèm đội vệ binh gồm hai trăm sáu chục người. Ngoài đao kiếm, vệ binh không được mang một thứ vũ khí nào khác. Sở dĩ bên La Sát phải đưa bốn điều đề nghị này vì uy thế quân Thanh rất lớn mà quân Nga ít người. Nếu không hạn chế nhân số thì bên Nga lâm vào tình thếhạ phong. Mặt khác võ khí quân La Sát lợi hại hơn quân Thanh mà không hạn chế khí giới thì quân Nga lại chiếm thế thượng phong, chắc đối phương không chịu. Vì vậy, họ đề nghị trước là khôn và quy định vệ binh chỉ được mang theo đao kiếm. Vi Tiểu Bảo sau khi thương nghị với các đại thần, nhận thấy đề nghị này có thể theo được, liền tiếp nhận ngay. Ngay đêm hôm ấy, Vi Tiểu Bảo phái thân binh dựng doanh trướng để làm hội sở. Sáng sớm hôm sau, bọn Vi Tiểu Bảo, Sách Ngạch Đồ, Đông Quốc Cương dẫn hai trăm sáu chục tên quân đằng bài đến hội sở. Bỗng thấy cử thành Ni Bố Sở mở rộng, hơn hai trăm quân kỵ Kha Tát Khắc đều cầm trường đao hộ vệ cho quan viên La Sát đến hội sở. Đội kỵ binh này người cao ngựa lớn, oai phong lẫm liệt. Còn quân đằng bài bên Thanh đều là bộ binh, coi về ngoài không hùng dũng bằng quân La Sát.
 

Hoa Tử

Sưu tầm
Tham gia
24/9/19
Bài viết
10,492
Điểm cảm xúc
1,412
Điểm
113
Chương 237: Lần đầu tiên nếm món trung hoa
Đông Quốc Cương cất tiếng thóa mạ:

- Tổ bà nó! Bọn quỷ La Sát thật là xảo quyệt! Mới bước đầu mình đã mắc hợm. Chúng bảo mỗi bên đem đi hai trăm sáu chục tên vệ binh, mình quên không hỏi kỵ binh hay bộ binh. Bây giờ chúng đem đoàn kỵ binh thành ra hơn mình hai trăm sáu chục con ngựa.

Sách Ngạch Đồ nói:

- Vụ này nhắc nhở chúng ta phải rất thận trọng, mỗi khi giao dịch với bọn quỷ La Sát chớ có sơ hở. Mình chỉ bất cẩn một chút là mắc lừa chúng.

Trong khi hai người đang nói chuyện thì bọn quan binh La Sát đã gần tới trước mặt.

Đông Quốc Cương nói:

- Chúng ta tuân chiếu lời phán bảo của Hoàng thượng thì việc gì cũng phải theo lễ nghĩa Trung Hoa là thượng quốc. Vậy chúng ta xuống ngựa đi.

Vi Tiểu Bảo hô:

- Phải lắm! Hết thảy mọi người phải xuống ngựa!

Quan quân nghe lệnh nhất tề hạ mã, chắp tay đứng nghiêm chỉnh.

Khâm sai Phi Yến Đa La thấy vậy cũng hạ lệnh cho quan viên La Sát xuống ngựa, khom lưng hành lễ.

Hai bên đều tiến gần vào nhau.

Phi Yến Đa La hô:

- Khâm sai nước Nga La Tư là Phi Yến Đa La vâng mệnh Sa hoàng kính chúc Đại Thanh quốc Hoàng đế thánh thể an khang.

Vi Tiểu Bảo bắt chước hắn, đáp lại:

- Khâm sai Đại Thanh quốc là Vi Tiểu Bảo vâng mệnh Hoàng thượng kính chúc Sa hoàng nước La Sát thánh thể an khang.

Gã lại thêm một câu:

- Và chúc Nhiếp Chính Nữ Vương Tô Phi á Công chúa xinh đẹp, bình yên.

Phi Yến Đa La mỉm cười nghĩ bụng:

- Đại Thanh Hoàng đế chúc Công chúa bên ta xinh đẹp, bình yên thì thật là một câu ly kỳ cổ quái, song Công chúa nghe thấy tất lấy làm hoan hỷ.

Hai bên đưa ra những câu chúc tụng, có điều Vi Tiểu Bảo nghe tiếng La Sát câu được câu chăng, mà gã nói càng văn phạm đảo diên, từ cú lệch lạc. May chỉ là những lời khách sáo, chẳng có gì quan hệ.

Vi Tiểu Bảo thấy quan viên La Sát đứng nghiêm trang kính cẩn nghe lời, lễ mạo cũng chu đáo, nhưng hai trăm sáu chục tên quân kỵ Kha Tát Khắc vẫn ngang nhiên cưỡi trên lưng ngựa, tay cầm trường đao xếp thành đội ngũ. Chúng ngồi trên cao trông xuống, phảng phất có vẻ uy hiếp. Gã càng nhìn càng tức, liền hỏi:

- Đội vệ binh bên quý quốc rất vô lễ! Chúng tham kiến Trung Quốc đại nhân các hạ mà sao không xuống ngựa?

Phi Yến Đa La đáp:

- Theo luật lệ của tệ quốc thì kỵ binh đang ở trong đội ngũ dù tham kiến Sa Hoàng bệ hạ cũng không phải xuống ngựa.

Vi Tiểu Bảo nói:

- Đây là đất Trung Quốc. Đã đến Trung Quốc là phải theo luật lệ Trung Quốc.

Phi Yến Đa La lắc đầu đáp:

- Xin lỗi Trung Quốc đại nhân các hạ! Các hạ lầm rồi. Chỗ này là lãnh thổ của Sa Hoàng nước Nga La Tư, chứ không phải đất Trung Quốc.

Vi Tiểu Bảo cãi:

- Đây hiển nhiên là đất Trung Quốc, các vị đến cưỡng chiếm mà thôi.

Phi Yến Đa La đáp:- Xin lỗi các hạ. Trung Quốc Khâm sai đại thần các hạ lầm rồi đó. Đây là lãnh thổ Sa Hoàng nước Nga. Thành Ni Bố Sở do người Nga La Tư dựng lên.

Cuộc hội đàm lần này nguyên là để phân chia ranh giới hai nước, nên chỗ đất này thuộc về Trung Quốc hay thuộc về Nga Quốc phân định cho rõ là một điều trọng yếu. Khâm sai đại thần hai nước vừa gặp mặt, chưa kịp vào trướng mở cuộc đàm phán đã xảy chuyện tranh chấp.

Vi Tiểu Bảo nói:

- Người La Sát các vị đắp thành lên đất Trung Quốc rồi tự nhận là lãnh thổ của mình mà được ư? Trong thiên hạ sao lại có chuyện kỳ thế?

Phi Yến Đa La cãi:

- Chỗ này nhất định là lãnh thổ nước Nga. Người Nga La Tư xây thành ở đây, người Trung Quốc không xây thành đắp lũy đủ chứng minh là đất nước Nga. Bây giờ Trung Quốc đại thần các hạ bảo là đất Trung Quốc thì có gì làm chứng cứ không?

Thực ra một giải Ni Bố Sở trước nay chẳng có gì ước thúc. Nó là chỗ biên thùy hai nước Trung, Nga nhưng chưa vạch rõ cương giới. Nó thuộc về Trung Quốc hay thuộc về nước Nga, chẳng ai có bằng chứng đưa ra.

Vi Tiểu Bảo nghe đối phương hỏi đến chứng cứ không khỏi tắc họng. Gã muốn cưỡng biện, khốn nỗi gã không thông suốt từ ngữ La Sát. Ngay những câu đối đáp tầm thường đã cảm thấy khó khăn thì làm sao đủ tiếng để trình bày biện bác được?

Gã nói ẩu:

- Đây là đất Trung Quốc, chẳng thiếu gì chứng cứ.

Rồi gã dùng tiếng Dương Châu thóa mạ:

- Con mẹ quân chó đẻ! Ta nguyền rủa tổ tôn mười tám đời bọn quỷ La Sát các ngươi.

Gã thốt câu này rồi tiếp đến những lời thô tục tuôn ra như nước chảy, thao thao bất tuyệt, thóa mạ cao tổ mẫu, tằng tổ mẫu rồi đến tổ mẫu, mẫu thân, tỷ muội,ngoại bà, di má, cô mẫu nhà Phi Yến Đa La. Gã chửi tưới hạt sen, chửi vung xích chó. Bao nhiêu đàn bà nhà họ Phi nước La Sát gã chửi tuốt chẳng tha một ai.

Các quan viên cả hai bên Trung, Nga thấy Khâm sai đại thần Trung Quốc nổi lôi đình đều băn khoăn kinh hãi. Có điều gã mồm năm miệng mười đưa ra từng tràng như pháo nổ liên thanh, đừng nói Phi Yến Đa La chẳng hiểu gì mà cả quan viên Trung Quốc cùng thông dịch viên hai bên cũng lờ mờ.

Nên biết những câu chửi rủa của Vi Tiểu Bảo này toàn là lời thô tục đê hèn trong đám dân quê ở Dương Châu. Ngay những vị thân sĩ, thục nữ người Dương Châu cũng chưa chắc đã hiểu được mấy phần. Bọn Sách Ngạch Đồ, Đông Quốc Cương, hoặc là người Bát Kỳ, hoặc là võ quan ở phương Bắc từ lâu thì còn lý hội làm sao được?

Vi Tiểu Bảo thóa mạ hồi lâu đã tiết hận, trong lòng khoan khoái. Gã không nhịn được lại nổi lên tràng cười khanh khách.

Phi Yến Đa La ban đầu tuy không hiểu ngữ ngôn của gã, nhưng coi vẻ mặt cùng nghe giọng nói cũng đoán là gã đang nổi giận. Sau lại thấy gã đột nhiên cười rộ không khỏi ngơ ngác, cất tiếng hỏi:

- Xin hỏi quý sứ đưa ra trường thiên đại luận đó để chỉ giáo điều gì? Ngôn từ của quý sứ sâu xa và huyền diệu, mà tệ nhân lại học thức thô sơ, kiến văn hủ lậu, khó bề thông tình đạt lý. Xin quý sứ nói chậm chạp từng câu một, để tệ nhân lãnh giáo.

Vi Tiểu Bảo đáp:

- Bản sứ vừa nói quý sứ không hiểu đạo lý gì hết. Bản sứ muốn quý tổ mẫu đến đây làm người bạn lòng và làm bà vợ.

Phi Yến Đa La mỉm cười đáp:

- Tổ mẫu của tệ nhân là người đẹp nổi danh ở thành Mạc Tư Khoa. Lão nhân gia là con gái của Bỉ Đắc Lạc Phu Tư Cơ Bá tước. Té ra Trung Quốc đại nhân các hạ cũng biết tiếng tệ tổ mẫu. Tệ nhân thực lấy làm vinh hạnh vô cùng! Đáng tiếc tệ tổ mẫu đã chết trước đây ba mươi tám năm.

Vi Tiểu Bảo nói:- Thế thì bản sứ muốn giao du thân mật với lệnh mẫu để lấy bà làm vợ.

Phi Yến Đa La nở mày nở mặt, càng lộ vẻ hoan hỷ đáp:

- Má má của tệ nhân là con nhà danh môn vọng tộc ở thành Cơ Phụ. Nước da người vừa trắng vừa non. Người biết làm thơ chữ Pháp. ở thành Mạc Tư Khoa chẳng thiếu gì bậc vương công, tướng quân rất sùng bái người. ở tệ quốc còn có một vị đại thi nhân đã làm mấy chục bài thơ tán dương sắc đẹp của tệ má má. Hiện nay tuy người đã ba mươi sáu tuổi nhưng tướng mạo còn non trẻ chỉ bằng một thiếu phụ dưới ba mươi. Trung Quốc đại nhân các hạ mai đây có dịp qua Mạc Tư Khoa, tệ nhân nhất định giới thiệu đại nhân các hạ với má má. Việc kết hôn thì đại nhân rằng không được, còn làm bạn tâm tình thì có thể.

Nguyên theo phong tục Tây dương thì ai có mẫu thân hoặc thê tử xinh đẹp được người tán tụng, chẳng những họ không lấy thế làm hỗn xược, trái lại họ cho là một điều rất vinh hạnh và khoan khoái hơn cả ca tụng chính họ.

Vi Tiểu Bảo không hiểu phong tục Tây dương, lại cho là Phi Yến Đa La sợ mình, có ý muốn bái mình làm cha hờ, mới chịu phụng hiến thân mẫu.

Gã sướng quá, bao nhiêu lửa giận tiêu tan hết, liền cười đáp:

- Hay lắm! Hay lắm! Sau này nếu quả bản sứ có dịp qua Mạc Tư Khoa nhất định sẽ vào làm thượng khách của quý phủ.

Gã dắt tay Phi Yến Đa La đi vào doanh trướng. Bọn tùy tùng hai bên liền theo sau tiến vào.

Bọn Vi Tiểu Bảo ngồi ở đằng Đông. Bọn Phi Yến Đa La ngồi ở mé Tây.

Phi Yến Đa La lên tiếng:

- Nhiếp Chính Nữ Vương Công chúa điện hạ bên tệ quốc đã dặn bảo cuộc hòa đàm chuyến này để hoạch định cương giới. Tệ quốc hết sức thành ý, mong hai bên giữ mực công bằng, đừng ai lấn át đối phương. Vì vậy tệ quốc đề nghị lấy sông Hắc Long Giang làm giới hạn cho hai nước. Mặt Nam sông này là Trung Quốc.

Mặt Bắc thuộc về Nga La Tư. Sau khi cương giới đã hoạch định, quân Nga La Tư không được qua sông tràn xuống phía Nam. Quân Trung Quốc cũng không được qua sông tiến lên miền Bắc.Vi Tiểu Bảo hỏi:

- Thành Nhã Tát Khắc ở Giang Nam hay Giang Bắc?

Phi Yến Đa La đáp:

- Nhã Tát Khắc ở Giang Bắc. Thành này do người La Sát xây đắp. Cái đó chứng tỏ mặt Bắc sông Hắc Long Giang đều là lãnh thổ của nước Nga.

Vi Tiểu Bảo nghe nói lại nổi cơn tức giận hỏi:

- Trong thành Nhã Tát Khắc có một trái núi nhỏ. Các hạ có biết tên trái núi này là gì không?

Phi Yến Đa La quay lại hỏi tùy viên rồi đáp:

- Trái núi đó kêu bằng Cao Trợ Lược Sơn.

Vi Tiểu Bảo hiểu được tiếng La Sát, Cao Trợ Lược tức là con hươu, liền nói:

- Người Trung Quốc kêu bằng Lộc Đỉnh Sơn.

Rồi gã hỏi:

- Quý sứ có biết bản sứ được phong tước vị gì không?

Phi Yến Đa La đáp:

- Các hạ là Lộc Đỉnh Công. Nếu nói bằng tiếng La Sát tức là Cao Trợ Lược Sơn Công tước.

Vi Tiểu Bảo nói:

- Thế là các hạ còn có lòng muốn lấn át bản sứ. Các hạ đã biết rõ bản sứ là Lộc Đỉnh Công sao còn cưỡng chiếm Lộc Đỉnh Sơn của bản sứ? Phải chăng các hạ bảo bản sứ không phải là Công tước?

Phi Yến Đa La đáp:

- Không không! Tệ nhân quyết chẳng có ý đó.

Vi Tiểu Bảo lại hỏi:

- Tước hiệu của các hạ là gì?

Phi Yến Đa La đáp:- Tệ nhân là Mạc Nặc Sa Phạt Hầu tước.

Vi Tiểu Bảo nói:

- Hay lắm! Vậy thì Lạc Nặc Sa Phạt thuộc về lãnh thổ Trung Quốc.

Phi Yến Đa La giật mình kinh hãi rồi mỉm cười nói:

- ấp phong của tệ nhân Lạc Nặc Sa Phạt còn ở phía Tây Mạc Tư Khoa, cách xa Trung Quốc vạn dặm, sao lại thuộc về lãnh thổ Trung Quốc được?

Vi Tiểu Bảo hỏi:

- Quý sứ bảo ấp phong của mình kêu bằng Lão Miêu Lạp Thi Pháp...

Phi Yến Đa La sửa lại:

- Lạc Nặc Sa Phạt.

Vi Tiểu Bảo không lý gì đến hắn, tiếp tục câu hỏi:

- Từ thành Bắc Kinh bên bản sứ tới Lão Miêu Lạp Thi Pháp cộng bao nhiêu dặm đường?

Phi Yến Đa La đáp:

- Từ Lạc Nặc Sa Phạt đến Mạc Tư Khoa đã hơn trăm dặm, phải đi mất bốn ngày. Từ Mạc Tư Khoa tới Bắc Kinh phải đi ba tháng nữa.

Vi Tiểu Bảo nói:

- Nếu vậy từ Bắc Kinh đến Lão Miêu Lạp Thi Pháp phải đi mất ba tháng lẻ năm ngày. Lộ trình xa quá nhỉ?

Phi Yến Đa La đáp:

- Xa lắm! Xa lắm!

Vi Tiểu Bảo nói:

- Đường đất đã xa như vậy thì Lão Miêu Lạp Thi Pháp dĩ nhiên không phải là lãnh thổ Trung Quốc.

Phi Yến Đa La đáp:

- Công gia nói đúng lắm!Vi Tiểu Bảo nâng chung rượu lên nói:

- Mời quý sứ xơi rượu.

Người La Sát quý rượu như tính mạng. Chung rượu đặt ở trước mặt Phi Yến Đa La đã lâu, mùi thơm tho xông lên mũi hắn từng hồi, nhưng chủ nhân chưa nâng chung, hắn không dám thiện tiện uống trước.

Bây giờ Phi Yến Đa La thấy Vi Tiểu Bảo nâng chung, hắn mừng quá cầm chung rượu uống một hơi cạn sạch.

Bọn tùy viên bên Thanh lại rót rượu vào chung cho hắn rồi lấy đồ nhắm trong hộp ra và toàn là những món do đầu bếp nổi tiếng ở Bắc Kinh nấu nướng.

Thời bấy giờ nước La Sát mới được khai hóa, nên cách ăn mặc hãy còn thô sơ. Về sau Bỉ Đắc đại đế lớn lên, đoạt lại quyền hành ở tay tỷ tỷ là Tô Phi á

Công chúa rồi giam nàng vào ni am. Bỉ Đắc đại đế từ đó mới thâu nhập phần lớn văn hóa Tây Âu.

Hồi nước La Sát giao thiệp với Vi Tiểu Bảo, nhất thiết khí vật, chế độ, văn hóa đều kém Trung Quốc nhiều. Về cách nấu nướng thì cho tới ngày nay La Sát so với Trung Quốc vẫn còn cách xa vạn dặm.

Đây là lần đầu tiên Phi Yến Đa La được nếm những thức ăn tuyệt hảo của nước Trung Hoa ở ngoài thành Ni Bố Sở, dĩ nhiên hắn phải trợn mắt há miệng, cơ hồ muốn nuốt luôn cả cái lưỡi của mình vào bụng.

Vi Tiểu Bảo bồi tiếp Phi Yến Đa La nếm đủ các món ăn và giải thích cho hắn nghe vây cá là thế nào? Yến sào là gì? Chân vịt làm thế nào cho thành món trân quý? Gan gà chế hóa làm sao cho thành món tối hảo trong bữa ăn?... Phi Yến Đa La ăn ngon miệng quá vui mừng khôn xiết, khen không ngớt miệng.

Vi Tiểu Bảo lại hỏi:

- Quý sứ dời thành Mạc Tư Khoa ngày nào?

Phi Yến Đa La đáp:

- Tệ nhân vâng chỉ dụ của Công chúa điện hạ ngày 12 tháng 4 ở thành Mạc Tư Khoa ra đi.Vi Tiểu Bảo nói:

- Hay lắm! Quý sứ cạn chung này đi! Đông Công gia ở bên bản sứ tửu lượng cũng khá lắm. Hai vị hãy đối ẩm mấy chung.

Đông Quốc Cương liền kính tửu Phi Yến Đa La, đối ẩm ba chung.

Vi Tiểu Bảo hỏi:

- Phải chăng quý sứ mới tới Ni Bố Sở trong tháng này?

Phi Yến Đa La đáp:

- Tệ nhân đến đây ngày rằm tháng bảy.

Vi Tiểu Bảo nói:

- ồ! Quý sứ ra đi ngày 12 tháng 4 đến đây ngày rằm tháng bẩy, tức là mất hơn ba tháng lộ trình.

Phi Yến Đa La đáp:

- Dạ. Đi mất hơn ba tháng là may nhờ tiết trời ấm áp, dọc đường không bị điều gì khó khăn cản trở.

Vi Tiểu Bảo nói:

- Phen này quý sứ nói thật đi! Chịu thừa nhận thành Ni Bố Sở không phải ở trên đất nước La Sát.

Phi Yến Đa La uống rượu mười mấy chung rượu, đã ngà ngà say. Hắn nghe Vi Tiểu Bảo nói vậy ngạc nhiên hỏi:

- Tệ nhân... tệ nhân có thừa nhận hồi nào đâu?

Vi Tiểu Bảo cười đáp:

- Từ Bắc Kinh đến Lão Miêu Lạp Thi Pháp đi mất hơn ba tháng, lộ trình xa quá, nên Lão Miêu Lạp Thi Pháp không phải đất Trung Quốc. Từ Mạc Tư Khoa đến Ni Bố Sở, quý sứ cũng phải đi hơn ba tháng, tức là đường đất chẳng gần gũi gì.

Cái đó chứng tỏ Ni Bố Sở dĩ nhiên không phải là đất nước La Sát.

Phi Yến Đa La dương to cặp mắt. Trong lúc nhất thời không biết nói sao.

Hắn ngẩn người ra hồi lâu mới đáp:- Nước Nga La Tư bên tệ nhân đất rộng bao la, không phải như những nước khác.

Vi Tiểu Bảo nói:

- Nước Đại Thanh bên bản sứ phạm vi cũng không nhỏ hẹp.

Phi Yến Đa La cười gượng đáp:

- Trung Quốc đại nhân khéo nói giỡn. Hai vụ đó... không thể... nghị luận giống nhau...

Vi Tiểu Bảo nói:

- Nếu quý sứ nhất định bảo Ni Bố Sở là lãnh thổ nước La Sát thì chúng ta làm một cuộc trao đổi. Bản sứ tới Mạc Tư Khoa xin Công chúa điện hạ phong quý sứ làm Ni Bố Sở Bá tước, và phong bản sứ làm Lão Miêu Lạp Thi Pháp Công tước.

Thành Lão Miêu Lạp Thi Pháp được kể là đất Trung Quốc.

Phi Yến Đa La đỏ mặt lên đáp:

- Cái đó... nhất định không được...

Trong lòng hồi hộp, hắn nghĩ bụng:

- Công chúa là tình nhân của gã, nếu lúc đầu gối tay ấp nàng bị gã cho ăn thuốc mê mà ưng thuận cuộc trao đổi thì thật là nét bét. Lạc Nặc Sa Phạt là ấp phong tổ truyền của ta, sản vật rất phong phú. Nếu Công chúa cải phong cho ta đến Ni Bố Sở là một nơi khí hậu rét mướt, dân cư thưa thớt, thì có khác gì giết ta không? Huống chi ta đang làm Hầu tước mà lại cải phong làm Ni Bố Sở Bá tước thì ra bị giáng cấp hay sao?

Hắn nghĩ tới điểm này, bất giác nét mặt lộ ra rất khó coi.

Vi Tiểu Bảo cười nói:

- Tâm địa của quý sứ tệ hại quá chừng! Quý sứ đã muốn chiếm cứ cả thành Nhã Tát Khắc là đất phong của bản sứ, khi đó bản sứ không còn là Lộc Đỉnh Công thì bản sứ biết làm thế nào? Đành là làm Lão Miêu Lạp Thi Pháp Công tước vậy.

Tuy ấp phong của quý sứ mang cái tên cứt mèo, cứt chó gì đó thật khó nghe, bản sứ cũng cam chịu vậy.Phi Yến Đa La tính thầm trong bụng:

- Gã là người Trung Quốc mà muốn chiếm thành Lạc Nặc Sa Phạt của ta quyết không thể được, nhưng gã đã được phong tước ở nước La Sát mà lại mưu lấy ấp phong của ta tất không khỏi rắc rối cho ta. May ở chỗ Công chúa đã dặn có thể lui cương giới về đến Ni Bố Sở. Sự thực chúng ta cũng không cần đòi Nhã Tát Khắc. Thành Nhã Tát Khắc đã bị bọn họ hạ rồi mà bảo họ rút lui, dĩ nhiên họ không chịu.

Gã tính vậy liền lộ vẻ tươi cười đáp:

- Thành Nhã Tát Khắc đã là ấp phong của đại nhân, thì bọn tệ nhân xin thoái nhượng một bước. Hai nước vẫn lẫy sông Hắc Long Giang làm giới hạn, nhưng thành Nhã Tát Khắc và phạm vi chung quanh thành này trong vòng mười dặm thuộc về lãnh thổ Trung Quốc. Đây là bọn tệ nhân hoàn toàn nể mặt quý sứ và đã làm một cuộc nhượng bộ rất lớn rồi đó.

Vi Tiểu Bảo nghĩ thầm:

- Bọn ngươi thua trận mà còn lên mặt như vậy. Nếu trận đánh vừa rồi quân La Sát các ngươi thắng thì đại nhân rằng các ngươi đòi cả thành Bắc Kinh cũng là lãnh thổ của các ngươi nữa.

Gã nghĩ vậy liền hỏi:

- Chúng ta đã trải qua một trận giao phong. Không hiểu các vị thắng hay là bản sứ thắng?

Phi Yến Đa La chau mày đáp:

- Đó mới là cuộc đụng độ nhỏ bé, chưa đáng kể ai thắng ai bại. Công chúa điện hạ bên tệ quốc đã ra nghiêm lệnh không cho tướng sĩ được chính thức giao phong để duy trì hòa hiếu giữa hai nước. Vì thế lúc quân đội quý quốc tấn công, tướng sĩ bên tệ quốc không phản kích. Nếu cuộc giao binh thật sự diễn ra thì cục diện sẽ khác hẳn.

Vi Tiểu Bảo nghe nói cả giận hỏi:

- Té ra quân La Sát đã nổ súng mà chưa kể là phản kích ư?

Phi Yến Đa La đáp:- Đây bất quá là tướng La Sát hành động để bảo vệ lãnh thổ cho bản quốc chứ không phải phản kích. Nếu người La Sát đánh trận thực sự thì chẳng khi nào chỉ thủ chứ không công. Một khi cuộc đại chiến xảy ra giữa hai nước thì đội hỏa thương thủ La Sát và đội kỵ binh kha Tát Khắc đã đến tấn công thành Bắc Kinh rồi.

Vi Tiểu Bảo tức quá mắng thầm:

- Tổ bà nó! Bọn quỷ sứ lông lá các ngươi chuyên nói khoác để hăm người. ta mà sợ các ngươi hăm dọa thì sẽ theo họ ngươi mà làm con ngươi. Ta chẳng phải Vi Tiểu Bảo nữa mà là Tiểu Bảo Phi Yến Đa La.

Gã đến thành Mạc Tư Khoa đã biết tập quán của người La Sát đặt tên trước họ. Phi Yến Đa La là họ chứ không phải tên.

Gã liền nói:

- Vậy thì hay lắm! Thưa Hầu tước đại nhân đáng kính đáng sợ! Hầu tước đại nhân có biết trong lòng bản sứ mong mỏi điều gì nhất không?

Phi Yến Đa La đáp:

- Tệ nhân không rõ. Xin đại nhân chỉ giáo.

Vi Tiểu Bảo nói:

- Hiện nay bản sứ mới là Công tước, trong bụng chỉ mong mỏi được gia quan tấn tước thăng làm quận vương hay thân vương.

Phi Yến Đa La nghĩ bụng:

- Gia quan tấn tước thì ai mà chẳng muốn?

Hắn mỉm cười đáp:

- Công tước đại nhân tinh minh mẫn cán lại được Hoàng đế quý quốc đem lòng tin yêu sủng ái thì chỉ lập tiếp mấy vụ công lao là nhất định sẽ thăng đến quận vương, thân vương chẳng còn nghi ngờ gì nữa. Tệ nhân chân thành kính chúc đại nhân sớm đặng thành công.

Vi Tiểu Bảo khẽ nói:- Vụ này cần được Bá tước đại nhân giúp đỡ, nếu không thì chẳng còn cơ hội nào khác.

Phi Yến Đa La ngạc nhiên hỏi:

- Dĩ nhiên tệ nhân hết sức, nhưng chưa hiểu tệ nhân giúp đại nhân bằng cách nào?

Vi Tiểu Bảo cúi xuống ghé vào tai Phi Yến Đa La khẽ nói:

- Theo lề luật nước Đại Thanh bên bản sứ thì chỉ khi nào đánh trận đại thắng, lập nhiều quân công mới được phong vương. Nhưng hiện giờ trong nước thái bình vô sự, bao nhiêu quân phản nghịch đã bị dẹp tan. Phải chờ hai ba chục năm nữa đại nhân rằng cũng chưa chắc đã xẩy chiến tranh. Như vậy việc phong vương của bản sứ khó quá...

Gã dừng lại một chút rồi tiếp:

- Vậy việc phân chia cương giới, nghị định hòa ước này, rất mong quý sứ đừng nhượng bộ chút gì. Hay hơn là quý sứ phái binh khiêu chiến với tệ quốc, giết chết một hai vị đại thần bên bản sứ. Hai nước chúng ta xẩy cuộc đại chiến rồi, quý sứ phái đội hỏa thương thủ La Sát và đội kỵ binh Kha Tát Khắc đến tấn công thành Bắc Kinh, bản quốc sẽ cùng Thụy Điển liên minh phái binh đến đánh Mạc Tư Khoa. Có đánh nhau cái bụi mịt mù, trời sầu đất thảm, máu chảy thành sông thì cuộc phong vương của bản sứ mới mong thành tựu. Đây là một điều bản sứ ký thác ở nơi quý sứ. Xin quý sứ hết lòng giúp cho. Quý sứ nói gì xin hạ thấp giọng xuống, đừng để người ngoài nghe thấy.
 

Hoa Tử

Sưu tầm
Tham gia
24/9/19
Bài viết
10,492
Điểm cảm xúc
1,412
Điểm
113
Chương 238: Cuộc đàm phán phân chia cương giới
Phi Yến Đa La càng nghe càng kinh hãi, nghĩ thầm:

- Gã thiếu niên này lớn mật làm càn. Vì mong được phong vương, gã không quản gây cuộc chiến tranh giữa hai nước. Trận đánh này rồi ai thắng ai bại tuy không thể biết trước, nhưng hiện giờ bên họ đông người mà ta ít, lực lượng hai bên chênh lệch quá xa thì cái thua thiệt trước mắt nhất định mình phải hứng chịu.

Hắn càng nghĩ càng hối hận là đã huênh hoang hăm dọa nói những gì dẫn đội hỏa thương La Sát và đội kỵ binh Kha Tát Khắc đến đánh thành Bắc Kinh, ai ngờ gã thiếu niên lại cho là sự thực. Chẳng những gã không sợ mà còn hoan hỷ vô cùng.

Phi Yến Đa La thấy mình đã trót khéo quá hóa vụng, nhưng nếu để lộ vẻ khiếp nhược thì không khỏi bị đối phương khinh nhờn.

Trong lúc nhất thời, hắn không biết làm thế nào, đâm ra luống cuống.

Vi Tiểu Bảo lại nói:

- Mạc Tư Khoa cách đây xa quá. Quân Đại Thanh kéo đến tấn công thực ra cũng chẳng nắm chắc được phần thắng. Nếu bại trận, Hoàng đế còn thống trách bản sứ...

Phi Yến Đa La nghe chừng có cơ xoay chuyển, hắn lộ vẻ vui mừng vội nói:

- Dạ dạ! Tệ nhân kính cẩn khuyên can đại nhân đừng mạo hiểm là hơn.

Vi Tiểu Bảo đáp:

- Bản sứ chỉ muốn lập công để được phong vương chứ không muốn diệt nước La Sát. Đất đai bên quý quốc rất rộng, nhất định bản sứ không đủ bản lãnh để trừ diệt.

Phi Yến Đa La luôn miệng khen phải.

Vi Tiểu Bảo khẽ nói:

- Bây giờ chúng ta đành làm thế này. Quý sứ phát binh đi đánh Bắc Kinh. Bản sứ phát binh đánh Ni Bố Sở. Anh em mình đường ai nấy đi. Đánh được Bắc Kinh là công lao của quý sứ. Hạ được Ni Bố Sở là công lao của bản sứ. Quý sứ thử tính xem có phải kế này tuyệt diệu không?

Phi Yến Đa La ngấm ngầm kêu khổ. Trong tay hắn chỉ có hơn hai nghìn nhân mã, muốn phản công lấy lại Nhã Tát Khắc cũng chưa đủ lực lượng, còn nói chi đến chuyện đi đánh Bắc Kinh?

Hắn nghĩ bụng:

- Nếu mình không nhận lỗi thì gã thiếu niên này lộng giả thành chân cũng chưa biết chừng.

Hắn liền nhăn nhó cười nói:

- Xin Công tước đại nhân bất tất phải quan tâm. Vừa rồi tệ nhân bảo kéo đội hỏa thương thủ và đội kỵ binh Kha Tát Khắc đến đánh thành Bắc Kinh chỉ là câu chuyện hồ đồ chứ không phải sự thực. Tệ nhân đã đưa ra ý kiến lầm lẫn, bây giờ xin thu về.

Vi Tiểu Bảo hỏi:

- Quý sứ đã tuyên bố rồi còn thu về sao được?

Phi Yến Đa La đáp:

- Tệ nhân xin Công tước đại nhân vì tình mà quên câu chuyện này đi.

Vi Tiểu Bảo cười khanh khách hỏi:

- Quý sứ nói vậy thì ra bãi việc dẫn quân La Sát đến đánh Bắc Kinh hay sao?

Phi Yến Đa La đáp:

- Không đi đâu. Nhất định là không đi.

Vi Tiểu Bảo hỏi:

- Các vị còn muốn cưỡng chiếm thành Nhã Tát Khắc của bản sứ nữa hay thôi?

Phi Yến Đa La lắc đầu đáp:- Không có đâu. Không có đâu.

Vi Tiểu Bảo hỏi:

- Cả thành Ni Bố Sở các vị cũng không được đụng đến chứ?

Phi Yến Đa La sửng sốt đáp:

- Thành Ni Bố Sở này là lãnh thổ của Sa Hoàng bên tệ quốc. Xin Công tước đại nhân lượng cho.

Vi Tiểu Bảo nghĩ thầm:

- Người ta thường nói: Bạn hàng nói thách, khách mua giá cao. Ta mà đòi hắn lấy thành Ni Bố Sở, nhất định là không được rồi. Vậy ta thử đòi từ chân thành Ni Bố Sở lăn về phía Tây xem sao?

Gã liền hỏi:

- Cuộc nghị hòa của chúng ta phen này nhất định phải cho công bằng, đừng lừa già dối trẻ, không để ai thua thiệt. Phải vậy không?

Phi Yến Đa La đáp:

- Đúng thế. Hai nước cùng chân thành hoạch định cương giới, dựng nên nền hòa bình vĩnh cửu.

Vi Tiểu Bảo nói:

- Thế là hay lắm! Nếu biên giới cắt gần thành Mạc Tư Khoa quá thì người La

Sát phải thiệt thòi. Ngược lại, gần Bắc Kinh qua thì người Trung Quốc thua thiệt.

Cách hay nhất là chia biên giới quãng giữa, theo phép Nhị nhất thiêm tác ngũ.

Phi Yến Đa La hỏi:

- Nhị nhất thiêm tác ngũ là thế nào?

Vi Tiểu Bảo hỏi lại:

- Phải chăng từ Mạc Tư Khoa đến Bắc Kinh lộ trình mất ước hơn ba tháng?

Phi Yến Đa La đáp:

- Phải rồi.

Vi Tiểu Bảo hỏi:- Ba tháng chia đôi là bao nhiêu ngày?

Phi Yến Đa La không hiểu ý gã, cũng đáp:

- Một nửa là tháng rưỡi.

Vi Tiểu Bảo hỏi:

- Vậy chúng ta khỏi cần đàm thoại nữa. Bên nào về kinh thành bên ấy. Các vị từ Mạc Tư Khoa đi sang phía Đông. Bọn bản sứ xuất phát từ Bắc Kinh, tiến về phía Tây. Hai bên cùng đi một tháng rưỡi rồi đụng đầu nhau, phải không?

Phi Yến Đa La đáp:

Đúng thế! Nhưng chưa hiểu đại nhân làm như vậy với dụng ý gì?

Vi Tiểu Bảo đáp:

- Đó là cách chia ranh giới công bình nhất. Chỗ hai bên giáp nhau dùng làm biên thùy của hai nước. Các vị không chiếm phần tiện nghi mà bên bản sứ cũng chẳng dành phần hơn. Bên bản sứ thắng trận vừa rồi coi như bỏ đi. Đã là hảo bằng hữu với nhau, việc mua bán lại cần sòng phẳng.

Phi Yến Đa La mặt mũi đỏ bừng, miệng ấp úng:

- Cái đó... cái đó...

Rồi hắn đứng lên.

Vi Tiểu Bảo cười hỏi:

- Quý sứ cũng nhận thấy phương pháp này là rất công bình phải không?

Phi Yến Đa La xua tay lia lịa đáp:

- Không, không! Nhất định là không được! Phân chia địa giới như vậy há chẳng là đem nửa phần đất nước Nga La Tư cắt cho quý quốc?

Vi Tiểu Bảo hỏi:

- Có đâu mà một nửa? Phía Tây Mạc Tư Khoa quý quốc còn rất nhiều đất đai, phần ấy khỏi phải dùng phép "Nhị nhất thiềm tác ngũ" cắt cho Trung Quốc nữa.

Hà tất quý sứ còn khách sáo như vậy?

Phi Yến Đa La tức quá, râu tóc dựng đứng cả lên hồi lâu mới nói:- Công tước đại nhân! Nếu đại nhân thành tâm nghị hòa thì nên đưa ra chủ trương thông tình đạt lý. Cách này... là cắt lấy nửa phần lãnh thổ của tệ quốc.

Thật là... thật là khinh người thái quá!

Hắn vừa nói vừa thở hồng hộc, đặt đít đánh bình một cái ngồi xuống, làm ghế rung động vang lên những tiếng lách cách.

Vi Tiểu Bảo khẽ hỏi:

- Nói tình thực với quý sứ thì nghị hòa hay phân chia cương giới chẳng có chi thú vị. Chúng ta hãy đánh nhau một trận đã. Quý sứ bảo có nên không?

Phi Yến Đa La vẫn chưa hết thở hồng hộc, phẫn nộ cơ hồ nhịn không nổi, những muốn đập bàn đứng lên quát lớn:

- Đánh nhau thì đánh nhau chứ sợ gì?

Nhưng hắn nghĩ tới nếu xảy cuộc chiến tranh, hậu quả sẽ cực kỳ nghiêm trọng! Bên mình tuyệt không hy vọng thủ thắng.

Hắn đành ráng nhịn, lẳng lặng không nói gì.

Vi Tiểu Bảo đột nhiên vỗ tay xuống bàn, cười nói:

- Có rồi, có rồi! Bản sứ còn một biện pháp khác rất công bằng.

Gã luồn tay vào bọc móc ra hai con xúc xắc, ghé miệng vào thổi một hơi rồi liệng xuống bàn nói:

- Quý sứ đã không muốn đánh nhau, lại không thích dùng phép Nhị nhất thiêm tác ngũ. Vậy chúng ta gieo xúc xắc...

Gã dừng lại một chút rồi tiếp:

- Từ Bắc Kinh tới Mạc Tư Khoa hãy kể là một vạn dặm đường. Chúng ta chia làm mười phần. Mỗi phần một ngàn dặm. Chúng ta liệng xúc xắc xuống mười bàn, mỗi bàn đặt cuộc ngàn dặm quốc gia. Nếu quý sứ thắng cả mười bàn thì giải đất từ đây cho đến chân thành Bắc Kinh thuộc về nước La Sát.

Phi Yến Đa La đằng hắng một tiếng rồi hỏi:

- Thế nhỡ tệ nhân thua cả mười bàn thì sao?

Vi Tiểu Bảo cười nói:- Có lẽ để quý sứ tự nói ra hay hơn.

Phi Yến Đa La hỏi:

- Chẳng lẽ giang sơn muôn dặm của tệ quốc về mé Đông thành Mạc Tư Khoa lại thuộc hết về Trung Quốc?

Vi Tiểu Bảo đáp:

- Bản sứ đoán vận khí của quý sứ không đến nỗi xúi quẩy như ngài nghĩ. Đâu có lý nào không ăn một bàn? Quý sứ chỉ thắng được một bàn là giữ được nghìn dặm lãnh thổ, hai bàn được hai nghìn dặm. ¡n đến bốn bàn là chiếm phần tiện nghi rồi.

Phi Yến Đa La hỏi:

- Sao như thế lại chiếm tiện nghi? Từ Mạc Tư Khoa đi về phía Đông đến Bắc Kinh đa phần là đất của nước Nga. Bảy nghìn dặm, tám nghìn dặm là thuộc về lãnh thổ Nga Quốc.

Hai bên tranh luận hồi lâu. Giáo sĩ phiên dịch đứng bên khẽ dịch sang Trung Quốc thoại.

Bọn Sách Ngạch Đồ, Đông Quốc Cương nghe ngóng, ban đầu còn tưởng Phi

Yến Đa La ngang ngạnh vô lý, đòi lấy sông Hắc Long Giang làm giới hạn, uy hiếp tỉnh Liêu Đông của Trung Quốc. Thế thì Mãn Châu là nơi phát tích gây dựng nghiệp rồng cũng để bọn di dịch uy hiếp hay sao? Trong lòng bọn họ đều cực kỳ phẫn nộ.

Sau họ nghe Vi Tiểu Bảo kéo dằng kéo dọ. Nào là trao đổi ấp phong, nào là dùng phép Nhị nhất thiêm tác ngũ, nào là gieo xúc xắc để hoạch định cương giới, mỗi bàn ăn nghìn dặm thổ địa, họ mới biết là gã nói nhăng nói càn, đối phương quyết chẳng ưng thuận.

Nhưng họ thấy Phi Yến Đa La khí thế chùn nhụt, lại nghe Vi Tiểu Bảo nói chỉ ham đánh trận lập công để mong cắt đất phong vương. Còn sứ thần nước Nga hiển nhiên ngoài mặt hung hăng mà trong lòng mềm nhũn không dám đối lời. Ai nấy đều nghĩ bụng:Người La Sát ngang ngược dã man, quả nhiên danh bất hư truyền. Nếu đàm phán một cách nghiêm chỉnh với chúng là mình bị kém thế. Đức Hoàng thượng phái

Vi Công tước chủ trương hòa nghị, quả là có tài dùng người một cách rất sáng suốt. Bọn quỷ phiên bang là hạng người dã man, chỉ có Vi Công gia bất học vô thuật nhưng đủ điều dân dã lưu manh mới dư bản lĩnh đối phó với chúng. Thật là vỏ quít dày gặp móng tay nhọn.

Nên biết bọn Sách Ngạch Đồ, Đông Quốc Cương lên mặt đại thần, tuy bề ngoài họ tỏ ra cực kỳ lễ độ cung kính đối với Vi Tiểu Bảo, mà thực ra trong lòng coi gã rất tầm thường.

Họ đều cho Vi Tiểu Bảo bất quá là thằng hề được Hoàng thượng sủng ái làm nên quan lớn. Hành động cùng ngôn từ bình nhật của gã biểu lộ xấu xa hèn hạ mà chính gã không biết xấu hổ.

Họ còn đinh ninh chuyến này gã đụng chạm với sứ thần ngoại quốc tất để ngoại bang cười cho và làm mất thể diện của Quốc gia.

Ngờ đâu đức Hoàng thượng liệu tài bổ chức, thu dụng gã vào việc trọng đại này thật xứng đáng.

Giả tỷ Hoàng thượng không sai phái một nhân vật chuyên nói chuyện trò bậy và cãi chầy cãi cối là Vi Tiểu Bảo vào công cuộc hòa đàm, thì trong các văn võ đại thần đầy rẫy chốn triều đường, thực không tìm được nhân vật thứ hai nào làm nổi.

Các đại thần càng nghe càng khâm phục và càng tôn sùng đức Hoàng thượng anh minh tài trí, chúng thần chẳng ai bì kịp.

Sách Ngạch Đồ nghe tới đây đột nhiên xen vào:

- Mạc Tư Khoa nguyên trước cũng là đất của Trung Quốc.

Phi Yến Đa La giật mình kinh hãi nghĩ bụng:

- Thằng lỏi kia giở giọng thiên hô bách sát đã đành. Sao cả lão già này cũng nhắm mắt nói mò như tuồng vô sỉ? Hắn bảo thành Mạc Tư Khoa của nước mình là đất Trung Quốc mới thật là kỳ?

Lại nghe Sách Ngạch Đồ nói:- Theo lời quý sứ thì người La Sát tạm thời chiếm cứ nơi nào là nơi ấy cũng thuộc lãnh thổ La Sát hay sao?

Phi Yến Đa La đáp:

- Như vậy cũng còn có lý. Quý sứ nói là Mạc Tư Khoa thuộc đất Trung Quốc thì, hà hà... tức cười đến nẻ ruột.

Sách Ngạch Đồ nói:

- Nhân dân La Sát gồm nhiều chủng tộc: Đại Nga La Tư, Tiểu Nga La Tư, Bạch

Nga La Tư, lại còn Kha Tát Khắc, Thát Đát gì gì nữa cũng đều là người La Sát?

Phi Yến Đa La đáp:

- Nhất định là thế. Đất đai tệ quốc rộng bát ngát, nhân dân dưới quyền thống trị cũng nhiều lắm.

Sách Ngạch Đồ nói:

- Trăm họ bên tệ quốc cũng gồm rất nhiều chủng tộc: Người Hán có, người Mông có, người Mãn có, người Miêu có, người Hồi có, người Tạng có...

Phi Yến Đa La đáp:

- Chính thế! Nga La Tư là nước lớn. Trung Quốc cũng là nước lớn. Hai nước chúng ta là nước lớn nhất trong những nước lớn.

Sách Ngạch Đồ nói:

- Chuyến này quý sứ đem đội vệ binh đi, dường như toàn là kỵ binh Kha Tát Khắc?

Phi Yến Đa La mỉm cười đáp:

- Kỵ binh Kha Tát Khắc nổi tiếng anh hùng vô địch. Có thể họ là những dũng sĩ lợi hại nhất thiên hạ.

Sách Ngạch Đồ hỏi:

- Kỵ binh Kha Tát Khắc còn lợi hại hơn cả người Nga La Tư nữa ư?

Phi Yến Đa La đáp:- Câu chuyện không phải như vậy. Người Kha Tát Khắc là trăm họ của nước La Sát, người Nga La Tư cũng là trăm họ trong nước La Sát, chẳng có gì phân biệt. Tỷ như người Mãn Châu cũng là bách tính của Trung Quốc, người Mông, người Hán... cũng là bách tính của Trung Quốc, chẳng có gì phân biệt.

Sách Ngạch Đồ gật đầu nói:

- Thế thì phải rồi. Vì vậy mà thành Mạc Tư Khoa cũng là lãnh thổ của Trung Quốc.

Vi Tiểu Bảo nghe hai người nói tới đây, còn chưa rõ chỗ dụng ý của Sách Ngạch Đồ. Gã biết đích Mạc Tư Khoa cách đây xa hàng vạn dặm, quyết chẳng phải lãnh thổ Trung Quốc, nhưng nghe lý thuyết của Sách Ngạch Đồ thì dường như có chứng cứ. Còn Phi Yến Đa La trán nổi gân xanh, sắc mặt lúc xám lại, lúc đỏ bừng. Hiển nhiên trong lòng hắn tức giận như phát điên, gã liền xen vào:

- Mạc Tư Khoa thuộc đất Trung Quốc là đúng lắm, tuyệt không sai lầm. Đức Hoàng đế Trung Quốc khoan hồng đại lượng cho các vị mượn ở đã lâu. Bản sứ tưởng bây giờ nên trả lại là phải, đừng bắt chước kiểu Lưu Bị tá Kinh Châu rồi muốn chiếm cứ vĩnh viễn, chẳng bao giờ hoàn lại.

Dĩ nhiên Phi Yến Đa La chẳng hiểu tích Lưu Bị tá Kinh Châu ý nghĩa thế nào, mà chỉ biết bọn Man tử Trung Quốc này không hiểu đạo lý, ăn nói hoàn toàn khác hẳn người văn minh. Hắn cười lạt nói móc:

- Trước kia tệ nhân nghe nói đến lịch sử Trung Quốc và tưởng là người Trung

Quốc học vấn sâu rộng. Không ngờ... ha ha... toàn nói những chuyện mù tịt chẳng có chứng cứ gì.

Sách Ngạch Đồ đáp:

- Quý sứ là một đại thần nước La Sát, dù chẳng có học vấn gì mấy, nhưng ít ra cũng biết lịch sử nước La Sát chứ?

Phi Yến Đa La đáp:

- Lịch sử bên tệ quốc đều có sách vở chứng minh rõ ràng, quyết chẳng khi nào căn cứ vào những lời loạn thuyết của kẻ bạ đâu nói đấy.

Sách Ngạch Đồ nói:- Thế thì hay lắm! Trước kia Trung Quốc có một vị Hoàng đế tên gọi Thành Cát Tư Hãn...

Phi Yến Đa La vừa nghe đến bốn chữ Thành Cát Tư Hãn, bất giác la lên một tiếng:

- ái chà!

Hắn than thầm:

- Hỏng bét, hỏng bét! Sao ta lại hồ đồ đến thế, quên khuấy cả việc lớn đó?

Sách Ngạch Đồ nói tiếp:

- Vị Thành Cát Tư Hãn này, bên Trung Quốc kêu bằng Nguyên Thái Tổ, vì ngài là Hoàng đế dựng ra cơ nghiệp nhà Nguyên ở Trung Quốc. Ngài là người Mông Cổ. Quý sứ vừa nói: Người Mãn Châu, người Mông Cổ hay người Hán đều là người Trung Quốc chẳng có gì phân biệt.

Lão dừng lại một chút rồi tiếp:

- Ngày ấy đạo kỵ binh Mông Cổ lên đường chinh Tây đã cùng quân La Sát đánh mấy trận lớn. Lịch sử quý quốc có chép rõ ràng. Quyết chẳng phải loạn thuyết của kẻ bạ đâu nói đấy. Không hiểu trong mấy trận đó người Trung Quốc thắng hay người La Sát thắng?

Phi Yến Đa La lặng thinh, hồi lâu mới đáp:

- Người Mông Cổ thắng.

Sách Ngạch Đồ hỏi vặn:

- Người Mông Cổ có phải là người Trung Quốc không?

Phi Yến Đa La đành phải gật đầu.

Vi Tiểu Bảo hoàn toàn không hiểu ngày trước đã có vụ này. Gã vừa nghe nói bất giác nở mặt nở mày, lên tiếng:

- Người Trung Quốc mà đánh với người La Sát thì người La Sát tất phải thất bại không còn nghi ngờ gì nữa. Bản lĩnh của các vị còn kém một bậc. Lần sau có đánh nhau, bên bản sứ chỉ dùng một tay đánh nhau cũng đủ. Nếu không thế thì lực lượng hai bên chênh lệch nhau quá, cuộc chiến đấu chẳng còn thú vị nữa.Phi Yến Đa La tức quá trợn mắt lên nhìn, miệng lẩm bẩm:

- Nếu không phải Công chúa điện hạ ban nghiêm lệnh lần này chỉ cho hòa chứ không cho đánh, thì gã buông lời nhục mạ người La Sát ta thế này, ta quyết đấu với gã một phen.

Vi Tiểu Bảo cười ha hả hỏi Sách Ngạch Đồ:

- Sách đại ca! Ngày trước Thành Cát Tư Hãn đánh bại quân La Sát sự tích thế nào? Đại ca kể lại nghe chơi.

Sách Ngạch Đồ đáp:

- Hồi đó Thành Cát Tư Hãn phái hai đội quân đi chinh Tây, mỗi đội một vạn người, cộng là hai vạn nhân mã mà đánh cho mười mấy vạn quân La Sát phải thua chạy thất điên bát đảo.

Lão dừng lại một chút rồi tiếp:

- Sau đó bên xứ Mông Cổ của chúng ta lại sản xuất một vị đại anh hùng tên gọi Bạt Đô, Bạt Đô thống lĩnh quân đội đánh binh tướng La Sát đến tơi bời hoa lá chiếm tòa thành Cơ Phụ rất lớn của nước La Sát rồi chiếm thành Mạc Tư Khoa.

Thế vẫn chưa hết, quân ta còn tràn đến Ba Lan, Hung Gia Lợi, vượt sông Đa Não Hà (Danube). Sau đó mấy trăm năm, vương công quý tộc người La Sát đều thích nghe chuyện người Trung Quốc. Hồi ấy vị anh hùng Mông Cổ bên tệ quốc đóng ở trong trướng bồng dát vàng. Đại Công tước ở Mạc Tư Khoa thường thường đến dập đầu lạy người Trung Quốc. Người Trung Quốc muốn đá đít là đá đít, muốn tát tai là tát tai. Người La Sát chỉ cười hề hề, lại reo hò "đánh hay quá!". Nếu không thế thì chẳng thể làm đến tước Công.

Vi Tiểu Bảo nghe nói cặp lông mày dương lên như nhảy múa, gã không ngớt

vỗ bàn hô:

- Hay thật! Hay thật! Té ra thành Mạc Tư Khoa ngày trước quả thuộc về Trung Quốc.

(Lời chú của tác giả: Đại tướng Mông Cổ là Bạt Đô tấn công vây hãm Mạc Tư Khoa và Cơ Phụ vào năm 1238. Từ năm 1240 đến 1480, người Mông Cổ thống trị nước Nga La Tư đất cát bao la trong hai trăm bốn mươi năm, đã dựng lên tòa "Kim trướng Hãn Quốc".Trong pho Đại anh bách liệu toàn thư ở mục "Nga La Tư" có ghi chép: Những vương tử phong Công tước ở thành Mạc Tư Khoa phải đến triều kiến Hoàng kim trướng của Mông Cổ Khả Hãn tại thành Tát Lai ở cửa sông Phục Nhĩ Gia để tiếp thụ phong hiệu. Bọn họ thường nhẫn nại chịu đựng những điều khổ nhục. Nhưng sau khi làm lễ triều bái trở về Mạc Tư Khoa họ có thể thu thuế người Thát Đát và lấn át những tiểu bang chư hầu lân cận.)

Phi Yến Đa La sắc mặt lúc xanh xám lúc trắng bợt.

Những điều thuật lại của Sách Ngạch Đồ theo đúng sử sách, quyết không giả trá. Có điều người La Sát trước nay không nhận người Mông Cổ là người Trung Quốc. Trong lúc nhất thời, Phi Yến Đa La không nhớ tới thành Mạc Tư Khoa trước kia đã thuộc quyền thống trị của người Mông Cổ một quãng thời gian khá lâu. Hiện nay Mông Cổ thuộc về Trung Quốc. Do đó mà suy luận thì bảo thành Mạc Tư Khoa thuộc về Trung Quốc cũng không phải là lời nói hàm hồ.

Vi Tiểu Bảo nói:

- Hầu tước các hạ! Bản chức nhận thấy việc hoạch định biên giới chúng ta bất tất phải đàm phán nữa. Xin các hạ trở về hỏi lại Công chúa bao giờ quý quốc sẽ đem thành Mạc Tư Khoa và thành Cơ Phụ hoàn lại Trung Quốc. Bản sứ cũng trở về Bắc Kinh lấy da bò và Hoàng kim để dựng Hoàng kim trướng bên bờ sông Phục Nhĩ Gia chờ Tô Phi á Công chúa đến ngủ. Ha ha! Ha ha!

Phi Yến Đa La nghe tới đây không thể nhịn được nữa, hắn đứng phắt dậy xông ra ngoài trướng.

Lại nghe hắn tức giận gầm lên như sấm và lớn tiếng quát tháo để truyền mệnh lệnh.

Kế đó tiếng vó ngựa dồn dập vang lên. Mấy trăm con ngựa nhất tề xông tới.

Vi Tiểu Bảo giật mình kinh hãi la lên:

- Trời ơi! Quân mao tặc muốn đánh nhau. Chúng ta phải trốn cho lẹ.

Đông Quốc Cương trải qua chiến trận đã nhiều, nét mặt vẫn bình tĩnh. Lão nói:- Vi Công gia bất tất phải hoang mang. Chúng muốn đánh thì đánh. Chẳng lẽ bọn ta lại sợ chúng sao?

Phía ngoài doanh trướng, hai trăm sáu chục tên kỵ binh Kha Tát Khắc hò reo rầm trời.

Vi Tiểu Bảo sợ quá toàn thân run bần bật. Gã cúi đầu chui vào gầm bàn.

Đông Quốc Cương và Sách Ngạch Đồ ngơ ngác nhìn nhau, trong bụng cũng hơi hoang mang.

Cửa trướng mở ra, một tướng rảo bước tiến vào. Chính là Hồng Triều thống lĩnh đội quân đằng bài. Hồng Triều lớn tiếng hô:

- Khải bẩm đại soái!...

Nhưng hắn không nhìn thấy đại soái đâu.

Vi Tiểu Bảo nằm dưới gầm bàn lên tiếng:

- Ta... ta... ta ở đây. Anh em... mau mau trốn đi.

Hồng Triều cúi xuống gầm bàn nhìn Vi đại soái nói:

- Khải bẩm đại soái! Quân La Sát thanh thế hùng dũng. Chúng ta chẳng thể khiếp nhược. Muốn làm con con mẹ nó thì làm.

Vi Tiểu Bảo nghe lời nói dũng cảm, liền trấn tĩnh tâm thần. Gã ở dưới gầm bàn bò ra.

Vừa rồi sự việc xẩy đến đột ngột, gã hoang mang chui vào gầm bàn, nhưng thực ra không phải gã khiếp đảm sợ chết.

Vi Tiểu Bảo vỗ ngực đáp:

- Phải lắm! Tổ bà nó muốn làm gì thì làm! Lão gia phải thân tiến sĩ tốt, dũng... dũng...Dũng quản tam quân, nhưng gã quên mất.

Gã dắt tay Hồng Triều chạy ra ngoài trướng.
 

Hoa Tử

Sưu tầm
Tham gia
24/9/19
Bài viết
10,492
Điểm cảm xúc
1,412
Điểm
113
Chương 239: Triều đình đại kế chủ hòa bình
Vi Tiểu Bảo vừa ra đến cửa doanh trướng, liền ngó thấy hai trăm sáu mươi tên kỵ binh Kha Tát Khắc trường đao tuốt trần, đưa lên cao. Chúng cưỡi toàn tuấn mã bao vây trướng hồng đang diễu võ dương oai đi vòng quanh chạy rất mau.

Phi Yến Đa La hạ lệnh một tiếng đoàn kỵ binh chạy ra xa. Chúng xếp thành đội ngũ đứng ngoài hai trăm trượng. Cứ hai mươi sáu tên là một hàng. Cả trước sau cộng thành mười hàng. Hàng ngũ rất chỉnh tề.

Đột nhiên chúng lớn tiếng reo hò lao rất mau về phía Vi Tiểu Bảo.

Vi Tiểu Bảo la lên:

- Má ơi là má ơi!

Gã toan chạy vào trướng, nhưng lại nghĩ:

- Bọn quỷ La Sát đã muốn giết ta thì ta có vào trướng cũng bị chúng lôi ra lại càng thêm nhục.

Mặt xám như tro tàn, người run bần bật, gã đứng yên không nhúc nhích.

Hồng Triều hô:

- Đằng bài thủ! Chuẩn bị bảo vệ đại soái! Tiến lên.

Hai trăm sáu mươi quân đằng bài đồng thanh hô:

- Tuân lệnh!

Rồi chúng rầm rộ chạy tới đứng ở phía trước Vi Tiểu Bảo cùng các đại thần.

Vi Tiểu Bảo rút đao trủy thủ ở ống giầy ra tự nhủ:

- Nếu bọn quỷ La Sát thực sự nổi tính man rợ, tất xảy một trường chiến đấu ác liệt, ta không thể phế bỏ điều nghĩa khí.

Gã liền mạnh dạn tiến ra đứng ở phía trước Sách Ngạch Đồ. Miệng gã hô:

- Sách đại ca đừng sợ. Đã có tiểu đệ bảo vệ cho đại ca.

Sách Ngạch Đồ là một văn quan, lão sợ quá chẳng còn hồn vía nào nữa, ấp úng đáp:

- Tiểu huynh... hoàn toàn... trông cậy vào huynh đệ.

Mười hàng kỵ binh Kha Tát Khắc xông tới rất lẹ. Khi chúng còn cách đội quân Thanh chừng năm sáu trượng thì tên đội trưởng đi trước vung trường đao chém dứ một đòn. Hắn quát to một tiếng. Đoàn kỵ binh lập tức dừng ngựa. Hai trăm sáu chục con tuấn mã đều dừng bước lại.

Tên đội trưởng lại hô một tiếng. Bọn kỵ binh rẽ ra chia làm hai toán. Một trăm ba chục tên quay về phía Bắc, một trăm ba chục tên quay về hướng Nam.

Chúng chạy ra mấy chục trượng quây lại thành vòng tròn và đứng cách xa trướng hồng ngoài hai trăm trượng. Đội ngũ vẫn tề chỉnh, không rối loạn chút nào.

Hai trăm sáu chục tên cưỡi hai trăm sáu mươi con ngựa đều răm rắp như một người cưỡi một ngựa. Quả nhiên chúng đã được huấn luyện rất tinh thục.

Phi Yến Đa La nổi lên tràng cười khanh khách, lớn tiếng hỏi:

- Công tước đại nhân! Đại nhân coi đội quân La Sát bên tệ quốc thế nào?

Vi Tiểu Bảo bây giờ mới hiểu hắn bất quá muốn khoa trương quân đội để thị uy. Trong lòng tức giận gã la lên:

- Đúng là một lũ khỉ làm trò, nếu đem dùng vào việc đánh trận thì toàn là đồ vô dụng.

Phi Yến Đa La tức giận hô:

- Chúng ta lại xông vào!

Miệng hắn lẩm bẩm:

- Lần này thử coi gã có chạy trốn không?

Hắn hô tiếp:

- Hãy lột hết nón đội trên đầu binh sĩ Trung Quốc!

Đội trưởng trong đội kỵ binh Kha Tát Khắc lại hô hiệu lệnh. Hai trăm sáu mươi tên quân kỵ liền xông vào.

Vi Tiểu Bảo quát:- Chém vào chân ngựa bọn chúng!

Hồng Triều hô:

- Xin tuân lệnh. Chặt chân ngựa, đừng giết người.

Tiếng vó ngựa rầm rầm như sấm nổ. Hai trăm sáu chục con ngựa chạy tới mỗi lúc một gần. Những thanh trường đao dưới ánh mặt trời lấp loáng có ánh sáng.

Đoàn kỵ mã chỉ còn cách ba chục trượng... hai chục trượng... mười trượng... vẫn chưa dừng bước.

Khi còn cách bốn, năm trượng, Hồng Triều hô:

- Cổn Đường đao! Tiến lên!

Hai trăm sáu chục tên đằng bài thủ nhảy vọt lại, lăn mình dưới đất xông vào.

Hai trăm sáu chục tên quân này đều do Lâm Hưng Châu thân hành rèn dậy môn Địa Đường đao pháp rất thuần thục. Chúng dùng lá mộc bằng giây leo để hộ vệ, không hở ra chút đao quang nào.

Quân kỵ binh Kha Tát Khắc đột nhiên thấy Thanh binh lăn mình dưới đất rất lấy làm kinh dị.

Bọn thủ quân ở Nhã Tát Khắc đã nếm mùi đau khổ của bọn đằng bài thủ, nhưng kẻ thì chết rồi, kẻ thì bị bắt. Cánh thủ quân hoàn toàn tan vỡ. Đội kỵ binh

Kha Tát Khắc này mới từ Mạc Tư Khoa hộ tống Phi Yến Đa La trong cuộc công du.

Trước nay chúng chưa được chứng kiến phép đánh trận của đằng bài binh, đều cho là bên địch ngu xuẩn quá mới lăn mình dưới đất. Chúng có bị ngựa xéo chết cũng không trách ai được.

Chỉ trong chớp mắt hàng đầu đội kỵ binh đã đụng phải quân đằng bài.

Đột nhiên tiếng ngựa thét vang, tới tấp ngã lăn ra.

Quân đằng bài vung lợi đao lên. Cứ mỗi đao là chém đứt một đôi chân ngựa.

Đã có đằng bài hộ thân, chúng lăn xả vào đâm chém.

Quân La Sát la ó vang trời pha lẫn với tiếng ngựa thét.

Đội đằng bài đã lăn vào tới hàng thứ mười bên địch và chém đứt một trăm bảy, tám chục đôi chân ngựa rồi xếp hàng ở phía sau đội kỵ binh Kha Tát Khắc.Có đến quá phần nửa quân Kha Tát Khắc bị ngã xuống còn mấy chục tên liền quay ngựa chạy trốn. Thế là đội quân tan vỡ.

Hồng Triều dẫn đội đằng bài binh chạy về thật mau đứng xếp hàng trước Vi Tiểu Bảo. Toàn đội hai trăm sáu chục người chỉ có mười mấy người bị ngựa dẫm lên hay đá bị thương, nhưng thương thế rất nhẹ. Chúng vẫn nhịn đau đớn và đứng nguyên trong hàng ngũ.

Hai trăm sáu chục tên kỵ binh Kha Tát Khắc, một số bị ngựa đè lên, nằm dưới đất rên rỉ kêu la, một số phóng ngựa chạy tán loạn ra tận đằng xa. Còn phần lớn đứng xuống đất, chân tay luống cuống.

Bọn kỵ binh này suốt đời kỵ mã, có ngồi trên lưng ngựa mới phát huy được tài kiêu dũng. Một khi hai chân đứng xuống đất là chẳng khác gì cá mất nước, không còn chỗ nương tựa để vùng vẫy.

Vi Tiểu Bảo hô:

- Chia quân lấy phân nửa bao vây đại quan La Sát!

Hồng Triều truyền hiệu lệnh ra. Một trăm quân đằng bài liền kéo đến bao vây bọn Phi Yến Đa La và bọn đại quan La Sát hơn chục người. Một trăm thanh đại đao tổ hợp thành một vòng tròn đao. Mũi đao hướng vào phía trong. Chỉ cần hô một tiếng hiệu lệnh là cả trăm thanh đại đao nhất tề phóng vào. Bọn Phi Yến

Đa La sẽ lập tức bị đâm nát ra như tương.

Mấy tên chánh phó đội trưởng đoàn kỵ binh Kha Tát Khắc thấy tình trạng này vội chạy lại lớn tiếng la:

- Đừng có giết người! Đừng có giết người!

Vi Tiểu Bảo quay lại nhìn Song Nhi hiện cải trang làm thân binh , ra lệnh:

- Lại điểm huyệt chúng đi!

Song Nhi dạ một tiếng tung mình vọt tới sau lưng tên đội trưởng kỵ binh Kha Tát Khắc, thị điểm huyệt vào huyệt đạo sau lưng hắn, rồi lại điểm huyệt tên phó đội trưởng.

Một tên tiểu đội trưởng thò tay vào bọc rút súng lục ra quát:

- Không được nhúc nhích!Song Nhi chụp một tên quân La Sát đứng bên để che đỡ phía trước. Thị đẩy gã tiến lên mấy bước.

Tên tiểu đội trưởng kia không dám nổ súng, lại la lên:

- Không được nhúc nhích!

Song Nhi chụp tên La Sát đó nhấc bổng lên liệng tới.

Tên tiểu đội trưởng giật mình kinh hãi nghiêng mình né tránh.

Song Nhi thừa cơ nhảy lại điểm vào những huyệt dạo trước ngực và sau lưng gã rồi đoạt lấy khẩu súng lục trong tay đối phương. Thị trỏ súng lên trời bắn chỉ thiên đánh đoàng một tiếng:

Vi Tiểu Bảo hô lớn:

- Hay lắm! Hai bên đã hứa không được đem theo hỏa khí. Bọn quỷ La Sát các ngươi không kể gì đến chữ tín.

Gã tiến lại mấy bước nhìn Phi Yến Đa La nói:

- Này! Đại nhân bảo bọn thủ hạ liệng binh khí trong tay đi, xuống ngựa hết, xếp thành hàng ngũ. Tên nào còn dắt hỏa khí trong mình phải lôi ra hết.

Phi Yến Đa La nhận thấy mình không thể nào kháng cự được đành nghe theo lời Vi Tiểu Bảo truyền lệnh xuống.

Bọn kỵ binh Kha Tát Khắc đành liệng đao kiếm rồi xuống ngựa, xếp thành đội ngũ.

Vi Tiểu Bảo lại sai một trăm sáu chục tên đằng bài thủ bao vây bốn mặt ra sục tìm trong mình bọn quân La Sát.

Chúng lấy được hơn hai trăm tám chục khẩu súng lục vì trong đoàn kỵ binh hai trăm sáu mươi người, nhưng một số đem theo hai khẩu.

Bọn quân La Sát ở dưới chân thành Ni Bố Sở ngó thấy tình thế xảy biến cố liền từ từ tiến ra.

Mé Đông quân Thanh cũng lập tức tiến vào.

Hai bên cách nhau mấy trăm bước thì dừng lại dàn trận đối lập.Đoàn quân La Sát thấy chủ soái bị vây đành ngấm ngầm kêu khổ, không dám tự động.

Vi Tiểu Bảo hỏi Phi Yến Đa La:

- Hầu tước đại nhân! Đại nhân cho đem nhiều hỏa khí đến làm gì vậy?

Phi Yến Đa La cúi đầu đáp:

- Xin lỗi Công tước đại nhân! Bọn vệ binh thủ hạ của tệ nhân không theo mệnh lệnh, ngầm đeo hỏa khí. Tệ nhân sẽ trọng phạt bọn chúng.

Vi Tiểu Bảo hô:

- Đằng bài thủ! Các ngươi cởi hết y phục ra để họ coi có ngầm dấu hỏa khí không?

Hai trăm sáu chục tên đằng bài thủ bỏ lá mộc xuống. Tay mặt giơ đại đao lên cao để đề phòng đối phương hành động bất trắc. Chúng dùng tay trái để cởi áo.

Mọi người cởi áo rồi, mình trần trùng trục, nhảy lên mấy cái. Quả nhiên không một ai đeo súng.

Phi Yến Đa La trong lòng hổ thẹn, cúi đầu xuống không dám nói gì.

Vi Tiểu Bảo lại lớn tiếng:

- Bọn người La Sát mặt dầy không thủ tín, chẳng thể tin được. Lột quần áo bọn chúng ra khám kỹ lại xem có còn hỏa khí không?

Phi Yến Đa La kinh hãi vội nói:

- Công tước đại nhân! Xin đại nhân rộng ơn cho. Đại nhân... đại nhân... mà lột quần tệ nhân, thì tệ nhân... đành chịu tự sát...

Vi Tiểu Bảo đáp:

- Cái gì thì được, còn việc cởi quần thì không thể khoan miễn.

Phi Yến Đa La năn nỉ:

- Xin đại nhân khoan thứ cho một lần. Nhất thiết mọi điều gì khác, tệ nhân đều xin tuân theo ý kiến của đại nhân.

Vi Tiểu Bảo hỏi:- Vừa rồi đội kỵ binh của Hầu tước đại nhân xông lại làm cho bản sứ khiếp quá phải chui vào gầm bàn, như thế còn chi là thể diện của Công tước đại nhân?

Vụ này Hầu tước đại nhân tính sao đây?

Phi Yến Đa La mắng thầm:

- Cái đó tự ngươi nhát gan, ta biết làm thế nào?

Nhưng ngoài miệng hắn đáp:

Tệ nhân xin nguyện ý bồi thường những sự tổn thất của đại nhân.

Vi Tiểu Bảo trong lòng hoan hỷ nghĩ thầm - Đến lúc làm tiền được rồi đây.

Nhưng trong lúc nhất thời gã nghĩ không ra bắt đối phương bồi thường bằng cách nào, liền hạ lệnh:

- Hãy cắt đai quần từ đại quan cho đến tiểu binh La Sát.

Bọn đằng bài thủ hô lớn:

- Xin tuân lệnh!

Chúng giơ đao lên thò vào sau lưng bọn người La Sát, quay lưỡi ra ngoài kéo một cái. Lập tức đai lưng bị đứt liền.

Bọn người La Sát từ Phi Yến Đa La trở xuống chẳng một ai là không sợ hết hồn, hai tay giữ chặt cạp quần chỉ sợ tụt mất.

Vi Tiểu Bảo nổi lên tràng cười khanh khách ra lệnh:

- áp giải bọn người La Sát, nổi hiệu đắc thắng đưa về doanh trướng.

Lúc này quan binh La Sát ai cũng chỉ lo tụt quần, tuyệt không dám kháng cự, riu ríu theo bọn Thanh binh giữ nguyên đội ngũ đi về phía Đông.

Đông Quốc Cương cười nói:

- Trí kế của Vi đại soái quả là thần diệu. Ai cũng phải khâm phục. Chỉ trong khoảnh khắc mà Cột được hai tay của hết thảy ba trăm quan binh La Sát.

Vi Tiểu Bảo cười đáp:- Bọn nam nhân La Sát sợ nhất là bị tụt quần. Trái lại, bọn nữ nhân không ngán vụ đó. Thế có lạ không?

Bọn Đông Quốc Cương híp mắt lại mà cười một cách mê ly.

Đoàn người và đại quân hội họp rồi, đoàn quân Thanh đẩy hơn hai trăm cỗ súng lớn ra, bỏ áo súng đi, miệng súng chĩa về phía quân La Sát.

Thời bấy giờ tuy hỏa khí nước La Sát đã lợi hại lắm, nhưng ở phía Đông cũng không đem đến nhiều bằng Vua Khang Hy đã chuẩn bị cho một cuộc đại chiến.

Có đến phân nửa súng ống được điều động cho trận tuyến Ni Bố Sở. Bất luận về binh lực hay hỏa khí bên quân Thanh cũng nhiều hơn gấp mấy lần.

Cánh quân La Sát đột nhiên ngó thấy rất nhiều súng lớn, đều ngơ ngác nhìn nhau, lộ vẻ cực kỳ khiếp sợ.

Các tướng thống lĩnh quân đội vội truyền lệnh đóng cổng thành lại. Nhưng quân Thanh cũng không đánh thành.

Lúc này đội trưởng, phó đội trưởng và một tên tiểu đội trưởng đoàn kỵ binh Kha Tát Khắc đã bị Song Nhi điểm huyệt không nhúc nhích được. Ba tên này đứng ở chỗ đất trống coi chẳng khác gì nhưng pho tượng gỗ.

Các binh tướng La Sát hối hả chạy vào thành, chưa kịp lưu tâm đến. Bây giờ đứng trên mặt thành nó thấy đều lấy làm kinh dị, nhưng chẳng ai dám chạy ra cứu viện.

Sau chừng nửa giờ họ thấy ba người vẫn đứng trơ không nhúc nhích, một đội kỵ binh Kha Tát Khắc mở cửa thành đến cứu.

Nhưng đội kỵ binh này mới đi được hơn mười trượng, bỗng nghe quân Thanh nổ mấy phát súng lớn.

Tướng thủ thành vội nổi hiệu lui quân. Đội kỵ binh Kha Tát Khắc lại lật đật quay về. Chúng sợ quân Thanh kéo đến thì cả đội quân đi cứu viện cũng bị vây hãm.

Quân hai bên cách nhau đến mấy trượng. ở đằng xa ngó thấy ba người đứng không nhúc nhích, tư thế rất quái dị rất lấy làm kỳ, bỗng nghe quân Thanh nổi lên tràng cười ho hố, hết thảy La Sát binh càng kinh hãi hơn.Vi Tiểu Bảo đưa bọn Phi Yến Đa La vào trong doanh trướng.

Chủ khách an tọa rồi, bọn thân binh bưng trà ra mời.

Vi Tiểu Bảo chỉ cười hì hì chứ không nói gì.

Phi Yến Đa La tức giận lên tiếng:

- Công tước đại nhân! Đại nhân đừng đem tệ nhân ra làm trò cười nữa. Đại nhân muốn giết thì giết quách đi cho rồi!

Vi Tiểu Bảo cười đáp:

- Bản sứ cùng Hầu tước đại nhân là chỗ bạn hữu, sao lại giết nhau được? Bây giờ chúng ta lại bàn đến chuyện phân chia cương giới.

Gã cho là lúc này các đại thần bên đối phương đã lọt vào tay mình thì bất luận mình đưa ra điều khoản gì, họ cũng khó lòng chống lại.

Không ngờ Phi Yến Đa La là một quân nhân xuất thân bản tính rất quật cường. Hắn ngang nhiên đáp:

- Tệ nhân là tù binh của đại nhân, không còn là sứ thần ngang hàng để thương nghị việc hoạch định cương giới nữa. Tệ nhân đã ở dưới sự uy hiếp của đại nhân thì điều khoản gì cũng không thể đàm phán được. Dù đàm phán thành tựu, kiềm chữ rồi, cũng coi là vô hiệu.

Vi Tiểu Bảo hỏi:

- Sao lại vô hiệu?

Phi Yến Đa La đáp:

- Nhất thiết mọi điều khoản đều do đại nhân định đoạt thì còn đàm phán cái gì? Đại nhân không thể bức bách tệ nhân đàm phán được?

Vi Tiểu Bảo hỏi:

- Sao lại không bức bách đại nhân đàm phán được?

Phi Yến Đa La đáp:

- Nói tóm lại là tệ nhân không chịu khuất phục. Đại nhân vung đao chém hay nổ súng bắn chết tệ nhân thì cứ việc động thủ đi!Vi Tiểu Bảo cười hỏi:

- Nếu bản sứ kêu người lột trần Hầu tước thì sao?

Phi Yến Đa La tức giận đến cùng cực, đứng phắt dậy quát:

- Ngươi...

Hắn vừa nói được tiếng ngươi, đột nhiên quần tụt xuống, vội đưa tay nắm lấy.

Nguyên đai quần hắn đã bị đứt. Lúc ngồi trên ghế, không cần để tay giữ cạp quần. Trong cơn thịnh nộ, hắn đứng phắt dậy, quên mất vụ này. May mà hắn còn cứu vãn kịp thời, chưa đến nỗi hở hang làm cho xấu mặt.

Các đại quan và bọn tùy tùng bên Thanh ở trong trướng không sao nhịn được đều nổi lên tràng cười rộ.

Phi Yến Đa La tức giận đến sắc mặt lợt lạt mà hai tay vẫn phải nắm giữ cạp quần, bộ dạng coi rất tức tưởi.

Hắn toan đưa ra những lời khích ngang khẳng khái một phen cho bõ tức. Khốn nỗi hai tay còn bận việc, không thể chỉ trỏ vung múa cho thêm uy thế. Hắn muốn hiên ngang cũng chỉ đến được hạn độ nào mà thôi.

Phi Yến Đa La hắng giọng mấy tiếng, ngồi xuống nói:

- Ta là Khâm sứ của Sa Hoàng bệ hạ nước La Sát, ngươi không làm nhục ta được. Bậc đại trượng phu thà chết chứ không chịu nhục.

Vi Tiểu Bảo đáp:

- Hầu tước đại nhân cứ yên lòng. Bản sứ không làm nhục đâu. Chúng ta hãy hòa hảo mở lại cuộc đàm phán phân chia cương giới.

Phi Yến Đa La móc túi lấy khăn bịt cửa miệng buộc quanh ra sau gáy để tỏ ý không lên tiếng về cuộc hòa đàm.

Vi Tiểu Bảo sai thân binh đem rượu ngon nhắm tốt bày lên bàn. Gã rót rượu ra chung, cười nói:

- Mời đại nhân! Đại nhân bất tất phải khách sáo.

Phi Yến Đa La ngửi thấy mùi rượu thơm ngát không nhịn được, cởi khăn tay, nâng chung lên uống.Vi Tiểu Bảo cười hỏi:

- Hầu tước đại nhân lại dùng đến miệng ư?

Phi Yến Đa La uống rượu ăn thịt, vẫn không trả lời, tỏ ra dùng miệng để ăn uống chứ không để nói.

Vi Tiểu Bảo tiếp tục khuyên mời. Gã nghĩ bụng cho hắn uống say hoặc giả làm cho hắn phải khuất phục.

Không ngờ Phi Yến Đa La uống mười mấy chung rồi, cầm khăn lau miệng xong bịt lại buộc chằng ra sau như trước.

Vi Tiểu Bảo thấy tình trạng này không khỏi bật cười. Gã sai thân binh dẫn hắn vào hậu trướng nằm nghỉ và ra lệnh canh giữ nghiêm mật.

Vi Tiểu Bảo cùng bọn Sách Ngạch Đồ, Đông Quốc Cương ngồi lại bàn cách đối phó.

Đông Quốc Cương nói:

- Thằng cha này quật cường như vậy, hắn kiên quyết không chịu cùng chúng ta mở cuộc hòa đàm mà chịu tha hắn về thì thật chẳng cam tâm chút nào.

Sách Ngạch Đồ hiến kế:

- Hãy giam giữ hắn mươi ngày hay nửa tháng, mỗi bữa làm thịt mấy tên quỷ La Sát trước mặt hắn, thử xem hắn có quật cường mãi không?

Đông Quốc Cương đáp:

- Nếu chúng ta bức bách quá, hắn tự tử thì thật rầy rà! Chúng ta dùng võ lực bắt đại thần của đối phương ép việc nghị hòa, không chừng Hoàng thượng còn gia tội bọn mình nữa.

Sách Ngạch Đồ gật đầu nói:

- Đông Công gia nói thế là phải. Mình cứ một mực dùng cương cũng không được.

Các đại thần thương nghị hồi lâu vẫn chưa tìm ra diệu sách.Bữa nay bắt được Phi Yến Đa La tuy là một phen thắng trận, nhưng không

hợp với chủ ý của Vua Khang Hy trong cuộc mưu hòa, mà còn phản bội đại kế của

triều đình. Nếu không khéo xử lý sẽ phạm vào trọng tội vi chỉ.

Sau các đại thần đều khuyên Vi Tiểu Bảo nên buông tha Phi Yến Đa La.

Vi Tiểu Bảo đáp:

- Được rồi! Chúng ta hãy giữ hắn lại một đêm, sáng mai sẽ thả về cũng chưa

muộn.

Gã vào tẩm trướng bước lui rồi lại bước tới để suy nghĩ kế hoạch, đột nhiên

gã lẩm bẩm:

- Bữa trước ta đã theo bài học của Gia Cát Lượng phóng hỏa đốt hang Bàn Xà và đại thắng ở Nhã Tát Khắc. Nay ta lại học Chu Du chơi Tưởng Cán ở Hội Quần Anh.

Gã tính toán hồi lâu sắp đặt kế hoạch rồi trở ra quân trướng.

Vi Tiểu Bảo truyền thân binh đi mời vị giáo sĩ Hà Lan tới để dặn dò mật kế.

Gã lại sai người kêu Hoa Bá Tư Cơ và Tề Lạc Nặc Phu vào trướng khẽ dặn làm như thế, như thế...

Gã còn gọi bốn tướng và đội trưởng đội thân binh vào bảo làm như vậy như vậy...

Mọi người lãnh mạng lui ra.

Hoa Bá Tư Cơ và Tề Lạc Nắc Phu tuy biết vụ này cực kỳ ngoắt ngoéo, nhưng ngó thấy bốn tên thân binh tay cầm đại đao lăm lăm đứng ở phía sau dĩ nhiên chúng chỉ còn cách vâng dạ luôn miệng, không dám phản bội.

Phi Yến Đa La nằm nghỉ trên giường trong hậu trướng, những luồng tư tưởng nổi lên như sóng cồn. Lúc thì kinh hãi, lúc lại hối hả, hắn trằn trọc không sao ngủ được.

Bỗng nghe tiếng ngáy như sấm ở ngoài cửa trướng. Ba tên lính canh đều là thân binh ngủ say cả rồi.

Phi Yến Đa La nghĩ bụng:- Ta đã lọt vào tay bọn Man tử Trung Quốc mà không chịu những điều khoản của chúng đưa ra, tất khó bề thoát thân. Sáng mai tên tiểu quỷ kia không chừng nổi nóng vung đao chém giết mình, há chẳng oan uổng ru? May mà trời còn thương: Ba tên quân canh ngủ cả rồi. Chi bằng ta mạo hiểm trốn đi.

Hắn liền rón rén ngồi dậy, cởi sợi dây da đeo trên vai xuống để thắt lưng cho khỏi tụt quần.

Phi Yến Đa La cất bước nhẹ nhàng lần về phía cửa trướng, vẫn thấy ba tên thân binh tựa vào cột trướng ngủ say. Hắn vươn tay ra sau lưng một tên thân binh định rút lấy thanh bội đao. Ngón tay hắn sắp đụng vào đốc đao thì đột nhiên tên thân binh này ngáp dài một cái.

Phi Yến Đa La giật mình kinh hãi, vội rụt tay về.

Sau một lúc, hắn không thấy động tĩnh gì, lại toan cử động rút bội đao của tên thân binh khác.

Giữa lúc ấy tên thân binh kia vươn vai một cái, miệng nói mấy câu mơ ngủ.

Phi Yến Đa La không dám chần chừ, rón rén bước ra cửa trướng, mừng thầm ba tên thân binh đều không phát giác.

Phi Yến Đa La ra ngoài trướng rồi, đứng thu mình trong bóng tối.

Bỗng thấy bên ngoài có bọn vệ binh tay cầm đèn lồng, tay cầm đơn đao đi tuần tiễu.

Phi Yến Đa La đảo mắt nhìn quanh thấy ba mặt Bắc, Đông, Nam đều có quân lính đi tuần, chỉ một mặt Tây là tối mò, dường như không người. Hắn liền từ từ cất bước tiến về phía đó. Mỗi khi thấy đội quân tuần phòng tới gần, hắn lại co mình đứng nép vào sau trướng bồng. May mà dọc đường đi về phía Tây, hắn được bình yên vô sự.

Phi Yến Đa La vừa đến phía sau tòa đại trướng, đột nhiên mé Tây có đội tuần tiễu đi tới, hắn vội ẩn vào sau trướng.

Phi Yến Đa La đột nhiên vẳng nghe trong trướng có người nói chuyện mà nói bằng tiếng La Sát.
 

Hoa Tử

Sưu tầm
Tham gia
24/9/19
Bài viết
10,492
Điểm cảm xúc
1,412
Điểm
113
Chương 240: Phân cương giới trung hoa thắng lợi
Bỗng thấy người kia nói:

- Công tước đại nhân quyết ý dẫn binh đến đánh Mạc Tư Khoa tuy chẳng phải là việc không thể làm được, có điều đường sá xa xôi cực kỳ nguy hiểm?

Phi Yến Đa La nghe đến câu "Công tước đại nhân quyết ý dẫn binh đến đánh Mạc Tư Khoa". Bất giác giật mình kinh hãi, liền cúi rạp xuống, vạch chân trướng bồng ra dòm vào.

Hắn không ngó còn khá, vừa ngó vào đã trống ngực đánh hơn trống làng.

Trong trướng đèn lửa sáng hơn ban ngày.

Vi Tiểu Bảo toàn thân mặc nhung trang ngồi ở chính giữa. Hai bên mười mấy đại tướng thị lập.

Phía dưới mấy chục tên thân binh tay cầm đại đao sáng loáng.

Người vừa nói chính là giáo sĩ Hà Lan đứng cạnh bàn Vi Tiểu Bảo.

Lại nghe Vi Tiểu Bảo lên tiếng:

- Chúng ta giả vờ ở đây cùng Khâm sai đại thần nước La Sát thương nghị hoạch định cương giới. Cuộc hòa đàm kéo dài một tháng, hai tháng, rồi hơn nữa và thủy chung vẫn không đi tới kết quả. Đại quân ngấm ngầm nhổ trại nhắm phía Tây trực chỉ. Sa Hoàng và Nhiếp Chính Nữ Vương nước La Sát thỉnh thoảng lại nhận được báo cáo đưa về phúc trình nói công cuộc nghị hòa đang tiếp tục tiến hành dĩ nhiên họ không nghi ngờ và không phòng bị. Đại quân Trung Quốc kéo đến chân thành Mạc Tư Khoa tấn công một cách đột ngột là có thể bắt được hai tên Sa Hoàng và Tô Phi á Công chúa. Vụ này há chẳng là một công lao rất lớn?

Giáo sĩ Hà Lan đáp:

- Tệ nhân chẳng hiểu gì về việc hành quân đánh trận. Có điều một mặt nghị hòa với người La Sát, lại một mặt dẫn binh đến đánh lén kinh thành của họ thì ra không đếm xỉa gì đến tín nghĩa hay sao. Đạo lý của đức Thượng đế giáo huấn người đời không được lừa gạt cũng không được nói dối.

Vi Tiểu Bảo cười nói:

- Ha ha! Đây là người La Sát không thủ tín trước. Hai bên đã giao hẹn khi hội nghị vệ binh không được đem theo hỏa khí. Thế mà bọn họ mỗi người đều ngấm ngầm dắt súng trong mình. Chúng lừa gạt người được chẳng lẽ bọn ta không lừa gạt lại chúng hay sao? Cái đó kêu bằng ăn miếng trả miếng, chứ không phải man trá.

Giáo sĩ Hà Lan đằng hắng một tiếng, hồi lâu mới nói:

- Tệ nhân khuyên Công tước đại nhân không nên mở cuốc chiến trinh là hơn, vì hai nước giao tranh sẽ gây chết chóc cho con dân hai nước, tức là con dân của Thượng đế...

Vi Tiểu Bảo xua tay lia lịa đáp:

- Giả tỷ Phi Yến Đa La chịu đàm phán một cách công bằng nhường cho Trung Quốc chiếm thêm một chút thổ địa thì cuộc hòa đàm đã đem lại kết quả rồi.

Nhưng hắn không chịu nhường một tấc đất. Chúng ta hãy khởi binh đánh chiếm Mạc Tư Khoa, thử xem bọn người La Sát còn nói được gì nữa không?

Phi Yến Đa La càng nghe càng bở vía la thầm:

- Lạy đức Thượng đế! Bọn Man tử Trung Quốc này hành động vô pháp vô thiên lớn mật làm càn...

Lại nghe Vi Tiểu Bảo hỏi:

- Bữa nay ta chỉ phái một tên thân binh đụng đầu ngón tay vào mình ba tên đội trưởng Kha Tát Khắc mà cho đến bây giờ chúng vẫn không nhúc nhích được.

Giáo sĩ có trông thấy không?

Giáo sĩ hỏi lại:

- Tệ nhân trông thấy rồi. Đó là ma thuật gì mà kỳ lạ vậy?

Vi Tiểu Bảo đáp:- Thứ ma thuật này ở Trung Quốc nguyên được Thành Cát Tư Hãn truyền cho từ trước.

Gã hắng giọng nói tiếp:

- Thành Cát Tư Hãn đã dùng pháp thuật đó đánh người La Sát khiến họ chỉ còn đường quỳ xuống đầu hàng. Nay bọn ta lại theo phương pháp cũ của Thành Cát Tư Hãn để đánh nước La Sát, nhất định có thể chinh phục được.

Phi Yến Đa La bụng bảo dạ:

- Ngày trước người Mông Cổ chỉ có hai vạn nhân mã mà đánh tới Ba Lan, Hung Gia Lợi, khắp thiên hạ không ai cản nổi, thì ra chúng đã dùng ma thuật. Người phương Đông thật cổ quái! Bọn họ mà dùng pháp thuật thì... thì làm thế nào?

Lại nghe giáo sĩ nói:

- Nếu bọn người La Sát nổ súng từ đằng xa thì ma thuật của các vị sẽ thành vô dụng.

Vi Tiểu Bảo cười đáp:

- Vì thế mà bọn ta phải giả vờ tiếp tục cuộc đàm phán ở đây, còn quân đội kéo đến đánh lén Mạc Tư Khoa.

Gã dừng lại một chút rồi tiếp:

- Bản sứ đã đến Mạc Tư Khoa. Trong thành này rất nhiều người Thát Đát.

Binh sĩ của chúng ta đã hóa trang làm bọn người mục súc Thát Đát để trà trộn vào thành, tất bọn quân canh La Sát không phát giác được.

Phi Yến Đa La nghe tới đây sau lưng ướt đẫm mồ hôi. Hắn nghĩ thầm:

- Tên tiểu quỷ Trung Quốc này mà dùng độc kế đó thì thật là nguy hại! Quân Trung Quốc hóa trang làm bọn mục súc Thát Đát trà trộn vào thành bên ta để thi triển ma thuật thì làm sao chống lại được?

Hắn không hiểu Song Nhi đã dùng thủ thuật điểm huyệt ba tên đội trưởng Kha Tát Khắc.Điểm huyệt là một công phu rất cao thâm về võ học. Nội công phải luyện đến trình độ thượng thừa mới sử dụng được. Trong mấy vạn quân Thanh chỉ một mình thị học được công phu điểm huyệt.

Phi Yến Đa La lại tưởng môn ma thuật này hễ có người truyền thụ là ai cũng phát huy được. Nếu chỉ đụng một ngón tay đủ làm cho đối phương hết nhúc nhích thì mấy vạn quân Trung Quốc dùng cách này đến công tập Mạc Tư Khoa e rằng có thể đưa người La Sát vào đường vong quốc diệt chủng.

Lại nghe giáo sĩ nói:

- Công tước đại nhân phái hai vạn quân Trung Quốc trà trộn vào thành Mạc Tư Khoa, lại dùng ma thuật của Thành Cát Tư Hãn kiềm chế bọn thủ quân La Sát thì việc bắt hai vị Sa Hoàng cùng Nhiếp Chính Nữ Vương quả có thể thành công được. Nhưng... nhưng vụ này cần phải giữ cực kỳ cơ mật. Khi đại quân tiến về phía Tây đừng để bọn người La Sát hay biết.

Giáo sĩ hạ thấp giọng xuống nói tiếp:

- Công tước đại nhân! Hiện nay nước La Sát đã cực kỳ lớn mạnh, so với hồi Thành Cát Tư Hãn tiến đánh ngày trước khác nhau một trời một vực.

Vi Tiểu Bảo đáp:

- Bản sứ đã tới Mạc Tư Khoa, tình hình nước La Sát thế nào ta đều hiểu rõ hết. Sáng mai bọn ta thả Phi Yến Đa La về rồi cùng hắn mở cuộc đàm phán nhưng dằng co cho thật lắm chuyện, thủy chung không chấm dứt được. Cuộc đàm phán ở đây kéo dài một bữa là đại quân Trung Quốc tiến gần Mạc Tư Khoa thêm một ngày đường.

Giáo sĩ nói:

- Đúng thế! Đại nhân nhất thiết nên thận trọng. Vụ này thật nguy hiểm vô cùng!

Vi Tiểu Bảo đáp:

- Bản sứ biết lắm. Giáo sĩ cũng đừng môi hở răng lạnh để tiết lộ phong thanh, nhất là phải giữ gìn ý tứ, chớ để Phi Yến Đa La sinh lòng ngờ vực.

Giáo sĩ vâng lệnh lui ra.Vi Tiểu Bảo lại hạ lệnh:

- Truyền cho Vương Bát Tử Kê và Trư La Nọa Phu vào đây!

Một tên thân binh chạy ra ngoài trướng dẫn Hoa Bá Tư Cơ và Tề Lạc Nặc Phu vào.

Vi Tiểu Bảo nhìn hai người nói:

- Sáng sớm mai ta phái hai đội nhân mã đến Mạc Tư Khoa để đưa lễ vật rất trọng hậu tặng cho Tô Phi á Công chúa. Vì đường sá xa xôi lại lắm trộm cướp nên phải phái nhiều quan binh bảo vệ lễ vật, đề phòng chuyện bất trắc có thể xảy ra.

Hoa Bá Tư Cơ đáp:

- Từ đây tới Mạc Tư Khoa chỉ có số ít cường đạo là bọn người Thát Đát, chẳng lấy gì làm nguy hiểm cho lắm. Xin Công tước đại nhân cứ yên tâm.

Vi Tiểu Bảo mắng liền:

- Ngươi thì còn biết gì mà nói? Những bọn cường đạo Thát Đát thường thường đến tám, chín nghìn người một toán, có khi lên tới mấy vạn không chừng.

Hoa Bá Tư Cơ và Tề Lạc Nặc Phu đưa mắt nhìn nhau ra vẻ không tin.

Vi Tiểu Bảo hỏi:

- Ta phái hai đại đội nhân mã chia hai ngả đường Nam Bắc tiến đến Mạc Tư Khoa, Vương Bát Tử Kê làm hướng đạo cánh quân mặt Bắc, Trư La Nọa Phu làm hướng đạo cánh quân ngả Nam. Hai nẻo đường này đi qua những đâu để tới kinh thành nước La Sát?

Hoa Bá Tư Cơ đáp:

- Nẻo đường mặt Nam lúc bắt đầu cũng vậy, tức là đi tới hồ Bối Gia Nhĩ rồi rẽ về phía Tây Nam, qua một địa phương đông người cư trú kêu bằng Hợp Tát Khắc. Từ đó cứ nhằm phía Tây trực chỉ, qua áo Nhĩ Tư Khắc, Ô Lạp Nhĩ Tư Khắc là tới Mạc Tư Khoa.

Vi Tiểu Bảo gật đầu nói:- Phải rồi! Cứ như vậy mà tiến. Lễ vật cùng thư tín của ta sẽ do sứ giả Trung Quốc đưa tới Công chúa. Hai người chỉ phụ trách việc dẫn đường mà thôi. Dẫn đường tử tế thì ta sẽ trọng thưởng, dẫn đường sai trật thì vị tướng quân Trung

Quốc dẫn binh đi sẽ chặt đầu các ngươi. Công việc là như vậy, các ngươi hãy lui ra!

Hai tên đội trưởng La Sát lui ra rồi, Vi Tiểu Bảo cầm lệnh tiễn màu vàng để phát hiệu lệnh. Những đại tướng Trung Quốc khom lưng đón lấy lệnh tiễn.

Phi Yến Đa La ẩn mình trong bóng tối không hiểu Vi Tiểu Bảo nói những gì, chỉ thấy bọn đại tướng Trung Quốc tiếp lệnh tiễn rồi đều lộ vẻ khẳng khái hiên ngang, vỗ ngực vung quyền, trỏ trời vạch đất, tỏ ra cả quyết với chủ sóai làm cho nên việc.

Lại có người đưa tay lên làm hiệu chém cổ mình, kẻ thì rút trủy thủ làm hiệu đâm vào ngực. Miệng chúng không ngớt nói đến Mạc Tư Khoa.

Dĩ nhiên Phi Yến Đa La đoán ngay là bọn tướng Trung Quốc thề nguyền với chủ tướng nếu họ không hạ được Mạc Tư Khoa sẽ xin tự sát cho nghiêm quân lệnh.

Phi Yến Đa La lại nghe Vi Tiểu Bảo nói lý la lý lố một hồi. Kế đó bốn tên thân binh lấy một tấm địa đồ lớn giải ra ở trên bàn hướng về Phi Yến Đa La.

Lại thấy Vi Tiểu Bảo trỏ tay vào chỗ thành Ni Bố Sở, di động ngón tay theo đường vạch đỏ đưa về phía Tây cho tới chỗ khuyên tròn đỏ. Phi Yến Đa La tuy không hiểu văn Trung Quốc nhưng coi phương vị cũng biết chỗ khuyên tròn đó là thành Mạc Tư Khoa.

Vi Tiểu Bảo nói một hồi, lại trỏ tay vào con đường vạch đỏ khác cũng đưa tới Mạc Tư Khoa.

Phi Yến Đa La bụng bảo dạ:

- Bọn Man tử Trung Quốc này thật là khả ố! Té ra chúng đã lập tâm và chuẩn bị đánh Mạc Tư Khoa.

Vi Tiểu Bảo nói một hồi nữa, thỉnh thoảng gã đưa tên Phi Yến Đa La vào câu chuyện.Các tướng nghe đến tên Phi Yến Đa La lại nổi lên tràng cười ha hả.

Phi Yến Đa La nghĩ thầm:

- Bọn chúng đang cười ta là ngốc dại. Chúng đưa việc đàm phán hoạch định cương giới chỉ là trò lừa gạt để kéo dài thời gian đặng ngấm ngầm đưa quân đến đánh lén Mạc Tư Khoa. Hừ! Ta không mắc bẫy bọn ngươi đâu.

Phi Yến Đa La nghĩ tới đây, từ từ đứng lên, bụng bảo dạ:

- Nhờ đức Thượng đế bảo hộ khiến ta phát giác ra ngụy kế trọng đại của bọn Man tử Trung Quốc. Vụ này chứng tỏ đức Thượng đế quyến cố đến nước La Sát, nhất định quốc vận đang hưng thịnh. Sáng mai bọn chúng sẽ tha ta về, vậy đêm nay bất tất phải mạo hiểm trốn đi nữa.

Hắn thấy mé Tây quân tuần tiễu đi lại không ngớt. Còn mặt Đông một màu tối đen tựa hồ không người. Hắn liền len lén đi qua phía đó để về chỗ ngủ. Hắn mừng thầm không bị Thanh binh phát giác.

Phi Yến Đa La tới ngoài trướng vẫn thấy ba tên vệ binh canh gác đang say sưa ngủ liền tiến vào nằm ngủ.

Sáng sớm hôm sau, vệ binh đưa đồ ăn sáng rất phong thịnh vào.

Phi Yến Đa La ăn xong thì thấy người của Vi Tiểu Bảo phái đến mời. Hắn theo vệ binh tới trung quân trướng.

Vi Tiểu Bảo cười hỏi:

- Hầu tước đại nhân đêm qua ngủ ngon chứ?

Phi Yến Đa La đặng hắng một tiến đáp:

- Tệ nhân được vệ binh của Công tước đại nhân bảo vệ rất chu đáo nên ngủ yên lắm.

Vi Tiểu Bảo lại hỏi:

- Bữa nay Hầu tước đại nhân hết bực mình rồi chứ? Chúng ta trở lại cuộc đàm phán phân chia cương giới nên chăng?

Phi Yến Đa La không đáp. Hắn lấy khăn tay buộc miệng lại.

Vi Tiểu Bảo tức giận quát:- Ngươi vẫn quật cường thế này, ta phải giết ngươi lập tức.

Phi Yến Đa La tuyệt không sợ hãi chi hết, bụng bảo dạ:

- Gã đã nhất định bữa nay tha ta. Bây giờ gã giả bộ làm oai làm phước, ta đâu có sợ?

Vi Tiểu Bảo nổi nóng một hồi, thấy Phi Yến Đa La thủy chung không chịu khuất phục, chẳng biết làm thế nào đành đổi giọng:

- Hay lắm! Hầu tước đại nhân quả là người dũng cảm! Bản sứ rất lấy làm khâm phục.

Gã dừng lại một chút rồi tiếp:

- Bây giờ bản sứ thả Hầu tước về. Chuyến này Hầu tước đã phải một phen tân khổ, vậy Hầu tước hãy nghỉ ngơi mươi bữa rồi chúng ta sẽ thương nghị phân chia cương giới.

Phi Yến Đa La nghĩ thầm:

- Gã cố tình kéo dài cuộc đàm phán. E rằng hiện giờ gã đã xuất phát quân đội lên đường đánh lén Mạc Tư Khoa. Phen này nhất quyết ta không chịu mắc lừa gã.

Hắn tính vậy liền đáp:

- Công tước đại nhân tha về, tệ nhân xin đa tạ. Để tỏ lòng thành thật của chúng ta, tệ nhân đề nghị chúng ta mở cuộc đàm phán ngay chiều hôm nay, hà tất phải đợi mười ngày nữa?

Vi Tiểu Bảo nói:

- Vụ này không nên gấp rút. Chúng ta cứ nghỉ ngơi cho khỏe rồi thủng thẳng hãy đàm phán cũng không muộn.

Phi Yến Đa La đáp:

- Quân thượng hai nước đều mong cuộc đàm phán sớm thành tựu. Chúng ta hãy phê kiềm điều ước hoạch định cương giới rồi hãy nghỉ ngơi hay hơn.

Vi Tiểu Bảo nói:

- Thế cũng được. Vậy sau năm ngày Hầu tước sẽ trở lại đàm phán.Phi Yến Đa La lắc đầu đáp:

- Không nên chần chừ nữa, chúng ta đàm phán ngay bữa nay.

Vi Tiểu Bảo hỏi:

- Làm chi mà vội thế? Ba ngày nữa sẽ hội họp được không?

Phi Yến Đa La đáp:

- Không được. Xin đàm phán ngay bữa nay.

Vi Tiểu Bảo lại lằng nhằng bảo hắn hãy nghỉ hôm nay, để đến mai sẽ bàn, nhưng hắn nhất định đòi khởi sự ngay buổi chiều.

Vi Tiểu Bảo làm bộ bất đắc dĩ, thở dài nói:

- Hầu tước đã kiên quyết như vậy, bản sứ đành nhượng bộ. Nhưng bản sứ cảnh cáo Hầu tước trước là cuộc đàm phán phân chia địa giới này, bản sứ nhất quyết không chịu nhượng bộ. Chắc chúng ta phải đi đến chỗ mặc cả từng thước từng tấc đất.

Phi Yến Đa La lẩm bẩm:

- Hoạch định cương giới tranh dành từng tấc đất khó lòng đi đến chỗ thỏa hiệp để bọn ngươi đủ thì giờ kéo quân đến đánh Mạc Tư Khoa chứ gì? Ngươi tưởng ta ngốc đến thế ư?

Hắn đứng lên nói:

- Tệ nhân xin cáo từ. Đa tạ Công tước đại nhân đã cho ăn uống.

Vi Tiểu Bảo đưa Phi Yến Đa La ra cửa trướng, lại phái một đội đằng bài thủ hộ tống hắn về thành Ni Bố Sở. Còn hơn hai trăm kỵ binh Kha Tát Khắc vẫn bị giữ lại chưa được buông tha.

Phi Yến Đa La ra khỏi quân trướng thấy chỗ dựng quân doanh hôm trước nay đã trống không. Đại đội Thanh quân nhổ trại kéo đi hết rồi. Hắn ngấm ngầm kinh hãi nghĩ thầm:

- Bọn Man tử Trung Quốc nói làm là làm, quả thật lợi hại!

Đoàn người đến chỗ đàm phán hôm qua thấy ba tên đội trưởng Kha Tát Khắc vẫn đứng trơ ra đó, tư thế giống hệt hôm trước.Một tên quan quân nhỏ bé bên Thanh vọt tới trước mặt ba tên đội trưởng kia niệm chú rồi hô lớn:

- Thành Cát Tư Hãn! Thành Cát Tư Hãn!

Đoạn y tiến lại vỗ vào mình ba người mấy cái.

Ba tên đội trưởng liền từ từ cử động được. Nhưng chúng đứng đã nửa ngày và một đêm, mỏi mệt quá chừng, hai chân tê chồn, phải ngồi phệt xuống đất.

Sáu tên quân đằng bài lại nâng đỡ chúng dậy và dắt đi mấy chục trượng rồi ba tên đội trưởng mới tự động cất bước được.

Phi Yến Đa La lại càng kinh hãi nghĩ bụng:

- Ma thuật của Thành Cát Tư Hãn truyền lại cho bọn chúng lợi hại phi thường!

Trách nào ngày trước đội quân của Thành Cát Tư Hãn tung hoành thiên hạ không ai địch nổi. May mà hiện nay đã phát minh hỏa khí, khiến địch nhân chẳng thể tới gần được, không thì bọn dị giáo đồ Trung Quốc lại toan thống trị toàn thế giới, mà bọn chính giáo chúng ta tin tưởng đức Thượng đế đều biến thành nô lệ của họ.

Bọn đằng bài thủ bên Thanh hộ tống Phi Yến Đa La đến trước cửa Đông thành Ni Bố Sở mới quay trở lại.

Phi Yến Đa La hỏi lại ba tên đội trưởng Kha Tát Khắc về tình hình trúng phải ma thuật. CHúng đều nói là lúc đó bỗng cảm thấy sau lưng đau nhói lên một cái rồi lập tức toàn thân không nhúc nhích được.

Phi Yến Đa La lại hỏi:

- Các ngươi có đeo thánh giá trong mình không?

Ba tên đội trưởng cởi vạt áo để lộ cây thập tự giá đeo ở cổ.

Phi Yến Đa La chau mày nghĩ bụng:

- Ma pháp của Thành Cát Tư Hãn thật là ghê gớm! Cả thập tự giá của Thượng đế cũng không trừ được tà thuật.

Hắn liền viết ba bản tấu phái mười lăm tên quân kỵ chia ba ngả cấp tốc về

Mạc Tư Khoa để báo tin quân đội Trung Quốc đã xuất phát lên đường tập kích.Chúng hóa trang làm bọn mục súc Thát Đát để trà trộn vào kinh thành, cần phải phòng thủ nghiêm mật.

Vào khoảng giữa trưa, ba bọn đưa tin lục tục trở về thành nói là các nẻo đường đi về phía Tây đều bị quân Trung Quốc ngăn chặn. Chúng thấy kỵ binh La Sát còn ở đằng xa đã bắn tên lại, không thể đi qua được.

Phi Yến Đa La trong lòng vừa buồn bã vừa nóng nảy, bụng bảo dạ:

- Bây giờ chỉ còn cách cùng bọn Man tử Trung Quốc lập điều ước phân chia cương giới thật lẹ. Chúng ký điều ước rồi mới chịu triệt binh quay về.

Giờ mùi hôm ấy, Phi Yến Đa La cùng hơn mười viên tùy viên đến trướng bồng là nơi hội nghị hai nước. Lần này hắn không đem một tên kỵ binh Kha Tát Khắc nào đi theo để tỏ ra chẳng có ý gì khác. Vả lại dù đem vệ đội đi theo mà không chống lại được ma thuật của Thành Cát Tư Hãn thì chẳng ích gì.

Phi Yến Đa La học vấn uyên bác, kiến thức sâu rộng, làm việc mẫn cán. Hắn vốn không phải là người dễ lừa bịp, nhưng lòng người La Sát khiếp sợ Thành Cát

Tư Hãn đã thành thâm căn cố đế. Thuật điểm huyệt của Song Nhi lại cực kỳ tinh diệu, chính mắt Phi Yến Đa La đã trông thấy thì còn không tin thế nào được?

Phi Yến Đa La đến trướng bồng trước. Lát sau bọn Vi Tiểu Bảo, Sách Ngạch

Đồ, Đông Quốc Cương cùng các đại thần bên Thanh cũng lục tục kéo đến.

Vi Tiểu Bảo thấy đối phương không đem vệ đội, cũng ra lệnh cho bọn đằng bài thủ rút lui.

Hai bên ngồi vào bàn hội nghị chỉ nói mấy câu khách sáo, tuyệt không nhắc tới những chuyện hôm trước.

Phi Yến Đa La lập tức xin đi vào việc thương nghị phân chia cương giới. Hắn chỉ mong cuộc đàm phán thành tựu mau chóng, nên điều gì cũng chịu nhượng bộ, thái độ khác hẳn bữa trước.

Vi Tiểu Bảo cười thầm trong bụng, biết là mưu kế "Chu Du Quần Anh hội hý

Tưởng Cán" của mình đã thành công. Gã chẳng hiểu gì về việc hoạch định cương giới. Vụ này do Sách Ngạch Đồ chủ trương và giáo sĩ phiên dịch những điều khoản thương nghị với đối phương.Sách Ngạch Đồ và Phi Yến Đa La lấy một tấm địa đồ lớn trải lên bàn.

Sách Ngạch Đồ trỏ ngón tay vào không ngớt đưa lên phía Bắc.

Phi Yến Đa La chau mày đưa ngón tay từng chút một lui về phía Bắc tỏ ra chịu nhượng bộ.

Theo ngón tay trỏ trên địa đò chỉ lui một tấc là cả trăm dặm đất đai thuộc về lãnh thổ Trung Quốc.

Vi Tiểu Bảo coi hai bên vừa trỏ vừa nói một hồi lâu phát ngán, liền qua bàn bên cạnh ngồi riêng một mình rồi sai thị vệ lấy kẹo bánh cho mình điểm tâm.

Phi Yến Đa La đã quyết tâm thoái nhượng, nhưng Sách Ngạch Đồ vẫn e dè tựu trung xảy ra biến cố, nên cũng không dám làm quá.

Văn tự trong điều ước rất nghiêm cẩn, không để chỗ nào sơ hở.

Giáo sĩ hai bên nhất nhất dịch thành chữ La Tinh.

Hai bên bàn lui bàn tới cũng mất rất nhiều thì giờ. Đến chiều ngày thứ ba mới lập xong điều ước Ni Bố Sở. Sáu điều khoản toàn bộ được hai bên thỏa thuận.

Vi Tiểu Bảo nghe Sách Ngạch Đồ và Đông Quốc Cương giải thuyết, biết là nội dung điều ước đem thắng lợi cho Trung Quốc rất nhiều. Giải đất cắt về Trung Quốc rất rộng, so với chỉ dụ của Vua Khang Hy, cương giới đi xa hơn nhiều.

Điều ước lập thành bốn bản. Một bản Trung Quốc văn, một bản La Sát văn và hai bản La Tinh văn.

Trong điều ước lại nói rõ nếu văn tự có chỗ nào không hợp thì dùng bản La Tinh văn làm chuẩn đích.

Mực mài thật đặc, bút dằm rất kỹ để cung thỉnh Khâm sai đại thần Trung Quốc kiềm tự.

Vi Tiểu Bảo nhận thức được ba chữ tên mình, nhưng cũng có lúc chữ "Chương" nhận lầm là chữ "Vi", chữ "Mại" tưởng là chữ "Bảo", vì những chữ này nhiều nét, gã nhớ phảng phất chứ không biết viết. Chỉ khi nào ba chữ đi liền nhau gã mới khỏi nhận lầm.Nếu bảo gã viết thì chỉ có chữ "Tiểu" là gã miễn cưỡng đối phó được. Còn chữ "Vi" ở trên và chữ "Bảo" ở dưới, gã chẳng tài nào viết thành chữ.

Gã vốn mặt dày, ít khi hổi thẹn mà lúc này cũng mặt đỏ như son. Mặt gã đỏ không phải vì giận ai, cũng chẳng phải say rượu, mà là gã thẹn thùng.

Sách Ngạch Đồ là tri kỷ của Vi Tiểu Bảo đã biết rõ gã không đọc sách, liền tìm lời chống chế:

- Những loại giấy má về hợp đồng, chỉ cần kiềm bút tích là được. Vi đại nhân ngoáy một chữ "Tiểu" cũng là kiềm tự rồi.
 

Hoa Tử

Sưu tầm
Tham gia
24/9/19
Bài viết
10,492
Điểm cảm xúc
1,412
Điểm
113
Chương 241: Mao Thập Bát công khai thóa mạ
Vi Tiểu Bảo nghe Sách Ngạch Đồ nói vậy cả mừng nghĩ bụng:

- Tưởng gì chứ viết chữ "Tiểu" thì lão gia coi như trò đùa.

Gã liền cầm bút khuyên bên trái một vòng tròn, lại khuyên bên phải một vòng tròn. Sau cùng mới vạch một đường thẳng vào giữa.

Sách Ngạch Đồ mỉm cười nói:

- Được rồi! Vi đại nhân viết hay quá!

Vi Tiểu Bảo ngoẹo đầu ngắm nghía chữ "Tiểu" một lúc rồi ngửa mặt lên trời cười rộ.

Sách Ngạch Đồ lấy làm kỳ hỏi:

- Vi đại soái cười gì vậy?

Vi Tiểu Bảo cười đáp:

- Sách đại nhân coi chữ này có giống một con chim sẻ và hai quả trứng không?

Các đại thần bên Thanh không nhịn được nổi lên tràng cười khanh khách. Cả bọn tùy tùng cùng thân binh cũng bưng miệng phì cười.

Phi Yến Đà La chẳng hiểu bọn họ cười gì, chỉ dương mắt lên mà nhìn.

Vi Tiểu Bảo kiềm tự vào cả bốn bản điều ước. Trên bản bằng La Sát văn gã vạch chữ lớn gấp bội.

Tiếp theo bọn Phi Yến Đà La, Sách Ngạch Đồ và các phó sứ bên Nga đều kiềm tự.

Bản điều ước thứ nhất giữa hai nước Trung- Nga thế là hoàn thành. Nó cũng là bản điều ước đầu tiên Trung Quốc ký kết với nước ngoài.

Vụ này do Vua Khang Hy trù liệu kế hoạch rất chu đáo lại xuất toàn lực để thực hành, cùng phái những nhân viên rất đắc lực dựng lên điều ước phân chia cương giới và gọi tắt là điều ước Ni Bố Sở. Trung Quốc không bị thua thiệt chút nào.

Điều ước Ni Bố Sở quy định dùng ngọn Hưng An ở mặt bắc làm bờ cõi. Thế là toàn bộ tỉnh A Mục Nhĩ và tỉnh Tân Hải của Liên Xô thuộc vào lãnh thổ Trung Quốc. Phương Đông và phương Đông Nam lãnh thổ Trung Quốc ra đến tận biển.

Trước cuộc hòa đàm khu vực này không thuộc vào nước nào. Chỗ Trung Quốc chiếm lấy đó cũng không phải đất La Sát, nhưng nước La Sát đã đắp thành, thực dân.

Sau khi kiềm đính hiệp ước bọn thực dân bắt buộc phải rút về. Đó là thắng lợi về quân sự cũng như về ngoại giao của Trung Quốc.

Theo điều ước thì một diện tích đất gần tám chục dặm vuông Anh được sát nhập vào Trung Quốc, tức là một phần đất lớn gấp đôi mấy tỉnh miền Đông Bắc hiện nay.

Điều ước này lập xong còn khiến cho biên giới phía Đông Bắc Trung Quốc được an ninh hơn một trăm năm chục năm rồi. Cuộc đông xâm của người La Sát bị cản trở, dã tâm xâm lược cũng giảm bớt.

Sau các triều đại Khang Hy, Ung Chính, Càn Long nhà Mãn Thanh ký điều ước với nước ngoài đều bị thất quyền mất đất. Hùng phong cùng uy quyền quốc gia về sau chẳng còn thời kỳ nào được hưng thịnh bằng hồi vua Khang Hy trị vì và Vi Tiểu Bảo tham dự quốc chính.

(Lời tác giả: Chữ kiềm của Vi Tiểu Bảo trên điều ước rất cổ quái không nhận ra được.

Những sử gia đời sau của hai nước Trung- Nga chỉ biết Sách Ngạch Đồ và Phi Yến Đa La kiềm thư.

Nhà khảo cổ Quách Mạc Nhược hiểu biết Giáp cốt văn tự cũng không hiểu chữ "Tiểu" kiềm trên điều ước Ni Bố Sở, khiến đại danh của Vi Tiểu Bảo phải mai một. Những sử sách đời sau đều nói những nhân vật kiềm tự điều ước Ni Bố Sở là Sách Ngạch Đồ và Phi Yến Đà La.

Từ cổ chí kim, những người biết đến Vi Tiểu Bảo chỉ có độc giả "Lộc Đỉnh

Ký" mà thôi. Pho sách này thuật lại việc kiểm đính và nội dung điều ước Ni Bố Sở,trừ phần liên quan đến Vi Tiểu Bảo để bổ sung chỗ thiếu sót, còn ngoài ra đều căn cứ vào lịch sử để ghi chép.

Theo tập quán thời bấy giờ, hai bên kiềm ký điều ước rồi đồng thời nổ súng tuyên thệ với trời tuân thủ nghiêm minh.

Bên Thanh có hơn hai trăm cỗ đại pháo đặt ở ngoại thành Ni Bố Sở. Cả bốn mặt Đông Nam Tây Bắc đồng thời phát xạ. Súng nổ chấn động một vùng.

Bên Nga chỉ có hơn mười cỗ, tiếng súng thưa thớt. Thế cường nhược chênh lệch nhau không biết đến đâu mà kẻ.)

Phi Yến Đà La tự nhủ:

- May quá! Nếu hòa nghị bất thành, xẩy cuộc đánh nhau thì thành Ni Bố Sở bị bắn đến tan tành.

Sứ thần hai nước đều đưa tặng lễ vật cho nhau.

Phi Yến Đà La tặng bọn Vi Tiểu Bảo đồng hồ, thiên lý kính, ngân khí, áo da điêu, đao kiếm...

Vi Tiểu Bảo tặng đối phương lừa ngựa, yên cương, chén vàng, quần áo, lụa là.

Ngoài ra, mỗi người còn được một cái đai lưng dát vàng để bồi thường lại đai quần bị quân Thanh cắt đứt.

Tối hôm ấy tại hội sở mở đại yến khánh hạ hòa ước thành công.

Phi Yến Đà La vẫn băn khoăn lo lắng, không hiểu những toán quân Thanh kéo đi công tập Mạc Tư Khoa đã triệu hồi chưa. Hắn không ngớt đưa ra ngôn ngữ thăm dò, nhưng Vi Tiểu Bảo vẫn lờ đi như không hiểu.

Sau hai bữa, Phi Yến Đà La được tin báo có đại đội quân Thanh từ mé Tây kéo đến, hắn lên mặt thành dùng Thiên lý kính nhìn ra xa, quả thấy từng đội Thanh binh từ mặt Tây đi tới, qua sông Ni Bố Sở đóng lại ở phía Đông.

Phi Yến Đà La cả mừng. Hắn yên trí đây là những toán Thanh binh định đi Tây xâm đã được triệu hồi.

Hắn có biết đâu đại đội quân Thanh này nguyên trước hạ trại đóng ở ngoài hai trăm dặm về phía tây thành Ni Bố Sở. Họ đã được lệnh từ trước, nếu nghe tiếng súng lớn nổ liền nhổ trại từ từ kéo về.Lại qua mấy bữa, thợ đá dựng bia trên biên giới. Văn tự trong bia điêu khắc rất hoàn chỉnh gồm năm thứ chữ là: Mãn văn, Hán văn, Mông văn, La Tinh văn và La Sát văn.

Những tấm bia cương giới chia ra dựng ở đông ngạn sông Cách Nhĩ Tất Tề, nam ngạn sông Ngạch Nhĩ Cổ Lạp, cùng các nơi Đông Bắc dãy núi Uy Y Khắc A Lâm Đại Sơn.

Trong văn bia viết rõ hai nước dùng sông Cách Nhĩ Tất Tề làm biên giới.

Thượng lưu sông này có khu đất cỏ cây không mọc được tên gọi là Đại Hưng An ra đến biển. Bao nhiêu sông ngòi ở phía Nam núi này chảy vào sông Hắc Long Giang đều thuộc về Trung Quốc. Những sông ngòi phía Bắc dãy núi đều thuộc nước Nga La Tư.

Trong bia còn ghi rõ:

- Sông Ngạch Nhĩ Cổ Lạp chảy vào Hắc Long Giang dùng làm địa giới. Nam ngạn sông này thuộc về Trung Quốc, Bắc ngạn thuộc về Nga La Tư. ở cửa sông Mi Nặc Nhĩ Khánh thuộc Nam ngạn có nhà cửa của người Nga La Tư phải rời qua Bắc ngạn.

Văn bia còn viết rõ:

- Nhân dân Nga La Tư cùng mọi sự vật ở Nhã Tát Khắc phải triệt thoái về Sát

Hãn Hàn.

Văn bia lại nói rõ:

- Những nhà săn bắn cấm hẳn không được vượt qua biên giới. Nếu có người tụ tập đem theo khí giới săn bắn giết người cướp của mà bắt được là chính pháp liền, không thể vì những chuyện nhỏ nhặt làm hư đại sự. Hai nước Trung- Nga hòa hiếu với nhau, đừng để xảy cuộc tranh chấp.

Khâm sai hai nước lại phái bộ thuộc khám xét địa hình không còn chỗ nào lầm lẫn, mới dựng bia lên.

Những chỗ dựng bia này đáng lý để phân cương giới giữa hai nước muôn năm không thay đổi, nhưng hơn trăm năm sau, nước Nga thừa cơ Trung Quốc suy nhược,tầm gửi lấn cành, không kể gì đến chuyện phân cương giới ngày trước, thôn tính một vùng đất rộng rất phì nhiêu của Trung Quốc.

Những người đọc sử về sau phải chép miệng thở dài mà than rằng:

- ¦ớc gì được vua Khang Hy và Vi Tiểu Bảo ở dưới âm cung sống lại để khôi phục cố thổ của nhà nước bị bọn người La Sát lang sói chiếm đoạt.

Dựng bia xong rồi, khâm sai hai nước thi lễ từ biệt, chia đường trở về kinh thành phục mạng.

Vi Tiểu Bảo gọi Hoa Bá Tử Cơ và Tề Lạc Nặc Phu vào kiểm nhận lễ vật để đưa về trình Tô Phi á Công chúa. Trong món lễ này có cả chăn gấm gối thêu.

Nơi đây là đất hoang vu, không thể mua được những vật đó, đều lấy của Song Nhi.

Vi Tiểu Bảo cười nói:

- Nếu Công chúa thực sự tưởng nhớ ta thì cứ ôm chăn gối này mà ngủ.

Hoa Bá Tử Cơ đáp:

Tình ý của Công chúa điện hạ đối với đại nhân các hạ khác nào thiên trường địa cửu mà chăn gối chẳng được bao lâu sẽ rách nát. Xin đại nhân phái mấy tên kỹ sư qua Mạc Tư Khoa xây mấy tòa thạch kiều thì vĩnh viễn không bao giờ hư nát được.

Vi Tiểu Bảo cười đáp:

- Ta đã nghĩ đến điểm này rồi, hai người bất tất phải lắm miệng.

Gã sai thân binh khiêng một cái rương vào. Cái rương này dài bảy thước, rộng bốn thước giống hệt một cỗ quan tài. Tám tên thân binh dùng đòn khiêng tới, tỏ ra rất trầm trọng.Ngoài rương đóng đai sắt rất thận trọng lại niêm phong kiềm dấu.

Vi Tiểu Bảo nói:

- Món lễ vật này rất quan trọng chứ không phải tầm thường. Các ngươi bảo vệ cho cẩn thận đừng để tổn hại. Công chúa trông thấy rồi nhất định vô cùnghoan hỷ, vì đây là món nhân tình vĩnh viễn như thiên trường địa cửu. Nó cũng bền vững chẳng kém gì những cầu đá ở Trung Quốc.

Hai tên đội trưởng La Sát không dám hỏi nhiều, lãnh rương gỗ ra đi.

Cái rương gỗ này nặng tới ngàn cân mà đưa từ Ni Bố Sở về đến Mạc Tư Khoa đường xa muôn dặm thật là vất vả.

Tô Phi á nhận được rương mở coi thì ra một pho thạch tượng khỏa thân của Vi Tiểu Bảo. Pho tượng lộ nụ cười rất linh động như người sống.

Nguyên Vi Tiểu Bảo lúc kêu thợ đá khắc bia, đồng thời sai họ suốt đêm ngày tạc thành pho tượng này. Gã lại nhờ giáo sĩ Hà Lan viết câu Ta vĩnh viễn yêu nàng bằng tiếng La Sát, để khắc vào trước ngực tượng đá.

Tô Phi á Công chúa vừa ngó thấy thật là dở cười dở khóc. Nàng nghĩ tới tiểu hài ở Trung Quốc cực kỳ cổ quái tinh ma, bọn nam tử La Sát không thể bì kịp. Bất giác nàng nẩy mối tình ý triền miên, tâm thần bay xa muôn dặm.

Pho tượng đá này cất ở điện Cẩm Linh. Sau Bỉ Đắc đại đế phát động cuộc chính biến, đuổi Tô Phi á Công chúa ra khỏi cung vị, đồng thời đập tan nát pho tượng đá. Chỉ còn bộ phận tàn hủy được binh sĩ đem ra bỏ ở ngoài thành.

Bọn phụ nữ dốt nát ở nước La Sát thường hay đến lạy lục để cầu sinh con đẻ cái và người ta đồn đại là rất linh nghiệm.

Nhắc lại Vi Tiểu Bảo mở cờ gióng trống khải hoàn trở về Bắc Kinh. Tình hình kiểm đính hòa ước chia biên giới đã có bản tâu gửi về từ trước dâng lên vua Khang Hy.

Đại quân chưa về tới ngoài thành Bắc Kinh, các đại thần trong triều đã chờ sẵn ở cửa thành để nghênh tiếp.

Vi Tiểu Bảo dẫn bọn Đông Quốc Cương, Sách Ngạch Đồ, Bằng Xuân, Tát Bố Tố, Lang Thản, Lâm Hưng Châu vào triều kiến vua Khang Hy.

Nhà vua dùng lời lẽ ôn nhu khen thưởng, lại hạ chiếu thăng chức cho Vi Tiểu Bảo làm Nhất đẳng Lộc Đỉnh Công.

Bọn Đông Quốc Cương, Sách Ngạch Đồ cùng tướng sĩ quan quân đều được thăng thưởng.Vi Tiểu Bảo nhơn nhơn đắc ý ra khỏi Hoàng cung. Các quan tiền hô hậu ủng đưa gã về phủ.

Bỗng nghe bên đường phố lớn có tiếng người hô:

- Vi Tiểu Bảo! Ngươi là một tên cẩu tặc vong ân bội nghĩa!

Đoàn người nghe tiếng kêu réo thóa mạ đều giật mình kinh hãi.

Vi Tiểu Bảo nghe thanh âm quen thuộc ngoảnh đầu nhìn ra thấy một gã đại hán từ trong thềm nhà chạy xuống đường lớn trỏ tay vào mặt gã, ngoác miệng chửi bới:

- Vi Tiểu Bảo! Mi là một tên tiểu tặc đáng tội ngàn đao phân thây. Đường đường là người Hán, mi lại đi đầu hàng nhà Mãn Thanh, làm tẩu cẩu cho quân Thát Đát. Mi làm cho sư phụ của mi phải uổng mạng, lại sát hại bao nhiêu hảo huynh đệ.

Nay mi được Hoàng đế Thát Đát phong đến công hầu, vinh hoa phú quý, mi càng nhơn nhơn đắc ý! Tổ bà nó! Lão gia phải dùng gươm trắng đao hồng đâm con mẹ nó tên tiểu tặc mấy chục nhát, thử xem mi còn làm Ô Quy Công, Giáp Ngư Công được nữa không?

Đại hán này mình trần trùng trục, ngực đầy lông lá đen sì, mày rậm mắt to, thái độ rất hung dữ. Hắn chính là Mao Thập Bát, ngày trước đã dẫn dắt Vi Tiểu Bảo đến Bắc Kinh.

Vi Tiểu Bảo còn đang ngơ ngác thì mấy chục tên thân binh đã bao vây đại hán.

Mao Thập Bát rút thanh đoản đao ở trong mình ra toan chống cự.

Mấy vị Đô thống, Đề đốc cùng võ tướng nhất tề động thủ đoạt lấy đoản đao ở trong tay Mao Thập Bát rồi vật hắn ra trói lại.

Mao Thập Bát tiếp tục mắng chửi không ngớt miệng:

- Tên tiểu tặc Vi Tiểu Bảo kia! Ngày trước lão gia đưa mi tới Bắc Kinh thật là lầm to, thật là tội lỗi! Lão gia đã mang tội với Trần Cận Nam Tổng đà chúa, lại ân hận với các anh hùng hảo hán trong Thiên Địa Hội. Bữa nay lão gia không muốn sống nữa, vạch mặt chỉ tên cho thiên hạ biết Vi Tiểu Bảo nhà mi là đứa cẩu tặcbán bạn cầu vinh, vong ơn phụ nghĩa, chỉ mong thăng quan phát tài, cam phận nô tài làm chó săn cho Hoàng đế Thát Đát.

Các quan binh vả miệng mà hắn vẫn thóa mạ không ngớt.

Tiếp đó, một tên võ quan rút khăn tay nhét vào miệng Mao Thập Bát.

Mao Thập Bát không nói lên thành tiếng được, miệng vẫn ú ớ chắc là hắn còn chửi bới.

Sách Ngạch Đồ cười hỏi:

- Không hiểu thằng khùng này ở đâu nhảy bổ ra? Vi Công gia giao cho Sách mỗ đem hắn về phủ Thuận Thiên mở cuộc thẩm vấn. Chúng ta hãy bỏ mặc hắn không lý gì đến, kéo về quý phủ uống rượu nghe hát đã.

Vi Tiểu Bảo đáp:

- Hay lắm! Hay lắm! Tiểu đệ đang định mời Sách huynh cùng các vị đến tệ phủ chơi.

Gã khẽ dặn thân binh:

- Các ngươi đưa hắn về phủ coi giữ cẩn thận, nhưng đừng làm khó dễ gì hắn cả. Hãy lấy rượu thịt cho hắn uống. Lát nữa ta sẽ thân hành thẩm vấn.

Hôm ấy, trong phủ Lộc Đỉnh Công mở yến tiệc lớn thết đãi văn võ bá quan.

Các quan viên theo đi đánh Nhã Tát Khắc và dự cuộc hòa đàm Ni Bố Sở mồm năm miệng mười, nói phun bọt rãi thuật lại những sự đã qua: Nào Vi đại soái thần cơ diệu toán không sót mảy may. Nào ra kỳ mưa hạ thành Nhã Tát Khắc. Nào dùng kế Chu Du - Quần Anh hội hý Tưởng Cán khiến cho khâm sai La Sát sợ mất mật không dám ho he gì nữa, chỉ mong được kiềm điều ước phân chia cương giới cho lẹ.

Trong khi thuật sự, dĩ nhiên họ còn thêm mắm thêm muối cho câu chuyện trở nên thần hồ kỳ thần. Họ ví Vi Tiểu Bảo khác nào Gia Cát Lượng phục sinh, Lưu Bá Ôn tái thế.

Bá quan cũng tuôn ra những lời nịnh nọt chẳng thiếu câu gì. Nhưng sự thực, trong thâm tâm họ cũng công nhận Vi Công gia sở dĩ được Hoàng thượng sủng áiquả có chân tài. Trước kia họ vẫn coi gã không vào đâu thì nay đã nẩy lòng kính trọng.

Tan tiệc, Vi Tiểu Bảo vào thư phòng lại bày rượu thịt mời Mao Thập Bát làm lễ tương kiến. Gã sợ hắn nổi tính thô bạo, liền bảo Tô Thuyên và Song Nhi ăn mặc giả làm kẻ thân tùy đứng bên thị phụng.

Thân binh giải Mao Thập Bát vào.

Vi Tiểu Bảo niềm nở đứng dậy nghinh tiếp, miệng chào:

- Mao đại ca! Lâu nay không được gặp. Đại ca bình yên chứ?

Mao Thập Bát tức giận trợn mắt lên hỏi:

- Ta làm sao mà không bình yên? Từ ngày ta quen biết tên tiểu tặc rất đỗi bực mình! Nguyên trước ta bình yên rồi sau biến thành không yên tâm được nữa.

Vi Tiểu Bảo cười nói:

- Mao đại ca hãy thủng thẳng ngồi chơi để tiểu đệ kính mới ba chung rượu cho hả hơi đã. Tiểu đệ có chỗ nào đắc tội với Mao đại ca thì đại ca uống rượu rồi hãy thóa mạ cũng chưa muộn.

Mao Thập Bát sấn sổ bước lại quát:

- Ta đánh chết mi trước rồi hãy uống rượu.

Hắn giơ nắm tay lớn bằng cái bát đánh nhằm vào mặt Vi Tiểu Bảo đến vù một tiếng.

Tô Thuyên lặng mình một cái chụp lấy cổ tay Mao Thập Bát, khẽ vặn một vòng. Tay mặt mụ vỗ vai hắn hai cái.

Mao Thập Bát liền cảm thấy nửa người trên tê chồn, không tự chủ được nữa phải ngồi xuống ghế.

Hắn vừa kinh hãi vừa tức giận, vận kình nhẩy bổ lên thóa mạ:

- Tiểu tặc!...

Tô Thuyên đứng ở sau lưng hắn, đưa tay nắm lấy hai huyệt kiên trinh ở bả vai hắn rồi từ từ đè xuống.Mao Thập Bát không kháng cự được chút nào, đành chịu ngồi xuống ghế.

Mao Thập Bát thân thể cao lớn, ít ra gấp hai người Tô Thuyên, nhưng võ công mụ rất cao thâm nên kiềm chế hắn một cách dễ dàng.

Mao Thập Bát khác nào người bị cột chân tay đành riu ríu ngồi xuống.

Mao Thập Bát lại càng tức giận, lớn tiếng:

Bữa nay lão gia đã thóa mạ mi là Hán gian ngoài đường phố thì không tính đến chuyện sống chết nữa rồi, còn mi hết thẩy người thiên hạ đều biết là một đứa đê hèn vô sỉ giết thầy, lừa bạn...

Vi Tiểu Bảo cãi:

- Mao đại ca! Tiểu đệ vâng lệnh Hoàng thượng đi đối phó với quỉ La Sát chứ không phải để sát hại người Hán chúng ta, sao lại bảo là Hán gian được?

Mao Thập Bát quát hỏi:

- Thế thì sao mi... lại sát hại sư phụ Trần Cận Nam?

Vi Tiểu Bảo vội đáp:

- Tiểu đệ sát hại gia sư bao giờ? Hiển nhiên gia sư bị tên tiểu tử Trịnh Khắc Sảng giết chết.

Mao Thập Bát nói:

- Bây giờ mi còn cãi được ư? Con mẹ nó! Trong thánh chỉ của Hoàng đế nói quá rõ rồi!

Vi Tiểu Bảo thất kinh hỏi:

- Sao?... Trong thánh chỉ của Hoàng thượng sao lại bảo tiểu đệ sát hại sư phụ?

Gã bâng khuâng quay lại nhìn Tô Thuyên.

Tô Thuyên nói:

- Bữa trước Hoàng thượng thăng tướng công lên chức Nhất đẳng Lộc Đỉnh Công đã ban tờ cáo trạng tuyên dương công lao của tướng công. Bản cáo trạng này không hiểu ai viết, trong có đoạn:- "Tiến cử lương tài, dẹp bình Ngô nghịch, thu Đài Loan vào bản đồ Trung Quốc."

"Cầm quân xuất chinh hạ thành Nhã Tát Khắc, trương quốc oai ở cõi ngoài."

Mụ nói tiếp:

- Những cái đó đều đúng hết. Nhưng lại có hai câu:

"Chém bọn nghịch thủ Thiên Địa Hội là Trần Cận Nam, Phong Tế Trung khiến mối họa hoạn trong nước liền bị dập tắt. Phỉ đồ, loạn đảng phải thay mặt đổi lòng."

Là không đúng sự thực hoàn toàn.

Vi Tiểu Bảo chau mày hỏi:

- Cái gì thay mặt đổi lòng? Câu này ý nghĩa làm sao?

Cáo trạng nói tướng công bắt được bọn Trần Cận Nam, Phong Tế Trung giết rồi, mọi người trong Thiên Địa Hội sợ quá không dám tạo phản nữa.

Vi Tiểu Bảo nhảy bổ lên, lớn tiếng la:

- Làm gì có chuyện đó? Thế này chẳng là vu oan cho người ta ư?

Tô Thuyên từ từ lắc đầu đáp:

- Chúng ta giết Phong Tế Trung, thánh chỉ nói thế là đúng, chỉ thừa ba chữ Trần Cận Nam.

Vi Tiểu Bảo ấp úng hỏi:

- Trần Cận Nam là ân sư, sao ta lại... gia hại? Đạo thánh chỉ này... của Hoàng thượng. Hỡi ôi! Người thấy thánh chỉ, sao không bảo ta?

Tô Thuyên đáp:

- Bọn tiểu nhân đã thương lượng với nhau là trong thánh chỉ thừa ba chữ

"Trần Cận Nam", khi tướng công ngó tới, nhất định không được vui lòng.

"Bọn tiểu nhân" mà mụ nói đây là trỏ vào bảy vị phu nhân. Bảy vị đã cùng nhau thương lượng về bản cáo trạng.

Vi Tiểu Bảo liếc mắt nhìn Song Nhi. Thị lẩm nhẩm gật đầu.Vi Tiểu Bảo lại nói:

- Mao đại ca ơi! Đích thực không phải tiểu đệ sát hại gia sư. Còn Phong Tế Trung là tên bạn đồ ở Thiên Địa Hội. hắn ngấm ngầm... thông phong báo tin với Hoàng đế...

Mao Thập Bát cười lạt ngắt lời:

- Vậy mi là hảo nhân chăng?

Vi Tiểu Bảo ngồi thừ ra đáp:

- Tiểu đệ phải vào phân thuyết với Hoàng thượng, xin ngài đổi lại... đổi lại...

Gã nói luôn ba lần "đổi lại" nhưng biết là nhà Vua quyết chẳng khi nào vì thánh chỉ dư ba chữ "Trần Cận Nam" mà đổi lại thượng dụ. Gã tự hỏi:

- Không hiểu tên cẩu tặc nào đã tâu Hoàng thượng là ta sát hại sư phụ?

Hoàng thượng coi hành động này là trung tâm với ngài. Nhưng ... nhưng Vi Tiểu Bảo này còn làm người được nữa chăng?

Trong lòng nóng nảy, đột nhiên gã ọe một tiếng rồi khóc òa lên. Miệng la:

- Mao đại ca! Tô tỷ tỷ! Hảo Song Nhi! Tiểu đệ không sát hại sư phụ.

Ba người thấy gã đột nhiên khóc rống lên đều giật mình kinh hãi.

Tô Thuyên vội đến bên nắm lấy vai gã cất giọng ôn nhu nói:

- Trịnh Khắc Sảng hạ sát lệnh sư ở Thông Cật đảo. Bọn tiện thiếp đều nhìn thấy cả.

Mụ nói rồi lấy khăn tay ra lau nước mắt cho gã.

Mao Thập Bát bây giờ mới biết tên thân binh võ nghệ cao cường này té ra là một người đàn bà, trong lòng rất đỗi ngạc nhiên.

Vi Tiểu Bảo chợt nghĩ tới điều gì liền nói:

- Mao đại ca! Tên tiểu tử Trịnh Khắc Sảng hiện nay cũng ở Bắc Kinh. Chúng ta đến đối chất, chắc hắn không dám chối cái. Phải rồi! Phải rồi! Chúng ta đi ngay bây giờ...

Gã nói tới đây, bỗng nghe ngoài cửa có thân binh lớn tiếng hô:- Thánh chỉ đã tới! Ngự tiền thị vệ Đa tổng quản phụng sắc tuyên đọc thánh chỉ.

Vi Tiểu Bảo đứng dậy ra cửa nghênh tiếp thì thấy Đa Long đang cười hề hề tiến lại.

Vi Tiểu Bảo quỳ xuống hướng mặt về phía Bắc dập đầu chúc cầu thánh thể an khang.

Đa Long chờ gã lạy xong mới nói:

- Hoàng thượng phán bảo phải sai đưa tên phản nghịch thóa mạ ngoài đường phố vào cung để ngài thân hành tra hỏi.
 
Trạng thái
Không mở trả lời sau này.
Top