Lượt xem của khách bị giới hạn

[Huyền huyễn] [Truyện Hoàn] Tam Sinh Tam Thế Chẩm Thượng Thư - Đường Thất Công Tử

Trạng thái
Không mở trả lời sau này.
[Huyền huyễn] [Truyện Hoàn] Tam Sinh Tam Thế Chẩm Thượng Thư - Đường Thất Công Tử
Tham gia
6/7/19
Bài viết
101
Điểm cảm xúc
41
Điểm
28
Tam Sinh Tam Thế Chẩm Thượng Thư
e7c4ade16e588cac0485b2b75eb6445f.jpg

Tác giả: Đường Thất Công Tử
Dịch giả: Nguyễn Thành Phước
Thể loại:
Nguồn: webtruyen.com

Văn án:
Duyên phận rốt cuộc là thế nào?

Đông Hoa Đế Quân năm ấy chỉ là tiện tay cứu nàng.

Nhưng từ đó, trong tim nàng, trong mắt nàng chỉ có bóng hình Đế Quân tài hoa anh tuấn.

Nàng thân là nữ vương Thanh Khâu, lại hạ mình vào làm nữ tỳ trong phủ của Đông Hoa. Mấy trăm năm cực khổ, khoảng cách gần nhất chỉ là nàng quét dọn bên này ao, chàng câu cá bên kia ao.

Cơ hội trời cho, nàng cứu chàng một mạng, được chàng cưng sủng nhưng mất tiên thuật khiến nàng chỉ còn là con vật không thể biến hình, không thể nói, chỉ biết lặng lẽ bỏ đi trước ngày thành hôn của chàng với người con gái khác.

Hai nghìn năm sau, chàng vẫn độc thân, đặc biệt thích xuất hiện trước mặt nàng làm nàng phải khổ công chạy trốn.

Nhưng Phượng Cửu càng chạy càng gần, càng tránh càng gặp…

Duyên phận chỉ có thể nói là rất khó đoán.
 
Tham gia
6/7/19
Bài viết
101
Điểm cảm xúc
41
Điểm
28
Thiên tộc ở Cửu Trùng Thiên liên hôn với cửu vĩ Bạch hồ tộc ở Thanh Khâu, các bậc tôn trưởng hai tộc thong dong nghị đàm hết ngày này sang ngày khác, trải qua hai trăm hai mươi ba năm nghị đàm gian nan, cuối cùng đại hôn được ấn định vào một ngày đầu năm.

Ngày lành được lựa chọn công phu, đúng vào tiết cuối xuân hoa đào nở rộ.

Tân lang cùng tân nương sau những lận đận kéo dài hơn hai trăm năm đến nay mới viên mãn thành thân chính là thái tử Dạ Hoa của Cửu Trùng Thiên và thượng thần Bạch Thiển, đế cơ[1] của Thanh Khâu.

[1] Đế cơ: cách gọi tôn kính đối với nữ vương.

Cả tứ hải bát hoang[2] đã sớm chờ đợi đại hôn lễ này từ lâu, chúng tiên lớn nhỏ ai nấy đều đoán Lão Thiên Quân hẳn sẽ tổ chức hôn lễ này tưng bừng, long trọng nhất bậc. Ngoài cách đó ra, mọi người không thể nghĩ ra được ngài còn cách nào khác để thể hiện quân uy của mình.

[2] Tứ hải bát hoang: chỉ bốn biển và tám vùng lục địa.

Mặc dù vậy, khi thấy đoàn đón dâu trùng trùng như sóng từ Thiên giới cuồn cuộn tiến vào Thanh Khâu, xuất hiện trên bờ biển Vãng Sinh trên núi Vũ Trạch, Mê Cốc Tiên Quân cầm chiếc khăn đứng ở bờ bên kia cảm thấy có vẻ mình chưa đánh giá đúng Thiên Quân.

Đoàn đón dâu không phải là đông, mà vô cùng, vô cùng đông, kéo dài bất tận, hùng hậu không thể tưởng tượng.

Mê Cốc Tiên Quân trước nay luôn theo hầu bên cạnh thượng thần Bạch Thiển, là vị địa tiên sống ở trong Thanh Khâu đã lâu nên cũng hiểu nhiều biết rộng.

Theo luật lệ Thiên giới, tân lang không đi đón tân nương, việc này do huynh trưởng tân lang đảm trách.

Mê Cốc nghĩ, Mặc Uyên có thể coi là huynh trưởng của thái tử Dạ Hoa, vì vậy vị tôn thần này xuất hiện trong đoàn đón dâu là hợp tình hợp lý.

Tôn thần xuất hành, tùy tùng theo hầu phải là các vị thần tiên bậc cao, nhưng lại không được quá cao, vậy thì xem ra, Ti Mệnh Tinh Quân, vị tiên chuyên quản vận mệnh người trần, “ăn lương” của Nam Cực Trường Sinh Đại Đế trên Thiên giới, theo hầu cũng là hợp tình hợp lý.

Còn Liên Tống Thần Quân con trai thứ ba của Thiên Quân quanh năm xuất quỷ nhập thần đi đằng trước Ti Mệnh chính là tam thúc của thái tử, hình như không có phận sự ở đó, chắc là đến góp vui.

Mê Cốc suy nghĩ rất lâu, tại sao ba vị tôn thần phúc khí dồi dào đó cũng xuất hiện trong đoàn đón dâu, nghĩ mãi cũng tìm ra được vài nguyên do.

Nhưng vị tiên tóc trắng áo choàng tím đi bên cạnh Mặc Uyên, là người đã ở ẩn mười mấy vạn năm như lời đồn đại, vốn không vạn bất đắc dĩ không dễ bước chân khỏi Cửu Trùng Thiên, chỉ thỉnh thoảng xuất hiện trong những bức họa hoặc vài yến tiệc cực lớn, người khiến hậu thế luôn hoài niệm, Đông Hoa Đế Quân tại sao cũng xuất hiện trong đoàn đón dâu?

Mê Cốc vắt óc suy nghĩ nhưng nghĩ mãi cũng không ra.

Ở bờ biển bên này, cách cả mặt biển Vãng Sinh trùng trùng sóng biếc, mặc dù mắt rất tinh, nhưng Mê Cốc cũng không nhìn rõ gì hơn.

Đoàn đón dâu rầm rộ, khí thế ngút trời tiến đến vịnh Nguyệt Nha, nhưng chưa vượt biển ngay, mà dừng lại bên bờ biển, hàng tiểu tiên nga đi cuối đoàn lần lượt tiến lên chuẩn bị ấm chén, sắp xếp chỗ ngồi để các vị tôn thần nghỉ chân.

Biển Vãng Sinh xanh ngắt, gió hiu nhẹ, hoa vũ thời bờ bên này cố vớt vát khí xuân muộn cuối cùng từ từ nảy ra những nụ non xanh biếc.

Tam điện hạ của Thiên giới, tam thúc của tân lang, Liên Tống Quân lơ đãng mở nắp ly trà, thong dong nói với Ti Mệnh đứng bên: “Trước khi khởi hành bản quân có nghe nói Thanh Khâu thật ra có hai vị đế cơ, ngoại trừ Bạch Thiển sắp phải gả cho Dạ Hoa, hình như còn có một hậu bối nữa thì phải?”.

Ti Mệnh mặc dù có địa vị thấp hơn Đông Hoa Đế Quân rất nhiều, nhưng có may mắn cùng Đông Hoa Đế Quân được mệnh danh là hai bộ toàn thư sống của Cửu Trùng Thiên. Chỉ có điều, Đông Hoa Đế Quân là bộ pháp điển[3] toàn thư sống, còn Ti Mệnh lại là bộ bát quái toàn thư sống, nổi tiếng bởi biết rõ bí mật ba đời tổ tông của cả những người không mấy quen biết.

[3] Những tác phẩm kinh điển của Phật giáo.

Bộ bát quái toàn thư sống đang thấy bức bối suốt cả buổi sáng bởi không khí trang trọng của đoàn đón dâu kéo dài mười dặm, lúc này, đã có cơ hội mở miệng, mặc dù nôn nóng muốn nói chuyện phiếm, nhưng mặt vẫn làm bộ trịnh trọng, chắp tay vái, thi lễ đầy đủ, mới từ tốn cất lời: “Tam điện hạ nói phải, Thanh Khâu thực sự có hai vị đế cơ. Vị nhỏ tuổi kia chính là tôn tử duy nhất của nhà họ Bạch, mang hai dòng máu bạch hồ và xích hồ, cả tứ hải bát hoang chỉ có duy nhất một hồ ly chín đuôi lông đỏ, là điện hạ Phượng Cửu. Thiên tộc có ngũ phương ngũ đế, nước Thanh Khâu cũng có ngũ hoang ngũ đế, bởi vì thượng thần Bạch Thiển sớm muộn cũng gả vào Thiên tộc, cho nên hai trăm năm trước, thượng thần đã trao đế vị của Thanh Khâu cho cháu gái là điện hạ Phượng Cửu. Khi kế vị, tiểu điện hạ lúc ấy chỉ mới ba vạn hai nghìn tuổi, Bạch Chỉ Đế Quân thậm chí còn có ý để điện hạ Phượng Cửu kế thừa ngôi vị cao nhất Thanh Khâu, tuổi trẻ mà quyền cao chức trọng như vậy, có điều… cũng hơi kỳ lạ”.

Tiểu tiên nga bước tới rót trà, Ti Mệnh dừng lại, bưng ly trà bốc khói đưa lên miệng, qua làn khói mời, đưa mắt liếc Đông Hoa ngồi bên cũng đang lặng lẽ uống trà.

Liên Tống hình như được khơi hứng, tựa vào ghế đá giơ tay ra hiệu, nheo mắt cười cười: “Nói tiếp đi”.

Ti Mệnh gật đầu, nghĩ một lát, lại tiếp: “Thật ra tiểu tiên đã biết điện hạ Phượng Cửu từ lâu, khi đó, điện hạ mới khoảng hai vạn tuổi, lúc nào cũng ở bên Bạch Chỉ Đế Quân, bởi là cháu gái duy nhất nên rất được cưng chiều, tính cách vì thế cũng rất hiếu động, những chuyện như câu cá, bắt chim đương nhiên khỏi bàn, còn thường thích trêu chọc người khác, ngay tiểu tiên cũng bị điện hạ đùa giỡn mấy lần. Nhưng …”. Ti Mệnh dừng lại một chút, “Hơn hai trăm năm trước điện hạ đã xuống Phàm giới một lần, đi mấy chục năm, sau khi trở về không biết tại sao lại trầm lặng hơn nhiều. Nghe nói, ngày từ Phàm giới trở về, điện hạ mặc một bộ tang phục. Hơn hai trăm năm trôi qua, điện hạ cũng đã trưởng thành, vì được nuôi dưỡng để trở thành nữ vương, có lẽ cũng vì lo lắng điện hạ không có người ở bên phò trợ, cho nên một trăm năm qua Bạch Chỉ Đế Quân đã chọn cho điện hạ vài vị hôn phu, nhưng điện hạ …”.

Liên Tống sốt ruột hỏi: “Nàng ta thế nào?”.

Ti Mệnh lắc đầu, ánh mắt như vô tình liếc về phái Đông Hoa Đế Quân, tỏ vẻ tươi cười, nói: “Thật ra cũng không có gì, chỉ là điện hạ một mực cho rằng mình đã xuất giá, dù phu quân đã qua đời, nhưng cũng không thể tái giá. Hơn nữa lại nghe nói hơn hai trăm năm nay, điện hạ chưa một ngày gỡ chiếc trâm hoa trắng khỏi mái tóc, cũng chưa lúc nào bỏ tang phục”.

Liên Tống chống cằm tựa vào ghế đá: “Nghe ngươi kể, ta lại sực nhớ bảy mươi năm trước cơ hồ đã xảy ra một chuyện, Thương Di Thần Quân ở núi Chức Việt thành thân, hình như có liên quan đến Thanh Khâu?”.

Ti Mệnh nghĩ một lát, muốn đáp, nhưng thượng thần Mặc Uyên ngồi bên cạnh im lặng nãy giờ đã lên tiếng, giọng thanh sảng lạnh lùng: “Chỉ là Bạch Chỉ muốn gả Phượng Cửu cho Thương…”. Ti Mệnh bên cạnh vội nhắc: “Thương Di”. Mặc Uyên nói tiếp: “Gả cho Thương Di, sai trói Phượng Cửu đưa lên kiệu hoa, Phượng Cửu tức giận, đêm đó liền hủy hoại Thần Cung của núi Chức Việt mà thôi”.

Hai chữ “mà thôi” từ miệng Mặc Uyên thốt ra nhẹ tựa mây bay, Ti Mệnh nghe mà tim đập chân run. Chuyện này quả thực Ti Mệnh không biết, cảm thấy nên tiếp lời, nhưng đắn đo mãi cũng chỉ thốt lên một tiếng “Ôi...” thật dài.

Liên Tống tay cầm quạt, mỉm cười, ngồi thẳng người, nói với Mặc Uyên: “Vậy là đúng rồi, ta nhớ có ai đó kể với ta, hôn lễ năm xưa hình như ngài còn làm chủ hôn. Theo lời kể thì Thương Di Thần Quân lại thật lòng yêu Phượng Cửu, vị tân nương chưa bái đường, còn làm loạn Thần Cung của mình, đến nay cung điện được tu sửa lại vẫn còn treo mấy bức họa của Phượng Cửu, Thương Di vẫn ngày ngày nhìn ngắm nhớ cố nhân”.

Mặc Uyên không nói thêm nữa, Ti Mệnh lại than: “Nhưng yêu là một chuyện, có được yêu lại hay không lại là chuyện khác. Tiểu tiên còn nghe nói Tần Cơ ở núi Chung Hồi si mê tứ ca Bạch Chân của thượng thần Bạch Thiển, nhưng làm gì có gan tranh giành với thượng thần Chiết Nhan”.

Gió thổi, những bông hoa vũ thời không ngừng lay động. Mấy vị tôn thần dáng vẻ trang nghiêm chuyện phiếm xong, ai về chỗ nấy, có vị nghỉ ngơi, có vị thưởng trà, có vị ngắm cảnh. Nhưng mấy tiểu tiên đứng hầu bên cạnh nghe lỏm được câu chuyện bí mật như thế, không sao giữ được bình tĩnh, ai nấy hưng phấn đỏ cả mặt, nhưng lại không dám bàn tán ra miệng, chỉ đưa mắt nhìn nhau thầm trao đổi, bên bờ biển Vãng Sinh lúc này chỉ toàn những ánh mắt “đắm đuối”.

Một tiểu tiên biết ý đưa cho Ti Mệnh ly trà để nhuận giọng, Ti Mệnh Tinh Quân dùng nắp gẩy vụn trà nổi trên mặt chén, ánh mắt lượn mấy vòng rồi lại liếc sang Đông Hoa Đế Quân, khẽ nhíu mày, tư lự.

Liên Tống xoay ly trà trong tay, cười hỏi: “Ti Mệnh, hôm nay ngươi bị máy mắt hả, sao cứ liếc Đông Hoa thế?”.

Đông Hoa Đế Quân ngồi cách đó hai trượng[4] đặt ly trà xuống, hơi ngước mắt lên, Ti Mệnh ngượng ngùng cười khan hai tiếng, mở miệng định nói thì “ào” một tiếng, mặt biển bỗng bùng lên một cơn sóng lớn.

[4] Đơn vị đo chiều dài cổ của Trung Quốc, tương đương 3,3 mét.

Ngọn sóng dâng cao mười trượng rồi tản ra lấp loáng trong nắng sớm, bên bờ vịnh Nguyệt Nha bỗng xuất hiện một mỹ nhân xiêm y trắng muốt.

Suối tóc đen nhánh của mỹ nhân vắt trên cánh tay để trần trắng tuyết, trên mái tóc cài chiếc trâm hoa cũng màu trắng, xiêm y của nàng cơ hồ không thấm nước, dường như còn bay nhẹ trong gió mai, trên người nàng hầu như không dính hạt nước. Suối tóc đen lại ướt đẫm, vài sợi tóc mai dính vào má, cỏ vẻ rất lạnh, nhưng khóe mắt cong cong lại vô cùng ấm áp, nàng mủm mỉm nhìn Ti Mệnh Tinh Quân vừa rồi còn buôn chuyện rôm rả.

Ti Mệnh tay chân luống cuống bưng ly trà che mặt, Liên Tống đưa chiếc quạt trong tay cho Ti Mệnh: “Mặt ngươi quá to, ly trà không che hết, dùng cái này đi”.

Ti Mệnh mặt đầy khó xử, mấy lần định quỳ xuống, mặt nặn ra một nụ cười vô cùng đau khổ: “Không biết điện hạ Phượng Cửu du thủy đến đây, vừa rồi tiểu tiên lỗ mãng, xin điện hạ niệm tình quen biết bấy lâu, lượng thứ cho tiểu tiên”.

Mặc Uyên liếc nhìn Phượng Cửu hỏi: “Ngươi ẩn mình dưới biển Vãng Sinh làm gì thế?”.

Phượng Cửu toàn thân xiêm y trắng muốt, đứng trên mặt nước yên tĩnh, đoan trang trả lời: “Rèn luyện sức khỏe ạ”.

Mặc Uyên cười nói: “Vậy ngươi lên đây làm gì? Phải chăng muốn hù dọa Ti Mệnh một phen?”.

Phượng Cửu ngập ngừng, nhìn về phía Ti Mệnh đang khổ sở quỳ trên đất: “Ngươi vừa nói, vị Tần Cơ nào đó ở núi Chung Hồ, thích tiểu thúc của ta thật sao?”.

“…”.

Phần 1: Bồ đề vãng sinh

Thời gian như nước chảy, tính ra hai nghìn bảy trăm năm đã trôi qua, có quá nhiều chuyện xảy ra trong quãng thời gian dài dặc đó, rất nhiều chuyện còn nhớ được, rất nhiều chuyện trước đây vẫn nhớ, nhưng lại không muốn nhớ, nhớ nhớ quên quên, những gì nhớ được cũng đã trở thành quên lãng.

Ẩn dật ở Thanh Khâu hơn hai trăm năm không hẳn được coi là yên tĩnh, nhưng trong hai trăm năm này cũng rất khó để nàng nhớ đến Đông Hoa, nhưng khi đến Cửu Trùng Thiên thì không muốn gặp chàng cũng khó. Thấy Đông Hoa không hề nhận ra mình, nàng thầm nghĩ như vậy cũng tốt.

Nàng với Đông Hoa ứng với câu Phật ngữ kia, nói không được, nói không được, nói nhiều là sai, nói nhiều là họa.

1.

Về sau có một ngày, khi cây bồ đề vãng sinh trong cung Thái thần trổ đầy hoa, những chùm hoa tựa đám mây bay trên đầu tường, Đông Hoa nhớ lại lần đầu tiên gặp Phượng Cửu.

Khi đó, chàng không có ấn tượng gì về nàng. Là vị tôn thần lánh đời vạn năm trong cung Thái Thần, những điều có thể thu hút ít nhiều chú ý của chàng chỉ có sự sai lệch của bốn mùa, sự thay đổi của nhật nguyệt và những kiếp nạn của tạo hóa.

Mặc dù được Thiên Quân năm lần bảy lượt mời rời cung Thái Thần đi đón dâu cho thái tử Dạ Hoa, nhưng chàng hầu như không mấy bận tâm. Đương nhiên, cũng không nhớ lắm cô thiếu nữ từ dưới biển Vãng Sinh đội sóng mà lên, có giọng nói trong trẻo như mưa bụi đầu xuân. Cũng không nhớ giọng nói trong trẻo đó cố nén cười đó, hỏi Ti Mệnh: “Vị Tần Cơ nào đó ở núi Chung Hồ thích tiểu thúc của ta thật sao?”.

Đông Hoa thực sự có chút ấn tượng với Phượng Cửu là ở trong yến tiệc thành hôn của Dạ Hoa.

Đại hôn lễ của thái tử Thiên tộc, tân nương lại là thượng thần Bạch Thiển – người mà tứ hải bát hoang phải tôn kính gọi là cô cô, đương nhiên phải khác thường. Thần tiên trên Thiên giới phân thành cửu phẩm, trừ những vị thuộc Thiên tộc, may mắn được mời dự yến chỉ có mười vị chân hoàng, chân nhân[1] và hai, ba chục vị linh tiên ngũ phẩm trở lên.

[1] Chỉ người tu hành đắc đạo.

Điện Tử Thanh ráng mây sáng rực, khai yến cũng đã khá lâu.

Thiên Quân đời nay vốn kiêu ngạo, bất luận yến tiệc gì, qua ba tuần rượu sẽ mượn cớ tửu lượng kém cáo từ, cho dù tiệc cưới của cháu ruột cũng không ngoại lệ.

Còn tân lang Dạ Hoa mình vận hỷ phục tửu lượng vốn kém, tối nay lại càng kém, rượu chưa quá ba tuần đã phải nhờ một tiểu tiên dìu về cung Tẩy Ngô. Mặc dù Đông Hoa nhìn thấy thái tử cơ hồ đã say đến tưởng chừng sắp ngất xỉu nhưng bước chân vẫn ngay ngắn.

Nhị vị thần tiên vừa ra khỏi điện Tử Thanh không lâu thì mấy vị chân hoàng cũng lần lượt tìm cớ cáo lui, các vị trưởng bối đã cáo từ, không khí bữa tiệc thoái mái không ít. Đông Hoa xoay ly rượu đã uống cạn trong tay, cũng định ra về, để cho các tiểu tiên bên dưới đang ngồi ngay ngắn, cố giữ lễ được thoải mái thưởng thức yến tiệc.

Đang định hạ chén đứng lên, vừa ngước mắt chợt nhìn thấy ở cửa điện không biết từ lúc nào xuất hiện một chậu hoa câu tô ma. Đằng sau khóm hoa vàng nhạt thấp thoáng bóng thiếu nữ áo trắng ẩn mình đang khom lưng cúi đầu, một tay nâng váy, một tay bưng chậu hoa che mặt, nghiêng người lần theo chiếc cột ở góc tường, lén lút di chuyển từng bước về phía bàn tiệc.

Đông Hoa dựa vào thành ghế, tìm một tư thế thoải mái, lại ngồi xuống chiếc ghế tử kim[2].

[2] Một loại khoáng sản có hàm lượng vàng khoảng 58,5%.

Trên sân khấu vừa kết thúc một vũ khúc, thiếu nữ áo trắng va chỗ nọ đụng chỗ kia, cuối cùng cũng tìm được một ghế trống, ló đầu ra thận trọng nhìn tứ phía, khi đã chắc chắn không bị ai chú ý, liền nhanh như chớp ló mắt khỏi chậu hoa câu tô ma, thừa dịp mọi người đang nhìn lên sân khấu, vỗ tay tán thưởng, nàng vừa thản nhiên ngồi xuống ghế vỗ tay phụ họa khen hay, vừa thò chân đá chậu hoa phía sau xuống gầm bàn.

Chưa giấu được, lại đá tiếp.

Vẫn không giấu được, lại đá tiếp.

Cú đá cuối cùng quá mạnh, cả chậu hoa câu tô ma xui xẻo bay qua chân bàn, vượt qua đầu các vũ cơ trên sân khấu, bay thẳng về phía Đông Hoa lúc đó còn chưa kịp đứng lên ra về.

Chúng tiên kinh ngạc kêu một tiếng, chậu hoa dừng lại cách trán Đông Hoa ba thốn[3].

[3] Đơn vị đo chiều dài cổ Trung Hoa, tương đương 3,3 centimét.

Đông Hoa một tay chống cằm, tay kia giơ ra bắt lấy chậu hoa giữa không trung, cúi nhìn về phía “thủ phạm”.

Ánh mắt của chúng tiên cũng theo ánh mắt Đông Hoa nhất loạt dồn vào đó.

“Thủ phạm” ngây người một lát rồi lập tức nhanh nhẹn ngoảnh đầu đi, vừa chân thành vừa nghiêm túc hỏi vị tiên áo nâu bên cạnh: “Mê Cốc, sao ngươi nghịch ngợm thế, lại tùy tiện đá chậu hoa vào đầu người ta?”.

Sau bữa tiệc, tiểu quan theo hầu Đông Hoa mới cho chàng biết, thiếu nữ áo trắng, đầu cài hoa trắng tên là Phượng Cửu, là vị đế cơ nhỏ tuổi của Thanh Khâu.

Đại hôn lễ của thái tử Dạ Hoa tưng bừng náo nhiệt suốt bảy ngày.

Sau bảy ngày lại là lễ hội ngàn hoa mỗi giáp (sáu mươi năm) tổ chức một lần, do Liên Tống Quân đích thân chủ trì, vì vậy, rất nhiều vị thần tiên được mời dự tiệc cưới còn nán lại xem hội hoa, chưa vội ra về.

Cửu Trùng Thiên nổi tiếng thiêng liêng thanh khiết bây giờ chẳng còn lại mấy nơi yên tĩnh, chỉ có ao Phấn Đà Lợi[4] của Nhất Thập Tam Thiên được coi như là nơi duy nhất còn yên tĩnh. Chắc vì ao này chẳng có mấy vị thần tiên dám đến gần quấy rầy.

[4] Phấn Đà Lợi: Âm Hán-Việt là Phân Đà Lợi (hoa sen trắng) nhưng ban biên tập điều chỉnh thanh điệu cho phù hợp với mỹ cảm của người Việt Nam.

Trong cái gọi là “không có vị thần tiên nào” lại không bao gồm thượng thần Bạch Thiển mới về làm dâu Thiên Tộc.

Mười bảy tháng tư, tiết trời ấm áp, thượng thần Bạch Thiển giúp cháu gái Phượng Cửu mở hai bữa tiệc nhỏ để gặp gỡ các trang nam tử, tìm đấng phu quân tài giỏi, bàn tiệc đường hoàng bày biện bên ao Phấn Đà Lợi.

Thượng thần Bạch Thiển mười bốn vạn tuổi được gả cho thái tử Dạ Hoa, luôn cảm thấy mình xuất giá vào tuổi ấy là thích hợp nhất, nên không khỏi lấy mình làm chuẩn để đánh giá người khác, suy đi tính lại vẫn cảm thấy Phượng Cửu mới hơn ba vạn tuổi quả thực vẫn còn nhỏ, chưa thích hợp để tính chuyện hôn nhân, nhưng nàng đã được nhị ca Bạch Dịch, phụ thân của Phượng Cửu nhờ vả, nên không tiện từ chối, chỉ có thể hết lòng giúp cô cháu mở bữa tiệc gặp mặt xem có nam tử nào lọt vào mắt xanh hay không.

Nhưng dạo này Cửu Trùng Thiên rất náo nhiệt, chẳng có chỗ nào thích hợp để mở một bàn tiệc nhỏ lịch sự, trang nhã. Nghe nói Đông Hoa Đế Quân thường ngày luôn ẩn mình trong cung Thái Thần, rất ít khi ra ngoài, cho dù giết người phóng hỏa trước cung Thái Thần cũng chẳng ai bận tâm, Bạch Thiển suy nghĩ hồi lâu, quyết định bày tiệc bên bờ ao Phấn Đà Lợi cạnh cung Thái Thần.

Hôm đó lại có đến hai trang nam tử lần lượt đến xem mặt.

Tuy nhiên, hôm đó mọi người đều tính nhầm. Đông Hoa không chỉ ra khỏi cung, mà còn ở ngay bên ngoài cung. Chỉ cách chỗ bày tiệc chừng năm mươi bước, bị cây liễu sum suê bên bờ ao che khuất, thư thái nằm trên ghế trúc, dưới chân là chiếc cần câu bằng trúc tím, che mặt bằng cuốn kinh thư, vừa nhắm mắt dưỡng thần vừa ung dung chờ cá cắn câu.

Phượng Cửu thưởng thức xong bữa sáng, uống một tách trà, lề mà lề mề rõ lâu mới đến Nhất Thập Tam Thiên.

Giữa làn nước xanh biếc nổi lên vô vàn đóa sen, đóa hoa nối nhau trải dài vô tận, như đám mây trắng muốt thêu chìm vân sen.

Bên cạnh bàn tiệc đã có một vị thần áo xanh nho nhã, thư thả phe phẩy chiếc quạt trong tay, thấy nàng chầm chậm đi đến, gập chiếc quạt đánh phạch một tiếng, nheo mắt cười.

Thực ra Phượng Cửu cũng không quen vị thần quân này, chỉ biết là thiếu chủ của một chi nào đó trong Thiên tộc, tĩnh tu ở tiên sơn nào đó nơi Phàm thế, tính tình cởi mở hòa nhã. Nếu nói đến nhược điểm, chàng chỉ có một nhược điểm là quá ưa sạch sẽ, không chịu nổi mấy người không tuân thủ lễ nghĩa, giờ giấc. Vì thế, nàng cố tình đến trễ nửa canh giờ.

Bữa tiệc này cũng chỉ là tiểu yến, không quá khách sáo lễ nghi, hai người hàn huyên một hồi rồi ngồi xuống.

Đông Hoa nằm khuất sau sau cây liễu gần đó, bị quấy rầy bởi những lời to nhỏ kia, giơ tay nhấc cuốn kinh thư trên mặt, nhìn ra, thấy cách một gốc dương liễu chừng hơn năm mươi bước, Phượng Cửu hơi nghiêng đầu, cau mày nhìn khay gỗ hình rẻ quạt trước mặt.

Khay được bày kín, có một bầu rượu bằng ngọc Đông Lăng cùng vài món ăn màu sắc sặc sỡ.

Tiểu yến trên Thiên giới đã có lệ, mỗi khách một khay, thức ăn như nhau, nhưng rượu được phân theo phẩm vị của từng người.

Vị thần áo xanh gập chiếc quạt, gợi chuyện: “Khéo thật, gia tộc của tiểu tiên từ thượng cổ chuyên quản lễ nghi của Thần tộc, trước đây có nghe thượng thần Bạch Thiển nói, trong việc lễ giáo Phượng Cửu điện hạ cũng đạt đến cảnh giới…”.

Bốn chữ “vô cùng tinh thông” còn chưa kịp thốt ra, Phượng Cửu ngồi đối diện đã nhanh như gió giải quyết xong một đĩa chân giò, vừa dùng đũa gạt nốt chỗ nước tương cuối cùng trong đĩa, vừa nấc vừa hỏi: “Cũng gì cơ?”.

Trên khóe miệng còn dính chút nước tương.

Vị thần áo xanh thông thạo lễ giáo kia sửng sốt nhìn nàng.

Phượng Cửu lấy trong tay áo ra chiếc gương nhỏ, vừa mở gương vừa lẩm bẩm nói: “Trên mặt ta có gì ư?”.

Nàng ngừng lại một chút: “A, đúng là có thật”.

Vậy là giơ ngay tay áo đưa lên chùi miệng. Ống tay áo trắng muốt lập tức bị dính vệt mỡ rõ mồn một.

Gương mặt vị thần áo xanh ưa sạch sẽ bỗng tái xanh.

Phượng Cửu đưa gương lên soi kỹ lần nữa, soi xong coi như không có chuyện gì xảy ra, thản nhiên nhét vào trong tay áo, có lẽ trên tay còn dính ít dầu mỡ nên khung gương bằng gỗ tử đàn còn lem nhem mấy dấu tay mỡ màng.

Mặt vị thần áo xanh tím ngắt.

Đúng lúc hai giọt nước tương từ đầu đũa nhỏ xuống bàn đá.

Phượng Cửu cắn đũa, dùng ngón tay cạo, cạo không sạch, dứt khoát lấy ngay ống tay áo lau, lần này sạch ngay.

Bàn tay cầm khăn lụa chìa ra cho nàng khựng lại giữa không trung.

Hai người nhìn nhau một hồi, vị thần áo xanh mặt đã chuyển sang màu đen, khàn giọng nói: “Điện hạ cứ từ từ dùng, tiểu tiên còn có chút việc, xin phép đi trước, hôm khác lại hầu chuyện điện hạ”. Vừa dứt lời đã sải bước thật nhanh gần như chạy mất.

Đông Hoa bỏ quyển kinh thư trên mặt xuống, thấy Phượng Cửu tay cầm đũa vẫy quyến luyến cáo biệt, trong đôi mắt sáng ngời chẳng có gì lưu luyến, lại còn long lanh như cười, giọng nói “eo éo” như bị bóp cổ: “Vậy hôm khác tái ngộ, nhưng đừng để người ta chờ lâu quá…”. Đến khi vị thần áo xanh kia biến mất, Phượng Cửu mới cười khúc khích, thong thả rút chiếc khăn mùi tay trắng thêu hoa vũ thời trong tay áo ra ung dung chùi tay, thuận tay vuốt lại những nếp gấp trên ống tay áo vừa bị đè lên bàn đá.

Suốt hai trăm năm qua chuyện thế này đã gặp rất nhiều, tài xua đuổi thần tiên muốn kết thân với Thanh Khâu của Phượng Cửu điện hạ có thể nói là đã đạt đến độ thần thông. Vị thần quân thứ hai lúc đến cũng tràn đầy trề hứng khởi, lúc đi cũng chuồn thật nhanh như bị ma đuổi, chỉ để lại chén, bát ngổn ngang trên bàn, trong ánh còn loang loáng màu mỡ.

Chưa đến một canh giờ ăn hết hai đĩa chân giò lớn, thấy bụng đầy anh ách, Phượng Cửu cầm ly trà quay lưng về phía ao Phấn Đà Lợi, vừa chiêm ngưỡng vẻ uy nghiêm tráng lệ của cung Thái Thần, vừa tiêu hóa thức ăn. Đông Hoa Đế Quân phía kia hình như có hai con cá nhỏ cắn câu, cuốn kinh thư trên tay cũng đã được giở đến trang cuối cùng, ngước mắt nhìn trời thấy nắng mỗi lúc càng gay gắt, liền dọn đồ hồi cung, thản nhiên đi qua tiểu yến bên bờ ao.

Phượng Cửu trầm ngâm cầm ly trà, bộ dạng như một bà lão, nghe thấy bước chân thong thả sau lưng, tưởng là Mê Cốc dạo gần đây ngày càng lắm lời, sực tỉnh nói: “Sao đến sớm thế, sợ ta đánh nhau với bọn họ à?”. Nói đoạn ngồi dịch sang ghế bên, lẩm bẩm: “Khẩu vị của cô cô gần đây đến là kỳ quái, chọn được hai đám giống như mèo hen, ta cũng chẳng nhẫn tâm đấm cho họ vài quả, đã lừa hai vị đại thần yếu ớt chạy mất rồi, có điều ta đang mệt muốn chết đây”. Nàng bưng ly trà im lặng một lát, “Ngươi ngồi đây với ta một lúc, lâu lắm rồi không được thấy mặt trời mọc, lặn ở đây, lại thấy nhớ nhớ”.

Đông Hoa dừng bước, thấy Phượng Cửu vừa dứt lời liền ngồi xuống ngay sau nàng, chọn một trong hai ấm trà đặt trên bàn rồi tiện tay rót một ly trà lạnh nhuận giọng.

Phượng Cửu yên lặng một lúc, tâm trí nhất thời bị cuốn hút bởi ao sen trắng, lòng xao xuyến, xoay chiếc chén trong tay, giọng mơ màng: “Người ta bảo, mỗi bông sen trắng ở ao Phấn Đà Lợi này đều là do lòng người biến thành, những người chúng ta quen mặc dù không có ai là người phàm, nhưng Mê Cốc, ngươi nói xem, có phải Thanh Đề cũng có một bông sen trắng ở đây?”. Dường như nghĩ một lúc, hỏi tiếp, “Nếu đúng, ngươi nói xem là bông nào?”. Rồi lại thở dài thườn thượt như bà lão, “Người như chàng …”. Cùng với tiếng thở dài, lại nhấp một ngụm trà.

Đông Hoa cũng cúi đầu nhấp thêm ngụm trà, chàng láng máng nhớ ra Mê Cốc hình như là vị địa tiên thường đi cùng Phượng Cửu, xem ra nàng đã nhận nhầm người, Thanh Đề là ai, chàng chưa từng nghe nói.

Bóng cây đổ xuống, hai chân Phượng Cửu gác lên bờ ao, úp mở nói: “Nửa tháng trước, Tô Mạch Diệp ở Tây Hải mời tiểu thúc ta đến uống rượu, ta cũng đòi đi theo, lúc cưỡi mây qua Phàm thế đó…”. Dừng một lát, lại tiếp: “Thì ra triều Tấn đã diệt vong, chính vào năm thứ bảy sau khi Thanh Đề qua đời”. Ngập ngừng rồi lại tiếp, “Ta đã sớm nhận ra triều đại đó không thể tồn tại lâu”. Lại thở dài, quay đầu, rót thêm trà, miệng còn lầm bầm, “Nghe nói loại trà Tô Mạch Diệp mới chế, tên là gì nhỉ, à, Bích Phù Xuân, cũng khá, sau này ngươi đan giúp ta một cái sọt tre, lần sau đi Tây Hải, ta…”, vừa ngẩng đầu, câu nói mắc trong họng, nghẹn cứng, rồi kéo theo một cơn ho sặc sụa, ho xong vẫn giữ tư thế định rót trà, im bặt mãi không nói gì nữa.

Ngón tay thon dài của Đông Hoa đặt trên nắp ly trà men sứ màu xanh nhạt, dưới ánh mặt trời lấp lánh, đến đầu ngón tay cũng lóng lánh phát sáng. Ánh mắt tĩnh lặng như vô tình dừng trên cái tay áo dính đầy nước tương của Phượng Cửu rồi lại chậm rãi hướng lên trên, nhìn gương mặt ửng hồng của nàng đã đỏ mọng vì ho, giống sắc lá đỏ ở Hỷ Thiện Thiên.

Dường như đã lấy lại tinh thần, khuôn mặt Phượng Cửu từ từ nở một nụ cười, mặc dù hơi thiếu tự nhiên, nhưng là một nụ cười thật sự, khách khí mở lời trước, khách khí thỉnh an: “Không biết Đế Quân ở đây, tiếp đón không được chu đáo, Thanh Khâu Phượng Cửu bái kiến Đế Quân”.

Đông Hoa nghe xong lời thỉnh an, ngước mắt nhìn nàng, bảo nàng ngồi, chờ nàng cúi đầu bước đến ngồi xuống ghế, chàng mới mở nắp ly trà gạt lá trà vừa chậm rãi nói: “Nhìn thấy ta, ngươi ngạc nhiên lắm sao?”.

Phượng Cửu vừa rồi y lời bước đến coi như biết cư xử chừng mực, lúc này lại như ngạc nhiên thật sự, ngẩng đầu, môi mấp máy, nhưng vẫn nở một nụ cười khách khí xa cách: “Lại được gặp Đế Quân, lòng mừng khôn xiết, không ngờ lại khiến Đế Quân chê cười”.

Đông Hoa gật đầu, coi như chấp nhận lời nàng nói, mặc dù người nào sáng mắt đều có thể nhận ra trong nụ cười cứng đơ đó khó tìm thấy cái gọi là “vui mừng khôn xiết”, chàng giơ tay rót thêm một chén nước lạnh cho nàng.

Hai người cứ ngồi như vậy, nhìn nhau không nói, quả thật hơi có chút ngượng ngập. Chớp mắt Phượng Cửu đã uống hết chén nước, đưa tay cầm quai ấm trà làm như chuẩn bị rót thêm trà cho mình. Đông Hoa ngước mắt nhìn, đúng lúc thấy ly trà không hiểu sao hơi nghiêng, ly trà nóng vừa rót đầy đổ thẳng vào vạt áo trắng muốt của nàng, để lại một vết ố lớn.

Đông Hoa đặt tay trên bàn đá, mắt nhìn nàng không chớp.

Chàng chẳng qua nhất thời nổi hứng, nhìn nàng thư thái ngắm mặt trời mọc của Thập Tam Thiên có vẻ rất say sưa, chàng đã tưởng từ vị trí đó nhìn ra được phong cảnh đặc sắc nào, lại thấy nàng mời ngồi, liền tiện thể ghé lại. Lúc này bỗng thấy hứng thú thật sự, nhớ là nàng rất giỏi đóng kịch, có lẽ tưởng chàng cũng đến xem mặt nhưng ngại thân phận của chàng, không thể tùy ý đuổi khéo như hai vị kia, cho nên mới “thông minh” dùng khổ nhục kế, tự làm ướt áo mình để kiếm cớ bỏ đi. Chỗ trà đổ lên vạt áo vẫn còn bốc khói, chứng tỏ nó rất nóng, quả là nàng rất bạo gan.

Đông Hoa chống cằm, thầm nghĩ, bước tiếp theo có phải nàng định rút lui, quả nhiên thấy Phượng Cửu hai, ba lần phủi vết trà trên áo, đương nhiên không phủi được, vậy là ngần ngại, cung kính, khách khí, xa cách lại không giấu được sự vui mừng, đứng lên cáo biệt: “Ôi, nhất thời sơ ý, làm chuyện thất lễ, Phượng Cửu xin phép được cáo lui, hôm khác sẽ thỉnh giáo Đế Quân về Phật lý, đạo pháp”.

Hương sen thanh khiết theo gió thoảng qua, Đông Hoa ngước mắt, đưa ấm trà cho nàng, thong thả nói: “Chỉ một ly trà có là gì, dùng luôn cả ấm này đi, vừa rồi ta cầm, đã làm nguội lạnh rồi, đổ hết lên xiêm áo của ngươi lần nữa, như thế mới thật là thất lễ”.

“…”.

Đông Hoa Đế Quân ở ẩn trong cung Thái Thần, xa lánh thế sự quá lâu, các vị thần tiên trẻ tuổi không có cơ duyên “thưởng thức” tài châm biếm sâu cay của chàng nhưng các vị thần tiên trưởng bối thì chẳng ai dám quên. Đông Hoa mặc dù luôn ít nói, nhưng lời nào nói ra cũng sắc bén như thanh kiếm trong tay chàng.

Tương truyện một vị thiếu chủ khá hung hăng của Ma tộc nghe nói về chiến tích của Đông Hoa ghi trong kinh sử viễn cổ, năm đó hùng dũng xông vào Cửu Trùng Thiên tìm Đông Hoa định thách đấu một phen. Kết quả vừa lẻn vào cung Thái Thần đã bị thị vệ phục tứ phía tóm ngay.

Lúc đó Đông Hoa đang ngồi bên ao sen cách đó không xa, chơi cờ một mình.

Thiếu chủ tuổi trẻ hăng máu, dù bị bắt vẫn lớn tiếng chửi bới hòng khiêu khích.

Đông Hoa cầm hộp cờ đi ngang qua, thiếu chủ càng ngang ngược, gào to, rằng nghe đồn Thiên tộc xưa nay nổi tiếng trọng đạo đức, không ngờ hôm nay vừa gặp lại bị đối xử thế này, Đông Hoa nếu còn chút đạo đức lương tri thì hãy ra đây giao đấu tay đôi với hắn, chớ nên phái thuộc hạ cậy đông ức hiếp một người …

Đông Hoa cầm hộp cờ, đi qua rồi lại lùi lại hai bước, hỏi thiếu chủ đang phục trên đất: “Ngươi nói, đạo… gì?”.

Thiếu chủ nghiến răng: “Đạo đức!”. Lại hét to nhắc lại: “Ta nói là đạo đức!”.

Đông Hoa nhấc chân đi về phía trước: “Đó là cái gì? Chưa từng nghe nói”. Thiếu chủ uất quá ngất tại trận.

Ba ngày sau Phượng Cửu mới nhớ ra điển cố này, lúc ấy nàng đang ở điện Khánh Vân, xem cô cô của nàng giáo dưỡng nhi tử.

Điện Khánh Vân là nơi ở của tiểu thiên tôn A Ly, cục cưng của thượng thần Bạch Thiển và thái tử Dạ Hoa, mọi người thường gọi là Cục bột nhỏ.

Tiểu thiên tôn thân vận áo vàng ngồi đối diện mẫu thân, thấy người lớn ngồi trên ghế hai chân chạm đất, chân mình lại chỉ có thể lơ lửng đung đưa, nên cố gắng thử chạm tới đất, nhưng chân thì ngắn, ghế lại cao, cố một hồi mũi chân cũng không chạm tới đành giận dỗi bỏ cuộc, mặt ỉu xìu cúi cái đầu nhỏ bé, nghe mẫu thân giáo huấn.

Bạch Thiển nghiêm nghị, lời lẽ thống thiết: “Mẫu thân nghe nói phụ thân con mười mấy tuổi đã đọc thuộc ‘Đại Tát Ca Ni Kiền Tử Sở Thuyết Kinh’, ‘Thắng Tư Duy Phạm Thiên Sở Vấn Kinh’, ‘Để Lý Tam Muội Da Bất Động Tôn Uy Nộ Vương Sử Giả Niệm Tụng Pháp’, tại sao lại chiều con như vậy, đã hơn năm trăm năm tuổi rồi, ngay cả ‘Huệ Lâm Âm Nghĩa’ cũng học không xong, dĩ nhiên… học không xong cũng không phải là chuyện lớn, nhưng con cũng không thể làm xấu mặt ta và phụ thân con”.

Cục bột nhỏ phụng phịu phản bác rất có lý: “A Ly cũng không muốn như vậy, nhưng đầu óc A Ly là di truyền từ mẫu thân chứ không phải từ phụ quân!”.

Phượng Cửu bật cười, phun cả ngụm trà trong miệng ra, Bạch Thiển nheo mắt, ý tứ nhìn nàng, Phượng Cửu khổ sở nén cười, vội vàng xua tay giải thích: “Không có ý gì, chỉ là dạo này tiêu hóa kém, hai người cứ tiếp tục, cứ tiếp tục”.

Khi Bạch Thiển quay sang tính sổ với Cục bột nhỏ, không hiểu sao, Phượng Cửu đột nhiên nhớ đến tin đồn Đông Hoa khiến vị thiếu chủ của Ma tộc kia uất ức ngất xỉu. Nàng cầm ly trà lên lại uống một ngụm, ánh mắt như cười, cúi đầu nhìn xiêm áo trắng muốt trên người, nụ cười tan biến, nàng giơ tay phủi sợi tóc vương trên tay áo.

Nỗi phiền muộn ở đời cũng nhiều như tóc trên đầu, không sao đếm xuể, chuyện gì cũng để bụng không phải là cách hành xử của nàng. Phượng Cửu miên man hồi tưởng, thời gian như nước chảy, tính ra cũng đã hai nghìn bảy trăm năm trôi qua, có quá nhiều chuyện xảy ra trong quãng thời gian dài đặc đó, rất nhiều chuyện còn nhớ được, rất nhiều chuyện trước đây vẫn nhớ, nhưng giờ lại không muốn nhớ, nhớ nhớ quên quên, những gì nhớ được cũng trở thành quên lãng.

Ẩn dật ở Thanh Khâu hơn hai trăm năm không hẳn được coi là yên tĩnh, nhưng trong hai trăm năm này cũng rất khó để nàng nhớ đến Đông Hoa, khi đến Cửu Trùng Thiên thì không muốn gặp chàng cũng khó. Thấy Đông Hoa không hề nhận ra mình, nàng âm thầm nghĩ, như vậy cũng tốt.

Nàng với Đông Hoa ứng với câu Phật ngữ kia, nói không được, nói không được, nói nhiều là sai, nói nhiều là họa.

Đã sửa bởi Tử Thiên Băng lúc 20.04.2014, 01:05.

2.

Hôm nay là ngày cuối cùng của lễ hội ngàn hoa do tam điện hạ Liên Tống chủ trì, theo thông lệ, cũng chính là ngày ngàn hoa đua sắc rực rỡ nhất. Nghe nói mấy vị cổ Phật ở Tây Phương Phạn Cảnh cũng vượt ngàn dặm xa xôi đến tham dự, mang theo một vài loài hoa hiếm của chốn Linh Sơn mà ngày thường không thể nhìn thấy, Cửu Trùng Thiên bỗng chốc trở nên đông vui náo nhiệt, ngay các thần tiên có phẩm vị cao đều đến góp vui.

Phượng Cửu xưa nay không mấy hứng thú với các loài hoa cỏ, tình cờ là để chúc mừng hôn lễ của thái tử Thiên tộc, chủ nhân ngọn tiên sơn nào đó dưới Hạ giới đã dâng lên mấy ca nữ biết hát kịch, lúc này đang do Mê Cốc phụ trách, sẽ diễn ra một đoạn trong vở “Giai nhân tướng quân” ở Thừa Thiên Đài của Thất Trùng Thiên.

Phượng Cửu cầm túi hạt dưa, dắt theo “cái đuôi” đi qua thiên môn Thất Trùng Thiên vào xem kịch.

“Cái đuôi” trắng trắng tròn tròn đo chính là biểu đệ duy nhất của nàng, Cục bột nhỏ A Ly.

Thiên môn Thất Trùng Thiên cao vòi vọi, sum suê cây lá, Đông Hoa Đế Quân chỉ thoáng xuất hiện trong lễ hội ngàn hoa rồi lặng lẽ rút lui đang ngồi trước Diệu Hoa Kính pha trà, đọc sách.

Diệu Hoa Kính là một trong những thánh đại của Thất Trùng Thiên, tuy nói là kính, thực ra là một thác nước, trong Tam Thiên Đại Thiên Thế Giới[5] có vô vàn Phàm thế, nếu đủ pháp lực, có thể nhìn vào kính mà quan sát sự đổi thay hưng suy của bất kỳ Phàm thế nào trong số đó.

[5] Tam Thiên Đại Thiên Thế Giới là quan niệm về vũ trụ của Phật giáo. Trong đó có vô vàn “tiểu thế giới”. Một nghìn “tiểu thế giới” gọi là “tiểu thiên thế giới”, một nghìn “tiểu thiên thế giới” là một “trung thiên thế giới”, một nghìn “trung thiên thế giới” là một “đại thiên thế giới”. Một “đại thiên thế giới” có ba loại “thiên thế giới” là tiểu, trung, đại nên được gọi là Tam Thiên Đại Thiên Thế Giới.

Bởi thác nước này linh khí rất vượng, các thần tiên bình thường không chịu nổi, ngay cả mấy vị chân hoàng ở đây lâu cũng choáng váng đầu óc, vì vậy nhiều năm qua chỉ có mình Đông Hoa lấy nơi này làm chỗ nghỉ ngơi, đọc sách, câu cá.

Phượng Cửu dẫn Cục bột nhỏ đi qua Thất Thiên Môn, dặn nó: “Đi sát vào tỷ, đừng đến gần Diệu Hoa Kính bên kia, coi chừng bị linh khí làm bỏng”.

Cục bột nhỏ vừa vâng lời đi sát vào một chút, vừa giận dỗi đá những viên sỏi trên đường, phụng phịu: “Phụ quân xấu ơi là xấu, đệ nhớ rõ ràng tối qua đệ ngủ cùng mẫu thân ở điện Trường Thăng, sáng nay tỉnh giấc lại thấy đệ ở điện Khánh Vân của đệ, phụ thân lừa đệ, nói là đệ mộng du tự đi về”. Nói đoạn xòe hai tay tỏ vẻ bất lực: “Rõ ràng là phụ thân muốn độc chiếm mẫu thân nên thừa dịp đệ ngủ, bế đệ về điện Khánh Vân, lừa cả con ruột, phụ quân đúng là không từ thủ đoạn”.

Phượng Cửu tung hứng túi hạt dưa trong tay hỏi: “Vậy sao lúc tỉnh dậy đệ không chạy ngay đến điện Trường Thăng gào khóc ầm ĩ cho họ biết? Đệ quá sơ suất rồi”.

Cục bột nhỏ tỏ vẻ kinh ngạc: “Đệ nghe nói chỉ nữ nhi mới có thể một là khóc, hai là làm ầm ĩ, ba là treo cổ”. Rồi lắp bắp: “Thì… thì ra nam nhi cũng có thể ư?”.

Phượng Cửu bắt túi hạt dưa rơi xuống, liếc nhìn Cục bột nhỏ, trịnh trọng trả lời: “Có thể chứ, tiểu nam nhi, đó là pháp bảo mà tất cả tiên giới đều chung hưởng”.

Đông Hoa chống cằm nhìn bóng hai người mỗi lúc một xa, một cuốn sách giải trí đặt bên cạnh, trong Diệu Hoa Kinh phong vân biến đổi, binh mã đao kiếm ầm ầm một phen, vậy là ở trần thế nào đó thế sự hưng suy đã diễn xong, trên bàn đá nước pha trà cũng bắt đầu sôi.

Từ thiên môn của Thập Trùng Thiên đến Thừa Thiên Đài nơi diễn kịch vẫn còn một đoạn đường dài.

Đi đến hòn giả sơn, Cục bột nhỏ đòi nghỉ chân. Hai người vừa ngồi xuống, đã thấy trên không lóe lên một tia sáng bạc chói mắt, trong tia sáng đó thấp thoáng một cỗ xe ngựa phóng như bay, bánh xe lăn qua những đám mây vỡ vụn, bắn tung như những cánh hoa bông trắng xóa, gió mang đến hương thơm ngào ngạt của hoa núi.

Cỗ xe ngựa đó có lẽ là của một vị tôn thần ở tiên sơn nào đó dưới Hạ giới lên Thiên giới xem lễ hội ngàn hoa.

Cỗ xe ngựa chớp mắt đã biến mất, hình như đã vào Bát Trùng Thiên, phía sau hòn giả sơn bỗng có tiếng nói, có lẽ là hai thị nữ đang buôn chuyện.

Một người nói: “Người đánh cỗ xe vừa rồi chẳng phải là công chúa Tri Hạc, nghĩa muội của Đông Hoa Đế Quân sao?”.

Người kia thong thả đáp: “Kiểu phô trương như vậy cũng hơi giống, thời gian trôi qua nhanh quá, tính ra công chúa bị đày xuống Hạ giới đã ba trăm năm”.

Người thứ nhất lại hỏi: “Vậy cớ sao nàng bị Thiên Quân lưu đày? Năm đó tỷ hầu hạ ở Nhất Thập Tam Thiên, có biết nguồn cơn không?”.

Người kia sau một hồi trầm ngâm, hạ giọng nói nhỏ: “Cũng không rõ lắm. Nhưng, năm ấy có rất nhiều chuyện xảy ra. Nghe nói trưởng công chúa Ma tộc sắp được gả vào cung Thái Thần nhưng vì công chúa Tri Hạc đem lòng ái mộ Đông Hoa Đế Quân gây trở ngại, cuối cùng hỷ sự không thành. Thiên Quân biết chuyện nổi cơn thịnh nộ, liền hạ lệnh lưu đày công chúa Tri Hạc xuống Hạ giới”.

Người thứ nhất kinh ngạc: “Ý tỷ là, gả vào cung Thái Thần? Gả cho Đế Quân ư? Tại sao trên Thiên giới chưa từng nghe nói chuyện này? Chẳng phải Đế Quân xưa nay không dính chuyện hồng trần sao?”.

Người kia lại nhẹ nhàng giải thích: “Ma tộc muốn liên hôn với Thiên tộc, đã tìm hiểu khắp Thiên tộc, ngoài Liên Tống Quân chỉ có Đế Quân. Những việc triều đường đó không phải chuyện ta và muội có thể bàn tán, vả lại Đế Quân hầu như không bận tâm tới chuyện ngoài Thiên đạo, có lẽ cảm thấy cưới đế hậu cũng chẳng sao”.

Thị nữ kia xuýt xoa một hồi, vẫn chưa hết hứng thú, tiếp tục gợi chuyện khác: “À, muội nhớ hơn ba trăm năm trước có một lần may mắn được nhìn thấy Đế Quân, thấy bên cạnh ngài có một con hồ ly lông đỏ như lửa. Muội nghe mấy vị tiên bác ở cung Thái Thần nói, Đế Quân rất cưng chiều tiểu hồ ly đó, đi đâu cũng mang theo, nhưng mấy ngày trước, lúc muội hầu hạ ở yến tiệc đại hôn của thái tử điện hạ lại không thấy tiểu hồ ly kia đi cùng Đế Quân, không hiểu là vì sao?”.

Người kia dừng một lúc lâu rồi mới thở dài nói tiếp: “Đế Quân đúng là rất yêu quý con hồ ly đó, nhưng năm xưa, khi tin Đế Quân sắp cưới Đế Hậu lan khắp cung Thái Thần, tiểu hồ ly liền mất tích. Đế Quân từng cho người tìm khắp Tam Thập Lục Thiên giới cũng không thấy”.

Phượng Cửu dựa vào ngọn giả sơn, chơi trò tung hứng túi hạt dưa, cuối cùng tung hơi xa, túi hạt dưa rơi tõm xuống cái ao nhỏ bên cạnh hòn giả sơn. Hai thị nữ giật mình, tiếng chân bước gấp xa dần rồi biến mất, có lẽ đã chạy đi rất xa.

Cục bột nhỏ nhẫn nhịn hồi lâu, khuôn mặt nhỏ nhắn đỏ ửng, nhìn mặt nước vẫn còn gợn sóng, phụng phịu: “Lát nữa xem kịch lấy gì ăn?”.

Phượng Cửu đứng dậy sửa sang xiêm áo định bước đi, Cục bột nhỏ cúi đầu nói dỗi: “Tại sao trên Thiên giới có tiểu hồ ly, đệ lại không biết”. Rồi băn khoăn lẩm bẩm một mình: “Con tiểu hồ ly ấy sau đó đi đâu nhỉ”.

Phượng Cửu dừng bước chờ Cục bột nhỏ.

Phía chân trời Thất Trùng Thiên lộ ra những tia nắng sớm, Thất Trùng Thiên giống như được viền vàng lóng lánh.

Phượng Cửu giơ tay ra che mắt, ngửa đầu nhìn ánh vàng sáng loá nói: “Có thể nó đã về nhà”. Rồi quay lại nhìn Cục bột nhỏ: “Tiểu đệ, cái chân ngắn ngủn của đệ có thể đi nhanh hơn được không?”.

Cục bột nhỏ lắc đầu nguầy nguậy: “Không thể!”.

Đến lúc ngước mắt đã nhìn thấy Thừa Thiên Đài, Phượng Cửu mới phát hiện ánh vàng phía chân trời lúc trước không phải là nắng ban mai do Mão Nhật Tinh Quân rắc xuống.

Cách Thừa Thiên Đài mười trượng, Phượng Cửu bỗng sững lại.

Ngay trước mặt, Thừa Thiên Đài cao trăm trượng được ghép bằng hàn ngọc nghìn năm không hiểu vì sao chìm trong biển lửa. Nếu Mê Cốc không nhanh tay tung kết giới trùm lên bảo vệ, thì ngọn lửa đã thiêu sống đám ca nữ đang khiếp sợ run rẩy. Cỗ xe ngựa ban nãy cũng dừng lại trước biển lửa, xung quanh có một kết giới vững chắc bảo vệ, người bên trong chính là Tri Hạc – vị công chúa ba trăm năm trước đã bị lưu đày xuống Hạ giới. Hình như Mê Cốc đang lớn tiếng nói gì với nàng ta, tay nàng ta nắm chặt càng xe, gương mặt bối rối.

Phía sau biển lửa đột nhiên vọng ra một tiếng gầm chói tai.

Phượng Cửu nheo mắt, cuối cùng cũng tìm ra căn nguyên trận hỏa hoạn: Một con hung thú Xích Diệm (lửa đỏ rực) đang đập cánh bay khỏi biển lửa, cái mồm rộng ngoác đỏ như chậu máu liên tục phun lửa, nó liệng một vòng, trợn đôi mắt như hai chiếc chuông đồng, rồi lao vào biển lửa lần nữa, va thẳng vào kết giới của Mê Cốc. Kết giới trong suốt đã xuất hiện vết nứt, phía sau biển lửa trùng trùng, đám ca nữ kinh hoàng run rẩy, chắc là la hét thảm thiết nhưng do tiên chướng trùm lên, nên không có âm thanh nào truyền ra. Tất cả như một bức tranh khiến người ta cảm thấy kỳ dị.

Tri Hạc lần này trở lại Thiên giới, động cơ khá rõ ràng, bề ngoài là lên dự lễ hội ngàn hoa của Liên Tống Quân, kỳ thực muốn lén gặp nghĩa huynh Đông Hoa Đế Quân. Cơ hội quay lại Cửu Trùng Thiên của nàng lần này hoàn toàn là do mấy ngày trước nàng lấy lòng thượng thần Bạch Thiển, biết thượng thần thích ca kịch, liền lựa chọn mấy ca nữ biết hát kịch ở tiên sơn của mình dâng lên. Vì vậy, cũng định nhân tiện lên xem các ca nữ có làm hài lòng thượng thần Bạch Thiển hay không.

Nhưng không hiểu cơn cớ gì lại xui xẻo như thế, chẳng biết ai đã động vào phong ấn giam cầm hung thú Xích Diệm bên dưới Thừa Thiên Đài khiến cỗ xe của Tri Hạc vừa đến đã thấy lửa cháy ngút trời.

Thực ra Tri Hạc thuộc thủy thần, ngày trước khi còn ở cung Thái Thần, thực sự có thể coi là thủ hạ của Tứ Hải Thủy Quân Liên Tống Thần Quân, trợ giúp hô gió gọi mưa ở Tây Hoang, là vị nữ thần hữu dụng hiếm hoi của Thiên giới, cho nên mặc dù bị đày xuống Hạ giới, nàng vẫn quản trách hô gió gọi mưa ở tiên sơn của mình.

Tri Hạc cũng biết, chút tài mọn của mình hoàn toàn không phải là đối thủ của con hung thú. Nàng định đi tìm người giúp, hình như vị thần tiên áo nâu trong kết giới đang hét gì với nàng, dường như ông ta có cách, nhưng ông ta nói gì, nàng hoàn toàn không nghe được.

Đang chần chừ, bỗng nhiên một thiếu nữ xiêm y trắng tinh bay đến trước mặt Tri Hạc, đôi hài thêu màu trắng như đạp gió lướt tới, gió nóng từ biển lửa thốc qua, ống tay áo bằng sa trắng của nàng phồng lên tựa như đóa sen trắng bừng nở.

Tri Hạc nhìn đôi hài thêu, ánh mắt men theo chiếc váy sa phấp phới di chuyển dần lên trên, bỗng kêu một tiếng kinh ngạc.

Trong ký ức của Tri Hạc cũng có gương mặt như thế, đôi môi mỏng lạnh lùng, sống mũi cao thẳng, đôi mắt hạnh đào, hàng chân mày thanh tú, chỉ là giữa trán không có đóa hoa phượng vũ băng lạnh diễm sắc như thế này.

Nhưng trong ký ức của nàng, nữ tử kia chẳng qua chỉ là một nô tỳ thấp hèn ở cung Thái Thần, khi ấy nàng chưa từng trải, cũng từng ghen tức bởi một nô tỳ dám có nhan sắc khuynh thành như thế, chỉ sợ Đông Hoa Đế Quân nhìn thấy sẽ bị mê hoặc, nên luôn tìm cách ngăn cản không cho nữ tỳ kia có cơ hội giáp mặt Đế Quân, còn nhiều lần hành hạ, thậm chí có vài lần khiến kẻ đó khốn khổ.

Tri Hạc kinh ngạc hồ nghi: “Ngươi là …”.

Người đó lại cất lời trước, giọng lạnh như băng: “Là thủy thần, gặp hỏa hoạn sao không hành phép gọi mưa? Thiên tộc phong ngươi làm thủy thần để làm gì?”.

Nói xong không đợi công chúa Tri Hạc phản bác, đã rút ra cây sáo dài ở thắt lưng, xoay người xông thẳng vào biển lửa.

Bao nhiêu năm qua, Phượng Cửu thạo nhất hai ngón, một là nấu ăn, hai là đánh nhau. Lánh xa sự đời hơn hai trăm năm ở Thanh Khâu chẳng có cơ hội đánh nhau, nàng cũng thấy hơi cô đơn. Bỗng dưng chứng kiến hung thú Xích Diệm gây họa ở đây, nếu bảo không ngứa ngáy chân tay muốn động thủ e là nói dối.

Trong biển lửa ngút trời, bóng áo trắng bay liệng như múa cùng tiếng sáo du dương. Kỳ thực đó chính là khúc cầu mưa.

Tiếng sáo đơn độc vấn vít trong biển lửa bay thẳng lên trời, đánh thức Thiên Hà, nước từ dòng Thiên Hà trên Tam Thập Lục Thiên cuồn cuộn đổ xuống, trong chớp mắt đã mưa như trút. Mưa tuy giảm được lửa, nhưng lại kích nộ hung thú, Xích Diễm thôi không tấn công kết giới của Mê Cốc nữa mà quay ra phun lửa vào Phượng Cửu.

Thật ra đây cũng là kế điệu hổ ly sơn của Phượng Cửu, nếu không vì phải tìm cách cứu Mê Cốc cùng đám ca nữ trên thiên đài thì với tính cách của mình Phượng Cửu đã rút luôn thanh kiếm Đào Chú chém chết hung thú. Tất nhiên, vì đối thủ là con dã thú Xích Diệm hung hãn, chém chết nó chắc cũng tốn không ít sức lực. Nhưng nếu làm thế Phượng Cửu cũng không đến nỗi rơi vào thế bị động như lúc này.

Phượng Cửu thất vọng nghĩ, nàng không thể phân thân, vừa thổi sáo cầu mưa vừa rút thần kiếm trảm yêu. Lại không trông cậy được gì ở công chúa Tri Hạc, chỉ có thể trông cậy vào Cục bột nhỏ chân ngắn chạy nhanh một chút gọi vị nào trong nhà đó đến cũng là cứu binh.

Nàng vừa nghĩ vừa nhanh nhẹn né mấy quả cầu lửa của hung thú, thổi sáo cầu mưa thì không thể dùng tiên khí hộ thân, Phượng Cửu toàn thân ướt sũng. Mưa tầm tã, biển lửa bao quanh Thừa Thiên Đài cuối cùng cũng bị dập tắt một góc, hung thú mải lo tấn công Phượng Cửu, không ngờ lãnh địa phía sau bị bỏ trống, tất cả những vật săn bị giữ trong đó lần lượt chạy mất.

Giằng co như vậy hết nửa ngày, Phượng Cửu cảm thấy thể lực đã có phần đuối, lâu rồi không đánh nhau vừa ra tay lại bị thua, điều này tuyệt đối không thể được, như vậy khi trở về Thanh Khâu biết ăn nói thế nào với các bậc hương thân phụ lão. Nàng cảm thấy đã đến lúc phải thu sáo về, rút kiếm Đào Chú ra, nhưng nếu tấn công trực diện, chắc chắn hung thú sẽ tránh được, nếu tấn công từ phía sau, vạn nhất nó tránh được, còn mình mất đà, không tránh được bị nó tấn công thì sao…

Khi nàng còn đang suy nghĩ những vấn đề này nhưng chưa tìm ra đối sách thì bỗng một đường kiếm từ phía sau xé gió chém tới.

Hung thú trước mặt lại tiếp tục phun một quả cầu lửa đỏ rực, nàng không kịp để ý tới đường kiếm kia, đang định tránh lửa, đã được bàn tay ai nhẹ nhàng đưa đi.

Sức gió từ đường kiếm hất tung tay áo Phượng Cửu, mạnh đến mức trở nên có hình dáng, như một bức tường kính đồ sộ chặn đứng lưỡi lửa khổng lồ đang liếm về phía nàng, sau tia sáng bạc lóe lên, lưỡi lửa rừng rực vừa rồi còn nhe răng múa vuốt lại bị đánh bật ngược lại tấn công hung thú.

Đang bàng hoàng, một chiếc áo choàng tím chụp xuống. Nàng vùng vẫy thò đầu ra khỏi chiếc áo khô, nhìn bóng người cầm kiếm, thân vận áo tím cao quý, mái tóc trắng như tuyết ở Thanh Khâu.

Những ngón tay dài thanh tú, trong cung Thái Thần cầm kinh Phật, ngoài cung Thái Thần cầm thần kiếm Thương Hà, bất luận cầm gì, cũng đều rất hợp.

Thừa Thiên Đài bỗng chốc có một trận gió tanh mưa máu, trong ánh sáng bạc không nhìn rõ động tác của Đông Hoa, tiếng rống thê thảm của hung thú vút tận chân trời, chỉ một, hai chiêu, con hung thú đã nặng nề rơi xuống từ trên không trung, làm rung chuyển Thừa Thiên Đài.

Đông Hoa tra kiếm vào vỏ, trên người không dính nửa giọt máu.

Công chúa Tri Hạc vẫn đứng dựa vào cỗ xe ngựa, sắc mặt trắng bệch, dường như định đến gần, nhưng lại không dám.

Đám ca nữ chưa từng nhìn thấy cảnh tượng như thế, trải qua một trận kinh hoàng, ai nấy hồn xiêu phách lạc, có người còn khóc thút thít.

Mê Cốc đỡ Phượng Cửu ngồi xuống ghế đá dưới Thừa Thiên Đài, còn không quên bổn phận của một người hầu trung thành, nhắc nhở nàng: “Điện hạ như thế này thật tùy tiện, hôm nay nếu không có Đế Quân kịp thời ra tay, không biết hậu quả thế nào, ngộ nhỡ xảy ra chuyện gì, tiểu tiên chết cũng không hề gì, nhưng biết ăn nói sao với thượng thần Bạch Thiển”.

Phượng Cửu khẽ lầm bầm: “Chẳng phải vô sự rồi ư?”.

Thâm tâm mặc dù cũng rất cảm kích Đông Hoa, nhưng Phượng Cửu cho rằng hôm nay nếu Đông Hoa không đến, thì cô cô Bạch Thiển và cô phụ cũng đến, chẳng có việc gì lớn, cũng chẳng nguy hại gì đến tính mạng mình. Ngước mắt thấy Đông Hoa cầm kiếm đi tới, nghĩ chàng chắc là đến tìm Tri Hạc, vội đứng dậy chuyển sang bàn bên cạnh, thấy trên mình vẫn còn khoác áo của chàng, liền khẽ bảo Mê Cốc: “Ngươi cởi áo ngoài cho ta mượn một lát”.

Mê Cốc hắt hơi một cái, nhìn chiếc áo chòang tím trên người nàng: “Chẳng phải điện hạ đã có áo khô mặc rồi sao?”. Lại ngây người, nói: “Dù sao chuyện cũng qua, tiểu tiên thấy hai trăm năm nay điện hạ cũng không để tâm nữa, sao hôm nay lại câu nệ chuyện nhỏ này”. Nói rồi giữ chặt áo trên người, tỏ ý không muốn cho nàng mượn.

Phượng Cửu cởi chiếc áo chòang, cắm cúi gấp lại định trả cho chủ nhân của nó.

Vừa ngẩng đầu lên, đã hốt hoảng lùi sau.

Đông Hoa đã đến trước mặt nàng, tay cầm kiếm Thương Hà, ánh mắt lạnh lùng, đăm đăm nhìn nàng.

Toàn thân Phượng Cửu ướt sũng, nước từ vạt áo vẫn nhỏ ròng ròng, chỉ một lát đã đọng thành vũng dưới chân, trông cực kỳ thảm hại. Nàng vừa nhỏ nước, vừa lạnh lùng nhìn trả, về khí thế miễn cưỡng có thể coi là ngang cơ với chàng nhưng lòng nàng thì ngổn ngang cảm xúc. Nàng cảm thấy sau lần tình cờ gặp khiến nàng kinh sợ mấy hôm trước, bản thân nàng vẫn chưa thích ứng được, vẫn chưa tìm được đúng vị trí của mình, vẫn chưa biết nên đối xử với chàng thế nào, để tránh xảy ra sơ suất, nên tránh gặp thì hơn, nhưng không hiểu sao nàng rắp tâm né tránh lại liên tục giáp mặt.

Đông Hoa nhìn nàng từ trên xuống dưới, ánh mắt dừng trên chiếc áo choàng tím đã được gấp phẳng phiu, giọng khô khan: “Ngươi có ý kiến gì về áo choàng của ta?”.

Phượng Cửu cảm thấy hai người đứng quá gần, mùi hương bạch đàn phảng phất khiến đầu nàng choáng váng, liền lùi lại một bước để kéo dài khoảng cách, đắn đo gượng cười: “Tiểu bối đâu dám, chỉ là nếu mượn mang về thì phải giặt sạch đem trả Đế Quân … vậy là phải gặp lại, à, không, phải làm phiền Đế Quân lần nữa”. Nhìn sắc mặt chàng, thức thời bổ sung một câu: “Rất ngại quấy rấy sự thanh tịnh của Đế Quân”.

Kiếm Thương Hà đặt “cạch” một tiếng lên bàn đá.

Mê Cốc ho một tiếng, khép ống tay áo nói: “Xin Đế Quân chớ hiểu lầm, không phải điện hạ không muốn gặp Đế Quân, Đế Quân ngài tôn quý như vậy, điện hạ còn hận là không thể ngày ngày được gặp ngài…”. Đang nói thì bị Phượng Cửu giẫm cho một cái, lại còn thản nhiên gi gi, đau quá đành ngậm miệng.

Đông Hoa liếc Phượng Cửu, hiểu ý nói: “Đã vậy, tặng ngươi làm kỷ niệm, không cần phải trả lại”.

Nụ cười của Phượng Cửu vốn đã cứng đờ, càng như đóng băng trên mặt: “…Ý tiểu bối không phải vậy”.

Đông Hoa thư thả ngồi xuống: “Vậy thì giặt sạch, rồi trả lại cho ta”.

Phượng Cửu chỉ cảm thấy nụ cười trên mặt mình đã cứng như khay đá, nhưng khay đá này nàng cũng sắp không thể giữ được nữa, khóe miệng nàng giật giật: “Hôm nay trời ấm, tiểu nữ cũng không thấy quá lạnh”. Nàng vốn định nói thẳng là “Không muốn mượn áo này có được không?”. Nhưng lại nghĩ, nói thế e là quá cứng ngắc, ngập ngừng một lát, bèn đổi lại cho uyển chuyển hơn: “Không mượn áo này, có được không?”. Vừa dứt lời, một trận gió lạnh thốc tới, nàng rùng mình một cái.

Đông Hoa đón ly trà không biết Mê Cốc kiếm đâu ra, thong thả nhấp một ngụm, đáp: “Không được”.

Nụ cười cứng như khay đá khổ sở lắm mới giữ được cuối cùng cũng rơi khỏi mặt Phượng Cửu, nàng nhất thời không biết nên tỏ thái độ thế nào, ngây ra hỏi: “Tại sao?”.

Đông Hoa đặt ly trà xuống, hơi ngước mắt: “Ta cứu ngươi, lẽ ra ngươi phải đem thân báo đáp, giặt một bộ y phục thì đã sao?”.

Phượng Cửu cảm thấy tính chàng trước đây đâu có vô lại như thế, nhưng nghĩ lại, có thể cũng có lúc chàng như vậy, chỉ có điều không để nàng nhìn thấy, khi định thần trở lại đã nghe thấy mình cười nhạt, nói: “Đế Quân hà tất phải làm khó người khác?”.

Đông Hoa vuốt ly trà, chậm rãi trả lời: “Trừ cái đó, ta chẳng có sở thích nào khác”.

Lúc này Phượng Cửu cười gượng hay cười nhạt đều không thể, nhăn nhó, dở khóc dở cười nói: “Đế Quân thật là …”.

Đông Hoa đặt ly trà xuống, một tay chống má, thong dong nhìn nàng: “Ta làm sao?”, nói đoạn, nhìn Phượng Cửu bị hỏi dồn lung túng không biết nói sao, đôi mắt vốn không chút cảm xúc lộ ánh cười hiếm hoi, lại thong thả hỏi nàng: “Nói đi, tại sao phải cứu bọn họ?”.

Thật ra, vừa rồi không phải nàng bị hỏi dồn không nói ra lời, chỉ là biểu hiện trên mặt Đông Hoa trong khoảnh khắc quá đỗi quen thuộc, là hình ảnh đã in sâu trong tâm trí nàng, khiến nàng sững sờ, đến khi sực tỉnh, chàng đã hỏi sang chuyện khác. Nàng nghe rõ câu hỏi vừa rồi, tại sao phải cứu bọn họ, trước kia chính nàng cũng không rõ, hoặc không quan tâm đến mạng người, nhưng có một người đã dạy nàng vài điều. Rất lâu sau, nàng khẽ trả lời: “Phu quân của Phượng Cửu lúc còn tại thế có dạy Phượng Cửu kẻ mạnh sinh ra là để bảo vệ kẻ yếu. Nếu lần này không cứu bọn họ, Phượng Cửu sẽ trở thành kẻ yếu, như vậy có tư cách gì bảo vệ thần dân của mình?”.

Rất nhiều năm sau, Đông Hoa vẫn không thể quên những lời này của Phượng Cửu, thật ra chính chàng cũng không rõ mình nhớ những lời ấy thì có ý nghĩa gì. Chỉ là thiếu nữ này luôn khiến chàng thấy có chút gần gũi, nhưng trước đó chàng không hề quen nàng. Trong ký ức, lần đầu tiên gặp nàng là ở bên bờ biển Vãng Sinh của Thanh Khâu, mái tóc đen của nàng ướt sũng như hải tảo, chân đạp sóng mà tới, chàng cũng không nhớ rõ hình dáng nàng khi ấy, giống như không nhớ rõ hoa hướng dương bên bờ biển Vãng Sinh.

Chuyện xảy ra hôm nay nhanh chóng lan truyền khắp Cửu Trùng Thiên, đồng thời có rất nhiều dị bản, kéo Đông Hoa từ Tam Thanh Ảo Cảnh xuống mười trượng hồng trần.

Có người nói, hung thú Xích Diệm gây hỏa hoạn ở Thừa Thiên Đài, Đông Hoa đang ở cung Thái Thần, Nhất Thập Tam Thiên phê chú kinh Phật, nghe nói nghĩa muội của mình là công chúa Tri Hạc gặp nạn vội vàng đến cứu, cuối cùng hàng phục được hung thú, có thể thấy tình cảm của Đế Quân đối với nghĩa muội quả thật không bình thường. Người khác lại nói Thừa Thiên Đài bốc cháy, đúng lúc Đông Hoa đi ngang qua, thấy một vị nữ tiên dung mạo cực kỳ xinh đẹp giao đấu với hung thú nhưng đang ở thế hạ phong, chàng không đành lòng, liền rút kiếm cứu giúp, Thiên Quân xưa nay luôn đánh giá Đế Quân là vị tiên vô dục vô cầu, thì ra Thiên Quân cũng có lúc nhìn nhầm. Vân vân.

Liên Tống nghe được chuyện này, tay cầm quạt ung dung đến cung Thái Thần tìm Đông Hoa đánh cờ uống rượu, nhân tiện muốn làm rõ thực hư: “Chuyện ở Thừa Thiên Đài, nghe nói hiền huynh thấy mỹ nhân giao đấu với con súc sinh đó, nhất thời không thể kìm lòng mà ra tay cứu giúp, đệ không tin”. Đặt một quân trắng xuống, nói tiếp: “Nhưng, nếu có ngày hiền huynh nghĩ thông, muốn cưới đế hậu song tu, Tri Hạc cũng không tồi, hay là hôm nào nói với phụ quân đệ một tiếng, triệu công chúa Tri Hạc về Thiên giới”.

Đông Hoa xoay ly rượu nhìn bàn cờ nghĩ ngợi, nghe vậy không đáp mà hỏi: “Mỹ nhân ư? Bọn họ cảm thấy nàng rất đẹp?”.

Liên Tống hỏi lại: “Sao?”.

Đông Hoa thong dong đặt một quân đen xuống, chặn quân trắng: “Nhãn quang của họ cũng khá”.

Liên Tống ngẩn ra, lát sau gập chiếc quạt đánh phạch một tiếng, vô cùng ngạc nhiên: “Hiền huynh thật sự đã gặp một mỹ nhân ở Thừa Thiên Đài sao?”.

Đông Hoa nhìn bàn cờ: “Có thật đệ đến chơi cờ với ta?”.

Liên Tống cười ha hả.

Bởi vậy có thể thấy, trong hai tin đồn về chuyện xảy ra ở Thừa Thiên Đài, tin đồn sau, ngay bằng hữu thân thiết của Đông Hoa Đế Quân là Liên Tống còn không tin, nói chi những thần tiên khác ở Cửu Trùng Thiên. Tất nhiên đều coi đó là chuyện bàn tán cho vui, nhưng lại có những suy đoán sáng sủa đối với tiền đồ của công chúa Tri Hạc, cho rằng chuỗi ngày cực khổ của công chúa cũng sắp qua, không lâu nữa có thể trở về Cửu Trùng Thiên, chưa biết chừng còn có thể kết lương duyên cùng Đông Hoa Đế Quân.

Cửu Trùng Thiên có một giới luật, phàm là thần tiên phải diệt thất tình lục dục[6], nhưng chỉ dành cho những vị sinh ra không phải tiên thai nhưng có cơ duyên thành thần tiên, như vậy trái với tạo hóa của thiên địa, nên phải trả giá để tế thiên địa. Ngay từ thời kỳ âm dương mới phân chia, Đông Hoa Đế Quân đã hóa thân trên Bích Hải, núi Thương Linh, là tiên thai đích thực của thiên địa, vốn không phải tuân thủ giới luật kia. Lập một đế hậu cũng là hợp tình hợp lý.

[6] Bảy thứ tình cảm và sáu điều ham muốn của con người. Thất tình gồm có: hỉ, nộ, ai, cụ (sợ), ái, ố (ghét), dục. Lục dục: sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp.
 
Tham gia
6/7/19
Bài viết
101
Điểm cảm xúc
41
Điểm
28
Khi Phượng Cửu còn nhỏ, bởi song thân tình cảm mặn nồng, mong muốn cuộc sống riêng chỉ có hai người, nàng luôn làm họ vướng bận nên một thời gian dài nàng được gửi cho cô cô Bạch Thiển nuôi dưỡng. Sống với vị cô cô này, các trò trèo cây bắt chim, xuống sông mò cá Phượng Cửu không lạ, có một lần nàng còn nhân lúc tiểu thúc nghỉ trưa, nhổ sạch lông vật cưỡi Tất Phương Điểu rất tinh khôn của tiểu thúc.

Thấy những trò ngỗ nghịch đó, hồi nhỏ mình cũng làm không ít nên Bạch Thiển mắt nhắm mắt mở cho qua, không trách cứ Phượng Cửu.

Bạch Thiển nhận nuôi Phượng Cửu lúc đã là một vị thần tiên thông tỏ đại nghĩa, pháp tướng trang nghiêm, tri thức uyên thâm, hàng ngày truyền dạy cho Phượng Cửu cách đối nhân xử thế cho đúng đắn, phải đạo. Ví dụ, Bạch Thiển từng dạy Phượng Cửu, làm thần tiên quan trọng nhất là không sợ mất thể diện, bởi vì không sợ mất thể diện cũng là một dũng khí, khiến mình có can đảm đi bước đầu tiên, làm chuyện gì, chỉ cần không sợ mất thể diện, bền bỉ không khuất phục, cuối cùng sẽ thành công.

Sau này, khi Phượng Cửu khích lệ Cục bột nhỏ dũng cảm trong cuộc đấu tranh với phụ thân quyền ngủ chung với mẫu thân, liền đem đạo lý này truyền lại cho biểu đệ đó: “Làm thần tiên, quan trọng nhất chính là không cần thể diện, chỉ cần không sợ mất thể diện, làm gì cũng thành công”.

Đêm đó, Cục bột nhỏ nói nguyên văn những lời này với Bạch Thiển, ngỏ ý muốn thỉnh giáo mẫu thân thế nào là không cần thể diện, hơn nữa phải làm thế nào mới có thể không cần thể diện hơn cả phụ thân. Bạch Thiển nghe xong không nói gì, mang ít canh hạt sen qua thư phòng cho phu quân Dạ Hoa, sau đó tìm trong điện Trường Thăng mấy cuốn kinh Phật dày cộp, xếp ngay ngắn lên xe gỗ, nhân lúc đêm khuya cho người chở đến chỗ Phượng Cửu, kèm lời dặn trang nghiêm, ngày mai khi mặt trời lặn mà không chép xong, sẽ thu xếp cho nàng một cuộc xem mặt kén chồng từ chiều tối hôm trước cho tới sáng hôm sau.

Phượng Cửu đang mơ mơ màng màng đột nhiên bị Nại Nại, nữ tỳ của Bạch Thiển lay gọi, giao cho một chồng kinh thư, nhìn chồng kinh thư cao ngất, chợt nhớ ra ban ngày có nói nhảm gì đó với Cục bột nhỏ, nước mắt hối hận muốn chảy thành sông.

Chiều tối hôm sau, Phượng Cửu đang ngập trong đống kinh thư liền bị các tiểu tiên khiêng thẳng đến vườn thượng uyển Bảo Nguyệt Quang ở Tam Thập Nhị Thiên.

Trong vườn thượng uyển trồng rất nhiều cây vô ưu, giữa rừng cây rậm rạp có muôn loài hoa lạ, vốn là nơi các thiên tôn đạo đức của Thái Thanh Kính giải đáp thắc mắc cho các đệ tử khi truyền dạy đạo pháp.

Các vị thần tiên trẻ tuổi ở tứ hải bát hoang lúc này đều đang tụ tập ở đó, ước chừng cũng đến cả trăm người. Một vài người đang trò truyện cùng đồng liêu, một vài người nôn nóng ngóng nhìn về phía uyển môn. Hai ba người thì còn dễ hiểu, năm sáu người cũng còn có thể, nhưng cả trăm người thế này…Phượng Cửu phát hoảng, dù nàng vốn bạo gan, nhưng khi vừa đặt chân tới, bất giác cũng lùi một bước, lại lùi một bước, rồi một bước nữa. Cách đó không xa vọng đến giọng nói của Bạch Thiển nửa cười nửa không, thượng thần đang nói với tiểu tiên theo hầu cung kính đứng bên: “Này, ta thấy dứt khoát đem trói lại thì hơn, Phượng Cửu nhất định phải dự yến hội này đến cùng, không được để tiểu tử đó bỏ trốn giữa chừng”.

Phượng Cửu hốt hoảng, lập tức quay người giằng co chạy.

Cắm đầu chạy một mạch, thi gan với đám tiểu tiên hầu phía sau, thoát khỏi bọn họ từ lúc nào, nàng cũng không hay, chỉ biết lúc vượt qua hai cây bà la có tán sum suê, cành khẽ lay, mấy đóa hoa nhỏ vàng nhạt rơi trên tóc, thì phía sau cũng không còn tiếng người đuổi theo.

Phượng Cửu thở dốc nhìn lại con đường vừa chạy qua đúng là không còn bóng người, chỉ thấy Thiên Hà phía xa gợn sóng lấp lóa vụn vàng, dưới ánh chiều tà rực rỡ.

Họa là từ miệng mà ra, vì cái miệng này nàng đã phải chép kinh suốt một ngày một đêm, lúc này thấy hai cây bà là tôn quý trước mặt, trong đầu sực nhớ đến câu trong cuốn kinh thư Trường A Hà: “Thỉnh thoảng tế tôn cũng ngự tại thành Câu-thi-na-kiệt nơi ngài sinh ra, ở giữa hai cây trong vườn bà la, lúc gần diệt độ”.

Phượng Cửu giơ tay phủi cánh hoa vương trên đầu, vừa tự khâm phục bản thân có thể nhớ được một câu kinh như thế, thực không uổng công chép suốt một ngày một đêm, trí thức nâng cao không ít, lại vừa nhìn xung quanh một lượt, thầm nghĩ mình chạy lâu như vậy, người vừa toát mồ hôi vừa mệt, lại buồn ngủ, có nên cởi bỏ xiêm y đến suối Uông Thiên phía sau hai cây bà la tắm một cái.

Nàng đắn đo hồi lâu.

Thấy trăng đã mọc ở đằng đông, tuy lúc này chưa lên cao, không thơ mộng bằng người dưới trần khi ngước nhìn trăng lên, nhưng ánh ngân bạc thanh lạnh tỏa xuống cũng trùm khắp hoa lá cỏ cây, núi non trước mặt. Ngoài kia, trên mặt nước xanh ngắt hơi khói bốc mù mịt, tỏa ra tiên khí ấm áp. Thì ra là một ôn tuyền (suối nước nóng). Phượng Cửu nhìn quanh, thấy cũng đã qua giờ Tuất, ước chừng lúc này không còn ai đến đây, liền chạy tới bên suối thò tay khỏa nước, mới yên tâm lần lượt cởi bỏ từng lớp xiêm y, thận trọng bước xuống dòng suối nước nóng.

Bám vào bờ, trầm mình xuống cho làn nước ấm nóng ngập tới cổ. Phượng Cửu khoan khoái thở phào, nhìn những bông hoa bà la trôi dập dờn trên mặt nước, bản tính hiếu động bị kìm nén bấy lâu lại nổi lên, đang định với lên kết thành vòng hoa. Bất chợt nghe thấy có tiếng nước chảy rào rào đằng sau tảng đá trắng to tướng giữa dòng nước.

Bàn tay trần của nàng giơ lên nhặt hoa trôi bỗng dừng rồi treo cứng trên không.

Làn nước xanh ngắt nhuốm ánh trăng chao động, phía sau tảng đả hiện lên bóng người áo trắng. Phượng Cửu nín thở, nhìn thấy bóng người đó rẽ nước tiến lại, mỗi lúc một gần. Trong làn sương khói lờ mờ, dần dần hiện ra một thân hình cao lớn, mái tóc trắng cước và gương mặt vô cùng tuấn tú.

Phượng Cửu dán người vào bờ suối, vốn dạn dĩ nhưng lúc này nàng thực sự ngượng ngùng, mặt tái xám. Dù gì cũng là nữ quân Thanh Khâu, nàng lập tức trấn tĩnh, thậm chị còn muốn tỏ ra bình thường, ung dung đường hoàng lên tiếng chào người đó.

Nhưng, trong hoàn cảnh này, chào hỏi thế nào cũng là vấn đề. Nếu gặp khi đang vãn cảnh ngắm hoa, có thể hàn huyên một câu: “Hôm nay trời đẹp, Đế Quân cũng đến đây thưởng hoa ư?”, nhưng lúc này không thể giơ cánh tay trần lên mà vẫy rằng: “Hôm nay trời đẹp, Đế Quân cũng đến đây tắm ư?”.

Đang ảo não nghĩ không biết nên mở lời thế nào, đã thấy Đông Hoa thong dong di đến phía chếch bờ bên kia, đang sắp bước lên bờ. Cả quá trình không hề liếc nàng một cái.

Phượng Cửu nghĩ, có lẽ chàng không nhìn thấy mình, vậy lần này liệu có thể coi như chưa mất thể diện trước mắt chàng không?.

Vừa định thở phào nhẹ nhõm, một chân Đông Hoa vừa bước lên bờ, lại dừng, liền sau đó, một chiếc áo choàng tung ra trùm lên đầu nàng.

Cùng lúc, nghe thấy cách đó một quãng có tiếng nói vọng đến nghe như là Liên Tống Quân, cỏ vẻ bối rối cười ha hả: “Ôi da, làm phiền làm phiền, đệ không nhìn thấy gì hết, đệ đi ngay đây”.

Phượng Cửu sững sờ nhìn chiếc áo chùng của Đông Hoa trùm lên người mình, mắt nhìn xa, bên cạnh ô cửa vòm, mấy cây vô ưu cành là khẽ đung đưa dưới ánh trăng.

Đông Hoa chỉ mặc áo trong, đứng trên bờ nhìn nàng, lát sau hỏi: “Nàng làm gì ở đây?”.

“Tắm”. Phượng Cửu nghiêm chỉnh thật thà trả lời, gương mặt trắng hồng bởi vừa tắm suối nước nóng.

Trả lời xong nàng mới chợt nhận ra, tuy nước suối màu xanh, nhưng trong suốt có thể nhìn thấy đáy. Mặt bỗng đỏ lựng, cả cơ thể bất chợt đỏ ửng như vừa nhúng vào nước sôi, ấp úng nói: “Chàng…chàng mau nhắm mắt lại, không được nhìn, không, chàng quay mặt đi, mau quay mặt đi”.

Đông Hoa lại chậm rãi nhìn nàng từ đầu đến chân rồi rất tao nhã quay người bỏ đi.

Phượng Cửu luống cuống giơ tay với chỗ xiêm y lúc trước để trên bờ, lúc cởi không ngờ bị rơi vào tình cảnh thế này, từ áo ngoài tới áo trong, đều để khá xa. Muốn lấy được chiếc gần nhất dám chắc phải lên bờ mới xong.

Nàng đang không biết phải làm thế nào, quả thật rất lung túng, lại quên rằng mình vốn là hồ ly nếu lúc đó biến lại nguyên hình, hẳn không bị bẽ bàng trước Đông Hoa.

Đang cấn cá, lại nhìn thấy có cánh tay đang cầm chiếc váy trắng của nàng, trắng trợn chìa trước mặt nàng, những ngón tay thon dài, móng tay sáng bóng hồng hào. Đông Hoa vẫn đứng nghiêng mình, nàng cẩn thận nhìn mặt chàng, hàng mi dày vẫn khép. Tốt lắm, quả nhiên chàng đang nhắm mắt. Đang định đón lấy chiếc váy, bỗng lại kinh ngạc: “Sao chàng biết tiểu nữ muốn lấy xiêm áo?”.

Bình thường để xứng với thân phận nữ quân Thanh Khâu, Phượng Cửu thường tỏ vẻ khoan dung chính chắn, lúc này lại để lộ bản tính trẻ con, cuối cùng vẫn giống tiểu nữ thần hiếu động.

Đông Hoa dừng tay, có vẻ muốn lấy lại chiếc váy. Cuối cùng lòng nàng cũng không cứng rắn như ngoài miệng, giật phăng chiếc váy như con báo vồ linh dương, luống cuống ngụp trong nước, mặc vội vào người. Xong xuôi mới bước lên bờ, cảm thấy lần này quá mất thể diện, không nói một lời cáo từ, nhanh chóng men theo con đường lúc trước chuồn thẳng.

Nhưng bị Đông Hoa gọi lại: “Này, nàng bỏ quên đồ”.

Phượng Cửu tò mò quay đầu, thấy Đông Hoa đang cúi người nhặt lên vật gì. Định thần nhìn lại, máu toàn thân bỗn dồn hết lên đầu.

Trong tay Đông Hoa là chiếc yếm.

Chiếc yếm màu cánh sen.

Chiếc yếm của nàng.

Cổ áo Đông Hoa hơi hé, lộ ra một phần xương đòn, mặt thản nhiên cầm chiếc yếm của nàng, thản nhiên đưa yếm cho nàng. Phượng Cửu cảm thấy trời đất rung chuyển, không biết nên nhận hay không.

Đang phân vân, cành cây vô ưu bên cửa vòm lại lay động, liền ngay đó xuất hiện bóng dáng thanh thoát của Liên Tống Quân. Bắt gặp cảnh hai người dùng dằng như vậy, cái bóng kia sững lại, một lúc lâu sau, mới mở miệng: “Vừa rồi…để quên cây quạt, định quay lại lấy, lại làm phiền rồi, hôm khác ta sẽ đến tạ lỗi, nhị vị…cứ tiếp tục…”.

Phượng Cửu quả thật muốn khóc, một tay che mặt, tay kia giật cái yếm, quay người nhảy phắt qua tường chạy biến, mang theo làn gió thổi bạt một chùm hoa bà la trên cây.

Liên Tống vẫn nhếch mép, nhìn Đông Hoa: “Hiền huynh không đuổi theo ư?”. Lát sau lại tiếp: “Mỹ nhân huynh gặp ở Thừa Thiên Đài hôm đó chính là Phượng Cửu của Thanh Khâu sao?”. Ngập ngừng rồi lại tiếp: “Nhưng huynh cũng nên cân nhắc kỹ, nếu lập nàng làm đế hậu, thì sau này phải gọi tiểu tử Dạ Hoa kia là cô phụ…”.

Đông Hoa thong thả chỉnh lại tà áo, nghe vậy, nói: “Mấy ngày trước, ta có nghe tin, hình như đệ có ý với Thành Ngọc Nguyên Quân?”.

Liên Tống gập chiếc quạt trong tay, trả lời: “Việc này…”.

Đông Hoa nói tiếp: “Ta định mấy ngày nữa nhận Thành Ngọc làm con nuôi không biết ý đệ thế nào?”

Liên Tống: “…”

Phượng Cửu vốn là một vị tiên không câu nệ tiểu tiết, nhưng thỉnh thoảng cũng câu nệ vài tiểu tiết nhỏ, hậu quả thế nào đương nhiên cũng biết.

Chuyện xảy ra với Đông Hoa, Phượng Cửu bị tổn thương nghiêm trọng, trốn biệt hai ngày liền trong điện Khánh Vân của Cục bột nhỏ mới nguôi ngoai. Nhưng tựa chung lòng vẫn không vui, hy vọng ai đó có thể giúp nàng giải tỏa. Cô cô Bạch Thiển thì không thể.

Vậy là, Phượng Cửu ngập ngừng hỏi Cục bột nhỏ: “Nếu đệ thích một cô nương, nhiều năm sau gặp lại cô nương ấy”. Nàng suy nghĩ một lúc, cố tìm ví dụ sát thực nhất, lúc sau, nghiêm nghị nói: “Nhưng cô nương đó lại phát hiện đến giờ đệ vẫn quấn tả, đệ sẽ làm thế nào?”

Cục bột nhỏ trợn mắt phản bác: “Đệ không quấn tả từ lâu rồi”.

Phượng Cửu an ủi: “Ấy là tỷ chỉ nói giả dụ, giả dụ…”.

Cục bột nhỏ ngẫm nghĩ một hồi, khuôn mặt bé nhỏ đỏ bừng, xấu hổ ngoảnh mặt sang bên, ngần ngại nói: “Như vậy quá mất thể diện, sự mất thể diện đó cũng giống như chuyện Phượng Cửu tỷ tỷ gặp lại người trong mộng, cuối cùng lại đánh rơi yếm trước mặt người ta”. Rồi dè dặt gợi ý: “Nếu thế, tốt nhất lấy một thanh đậu phụ tự đập đầu mình”.

Chuyện sau đó, Phượng Cửu lòng vừa vợi đi chút ít, lại xấu hố trốn thêm ba bốn ngày nữa.

Mãi đến tối ngày thứ tư, thượng thần Bạch Thiển sai một tiểu hầu đến báo cho Phượng Cửu rằng, mấy ca kỹ gặp nạn ở Thừa Thiên Đài hôm trước, thần trí đã hồi phục hoàn toàn, đêm nay tại Hợp Bích Viên sẽ diễn một tích mới về một nữ anh hùng áo vải, mời nàng cùng đến thưởng thức, lúc này Phượng Cửu mới dẹp nỗi phiền muộn sang một bên rời khỏi điện Khánh Vân.

Trong Hợp Bích Viên, trên sân khấu mới dựng, một đoàn nữ tướng trang phục lòe loẹt, í a ca hát rất náo nhiệt.

Bạch Thiển cầm chiếc quạt lụa trắng, ghé tai Phượng Cửu, hỏi: “Mấy ngày nay, trên Thiên giới có một tin đồn khá thú vị lan truyền ầm ĩ, không biết con đã nghe chưa?”. Bạch Thiển ho một tiếng, “Dĩ nhiên những chuyện như thế, cô cô cũng không mấy bận tâm”.

Phượng Cửu vô cùng hứng thú, cầm chén trà lên, cũng ghé lại gần, ngừng một lát, trả lời rất vừa phải: “Con thấy, cô cô quả thực cũng không mấy bận tâm, thật ra con cũng thế, nhưng, cô cô cứ nói thử xem”.

Bạch Thiển gật đầu, chậm rãi nói: “Thực sự, chúng ta không phải người thích bàn tán chuyện của người khác, nhưng có chuyện này chắc chắn con không thể ngờ, Đông Hoa Đế Quân trước nay chúng ta luôn xem là người cứng nhắc, hóa ra không phải như thế, hơn ba trăm năm trước con dứt tình với hắn, cô cô nghĩ chắc là cũng hợp ý trời, cho nên mới đoạn tuyệt dứt khoát như thế”.

Phượng Cửu nghiêm nghị gật đầu.

Bạch Thiển bóc vỏ một quả hạch đào: “Nghe nói, ông ta vẫn giấu trong cung Thái Thần một nữ tiên nhan sắc chim sa cá lặn, lại còn rất mực sủng ái nàng ta”.

Phượng Cửu đặt chén trà trong tay xuống, lát sau, mới cụp mắt, môi mấp máy: “Nói vậy là, bao nhiêu năm nay Đế Quân không rồi khỏi cung Thái Thần, chính là vì thế”. Cười một tiếng: “Đương nhiên, bên cạnh đã có giai nhân hầu hạ, không ra khỏi cung cũng chẳng thấy cô đơn”.

Bạch Thiển đưa quả hạch đào đang bóc dỡ cho nàng: “Con cũng đừng bận tâm, chung quy con và ông ta đã chẳng có quan hệ gì, cô cô kể chuyện này cũng không phải muốn làm con phiền muộn”.

Phượng Cửu lấy lại tinh thần, lại nhấc chén trà lên, nói: “Không biết người Đế Quân để ý là ai?”.

Bạch Thiển ờ một tiếng, tiếp: “Ta và Ti Mệnh đã thăm dò, tất nhiên không phải là ta cố ý thăm dò, ta vốn không mấy hứng thú chuyện đó. Nhưng, Ti Mệnh cũng chẳng thăm dò được gì. Mặc dù các vị thần tiên bí mật truyền tai nhau rất rôm rả, cũng có vài suy đoán về vị nữ tiên kia, nhưng Đông Hoa xưa nay không bận tâm tới những chuyện phong nguyệt cho nên ngoài nghĩa muội của ông ta là công chúa Tri Hạc, họ chẳng đoán ra là ai. Có điều, khoan nói công chúa Tri Hạc những năm qua đều ở Hạ giới chịu tội, ta cũng thấy, người đó không thể là công chúa”.

Phượng Cửu cầm chén trà, chăm chú nghe.

Bạch Thiển nhấp một chút trà nhuận giọng, nói tiếp: “Còn về tiên nữ kia, quả thật là có người như vậy, nghe đồn sáu bảy ngày trước, lúc Đông Hoa cùng nàng ta tắm ở ôn tuyền trong cung Thái Thần, đúng lúc bị Liên Tống Quân bắt gặp, chuyện mới bị bại lộ”.

Bạch Thiển vừa dứt lời, Phượng Cửu ngã lăn từ trên ghế xuống, chống tay đứng dậy nói: “…Tắm ở ôn tuyền?”.

Bạch Thiển cúi đầu ngạc nhiên nhìn nàng, như gặp được tri âm, nói: “Con cũng thấy ngạc nhiên? Hôm trước còn có một tin đồn, nói rất chi tiết, có phần đáng tin, Thành Ngọc Nguyên Quân mà Liên Tống Quân đang có tình ý đó, con có biết không? Hồi trước, lúc ta không sống cùng Cục bột nhỏ, đã nhờ nguyên quân chăm sóc. Nghe nói thật ra Thành Ngọc Nguyên Quân này, chính là con riêng của Đông Hoa Đế Quân với vị tiên nữ kia”.

Phượng Cửu đang bám vào mép bàn đứng dậy, lại ngã lần nữa.

Bạch Thiển đưa tay kéo nàng lên, ân cần hỏi: “Cái ghế không chắc hay sao?”.

Phượng Cửu bám vào mép bàn, cười nhạt: “Trên kia người ta diễn quá hay, khiến lòng con muôn vàn xúc động, thần trí bất an”. Nàng thản nhiên nói dối, mặt không biến sắc, nhân cơ hội liếc lên sân khấu, xem rốt cuộc họ đang diễn gì.

Trên sân khấu sáng trưng, đang diễn cảnh nữ tướng quân oai hùng không may sa vào tay địch, bị quân địch đóng vào cột, dùng cực hình hành hạ rất thê thảm.

Bạch Thiển nhìn lên sân khấu, lại quay sang nhìn Phượng Cửu, nghi hoặc hỏi: “Thì ra…khẩu vị của con là thế…”.

“…”.

Phượng Cửu biết rất rõ thân phận mình: Nàng là một quả phụ.

Phàm trần có câu ngạn ngữ mà ai ai cũng biết: “Trước nhà quả phụ lắm thị phi”. Phượng Cửu tỉnh táo ý thức được rằng, mình là quả phụ nhiều năm như vậy, trước nhà không có nửa lời thị phi, thực ra không phải do bản thân nàng đức hạnh đến đâu, mà do ở Thanh Khâu người ta không thích tám chuyện người khác như ở Cửu Trùng Thiên. Nhưng hôm nay nghe tin đồn đó, nàng hết sức lo lắng, cảm thấy đã là quả phụ lâu năm, nàng không nên vướng vào những tin đồn đào hoa đó. Tuy là tin đồn với Đông Hoa ba trăm năm trước, cũng không phải chuyện hay ho gì.

Phượng Cửu có một ưu điểm mà ngay cả đến Bạch Thiển cô cô cũng không bằng. Bạch Thiển gặp việc gì suy nghĩ không thông, nếu chưa nghĩ thông sẽ không làm, nhưng Phượng Cửu nàng không như vậy, nàng hoàn toàn làm theo bản năng. Nàng cảm thấy ưu điểm lớn nhất của mình thật ra không phải là tài nấu nướng, Ti Mệnh từng khen nàng lúc kiên gan thì thật kiên gan, lúc từ bỏ thì thật quyết liệt, dứt khoát, nàng cảm thấy khi hành sự nàng xứng với lời khen đó.

Mấy ngày trước là do nàng chưa chuẩn bị tốt, nhưng về sau nhớ ra một câu do nàng tự đúc kết, đáng khắc bia đá. Nàng đã sống ba vạn năm, những câu khắc vào bia đá cũng tới cả ngàn vạn, phải mài dũa mãi mới tìm ra: “Không nên tốt với kẻ nam nhi vương vấn với nhiều nữ nhi, cũng không nên tốt với kẻ nam nhi vương vấn với nhiều nam nhi khác”. Nàng từng sống chết thích Đông Hoa, lúc ấy nàng thật kiên trinh, nhưng Đông Hoa lại không để ý đến nàng, rất có thể đã có ý trung nhân khác. Nàng tự hạ thân phận vào làm tỳ nữ quét dọn trong cung của chàng mấy trăm năm, mà chưa từng được nói với chàng một câu. Nàng cảm thấy nên coi chuyện này như chưa từng xảy ra. Bây giờ nàng đã hiểu, nàng nên đối xử với Đông Hoa bình thường như những vị tiên khác, như thế mới phải đạo, đương nhiên những gì tránh được vẫn nên tránh, để khỏi sinh lắm phiền hà.

Sau khi xác định như vậy, Phượng Cửu liền chú ý giữ khoảng cách với chàng, nhưng không hiểu sao gần đây khoảng cách đó ngày càng thu hẹp. Nàng suy nghĩ rất lung, thấy rằng nên dùng chút thủ đoạn để giữ khoảng cách với chàng.

Tuy nhiên khi nàng vừa ra quyết định đó, mới vô cùng muộn màng phát hiện, chiếc vòng tay pha lê màu nâu Thanh Đề tặng, nàng vẫn đeo ở cổ tay phải đã biến mất lúc nào. Đó là chiếc vòng hết sức quan trọng.

Phượng Cửu cẩn thận nhớ lại, cuối cùng nhớ ra, có thể đêm đó đánh rơi ở hậu phủ trong cung Thái Thần của Đông Hoa.

Trước khi giữ khoảng cách hơi xa với chàng, nàng phải chủ động đến gặp chàng lần cuối.

Đúng là ở nơi đầu sóng ngọn gió, hành sự càng phải thận trọng. Nhưng, để gặp Đông Hoa một lần mà không bị những người xung quanh chú ý, quả thật không dễ dàng.

Phượng Cửu suy tính mãi, đến ngày mồng năm tháng năm, coi như đã nghĩ ra.

Đông Hoa Đế Quân thân là tôn thần của Thiên tộc, hiện nay mặc dù đã ẩn cư ở Nhất Thập Tam Thiên, nhưng vẫn còn trọng trách do Thiên Quân giao phó, ví dụ, quản danh tịch chúng tiên. Có câu: “Vận thanh y, đến Thiên môn, tạ thiên địa, bái Đông Quân”. Hàng năm, cứ đến ngày mùng năm tháng năm, các vị tiên ở ngàn vạn Phàm giới nhờ thanh tu mà thăng thành tiên, đều phải đến Thanh Vân điện ở Tam Thập Lục Đại La Thiên, bái kiến Đông Hoa Đế Quân, thỉnh cầu ban cho phẩm vị thích hợp.

Theo cổ lệ, khi triều hội mãn, chúng tiên ra về, Đông Hoa Đế Quân sẽ nhân tiện thị duyệt Liên Tâm Kinh ở điện Thanh Vân, lưu lại đó vài khắc. Phượng Cửu định sẽ gặp chàng vào thời gian đó. Hơn nữa nàng tưởng đã suy nghĩ tính mọi sự chu toàn.

Ngày mồng năm tháng năm, oanh ca yến hót, mưa giăng, hoa đà la ngập trời, thế giới vô lượng rung mình chấn động, là điềm lành mở Thiên môn nghênh đón chư tiên bát hoang.

Phượng Cửu vốn định sáng sớm sẽ đến phục bên ngoài điện Thanh Vân, nhưng lúc sắp đi lại bị Cục bột nhỏ dạo này ngày càng thông minh bám riết nửa buổi, mãi mới trốn được, vội vàng đi thật nhanh đến thẳng trước cửa Tam Thập Lục Thiên nhưng không thấy bên trong có động tĩnh gì.

Thầm nghĩ, có lẽ triều hội đã mãn. Vậy là lấy chiếc khăn tay lau mồ hôi, che nửa mặt, hỏi một tiểu thiên tướng gác cung môn: “Đế Quân chàng…một mình trong đó?”.

Tiểu thiên tướng mắc tật nói lắp, nhưng lại là một người nói lắp có trách nhiệm, chặn trước cung môn hỏi: “Dám…dám hỏi tôn…tôn thần…thần…là…là ai…?”.

Phượng Cửu kéo khăn che cả khuôn mặt, chỉ để lộ cái cằm, trả lời: “Thanh Khâu, Bạch Thiển”.

Tiểu thiên tướng chắp tay hành đại lễ, cung kính: “Bẩm…bẩm thượng thần, Đế Quân, đương…đương nhiên, một mình trong…trong đó…”.

Phượng Cửu thở phào, mình đến đúng lúc, cám ơn rồi dặn dò: “À, bản thượng cung tìm ngài có chút việc riêng cần thương lượng, nếu ngươi chặn giúp không để người ngoài vào quấy rầy, ta sẽ hậu tạ về sau”. Nói xong cầm khăn, định bước qua cung môn.

Tiểu thiên tướng không dám ngăn cản, cũng không muốn để nàng vào, vò đầu bứt tai định nói gì.

Phượng Cửu ngoái lại: “Nhìn thấy bản thượng thần, ngươi quá xúc động ư?”. Nghĩ một lúc, nói, “Ngươi có khăn tay không, bản thượng thần có thể ấn triệt để tặng ngươi”.

Tiểu thiên tướng lắc đầu, nói: “Đế Quân…quân…người một mình…đang…”.

Đến khi Phượng Cửu đi khuất, tiểu thiên tướng mới lo sợ phát khóc, cuối cùng cũng lắp bắp phát ra được một nửa vế sau của câu: “…Một mình, trong điện, hội,…hội kiến, chúng…chúng tiên, không,…không tiện, làm…làm phiền”.

Điện Thanh Vân ở Tam Thập Lục Thiên là cung điện duy nhất Cửu Trùng Thiên được lợp bằng thanh vân, xà bằng ngọc xanh, tường bằng pha lê tím vừa quý hiếm vừa tráng lệ, nhưng không chỉ quý ở kim ngọc bề ngoài, mà thực sự hữu dụng, cách âm rất tốt. Tại sao Phượng Cửu lại không biết điều này, lấy lại tinh thần đi đến cửa điện, thận trọng áp tai vào cửa nghe ngóng một lúc, vẫn không thấy tiếng người, bèn nghĩ bên trong chắc chỉ có một mình Đông Hoa.

Lúc nhỏ Phượng Cửu đã được tiểu thúc Bạch Chân lấy mình làm gương truyền dạy, việc đòi nợ tuyệt đối phải giữ bí mật, một khi làm ồn, nhất định hỏng việc, trong chuyện này cần coi trọng nhất ba chữ: nhanh, chuẩn, mạnh. Cái vòng tay của nàng quả thật rơi ở hậu phủ của Đông Hoa, nhưng cũng phải đề phòng chàng ta không thừa nhận, cho nên phải lập tức phủ đầu, nói thẳng dứt khoát, cột chuyện này vào chàng ta, để chàng không còn đường chối cãi, như thế mới mong có kết cục hoàn mỹ.

Phượng Cửu nghiền ngẫm suốt một giờ nửa khắc, nhắm lại một lượt ba chữ châm ngôn mà Bạch Chân đã dạy, hít một hơi thật sâu, nhanh, chuẩn, mạnh… nàng vốn định tung chân đạp cửa, nhưng chân vừa giơ lên đã cảm thấy có gì không ổn, lại thu về dùng tay đẩy, chính trong khoảnh khắc thay đổi đó, khí thế vừa bừng bừng bốc cao của nàng lập tức xẹp hẳn, duy chỉ còn giọng nói rất to, lanh lảnh, hướng lên điện đường cao lồng lộng của điện Thanh Vân, hô: “Buổi tối mấy ngày hôm trước, chiếc vòng pha lê của tiểu nữ có phải rơi ở chỗ Đế Quân…”. Chữ “không” cuối cùng của câu nghi vấn cộng chất vấn mới chỉ phát ra một nửa đã mắc trong miệng.

Bên trong điện có người.

Không chỉ có người, mà rất nhiều người.

Phượng Cửu sững sờ nhìn các vị tiên khiêm nhường cúi đầu đứng thành hàng dài hai mé điện, tất cả đều vận áo vải, rõ ràng vẫn chưa được sắc phong tiên phẩm. Một vị tiên tay cầm tờ trình quỳ dưới kim tọa, vừa rồi có lẽ đang tuyên báo với Đông Hoa công đức tu tiên của mình.

Lúc này các vị thần tiên đứng trong hàng đều dồn mắt vào Phượng Cửu, vẻ kinh ngạc vạn bội. Duy chỉ có một người không thay đổi thần sắc là Đông Hoa ngồi kim tọa trên cao. Chàng vịn tay vào thành kim tọa, từ trên cao nhìn xuống nàng.

Phượng Cửu ngẩn người, chân theo bản năng lập tức lùi ra cửa điện, bình tĩnh dõng dạc nói: “Mộng du, không cẩn thận đến nhầm chỗ”. Nói đoạn, chân kia cũng lùi theo, còn ân cần giơ tay đóng cửa đại điện để các vị tiên yên tĩnh nghị sự.

Giọng nói của Đông Hoa chậm rãi truyền đến: “Chiếc vòng đó…”, ngừng lại một lúc, “…quả thực rơi ở chỗ ta”.

Chân Phượng Cửu vấp vào cửa điện.

Đông Hoa chầm chậm từ trong tay áo lôi ra chiếc trâm bạch ngọc lóng lánh, từ tốn nói: “Nàng còn quên cả trâm nữa”.

Không biết ai trong điện nuốt nước miếng “ực” một tiếng. Phượng Cửu gục trên nền điện giả chết.

Cả điện im phăng phắc, giọng nói của Đông Hoa lại vang lên lần nữa, lạnh lùng, ung dung, chậm rãi: “Còn đây là chiếc trâm hoa nàng làm rơi ở ôn tuyền”. Hơi ngừng, rồi thản nhiên nói, “Lại đây lấy đi”.

Phượng Cửu che mặt bám lấy bậu cửa đại điện bò dậy, hướng về chúng tiên đang kinh ngạc thất sắc, giọng sụt sùi phân bua: “Ta thật sự mộng du, thực sự đến nhầm chỗ…”.

Đông Hoa tay chống cằm nhìn nàng: “Vẫn còn…” giơ tay như muốn lấy ra vật gì nữa.

Phượng Cửu thôi sụt sùi, đổi vẻ mặt thiểu não thành ra nghiêm túc nói: “A, hình như đột nhiên tỉnh lại, đầu óc tỉnh táo rồi”.

Như chợt hiểu ra, nói to: “Chắc là nhờ linh khí đại thịnh nơi đây”.

Bước lên, vòng tay thi lễ, trang nghiêm nói: “Lần này, quả thật đến tìm Đế Quân lấy chút đồ, không phải đến nhầm chỗ, cảm tạ Đế Quân cất giùm”.

Vừa ngại ngùng lại hơi bẽn lẽn: “Nhất thời lỗ mãng làm phiền triều hội của chư tiên, thực lòng xin lỗi, hôm khác có dịp sẽ tạ tội với chư tiên”.

Sau khi nhanh nhẹn hoàn thành một loạt động tác, đến bản thân còn thấy ngạc nhiên, khâm phục. Đông Hoa vẫn không có phản ứng nào, chúng tiên lại kiềm chế không dám bộc lộ.

Phượng Cửu nghiến răng, bước thật nhanh lên đài. Đông Hoa tay chống má, ngẩng đầu nhìn, nhìn thấy nàng cúi đầu ủ rủ, mắt chàng thoáng hiện nụ cười, rồi lập tức trở lại vẻ lãnh đạm, chìa tay phải, trên bàn tay thon dài là chiếc vòng pha lê màu nâu, một chiếc trâm và bông hoa cài màu trắng.

Phượng Cửu ngẩn người, ngạc nhiên.

Đông Hoa chậm rãi nói: “Không đến lấy, còn muốn ta đưa tận tay ư?”.

Phượng Cửu cúi đầu nhanh chóng bước lên, nhận từng món đồ, thần thái trịnh trọng như nhận chiếu thư quan trọng, sau khi nhận xong còn không quên khiêm nhường, lễ độ từng bước lui thẳng ra điện. Cố gắng chịu đựng cho qua đoạn này, cảm giác xấu hổ bùng lên, mặt bỗng đỏ ửng, ba chân bốn cẳng chạy thật nhanh.

Trong điện Thanh Vân chúng tiên đứng nghiêm trang, vị tiên vừa rồi đang trình công đức của mình lên Đế Quân vẫn cầm tờ trình quỳ dưới đất, ngẩn người nhìn theo bóng Phượng Cửu đi xa, may có vị tiên bác trợ việc cho Đông Hoa chưa bị Phượng Cửu làm cho rối loạn tâm thần, nhắc nhở vị tiên đang quỳ dưới đất: “Lúc trước đang trình đến đoạn một trăm năm trước, ngươi giao đấu với ác long, giải cứu công chúa nước Trung Dung, sau đó vị công chúa này sống chết một lòng muốn lấy ngươi, nhưng ngươi cự tuyệt”. Nói đoạn, tiên bác hơi nghiêng người về phía trước vẻ hứng thú hỏi: “Sau đó thế nào?”, bị Đông Hoa đưa mắt nhìn, hiểu ý vội im, đứng thẳng người, ho một tiếng, uy nghiêm trầm giọng nói: “Vậy…tiếp theo thế nào, mời trình tiếp”.

Đêm đó sau khi tan triều hội ở điện Thanh Vân, theo cổ lệ, Thiên Quân ban yến tiệc vườn thượng uyển Bảo Nguyệt Quang.

Các vị tiểu thần tiên mới được phong, ngoài mấy vị được giữ lại phục hầu trên Thiên giới, đa số được phân phong đến các linh sơn tiên cốc, không biết ngày nào mới có cơ duyên lên Thiên giới thăm viếng lần nữa, được gặp Thiên Quân đích thân ngự yến, ai nấy có phần căng thẳng.

Các vị thần tiên tụ tập trong Bảo Nguyệt Quang, lần đầu lên Thiên giới, nhìn gì cũng thấy ngạc nhiên, mới mẻ kỳ lạ.

Dưới gốc cây vô ưu chưa ra hoa, có vị tiểu tiên nhìn rất lanh lợi thầm thì với một tiểu tiên khác: “Hôm nay hiền đệ được thấy dung quang chư vị thần tiên trên Thiên giới, vậy đã được chiêm ngưỡng vị tiên của Thanh Khâu chưa?”. Sau đó hạ giọng ra vẻ bí mật, “Nghe nói đêm nay có thể vị cô cô của Thanh Khâu cùng cháu gái là Phượng Cửu điện hạ cũng đến dự, nghe đồn hai vị này có thể coi là tuyệt sắc nhất nhì tứ hải bát hoang, ngay cả tiên tử trên Thiên giới cũng không so sánh được.

Tiểu tiên kia chính là người quỳ dưới kim đài tâu trình công đức của mình, lúc Phượng Cửu xuất hiện trong điện sáng nay, sau khi tâu trình công đức được phong chân nhân, lấy họ của mình khi còn là người phàm, gọi là Thẩm Chân Nhân.

Thẩm Chân Nhân chưa nói gì mặt đã đỏ ửng, trả lời không đúng câu hỏi: “…Vị tiên lúc sáng xông vào điện Thanh Vân…nàng…nàng cũng tới ư?”.

Vị tiểu tiên sửng sốt, che miệng nói: “Ngu đệ đã dò hỏi rồi, vị tiên nữ ấy có lẽ là nghĩa muội của Đế Quân, phải gọi một cách tôn kính là công chúa Tri Hạc, đệ đã thấy tình cảnh lúc đó, Đế Quân đối với nghĩa muội này cũng rất khác thường”, rồi khe khẽ trầm trồ: “Ôi chao, quả là đẹp, quả là đẹp, ngay đến ngu đệ xưa nay không gần nữ sắc cũng ngây ra nhìn. Đệ đúng là sững sờ, nhưng…”. Vỗ mạnh vào vai Thẩm Chân Nhân, “Huynh và đệ đều là từ phàm nhân mà được thăng tiên, giới luật thế nào chúng ta đều biết, cho dù Đế Quân đối tốt với nghĩa muội kia cũng chỉ là bình thường, Thẩm huynh tốt nhất chớ mơ tưởng”.

Thẩm Chân Nhân rầu rĩ cúi đầu.

Do vị trí vườn thượng uyển Bảo Nguyệt Quan chỉ cao hơn mặt trăng một khoảng, ánh trăng không đủ chiếu sáng, cho nên, giữa những cây vô ưu khắp vườn treo rất nhiều dạ minh châu, vườn thượng uyển được dạ minh châu chiếu sáng như ban ngày.

Cửu Trùng Thiên có một thói quen không tốt, phàm là những vị thần tiên quyền cao chức trọng, để nâng cao vị thế của mình, bất kể yến tiệc lớn nhỏ, luôn đến sát giờ, làm như đang bận thu xếp công việc quan trọng. Cũng may Đông Hoa và Liên Tống thường không như vậy, gặp những yến tiệc thế này, không đến rất sớm thì đến rất muộn, hoặc dứt khoát không đến, chưa bao giờ cố tình đến sát giờ…

Lần này, còn khá nhiều thời gian yến tiệc mới bắt đầu, đã thấy hai vị thần tiên vui vẻ tiên giá.

Các tiểu tiên nga đã kê một chiếc bàn và hai chiếc ghế sau gốc cây cổ thụ sum suê, để hai vị đại diện tạm nghĩ, cũng là để chúng tiên phía trước đỡ căng thẳng bởi sự xuất hiện của các vị.

Lúc Thẩm Chân Nhân và vị tiểu tiên kia nói chuyện, không may lại đứng gần cây cổ thụ kia. Từng câu từng chữ đều lọt vào tai hai vị đại tiên ngồi phía sau cây.

Lúc ấy, Đông Hoa đang tháo xem tháp Ngô Thiên, Liên Tống vừa đưa cho. Tháp này là một loại thần binh Liên Tống vừa mới chế ra, có thể thu tinh hoán nguyệt hàng phục mọi yêu ma. Liên Tống mang đến cho Đông Hoa, vốn là để xem liệu có thể chỉnh sửa thế nào để có thêm công dụng hàng phục thần tiên, biến tháp Ngô Thiên thành thứ thần binh thượng đẳng vượt qua cả Cửu Lê hàng yêu do thượng thần Mặc Uyển chế tạo trước đó.

Liên Tống Quân gập chiếc quạt lụa, rót rượu cho hai người, cười nói: “Nghe nói hôm nay ở điện Thanh Vân, hiền huynh đã trêu Phượng Cửu trước mặt chúng tiên? Khiến Trọng Lâm trung thành chính trực bên cạnh hiền huynh đau đầu lo lắng làm sao bảo vệ uy danh nghiêm chính cương trực của hiền huynh nên đã chạy đến thỉnh giáo đệ”.

Đông Hoa ngắm nghía bảo tháp trong tay: “Thỉnh giáo đệ làm thế nào cương trực nghiêm chính ư? Chắc ông ta vẫn chưa tỉnh ngủ?”.

Liên Tống ngớ ra: “Thôi, không nói với huynh”. Uống hết chung rượu, đột nhiên nghĩ ra, “Hôm nay vốn có chuyện quan trọng cần báo với huynh, vừa nói sang chuyện khác lại quên mất”. Cầm quạt gõ vào thành chung rượu, “Ma tộc ở Nam Hoang, gần đây lại có biến động”.

Đông Hoa vẫn đang chăm chú ngắm nghía bảo tháp, hơi ngước lên hỏi: “Chuyện gì?”.

Liên Tống dựa vào thành ghế, mắt vui cười, thong thả nói: “Còn có thể là chuyện gì. Yến Trì Ngộ, một trong bảy người quân vương của Ma Tộc, huynh nhớ chứ? Chính là người đã đến tìm huynh quyết đấu bởi Ma tộc định gả trưởng công chúa cho huynh?”. Vẫn giọng thủng thẳng: “Nhân lúc huynh không đề phòng, đã dùng Tỏa hồn ngọc gì đó nhốt huynh vào Thập ác liên cảnh, khiến huynh khổ sở một phen. Đoạn trường đó, chắc huynh cũng còn nhớ?”.Lại còn tỏ ra khoái trá nói thêm: “Nếu huynh không có con tiểu hồ ly không biết từ đâu chui ra cứu huynh, không chừng tu luyện vạn năm của huynh đã bị tiêu hao mất nửa bởi bọn yêu quái trong đó”. Cuối cùng, tỏ vẻ đáng tiếc tổng kết một câu: “Mặc dù cuối cùng hiền huynh cũng phá được chiếc lồng đó mà ra lại còn trừng trị hắn đích đáng, khiến ngay song thân hắn cũng không nhận ra. Tuy nhiên, là một trong bảy quân vương của Ma tộc, làm sao hắn chịu được nỗi nhục ấy. Cho nên gần đây nuôi chí phục thù, muốn cùng huynh giao chiến lần nữa, rửa mối nhục lần trước”.

Ánh mắt Đông Hoa xao động, mặt vẫn thản nhiên: “Ta chờ chiến thư của hắn”.

Liên Tống ngạc nhiên: “Đệ tưởng mấy năm nay huynh tu thân dưỡng tính, sát khí bớt dần, đã mười phần lãnh đạm”.

Rồi lại nhíu mày: “Hay là, huynh vẫn cho rằng hắn đã bắt mất tiểu hồ ly của huynh? Nhưng, ba trăm năm trước, chẳng phải huynh đã thân chinh đến ma tộc xác nhận, vẫn không thấy con tiểu hồ ly ấy ư?”.

Rồi lại thở dài: “Kể cũng kỳ lạ, thiên địa bao la, lại không tìm đâu ra một con hồ ly như thế”.

Ngơ ngẩn một lúc, lại nói: “Phượng Cửu của Thanh Khâu cũng là một hồ ly đỏ, mặc dù là hồ ly đỏ chín đuôi, khác hẳn con hồ ly của huynh…nhưng, có phải vì vậy huynh mới cảm thấy nàng…”.

Đông Hoa tay chống má, ánh mắt xuyên qua cành là sum suê của cây cổ thụ, cất giọng chậm rãi: “Hai chuyện khác nhau”.

Ánh mắt đó bất ngờ dừng trên người Phượng Cửu mặt nhăn nhó theo sau Bạch Thiển đi vào vườn thượng uyển…Xiêm trắng, váy trắng, cài trâm hoa trắng, thân hơi sắc lạnh. Khi nàng không nói, nhìn rất đoan trang, đĩnh đạc.

Mắt của Bạch Thiển xưa nay không được tốt, Phượng Cửu đi theo giống như con mắt thứ hai của nàng, vì đã được rèn luyện nên nhãn lực tốt, chỉ thoáng liếc qua những tán lá sum suê đã phát hiện đằng sau cây vô ưu cao to, Đông Hoa đang dựa vào thành ghế nhìn về phía nàng.

Phượng Cửu lùi một bước, nắm tay Bạch Thiển cầu khẩn: “Con cảm thấy thân là quả phụ, con vẫn nên tuân thủ một chút lễ tiết, không nên lộ diện ở những nơi thế này…”.

Bạch Thiển nhẹ nhàng ngắt lời nàng: “Ồ, thì ra con cảm thấy theo ta đi dự yến hội cũng không bằng tối qua cùng Chiết Nhan lên Thiên giới hàng phục Xích Diễm mang về cho tứ ca cưỡi chơi, nếu vậy…”.

Phượng Cửu run run, mắt tay Bạch Thiển càng chặt: “Nhưng, cũng may lễ tiết phép tắt định ra đối với quả phụ ở chỗ chúng ta cũng không nghiêm như vậy, xuất đầu lộ diện chỉ một hai lần, cũng tốt…cũng tốt…”. Lắp bắp một hồi, nói trái lòng mình: “Tốt cho sức khỏe và tinh thần”.

Bạch Thiển cười tủm tỉm gật đầu: “Con nói đúng”.

Hai vị đế cơ của Thanh Khâu một trước một sau thần thái đoan nghiêm bước vào Bảo Nguyệt Quang, các vị thần tiên mới được phong chưa từng trải, bất ngờ nhìn thấy dung nhan tuyệt sắc từ lâu đã nức tiếng cả Thiên giới lẫn Hạ giới, nhất loạt ngơ ngẩn đứng ngây. Cũng may các tiểu hầu tiên đều nhanh trí, hơn nữa cũng từng gặp hai vị, sốt sắng dẫn hai vị vào chỗ. Đằng sau thân cây vô ưu, Liên Tống gõ chiếc quạt lụa lên bàn đá nói với Đông Hoa: “Hiền huynh có ý gì với nàng, cảm thấy nàng rất đẹp, hay là…”.

Đông Hoa không nhìn nữa, mắt thoáng ánh cười: “Nàng rất thú vị”.

Liên Tống dùng tư duy của vị tiên được coi là đệ nhất thánh tình ở Thiên giới lý giải hồi lâu, nửa hiểu nửa không hỏi lại: “Thú vị nghĩa là…”. Đúng lúc nghe thấy tiểu tiên quan đứng cạnh kim tọa, cao giọng dõng dạc hô: “Thiên Quân giá đáo…”. Liên Tống thở dài, đứng dậy nói, “Bảo tháp kia huynh có thể thu lại rồi”.

Yến tiệc ở vườn thượng uyển Bảo Nguyệt Quang vốn là một yến tiệc thân mật.

Tuy là tiệc thân mật, nhưng không thoải mái.

Trong những niên đại hồng hoang biến động, Cửu Trùng Thiên cũng có ít nhiều đổi thay, các đời Thiên Quân sau khi từ Hạ giới quay về vũ hóa[1], vũ hóa lại quay về, duy có Đông Hoa Đế Quân trước sau như một vẫn thanh tịnh.

[1] Vũ hóa: qua đời.

Nhiều năm qua, ngay một số chuyện cũ của Thiên Quân cũng bị các tiểu tiên đem ra bàn tán trong các yến tiệc, nhưng chưa bao giờ nhắc đến Đông Hoa. Lần này phá lệ lại nghe thấy những tin đồn ầm ĩ giống như hỏa tinh bùng nổ, từ Nhất Thiên tới Tam Thập Lục Thiên, bay thẳng đến tai Thiên Quân.

Vị nam tử trong những tin đồn kia đương nhiên là Đông Hoa, còn người kia, vì mọi người thiếu trí tưởng tượng, cho nên chỉ nhằm vào công chúa Tri Hạc vô tội. Nhưng, cũng không biết Tri Hạc nghĩ thế nào, một vài vị tiên bạo gan từng nhắc chuyện này trước mặt nàng, công chúa Tri Hạc chỉ cười im lặng, không phủ nhận.

Thiên Quân lần này lại có hiểu nhầm lớn về bản thân.

Ngài cho rằng ngài rất am hiểu tâm ý người khác.

Theo lời đồn, Đông Hoa rất có thành ý với Tri Hạc, chuyện này lại trúng ý của các tôn thần ở Thiên giới, ngài cho rằng, Tri Hạc không cần ở lại trần gian chịu phạt nữa, nên sớm gọi về mới phải, cũng là giúp cho Đông Hoa tác thành nhân duyên.

Khi ý đã quyết như vậy, ngài cho là tốt nhất nên công bố trong dạ yến nửa long trọng nửa thân mật này, nếu ngài công bố, các trưởng tiên phụ trách dạ yến sẽ kịp gửi thiệp mời đến Tri Hạc vẫn chưa rời khỏi Cửu Trùng Thiên.

Nhưng xá lệnh này, nên làm khéo léo mới không khiến văn võ khắp triều cảm thấy Thiên Quân thiên vị Đông Hoa và cũng không để Đông Hoa phải tri ân.

Suy tính một lúc, nghe nói Tri Hạc có sở trường ca vũ, ngài bèn nghĩ ra một kế, lệnh cho mười bảy mười tám tiểu tiên nga múa cùng Tri Hạc. Tri Hạc đã chọn vũ khúc “Hạc vũ Cửu Thiên” sở trường nhất của mình.

Tri Hạc là một tiên nữ thông minh, không phụ tâm ý của Thiên Quân, trong dạ yến, nàng múa khúc “Hạc vũ Cửu Thiên” giống hệt phượng hoàng nhảy múa giữa chín tầng trời mây.

Các vị thần tiên kẻ ngồi, người đứng ai nấy mắt nhìn không chớp.

Vũ khúc kết thúc, Thiên Quân là người đầu tiên vỗ tay, liền đó dấy lên một trận pháo tay như sấm. Trong tiếng vỗ tay rầm trời, Thiên Quân hướng ánh mắt xuống dưới đài, cố ý nói to: “Vừa rồi hiến vũ có phải là công chúa Tri Hạc ba trăm năm trước bị đày xuống núi Kỳ Lân?”. Chúng tiên nhất tề hô đúng. Ngài lại giả bộ suy nghĩ, giả bộ đáng tiếc, nói: “Không ngờ một tiên tử mang tội mà lại tài hoa đến vậy, đã ở Phàm giới tự phản tỉnh ba trăm năm, thiết nghĩ cũng đã đủ, hôm nay hãy trở về Cửu Trùng Thiên đi”. Lại ngước mắt nhìn Đông Hoa, hỏi: “Đông Hoa Đế Quân cảm thấy thế nào?”.

Ngài diễn rất đạt.

Công chúa Tri Hạc duyên dáng trong xiêm y trắng mỏng manh bay phất phới, đẹp như trong mộng, yên lặng nhìn nghĩa huynh của mình.

Đông Hoa lúc này đang tháo rời bảo tháp lần thứ hai, nghe vậy liền ngước nhìn nàng, gật đầu nói: “Cũng tốt!”.

Lời vừa nói ra, phía đối diện bỗng cảm thấy “bốp” một tiếng, chàng đưa mắt nhìn về phía đó, thấy cốc trà của Phượng Cửu bị vỡ làm bốn mảnh, nằm phơi trên bàn.

Đông Hoa sửng sốt, Liên Tống che quạt ghé gần chàng, hất hàm: “Huynh nhìn thấy chưa, chiếc cốc sứ đó bị nàng ta một tay bóp vỡ, chà, thân thủ thật đáng khâm phục”.

Phượng Cửu dám chắc lúc Đông Hoa nói hai chữ “Cũng tốt”, Tri Hạc nhếch mép nhìn nàng cười khiêu khích.

Nàng còn nhớ thân phụ từng ngữ trọng tình thâm dặn nàng: Con tuổi trẻ nhưng quyền cao chức trọng, phải nhớ tránh tranh chấp với chúng tiên bên dưới, không được để thiên hạ chê cười, mình bị bôi nhọ không sao, nhất thiết không được bôi nhọ danh phận.

Suốt ba trăm năm nay, nàng luôn khắc cốt ghi tâm từng câu chữ đó, gặp chuyện hiếm khi tức giận, quả thực đã rèn rũa tu dưỡng để trở nên khoan dung quảng đại, khí độ thanh cao. Nhưng đối mặt với Tri Hạc, nàng cảm thấy có thể tạm dẹp đi những nghi thức thông thường. Vị công chúa của cung Thái Thần này, trước kia thực sự đã đắc tội lớn với nàng, đó là vết sẹo trong lòng Phượng Cửu.

Chuyện này, xảy ra hơn hai ngàn năm trước.

Khi đó nàng còn non trẻ, dại khờ, một mình đến núi Cầm Nghiêu ở Nam Hoang rong chơi, khinh suất chọc giận một con hổ thành tinh, định ăn thịt nàng, may thay lúc ấy Đông Hoa Đế Quân đi ngang qua, đã cứu mạng nàng. Từ đó, nàng một lòng một dạ hướng về Đông Hoa. Để đền đáp ân tình của Đông Hoa, nàng nợ Ti Mệnh một đại ân, đưa nàng vào làm tỳ nữ trong cung Thái Thần của Đông Hoa. Nàng rất cố gắng, nhưng do vận khí không tốt, lại gặp phải nghĩa muội của chàng là công chúa Tri Hạc luôn tìm cách ngăn cản, gây khó dễ. Đông Hoa không để ý mọi chuyện trong cung, lại chưa lập đế hậu, cho nên mọi chuyện trong cung Thái Thần đều do Tri Hạc cai quản, cuộc sống của nàng muôn vàn khó khăn.

Về sau, Đông Hoa vô tình bị cừu địch dồn vào Thập ác liên hoa cảnh, coi như nàng đã có chút cơ duyên. Từ nhỏ tính cách nàng đã cương liệt, chưa bươu đầu mẻ trán chưa chịu thua, vì Đông Hoa nàng không tiếc bán cả khả năng biến đổi dung mạo, giọng nói và chín chiếc đuôi quý báu nhất của mình cho Ma tộc, hóa thành một tiểu hồ ly liều mạng cứu chàng khỏi hiểm cảnh. Thật ra khi làm việc đó, nàng cũng có chút vị kỷ, cho rằng Đông Hoa đã nợ mình một đại ân như thế rồi chàng sẽ thích nàng, nàng đã nỗ lực hơn hai ngàn năm, cuối cùng không được chút báo đáp nào.

Nhưng thế tình vạn sự khó lường.

Sau khi dưỡng thương, nàng được Đông Hoa ngầm cho phép ngày đêm bên chàng, quả thực đã sống những ngày tự cảm thấy vô cùng vui vẻ, mặc dù đã mất đi khả năng biến hóa, nàng lúc đó chỉ là một con tiểu hồ ly lông đỏ, cũng thấy muôn phần mãn nguyện, trong mơ cũng cười.

Đêm đó nàng ngủ không ngon giấc. Sáng tinh sương, tiếng con chim sẻ mổ thức ăn trên bệ cửa sổ đã đánh thức nàng, thấy bên gối có bút tích của Đông Hoa, viết rằng khi nào tỉnh thì qua đình Trung, chàng có món ngon đãi nàng. Nàng hoan hỉ nhảy vội xuống giường, tung tăng ve vẩy cái đuôi duy nhất chạy đến đình Trung, lại nhìn thấy Tri Hạc đứng trước bụi hoa không biết tại sao đang vừa khóc lóc vừa tranh cãi gì đó với Đông Hoa. Nàng cảm thấy lúc này nếu mình đi đến, thật sự không thích hợp, cho nên lặng lẽ ẩn sau một gốc táo gần đó. Vì được giáo dục rất tốt, nên không tiện nghe trộm câu chuyện của họ, nàng cúi thấp đầu lấy móng vuốt che đôi tai rất nhạy của mình. Hai người tranh cãi hồi lâu, phần lớn là Tri Hạc nói, hai cái móng nhỏ không thể nào che kín hai tai nên nàng vẫn nghe thấy, tiếng hét làm nàng váng đầu. Thấy hai người đã tranh cãi xong, không nói gì nữa, nàng mới bỏ móng xuống, nhưng lại nghe Đông Hoa đột nhiên hạ giọng nói nhỏ: “Ta đã nhận lời nghĩa phụ chăm sóc muội, thì sẽ không bỏ mặc muội. muội tranh sủng gì với con thú đó?”.

Đông Hoa đi khuất một lúc lâu, nàng mới từ cây táo bước ra. Tri Hạc nheo mắt nhìn nàng cười: “Ngươi xem, ngươi chẳng qua chỉ là con thú nhỏ, nhưng lại luôn mơ tưởng tới nghĩa huynh ta, không thấy quá nực cười sao?”.

Nàng có đau lòng, nhưng vẫn kiên cường, tuy có bị tổn thương khi chính tai nghe Đông Hoa nói những lời đó, nhưng thực ra chàng cũng chỉ nói thật. Con đường theo đuổi Đông Hoa, quả nhiên quá gập ghềnh, nàng vẫn nên kiên trì một chút. Bất ngờ thay, chuyện này chẳng qua chỉ là ngòi nổ cho một loạt thảm cảnh tiếp theo, có thể ví như câu tục ngữ “Cha già nhà dột”. Bao nhiêu ký ức đáng buồn không muốn nhớ, liên tiếp dội về đánh thức giấc mộng đẹp của nàng, mỗi sự việc đều rất đau lòng, tuy so với các tiểu hồ ly cùng tuổi nàng dũng cảm hơn nhiều, nhưng chung quy nàng vẫn còn nhỏ, không khỏi thấy tủi thân, buồn phiền, dần dà cũng nản lòng.

Trong cuộc ganh đua này, Tri Hạc đại thắng. Thực tình nàng cũng không cảm thấy mình thua Tri Hạc điều gì, chỉ thấy buồn khi không thể nào khiến Đông Hoa thích mình. Cũng chẳng biết vì sao Tri Hạc lại không ưa mình, nàng đã hạ quyết tâm rời khỏi Cửu Trùng Thiên. Nhưng Tri Hạc lại không muốn để nàng ra đi nhẹ nhàng, chọn đúng đêm nàng định bỏ đi, Tri Hạc mặc bộ hỷ bào đỏ chói đến kích động nàng, giả bộ âu yếm xoa đầu nàng: “Ta và nghĩa huynh đã bên nhau chín vạn năm, từ khi ra đời đã được chàng chính tay nuôi nấng, hôm nay cuối cùng cũng lấy được chàng, ta rất vui, ngươi là một tiểu hồ ly lương thiện, ngươi có thấy vui cho ta không? Hóa ra, ngươi không vui ư?”.

Phượng Cửu còn nhớ đêm đó mặt trăng vừa to vừa tròn, giẫm lên bóng trăng, tựa như giẫm lên dòng sông số phận, dòng sâu ấy rất sâu, dòng xoáy rất mạnh, muốn nhấn chìm nàng.

Chuyện cũ lướt qua như mây khói, Phượng Cửu ngước lên vân đài nhìn Tri Hạc vừa hoàn thành vũ khúc, cảm thấy ba trăm năm ngắn ngủi, cố nhân vẫn là cố nhân xưa.

Trước kia bị Tri Hạc bắt nạt, nhưng do mối tình si với Đông Hoa nàng ngốc nghếch cố quy tất cả những ấm ức khổ sở đó là do ông trời muốn thử thách nàng, cho rằng Tri Hạc có thể là hiện thân của những thử thách đó. Sau khi rời khỏi Cửu Trùng Thiên, cuối cùng nàng cũng ngộ ra vài điều, coi Tri Hạc là đối thủ một mất một còn, nàng đã để cho nàng ta ức hiếp suốt mấy trăm năm. Nhưng nếu cố ý quay về Cửu Trùng Thiên, đem tất cả ấm ức xưa từng thứ trả lại cho Tri Hạc, lại chứng tỏ mình không đủ khoan dung. Làm sao có thể vừa trả lại tất cả những đau khổ nàng đã phải chịu đựng, lại vừa thể hiện mình là người độ lượng? Phượng Cửu âm thầm suy nghĩ rất lâu, vẫn chưa nghĩ ra, cuối cùng đành gác lại. Sự việc xảy ra đã ba trăm năm, hôm nay cơ duyên gặp gỡ này giống như ông trời nhìn thấu tâm tư nàng mà ban cho, đã như vậy sao có thể phụ lòng tốt của trời. Vả lại lần này trùng phùng, đối thủ của nàng còn dám cười khiêu khích như thế, nàng cảm thấy, nếu mình không thể hiện bản lĩnh e là có lỗi với nụ cười đẹp như vậy của nàng ta.

Tiểu tiên nga đưa đến chiếc cốc khác, nụ cười giễu cợt cộng vài phần đắc ý càng rõ trong mắt Tri Hạc.

Phượng Cửu đón chiếc cốc, cũng nhếch mép cười đáp lễ.

Cô cô Bạch Thiển tay cầm quạt lụa, ngồi bên liếc Tri Hạc trên vân đài, rồi lại liếc nàng, vẻ đoan trang, trầm tĩnh, cất giọng trong trẻo quở trách nàng: “Thiên Quân đang cùng các thần tử thương nghị chính sự, ngươi thân là nữ quân Thanh Khâu, hân hạnh được diện kiến thiên uy, lĩnh hội giáo huấn của bệ hạ, lại không tĩnh tâm lắng nghe, còn mặt hoan mày hỷ bỡn cợt là sao?”. Tuy khẩu khí nghiêm nghị, nhưng nàng đã cùng cô cô diễn trò đối với phó phụ thân không phải một hai năm, nàng lập tức hiểu ý, chắp tay cung kính: “Tiểu nữ không dám, tiểu nữ chỉ than thở rằng ở Thanh Khâu chúng ta, nếu có vị thần tiên phạm lỗi bị đuổi đi, thì phải lập thật nhiều đại công đại đức mới có thể được trở lại tiên phận. Mấy ngày gần đây nghe cô cô nói Nam Hoang có biến động, tiểu nữ vốn nghĩ, công chúa Tri Hạc là thần mưa, cũng có thể xuất chiến, còn lo ngại công chúa Tri Hạc bị phái đến Nam Hoang lập công rồi mới được trở về Cửu Trùng Thiên, thì ra cũng không cần phạt nặng như vậy, chỉ cần múa một bài là được. Tiểu nữ thấy đã uổng công lo lắng cho công chúa, vậy nên ban đầu cười có phần thoải mái. Sau lại thấy giới luật ở Cửu Trùng Thiên thật sáng suốt, lại có tình nên mới cười thán phục. Nhưng lại vì vậy may mắn được ân xá, còn nếu một vị thần tiên nào không may chẳng có tài gì mà phạm lỗi, thì biết làm sao, vì vậy cuối cùng mới cười hồ nghi”.

Chư tiên dự yến cũng nghe ra, lời nói của vị đế cơ Thanh Khâu kia đang làm cho Thiên Quân mất thể diện, nhưng phản bác của nàng cũng muôn phần thành thật, muôn phần khiêm nhường, muôn phần cung kính. Sau đó Phượng Cửu cung kính chắp tay hướng về chư tiên, khiêm tốn nói: “Nơi thôn dã hiểu biết hạn hẹp, khiến chư tiên chê cười”. Lúc ngồi xuống còn hướng về Thiên Quân phía xa chắp tay thành khẩn xá một vái. Liên Tống Quân cầm quạt chỉ về bảo tháp bên cạnh Đông Hoa nói: “Nàng nói cay nghiệt, nhưng vừa đấm vừa xoa, miệng lưỡi này không thua kém hiền huynh, xem ra phụ thân đệ phen này đau đầu đây”. Đông Hoa xoay chén trà trong tay, nhìn bộ dạng cố tỏ ra giữ lễ của Phượng Cửu: “Sao có thể, ta nói giản gọn hơn nàng nhiều”.

Thiên Quân quả thực không ngờ sự thể lại diễn biến như vậy, nhưng ngài xứng là đấng Thiên Quân, tài đảo ngược tình thế của ngài kinh qua tôi luyện còn nhanh hơn lật trang sách, thiên nhãn uy nghiêm đảo một vòng quanh điện, chớp mắt đã phán đoán ra lợi, hại, được mất, trầm giọng nói: “Những nghi hoặc của đế cơ Thanh Khâu nói ra rất đúng, giới luật của Cửu Trùng Thiên luôn rất nghiêm minh nếu Tri Hạc muốn trở lại Thiên giới, ắt phải lập đại công”, ngừng một lát, rồi tiếp: “Đúng là luật lệ đã được ghi rõ trong Thiên quy”. Nhưng, có lẽ thấy giới luật quá nghiêm minh, không thể hiện được sự nhân ái của ngài, dừng một lúc, bổ sung: “Có điều, biến động ở Nam Hoang hiện thời chưa rõ nội tình, tạm gác lại để sau nghị bàn cũng không muộn”.

Phượng Cửu vẫn nhẫn nại tiếp tục duy trì tư thái đoan khiêm thủ lễ, hướng về phía Tri Hạc nở nụ cười mãn nguyện. Sắc mặt Tri Hạc trắng như tờ giấy, đôi mắt hạnh đảo trợn tròn như sắp tóe lửa, trừng trừng nhìn nàng. Vườn thượng uyển nhất thời tĩnh lặng, một giọng thanh lạnh đột nhiên vang lên: “Để bản quân quyết định”. Bàn tay chàng đặt lên đỉnh bảo tháp nhỏ trong tay, mắt hơi ngước: “Nếu để nàng quay về Thiên giới phải để nàng xuất chiến một phen”. Tri Hạc đột nhiên ngẩng đầu, sắc mặt trắng tuyết dần chuyển sang hồng, từ hai má lan ra, ánh mắt dần trở nên tha thiết, giống như được phục sinh.

Thiên Quân cũng hơi ngẩn người, bình thản lướt nhìn chúng tiên dự tiệc. Ngoài Đông Hoa, ở đây còn thượng thần Bạch Thiển có địa vị cao, ngài muốn hỏi ý Bạch Thượng Thần. Bạch Thượng Thần gập chiếc quạt trong tay, rất mực thân thiện mỉm cười, cất tiếng: “Ở Thanh Khâu vốn được nghe, song thân đã tạ thế của công chúa Tri Hạc có ơn dưỡng dục đối với Đế Quân, Đế Quân quả là trọng tình trọng nghĩa”. Nói vậy xem như tán đồng. Phượng Cửu lạnh lùng liếc Đông Hoa, rồi nhìn Tri Hạc trên mặt là nụ cười chân thật, phụ hoa cô cô Bạch Thiển: “Đế Quân và công chúa quả thật là huynh muội chí tình”. Sau đó không nói gì thêm, cúi đầu cắn hạt dưa, chư vị thần tiên khác đương nhiên không ai có gan làm Đông Hoa mất thể diện. Thiên Quân theo thói quen trầm ngâm một lát, rồi trầm giọng phê chuẩn.

Một loạt biến cố xảy ra đột ngột, khiến chúng tiên ngẩn người, nhưng đa phần chỉ hiếu kỳ, rốt cuộc chuyện gì đang xảy ra, họ cũng vẫn không rõ, chỉ là biết thêm một điều: Hôm nay được chứng thực các vị thượng thần, thượng tiên trong những tin đồn nghe được trước đây. Ví dụ, vị tiên sáng nay bị Đông Hoa trêu đùa trong điện Thanh Vân, thì ra không phải là công chúa Tri Hạc, nghĩa muội của Đế Quân, mà lại là điện hạ Phượng Cửu, đế cơ của Thanh Khâu nức tiếng đã lâu. Cũng có một hai vị tinh mắt nhìn ra ẩn tình vì ngồi cách khá xa chủ tọa nên ghé tai nhau thì thầm: “Thật ra chuyện này, ta hiểu thế này đệ xem có đúng không, đây chính là tiểu cô cô tranh sủng với đại tẩu. Hình như tiểu cô cô có tình ý với nghĩa huynh của mình khiến đại tẩu chướng mắt, cho nên…”. Sau đó vị tiểu tiên tinh mắt này do khả năng phán đoán tinh tường, suy diễn logic nên về sau được điều bổ về chỗ Ti Mệnh trợ quản sổ sách ghi số mệnh của người trần, rất được Ti Mệnh coi trọng, tiền đồ vô cùng sáng sủa.

Thực ra chuyến đi này, Bạch Thiển thay mặt phu quân Dạ Hoa đến dự tiệc.

Thượng thần Chiết Nhan ở rừng đào mười dặm, tối qua đã đại giá Thiên môn, vị thượng thần này xưa nay một lòng bảo vệ huynh muội Bạch gia, nói là có việc cần nhắc nhở riêng thái tử, cầm danh lệnh đi cùng Dạ Hoa. Một số công vụ quan trọng của phu quân, Bạch Thiển thường làm thay.

Bản tính Bạch Thiển ngại phiền phức, không thích tiệc tùng, thấy rượu quá tam tuần, Thiên Quân theo lệ đã sớm cáo lui, nên cũng muốn rút. Vốn định cùng Phượng Cửu đàng hoàng cáo từ, nhưng thấy nàng ngồi một mình tự rót rượu uống hứng khởi, thầm nghĩ Phượng Cửu bản tính sôi nổi, ngày ngày phải ở lỳ trong điện Thanh Vân cũng không hay, ra ngoài hoạt động mới tốt, mới phù hợp bản tính của người trẻ tuổi, vì vậy chỉ dặn vài câu, nhắc nàng cẩn thận.

Nhưng lời dặn của cô cô đã vô ích, đêm nay Phượng Cửu uống rượu rất thoải mái. Có vị thần tiên nào mang rượu đến kính, nàng đều một hơi uống cạn. Chúng tiên đều trầm trồ tán thưởng. Có câu, tính cách người ta bộc lộ qua uống rượu, cho nên ai cũng nghĩ vị nữ quân này tính cách phóng khoáng, mạnh bạo không câu nệ lễ nghi, chúng tiên muôn phần khâm phục. Nhưng điều đó quả thật là hiểu lầm. Thực ra rượu dùng cho dạ yến tối nay là loại rượu hoa quả, rượu này vị thanh, ngấm lâu nhưng rất mạnh. Phượng Cửu đâu có biết, cứ nghĩ đó là loại nước quả nào đó, cảm thấy uống nước quả mà cũng khép nép đoan trang, đâu phải là phong cách của Thanh Khâu Phượng Cửu này… Ngoài ra, còn điều nữa, nàng cảm thấy tối nay tâm hỏa hơi vượng, nên muốn dùng nước quả để giảm nhiệt.

Nhưng uống mãi uống mãi, cảm thấy hơi choáng, đầu óc bỗng u mê không rõ lúc này là ngày nào, tháng nào, năm nào, đây là đâu, những người xung quanh là ai. Chỉ láng máng nghe ai đó nói, tiệc tàn, sau đó rất nhiều vị thần tiên lần lượt đến chào cáo lui, thần trí nàng đã bắt đầu rối loạn, nhưng vẫn cố giữ vẻ điềm tĩnh đoan trang, đáp lễ từng vị.

Một lát sau, vườn thượng uyển đã tĩnh lặng không một tiếng người, chỉ còn dạ minh châu tỏa sáng giữa tán lá, cây vô ưu cành lá đung đưa đổ bóng lấp loáng trên mặt đất.

Phượng Cửu nhìn đăm đăm vào chén rượu trong tay. Tửu lượng của nàng thực ra rất tốt, cho dù say, người ngoài cũng khó nhận ra, chỉ có phản ứng hơi chậm một chút, thỉnh thoảng quá say thì không có phản ứng gì. Ví dụ như lúc này, nàng thấy đầu óc trống rỗng, mình là ai, ở đây làm gì, trong chiếc cốc nhỏ trong tay là thứ gì, nàng hoàn toàn không biết.

Phượng Cửu nếm thử một chút, nhận thấy mùi vị của nó rất an toàn, đột nhiên thấy hơi khát nước, lại thấy cái chén rượu nhỏ, nghĩ ngợi một lúc, muốn đổi sang cốc trà, rồi nghĩ lại, nên đổi sang ấm trà thì hơn… Đột nhiên có tiếng bước chân thong thả đi tới.

Hương bạch đàn thoang thoảng lan ra, tiếng bước chân dừng lại trước mặt nàng.

Nàng hiếu kỳ ngẩng đầu, nhìn thấy Đông Hoa đã đi rồi lại quay trở lại, mắt hơi cúi, ánh mắt dừng lại trên bàn tay nàng: “Nàng vẫn còn ở lại đây làm gì?”.

Vừa nhìn thấy chàng, đầu óc nàng nãy giờ vốn đã u u rối loạn, tức thì bừng tỉnh, đột nhiên nhớ ra chàng là ai, mình là ai. Ký ức của ba trăm năm trước thực kỳ lạ, những chuyện xảy ra trong ba trăm năm ấy nàng không nhớ gì hết, chỉ cảm thấy lúc này nàng vẫn ở trong cung Thái Thần, còn người đàn ông dung mạo tuấn tú, có mái tóc trắng và đôi mắt sâu thâm trầm này là Đông Hoa, mà nàng là con tiểu hồ ly rất thích chàng, tìm mọi cách cuối cùng được ở bên chàng.

Nàng thẫn thời nhìn chàng hồi lâu, rồi chìa cốc trà trong tay cho chàng xem: “Uống nước quả thôi mà”.

Đông Hoa cúi xuống ngửi chiếc chén nàng chìa ra, rồi ngẩng nhìn nàng: “Đây là rượu”.

Nàng lại nhìn chàng lần nữa, mặt đầy băn khoăn, thấy tay chàng cầm vật gì trông tựa tháp ngọc, lập tức bỏ qua vấn đề rốt cuộc mình đang uống gì, do dự hỏi chàng: “Có phải chàng định đi giao đấu với ai?”. Suy nghĩ một lát lại nói: “Vậy hãy mang thiếp đi, thiếp sẽ không làm phiền chàng”. Nàng quên mất hiện mình đã là con người, vẫn tưởng còn là tiểu hồ ly để chàng thoải mái ôm vào lòng, khoát tay ra hiệu: “Thiếp bé tý thế này chàng nhét vào đâu chẳng được”.

Chiếc trâm hoa trên đầu hơi lỏng, rơi “cạch” xuống mặt bàn. Đông Hoa ngồi xuống bên cạnh, tiện tay nhặt lên, đưa cho nàng: “Nàng say rồi”.

Nàng đăm đăm nhìn chiếc trâm, nhưng không nhận ra, lại nhìn sang chỗ khác, nghĩ một hồi, ngoan ngoãn gật đầu “Có thể hơi một chút”. Lại ôm đầu nói: “Chóng mặt”. Có lẽ do chóng mặt, người từ từ đổ sang bên.

Đông Hoa đưa tay đỡ, thấy nàng đã ngồi thẳng, mới nói: “Còn nhớ đường không? Ta đưa về”.

“Nói dối”. Nàng cầm cái chén ngơ ngẩn một hồi, nói như trong mộng: “Hồi đó chàng định đi xử…”, ngây người, ôm đầu nghĩ một lúc, “Người đó tên gì nhỉ?”. Giọng tủi thân: “Chàng bảo thiếp cứ ở đó đợi chàng, sau đó chàng không quay lại”. Rồi gay gắt lên án, “Cuối cùng vẫn là thiếp đi tìm chàng”.

Đông Hoa đang ngắm nghía làm thế nào cài chiếc trâm cho nàng, vừa ướm lên tóc mai, vừa nghi hoặc hỏi: “Chuyện xảy ra khi nào?”.

Nàng cúi đầu ngoan ngoãn để cho Đông Hoa cài trâm cho mình, nghe vậy ngước lên: “Cách đây chưa lâu”. Đông Hoa nói: “Ngồi yên”. Nàng ngoan ngoãn ngồi yên, nhưng lại nói chắc chắn: “Thiếp không nhớ nhầm đâu”. Rồi nói thêm: “Trí nhớ thiếp rất tốt”. Sau đó kết luận: “Hồ ly bọn thiếp trí nhớ đều rất tốt”.

Đông Hoa cài bông hoa ngay ngắn lên tóc mai của nàng, ngắm nghía một lúc, lên tiếng: “Nàng lại nhận nhầm người rồi ư? Ta là ai?”.

“Đế Quân”. Nàng đứng lên, đôi mắt to đen đăm đắm nhìn chàng, dường như nhớ ra điều gì, lại nói: “Đông Hoa, nhưng chàng rất xấu”.

Nghe nàng gọi thẳng tên mình, chàng có phần ngạc nhiên, lại thấy buồn cười nhìn nàng hỏi: “Tại sao?”.

Nàng thật thà nói thẳng: “Chàng nói thiếp chỉ là con thú cưng chàng nuôi trong nhà”. Mắt thoáng ướt: “Lúc thiếp bỏ đi, chàng cũng không giữ lại”.

Đông Hoa ngẩn người, nói: “Ta không nhớ rõ, ta…”. Còn chưa nói hết, nàng lại lảo đảo, ngã vào ngực chàng, thì ra đã quá say.

Đông Hoa cúi nhìn nàng, những lời vừa rồi của nàng, đương nhiên nói sảng, không cần bận tâm. Ánh sáng xanh từ dạ minh châu phủ lên mặt nàng, chàng chưa bao giờ nghĩ, lúc say nàng lại như thế, thì ra nàng cũng có lúc ngoan ngoãn như vậy.

Đông Hoa ôm nàng vút lên không, định đưa về điện Thanh Vân, thấy nàng vô ý thức vùi đầu vào ngực mình, bàn tay ngọc níu chặt vạt áo chàng, dấu hoa phượng vũ trên trán đỏ chói muôn phần diễm lệ, gương mặt phấn hồng khả ái vô tội, hoàn toàn không giống một nữ vương tôn quý uy nghiêm. Mà lại hơi giống…Vừa rồi nàng nói gì nhỉ? Chàng nghĩ lại, à đúng rồi, giống con thú cưng.
 
Tham gia
6/7/19
Bài viết
101
Điểm cảm xúc
41
Điểm
28
Sáng sớm hôm sau, Phượng Cửu xoa thái dương bước ra khỏi điện Khánh Vân, trong tay còn cầm chiếc áo chùng đàn ông màu tím, đầu óc ong ong, u u, mơ màng hỏi Cục bột nhỏ: “Cái gì đây?”.

Cục bột nhỏ đang ngồi dưới cây tử đằng trong sân ăn sáng cùng song thân, nghe vậy miệng ngậm cái thìa, ngắm nghía một hồi lâu, nắm đấm tay phải đấm mạnh vào tay trái, dường như đã nhận ra nói: “Đó là áo ngoài của Đông Hoa ca ca.”

Dạ Hoa Quân, phụ thân của Cục bột nhỏ tay đang cầm đũa chợt dừng lại, nhíu mày nói: “Lúc còn nhỏ, ta gọi Đông Hoa là thúc thúc.”

Cục bột nhỏ há hốc miệng, rồi ngậm lại, cúi đầu bấm đốt ngón tay nhẩm tính.

Phượng Cửu sững sờ đứng ngây, nhìn chằm chằm vào chiếc áo chùng tím trong tay, đoạn bước đến trước cửa ngẩng nhìn xem có ba chữ “Điện Khánh Vân” hay không, rồi quay lại nhìn Cục bột nhỏ, miệng lắp bắp: “Sao… sao lại thế này?”.

Bạch Thiển đang múc bát cháo thứ hai cho Cục bột nhỏ, nghe vậy liền trấn an: “Cũng không phải chuyện gì lớn, đêm qua con uống say, Đông Hoa có lòng tốt đưa con về điện Khánh Vân, nhưng con say quá, nắm chặt vạt áo chàng ta nhất định không buông, gọi mãi không tỉnh. Chẳng biết làm gì, chàng ta đành cởi áo ngoài để lại đấy”.

Phượng Cửu nghĩ một lúc, nói thẳng: “Chắc chàng cũng chỉ là tiện đường thôi, chẳng phải chuyện gì mờ ám, thế cũng tốt, không phương hại đến thanh danh của con, cũng chẳng phương hại đến thanh danh chàng”.

Bạch Thiển phân vân nhìn nàng: “Nhưng, con cũng biết Đông Hoa không thể ngủ lại điện Khánh Vân, áo ngoài thì đã cởi cho con, chàng ta cũng ngại, vả lại điện Khánh Vân không có xiêm y phù hợp với chàng ta, Cục bột nhỏ liền tới chỗ ta mượn xiêm y của Dạ Hoa”.

Phượng Cửu gật đầu nói: “Thế cũng phải”. Nói đoạn, bước đến định dùng bữa với mọi người.

Bạch Thiển ho một tiếng, nói tiếp: “Ta… ta ngủ hơi say, Cục bột nhỏ đứng ngoài sân, nói hơi to, e là cả cung Tẩy Ngô đều nghe thấy…”.

Phượng Cửu dừng bước, quay lại nhìn A Ly: “Đệ nói thế nào?”.

A Ly Cục bột nhỏ dẩu môi lẩm bẩm: “Chỉ nói thật thôi”.

Phượng Cửu thở phào.

A Ly diễn lại cảnh đêm qua: “Đông Hoa ca ca ôm Phượng Cửu tỷ tỷ về điện Khánh Vân, Phượng Cửu tỷ tỷ níu chặt huynh ấy nhất định không buông, Đông Hoa ca ca liền bế tỷ tỷ một lúc. À, còn cởi cả xiêm áo, nhưng huynh ấy không có đồ thay, cho nên con đến mượn của phụ thân. Mẫu thân, có phải phụ thân lại đến chỗ mẫu thân không…?”. Rồi phẩy tay nói với Phượng Cửu: “Đệ nói như thế đó”.

Phượng Cửu ngã nhào từ thềm điện xuống.

Hơn hai trăm năm qua, ngay từ khi Phượng Cửu thừa kế đế vị từ cô cô Bạch Thiển. Thượng thần Bạch Dịch ngày đêm nóng lòng muốn tính chuyện hôn sự cho con gái. Là phụ thân của nàng, ngài e Phượng Cửu tuổi còn nhỏ đã phải gánh vác trọng trách nữ vương, khó lòng trấn quản cả tứ hải bát hoang rộng lớn, luôn muốn tìm cho nàng đấng phu quân tài trí, có thể hỗ trợ nàng.

Thâm tâm ngài không có thiện cảm với Cửu Trùng Thiên, chỉ vì Phượng Cửu tuy là nữ nhi nhưng tài mạo vô địch Thanh Khâu, bất đắc dĩ, ngài mới phải lựa chọn rể hiền ở Thiên Cung. Nhân dịp tham dự đại hôn của Bạch Thiển, ngài lệnh cho Phượng Cửu đi theo, còn phải lưu lại Thiên Cung một tháng, bề ngoài thì thể hiện sự quan tâm của nhà gái, nhưng bên trong ngầm ý để Bạch Thiển quan tâm đến sao Hồng Loan của cô cháu gái. Ngài nghĩ, như thế cũng là dịp để Phượng Cửu gặp gỡ những trang nam tử tuấn tú tài hoa, mở rộng đường nhân duyên của nàng.

Phượng Cửu ở Thiên Cung một tháng, sao Hồng Loan vẫn mờ mịt, nhưng bản tính con trẻ lại tăng gấp bội. Tính ra chỉ còn ba ngày nữa là phải về Thanh Khâu, cảm thấy không nên uổng phí thời gian, nàng liền dành mấy ngày cuối đi dạo khắp Cửu Trùng Thiên, đem theo A Ly Cục bột nhỏ đến thẳng Hỷ Thiện Thiên là nơi phong cảnh đẹp nhất Cửu Trùng Thiên.

Bên cạnh khóm hoa câu tô ma phía sau Thiên môn, một đám tiểu tiên đang tụ tập cá cược gì đó, từ sau dạ tiệc ở vườn thượng uyển bị A Ly hét toáng như vậy, mấy ngày nay Phượng Cửu luôn để ý tránh thị phi, không dám đến những chỗ đông người, nhưng lại không kìm được hiếu kỳ, liền bảo A Ly lại gần ngó xem, còn mình trốn phía sau cây trầm hương đại thụ, phe phẩy chiếc khăn tơ, nằm hóng mát.

Cây trầm hương đại thụ mà nàng nằm hóng mát dưới gốc chính là cây lớn nhất, là đại vương thụ của rừng trầm hương, đã có tuổi thọ vạn vạn năm, cao to sum suê tốt rợp trời.

Thật không may, đó là chỗ nghỉ ngơi hàng ngày của Đông Hoa Đế Quân.

Thật không may, hôm nay Đông Hoa lại ngồi trong bóng râm khuất sau thân cây nghiên cứu kinh Phật.

Thật không may, một cơn gió mang hương trầm ngào ngạt thổi qua, khiến Phượng Cửu hắt hơi một cái, làm kinh động Đông Hoa đang chú mục lần giở kinh Phật, chàng hơi dịch cuốn kinh thư sang bên, ngước nhìn, ánh mắt dừng lại trên người nàng. Phượng Cửu tinh thần vốn vững vàng, chẳng hề giật mình chút nào, vẫn ung dung nằm chờ A Ly quay lại.

Lát sau, A Ly từ chỗ đám cá cược lao đến như cơn lốc, chắp tay vào cái eo béo tròn, thở dốc hai hơi, lắp bắp nói: “Họ đang đặt cược từ xa, họ cược… Đông Hoa ca ca… à, thúc thúc, à gia gia[1]…”, A Ly lúng túng liên tục sửa lại cách xưng hô: “… Họ đang cược sau này Đông Hoa sẽ lập tỷ hay công chúa Tri Hạc làm đế hậu!”.

[1] Gia Gia: Ông.

Phượng Cửu một tay bám vào cây trầm hương phía sau, tay kia lau lau mồ hôi lạnh đang túa ra trên trán, trấn tĩnh nói: “Đệ còn nhỏ biết thế nào là cược từ xa?”.

A Ly mặt ỉu xìu phụng phịu: “Đệ không biết, nhưng đệ rất hiếu học, liền hỏi một vị tiểu tiên ca ca cùng đứng xem bên ngoài. Cuối cùng tiểu tiên đó cũng không nói rõ được gì, chỉ cho biết đã có hai mươi lăm quan đặt cược vào công chúa Tri Hạc, chỉ có ba quan đặt vào tỷ, tiểu ca ca đó còn nói, ca ca khinh suất đặt nhầm cửa”. Rồi rầu rĩ nói tiếp: “Đệ chưa hiểu thế nào, nhưng không nỡ để tỷ đợi lâu, mới lặng lẽ chuồn đi. Trước lúc chuồn, còn thấy tiểu ca ca đó thảo luận với ca ca khác xem có thể đem ba quan cược cho tỷ chuyển sang cược cho công chúa Tri Hạc không”.

Phượng Cửu trầm ngâm hồi lâu, lôi trong tay áo ra một cái túi màu vàng, đổ ra là một đống hồng bảo thạch lấp lánh lóa mắt, lại tháo trên cổ sợi dây trang sức bằng đá lục lam chạm khắc rất đẹp, sau đó tháo nốt miếng ngọc bội màu lam chạm trổ hình phượng đeo ở thắt lưng, gom hết lại đưa hết cho A Ly, trịnh trọng nói: “Đệ đem hết đi mua cho tỷ hai trăm ván”. Ngừng một lát lại nói: “Tất cả đều đặt vào tỷ”.

A Ly nhận túi châu báu ngắm nghía một hồi, kinh ngạc, hỏi: “Đệ còn nhỏ thế này, tỷ đã dạy đệ ăn gian sao?”.

Phượng Cửu liếc Cục bột nhỏ, hạ giọng nói nhỏ: “Phàm là thần dân Thanh Khâu hành sự đều đứng đầu, tỷ tỷ của đệ không chịu đứng dưới người khác, đó là khí độ quân vương, không tin, đệ nghĩ lại xem”.

A Ly chẳng buồn nghĩ nói ngay: “Đệ nghe tiểu cữu cữu nói thành tích học của tỷ chưa bao giờ đứng đầu, toàn đứng dưới người ta, còn có mấy môn học đứng cuối cơ!”.

Phượng Cửu ho một trận: “Là đấng trượng phu có thứ cần làm, có thứ không, sự học của đệ chẳng phải cũng thế”.

A Ly làu bàu: “Nói bừa, đệ trước giờ chưa bao giờ đứng cuối”.

Phượng Cửu rùng mình, dường như nhớ lại ký ức đáng sợ: “Đó là vì đệ chưa học tới Phật lý, đệ không biết, nó khó thế nào đâu”.

A Ly rùng mình lo lắng: “Khó vậy sao?” Lại hình như không tin: “Nhưng đệ thấy Đông Hoa ca ca… À, thúc thúc, à, gia gia, thường cầm một quyển kinh Phật, vừa câu cá vừa xem chơi!”.

Phượng Cửu im lặng một lúc, thật lòng khen: “… Quá kỳ dị…”. Vừa nói xong, một làn gió thổi tới, mang theo mùi trầm hương ngào ngạt, khiến nàng khổ sở hắt hơi liền mấy cái, không chịu nổi, bịt mũi chạy hai ba bước, mới nhớ ra, ngoái đầu dặn A Ly, “Mùi hương này tỷ chịu không nổi, tỷ đến rừng hoa phía trước chờ đệ”.

Trên cây trầm hương, Liên Tống nhàn rỗi, liền mang thanh kiếm Thương Hà đã mài xong đưa đến cho Đông Hoa, đúng lúc nghe được lời nhận xét thật lòng kia của Phượng Cửu. Đợi hai người đi xa mới phe phẩy chiếc quạt ngắm Đông Hoa một hồi: “Hiền huynh đã làm gì để được nàng khen như vậy?”.

Đông Hoa gấp cuốn kinh Phật, thản nhiên nói: “Khen ư? Thành Ngọc cũng khen đệ như vậy sao?”

Liên Tống vuốt mũi: “A! Nàng luôn luôn khen đệ là kẻ vô lại”.

Hôm nay vừa ra khỏi cửa, Phượng Cửu đã cảm thấy xui xẻo.

Cửu Trùng Thiên lẽ ra phải là nơi may mắn, nhưng lúc ra đến cửa điện Khánh Vân nàng đã nhìn thấy hai con quạ liệng một vòng trên đầu, lại còn “bộp bộp” thải xuống hai bãi phân. Tất nhiên, chuyện nhỏ đó không đủ làm vơi nhiệt tình vui chơi của nàng. Ngay sau đó, đi đến cửa Tam Thập Tam Thiên lại gặp đám tiểu thần tiên đưa mình ra đánh cược với Tri Hạc, hơn nữa mình còn thua không ít. Tất nhiên, ngay cả chuyện đó cũng không đủ làm giảm hứng thú vui chơi của nàng. Nhưng liền sau đó, khi Phượng Cửu tìm được một chỗ thanh tĩnh để nghỉ chân, thì mùi trầm hương nồng nặc xông tới, mũi nàng xưa nay vốn rất mẫn cảm với mùi trầm hương, bây giờ ngứa ran, hắt xì liên tiếp.

Hàng loạt xui xẻo đó chứng tỏ hôm nay không thích hợp xuất hành, nhưng cảnh xuân phơi phới như thế, nếu quay về phủ e quá uổng phí. Sau một hồi chạy thục mạng, nàng lại rẽ vào một rừng hoa nhỏ an toàn, tĩnh mịch, lại nghĩ mặc dù xui xẻo, nhưng dù gì cũng đã để A Ly vãn hồi vận xui của mình trong vụ cá cược kia, nghĩ vậy tinh thần lại phấn chấn, chuẩn bị du xuân. Bỗng từ bụi cây bên ngoài một giọng nói ung dung vẳng đến.

Tiếng nói lẫn trong tiếng gió thoảng qua, truyền thẳng vào tai nàng. Phượng Cửu vừa thầm niệm “A di đà Phật” vừa nghĩ, xem chừng vận đen của mình hôm nay sẽ kéo dài vô tận.

Gần đây nàng đã định cho mình một nguyên tắc, mấy ngày còn lại ở Cửu Trùng Thiên, đề phòng bất trắc, cần hết sức tránh Đông Hoa, nàng đã nghiêm túc tuân thủ nguyên tắc đã định, luôn thận trọng, ai ngờ ở khu rừng khuất nẻo, bé tý này lại chạm trán chàng ta, không hiểu là duyên phận gì! Nàng nghiêm mặt dặn A Ly: “Nếu lát nữa Đế Quân đi qua hỏi, đệ cứ nói chỉ có mình đệ đến đây bắt bướm”. Vừa dứt lời liền biến thành chiếc khăn lụa trắng muốt, yên lặng nằm trên mặt chiếc bàn chạm bằng bạch ngọc Nam Dương.

Từ sau bụi cây bà la có hai người bước ra, là Đông Hoa và Liên Tống.

Phượng Cửu mặc dù đã biến thành chiếc khăn, nhưng vẫn nghe được, nghe tiếng bước chân đang tiến đến, hai người đang thong dong chuyện phiếm.

Liên Tống nói đùa: “Nghe nói mấy hôm trước huynh đã chấp nhận chiến thư của Yến Trì Ngộ, ngày mai định đến núi Phù Vũ tham chiến, Trọng Lâm còn mang kiếm Thương Hà đến nhờ đệ mài, sao đệ không nhận thấy huynh có vẻ sắp tham chiến?”.

Đông Hoa lơ đãng nói: “Thần kinh ta rất vững”.

Liên Tống không thăm dò được tin gì hay, vuốt mũi cười khan, rồi chuyển sang chuyện khác: “Nói xem, năm xưa khi đúc thanh kiếm Thương Hà hiền huynh nghĩ gì? Chỉ một mảnh bằng bàn tay mà có thể khắc hơn một vạn rãnh, còn đục hơn năm ngàn lỗ nhỏ đều nhau trên đó. Khiến đệ mất bao nhiêu công sức mài giũa, không phải huynh có trò gì bí mật chứ?”

Đông Hoa nhớ lại: “Chẳng có gì bí mật hết. Chỉ nhàn rỗi nghịch chơi”.

Liên Tống yên lặng một lát, lại cười tiếp: “Bộ dạng quái quỷ này của huynh mà lại được cả tứ hải bát hoang ca tụng suốt mấy vạn năm, những là huynh thanh tịnh vô vị, chính trực, khí khái, vậy mà không bị ai vạch trần. Trọng Lâm thật đáng khâm phục”. Ngừng một chút lại tiếp: “Đệ đặc biệt nghi ngờ rốt cuộc không hiểu sao Trọng Lâm có thể làm được như thế”.

Đông Hoa trầm ngâm nói: “Ngươi nói vậy…”.

Liên Tống ngạc nhiên: “Thế nào?”.

Đông Hoa tiếp tục: “Ta cũng thấy Trọng Lâm quả đáng khâm phục”.

Liên Tống: “…”.

Ngọc thể của Phượng Cửu nằm thẳng đơ trên bàn, nghe tiếng bước chân của hai người đã tới sát bên tai, trong lòng thực ra hơi phấp phỏng, ma xui quỷ khiến thế nào nàng lại biến thành chiếc khăn, kể cả định trốn bọn họ, biến thành chiếc khăn cũng không phải thượng sách, huống hồ lại là chiếc khăn trắng như tuyết, để trên chiếc bàn trắng như tuyết, nhất định bất thường, chẳng phải chỉ cần liếc mắt cũng bị phát hiện?

A Ly đứng một bên hành hai lễ chào hai vị tôn thần, ngoan ngoãn gọi Đế Quân là gia gia, rồi lại nói chữa thành tam gia gia. Liên Tống đã lâu chưa gặp tiểu bối này, vui vẻ xoa đầu A Ly, nhân tiện hỏi han vài câu về sự học của nó. Cục bột nhỏ nghiêm trang trả lời từng câu xong xuôi, ngẩng đầu ngẩn ra, nhìn chiếc khăn vốn là Phượng Cửu biến thành đang bị Đông Hoa cầm trong tay lật qua lật lại ngắm nghía.

Liên Tống quay lại hỏi: “Gì vậy…”.

Đông Hoa mặt thản nhiên như không trả lời: “Ta đánh mất chiếc khăn, tìm suốt mấy ngày nay”.

A Ly tròn mắt hốt hoảng, muốn phản bác, nhưng lại nhớ lời dặn của Phượng Cửu, miệng vừa há liền ngậm lại. Nhìn Đông Hoa thong dong gấp Phượng Cửu tỷ tỷ, cậu nhăn nhó, ngập ngừng, có vẻ thương xót nói: “Người… người nhẹ tay một chút, Phượng… Chiếc khăn có thể sẽ bị đau…”

Liên Tống nghi hoặc chỉ cán quạt vào tay Đông Hoa: “Những vật này, rõ ràng là vật dụng của các nữ tiên, sao lại…?”.

Đông Hoa mặt thản nhiên, gấp chiếc khăn bỏ vào ống tay áo: “Nghe đồn ta là người kỳ dị, người kỳ dị dùng khăn của tiên nữ, thì có gì kỳ quặc?”.

Chiếc khăn trong tay áo bỗng rung rung, Liên Tống thấy lạ, liền đi đến nhìn kỹ vào ống tay áo Đông Hoa, trở lại chỗ ngồi, cười ha ha nói: “Không kỳ quặc, ha ha, quả thật chẳng có gì kỳ quặc”.

Phượng Cửu bị gấp để trong tay áo Đông Hoa, suốt đường cảm thấy ngột ngạt khó thở.

Nếu thời gian quay lại, nàng nghĩ nhất định nàng phải cân nhắc thật kỹ, ít nhất cũng biến thành cái cây, cho dù Đông Hoa tu luyện phi phàm, liếc mắt cũng nhận ra, nàng cũng không tin chàng có thể đem nhổ nàng đem về.Nhưng giờ sự thể đã vậy, muốn thoát thân cũng khó, trừ khi nàng bỏ qua thể diện của Thanh Khâu, biến trở lại thành nữ vương Thanh Khâu trước mặt chàng. Nhưng chắc chắn chàng đã nhận ra nàng là ai, ắt đang chờ đùa giỡn nàng một phen. Nếu nàng chỉ là người bình thường, mất thể diện một chút cũng chẳng sao, đằng nào nàng cũng đã quen với những chuyện như thế. Nhưng hiện nàng đường đường là nữ vương Thanh Khâu, làm gì cũng phải nghĩ đến thể diện của Thanh Khâu, nếu chuyện này truyền ra bị phụ thân biết, nhất định không thể tránh một trận đòn. Nàng âm thầm hối hận, lại lặng lẽ suy nghĩ một hồi, quyết định tiếp tục ẩn mình không hiện nguyên hình, có chết cũng không nhận mình là Phượng Cửu nữ vương Thanh Khâu, chỉ hóa thành chiếc khăn giản dị, hy vọng không làm Đông Hoa hứng thú, cuối cùng sẽ quẳng đi.

Mọi việc suy nghĩ ổn thỏa, nàng mới cảm thấy nhẹ nhõm, vừa rồi để không bị phát hiện, nàng đã đóng tứ giác[2], vì lúc này do hơi khó xác định phương hướng, liền xuất một ít công lực, mở thiên nhãn để nhìn cho rõ.

[2] Tứ giác: thị giác, thính giác, khứu giác, vị giác.

Mắt chớp chớp, nhìn rõ ràng đã đến cung của Đông Hoa, hình như đây là hậu viện, chỉ thấy bồ đề vãng sinh, xanh tốt mọc tràn lan khắp bức tường, giống như bức bình phong xanh thẫm. Dây leo mơn mởn rung rinh, bên cạnh cửa vòm hiện ra một bóng áo ngân bạc như ánh trăng, chính là Chiết Nhan, vị thượng thần xưa nay luôn ẩn dật trong rừng đào mười dặm không màng hồng trần, đi sau là Cục bột nhỏ A Ly nhảy nhót như một cơn lốc nhỏ.

Phượng Cửu sửng sốt, ngẫm nghĩ một lát, đột nhiên cảm phục sự nhanh trí của Cục bột nhỏ, cảm thấy tiểu tử đó thật thông minh đi cầu cứu Chiết Nhan, vị thượng thần có phẩm vị cao nhất lại hay bảo vệ kẻ yếu, mà không đi tìm Bạch Thiển luôn thích trêu chọc nàng, vừa rồi đã coi thường tình tỷ đệ của hắn, lúc này bỗng thấy bội phần yêu quý biểu đệ nhỏ tuổi đó.

Chiết Nhan hàn huyên một lúc, tán thường vài câu về khu vườn của Đông Hoa đang trầm trồ khen chiếc lư hương chạm hình linh thú cát tường chế tác công phu bên cạnh chàng, liền bị Cục bột nhỏ đá chân, kéo áo, mới vòng vo, từ từ chuyển sang mục đích chính, nói với Đông Hoa: “Không giấu hiền huynh, hôm nay đến quấy rầy phủ đệ của hiền huynh, kỳ thực, là có chút việc nhỏ”.

Nói đoạn, đẩy A Ly đứng sau lưng ra phía trước, lại tiếp: “Tiểu tử này nhân lúc ngu đệ nghỉ trưa, lấy trộm cái khăn thêu ngu đệ mang đến định tặng mẫu thân nó, vừa rồi ủ rũ chạy về, hỏi ra mới biết đã làm mất cái khăn, nói là hiền huynh nhặt được”.

Dừng một lát, lại than thở: “Nếu là chiếc khăn tầm thường cũng chẳng sao, nhưng lại là chiếc khăn bà ngoại hiện đã vân du của tiểu tử này có lòng thêu tặng mẫu thân nó, nhờ ngu đệ nhân chuyến lên Thiên giới lần này mang đi giúp, có ý nghĩa đặc biệt, thế nên ngu đệ mới đến đây, quấy rầy hiền huynh, xin lại chiếc khăn”.

Phượng Cửu vốn đang lo Chiết Nhan không phải đối thủ của Đông Hoa, nếu vừa mở miệng đã khách khí hỏi: “Chẳng hay hôm nay hiền huynh có nhìn thấy chiếc khăn thêu?”. Nàng dám mười phần chắc chín, Đông Hoa sẽ mặt tỉnh khô trả lời: “Ta không nhìn thấy”. Nhưng vừa rồi cách nói của Chiết Nhan rõ ràng chặn đứng đường lùi của Đông Hoa, muốn phủ định cũng khó. Phượng Cửu bội phần khâm phục, Chiết Nhan quả không thẹn là củ gừng già, càng già càng cay.

Nằm trong tay áo của Đông Hoa, nàng vừa háo hức nghe chuyện, vừa đợi Đông Hoa bất lực, đành phải lấy nàng ra, hai tay dâng nàng cho Chiết Nhan. Nhưng hiển nhiên nàng đã đánh giá thấp khả năng lì lợm của Đông Hoa, mấy ngón tay thon thả của chàng vừa lướt qua nàng, chớp mắt đã biến ra một chiếc khăn thêu giống hệt, cũng được gấp ngay ngắn, đưa cho Chiết Nhan, thản nhiên: “Vừa rồi ở khu rừng Hỷ Thiện nhặt được cái này, không biết có phải của thượng thần không”. Nói đoạn mở nắp lư, bỏ thêm hương vào, lại nói tiếp: “Nếu không phải, có thể đến cung Nguyên Cực tìm Liên Tống Nguyên Quân hỏi, có thể là ông ta nhặt được”.

Chiết Nhan ngắm nghía chiếc khăn, không tiện nói là đúng, cũng không tiện nói không, đâu ngờ mình tu tiên mấy chục vạn năm, hôm nay xuất chiến lại thảm hại. Đúng lúc A Ly hắt hơi một cái, nước mũi ròng ròng, bèn cầm chiếc khăn tay nghe nói là cực kỳ ý nghĩa lau mũi cho nó, cười gượng nói: “Chỉ là một chiếc khăn, còn sợ hiền huynh lừa chiếm mất ư, hiền huynh ắt không làm việc thiếu đức đó, chiếc khăn này hẳn là thật rồi”.

Lại nhân tiện nói nịnh vài câu, rồi dẫn A Ly cáo từ.

Phượng Cửu buồn rầu nhìn theo bóng hai người đang rời đi, bởi vì vốn tai thính mắt tinh, thỉnh thoảng thậm chí có thể nhìn được cả ngàn dặm, tai theo kịp tiếng gió, láng máng nghe thấy giọng Cục bột nhỏ tức tối: “Sao thượng thần lại thất bại, không cứu được Phượng Cửu tỷ tỷ, thượng thần chưa dốc hết sức, từ nay trở đi ta không chơi với thượng thần nữa”.

Chiết Nhan ậm ừ, nói: “Đâu phải Đế Quân cướp mất tỷ tỷ của người, cớ chi ta phải dốc toàn lực trở mặt với ông ta? Có điều, năm trước xem mệnh cho Phượng Cửu, trong mệnh nhìn thấy phúc tướng, mà lại do chính điện hạ tạo ra, không chừng chuyển sang thân mệnh khác cũng nên”. Lại lẩm bẩm thêm một câu, “Nhưng, mấy vạn năm rồi ta chưa xem số mệnh, không biết lần này xem có chuẩn không”. Ngừng một chút, bỗng ngạc nhiên hỏi: “Ấy, Tiểu A Ly, ta xem mệnh, gần đây có phải tiểu tử ngươi đang rơi vào lưới tình?”.

A Ly tư lự một hồi, băn khoăn hỏi: “Lưới tình là gì?”.

Phượng Cửu âm thầm cắn đầu ngón tay, xem ra, tin mấy lời phán mệnh quái quỷ của Chiết Nhan thà tin vào mình còn hơn. Lòng bất giác thở than, dù là người hay là tiên, lúc gặp nạn quả nhiên chỉ có thể dựa vào bản thân mà thôi.

Trong sân, hương bạch đàn ngào ngạt, Đông Hoa dùng que cời vụn tro trắng phau dập bớt lửa trong lư, đột ngột nói: “Còn định giả bộ đến bao giờ?”.

Phượng Cửu giật mình, quả nhiên chàng đã nhận ra, may vừa rồi nàng đã nghĩ được đối sách tuyệt diệu, lúc này mới có thể bình tĩnh đối phó.

Vì thế, nàng vô cùng bình tĩnh không trả lời.

Đông Hoa thong thả gác que cời sang bên, lôi chiếc khăn trong tay áo, giở ra soi trước ánh nắng, lúc sau, chậm rãi nói: “Hóa ra, biến thành khăn là hứng thú của nàng?”. Phượng Cửu cảm thấy kiểu suy luận đó thật kỳ quặc, nực cười, nhưng vẫn không lên tiếng.

Đông Hoa mỉm cười kín đáo, mặc dù chỉ lóe lên trong khóe mắt, nhưng Phượng Cửu nhìn thấy cũng sởn gai ốc, quả nhiên chàng ta nói: “Vậy thì tốt, ta đang thiếu chiếc khăn lau kiếm, từ nay làm phiền nàng rồi”.

Lau kiếm? Chính là thanh kiếm Thương Hà, một trong thượng cổ thập đại thần binh, uy danh chấn động tứ hải bát hoang, chém sắt chém đá mà như chém vào đất ư? Phượng Cửu cảm thấy răng mình đang va vào nhau, lúc này do quá kinh sợ đã nhất thời quên mất nên đối đáp thế nào, liền ngay đó đã bị Đông Hoa thu về gấp bỏ vào tay áo.

Phượng Cửu vốn định tính kế lâu dài, cho rằng bị nhốt ở chỗ Đông Hoa dưới hình hài chiếc khăn, thì chỉ cần thi gan nhẫn nại, rồi chàng cũng chán mà thả mình ra, đây là cách mềm dẻo, ổn thỏa nhất, không làm nàng mất thể diện. Đâu ngờ Đông Hoa sẽ dùng nàng làm khăn lau kiếm, nàng biết chàng đã nói là làm. Thật ra tứ hải bát hoang mấy năm gần đây rất thanh bình, hầu như không có chiến tranh, dù chàng có ý định đó cũng coi như không có cơ hội, trước khi ngủ chợt nhớ ra Đông Hoa đã tiếp nhận chiến thư của Yến Trì Hội, ngày mai e là chàng ta sẽ mang kiếm Thương Hà đi làm một cuộc đại tàn sát, bỗng rùng mình, bay vút lên, lơ lửng trên chiếc giường gỗ hoa lê. Suy nghĩ hết nửa tuần nhang, nàng quyết chí đêm nay phải tìm cách trốn đi.

Để tránh kinh động Đông Hoa, Phượng Cửu từ đầu đến cuối thận trọng không hiện nguyên hình. Muốn vén rèm trướng chui ra, nếu là người thì quá dễ dàng, nhưng vì là chiếc khăn quá mềm, không thể vén được bức rèm dài chấm đất. Cúi đầu nhìn thấy mái tóc trắng của Đông Hoa xõa trên gối ngọc, một chiếc chăn mây mỏng đắp ngang người, khuôn mặt đó, bất kể bao nhiêu năm vẫn đẹp như vậy, quan trọng là, có vẻ đang ngủ rất say. Trong hình hài chiếc khăn lụa, ngoài việc khai thông ngũ quan, nàng không thể vận ra pháp thuật nào để giúp mình trốn thoát. Cũng không hẳn không có cách, ví dụ có thể hiện nguyên hình, đồng thời làm phép khiến Đông Hoa ngủ lịm, nhưng nếu bị chàng phát hiện thì cũng khá rắc rối, nếu thất bại hậu quả không biết thế nào.

Phượng Cửu suy nghĩ một hồi, đêm thâu tĩnh mịch không một tiếng động, gan cũng trở nên to hơn, sau khi nghĩ thông, nàng cảm thấy không bị mất thể diện vẫn tốt hơn, nhưng mất thì cũng mất rồi, chuyện này nếu truyền ra ngoài, bất quá cũng chỉ phải chịu một trận đòn của phụ thân thôi, mà nàng đâu phải chưa từng bị đòn, thỉnh thoảng bị một trận cũng coi như ôn lại thời thơ bé mà thôi. Nghĩ đến đây, trong lòng bỗng dưng phấn chấn, vừa xoay người đã hóa thành một thiếu nữ xiêm y trắng muốt, ngón tay bắt quyết điểm nhẹ lên trán Đông Hoa. Chàng vẫn không có phản ứng gì. Nàng sững sờ nhìn tay mình, không ngờ thành công như thế, thảo nào nhân gian có câu, gan to chết no, gan nhỏ chết đói, nguyên do là vậy.

Tháng năm, về đêm vẫn còn hơi lạnh, mà cung Thái Thần xưa nay đầy hàn khí. Phượng Cửu vén rèm trướng, quay lại nhìn lần nữa Đông Hoa đang ngủ say, còn làm một việc tốt, cầm tay chàng để vào trong tấm chăn mây, nghĩ thế nào lại kéo chăn từ ngang eo lên tận cổ, chèn chặn cẩn thận. Xong xuôi, đứng dậy, không ngờ mái tóc đen dài của mình lại quấn chặt vào mái tóc trắng của chàng, kéo thế nào cũng không ra, không biết pháp thật đó kéo dài trong bao lâu, dứt khoát biến ra chiếc kéo, cắt phăng lọn tóc ấy, không kịp sửa lại cho bằng, đứng dậy thò đầu ra khỏi rèm. Ai ngờ do biến thành chiếc khăn quá lâu, cơ thể nhất thời mất thăng bằng, loạng choạng ngã vào bức bình phong trước giường, một tiếng “rầm” vang lên, Đông Hoa vẫn không tỉnh giấc. Phượng Cửu mừng thầm, lấy làm đắc ý vì phép thuật của mình có phần tiến bộ, lại lảo đảo đi ra cửa phòng.

Tới ngưỡng cửa, sực nhớ ra một chuyện, lại trịnh trọng lùi hai bước, hướng vào chiếc giường buông rèm liên tiếp làm mấy pháp thuật hôn mê, đến khi nhìn thấy xuất hiện khí trạch màu tím chứng tỏ người đang ngủ say, lan tràn khắp bức rèm màu xanh ngọc, ngay cả chậu cỏ cát tường đặt ở chân giường cũng hơi heo héo như buồn ngủ, mới yên tâm thu tay về, đóng cửa phòng, đi theo hành lang, rẽ vào một khu vườn nhỏ, nơi hàng ngày Đông Hoa thường ngồi chơi.

Đứng trong vườn, Phượng Cửu phất tay áo, lập tức biến ra một viên dạ minh châu to như quả cam, nhờ ánh sáng của nó, vội vàng tìm cây hàn thạch thảo năm xưa nàng trồng trong khu vườn này.

Nếu tối nay không vì những lầm lẫn nào đó mà vào cung Thái Thần, thì nàng suýt đã quên cây hàn thạch thảo quý giá ấy, thân rễ của nó chính là loại kỳ dược có thể giúp người ta quên đau khổ, hoa lại là một loại gia vị cao cấp. Năm đó Ti Mệnh đi Tây Phương nghe Phật Tổ thuyết pháp, lúc về có nhã ý mang tặng nàng, còn nói, đó là hạt giống cuối cùng trong tứ hải bát hoang mà ông ta tìm được ở Linh Sơn. Đáng tiếc khi đó nàng đã là một tiểu hồ ly ở bên cạnh Đông Hoa, với hình hài tiểu hồ ly chẳng có chỗ nào có thể cất giấu hạt giống, đành đem gieo nó trong vườn của Đông Hoa. Nhưng còn chưa đợi được đến khi cây hàn thạch thảo đơm hoa kết trái, nàng đã tự cắt đứt nhân duyên với Đông Hoa rồi rời khỏi Cửu Trùng Thiên. Bây giờ nghĩ lại hôm ấy nàng xiết bao đau đớn nên đã quên đem bảo bối này về, lòng bỗng lại xót xa, vậy là “mất bò mới lo làm chuồng” chạy đến lấy về.

Tìm một lúc lâu, cuối cùng nhìn thấy nó ở phía trong cùng một bồn hoa nhỏ, mọc khiêm nhường bên cạnh khóm sen tịnh đế, nàng thận trọng đào bới tránh làm tổn thương bộ rễ của nó, xong xuôi gói cẩn thận giấu trong tay áo, mọi việc đã hoàn thành mới ngẩng lên nhìn khu vườn trước mặt. Năm xưa khi nàng là tỳ nữ, bị công chúa Tri Hạc hành hạ, không có mảy may cơ hội được vào khu vườn này của Đông Hoa, tuy về sau biến thành tiểu hồ ly, ở bên Đông Hoa có thể ngày ngày vào đây tung tăng nhảy nhót, nhưng rốt cuộc thế giới trong mắt hồ ly cũng có khác so với thế giới trong mắt con người, thế giới hồi đó cũng khác bây giờ.

Phượng Cửu nheo mắt ngắm mãi khu vườn. Khu vườn tuy nhỏ nhưng hết sức độc đáo, phía trước có một thác nước cao cả trượng ngăn cách với khu vườn khác, hai mặt kia là bức tường gạch mọc đầy bồ đề vãng sinh, ban ngày nhìn không có gì khác so với các loại hoa lạ, nhưng ban đêm chúng lại lóng lánh phát sáng, bóng hoa trông giống những chiếc đèn lồng nhỏ, đẹp tuyệt vời, chả trách nó mang một cái tên rất mực tao nhã là Minh Nguyệt Dạ Hoa. Ở giữa khu vườn là một cây lá đỏ sừng sững vươn lên trời, bên cạnh là hồ sen nhỏ, phía trên hồ sen là ngôi lầu lục giác làm bằng gỗ bạch đàn. Nàng thở dài, đã nhiều năm trôi qua, nơi này vẫn không có gì thay đổi, lại là nơi có quá nhiều kỷ niệm.

Phượng Cửu không phải là thiếu nữ đa sầu, mặc dù những lúc tương tư Đông Hoa, thỉnh thoảng cũng uống chút rượu giải sầu, nhưng từ khi cắt đứt tơ tình chưa hề động đến một giọt rượu, ngay cả những hồi ức về Đông Hoa cũng phai lạt nhiều. Nhưng hôm nay bước vào nơi từng ghi đậm dấu ấn, trên trời lại điểm vài ngôi sao cô đơn, không khỏi gợi lên những hoài niệm xưa. Phượng Cửu thoáng sững sờ khi nhìn thấy bộ bàn ghế pha lê trong đình lục giác, thảng thốt nhận ra mình rất cố gắng mới nhớ được một đoạn kinh Phật, nhưng những ký ức thuộc về mấy trăm năm trước lại còn nhớ rõ đến vậy, quả thực tựa như chúng đang hiện ra trước mắt.

Kỳ thực, lúc Phượng Cửu ra khỏi Thập ác liên hoa cảnh, ở bên Đông Hoa suốt mười hai canh giờ khi khu vườn này vẫn chưa có đình lục giác.

Lúc đó đang là những ngày hè nóng nhất, bộ lông hồ ly trên người làm nàng nóng phát điên, thường ngồi hóng mát một mình trong chiếc thuyền nhỏ trên hồ sen, đầu đội hai chiếc lá sen to. Đông Hoa thấy bộ dạng khổ sở của nàng, mấy ngày sau chặt hai cây bạch đàn, tự tay dựng ngôi đình trên hồ sen, nền lát lớp pha lê mát lạnh để nàng hóng mát. Lúc nàng nằm lăn trên đó cảm giác vô cùng dễ chịu, lòng thầm thán phục tài của Đông Hoa. Về sau lại phát hiện tài năng của Đông Hoa không chỉ có thế, mà hương đốt cung Thái Thần sử dụng cũng do chàng tự tay làm, trà uống cũng tự trồng, ngay cả cốc chén uống rượu bằng gốm cũng do chàng làm, rồi rất nhiều bình phong trong cung cũng là do chàng vẽ. Phượng Cửu thầm suy tính, một mặt cảm thấy tự hào vì mình quả là có con mắt tinh tường; một mặt cũng thấy nếu có thể lấy chàng, trong nhà sẽ tiết kiệm không ít chi phí, càng suy tính, lại càng phấn khởi, lại càng thích Đông Hoa.

Cái sự thích của nàng thực dai dẳng và mù quáng, cảm thấy Đông Hoa cái gì cũng tốt, mỗi khi chàng làm xong món đồ nào, nàng luôn là người đầu tiên chạy tới ngắm nghía khen ngợi, dần dần, khiến Đông Hoa hình thành thói quen, làm được thứ gì, trước tiên đều đi tìm tiểu hồ ly đề nghị bình phẩm. Bởi vì chàng có rất nhiều thời gian, nên làm thứ gì cũng rất hoàn hảo. Thỉnh thoảng Phượng Cửu trộm nghĩ, bao nhiêu năm như vậy, có lẽ Đông Hoa luôn rất cô đơn.

Hôm đó quả thật là một ngày vô cùng bình thường, nàng nằm phơi bụng trong đình lục giác, vừa suy nghĩ làm thế nào chinh phục được Đông Hoa, vừa ôm cái bụng đói meo buồn rầu ngắm sao, càng ngắm càng đói, càng đói càng buồn. Bỗng nhiên ánh sao trước mặt tối lại, nàng chớp mắt, Đông Hoa tay cầm một chiếc đĩa sứ trắng đã ngồi trước mặt nàng, trong đĩa là một con cá sốt chua ngọt, đang bốc khói, tỏa mùi thơm.

Đông Hoa đặt cá xuống, liếc nàng một cái, không hiểu sao có vẻ đắn đo: “Ta làm đấy, vẫn còn nóng”.

Trước đây, nàng luôn buồn phiền vì nàng với Đông Hoa không có điểm gì chung, bởi vì những gì chàng biết, nàng hoàn toàn không biết, không ngờ, ngay đến biệt tài nấu ăn của nàng chàng cũng biết, có thể coi là đã tìm thấy điểm chung của hai cao nhân, cuối cùng cũng thấy yên tâm. Nàng có phần cảm động, đặt hai chi trước lên đầu gối chàng, nhẹ nhàng nhảy lên mặt bàn pha lê, đầu tiên dùng vuốt quệt ít nước xốt đưa lên miệng, chợt nhớ ra mình không phải trong hình hài con người, không thể ăn theo cách này, liền rụt chi lại, thẹn thùng dùng lưỡi liếm một miếng vào lườn con cá béo nục.

Đầu lưỡi vừa chạm vào nước xốt, liền dừng lại.

Đông Hoa tay chống má, chăm chú nhìn nàng: “Ngon không?”.

Nàng rụt lưỡi, nhưng miệng vẫn cắn miếng cá, thực sự cảm thấy món này vô cùng vô cùng vô cùng khó ăn. Nhưng đột nhiên nhớ tới câu chuyện cô cô kể ngày xưa. Chuyện rằng, có một người vợ không thạo nấu nướng, ngày đầu tiên về nhà chồng, thật lòng muốn nấu cho chồng một bữa cơm ngon, người chồng ăn hết một mâm thức ăn, tấm tắc khen ngon, lúc thu dọn bát đĩa người vợ cảm thấy không yên tâm, bèn nếm thử một chút nước canh, mới biết, người chồng đã nói dối để cho mình vui, đột nhiên cảm động rưng rưng, tình phu thê càng mặn nồng, để lại một giai thoại đẹp cho người đời.

Phượng Cửu nhắm mắt nghiến răng, chưa hết nửa tuần nhang đã chén sạch con cá, vừa ôm bụng quay về phía Đông Hoa nở một nụ cười mãn nguyện đặc trưng của loài hồ ly, rằng rất ngon, vừa hy vọng chàng quan sát kỹ sẽ phát hiện sự gượng gạo trong nụ cười mãn nguyện của nàng, mà nếm thử chút nước xốt, để hiểu nỗi ngượng ngập của nàng.

Đông Hoa quả nhiên giơ ngón tay ra, nàng nhẹ nhàng đẩy chiếc đĩa về phía chàng. Đông Hoa dừng lại, nàng lại đẩy đĩa tới, chàng gí ngón tay vào cái mũi còn dính nước xốt của nàng, ngắm nghía một lúc: “Sao… vẫn muốn ăn thêm đĩa nữa ư? Hôm nay hết rồi, ngày mai lại làm cho ngươi ăn”.

Nàng ngẩn ra nhìn chàng, mắt chớp chớp, đột nhiên cầm ngón tay chàng chấm vào nước xốt trên đĩa, cuối cùng chàng cũng hiểu ý nàng: “Không cần đâu, ta vừa nếm thử rồi”. Chàng nhíu mày, “Rất khó ăn”. Lại quay nhìn nàng: “Nhưng ta nghĩ hai loài khác nhau khẩu vị ắt có khác, nên mang đến để ngươi nếm thử”. Cuối cùng kết luận: “Quả nhiên, khẩu vị của hồ ly các ngươi thật khác thường”.

Phượng Cửu sững người, kêu lên một tiếng rồi ngã ra mặt bàn. Đông Hoa lo lắng hỏi: “Người muốn ăn vậy sao?”. Nói xong quay người bỏ đi, một lúc sau đã thấy trở lại, bê một đĩa nữa đặt trước mặt nàng. Chiếc đĩa lần này to gấp đôi đĩa lúc trước, bên trên là hai con cá béo mẫm nằm ngay ngắn song song. Phượng Cửu trợn mắt nhìn đĩa cá, kêu lên một tiếng, bò dậy, lại kêu lên một tiếng lăn đùng ra.

Từ đó về sau, mỗi buổi sáng, Đông Hoa lại tận tình đem đến cho nàng một con cá chép béo mầm, kỳ lạ là lần nào cũng đảm bảo mức độ khó ăn như nhau. Phượng Cửu thầm nghĩ, Đông Hoa là vị tiên hỷ nộ thất thường, nếu mình không ăn, làm chàng bẽ mặt, bề ngoài tuy không bộc lộ, nhưng sẽ để bụng, dần dần sẽ thành tâm bệnh thì thực đáng buồn. Nhưng cứ ăn mãi như vậy cũng không phải cách hay, quả thật Đông Hoa hiểu lầm nàng quá lớn.

Một ngày nọ, bà nội Thái Sơn đến thăm, vừa may bà cũng có một con thú cưng là một con hồ ly trắng. Phượng Cửu mưu mô, chia cho con hồ ly đó một nửa con cá ngay trước mặt Đông Hoa. Con hồ ly trắng dè dặt nếm thử nửa miếng, bỗng nó rướn cổ, kêu rống một tiếng, hai móng trước ra sức cào cấu yết hầu, cuối cùng nôn ra nửa miếng cá vừa ăn.

Phượng Cửu thông cảm nhìn con hồ ly trắng chạy như điên quanh sân như để tìm nước rửa ruột, chớp chớp mắt nhìn Đông Hoa, ánh mắt như nói: “Khẩu vị của hồ ly thực ra cũng bình thường, bữa nào thiếp cũng cố ăn, tất cả đều là vì chàng”. Đông Hoa đang rót trà, cầm quai ấm nhìn nàng một lúc, đăm chiêu như có gì suy nghĩ, chợt hiểu ra: “Ồ, hóa ra trong loài hồ ly khẩu vị của ngươi cũng khá đặc biệt”. Phượng Cửu giơ móng định lao vào chàng cào cho một trận, nghĩ sao lại ngây người, tuyệt vọng bước hai bước, cuối cùng không chịu nổi từ từ khuỵu xuống đất.

Mấy ngày sau, bộ lông đỏ mượt của Phượng Cửu bắt đầu rụng từng mảng bởi tài nấu ăn của Đông Hoa, nàng tuyệt vọng nghĩ, hy vọng để chàng phát hiện ra nỗi khổ của nàng quả là hết sức khó khăn, nàng cần tìm cách tự cứu mình. Suy đi tính lại, bây giờ ngoài nói thẳng ra chẳng còn cách nào khác. Nàng nghĩ có thể dụng hình vẽ để diễn đạt, hôm nay nàng cần lấy đủ dũng khí đối mặt với Đông Hoa, khẳng khái từ chối con cá chép béo mầm kia. Lúc đi ngang qua thư phòng, lại vô tình nghe thấy Liên Tống Quân rảnh rỗi qua chơi, trong câu chuyện với Đông Hoa, có nhắc đến nàng. Nàng cũng không cố ý nghe trộm, chỉ vì là hồ ly, thực sự có nhiều cái bất tiện, ví dụ, không thể bịt tai, nàng còn chưa kịp đưa hai chi trước ôm đầu, lời nói đã nhẹ nhàng bay vào tai.

Đầu tiên là tiếng Liên Tống: “Trước giờ chưa từng nghe hiền huynh có nhã hứng nuôi linh thú, sao bây giờ lại nuôi con hồ ly đó?”.

Tiếp đến là tiếng Đông Hoa: “Nó rất đặc biệt, ta với nó xem như là có duyên”.

Lại tiếng Liên Tống: “Huynh nói dối, đệ đâu phải chưa từng thấy những con hồ ly còn đẹp hơn, mấy nữ nhân của Bạch gia ở Thanh Khâu, dưới hình hài hồ ly đều là nhất đẳng mỹ nhân, con tiểu hồ ly lông đỏ kia có gì đặc biệt?”.

Tiếng Đông Hoa: “Nó cho rằng ta làm cá xốt chua ngọt rất ngon”.

Liên Tống ngập ngừng: “… Vậy nó quả thực rất đặc biệt”.

Câu chuyện dừng ở đó, ngoài cửa, Phượng Cửu sầu não nhìn hai nhúm lông trên người vừa rụng xuống, lòng vừa phiền muộn vừa ngọt ngào. Mặc dù rất nhiều chuyện hiểu lầm, nhưng Đông Hoa cũng hầu như không có ý muốn tìm hiểu tâm ý của nàng, có điều, xét câu nói vừa rồi của chàng, hình như nàng giả vờ thừa nhận tài nấu ăn của chàng, lại khiến chàng thích thú, có thiện cảm với nàng? Vậy, nếu lúc này mình nhảy ra, nói thẳng cho chàng biết tất cả đều là đánh lừa chàng thì… Nàng rùng mình, cảm thấy bất luận thế nào, đó cũng là một hiểu lầm tốt đẹp, chi bằng cứ để nó tiếp tục tốt đẹp như vậy. Tuy rằng, nếu tiếp tục ăn món cá xốt của chàng, có thể nàng sẽ bị rụng trụi lông, nhưng thế thì sao, cứ coi như vào mùa thay lông vậy.

Không ngờ, sự kiên trì đó, kéo dài đến tận cái đêm nàng nản lòng rời khỏi Cửu Trùng Thiên.

Một cơn gió mát lướt qua đỉnh đầu làm Phượng Cửu thêm tỉnh táo. Tuy hơn ba vạn tuổi ở Thanh Khâu cũng chỉ coi là bậc tiểu bối, nhưng trải qua ít nhiều tình cảm chốn hồng trần, tuổi nhỏ nhưng nàng cũng ngộ ra chút đạo lý. Ví dụ, thân là bậc tiên, tuổi thọ dài lâu, không tránh khỏi mấy phen hoan hỷ, mấy phen sầu bi tiếc nuối, những gì hoan hỷ thì nhớ lâu hơn, sầu bi chỉ cần nhớ một thời gian là được, có như thế mới có thể ung dung tư tại, tu đắc đạo. Ngày trước ở cung Thái Thần, quả thực sầu bi nhiều hơn hoan hỷ, lúc này, ở nơi đây, cuối cùng toàn nhớ những thứ khiến mình hoài niệm, có thể thấy đa phần hồi ức đều là hồi ức tốt đẹp, đa phần đều vui vẻ, vậy nàng cũng phải vui vẻ lên.

Nhảy qua hai ba bước lên đình lục giác, thử ngồi lên chiếc ghế pha lê từ lâu đã muốn ngồi thử, ngồi lên rồi lại cảm thấy nó không thoải mái như đã hình dung. Nàng nhớ hồi đó Đông Hoa thường ngồi chỗ này chỉnh sửa kinh Phật do Phật Đà ở Tây Thiên đưa tới, nàng thường gối đầu lên chân chàng ngắm sao.

Sao ở Cửu Trùng Thiên không có vẻ đẹp mơ màng tựa mỹ nhân e ấp như sao ở Thanh Khâu, mà đơn côi nơi cuối trời chẳng khác gì những cái bánh nguội lăn lóc người ta chưa mua hết, thực sự chẳng có gì đáng ngắm. Chẳng qua là nàng muốn nhân cơ giả bộ ngoan ngoãn để được ở bên Đông Hoa lâu hơn. Hai vị thúc thúc, bá bá của nàng đã lừa cưới được hai vị phu nhân thế nào, nàng biết rõ, thầm nghĩ đợi đến lúc nàng có thể nói được, cũng bắt chước hai vị thúc bá dũng cảm của mình, tìm cách lừa Đông Hoa đến Thanh Khâu, nàng sẽ nói với chàng thế này: “Ôi, chàng nhìn xem, sao ở đây to như thế, lại lạnh lẽo, chẳng đáng yêu chút nào, có dịp thiếp sẽ đưa chàng đến Thanh Khâu của thiếp ngắm sao”. Thời gian như bóng câu qua cửa, thoáng chốc đã trăm năm, câu nói dũng cảm kia cuối cùng không có cơ hội nói ra.

Đã sang giờ Tý, không biết từ đâu vẳng lại tiếng đàn réo rắt, giữa trời, một vầng trăng trong treo lơ lửng, các vì sao hình như đã chìm xuống Ngân Hà. Nàng tay chống má, ngẩng nhìn ánh trăng thanh lạnh, thì thầm: “Khi nào thiếp có thể đưa chàng đến Thanh Khâu của thiếp ngắm sao”. Vừa sực tỉnh lại ngây người, rồi lắc đầu mỉm cười, câu vừa nói ra được gió đêm mang đi phát tán trên đầm sen xanh biếc, thoắt cái đã biến mất, tựa như nàng chưa hề nói ra.

Mấy cành diêm phù tươi tốt đung đưa che khuất ánh trăng, mấy hạt diêm phù tim tím rụng trên mặt đất, Đông Hoa khoanh tay ung dung tựa vào ô cửa hình trăng, trên người là chiếc áo ngủ lụa trắng và một chiếc áo dài khoác hờ bên ngoài. Chàng vốn dĩ muốn xem nàng trốn khỏi đây như thế nào, mới đi theo nàng tới khu vườn này, lúc đầu còn tưởng nàng vội vàng nên đi nhầm đường, hóa ra là nàng chủ tâm vào đây, đào bới lấy cây thảo dược của chàng, lại còn đăm chiêu ngắm nhìn từng quang cảnh nơi đây, sắc mặt lúc vui lúc buồn, cơ hồ đang có tâm sự.

Lúc trước Đông Hoa mở mắt, nhìn thấy làn khói tím gây ngủ từ phòng của mình lan ra, thoáng chốc đã tràn lan gần nửa cung Thái Thần, giống như dải mây cát tường vấn vít, ắt là điềm lành. Chàng cho rằng, vừa rồi nàng làm phép thuật gây ngủ đối với chàng, chắc đã vận ra hết công lực. Tiếng nhạc văng vẳng từ hướng Đông Nam cũng nhỏ dần rồi chìm trong làn khói mê màu tím… Người làm phép thuật hoàn toàn không nhận ra, có lẽ đang chìm trong tâm tư nặng nề. Lúc này, làn khói tím đang dần dần lan vào khu vườn, bay qua thác nước, qua cây hồng diệp cao sừng sững, lan vào đình lục giác… Đông Hoa thầm đếm ba tiếng. Uỵch! Cô nương lòng nặng trĩu tâm tư đang ngẩng đầu ngắm trăng quả nhiên từ từ gục xuống.

Vén mấy cành diêm phù la đà, Đông Hoa chậm rãi từ sau ô cửa hình tròn bước ra. Trong vườn, tất thảy đều yên tĩnh, ngay ánh sáng của cây bồ đề vãng sinh cũng nhạt hơn. Vào trong đình lục giác, hương gỗ bạch đàn ngàn năm dường như quẩn quanh bên trong, không phát tán ra ngoài. Đông Hoa cúi đầu nhìn nàng gục trên chiếc bàn pha lê ngủ ngon lành, bất giác bật cười, bị trúng phép thuật của chính mình mà còn vô tư ngủ như vậy, thiên hạ chắc chỉ có nàng, chẳng trách nghe nói thượng thần Bạch Dịch phụ thân nàng, ngày đêm lo lắng tìm cho nàng đấng phu quân tài giỏi.

Chàng đưa tay làm một thủ ấn hướng về phía nàng phất nhẹ, biến nàng trở lại thành chiếc khăn, bỏ vào trong người, ung dung ra khỏi khu vườn đầy khói tím.
 
Tham gia
6/7/19
Bài viết
101
Điểm cảm xúc
41
Điểm
28
Phượng Cửu ngủ li bì không biết trời biết đất, lúc tỉnh lại, nghe bên tai có tiếng gió rít ù ù, tưởng vẫn đang nằm mơ, lại bình thản nhắm mắt ngủ tiếp. Hai mắt vừa khép, bỗng giật mình, lập tức mở ra. Mão Nhật Tinh Quân điều khiển cỗ xe mặt trời, vung ánh ban mai vàng óng xuống khắp trần gian, tiến đến gần, nhìn thấy Đông Hoa, vội vàng xuống xe, cúi lạy.

Những ngọn núi ẩn trong mây chầm chậm trôi qua dưới chân, vài đỉnh xanh thẫm nhô lên lọt vào tầm mắt. Phượng Cửu ngơ ngẩn hồi lâu, dốc sức vận khí run run thử nhấc tay, nhìn lại mình, quả nhiên vẫn còn là chiếc khăn lụa. Dáo dác nhìn quanh, muốn biết vì sao tiếng gió lại nghe rõ đến thế, lát sau mới phát hiện thì ra mình bị buộc vào vỏ bao thanh kiếm Thương Hà, đeo ở thắt lưng Đông Hoa, cùng chàng lướt gió cưỡi mây.

Nàng hoang mang nhớ lại, đêm qua rõ ràng đã trốn ra ngoài, tại sao lại ở đây, chẳng lẽ sau đó lại bị bắt trở về? Nhưng sao không nhớ gì về chuyện đó. Có thể là nàng chưa hề trốn đi, Đông Hoa thay xiêm áo xong lại đặt nàng vào trong ống tay rồi đi ngủ, nàng cũng ngủ, sau đó tất cả đều là chiêm bao? Nàng cố giữ thân cho vững, càng nghĩ càng thấy có lý, rồi lại thấy đó là một giấc chiêm bao đẹp, giấc chiêm bao rơi lệ…

Khi núi Phù Vũ hiện ra trước mặt, tiếng gió rít thê lương, Phượng Cửu mới dần dần hiểu ra, hôm nay Đông Hoa có trận giao chiến với Yến Trì Ngộ, một trong bảy vị quân vương của Ma tộc, thì ra nàng xui xẻo ngẫu nhiên bị đưa đến Nam Hoang này.

Nói đến ân oán giữa Đông Hoa và Yến Trì Ngộ, phải tính từ ba trăm năm trước, theo đồn đại, nguyên cớ là vì một thiếu nữ. Nhưng lời đồn này chỉ lan truyền trong một số ít người, những ai hiểu rõ nội tình đều cảm thấy Đông Hoa rất oan uổng.

Chuyện là, năm xưa Chiếu Dương quân vương của Xích chi, một trong bảy chi của Ma tộc, muốn giao hảo với Thần tộc, bèn đem tiểu muội của mình là công chúa Cơ Hoành gả cho Thần tộc, chọn đi chọn lại, cuối cùng chọn Đông Hoa Đế Quân ở cung Thái Thần. Nhưng Chiếu Dương đâu biết, huynh đệ kết nghĩa của mình là Yến Trì Ngộ, quân vương của Thanh chi đã sớm có tình ý với công chúa Cơ Hoành, trưởng công chúa của Ma tộc được coi là có thể hiểu được tiếng nói của loài hoa. Tuy nhiên, công chúa Cơ Hoành bản tính đa cảm, dễ động lòng trước những công tử phong lưu biết làm thơ sầu muộn, chơi cầm khúc bi ai. Đáng tiếc, Yến Trì Ngộ có tiếng phong lưu nhất Nam Hoang, thực ra lại là người lỗ mãng, công chúa Cơ Hoành không mấy để ý đến chàng, mắt xanh lại hướng vào Đông Hoa, chàng trai ưu tú tư phong phi phàm mà ca ca nàng đã chọn. Thậm chí có vài lần, trước mặt Yến Trì Ngộ còn tán dương Đông Hoa vài câu. Lời tán dương đó, như mồi lửa ném vào cơn ghen đã tích tụ bấy lâu của Yến Trì Ngộ. Chàng Yến tức khí đầy vơi không thể nhẫn nhịn hơn nữa, lại không nỡ trút giận lên đầu mỹ nhân, liền hùng hổ cầm chiến thư đến cổng cung Thái Thần, tìm Đông Hoa đòi quyết đấu. Lúc đó Đông Hoa đã ẩn trong cung nhiều năm không bận tâm thế sự, nhưng thấy đối phương đã đưa chiến thư đến tận cửa, đành chấp nhận. Núi Phù Vũ một trận ác chiến, trời đất tối tăm, có cây tan tác, cuối cùng do Yến Trì Ngộ chơi xấu nhân lúc Đông Hoa không đề phòng, dùng thuật Tỏa hồn ngọc nhốt chàng vào Thập ác liên hoa cảnh, cho nên Phượng Cửu mới có cơ hội ở bên bầu bạn với Đông Hoa ba tháng.

Khi đó Phượng Cửu thực lòng cảm tạ Yến Trì Ngộ, tưởng rằng bởi chàng can thiệp nên liên hôn giữa Đông Hoa với Ma tộc đương nhiên hủy bỏ, vậy là cũng phần nào an tâm. Hơn nữa, xem chừng Đông Hoa cũng không mấy hào hứng với chuyện liên hôn kia, dần dần buông lỏng cảnh giác, những tưởng có thể kê cao gối ngủ yên.

Nào ngờ ba tháng sau, cung Thái Thần chỉ sau một đêm muôn hoa đua nở, đèn treo hoa kết rực rỡ. Trong ánh chiều dương ấm áp, chiếc kiệu lộng lẫy đưa một đại đại quý nhân đi vào cung môn cung Thái Thần. Vị đại đại quý nhân này, chính là nàng Cơ Hoành hồng nhan họa thủy. Trên cầu Bạch Ngọc, giai nhân vén rèm xuống kiệu, ngón tay ngọc ngà yểu điệu vịn thành cầu chạm chim phượng tao nhã, môi hồng răng trắng, mắt sáng đôn hậu, mặt hồ sóng xao, phất phơ khói biếc, mái tóc cuốn cao soi nghiêng đáy nước, chỉ một thoáng dừng chân liền trở thành bức họa tuyệt thế lung linh mộng ảo.

Phượng Cửu tựa vào chân Đông Hoa, ngẩn ra nhìn.

Cả cung Thái Thần, Phượng Cửu là người cuối cùng biết nguyên do cảnh tượng trên cầu Bạch Ngọc, mà lại qua miệng Tri Hạc, hóa ra Đông Hoa đã đồng ý hôn sự này, hình như còn rất thoải mái. Chỉ vài câu nói đơn giản, lọt vào tai nàng, giống như tiếng sét ầm ầm giáng xuống giữa trời quang, trong chớp mắt nàng cảm giác trời đất tối sầm.

Còn về ngày đại hôn, nương tử xinh đẹp trùm khăn đỏ không hiểu sao lại biến thành Tri Hạc, mấy ngày cuối cùng trước khi bỏ đi, đầu óc nàng cứ hỗn loạn u mê, không sao hiểu được, nhưng hồi đó Tri Hạc nói với nàng. Rằng, ở phàm trần thường có những chuyện như thế, một vài nam thanh nữ tú có tình với nhau, nhưng do tuổi trẻ tình cảm thất thường, có khi không thực hiểu lòng nhau, phải đợi đến lúc một trong hai người chuẩn bị kết hôn, cả hai mới tỉnh ngộ, đó chính là ngưỡng mà những người hữu tình phải vượt qua, mới có thể nên duyên, do vậy mới có câu, hôn nhân là hòn đá thử vàng để biết ai chân tình ai không, nàng và Đông Hoa cũng như thế.

Hồi đó Phượng Cửu còn chưa từng trải, một lý do lạ lùng như vậy cũng tin. Nàng quá ngây thơ nên dễ tổn thương, chỉ cảm thấy trong lời giải thích của Tri Hạc có chỗ không thỏa đó là tuổi của Đông Hoa liệu có thể coi là trai trẻ hay không, ví với đá thử vàng e không ổn.

Bây giờ nghĩ lại, có thể tất cả đều là bịa đặt của Tri Hạc, nếu không cớ chi sau đó Thiên Quân nổi giận, đẩy nàng ta xuống Hạ giới khổ tu để trừng phạt. Từng trải nhiều, đầu óc không còn ấu trĩ như trước, về sau nàng ngẫm ra, rất ít khả năng Đông Hoa thích Tri Hạc. Nếu chàng loanh quanh, vì thực sự động lòng trước nghĩa muội nông nổi kia, thì chàng cũng không xứng với tấm chân tình của nàng, với lòng ngưỡng mộ dành cho chàng bấy nhiêu năm, ngay từ thủa nàng còn thơ bé.

Rốt cuộc chân tướng thế nào, nàng chỉ suy đoán mơ hồ, lờ mờ cảm thấy sự thể có lẽ là như vậy, nhưng chuyện đó, cũng không biết tìm ai để xác nhận. Chỉ cho rằng, năm đó Đông Hoa đồng ý hôn sự với Cơ Hoành, rất có thể là do khâm phục Cơ Hoành. Thật ra, ngay con mắt nhìn khắt khe của nàng, cũng phải thừa nhận trong những tiên nữ, yêu nữ của tứ hải bát hoang, công chúa Cơ Hoành là một nữ tử hiền lương, cương liệt hiếm có. Chưa kể dung mạo xinh đẹp, đức độ hiền lương, khiêm nhường thông tỏ lễ nghĩa, chỉ riêng sự hào hiệp vô tư giúp Đông Hoa và nàng mấy lần trong Thập ác liên hoa cảnh đã muôn phần đáng khâm phục. Đông Hoa thích nàng ta, có lẽ cũng do tất cả những cái đó, dù năm xưa ở Thập ác liên hoa cảnh, Phượng Cửu cũng từng cứu chàng, nhưng cho dù trong những vở kịch hoang đường nhất mà cô cô Bạch Thiển của nàng còn giữ được cũng không hoang đường đến mức, có kết cục thế này: một cô nương xinh đẹp và một con thú cưng cùng cứu chàng công tử, về sau công tử lại thích con thú cưng, không thích cô nương xinh đẹp kia. Vậy nên, thua Cơ Hoành, nàng không có gì oán thán.

Trên đỉnh Phù Vũ gió gầm rít từng trận, trong chớp mắt mây cuồn cuộn kéo đến dày đặc, mênh mông nhưng tiêu điều, rất giống cảnh chiến trường. Phượng Cửu đang chìm trong hồi ức, lòng hơi ủ dột, nhìn thấy cảnh tượng trước mặt, đột nhiên cao hứng hẳn.

Nàng sinh ra trong thời bình, những trận chiến vĩ đại ghi trong sử sách, nàng chưa một lần chứng kiến, luôn phiền não vì chưa tích lũy được tri thức nào về mặt đó. Hiếm hoi mới có trận chiến giữa Dạ Hoa, phu quân của cô cô Bạch Thiển, với Quỷ Quân Kình Thương hơn hai trăm năm trước, nghe nói là trận đại chiến, nhưng lúc ấy nàng rất xui xẻo đang bị mắc ở trần thế báo ân. Hai trăm năm nay, mỗi dịp sinh nhật, nàng đều thành tâm cầu nguyện, mong Thiên giới, Hạ giới có vài vị đại thần tiên nổi tiếng nào đó bất hòa mà nổi lên tranh đấu, nhưng tai ông trời không dài, chắc là không nghe thấy lời cầu nguyện của nàng, lại để họ tình cảm mỗi năm càng thâm hậu. Nàng vốn đã không còn hy vọng gì được thỏa ước nguyện kia, ai ngờ, hôm nay ngẫu nhiên lại may mắn được tận mắt chứng kiến. Lòng mừng khôn xiết.

Bất luận thế nào, vị Ma vương có thể coi là lừa được Đông Hoa, dù thủ đoạn có hơi bỉ ổi, nhưng cũng phần nào bộc lộ chút tài năng, có thể là một đối thủ tốt. Nghe đồn chàng ta bản tính phóng khoáng, phong lưu, nàng liền hình dung đó là một trang hảo hán tráng kiện, tay vung đôi rìu Tuyên Hoa, giậm chân là đất rung núi chuyển, hô một tiếng là gió vũ mây vần. Trong tưởng tượng của Phượng Cửu, Yến Trì Ngộ kia cũng sức mạnh vô song. Nàng vừa tưởng tượng, vừa chìm trong những tưởng tượng đó, nín thở chờ Đông Hoa vén lớp sương mù dày đặc, khiến nàng được chiêm ngưỡng vị anh hùng hảo hán kia.

Núi Phù Ngũ nằm ở giao giới giữa Đông Hoang thuộc quản quyền của Ma tộc và Nam Hoang lãnh thổ của Bạch Hồ tộc, uy nghi sừng sững chạm vào mây, là ngọn núi nổi tiếng ở Tiên tộc và Ma tộc.

Mây mù dày đặc, trên đỉnh Phù Vũ lại không hề có vị hảo hán tay cầm rìu Tuyên Hoa nào hết, chỉ thấy một chàng trai rất trẻ xiêm áo đen tuyền, dáng mảnh khảnh ngồi trên đỉnh núi đang sốt ruột cắn hạt dưa, vỏ dưa rơi đầy trên đất. Phượng Cửu nhìn quanh, tưởng là Ma vương có thể vì lý do nào đó đến muộn. Nhưng bỗng thấy chàng trai kia vọt lên một đám mây, xông thẳng đến chỗ họ. Thấy chàng trai mảnh khảnh, duyên dáng, môi hồng răng trắng, rất tuấn tú, không biết là thần tiên xứ nào, nàng bất giác liếc nhìn.

Chàng trai tuấn tú cưỡi mây dừng cách bọn họ mười trượng, không biết từ đâu rút ra một thanh trường kiếm, sát khí đằng đằng chỉ vào Đông Hoa, quát lớn: “Bà tổ ngươi, đồ gấu Mặt lạnh, làm mỗ đợi chết mệt suốt nửa ngày, mỗ chúa ghét kẻ lề mề, hay là ngươi sợ mỗ rồi! Mau rút binh khí ra, mỗ cùng ngươi tốc chiến, hôm nay không đánh cho ngươi rụng sạch răng thì mỗ đây không còn là mỗ nữa!”.

Phượng Cửu sửng sốt.

Nàng sửng sốt nhìn chàng trai đẹp mà luôn mồm xưng mỗ kia, liên tiếp nuốt nước bọt, dần hiểu ra chàng ta chính là Yến Trì Ngộ, một trong bảy vị quân vương của Ma tộc. Nhưng có điều không hiểu, nàng nghe đồn khá nhiều về Yến Trì Ngộ, đều nói đó là một Ma quân lỗ mãng, không hiểu phong tình cho nên công chúa Cơ Hoành mới không ưng. Lẽ nào ngay những mãng phu của Ma tộc đều bạch diện thư sinh, da dẻ mịn màng như thế? Nàng bất giác lại hình dung, vậy thì những trang quân tử nghe đồn rất mực phong lưu của Ma tộc trông sẽ thế nào? Khi nàng hình dung ra một đại hảo hán tráng kiện râu ria bờm xờm tay cầm quạt hô gió, hướng về mặt trời lặn, mặt sầu muộn ngâm nga mấy câu thơ bi lụy, đột nhiên bật cười.

Thái độ của Đông Hoa hoàn toàn đúng như nàng dự đoán, sau đoạn mở màn hùng hồn của Yến Trì Ngộ, chàng chỉ nho nhã giơ tay nói: “Xin mời!”. Thái độ cao ngạo đó khiến Yến Trì Ngộ nổi đóa giậm chân, trừng mắt vẻ lưu manh: “Mỗ mời bà tổ ngươi!”. Lời vừa dứt, cuồng phong tức thì nổi lên, thổi bạt ma chướng xoáy tròn đằng sau người hắn, lộ ra mặt nước rộng ngút ngàn, trên mặt sóng đen cuồn cuộn, là một đôi giáp binh tay cầm binh khí xếp mấy hàng lừng lững uy nghiêm.

Phượng Cửu cho tới giờ chưa từng thấy cảnh tượng này, giật mình hoảng sợ. Đông Hoa lại rất bình tĩnh, còn giơ tay vuốt lại chiếc khăn là nàng bị gió thổi dúm lại, khiến nàng có thể bám chắc vào chuôi kiếm của chàng.

Yến Trì Ngộ cười khẩy, mặt diễm sắc như hoa xuân dưới trăng, lạnh lùng hừ một tiếng: “Mỗ dám tìm ngươi đấu một mình, đã chuẩn bị vẹn toàn”. Phượng Cửu lại nghĩ miên man, Cơ Hoành không ưng chàng Yến kia, có lẽ còn ẩn tình khác, có thể nàng ta cho rằng, không nên lấy một phu quân có ngoại hình đẹp hơn mình, nếu sánh vai bên nhau e là mất thể diện. Lại thấy Yến Trì Ngộ chỉ tay vào đội binh giáp dưới chân, cười đắc ý, nụ cười khiến gương mặt chàng ta càng thêm rạng rỡ. Phượng Cửu nhìn chàng, thầm gật đầu, phải rồi, Cơ Hoành không ưng chàng ta, đa phần vì lý do này.

Yến Trì Ngộ sau khi cười đắc ý, lập tức nghiêm mặt, lạnh lùng hét về phía Đông Hoa: “Đã nhìn thấy chưa, pháp trận yểm ma này mỗ vừa nghiên cứu thành công, được luyện từ bảy ngàn sinh linh cõi trần, tốn bao nhiêu tâm huyết của mỗ. Mặc dù đều là ác linh, nhưng nếu ngươi đả thương chúng, là vĩnh viễn cắt đứt đường cải tà quy chính chuyển kiếp luân hồi của chúng. Mỗ muốn xem, hậu bối Thiên tộc các ngươi tự xưng là từ bi, làm thế nào phá trận pháp này của mỗ!”. Trong chớp mắt, khi Yến Trì Ngộ vừa dứt lời, đội giáp binh ngưng tụ bảy ngàn sinh linh cõi trần, từng lớp lao vào họ như vũ bão, tất cả vẫn trong hình hài con người, nhưng ánh mắt u tối dữ tợn tham lam như mắt sói, binh khí trong tay tỏa sát khí tăm tối của tử địa.

Trong cuồn cuộn sóng nước mênh mông, bảy ngàn sinh linh chen chúc, người trước ngã xuống người sau lao đến, cảnh tượng thực khủng khiếp. Phượng Cửu run bần bật nép vào thắt lưng Đông Hoa, từ nhỏ nàng mắc chứng sợ đám đông, nhìn cảnh đó chỉ thấy toàn thân nổi da gà, liền từ bỏ ý định chiêm ngưỡng cái mới, chỉ nghĩ cách làm sao thoát thân.

Vẫn chưa nghĩ ra được gì, thanh kiếm Thương Hà tự nhiên rời khỏi bao, nằm chắc trong tay Đông Hoa, nhìn chúng sinh trôi nổi trên đỉnh Phù Vũ. Trong quầng sáng trắng dài trăm dặm khói lửa tức khí bùng lên, nuốt chửng lớp lớp khí đen ngùn ngụt, hiện ra hàng vạn bóng kiếm giống nhau. Phượng Cửu bàng hoàng bị bao vây giữa trùng trùng bóng kiếm loang loáng dày đặc, chỉ thấy trước mắt một màu sáng chói, đầu choáng váng. Phượng Cửu không nhìn rõ đường kiếm bay ra thế nào, chỉ thấy hình như mình cũng đang bay, người chao đảo, đầu càng choáng váng. Bên tai toàn những thấy tiếng rền rĩ thê thảm lẫn trong tiếng gió rít và tiếng mây cuồn cuộn, khi định thần trở lại, đã thấy trở về trong tay Đông Hoa, sắc máu tím đỏ biến sóng nước thành một màu kỳ dị, thỉnh thoảng có đám sương huyết bay lên bờ, giống như độc dược cực mạnh chạm vào cây cỏ hóa thành làn khói xanh. Sau đó, vang lên giọng trầm trầm của Đông Hoa: “Phá rồi!”.

Phượng Cửu đầu óc điên đảo, thầm nghĩ, phá cái gì?

Ồ, là trận pháp thất đức mà Yến Trì Ngộ nói tốn bao công sức tạo ra đã bị Đông Hoa phá.

Nàng vừa ôm thái dương định thần trở lại, mắt vừa thích ứng với ánh sáng bình thường, liền thấy Yến Trì Ngộ cầm cây kiếm nặng trịch, mặt hầm hầm xông đến: “Bảy ngàn ác linh do mỗ luyện, mặc dù phạm Thiên đạo nhất định bị trừng phạt, nhưng cũng phải do Thiên Lôi nhà Trời trừng phạt, các ngươi là thần tiên chẳng phải nên hết lòng phổ độ cho chúng? Hôm nay kiếm của ngươi nhuốm máu chúng, sẽ chỉ gánh thêm tội hiếu sát, ngươi ra tay diệt sạch như vậy, không sợ có ngày bị Trời trừng trị ư?”.

Phượng Cửu tim đập chân run, miệng lẩm nhẩm niệm Phật, cầu mong ông trời phù hộ để lưỡi kiếm của Yến Trì Ngộ chém trúng vào thân kiếm Thương Hà, không chệch một phân một tấc. Nhưng nhìn thế kiếm hung hãn như vậy, nàng lại ở rất gần chỗ hai kiếm sẽ giao nhau, kể cả chàng Yến kia ra tay không chệch một phân một tấc, có thể nàng cũng bị kiếm khí đả thương. Lòng bỗng tủi thân vô hạn, thầm nghĩ Đông Hoa sao có thể thất đức đến vậy, chẳng qua nàng chỉ nói giễu một câu, rằng chàng: “Quá kỳ dị” vậy mà cũng để bụng. Lại còn trả thù bằng cách đưa nàng đến đây, nếu hôm nay thực sự nàng phải bỏ mạng nơi này, xem chàng ăn nói thế nào với thần dân Thanh Khâu, ăn nói thế nào với song thân phụ mẫu, với bá phụ bá mẫu, thúc thúc cô cô của nàng!

Đang hào hứng nghĩ, bỗng nhiên một tia chớp sáng chói ập tới, khiến nàng giật thót, nhìn thấy một tia sáng trắng hiện lên phía chân trời, mây đen dạt ra hai phía, đường kiếm trắng như tuyết chém thẳng vào đó, tiếng binh khí chạm nhau chói tai. Sau vài chiêu qua lại, Yến Trì Ngộ đột nhiên đau đớn rên một tiếng, chân lảo đảo lùi lại sau cả trượng, có tiếng Đông Hoa lạnh lùng vọng ra: “Tội hiếu sát ư?”. Giọng dù lãnh đạm, nhưng khí thế lại trầm: “Bản quân mười vạn năm nay chưa tham chiến, ngày trước bản quân nắm trong tay sinh tử của lục giới thiên địa, tư phong thế nào, ngươi quên rồi ư?”.

Tiếng gió ù ù rít qua, Phượng Cửu lại choáng váng. Đông Hoa ngày trước. Ôi, Đông Hoa ngày trước.

Nhắc đến chuyện này, Phượng Cửu còn nắm chắc hơn nắm gia bảo trong nhà, lịch sử Thanh Khâu, gia phả Bạch gia nàng tinh thông làu làu, chiến tích quá khứ của Đông Hoa nàng có thể thao thao kể liền ba ngày đêm. Có thể nói hồi đi học nàng luôn đứng đầu môn lịch sử cổ đại phần nói về tiên sử, tất cả đều nhờ phúc của Đông Hoa. Hôm nay, nàng cho rằng chẳng còn duyên gì với Đông Hoa, đầu óc quay cuồng, chợt nhớ lại quá khứ, những truyền thuyết về Đông Hoa, từng chương lại vẫn nhớ rành rành.

Tương truyền, khi Bàn Cổ dùng một nhát rìu phân tách thiên địa, phần nhẹ, trong, nâng lên làm Trời; phần nặng, đục hạ xuống làm Đất, thế giới không còn là một khối nữa, tạo hóa có âm dương, hóa sinh ra rất nhiều tiên, yêu, ma quái, tranh giành tứ hải bát hoang tìm chỗ tu thân. Viễn cổ hồng hoang không phì nhiêu, phong phú như bây giờ, trên trời dưới đất cũng không nhiều luật lệ quy chế như vậy, nhưng thời loạn chiến thì khác, thường xuyên xảy ra tranh giành, đánh giết, ngay các vị thần tiên ngày nay rất coi trọng lấy lòng từ bi phổ độ chúng sinh, sát khí cũng rất nặng nề.

Thời đó, Nhân tộc cùng một bộ phận Ma tộc còn chưa bị đày xuống trần gian, nhưng trời đất hóa sinh ra họ thực sự nhỏ bé, bất đắc dĩ phải phụ thuộc vào Thiên tộc và Ma tộc lớn mạnh, sống những ngày ăn nhờ ở đậu buồn tẻ ở tứ hải bát hoang.

Vạn vạn vụt trôi, trời đất chẳng mấy khi được yên ổn, khi Ma tộc làm bá chủ, lúc Thần tộc cai quản càn khôn, thi thoảng lại Quỷ tộc làm chủ, nhưng tộc nào bá chủ thời gian cũng rất ngắn.

Mọi người đều mong xuất hiện một vị anh hùng khiến chư tộc người người khuất phục, cam tâm tình nguyện cúi đầu, chấm dứt thời kỳ loạn thế, để mọi tộc được sinh sống bình yên. Mà tộc nào cũng hy vọng vị anh hùng đó là do tộc mình sinh ra. Đó là thời đại chúng sinh đều chất phác, hầu như không hề có tâm địa, ngây thơ cho rằng sinh càng nhiều, thì càng có khả năng sinh được anh hùng. Vì vậy trong mấy năm ngắn ngủi, sáu tộc là Tiên, Quỷ, Thần, Ma, Nhân, Yêu, tộc nào lượng nhân đinh (những người là con trai trưởng thành trong tộc) cũng tăng vượt bậc.

Nhưng khi nhân khẩu quá đông rắc rối cũng nảy sinh, đất đai không đủ, chiến tranh giành giật đất đai giữa các tộc ngày càng ác liệt. Nhưng ông Trời luôn như vậy, ý Trời luôn không thể lường. Chính lúc các tộc vẫn tiếp tục ngày đêm nỗ lực sinh sản mong sinh được anh hùng, vẫn không mệt mỏi lao vào cuộc chiến tranh giành đất đai… Thì vị anh hùng đã cất tiếng chào đời ở Bích Hải linh thiêng nơi tận cùng của Trời, không cha không mẹ, được Trời đích thân sinh dưỡng.

Nơi sinh là vùng ánh sáng hoa lệ của Đông Hoang, lấy hai chữ trong đó, định ra tôn hiệu là Đông Hoa. Chính là Đông Hoa Đế Quân.

Mặc dù Đông Hoa sinh ra là để trở thành anh hùng của thời đại, nhưng không giống thái tử Dạ Hoa của Thiên tộc hiện nay, là người gánh vác sứ mệnh lớn lao do Trời chỉ định, lúc Đông Hoa ra đời lại vô cùng lặng lẽ, chẳng hề có những điềm báo như cả thiên địa đều tỏa hào quang, bốn mươi chín con chim ngũ sắc bay lượn trên Bích Hải linh thiêng…

Chỉ có một đoạn trong sử sách viết rằng, Đế Quân nhận ánh sáng của trời, uống nước nguồn, hội tụ tinh hoa vạn vật mà thành linh thai. Nhưng trời đã sinh chàng ra sao, là từ trong tảng đá nứt ra hay một lão phu đi rừng chặt cây, đốn củi phát hiện ra chàng ngồi trong thân cây trúc mang về nuôi dưỡng, sử sách chỉ có một đoạn sơ lược như vậy, không có ghi chép nào cụ thể hơn.

Đông Hoa mặc dù từ nhỏ đã phải gánh vác trọng trách nặng nề, nhưng cuộc sống từ khi sinh ra đã không bình thường, đơn côi một mình trên Bích Hải, không có quần cư thần tộc bảo vệ che chở, thường chịu sự ức hiếp của các tiên yêu ma quái xung quanh. Hồng hoang viễn cổ không như bây giờ, muốn học gì đều có thể tầm sư chỉ dạy. Mọi sự Đông Hoa dựa vào quả đấm mà ngộ ra, chiến tích cả đời cũng có được qua từng trận ác chiến mà nên.

Nguồn nước thiêng vạn năm không cạn của Bích Hải không biết đã nhuốm đỏ bao lần, chàng trai áo tím bất ngờ ra đời, giẫm lên chồng chất xương khô, cuối cùng đứng trên đỉnh cao nhất của lục giới, nhất thống lục giới tứ hải, an ủi chúng sinh bát hoang.

Con đường thành danh của chàng, khác với thượng thần Mặc Uyên chỉ qua trận chiến Lạc Tư mấy vạn năm trước, cũng không giống chiến tích lẫy lừng của Dạ Hoa Quân gần đây. Hai vị đó, một vị từ nhỏ đã được Phụ Thần hóa sinh trời đất nuôi dưỡng; một vị được Nguyên Thủy Thiên Tôn Đại La Thiên Thượng Thanh Cảnh cùng với Quan Thế Âm đại từ đại bi của Tây Phương Phạn Cảnh hợp lực điểm hóa, được giáo dưỡng theo tôn quy của dòng dõi danh gia.

Phượng Cửu từ nhỏ đã rất ngưỡng mộ Đông Hoa, trước hết bởi chàng từng cứu mạng nàng, nhưng sâu xa hơn là do lòng sùng bái tôn kính, nàng cảm thấy mọi sự chàng đều dựa vào nỗ lực bản thân, lại có thể có sức mạnh kết thúc thời loạn thế bao trùm càn khôn suốt thủa hồng hoang, quả thực quá thần kỳ.

Có thể ngồi vững trên ngôi vị bá chủ thiên địa trong thời sát phạt hỗn chiến hồng hoang, thật không dễ, chỉ cần mềm lòng, nhẹ tay, bên dưới sẽ lập tức hỗn loạn, chỉ có máu lạnh, cứng rắn mới giữ được bình yên. Cho dù sau này Thiên tộc dần dần lớn mạnh, Đông Hoa dần dần nhường quyền cai quản cho Thiên Quân, lui về cung Thái Thần ở Nhất Thập Tam Thiên ẩn dật, nhưng uy danh máu lạnh năm xưa vẫn lưu truyền khắp lục giới. Bởi vậy lần này Yến Trì Ngộ những tưởng có thể dùng bảy ngàn sinh linh áp chế chàng, hèn chi chàng chỉ lạnh lùng hỏi một câu, có phải đã quên tư phong cai trị lục giới năm xưa của chàng. Đông Hoa, thực sự không phải là một vị tiên bồ đề tâm đại từ đại bi. Xưa nay vẫn vậy.
Thật ra, Đông Hoa rốt cuộc có được tính là tiên không, điều này còn phải bàn.

Phượng Cửu lúc nhỏ đã thầm ái mộ Đông Hoa, để hiểu hơn về chàng, trên lục khắp Thiên giới, dưới tầm tận Hoàng tuyền thu thập mọi sử liệu về chàng. Trong những sử liệu đó phần lớn là đề cao cống hiến của Đông Hoa, tất cả đều là những lời lẽ tốt đẹp, chỉ có một thư tịch cổ cũ nát, mất bìa, ghi lời nhận xét về Đông Hoa của Phụ Thần nói rằng, người này cửu trú tâm đã đạt tới nhất trú cảnh, vậy nên nhất niệm vi ma vừa nhất niệm vi thần.

Thiền học của Phượng Cửu không tốt, nên chép lại những lời này làm ra vẻ tự nhiên đi thỉnh giáo tiểu thúc Bạch Chân. Bạch Chân mặc dù có vẻ không đáng tin cậy, nhưng cũng đã sống tới mười mấy vạn năm, nên sự Thiền học cũng biết một hai, giảng giải cho nàng nghe: “Cái gọi là cửa trú tâm chính là chín cấp tu tập Thiền định, tức: nội trú, đẳng trú, an trú, cận trú, điều thuận, tịch tĩnh, tối cục tịch tĩnh, chuyên chú nhất trú và đẳng trì. Nếu một người nội tâm đã đạt tới cảnh giới chuyên chú nhất trú, nghĩ là tâm đã an trú, trăm loạn bất xâm. Tâm đã tịnh thì là ma hay là thần đều không có gì khác nhau, tùy sở thích của người đó, muốn thành giới gì thì thành giới đó. Nếu cửu trú tâm đạt tới cảnh giới đẳng trú, tức là đã sang một cảnh giới mới. Thế gian chỉ có Phật Tổ ở Tây Thiên Phạn Cảnh tu trì đến cảnh giới này, ngộ được chúng sinh tức Phật Đà, Phật Đà tức chúng sinh”.

Phượng Cửu nhẫn nại nghe xong, kỳ thực váng đầu hoa mắt bởi các loại trú của tiểu thúc, cảm thấy những gì dính dáng đến chữ Thiền, quả nhiên đều vô cùng huyền diệu. Nhưng để hiểu hơn về Đông Hoa, trở về nàng còn âm thầm suy nghĩ rất lâu, cố hiểu ý nghĩa lời đánh giá kia của đấng Phụ Thần, cuối cùng nghĩ ra câu nói kia liệu có phải nghĩa là nói Đông Hoa ngày trước không phải thần cũng chẳng phải ma, sau đó chọn Thần đạo từ bỏ Ma đạo. Nhưng tại sao chàng chọn Thần đạo, nàng nghĩ không ra. Trong tâm trí ấu thời của nàng, Thần tộc và Ma tộc ngoại trừ là tộc loại khác nhau, cơ hồ chẳng có gì khác, hơn nữa Ma tộc còn có nhiều mỹ nhân như vậy.

Trong những người nàng quen biết, ngoại trừ tổ phụ mẫu, chỉ có thượng thần Chiết Nhan ở rừng đào mười dặm gần bằng tuổi Đông Hoa. Nàng thu xếp hành lý, cưỡi một đám mây nhỏ đến rừng đào. Mượn cớ lần này phu tử ở học đường kiểm tra về chúng thần thủa hồng hoang, nàng gặp một vấn đề khó, muốn đến xin chỉ giáo, còn chu đáo mang đến hai cây trâm ngọc do tiểu thúc Bạch Chân chế tắc tặng Chiết Nhan.

Món quà đó vô cùng hợp ý Chiết Nhan, quả nhiên khiến vị thượng thần muôn phần phấn khởi.

Rừng đào tháng tư chìm trong hoàng hôn khói phủ, Chiết Nhan tay vuốt ve cây trâm ngọc, tươi cười hỏi nàng: “Vì sao Đông Hoa chọn Thần tộc ư?”.

Cất giọng nói trơn tru: “Sử sách ghi, năm đó khởi nguyên hồng hoang thiên tai liên miên, duy có Thần tộc quanh năm mưa thuận gió hòa, thần dân sinh sống yên ổn. Sau khi Đông Hoa tìm hiểu nguồn cơn, biết được chính là do Thần tộc đều tu ngũ giới, một: không sát sinh; hai: không trộm cướp; ba: không dâm tà; bốn: không dối trá; năm: không uống rượu”. Chiết Nhan thản nhiên uống một ngụm rượu, “Vì đức hạnh sáng chói, cảm hóa trời xanh, vậy nên đã giảm được bao tai họa của Thần tộc, ban cho chúng ta nhiều công đức, thiện quả, hàng năm mới mưa thuận gió hòa. Đông Hoa nghe xong, muôn phần cảm kích, mới lựa chọn Thần tộc từ bỏ Ma đạo, nguyện cả đời hiện thế dưới pháp tướng của Thần tộc, dùng tâm bồ đề đại từ đại bi đại tu trì thiện giới, phổ độ chúng sinh bát hoang”.

Phượng Cửu ngồi nghe, lòng lúc thăng lúc trầm, cảm thấy được khích lệ cổ vũ vô cùng, lại càng bội phần khâm phục Đông Hoa: Quả nhiên chàng thanh tịnh vô vị, quả nhiên là Đế Quân vô dục vô cầu, quả nhiên là Đông Hoa Đế Quân ngạo mạn, cứng rắn, có cốt cách thần tiên nhất mà sử sách ca tụng.

Đang hào hứng lại thấy Chiết Nhan mủm mỉm nói thêm một câu: “Ngươi cứ viết như thế, phu tử nhất định cho điểm cao”.

Phượng Cửu mang ra một quyển vở nhỏ vốn dành để viết suy nghĩ, bình chú trong khi học, ngẩn ra nói: “Người nói thế, chẳng lẽ còn ẩn tình gì?”.

Ẩn tình đương nhiên là có, hơn nữa so với những gì sử sách ghi chép còn cách xa, không chỉ mười vạn tám nghìn dặm.

Phượng Cửu cảm thấy, nói đến ẩn tình này, Chiết Nhan đặc biệt hào hứng khác hẳn điệu bộ uể oải giảng giải cho nàng vừa rồi.

Ẩn tình đó, như sau.

Nghe nói Đông Hoa ra đời từ Bích Hải linh thiêng, trải qua bao phen tôi luyện, chiến đấu oanh liệt, nhưng bản thân chàng không đặc biệt hứng thú đối với sự nhất thống thiên hạ. Các tộc ở ngoài Bích Hải vẫn đang không ngừng xảy ra giao chiến, một vài tiểu quái dưới biển lại không chịu yên phận, vô cớ tham gia đại chiến bên ngoài. Chàng trừng trị tất cả bọn chúng, có điều lũ tiểu quái này tuy địa vị thấp kém, nhưng bên trên cũng là có người che chở, ma đầu che chở bọn tiểu quái cảm thấy bị mất mặt, nhưng lộ diện khiêu khích Đông Hoa chỉ càng mất mặt hơn, chàng dứt khoát cho chúng bài học. Cho đến khi tên ma đầu lớn nhất tứ hải bát hoang chịu quy phục trở thành tiểu đệ của chàng.

Chiết Nhan xoay cốc rượu trong ta, vừa tình tứ vừa tinh quái cười cười: “Chớ thấy Đông Hoa quanh năm Mặt lạnh mà coi thường, thực ra người ta rất được nữ giới ái mộ”.

Chiến tích của Đông Hoa được biết đến từ lâu, ngoại hình tuấn tú, tuổi trẻ, lại ưu tú nổi bật là lương nhân trong mộng của biết bao nữ nhi các tộc. Có một tiểu thư nào đó của Ma tộc, nức tiếng đương thời, được coi là mỹ nhân phong lưu bậc nhất tứ hải bát hoang, cũng rất ái mộ chàng. Thời viễn cổ, nữ nhi của Ma tộc hành xử tương đối phóng khoáng, không bị ràng buộc bởi nhiều luật lệ như nữ nhi Thần tộc, nếu vừa ý trang nam tử nào, là có thói quen dệt mộng uyên ương với chàng ngay đêm đó. Tiểu thư kia vừa nhìn thấy Đông Hoa đã tương tư, một đêm gió mát hiu hiu, theo truyền thống của tộc mình, lặng lẽ lọt vào căn nhà tre của Đông Hoa, lặng lẽ lên giường đá của chàng, định cùng lương nhân trong mộng, tận hưởng đêm xuân.

Đông Hoa nửa đêm về nhà, vén rèm, thấy một mỹ nữ nửa kín nửa hở trên giường, hơi ngẩn người. Mỹ nhân cất giọng ỏn ẻn: “Tôn tọa nửa đêm mới trở về, để thiếp khổ sở đợi chờ…”. Đông Hoa cúi xuống nhấc bổng mỹ nhân, khiến nàng thở gấp, nũng nịu trách: “Tôn tọa quả nhiên là người nóng vội…”. Người nóng vội này không hề xúc động, bế mỹ nhân đi thẳng ra cửa, thản nhiên ném thẳng mỹ nhân ra ngoài, khiến nàng kinh ngạc thất sắc, xong xuôi, đóng cửa tắt đèn, không nói nửa câu.

Mỹ nhân vẫn không từ bỏ ý định, sau rất nhiều lần bị ném khỏi cửa mới dần từ bỏ ý định. Tuy nhiên nàng lại mở ra một tiền lệ, rất nhiều thiếu nữ Ma tộc cảm thấy, mặc dù nhất định bị Đông Hoa ném ra ngoài, nhưng nghe nói trước khi ném, chàng đều rất tao nhã bế các nàng từ trên giường ra cửa, sau đó mới ném đi. Họ cảm thấy, được trong vòng tay chàng dù nửa khắc cũng đủ sung sướng. Từ đó về sau càng nhiều thiếu nữ Ma tộc đua nhau lẻn vào giường của chàng, hơn nữa, các nàng có muôn vàn mánh khóe mở kết giới chàng bố trí quanh tẩm cư của mình, cứ vậy, dần dà Đông Hoa cũng lười bố trí kết giới, coi hàng đêm trước khi đi ngủ đem mỹ nữ trong phòng ném ra ngoài là một môn tu hành, cuộc sống yên ổn như vậy được vài năm. Một đêm nọ, trên giường của chàng cuối cùng cũng không còn thiếu nữ nào nữa, nhưng thay vào đó lại là một thiếu niên mặt hoa da phấn, có hàng chân mày xanh như dãy núi phía xa, mắt thu ba sóng sánh, nhìn có vẻ mảnh mai yếu ớt. Lúc chàng ném thiếu niên ra cửa, chàng ta còn đang gào lên: “Trước khi ngươi ném các mỹ nhân, chẳng phải người đều bế họ ra tận cửa, tại sao ngươi lại lôi ta xềnh xệch vậy! Thế bất công! Bất công!”.

Chiết Nhan thong thả tự rót thêm rượu cho mình: “Đến nỗi về sau, khi Phụ Thần đến Bích Hải thỉnh mời Đông Hoa, chàng lập tức bằng lòng đi theo, có lẽ đó chính là nguyên do Đông Hoa chọn Thần đạo bỏ Ma đạo mà hậu thế lưu truyền. Các thiếu nữ Thần tộc dù sao vẫn hiểu lễ tiết hơn các thiếu nữ Ma tộc, nhưng chỉ khi Đông Hoa ẩn dật trong cung Thái Thần mới thực sự được yên tĩnh hoàn toàn”. Nói xong, Chiết Nhan lại giả bộ than thở: “Đường đường một anh hùng, lại buộc phải trốn tránh thế gian, chẳng trách có câu, nữ nhân như hổ, cả Mặc Uyên không thu nhận nữ đệ tử cũng có nguyên do tương tự. Năm đó, lúc Bạch Thiển bái Mặc Uyên làm sư phụ cũng giả dạng nam nhi. May là Bạch Thiển sáng suốt, không giẫm vào vết xe đổ của mấy nữ đệ tử trước đây của Mặc Uyên, nếu không hôm nay ta gặp Mặc Uyên cũng khó ăn khó nói”.

Tiết lộ xong bí mật đó, Chiết Nhan sảng khoái dặn nàng: “Ẩn tình này mặc dù là như thế, nhưng nạp quyển cho phu tử không thể viết như vậy”. Lại nhỏ nhẹ dạy nàng: “Phu tử chỉ cần trả lời đúng đáp án, nhưng đáp án luôn không đúng sự thật”.

Phượng Cửu nghe xong, thực ra lại mừng thầm, cảm thấy Đông Hoa không thích những mỹ nhân kia là rất hợp ý nàng, rồi lại thấy buồn, mình cũng ái mộ chàng, không biết chàng có thích mình không. Nàng cầm quyển vở lo lắng hỏi Chiết Nhan: “Chàng không thích nữ nhi, không thích nam nhi, vậy chàng không thích gì sao?”.

Chiết Nhan bị hỏi khó, trầm tư một lúc, nói: “Cái này, cần tự mình tổng kết, ta đoán, có lẽ Đông Hoa thích những con vật có lông mao trơn mượt”.

Phượng Cửu buồn bã hỏi: “Chàng thích khỉ ư?”. Lại buồn bã lẩm bẩm: “Người có chứng cớ gì?”.

Chiết Nhan ho một tiếng: “Lông mao trơn mượt là khỉ ư? Mô tả như vậy giống con khỉ à? Không phải khỉ đâu. Chẳng qua ta thấy ba con vật Đông Hoa từng cưỡi đều là loại lông mao, đoán có lẽ Đông Hoa thích những con vật lông mao”.

Phượng Cửu lập tức phấn chấn, chíp chíp chíp hiện nguyên hình, móng vuốt chi trước còn đang quặp cuốn vở: “Tiểu bối cũng là thú lông mao, người nói xem, chàng có thích không?” Lời vừa dứt, cảm thấy lỡ miệng, vội giơ móng xoa mũi: “Tiểu bối chỉ buột miệng hỏi vậy thôi, buột miệng hỏi vậy thôi!”.

Chiết Nhan hào hứng nói: “Đông Hoa cũng thích dũng mãnh một chút, mấy con vật kia đều là mãnh hổ, sư tử”.

Phượng Cửu lập tức nhe nanh, nói qua kẽ răng: “Trông tiểu bối thế này có uy dũng không?”.

Nhớ lại hồi đó, nàng vẫn còn rất ngây thơ, nếu tất cả dừng lại ở đó, cũng có thể xem là chuyện tốt, hôm nay nhớ lại toàn những chuyện thú vị thủa thiếu thời. Phật nói, tham, sân, si là tam độc trên đời, mọi phiền khổ, điều ác đều từ đó mà ra, thuyết pháp của Phật Tổ chung quy vẫn có lý.

Núi Phù Vũ trước mắt rung chuyển, cảnh tượng hỗn loạn, cách mấy bước bên ngoài, Yến Trì Ngộ khoác một lớp huyền quang sáng chói, cầm thanh kiếm đen tuyền, một mình vung kiếm tung hoành trong vầng huyền quang đó, có lẽ đã bị trúng thuật huyễn cảnh. Đông Hoa đứng trên đám mây, gió thổi áo chàng bay phấp phới, ngón tay bấm quyết hóa ra một cái lồng khổng lồ. Phượng Cửu biết, đó chính là lồng Thiên Cương. Trước đã từng nghe nói, còn nhìn thấy hình họa trong Cương mục khí cụ, là một khí cụ rất tốt, cho dù trời long đất lở, chỉ cần núp trong lồng Thiên Cương đó là bình an vô sự.

Lồng Thiên Cương lơ lửng bên chân Đông Hoa, Phượng Cửu nín thở nhìn chàng giơ tay, phủi lọn tóc vương trên vai nàng vừa bị gió từ đường kiếm phạt đứt. Phủi tóc ư? Phượng Cửu nhìn xuống, quả nhiên nàng đã trở lại hình hài con người từ lúc nào, gió quá mạnh chiếc váy lụa dài của nàng tung bay phần phật.

Phượng Cửu ngẩn người, vào những lúc quan trọng, đầu óc nàng lại không linh hoạt, kinh ngạc ngoảnh sang hỏi: “Chàng… chàng… chàng… đã biết ta là ai, thì ra còn biết cách ép ta trở lại nguyên hình?”. Vừa nói xong lại thấy tủi thân, lòng trào phẫn nộ: “Vậy sao không sớm nói ra?”.

Tà khí ù ù rít xung quanh, khiến nàng cũng bạo gan hơn, bất bình nói: “Đương nhiên ta vì thể diện nên mới giả làm chiếc khăn, nhưng chàng làm như vậy cũng không xứng bậc anh hùng, nhìn trò ngốc của ta, có phải chàng thấy rất nực cười?”.

Nàng nghĩ lại, cho dù nàng không phải là người chàng thích, nhưng chung quy vẫn là nữ nhi, cũng cần nâng niu, nhưng xem chừng chàng cũng chẳng coi nàng là nữ nhi vì thế nàng vừa tức vừa tủi thân: “Chàng đã biết ta là ai, sao còn trói ta ở nơi nguy hiểm này? Buộc ta trên chuôi kiếm, để xem ta khiếp sợ run rẩy thế nào, chàng vui lắm ư? Lần trước, ta nói chàng câu đó, cũng không phải cố tình”. Nỗi uất hận, phẫn nộ, xông lên mắt, làm mắt nàng đỏ hoe.

Đông Hoa chỉ nhìn nàng không nói gì, lát sau mới chậm rãi: “Xin lỗi!”. Phượng Cửu vốn nóng tính, vừa giận đùng đùng lại dịu ngay, thấy chàng xin lỗi, lòng cũng vợi đi nhiều, nhận ra vừa rồi mình hơi kích động, cảm thấy có chút bẽ bàng. Xoa xoa cái mũi lúng túng ho một tiếng: “Thôi bỏ đi, lần này…”. Đông Hoa bình tĩnh nói thêm một câu: “Đùa quá rồi”. Những lời độ lượng sắp nói từ Phượng Cửu tức thì mắc lại trong cổ, ở lại đó một lúc, hỏa khí từ cổ xộc lên đỉnh đầu, làm mắt nổ đom đóm vàng chóe, lời nói cũng lắp bắp. Trong ánh đom đóm vàng chóe đó, Đông Hoa giơ tay xoa ở đầu nàng, hình như mỉm cười: “Quả nhiên khiếp sợ như vậy, lộ cả tai ra kìa”. Phượng Cửu tưởng mình nghe nhầm, người này quanh năm Mặt lạnh, sao giờ lại mỉm cười nói đùa với nàng? Bỗng chùm hào quang phía sau bùng nổ như quả cầu lửa, dưới chân, sóng nước trồi lên như con rắn khổng lồ, còn chưa kịp hoàn hồn, cả người chợt nhẹ bỗng, đã bị Đông Hoa nhấc bổng đẩy vào trong lồng Thiên Cương, còn dặn với: “Cứ đợi trong đó đừng ra ngoài”. Phượng Cửu vốn muốn thò đầu ra xem rốt cuộc là chuyện gì, tay mới bám vào vách lồng, tìm cách thò đầu ra ngoài, hình như nghe thấy một câu rất nhỏ của Đông Hoa: “Ngoan nào”.

Phía trước cách không xa, Yến Trì Ngộ mặt xám ngắt cầm kiếm lao tới, xem chừng đã thoát khỏi thuật huyễn cảnh, hiểu ra vừa rồi bị Đông Hoa nhìn thấy mình trúng huyễn thuật, tức đến nỗi khuôn mặt vốn trắng trẻo nổi đầy gân xanh.

Yến Trì Ngộ đang đầy bụng nộ khí, nhìn thấy Phượng Cửu trong lồng Thiên Cương, hỏa khí càng bốc ngùn ngụt, nắm chặt kiếm Huyền Thiết theo lời đồn đại nặng đến vài trăm cân nhằm Đông Hoa bổ tới, còn nghiến răng thét to: “Khá khen đồ Mặt lạnh ngươi, khinh mỗ phải không, đánh nhau với mỗ còn mang theo gia quyến”.

Một người là tôn thần Thiên tộc, một người là thiếu quân Ma tộc, chiêu thức biến hóa càng nhanh, khiến đất trời biến sắc, lúc mưa xuân tầm tã, lúc sấm hạ rền vang, lúc tuyết đông ngập trời, bốn mùa lần lượt trôi qua giữa đường kiếm của hai người, ánh kiếm tựa pháo hoa bùng nổ sáng rực nửa ngọn Phù Vũ.

Phượng Cửu áp người vào vách lồng Thiên Cương, chiêm ngưỡng trận giao chiến đặc sắc, quả thực được mở rộng tầm mắt, từ đáy lòng thán phục. Bỗng trước mắt xuất hiện một màn sương mù, trong lớp sương mù mờ mịt, Yến Trì Ngộ vừa rồi còn ở thế hạ phong, không biết từ lúc nào bỗng xoay chuyển tình thế, trường kiếm lóe sáng, tìm được góc độ nguy hiểm, cơ hồ định đâm vào ngực Đông Hoa.

Phượng Cửu mắt trợn trừng, nhìn kiếm Huyền Thiết từ trắng chuyển sang hồng, nàng dụi mắt, đâm trúng thật sao? Kỳ lạ là, người từ từ lùi sau hai bước lại là Yến Trì Ngộ đau đớn rên rỉ. Sương mù tựa con rắn uốn éo, đột nhiên tản ra, đất trời sáng chói, chùm sáng bao quanh Yến Trì Ngộ bị Đông Hoa một chưởng hất ra, cơ thể Yến Trì Ngộ vùn vụt lao về phía nàng. Phượng Cửu né tránh một cách bản năng, đột nhiên cảm thấy sau lưng có một cường lực hút lấy nàng, không kịp dùng thuật định thân, nàng đã bị cuốn vào xoáy lốc. Nghe thấy Đông Hoa thét gọi càng lúc càng dữ, thất thanh khác hẳn giọng thường ngày, hướng vào vòng xoáy: “Tiểu Bạch”.

Phượng Cửu bị cuốn trong vòng xoáy ù ù, sửng sốt, hóa ra Đông Hoa gọi nàng như vậy, nàng cảm thấy gọi như vậy quả có phần đặc biệt. Hồi nhỏ, nàng thực sự vô cùng ngưỡng mộ cái tên của cô cô nàng: Bạch Thiển, hai chữ đơn giản mạnh mẽ, còn nàng tên nhất định phải ba chữ. Nhưng cho dù ba chữ, nàng cũng hy vọng nó phải thật kêu, giống tên một bằng hữu tốt của tiểu thúc nàng: Tô Mạch Diệp, gọi lên cảm thấy bội phần phong lưu. Nhìn vào mình, Bạch Phượng Cửu, gọi tắt hai chữ Phượng Cửu còn có thể coi là trong cái thú vị bình thường có cái tao nhã, trong cái tao nhã có cái thú vị, có vẻ giống tên của con nhà gia thế, nhưng lại thêm cái họ Bạch của gia tộc nàng, ở chỗ Thái Thượng Lão Quân có một vị tiên khá thân thiết với nàng, tên là Bạch Phượng Hoàn. Nàng luôn than thở về tên của mình, nên không ai dám gọi đầy đủ tên nàng trước mặt nàng, khiến tứ hải bát hoang đều nghĩ nàng họ Phượng tên Cửu. Nhưng Đông hoa lại gọi nàng là Tiểu Bạch, nàng thấy rất thích cách gọi này.

Đông Hoa không thể đuổi theo, Yến Trì Ngộ đã bị thương lại bị gió cuốn vào cơn xoáy cùng với Phượng Cửu. Nhìn kỹ phát hiện ra nàng, nắm vai nàng, tức giận hét to: “Mưu vừa rồi của mỗ, tại sao ngươi không mắc? Lẽ nào ngươi không có ảo giác, gã Mặt lạnh bị mỗ chém thổ huyết?”. Vừa hét lên như thế vừa ảo não: “Huyễn thuật của mỗ lẽ nào chưa đạt được cảnh giới đó? Mỗ còn mặt mũi nào sống trên đời? Mỗ hổ thẹn với danh xưng Ma quân này, chi bằng nhờ cơn lốc, cuốn mỗ xuống Âm Tào Địa Phủ, tìm đạo súc sinh đầu thai làm rùa, còn hơn sống hổ thẹn trên đời, mỗ xưa nay là ngươi dũng mãnh!”.

Phượng Cửu lòng run lên, thấy hắn ghé vào mình quá gần vả lại nàng không muốn cùng hắn đến Âm Tào Địa Phủ đầu thai làm huynh muội nhà rùa, bịt tai, nói vội: “Đã trúng tà thuật rồi, ta nhìn thấy hắn thổ huyết”.

Yến Trì Ngộ sững sờ, nộ khí bừng bừng: “Tiểu cô nương này, đã nhìn thấy người trong mộng của mình thổ huyết, lại không lao ra khỏi lồng Thiên Cương chịu họa thay hắn, ngươi lao ra khiến hắn luống cuống, mỗ sẽ thừa cơ ra tay, hắn trở tay không kịp, mỗ đã xem nhiều vở kịch đều diễn kế đó, trong ‘Mỹ nhân kế’ và ‘Tứ hải chinh chiến ba mươi sáu kế, đảm bảo chắc thắng’ cũng viết như vậy. Ngươi nói xem, tại sao ngươi không lao ra đúng lúc, khiến mỗ trúng chưởng của hắn?”.

Phượng Cửu bị Yến Trì Ngộ hét vang tai hoa mắt, đầu óc rối loạn trả lời: “Không lao ra đúng lúc là ta sai, nhưng ngươi…”. Hai người bị gió thổi chao đảo, “… nhưng người cũng sai, tại sao lại tùy tiện tin những trò vớ vẩn trong kịch? Còn nữa…”, lại lảo đảo, “… Mỹ nhân kế trong ‘Tứ hải chinh chiến ba sáu kế’ là do Ti Mệnh Tinh Quân viết ra, ông ta từ nhỏ đến lớn đánh nhau chưa bao giờ thắng, báo cho ngươi biết, đừng có tin!”.

Vừa dứt lời, cả hai đều rơi xuống vực.

Rơi xuống mỏm đá nhô ra trên vách vực thẳm một lúc lâu, Phượng Cửu mới thấy những lời nàng nói với Yến Trì Ngộ lúc trước có chỗ không đúng.

Về lý, nàng với Đông Hoa nên cùng một phe. Lúc đó nàng không xông ra chịu họa thay Đông Hoa vì cảm thấy, chỉ một mình Yến Trì Ngộ mảnh mai cùng với thanh Huyền Thiết kiếm mảnh mai, nếu chém nàng còn có thể chết người, nhưng chém vào Đông Hoa, cùng lắm chỉ làm chàng sượt da, không có vấn đề gì. Tu luyện của hai người lại khác nhau, khả năng chịu đả thương của cơ thể cũng khác, trong chuyện này nàng đã nghĩ như vậy, nhưng thâm tâm, nàng thực lòng quan tâm Đông Hoa. Mặc dù bị chàng trêu chọc, nhưng dù gì chàng cũng rất nghĩa khí nhường lồng Thiên Cương cho nàng, nàng mới được bình an, cho nên nàng cũng không để bụng, không có ý trả thù. Nhưng, suy nghĩ đó của nàng Đông Hoa làm sao hiểu được, hẳn là trách nàng thiếu nghĩa khí. Sau đó đầu óc rối loạn vì những lời la hét của Yến Trì Ngộ, mất hết minh mẫn, lại còn xin lỗi chàng ta, lại còn thực lòng trao đổi với chàng ta một số suy nghĩ về binh pháp. Phượng Cửu cho rằng, Đông Hoa chắc là có gì hiểu lầm. Hèn nào mới trước đó một khắc miệng còn da diết gọi nàng là Tiểu Bạch, một khắc sau nàng rơi xuống vực thì chẳng thấy bóng dáng. Thử nhìn nhận từ góc độ khác, nếu nàng là Đông Hoa, có những hiểu lầm về nàng như vậy, có khi không chỉ để mặc nàng rơi xuống vực, mà trước đó đã chém nàng một nhát cho hả giận. Vừa nghĩ Phượng Cửu vừa thở than, lòng ảo não. Có một chiến hữu như nàng, hẳn là Đông Hoa cảm thấy đen đủi đến tám đời, chắc giận nàng thật rồi.
 
Tham gia
6/7/19
Bài viết
101
Điểm cảm xúc
41
Điểm
28
Cốc Phạn Âm là một sơn cốc nổi tiếng trên núi Phù Vũ, sinh sống trong đó là bộ tộc Tỷ Dực Điểu cực quý hiếm của tứ hải bát hoang.

Truyền thuyết kể rằng, bộ tộc Tỷ Dực Điểu từ khi được hóa sinh đã yếu nhược, các đời sau càng yếu dần, chỉ cần nhiễm chút độc khí của hồng trần là sinh bệnh. Vì vậy, lão tổ tông nhiều năm trước của họ đã mất bao công sức truy tầm, cuối cùng tìm được cốc Phạm Âm bèn dẫn cả bộ tộc vào đây sinh sống.

Để phòng hồng trần bên ngoài làm vẩn đục thanh tu của bộ tộc, cốc Phạm Âm một giáp mới mở cửa một lần, mỗi lần cũng chỉ ngắn ngủi thoáng chốc, hé một khe, để cho chư tiên Cửu Trùng Thiên đi vào cốc thực hiện những công vụ ngoại giao.

Các vị tiên sứ trên thiên giới thay nhau đến cốc Phạm Âm làm việc, khi lần đầu vào cốc, bản tính đầu tiên cần tu luyện chính là làm sao nắm chuẩn thời khắc khai cốc, lọt vào chỉ qua một khe nhỏ hẹp. Vị tiên sứ có bản lĩnh nhất cũng phải luyện đúng ba ngàn năm.

Phượng Cửu cho rằng Yến Trì Ngộ sao lại lao đến đúng lúc Phạm Âm khai cốc, gió bên dưới sao có thể thổi họ vào đúng lúc thông đạo chỉ bằng một khe hở trên vách đá. Khe hở trên vách đá hẹp như vậy sao có thể cùng lúc cả hai người lọt qua? Tất cả chuyện này chung quy là do duyên phận thế nào…

Phượng Cửu nhìn quanh tìm một tảng đá dài sạch sẽ ngồi xuống, thấy Yến Trì Ngộ đang ôm kiếm Huyền Thiết quỳ bên cạnh mỏm đá bò đầy dây leo, xoay lưng lại phía nàng.

Nàng cảm thấy cái lưng đó hình như đang phẫn nộ.

Vừa rồi lúc rơi xuống Phượng Cửu đè lên người Yến Trì Ngộ, vực cao ngàn trượng, bên dưới toàn lát đá trứng ngỗng khiến chàng ta đau co dúm người nhưng gan góc không rên một tiếng. Khi Phượng Cửu từ trên người chàng ta bò dậy, Yến Trì Ngộ lại co rúm lần nữa, mồ hôi lạnh toát trên trán vẫn cố nhịn không rên. Phượng Cửu suy nghĩ rồi nói một câu cảm ơn, cảm thấy chàng Yến mặc dù có khuôn mặt rất thiếu nữ nhưng lại có chí khí của bậc nam tử, hành động này tuy chưa được coi là cứu mạng nàng, nhưng cũng khiến nàng đỡ đau hơn nhiều. Chàng Yến là người tốt. Nghĩ như vậy, ánh mắt nhìn chàng ta tự nhiên thân thiện lên nhiều, cũng không gọi chàng là họ Yến nữa.

Yến Trì Ngộ dáng mảnh khảnh quỳ bên cạnh mỏm đá, mỗi khi gió thổi, nhìn thân hình yếu ớt trong xiêm áo mỏng manh bay phần phật, không khỏi khiến người ta động lòng.

Phượng Cửu dịu giọng gọi: “Tiểu Yến!”

Tiểu Yến ngoái đầu, cặp mày lá liễu nhướn cao, liếc nàng một cái, đôi mắt sâu lại bừng bừng tức giận: “Nếu còn gọi ta la Tiểu Yến lần nữa, ta sẽ cắt lưỡi ngươi uống rượu.”

Phượng Cửu lại thấy, Tiểu Yến càng như vậy mẫu tính trong nàng xưa nay chưa từng bộc lộ lại trỗi dậy cơ hồ được khơi dậy, lòng trở nên rất mực dịu dàng, vẫn nhẹ giọng nói: “Vậy phải gọi thế nào?”

Tiểu Yến nghĩ một lát, lại ngoảnh đi tiếp tục quỳ nhìn xuống dưới, giọng hầm hầm: “Người phàm gọi những hảo hán lưng hổ eo gấu như thế nào ngươi gọi ta như thế.”

Phượng Cửu nhìn tấm lưng gầy yếu không đủ một chét tay đang run run và những ngón tay như búp măng nhô lên mặt nước, nói: “Tiểu Yến tráng sĩ.”

Tiểu Yến tráng sĩ dường như rất hài lòng vì câu gọi tráng sĩ, giận giữ lúc trước đã tiêu tan, giọng ôn hoà hiếm thấy: “Muốn nói gì, nói đi”.

Phượng Cửu phấn chấn ghé lại gần: “Thực ra muội thấy Tiểu Yến tráng sĩ là bậc anh hùng trượng nghĩa, muội có một nghi vấn muốn thỉnh giáo.” Lại ghé gần hơn: “Năm xưa lừa Đông Hoa Đế Quân vào Thập ác liên hoa cảnh có đúng là do tráng sĩ làm? Trước đây muội cũng tin nhưng hôm nay lại thấy, nếu làm vậy đúng là có phần bỉ ổi, không giống cách hành xử của bậc anh hùng trượng nghĩa như tráng sĩ”.

Anh hùng trượng nghĩa Tiểu Yến tráng sĩ im lặng, mặt thoáng ửng hồng, trông như xấu hổ lát sau mới nói: “Phải…phải, mỗ làm đấy, thế thì sao?”.

Phượng Cửu vô cùng ý tứ tỏ vẻ kinh ngạc.

Tiểu Yến tráng sĩ xấu hổ, bực bội: “Gã Mặt lạnh không phải người tốt, ngươi theo hắn cũng chẳng tốt đẹp gì!”

Phượng Cửu lại ý tứ tỏ vẻ kinh ngạc: “Vậy tráng sĩ nói thử xem”.

Theo lời kể của Tiểu Yến tráng sĩ, nhốt Đông Hoa vào Thập ác liên hoa cảnh hoàn toàn là nhầm lẫn, ông nội chàng năm xưa cũng vẫn đường hoàng chính trực như bây giờ, khi giao đấu với ai luôn đường hoàng, quang minh chính đại.

Năm xưa tráng sĩ một lòng ngưỡng mộ công chúa Tô Hoành, nghe nói ca ca của nàng có ý gả nàng cho đám khác, lòng vô cùng lo lắng. Ma tộc của chàng xưa nay luôn trọng võ, chàng cho rằng nếu đánh thắng Đông Hoa, Cơ Hoành sẽ nhìn chàng bằng con mắt khác, khi đã lọt được vào mắt xanh của công chúa, sẽ đến nói chuyện với ca ca nàng, hôn sự có cơ thành công.

Chàng vận hết tài học nửa đời viết bức chiến thư dài ba tấc rộng ba tấc nhờ mẫu thân của Bắc Đẩu Bội Tinh là chỗ quen biết để chuyển cho Đông Hoa, bảy ngày sau nhận được hồi âm, Đông Hoa trả lời hiện vườn chè ở cung Thái Thần của chàng đang vào mùa thu hoạch, rất bận, tạm thời không chấp nhận chiến thư.

Nhận được phúc đáp một mặt Yến Trì Ngộ cảm thấy lí do Đông Hoa đưa ra cũng chính đáng, vào vụ thu hoạch chè đối với những văn nhân nho nhã như Đông Hoa hẳn là đại sự, mặt khác chàng lại không cam lòng để chuyện kia làm lỡ trận quyết đấu của chàng với Đông Hoa, vậy là chàng bí mật lẻn vào cung Thái Thần, vất vả một đêm hái sạch vườn chè đang đợi thu hoạch, nhét vào bao mang đến cho Đông Hoa. Một việc tốt như vậy lẽ ra Đông Hoa nên cảm động, dành ra vài canh giờ giao đấu với chàng. Vậy mà Đông Hoa không hành sử theo lẽ thường, điềm nhiên nhận bao chè, mặt bình thản như không, cảm ơn một câu, lại thong dong nói, hiện vẫn còn mấy loại cây, loại hoa quý đang cần trồng. Chàng tưởng Đông Hoa cố tình thử thách mình, liền hào hiệp nhận luôn, ra đến đồng mới biết, đâu có phải vài cây mà là ba bốn chục cây giống để ở đầu bờ. Chàng lại vất vả hai ngày, lại trồng hết ba, bốn chục giống cây, giống hoa kia, trở về hồi báo công việc đã hoàn tất. Đông Hoa quả thật lắm việc, lại nói còn hai mẫu ao sen cần sục bùn. Chàng sục bùn ao sen lại nghe nói cung Thái Thần hai năm không tu sửa, cần đảo lại mái, đảo mái xong, nửa vườn hạnh trước sân lại đang chín rũ cần hái quả…

Tiểu Yến tráng sĩ bận rộn liên miên, Đông Hoa lại cầm cuốn kinh Phật ngồi sưởi nắng, ung dung câu cá dưới giàn hoa Tử Đằng, các vị Tiên hầu trong cung cũng thư nhàn, ung dung như chàng, cả cung Thái Thần đều thư nhàn. Để có thể giao đấu một trận với Đông Hoa, Tiểu Yến tráng sĩ nhẫn nhịn thu xếp gọn gàng cả cung Thái Thần, cuối cùng với công lao như thế nhắc Đông Hoa về trận đấu, nhắc Đông Hoa giữ lời hứa. Đông Hoa tay cầm cuốn kinh Phật, cũng không ngẩng đầu: “Ta hứa với ngươi bao giờ?”

Tiểu Yến hỏ: “Chính miệng ngài nói, nếu mỗ giúp ngài làm việc nọ, việc kia, ngài sẽ suy nghĩ đến chuyện quyết đấu với mỗ”.

Đông Hoa thong thả ngẩng đầu: “Ồ, ta suy nghĩ rồi, không đấu nữa.”

Tiểu Yến ngây người, cuối cùng cũng hiểu ra, Đông Hoa lừa chàng. Trước khi lọt vào Cửu Trùng Thiên, hai thủ hạ của chàng đã ân cần khuyên can chàng, rằng Đông Hoa mặc dù ở hải nội có tiếng nghiêm chính trọng nghĩa nhưng tính tình kì quái, đế chủ bản tính thật thà, e là sẽ chịu thiệt thòi, lúc đó chàng còn cho rằng hai kẻ đó nói bừa. Bây giờ mới thấy quả tình chàng đã bị lừa từ lâu.

Cơn giận xông lên đầu, chàng ngẫm nghĩ nhất định phải cho Đông Hoa bài học. Vậy là nửa đêm, chàng lẻn vào bảy tầng địa cung lấy ra Tỏa hồn ngọc được Đông Hoa cất giấu ép chàng ta đến núi Phù Vũ giao đấu. Bích Tích tỏa hồn ngọc chính là phong ấn Thập ác liên hoa cảnh quy tụ mọi ám muội của thế giới, bên trong giam cầm toàn những ác yêu không thể giáo hoá, nếu bị thất tán sẽ can hệ đến bình an của cả tứ hải bát hoang.

Vì miếng bảo thạch đó, quả nhiên Đông Hoa đuổi theo chàng đến tận núi Phù Vũ. Trên đỉnh Phù Vũ diễn ra một trận kịch chiến, Đông Hoa chiêu chiêu lợi hại, Yến Trì Ngộ cảm thấy nguy cơ thất bại, cho rằng nếu mấy ngày trước không vất vả làm bao nhiêu công việc nặng nhọc cho Đông Hoa mình đâu đến nỗi tiêu hao thể lực như vậy, lòng giận bừng bừng liền mở phong ấn miếng bảo ngọc kia, nhốt Đông Hoa vào Liên hoa cảnh trong đó…

Lúc này câu chuyện mới thực sự bắt đầu.

Kể xong, Tiểu Yến tráng sĩ than một tiếng rằng sau chuyện đó thanh danh của chàng bị một vết nhơ, chán nản vận ra một câu đầy cay đắng mà những kẻ đọc sách thường nói: “Tất cả, kì thực chỉ là ý trời”.

Phượng Cửu nén nhịn đã lâu, bật cười “khạch” một tiếng, thấy sắc mặt Tiểu Yến tráng sĩ không ổn, vội trở lại bình thường nói: “Quả thực ông ta đã rất có lỗi với huynh, huynh kể tiếp đi, kể tiếp đi”.

Yến Trì Ngộ ôm cây kiếm ảo não một hồi, lại ngẩng đầu, cười khan hai tiếng, hừ hừ nói: “Kì thực tới giờ, thực tình mỗ cũng không hận hắn bao nhiêu, hắn cũng đã bị báo ứng, nghe nói cách báo thù tốt nhất là thương xót tù nhân, mỗ bây giờ, quả tình rất thương xót hắn”.

Phượng Cửu đang chăm chú lắng nghe, chàng Yến dứt lời, nàng cố giữ sắc mặt bình thường, chỉ một thoáng, vô cùng kín đáo khẽ nghiêng người về phía Yến Trì Ngộ.

Cặp mày lã liễu của Tiểu Yến tráng sĩ khẽ nhướn cao: “Tứ hải bát hoang đều truyền tụng Đông Hoa là vị tiên vô dục vô cầu, nhưng mỗ biết hắn thật tình động lòng trước một người, ngươi có muốn biết người ấy là ai không?”

Phượng Cửu nặt không biến sắc đáp ngay: “Cơ Hoành”.

Tiểu Yến nhảy dựng lên: “Sao ngươi biết?”

Phượng Cửu thầm cắn ngón tay nghĩ: “Khốn thật, đúng là Cơ Hoành”. Sắc mặt vẫn thản nhiên: “Huynh nói tiếp đi, những điều muội biết chưa hẳn là những điều huynh biết.”

Những gì Tiểu Yến nói trước đây Phượng Cửu cũng đoán ra vài phần, quả nhiên Đông Hoa động lòng với Cơ Hoành là do nàng ta chăm sóc chàng lúc hai người bị nhốt trong Thập ác liên hoa cảnh. Phần đầu câu chuyện này thực ra nàng biết rõ hơn Yến Trì Ngộ bởi vì khi Cơ Hoành chăm sóc chàng ở Thập ác liên hoa cảnh, nàng ở ngay bên chứng kiến. Có điều hồi đó, nàng là con tiểu hồ ly không nói được.

Ý nàng vốn không phải biến thành hồ ly trong thời khắc quan trọng đó, nhưng bởi nàng đã có khế ước sinh tử với người khác, chuyện này nói ra thì rất dài.

Hồi đó, khi tin Đông Hoa mang kiếm đến giao đấu ở núi Phù Vũ đến tai nàng, nàng đang cầm chổi quét sân trước cung Thái Thần, lập tức quăng chổi, Phượng Cửu vội vã quay về Nam Hoang, muốn biết rốt cuộc là xảy ra chuyện gì. Lao ra khỏi Thiên môn mới sực nhớ không biết đường đi, may có Ti Mệnh đi qua giúp đỡ, cho nàng mượn bảo bối vừa có thể dẫn đường, vừa có thể cưỡi đi rất nhanh. Bảo bối lập tức đưa nàng đến bầu trời nơi xảy ra cuộc đấu.

Lúc nàng đến, trận đấu ở núi Phù Vũ đã kéo đèn thu binh, chỉ còn cảnh hoang tàn dấu vết của trận kịch chiến, trong vùng đất ngàn dặm đen xì bốc khói, ở giữa một đám đá vụn và bùn đất loé lên tia sáng, trong đám bùn hiện lên một ngọn ngọc sơn cao chừng một trượng. Hai đối thủ lẽ ra đang giao chiến ở đây lại không thấy tăm hơi, chỉ thấy một người đàn ông thân phận khó đoán giữa trời nắng chang chang lại khoác một tấm áo choàng da báo đứng giữa đám mây, dưới ánh mặt trời thiêu đốt, trong tay còn cầm một lò sưởi nhỏ, nhìn Phượng Cửu hỏi: “Ngươi đến cứu người ư?”. Phượng Cửu nhìn ông ta cảm thấy rất quen.

Ngọc sơn trong đám bùn lầy chính là Tỏa hồn ngọc sau khi đã biến hoá. Đông Hoa bị nhốt trong đó. Do bên trong giam giữ một vị tiên nên Yến Trì Ngộ không mang đi được đành vứt lại, phấn khởi mở đường quay về. Người khoác áo da bó chính là Nhiếp Sơ Dần, quân vương của Huyền chi thuộc Ma tộc ngang qua, gặp cảnh này dừng lại xem có thể kiếm chác được gì.

Tỏa hồn ngọc vào thì dễ ra lại khó vô chừng. Khi Đông Hoa tạo ra nó đã chủ tâm như vậy, ví dụ như nếu bên trong giam giữ một vị tiên thì không thể nhúc nhích nửa phân. Nhiếp Sơ Dần nhìn xuống, thấy không làm gì được đang định buông tay bỏ đi, đúng lúc gặp Phượng Cửu, Bạch Phượng Cửu, hồ ly đỏ chín đuôi vừa tức tốc đến.

Nhiếp Sơ Dần bình sinh chỉ có một hứng thú, chuyên thu thập những bộ lông đẹp trơn mượt, bóng bẩy, trong nhà ông ta thê thiếp hàng đàn, tất cả nguyên thân đều là những con thú có bộ lông như thế. Bình thường thần tiên gặp nhau, về lý không nên khai nhãn pháp nhìn nguyên thân của người khác, nhưng Nhiếp Sơ Dần bất chấp. Nhãn pháp của ông ta đã nhìn thấu Phượng Cửu, mặc dù vẫn chưa đến độ mãn khai, nhưng đã là một dung nhan tuyệt thế, nhãn pháp của ông ta đã nhìn thấy nguyên thân của nàng, hồ ly đỏ với chín cái đuôi đỏ chói phong lệ phía sau.

Ông ta giơ tay về phía Phượng Cửu: “Ngươi là thần tiên? Là đồng đảng của Đông Hoa? Đến cứu ông ta?”. Thấy nàng gật đầu ông ta bật cười: “Đông Hoa đã bị Yến Trị Ngộ Quân nhốt trong Thập ác liên hoa cảnh dưới kia, muốn vào cứu ông ta dựa vào tu luyện của ngươi thì không thể”. Nói đến đây hơi dừng lại cười: “Ngươi có bằng lòng trao đổi với bản quân, đem bộ lông đỏ và chín cái đuôi của ngươi cho bản quân mượn chơi ba năm, bản quân sẽ cho ngươi mượn một nửa sức mạnh của mình cứu ông ta. Ý ngươi thế nào?”

Tình thế có phần nguy cấp, Phượng Cửu vừa nghe nói Đông Hoa bị nhốt trong Thập ác liên hoa cảnh hồn vía đã bay lên mây. Đợi khi hồn vía bay về, chỉ nghe thấy Nhiếp Sơ Dần nói cho nàng mượn một nửa sức mạnh để cứư Đông Hoa. Trên đời lại có người tốt như vậy, nàng nghĩ, mặc dù lối phục trang của ông ta quả khiến người ngoài phát hoảng.

Đương nhiên nàng bằng lòng, vô cùng cảm kích gật đầu, gật liền mấy cái. Theo luật lệ Ma tộc, gật đầu như vậy nghĩa là khế ước đã thành. Một đường bạch quang vừa loé, giữa lúc không hiểu tại sao bộ lông đỏ và chín cái đuôi của mình đã bị Nhiếp Sơ Dần cướp mất, nàng mới hiểu câu vừa rồi của hắn nàng đã nghe thiếu một nửa quan trọng. Mất chín cái đuôi thực ra cũng chẳng sao, nhiều nhất là phần sau cụt ngủn không đẹp, nhưng mất bộ lông là mất dung mạo, mất tiếng nói, mất khả năng biến hóa. May gã họ Nhiếp kia vẫn còn chút lương tâm, đổi cho nàng bộ lông hồ ly màu đỏ bình thường để nàng khoác tạm lên người. Không còn thời gian cãi lý với hắn, phải đi cứu Đông Hoa đã.

Bất luận lúc nào nhớ lại, Phượng Cửu đều cảm thấy năm xưa khi nàng xuất hiện trong Thập ác liên hoa cảnh đều vô cùng hoành tráng.

Lúc đó, một vầng ngọc quang tỏa trên đầu nàng, dưới chân giẫm lên hai đám mây, nhận được một nửa sức mạnh của Nhiếp Sơ Dần, cảm thấy gió từ cơ thể mạnh hơn mấy trăm lần, bay vào Thập ác liên hoa cảnh, ngửa cổ là nổi lên một trận gió lớn, há miệng là thổi ra chuỗi cầu lửa, hắt hơi là sấm rền chớp giật, cả người toàn hung khí.

Nàng cảm thấy như thế thật dũng mãnh, thật oai hùng. Nhưng lúc đó Đông Hoa không chú ý tới vẻ dũng mãnh, oai hùng của nàng, bao nhiêu năm không hề hỏi đến.

Lúc này thế giới vô biên trong Liên hoa cảnh đã bị Đông Hoa tạo ra kết giới, phía đầu kết giới bên này trùng trùng bóng tà yêu. Đầu kia không biết Đông Hoa sử dụng phép thuật gì, kiếm Thương Hà cắm ở cách chàng hai trượng, hóa ra bảy mươi hai bóng kiếm xếp thành hai hàng, hai hàng bóng kiếm này không biết sao lại hóa thành từng dãy cây sa la, từ những vòng rễ lớn đâm ra từng khóm bồ đề vãng sinh, trong chớp mắt nở hoa, chớp mắt đã tàn hóa thành trận mưa hoa rợp trời. Cánh hoa tán trên không kết thành một tòa sen bạc tám trụ lung linh. Tòa sen xoay chuyển, Phật pháp vĩnh sinh, từ tòa sen của Phật pháp Vĩnh sinh đột nhiên tỏa ra vạn đạo kim quang, xuyên qua kết giới chiếu thẳng vào đám yêu tà đang giãy giụa, đám yêu phía xa chưa nhận được kim quang hóa độ, lập tức quỳ xuống quy y. Tiên thuật thực thi kéo dài như vậy thực ra chỉ trong một niệm, chưa bằng thời gian hạt cát trên tay rơi xuống đất.

Nhiều năm sau, Phượng Cửu mới hiểu pháp thuật vi diệu phức tạp này, đó là đại hành phổ độ, dùng Phật quang gia trì phổ độ chúng sinh, thế gian chỉ có ba người học được. Hồi đó nàng không biết nó hiếm hoi như vậy, chỉ thấy xúc động bởi vẻ tráng lệ của nó, nếu thanh kiếm Đào Chú của nàng cũng biến hóa được như vậy, có thể biến hóa ra bảy mươi hai chiếc chổi, giúp nàng quét thật nhanh tất cả sân vườn thì hay biết mấy.

Ba người học được pháp thuật này, một là Phật Đà Phạm Cảnh Tây Thiên, hai là Mạc Uyên ở Côn Lôn, ba là Đông Hoa trước mặt nàng. Hai vị trước quả là một phiến bồ đề tâm, khi thực thi đều phổ độ thực sự. Còn Đông Hoa thuần tuý do bị ép phải làm. Muốn thoát khỏi Thập ác liên hoa cảnh chỉ có phá hủy thế giới mà Tỏa hồn ngọc vây hãm, nếu không quét hết tà yêu bị nhốt trong đó, khi phá hủy thế giới bên trong thoát ra tất mang theo tà yêu đó ra theo. Nhưng với phong cách vốn dĩ của chàng, một nhát kiếm tiêu diệt hết, thì ngàn vạn tà yêu bị diệt sẽ tạo thành oán niệm vang khắp tứ hải bát hoang, bị kẻ đó dã tâm lợi dụng, rất có thể khiến thiên hạ đảo điên một phen. Vì lẽ đó, Đông Hoa đành tốn nhiều tâm lực, những tà yêu kia có thể hóa độ được thì hóa độ, không thể độ hóa thì diệt không tha. Nếu có oán niệm cũng không quá nhiều, không thể trở thành mối họa. Không ngờ người hóa độ đó là một lực khí sống, tà yêu lại ngàn vạn, Phật quang chiếu hết một lượt, đã tiêu hao tám phần linh lực của Đông Hoa, nhất thời sức lực chưa kịp hồi phục, thì bên ngoài kết giới lại có mấy ác yêu, ma đầu không thể hóa độ xông tới.

Chẳng mấy khi thấy Đông Hoa rơi vào khốn khó, Phượng Cửu lập tức nắm cơ hội, hoan hỉ nhảy lên võ đài lịch sử. Đứng trên đại võ đài lịch sử, nàng hào khí hừng hực. Bởi thứ nhất, hôm nay đã khác ngày xưa, nàng mượn nửa phần sức mạnh của Nhiếp Sơ Dần, đã là một hồng hồ ly uy vũ thực sự. Hai là, Đông Hoa bên dưới đang nhìn, chẳng mấy khi nàng có dịp thể hiện trước mặt chàng, không phong quang đường hoàng e là uổng công bị Nhiếp Sơ Dần lừa một phen.

Nàng vượt gió, dũng mãnh nhảy khỏi kết giới của Đông Hoa, bọn tà yêu vừa rồi Phật quang không thể hóa độ, chưa kịp trở tay, trên đầu đã xuất hiện chuỗi cầu lửa và tia sét, cầu lửa lăn, sét đánh đều rất chuẩn, bách phát bách trúng. Sau một phen kịch chiến, mấy đại ác yêu vốn quen hoành hành vô đạo, lại bị nàng dễ dàng diệt gọn.

Đương nhiên nàng cũng bị thương, đều là vô tình, một là khi phun lửa, do pháp thuật không thành thạo, làm sém một mảng lông bụng, da bị bỏng mấy chỗ. Hai là, khi đánh sét, cũng không thật thành thạo, tia sét đánh cả vào cái chi trước quên không rút lại, chi trước bị thương khá nặng, sém da nát thịt…

Thần kinh nàng hơi thô, lúc đó không thấy đau mấy, diệt xong yêu quái lòng vừa nhẹ nhõm, đột nhiên thấy đau xót tận xương, cơn đau chạy dọc sống lưng lan vào phủ tạng, người vừa run lập tức rơi thẳng từ đám mây xuống, giữa đường đau quá ngất đi, cũng không biết lúc rơi xuống, lại rơi trúng lòng Đông Hoa đang ngẩng đầu nhìn nàng.

Nhiều năm đã qua, nhưng Phượng Cửu vẫn nhớ, lúc đó nàng chưa tỉnh hẳn.

Nàng đang mơ.

Giấc mơ này rất đạo nghĩa giống như Phật Tổ xả một phần thân thể mình để cứu con hổ đói.

Trong giấc mơ, dưới ánh mắt trời thiêu đốt, khói bụi mù trời, Bích Hải linh thiêng đã cạn khô biến thành vạn dặm nương dâu.

Giữa nương dâu lộ ra một chiếc giường đá, Đông Hoa nằm trên đó, cơ hồ mấy ngày không được ăn cơm, đói khát chỉ còn thở thoi thóp.

Nàng nhìn chàng, lòng ngàn vạn xót xa, không biết tại sao lại nói được, chìa chi trước cho chàng: “Hay là chàng gặm tạm móng của thiếp cho đỡ đói, đã nướng rồi, vẫn còn chảy mỡ đây này, chàng xem”. Đông Hoa đón lấy chi trước của nàng, ngẫm nghĩ một hồi quả nhiên nghe lời, cắn một miếng. Nàng thấy hơi đau, nhưng lòng lâng lâng ngọt ngào. Hỏi Đông Hoa: “Thiếp cố ý nướng sao cho trong mềm, ngoài xém, có phải thịt rất thơm rất ngọt?”.

Nàng mở mắt lọt vào tầm nhìn quả nhiên là Đông Hoa, nhưng nắm chi trước đầy thương tích của nàng lại là một mỹ nhân xiêm áo trắng muốt, nàng chưa từng gặp. Mỹ nhân đang dùng dải lụa mỏng, chỉ rộng bằng đầu ngón tay, mười ngón thon dài thoăn thoắt như máu băng chi trước của nàng bị thương trong cuộc chiến uy phong vừa rồi.Phượng Cửu về sau mới biết mỹ nhân quốc sắc thiên hương này chính là nàng Cơ Hoành nổi tiếng, bởi nghe nói mình chính là hồng nhan gây hoạ khiến Yến Trì Ngộ chạy đến núi Phù Vũ tìm Đông Hoa quyết đấu, nên vội vàng lặn lội đến núi Phù Vũ khuyên can hai người, ngăn chặn một cuộc huyết chiến, nhưng trên đường lại rẽ nhầm lối, không may rơi vào Thập ác liên hoa cảnh này, gặp Đông Hoa đang bị giam cầm.

Nhiều năm sau, khi chuyện cũ đã qua, Phượng Cửu có thể bình tâm, khách quan quan suy ngẫm, mới cảm thấy, Cơ Hoành quả thật có duyên với Đông Hoa hơn mình. Truớc đây nàng không nghĩ đến chuyện này, lúc đó nàng nằm mơ trong lòng Cơ Hoành, đáy mắt in bóng Đông Hoa ngồi cách đó hai, ba bước, lòng đã rộn ràng xúc động, làm gì còn tâm trí suy nghĩ việc của người khác.

Lúc đó là hai ngàn năm sau ngày Đông Hoa cứu nàng ở núi Cẩm Nghiêu.

Hai ngàn năm nay, lần gần gũi nhất của họ là khi Đông Hoa câu cá ở bờ ao trước sân, nàng quét dọn ở bờ ao bên kia. Một lần Đông Hoa chơi cờ bên hoa sen, nàng quét dọn ở bờ ao đối diện, lại một lần Đông Hoa nhàn tản tưới chè trong vườn bằng chiếc bình tưới bằng gốm rất đẹp, nàng quét dọn ở mép vườn phía kia… mặc dù, bao nhiêu năm nàng chưa từng nhìn gần Đông Hoa, nhưng hình bóng chàng in dấu vào tâm khảm đã lâu, còn đậm nét hơn cả “Vãng thế kinh” mà tiên sinh dạy hồi mới đi học, một ngày đọc ba lần.

Chàng không thay đổi nhiều, từ xưa đến giờ vẫn tuấn mỹ uy nghi, nhưng mất một chút tiên lực, dung mạo có phần uể oải như vừa ngủ dậy. Chàng lơ đãng ngồi một bên, tay chống đầu nhìn tay Cơ Hòanh thoăn thoắt qua lại giữa màu lông hồ ly đỏ như lửa của nàng, thần thái an nhiên có phần chăm chú.

Tay Cơ Hoành quả thực khéo léo thuần thục, nhưng Ma tộc phàm là mỹ nhân đều thích để móng tay dài, da thịt Phượng Cửu mềm, không chịu được những móng tay thỉnh thoảng đâm vào, nàng nhăn nhó suýt xoa kêu đau. Đông Hoa mặc dù đánh trận nhiều, kinh qua không biết bao nhiêu chiến sự, khi tiên lực vẫn còn yếu, thỉnh thoảng cũng bị thương nhưng chưa từng động tay vào những việc tỉ mẩn băng bó như vậy, thấy nàng kêu đau chàng bèn lựa mấy dải băng lụa, chấm nước mưa đặt lên tay thử, nói vắn tắt với Cơ Hoành: “Để ta!”. Phượng Cửu không hề biết chàng không có kinh nghiệm băng bó, rơm rớm nước mắt nhìn chàng, còn tủi thân sụt sịt mấy cái.

Khi Liên hoa cảnh vào đêm, những làn sương ấm lập là bay lên, bảng vảng lượn quanh kết giới, giữa màn sương khói, kết giới dường như nhẹ hơn.

Dải lụa trắng thấm hơi sương buộc vào chi trước và chỗ rốn bị thương của nàng. Thần thái Đông Hoa vẫn một vẻ lãnh đạm thờ ơ, ngón tay lại dịu dàng, êm nhẹ hơn Cơ Hoành rất nhiều. Nàng cảm thấy đỡ đau hơn, lát sau đã băng xong. Lúc băng cho nàng, trông chàng rất chăm chú nhẫn nại như vậy, cảm thấy hình ảnh đó đẹp vô cùng.

Đông Hoa buộc xong nút cuối cùng, Cơ Hoành ghé lại nói: “Đế Quân, chàng…băng như vậy, nó làm sao đi được?”.

Phượng Cửu giơ chi trước của mình bị băng như quả bí đao, mắt chớp chớp, lớp băng thấm nước mưa, chưa qua mười ngày nửa tháng là không khô được, cảm thấy chân mình ướt nhớp nháp nhoi nhói lạnh, không đau như lúc trước. Nhưng chỉ có ba chân nếu đứng lâu đương nhiên không vững, vừa cúi người đã may mắn được Đông Hoa nhẹ nhàng kéo vào lòng, nắm lấy cái chân vừa băng của nàng, chìa trước mặt: “Thổi ra một quả cầu lửa xem nào”.

Phượng Cửu không hiểu lắm dụng ý của chàng, nhưng vẫn phun một quả, quả cầu lửa gặp lớp băng ở chân nàng “xèo” một tiếng, tắt phụt. Đông Hoa phun gió thổi mấy đốm lửa chưa tắt hết, nói: “Băng dày một chút mới không bị cháy vào trong”.

Cơ Hoành ngẩn ra, lại nhìn Phượng Cửu, chợt hiểu hàm ý của chàng, cười nói: “Theo thiển ý của nô tỳ, tiểu hồ ly bị thương trong trận đánh vừa rồi, là do không thể tránh, bình thường nó không đến nỗi tự phun cầu lửa làm mình bị thương, e là Đế Quân đã lo xa”. Nói đoạn thấy Phượng Cửu xấu hổ mở to mắt, nàng lại thương xót bổ sung một câu, “Chàng xem nó thông minh thế, không giống một kẻ đần đến mức đó”.

Phượng Cửu nghe Cơ Hoành khen mình thông minh, bỗng lại thêm thiện cảm với nàng ta.

Tay Đông Hoa đặt lên đầu nàng, nhẹ nhàng vuốt chỏm lông mềm mại, nghe vậy liếc nàng một cái: “Ờ, chuyện đó cũng khó nói”.

Phượng Cửu cảm thấy Đông Hoa hiểu lầm nàng quá lớn, xưa nay nàng vẫn biết mình được Đông Hoa thích bởi khuôn mặt hoạt bát thông minh, trong mấy con thú cưng của chàng trước đây, con sau luôn thông minh hơn con trước, đó chính là ví dụ. Suy trước nghĩ sau, nàng cảm thấy kế sách bây giờ là chỉ cần thổi qua một quả cầu lửa, có thể sát thương người ngoài nhưng vô hại với bản thân mới có thể xoá bỏ hiểu lầm của Đông Hoa đối với mình. Vậy là nàng chống người, dốc hết sức mở miệng thổi ra cầu lửa đã nung nấu trong người, nhưng do thổi quá mạnh, cổ họng bị gió quạt, ngứa quá ho một trận, lửa sặc trong cổ họng bị ho bật lại ra, gặp gió cản nên lại rơi trên cái chi trước không bị thuơng của mình, lông bén lửa cháy khét…

Đông Hoa thấy thế vội giơ tay tóm lấy chân nàng. Tiên quang trên bàn tay trùm hàn khí lên quả cầu lửa lập tức làm nó đóng băng. Đông Hoa bế nàng lên, nói với Cơ Hoành, lại như tự nói với mình: “Quả nhiên ngốc thật”. Phượng Cửu ngước mắt nhìn cái chân phải lông bị xém một mảng nhỏ, lại nhìn Đông Hoa lúc này cũng đang chăm chú nhìn nàng, bối rối ngoảnh sang bên, lòng vừa buồn bã vừa đau khổ, vừa sượng sùng mất hết cả thể diện.

Trong kí ức như tờ giấy đã ố vàng của Phượng Cửu, trong Thập ác liên hoa, thế giới nàng đã chung sống với Đông Hoa và cả Cơ Hoành trong bảy ngày, muốn phá hủy nó để ba người thoát ra, Đông Hoa cần tranh thủ thời gian tĩnh dưỡng, khôi phục tiên lực ngày trước. Có một câu nói rất đúng, nơi để trái tim ta chính là quê hương ta. Phượng Cửu ở bên Đông Hoa vô cùng thanh thản yên tâm, Thập ác liên hoa cảnh dù hoang vu cũng trở nên đáng yêu, chỉ tiếc một chi bị thương, không đi nhanh được, mới cố gắng kiềm chế hứng khởi trong lòng, không lăn tròn một vòng tự chúc mừng.

Đông Hoa ngày ngày ngồi tĩnh dưỡng, Cơ Hoành lại chạy khắp nơi tìm đồ ăn, tìm khắp mới phát hiện nơi này chỉ có khoai tây. Thực ra với tu luyện của công chúa, một năm vài tháng không ăn cũng chẳng sao, Đông Hoa càng khỏi nói, nhưng Phượng Cửu vừa trải qua cuộc đấu lớn, tiên lực hao tổn không ít, ngày đầu tiên không ăn đã đói hóp bụng, đứng không vững, Cơ Hoành mới vất vả đi tìm thức ăn, đưa đến cho nàng. Phượng Cửu cảm thấy Cơ Hoành đối với mình như vậy cũng là người tốt. Ba bốn ngày đầu, nàng còn có thể tự thổi ra cầu lửa nướng khoai, nhưng đâu có biết Nhiếp Sơ Dần đã tính toán kỹ, pháp lực ban cho nàng tồn tại ba ngày, sau ba ngày là tự tiêu tán. Cơ Hoành lại luyện thủy hệ thuật pháp, cũng không thể biến ra lửa để nướng khoai cho nàng. Phượng Cửu rầu rĩ, nàng hơi kén ăn, khoai tây chưa nướng, không thể ăn được.

Lúc này, Đông Hoa ngồi thiền bên cạnh đang tu hồi tiên lực tầng thứ nhất, xung quanh nổi lên những cuộn khói trắng cực lớn, tựa như gió Niết Bàn, quang cảnh thực kỳ vỹ. Do Bích Hải nơi chàng hóa sinh mặc dù là phúc đại tiên hương, nhưng lại thu nạp âm khí của bát hoang, xưa nay cần Thiên hỏa để điều hoà. Mỗi lần tu hồi một tầng tiên lực, phải qua Thiên hỏa tôi luyện mới có thể sử dụng cho mình, chính là một pháp môn mà chàng đang tu luỵện. Cơ Hoành nhìn cảnh đó rất đỗi kinh ngạc, Phượng Cửu còn chưa từng trải bằng Cơ Hoành càng kinh ngạc, hết kinh ngạc rồi mắt sáng lên, cố nén đau, chống chi trước xuống đất, dùng móng vuốt chân phải quắp khoai tây cố sức ném vào đám Thiên hỏa chỗ Đông Hoa, thấy ném thành công, phấn khởi vận hết sức ném bảy, tám cú nữa. Sau khi ném hết hai mắt sáng long lanh, lặng lẽ ngồi một bên chờ đợi, quả nhiên lát sau Thiên hỏa tắt dần, bên cạnh Đông Hoa đang ngồi thiền luyện, lăn lóc mấy củ khoai tây đã chín vàng, tỏa mùi thơm phức, trong lòng chàng còn có hai củ nữa.

Cơ Hoành cúi mắt nhìn Phượng Cửu cúi đầu nhặt khoai tây, Phượng Cửu không nhận ra ánh mắt đó, tập tễnh cái chân bị thương chạy đến bên đám khoai tây chín, đầu tiên thận trọng khều hai củ khoai trong lòng Đông Hoa, sau đó dồn những củ lăn lóc ở chỗ khác thành đống nhỏ.

Còn chưa gom hết, đã bị Đông Hoa tóm gáy nhấc lên, Cơ Hoành hoảng sợ nhắm mắt. Trong lòng Phượng Cửu vẫn ôm hai củ khoai tây, hơi nóng nhưng bị Đông Hoa nhấc lên cao như vậy, nếu buông ra khoai rơi xuống, dập mất thì tiếc quá.

Đông Hoa nhướn mày nhìn Phượng Cửu, lấy đi củ khoai tây nãy giờ nàng vẫn khư khư ôm trong lòng: “Một lần mà ăn nhiều vậy sao?”.

Phượng Cửu trợn mắt gật đầu, nàng đang thời dưỡng thương cần ăn rất nhiều. Oái, nhưng thấy Đông Hoa hơi nhướn mi. Không hiểu định làm gì, ngay sau đó chàng bỏ nàng xuống, thản nhiên bửa củ khoai tây làm hai, một to một nhỏ, đưa phần nhỏ cho nàng: “Hôm nay chỉ được ăn bằng này thôi”.

Nàng không biết nói sao, giậm chân giận dỗi, một mẩu bé tý thế này sao no được, lại thấy Đông Hoa ung dung nói: “Hoặc là tựa tảng đá kia đứng phạt nửa canh giờ, ta sẽ đưa nửa còn lại cho”.

Phượng Cửu tủi thân, ôm nửa củ khoai được chia đi đến cạnh hòn đá chịu phạt đứng một khắc, Cơ Hoành lén đến thăm, ngồi xổm trước mặt nàng: “Có biết vừa rồi mi ném mấy củ khoai tây vào lửa, có hai củ ném trúng ngực Đế Quân, ta sợ thay cho mi toát cả mồ hôi”. Phượng Cửu ngoảnh mặt mặc kệ nàng ta, cảm thấy vừa rồi nàng ta không nói giúp mình một câu, như vậy chẳng nghĩa khí chút nào. Cơ Hoành xoay mặt nàng lại, nói tiếp: “Đế Quân chỉ đùa mi thôi, mi đoán xem vừa rồi ta nhìn thấy gì? Thực ra dùng Thiên hỏa nướng khoai tây không tốt, nướng khoai tây phải dùng lửa nhỏ nướng lâu mới ngon, nếu không ngoài cháy trong sống, ăn vào sẽ bị đi ngoài. Đế quân đang ở bên đó nướng cho ngươi mấy củ còn lại, đợi mi chịu phạt xong là được ăn”.

Buổi chiều hôm đó, Phượng Cửu ăn một bữa khoai tây nướng ngon nhất hơn ba vạn năm nay.

Với kinh nghiệm của nàng, ký ức để trong đầu rất dễ rối loạn, đặc biệt là đối với những vị tiên sống quá lâu như họ. Nhưng nếu ký ức để ở đầu lưỡi, có thể tạo thành một dạng bản năng, ví như đứa trẻ được mẹ cho ăn miếng cơm đầu tiên, bao nhiêu năm sau vẫn có thể nhớ mùi vị miếng cơm đó và ví dụ như bữa khoai tây Đông Hoa nướng cho nàng ăn chiều hôm đó.

Thực ra lúc đó Phượng Cửu ngắm khuôn mặt đẹp như tranh của Cơ Hoành, nghe nàng ta nói chuyện với Đông Hoa, có lúc cũng hơi ngưỡng mộ, nhưng mỗi khi Liên hoa cảnh vào đêm, nàng lại thấy mình may mắn bởi nàng chỉ là một tiểu hồ ly. Ví dụ như lúc này, Cơ Hoành phải ngủ bên cạnh hòn đá tảng phía xa để tránh dị nghị, nhưng nàng thì có thể ngủ bên Đông Hoa, hơn nữa Đông Hoa quả nhiên thích những con vật lông mềm bóng mượt, ban đêm hàn khí bốc lên, nàng thấy lạnh, lại được chàng ôm vào lòng ủ ấm.

Mấy đêm đầu nàng ngoan ngoãn dựa vào chàng, còn có chút ngại ngùng, không dám khinh suất manh động. Mấy ngày sau, nàng đã không biết ngại là gì, thỉnh thoảng còn lấy vuốt cào nhẹ tay Đông Hoa, lại giả bộ ngủ li bì nép vào ngực chàng, chàng di dịch một tấc, nàng lại nhích một tấc, nếu Đông Hoa định đến ngủ chỗ khác, nàng lại giả bộ sụt sịt khóc trong mơ. Đây là chiêu hồi nhỏ lúc mẫu thân cai sữa, nàng đã sử dụng, bây giờ lại mặt dày đem sử dụng với Đông Hoa, vậy mà vẫn hiệu quả như thường.

Đêm cuối cùng trong Thập ác liên hoa, trời có mưa nhỏ, Đông Hoa dùng tiên thuật hóa ra một cái lồng chụp trong suốt. Phượng Cửu dán người vào lồng chụp nhìn màn mưa đêm cảm thấy rất hiếu kì, hạt mưa từ xa xăm lên tận đỉnh trời vô tận rơi xuống, lại có màu xanh biêng biếc như ngọc phỉ thuý, bầu trời u ám lại có những tia sáng nhấp nháy, càng nổi bật những tia nước long lanh, giống như thuở hồng hoang, trong cảnh hỗn loạn có một ngọn đèn trời bay lên chiếu sáng mặt đất. Nàng háo hức, lòng dạt dào cảm xúc ngắm nghía một lát, nghĩ tới ngày mai, ngày mai phải ra khỏi chỗ này, ngộ nhỡ Đông Hoa không chịu đưa nàng lên thiên giới, có khi sẽ mãi mãi chia lìa. Cho dù nàng có định bí mật lẻn vào cung Thái Thần lần nữa, cũng phải ba năm sau. Nàng buồn bã lắc đầu, nghe tiếng mưa tí tách, càng thấy cô đơn ủ rũ định quay đầu đi ngủ, vừa ngẩng đầu, thấy Đông Hoa đã ngủ say, mái tóc dài trắng tựa tuyết trên đỉnh núi, lại tựa ánh trăng ngàn, ngày thường trên mặt chàng lúc biểu cảm, thỉnh thoảng trong vẻ ung dung có nét dịu dàng, khi nhắm mắt ngủ khuôn mặt như được tạc từ băng.

Mắt Phượng Cửu sáng lên, chút buồn bã vừa rồi đã quên ở chín tầng mây, vội bò đến trước mặt Đông Hoa, lặng lẽ lại hơi căng thẳng nhìn chàng một lát, thấy Đông Hoa quả là đã ngủ, vậy là nhắm mắt ghé đến định hôn. Nàng đã định hôn Đông Hoa một cái nhân lúc chàng đang ngủ, có điều mấy đêm vừa rồi, trước lúc đi ngủ Đông Hoa luôn nhắm mắt ngồi thiền hơn một canh giờ rưỡi, nàng không chờ được đã ngủ mất. Đêm nay có lẽ ông trời đoái thương nàng thành tâm thành ý, cho cơ hội này, ông trời quả nhiên có để mắt đến nàng, Phượng Cửu mừng rơn.

Nhưng lúc này nàng là tiểu hồ ly, muốn áp môi vào môi Đông Hoa, thực ra hơi khó. Nàng rụt rè lè lưỡi, thử hồi lâu, liếm nhanh một cái vào khoé miệng Đông Hoa, liếm xong một cái mới gục xuống giả bộ ngủ, mắt lại liếc qua kẽ móng nhìn ra. Không thấy Đông Hoa thức giấc. Nàng đợi một lát, chần chừ ít lâu, liếm vào cằm và hai má chàng, thấy chàng vẫn không có phản ứng, nàng mãn nguyện hài lòng, gan cũng to hơn, dứt khoát chống hai chi trước lên vai chàng lại liếm mấy cái vào mắt, mũi chàng. Nhưng vẫn có chút xấu hổ không dám liếm môi chàng.

Nàng cho rằng môi chàng rất đẹp, màu hơi nhạt nhìn rất lạnh lùng, không biết có nên liếm thử không. Không, nàng thiêng liêng hóa cử chỉ này là hôn, không biết khi hôn môi chàng có lạnh không. Đắn đo giây lát, “Đây là nụ hôn đầu của mình”. Nàng thiêng liêng và trang trọng thầm nghĩ, thần sắc cũng trang trọng hẳn, dùng đầu lưỡi thăm dò rồi chấm lên môi chàng. Trong khoảnh khắc ngàn cân treo sợi tóc, Đế Quân đang ngủ say bỗng bừng tỉnh. Phượng Cửu tròn mắt, nhưng nàng đã tính đến tình huống đó, đã thầm chuẩn bị đối sách, nàng sẽ tỏ vẻ bình thường không chút ngạc nhiên, nhưng lòng có phần ai oán nghĩ, đây nhất định là nụ hôn đầu ngắn nhất tứ hải bát hoang.

Dưới ánh sao rực rỡ, trong màn mưa màu phỉ thuý bao quanh lồng chụp trong suốt làm bắn lên những bông hoa nước long lanh, ngân lên nhạc điệu tính tang giống như ai đó đang chơi ngọc cầm. Đông Hoa bị liếm, mặt đầy nước miếng, nhưng vẫn không động đậy, chỉ mở mắt nhìn nàng.

Phượng Cửu nhìn một lát, đoan trang thu lưỡi về, giơ vuốt ân cần lau khô nước miếng trên mặt chàng, bộ dạng thản nhiên như không có chuyện gì. Cảm thấy lúc này nàng là con tiểu hồ ly đáng yêu, Đông Hoa không đến nỗi nghĩ sai lệch, giả bộ là con thú cưng thân mật với chủ, vậy là ổn, đó chính là đối sách nàng chuẩn bị từ trước. Nàng ngây thơ nhìn Đông Hoa một lát, dự đoán quả không sai, mọi việc đều ổn, có thể hôn môi Đông Hoa cho dù không lâu, nhưng như thế cũng là rất hời, mãn nguyện, ngáp một cái, uể oải nằm xuống, trước khi vào giấc ngủ còn vô thức giơ móng âu yếm vờn Đông Hoa. Bên ngoài lồng chụp mưa nhỏ dần, nàng mơ màng đi vào giấc ngủ, lúc trở mình sang trái, lúc sang phải, trong đôi mắt khép hờ của Đông Hoa, thân hình nàng lúc duỗi hình chữ “nhất”, lúc co hình chữ ‘nhân”.

Hôm sau khi Phượng Cửu tỉnh dậy, trời đã sáng, nước mưa màu phỉ thúy tích một vũng to trên đỉnh lồng, mấy tia nắng chiếu lên, lấp lánh như ngọc thạch, lộng lẫy vô cùng. Đông Hoa ở một góc xa xa đang ngồi thiền dưỡng khí trên tảng đá lớn chàng vẫn ngồi, Cơ Hoành không biết tìm đâu được bó rạ, cầm miếng gỗ vuông và hòn đá nhọn, đang nghĩ cách lấy lửa nướng khoai cho Phượng Cửu. Phượng Cửu thong thả đi đến bên Cơ Hoành, hiếu kì xem nàng ta chuẩn bị đá đánh lửa trên gỗ thế nào, bụng không hiểu sao hơi trướng, nấc một cái. Cơ Hoành vẫn chưa đánh ra lửa, nàng dã liên tục nấc đến bảy tám cái. Cơ Hoành giơ một tay xoa cái bụng căng căng óc ách của nàng. Đông Hoa có lẽ đã Thiền luyện xong, nhìn Cơ Hoành vốn chỉ quen luyện thủy thuật cầm hòn đá và mẩu gỗ không biết làm thế nào lấy lửa bèn chậm bước đi đến.

Lúc này Cơ Hoành đang lật ngửa Phượng Cửu, quan sát kĩ cái bụng căng căng của nàng, thấy Đông Hoa đi đến lo lắng gọi: “Đế Quân, chàng lại đây xem thế nào, tiểu hồ ly hình như bị bệnh”. Phượng Cửu bị lật đi lật lại bốn ngửa tám sấp trên mặt đất, cơ hồ vẫn chưa tỉnh ngủ, lim dim hai mắt mơ màng nhìn đôi ủng mây của Đông Hoa trước mắt, lúc này chàng cũng cúi xuống sờ cái bụng căng trướng của nàng, Phượng Cửu đỏ mặt, chuyện sờ bụng này giữa nam và nữ còn phóng đãng hơn nhiều so với liếm mặt, nhất định phải vô cùng thân mật mới làm như vậy, tứ chi nàng căng thẳng hơi run.

Cơ Hoành nín thở, cúi xuống hỏi: “Tiểu hồ ly bị làm sao? Liệu có phải Liên hoa cảnh vốn đã có tà khí, nó lại vừa bị thương, hay là có tà khí xâm nhập cơ thể…”.

Đông hoa đang nắm chi trước Phượng Cửu bắt mạch, nói: “Không sao”. Phượng Cửu mặc dù nửa trái tim để ở chỗ bàn tay chàng đang nắm chân mình, nửa kia vẫn quan tâm bệnh tình của bản thân, nghe nói vậy lập tức vững dạ. Nhưng ngay lúc đó lại thấy cái giọng thanh thanh lành lạnh chậm rãi bổ sung: “Là hỷ mạch”. Nói đoạn chàng nhìn thẳng vào đôi mắt hồ ly đang miễn cưỡng mở to của nàng, tuyên bố: “Có tin mừng”.

Mẩu gỗ trong tay Cơ Hoành rơi xuống, rơi trúng chi sau của Phượng Cửu, làm nàng tức thì hết ngái ngủ, thất kinh vạn bội, mãi lúc sau mới nhận ra chân bị mẩu gỗ rơi vào, rầu rĩ, mếu máo rên một tiếng, khóe mắt đau khổ lăn ra hai giọt lệ hoa.

Mặt Đông Hoa vẫn thản nhiên như không, vừa giơ tay ra xoa xoa cái chân mới bị đau của Phượng Cửu vừa ung dung nhìn nàng, lại bồi thêm một câu: “Linh hồ tộc trưởng không nói với ngươi, hình luật của các ngươi vô cùng nghiêm khốc, nguyên nhân là không thể tùy tiện gần gũi người khác, bởi vì một khi gần gũi rất dễ…”.

Lời chưa dứt đã bị Cơ Hoành đứng ở một bên lắp bắp cắt ngang: “Nô…nô tỳ vẫn chưa từng nghe có…có chuyện đó”.

Đông Hoa nheo mắt: “Nàng cũng thuộc tộc linh hồ?”

Cơ Hoành lắc đầu.

Đông Hoa thủng thẳng nói: “Không phải là người trong tộc, những chuyện như vậy đương nhiên sẽ không nói với nàng, đương nhiên nàng không nghe thấy”.

Phượng Cửu lúc này đã hoàn toàn sững sờ. Nàng không thuộc tộc linh hồ, nhưng lúc này rõ ràng khoác da linh hồ, cũng thừa kế một số đặc tính của dòng tộc. Mặc dù luôn ghĩ nàng với Đông Hoa có chút tiến triển, nhưng không ngờ lại vô tình tiến triển đến mức này, nhất thời vẫn chưa thể nào chấp nhận.

Có điều, đã là cốt nhục của mình, vẫn nên sinh ra chứ? Nhưng đứa trẻ rốt cuộc sinh ra thế nào? Nghe nói khi mang thai có rất nhiều điều phải chú ý giữ gìn, chuyện này nên thỉnh giáo ai? Lại nữa, nếu đứa trẻ sinh ra, nên theo họ ai, Đông Hoa không có họ, luận về lai lịch gốc gác gia tộc, vẫn nên theo họ Bạch của mình thì hơn, nhưng mà, đặt một cái tên chữ chính thức có ý nghĩa vẫn là đại sự, nhưng chuyện này cũng không đến lượt mình lo, tuy vậy, có thể đặt trước cho nó một cái tên thân mật, gọi là Bạch Cổn Cổn được không nhỉ?

Trong một thoáng, đầu óc nàng lóe qua bao ý nghĩ, loạng choạng bò dậy, loạng choạng đi mấy bước, muốn tìm một nơi yên tĩnh để suy nghĩ chuyện tương lai, cái bóng lưng tập tễnh cô đơn và buồn bã đó đi xa, không hề nhìn thấy nụ cười ranh mãnh vừa lóe đã tan trong đôi mắt mơ màng của Đông Hoa.

Hồi đó nàng rất ngây thơ, không biết rằng, mặt tỉnh khô đùa giỡn người khác như thật, luôn là sở thích và hứng thú đặc biệt của Đông Hoa. Ví dụ tính cách quá lạnh lùng của Dạ Hoa và Mục Uyên, nếu bị người khác mạo phạm, họ đa phần không chấp. Hay là kiểu công tử bột như Liên Tống, thực ra rất dễ khiến bị người khác trêu đùa, nhưng nếu bị ai trêu chàng sẽ trả đũa gấp bội. Còn Đông Hoa, tính cách hơi đặc biệt, vạn vạn năm nay không có ai mạo phạm chàng mà có thể an toàn rút lui.

Nói ra cũng thật xấu hổ, nàng bị Đông Hoa lừa chẵn một tháng, mới hiểu không phải vì mình hôn chàng một cái là mạch thường biến thành hỷ mạch, là có hài nhi mọc ra trong bụng. Chuyện này sau khi Đông Hoa đưa nàng trở về Cửu Trùng Thiên, vô tình gặp lại Ti Mệnh, nàng dùng móng vừa vẽ vừa ra hiệu thỉnh giáo ông ta khi có thai cần chú ý những gì, sai khi hiểu rõ ngọn nguồn, ông ta mới cho nàng biết chân tướng sự thật. Phượng Cửu còn nhớ, lúc đó Ti Mệnh cười ngặt nghẽo, chỉ tay lên trời thề: “Điện hạ bị Đông Hoa lừa rồi, nếu điện hạ chỉ hôn ông ta một cái là lập tức trong bụng có tiểu Đông Hoa, thì tiểu tiên có thể chẳng cần ai hôn trong bụng cũng có thể tự mọc ra một tiểu Ti Mệnh”. Nàng cảm thấy Ti Mệnh đã nói đến thế, thì chắc là thật. Có điều sau khi hiểu ra chân tướng sự việc, nàng lại hèn nhát cảm thấy hơi tiêng tiếc, hơi buồn buồn.

Còn những chuyện Yến Trì Ngộ nói, duyên phận nảy sinh sau này giữa Đông Hoa và Cơ Hoành, nàng lại không nghe thấy. Trong kí ức của nàng, khi Đông Hoa bằng một nhát kiếm chém Thập ác liên hoa tan thành ngàn vạn mảnh, khiến Tỏa hồn ngọc cũng bị đập nát vụn, chàng cùng Cơ Hoành chẳng qua khách khí ngồi với nhau một lát trên đỉnh Phù Vũ, sau đó chia tay ai đi đường nấy.

Lúc đó Phượng Cửu rất lo Đông Hoa có thể cho nàng là con hồ ly lai lịch bất minh, chàng xưa nay thích yên tĩnh, có thể không muốn đưa nàng về cung Thái Thần, Cơ Hoành thích nàng như vậy, có lẽ chàng sẽ đem nàng tặng cho nàng ta.

Cái thân hình mũm mĩm lông xù mượt như tơ của nàng sinh ra là để các tiểu thư ôm, bế. Nàng lại hoạt bát kiệm lời, càng khiến người ta yêu. Khi chia tay, Cơ Hoành quả nhiên đúng như nàng đoán, ngỏ ý muốn mang nàng về nuôi. Đông Hoa đang thay băng chi trước cho nàng, tỏ ý không tán thành. Phượng Cửu rất hồi hộp trước thái độ đó của chàng, mặc dù bề ngoài tỏ ra không mấy bận tâm đối với câu trả lời của nàng, nhưng lòng rộn vui. Khi ngẩng đầu nhìn thấy đôi mắt đẹp đầy mong đợi trên gương mặt đẹp như tranh vẽ của Cơ Hoành đã ngấn nước, lại có chút áy náy, vậy là đôi mắt vốn có ánh nước do xúc động vừa rồi, lại làm ra vẻ quyến luyến rầu rĩ nhìn Cơ Hoành, muốn an ủi nàng ta ít nhiều.

Cơ Hoành quả nhiên là người tinh tế, biểu hiện vi diệu đó của Phượng Cửu lập tức được phát giác, nàng lau mắt, cố nài Đông Hoa: “Tiểu hồ ly cũng muốn theo nô tỳ, chàng nhìn xem, mắt nó rưng rưng đáng thương chưa, đây là ý nguyện của tiểu hồ ly…”.

Phượng Cửu nghe ra hàm ý câu đó có nghĩa không ổn, vừa cảnh giác thu lại ánh nước trong mắt, thì đã bị Đông Hoa nhấc lên. Nàng chớp chớp mắt, thấy cặp lông mày chàng hơi nhướn, ngay sau đó nhận ra mình bị Đông Hoa nhét thẳng vào ống tay áo rộng của chàng: “Nó chưa trưởng thành có hiểu gì đâu, tà khí của Ma tộc rất nặng, không hợp với nó”. Giọng chàng hơi lạnh, cũng hơi xa cách.

Nàng vùng vẫy thò đầu ra khỏi ống tay áo, đúng lúc từ xa có hai đám mây trắng lơ lửng bay đến, không để Cơ Hoành nói gì thêm, Đông Hoa đã đem nàng vút lên đám mây, nhẹ tênh cưỡi gió bay đi. Phượng Cửu cảm thấy Đông Hoa nói oan cho nàng, dòng tộc hồ ly đỏ chín đuôi của nàng, do đa phần hiển hiện trên thế gian dưới hình hài con người, khi trở về hình hài hồ ly quả thực có hơi chậm chạp, nhưng nàng đã ba vạn tuổi, đã hoàn toàn trưởng thành.

Nàng nắm ống tay áo Đông Hoa, mắt đưa tiễn Cơ Hoành, nghe thấy tiếng Cơ Hoành khóc gọi phía sau: “Đế Quân, chàng là bậc tôn tiên đế cao vọng trọng nhất tứ hải bát hoang, lại đi tranh giành một tiểu hồ ly với nô tỳ, không sợ tổn thương khí độ ư? Chàng đưa tiểu hồ ly cho nô tỳ nuôi, chỉ một tháng thôi, không nửa tháng, không mười ngày, chỉ mười ngày thôi không được sao…”.

Nàng cảm thấy mình mới tý tuổi đã hồng nhan họa thủy đên mức độ đó, không hề thua kém phong độ của cô cô Bạch Thiển và thúc thúc Bạch Chân, đúng là nghiệp chướng. Đông Hoa nhất định cũng nghe thấy lời Cơ Hoành, nhưng chàng vẫn ung dung cưỡi gió lướt mây, rõ ràng không động lòng.

Nhưng Phượng Cửu lại động lòng, cảm thấy Cơ Hoành có tình với mình, nàng đã chịu ơn nàng ta, sau này nhất định báo đáp thật nhiều, nhưng qua đây cũng thấy Cơ Hoành không hiểu Đông Hoa, xưa nay những thứ tầm thường như phong độ, khí độ chàng không mấy bận tâm.

Những kí ức không mấy hoàn chỉnh cua nàng về Cơ Hoành, cơ hồ chỉ dừng ở đây. Còn một số khác chỉ là những mảnh vụn xung quanh chuyện Cơ Hoành vào cung Thái Thần với danh phận phu nhân của Đông Hoa.

Hồi đó khi được tin Đông Hoa sẽ cưới Cơ Hoành, cuộc sống của Phượng Cửu chìm trong tăm tối, suốt ngày sầu muộn, trí nhớ lõm bõm, chỉ cảm thấy từ khi nàng vào cung Thái Thần đến nay, cung điện vốn cô tịch đó lần đầu tiên náo nhiệt như thế, hỷ khí tưng bừng như thế. Đông Hoa mặc dù vẫn đưa nàng đi đánh cờ, đọc sách như trước, nhưng lòng nặng trĩu, không còn cảm giác mãn nguyện yên vui bên chàng.

Cơ Hoành luôn tìm được cơ hội gần gũi nàng, còn đích thân làm những món ngon lấy lòng nàng, xem chừng từ khi chia tay ở liên hoa cảnh, công chúa không quên con hồ ly đã từng yêu thích, nhưng nhìn thấy bóng Cơ hoành là nàng cố tình né tránh, đi vòng sang phía khác. Có lần thấy Cơ Hoành đứng trên chiếc cầu đá trong hoa viên tay cầm chiếc đĩa đựng mấy củ khoai tây nướng tươi cười vẫy nàng lại, Phượng Cửu liền co cẳng chạy về phía cửa vòm, lủi sau bức tường, lặng lẽ ngó đầu nhìn ra, thấy công chúa đứng sững tay bưng đĩa khoai, nụ cười trong bóng chiều tàn sao mà ảm đạm. Lòng không khỏi xót xa, nàng núp rất lâu sau cửa vòm, thấy Cơ Hoành vẫn đứng đó rất lâu rồi mới bê đĩa khoai lặng lẽ quay đi, ráng trời đỏ rực, nhòe dần trong mắt nàng.

Về sau Phượng Cửu nghĩ, trên thế giới này, giữa con người với con người có bao nhiêu duyên phận khác nhau, những duyên phận chằng chéo ngàn tơ vạn sợi đó cấu thành thế giới đại ngàn, cái gọi là tu luyện của thần tiên, nên là đưa những tư tưởng thần tiên truyền vào ngoài bản ngã, quan tâm nhiều hơn đến những gì ngoài bản ngã, quan tâm nhiều đến số phận chúng sinh, như thế mới là thấu hiểu hồng trần, không hổ tôn danh và thân phận thần tiên mà ông trời ban cho. Ví dụ, Ti Mệnh và Chiết Nhan đều là hai vị tiên đáng để nàng học tập. Nhưng trước nay nàng hầu như chỉ quan tâm đến bản thân mình và Đông Hoa, trong mắt chỉ nhìn thấy một khoảnh trời nhỏ, bao nhiêu chuyện trong thế giới xung quanh đều nhìn không chân xác, nhìn nhận người khác cũng có bao điều ấu trĩ. Đông Hoa đương nhiên có thể có duyên với Cơ Hoành, thậm chí có duyên với Tri Hạc, lúc đó nàng là người thân cận nhất bên cạnh chàng vậy mà lại không hề nhận ra, nghĩ kĩ cảm thấy có phần hổ thẹn. Thân là thần tiên nhưng không cao minh hơn người trần bao nhiêu, đâu còn xứng là thần tiên. Ở Thanh Khâu nàng đã tự phản tỉnh bao ngày, trong quá trình suy nghĩ phản tỉnh đó, cũng nghĩ lại xem có phải Đông Hoa thực lòng tương tư Cơ Hoành, rốt cuộc lúc nào nảy sinh tương tư đó, nhưng quả thực không nghĩ ra, dần dần nàng cũng quên đi.

Không ngờ hôm nay, lúc này trong cốc Phạn Âm lại có thể cùng với Yến Trì Ngộ, người đã tạo ra duyên gặp gỡ cho ba người: nàng, Đông Hoa và Cơ Hoành, đàm luận về những khúc mắc năm xưa, chữ “duyên” ở đời quả nhiên muôn phần huyền diệu.

Đầu tháng sáu, trong cái nắng như thiêu của cốc Phạn Âm, Tiểu Yến tráng sĩ vừa lau mồ hôi trán, ánh mắt mơ màng dõi theo những đám mây lơ lửng phía xa, cùng Phượng Cửu ngồi bên cạnh, đàm luận về mối tình mấy vạn năm duy nhất của Đông Hoa. Trong mắt tráng sĩ đó là mối tình xúi quẩy.
 
Tham gia
6/7/19
Bài viết
101
Điểm cảm xúc
41
Điểm
28
Đoạn đầu của mối tình này, Phượng Cửu biết hồi đó nàng và Cơ Hoành vẫn chưa có liên quan gì.

Ngày hôm đó của ba trăm năm trước, khi tiên quang chói lọi phá vỡ đỉnh Phù Vũ, Đông Hoa oai phong bước ra khỏi Thập ác liên hoa cảnh, việc đầu tiên không phải là đi hỏi tội Yến Trì Ngộ, mà là đưa nàng về cung Thái Thần. Thập Tam Thiên mênh mông, dưới chân thành, mấy chục tiên bác từ cung Thái Thần nhất loạt quỳ rạp đến tận cửa Nhất Thập Tam Thiên để chịu tội không bảo vệ chu đáo Tỏa hồn ngọc. Đông Hoa sải bước trên mênh mang mây xanh và tiếng niệm Phật đi thẳng vào cung môn, các vị tiên bác tự cảm thấy mắc trọng tội, đầu cúi sát đất, không dám ngẩng lên. Rất nhiều vị từng là những dũng tướng hiển hách trong chiến sử hồng hoang, mà nàng đã nhìn thấy chân dung trong sách khi còn đi học.

Đông Hoa đặc biệt giao nàng cho Trọng Lâm trưởng quân tận tâm nhất cung Thái Thần chăm sóc, nhưng Phượng Cửu không muốn người khác chăm sóc mình, cảm thấy Đông Hoa thay băng, rửa vết thương rất khéo, bộ vuốt bé nhỏ một mực bám chặt vạt áo Đông Hoa không đi. Đông Hoa giơ cánh tay trước mặt nàng ý bảo nàng với lên, nhưng chân nàng ngắn, chới với mãi không sao chạm đến cánh tay chàng, mặt ỉu xìu thất vọng.

Hai nữ hầu tiên có vẻ bạo gan đứng bên cười khúc khích, Phượng Cửu cảm thấy bị xúc phạm, quắc mắt lườm họ. Đôi mắt lãnh đạm của Đông Hoa lúc này cũng hiếm hoi lộ ra nụ cười, nhấc nàng đặt lên chiếc quạt mềm, xoa đầu nàng. Phượng Cửu cho là cử chỉ đó có nghĩa chàng thấy nàng đáng yêu, mắt vội liếc ngực áo chàng định chui vào đó lần nữa, nhưng Đông Hoa đã vẽ một vòng tròn, tạo kết giới xung quanh nàng, còn dặn mấy nô bộc đứng bên: “Tiểu hồ ly rất hiếu động, trông nom cẩn thận, đừng để nó chạy lung tung, tránh vết thương ở chân càng nặng.”

Phượng Cửu vẫn muốn theo chàng, sử dụng tuyệt chiêu lợi hại giả vờ hu hu khóc, còn giơ chân giả bộ lau nước mắt. Có lẽ điệu bộ không thật giống, lúc lén liếc Đông Hoa liền bị bắt gặp, đành mặt dày lau mắt tiếp tục khóc, Đông Hoa đứng tựa vào cửa sổ nhìn nàng: “Ta rất thích chọc kẻ khác khóc, khóc to nữa lên”. Tiếng khóc của nàng liền dừng trong cổ. Thấy nàng không khóc nữa, chàng mới đi đến, giơ tay xoa đầu nàng: “Phải ngoan, nghe lời Trọng Lâm, mấy ngày nữa công việc xong xuôi ta lại đến đón ngươi về”. Nàng ngửa mặt nhìn chàng rất lâu, đành khuất phục miễn cưỡng gật đầu.

Phượng Cửu còn nhớ, lúc Đông Hoa cúi nhìn nàng trông rất dịu dàng. Thực ra bây giờ nghĩ lại, cũng chẳng khác gì bộ dạng của cô cô Bạch Thiển lúc xem kịch hoặc Ti Mệnh lúc xem cuốn sổ mệnh số người trần, rõ ràng là bộ dạng chủ nhân nhìn… vật cưng của mình.

Phượng Cửu thở dài. Tất cả những chuyện cũ vẫn rõ ràng như mới, nhớ lại sau lần đó đúng ba mươi ngày Đông Hoa cũng chưa quay lại đón nàng, cuối cùng do đợi chờ quá sốt ruột nàng mới lừa Trọng Lâm bỏ kết giới, lén đi tìm Đông Hoa, giữa đường lại gặp Ti Mệnh ở cổng Nam Thiên. Trước đó nàng không cảm thấy, trong ba mươi ngày đó có thể xảy ra chuyện gì lớn, lúc này mấy trăm năm sau, nghe Yến Trì Ngộ mặt mũi hớn hở nói một thôi, mới hiểu trong ba mươi ngày đó xảy ra mấy chuyện, chuyện nào cũng kinh thiên động địa.

Đây là nửa sau câu chuyện giữa ba người: nàng, Đông Hoa và Cơ Hoành mà nàng chưa biết.

Trong mấy ngày Đông Hoa mất tích, rõ ràng là đi tìm Tiểu Yến tráng sĩ khiêu chiến, rõ ràng khiêu chiến thành công, về đoạn này Tiểu Yến tráng sĩ chỉ nói mập mờ, có lựa chọn và rất vắn tắt, cuối cùng chàng Yến giơ tay xoa mũi nói: “Kỳ thực theo lý thì sau khi đánh nhau với mỗ, ông ta nên từ đâu đến thì cút về nơi đó, mỗ không hiểu, tại sao ông ra còn quanh quẩn ở núi Bạch Thủy.”

Phượng Cửu đội nửa cái lá to hái ở cạnh vách núi, che ánh nắng gay gắt trên đầu trả lời Tiểu Yến: “Có lẽ đánh nhau xong chàng ta cảm thấy vẫn còn thời gian rỗi, liền nhân tiện đi núi Bạch Thủy tìm cây long não và cây thanh…”.

Câu nói này đâm vào trái tim mẫn cảm, không chịu thua của Tiểu Yến tráng sĩ, ánh mắt phẫn nộ và ưu phiền của chàng đã lùi chữ “liên” cuối cùng sắp ra khỏi miệng Phượng Cửu: “Mỗ đây thân thể tráng kiện như vậy, trong mắt ngươi lại là đối thủ yếu ớt như vậy sao? Vừa đánh nhau xong với mỗ, ông ta lại vẫn có thể thư nhàn du sơn ngoạn thủy, ngắm hoa, ngắm cây ư?”.

Phượng Cửu im lặng nhìn Tiểu Yến giây lát, mặt thản nhiên chỉnh lại lá cây trên đầu: “Đương nhiên không phải, ý tiểu bối nói…”. Nàng dừng lại: “Có lẽ chàng ta đi núi Bạch Thủy tìm thảo dược trị thương cho mình”.

Tiểu Yến tráng sĩ tương đối thích cách lý giải này, gật đầu, ngữ trọng tâm trường nói: “Ngươi nói đúng, để tìm thảo dược trị thương cho mình, Mặt lạnh đã đi khắp núi Bạch Thủy”. Chàng ta lại tiếp tục câu chuyện: “Nếu không sao lại nói ông trời không có mắt, đúng lúc đó Cơ Hoành cũng chạy đến núi Bạch Thủy…”.

Đúng như Phượng Cửu nói, chuyến đi núi Bạch Thủy của Đông Hoa quả thực để tìm kiếm hai thành phẩm điều chế một loại hương huyền bí. Trong đầm Bạch có mọc loài sen xanh và cây long não kí sinh trên cây sen xanh có tuổi cả vạn năm là một kì quan của núi Bạch Thủy. Do hai loại cây có mùi hương đó sống dựa vào nhau, khiến trong sen có mộc hương, trong mộc hương có hương sen, vạn năm nay đã thu hút bao nhiêu đại sư chế hương lặn lội đến tìm.

Sở dĩ phải “lặn lội tìm đến” là do bản thân núi Bạch Thủy địa thế vô cùng hiểm trở, lại thêm trong đầm có một con muỗi dữ sinh sống, những đại sư chế hương đến đây, không cẩn thận bỏ mạng trong đầm, đều trở thành bữa tiệc thịnh soạn cho con muỗi dữ nọ. Phượng Cửu từ nhỏ đã rất muốn thần phục con muỗi kia đem về nuôi chơi, những gì nghe được về con muỗi trứ danh này là khi Đông Hoa trở về cung Thái Thần, ung dung lôi trong tay áo ra một bọc nhụy sen khô và mấy đoạn vỏ long não, nàng hiểu ngay con muỗi trứ danh ở núi Bạch Thủy mà nàng rất ưng ý, e là đã xúi quẩy rồi.

Còn chuyện Cơ Hoành đi núi Bạch Thủy lại liên quan đến một bí mật của Ma tộc.

Ma tộc có bảy chi, Húc Dương ca ca của Cơ Hoành là quân vương của Xích chi. Nghe đâu lúc Cơ Hoành còn rất nhỏ Húc Dương đã cử riêng một thị vệ bảo vệ nàng. Thị vệ này mặc dù xuất thân bình thường, nhưng từ nhỏ có khuôn mặt thông minh hoạt bát, rất được các bậc trưởng bối trong dòng tộc yêu thích, được cả Vương thái hậu cô quả trong thâm cung rất mực sủng ái. Đến nỗi Húc Dương cảm thấy để tiểu đồng khôi ngô như vậy theo hầu Cơ Hoành không thỏa đáng lắm, nhưng khi định chọn một người kém sắc hơn, thì người đầu tiên phản đối kịch liệt lại là mẫu thân của họ. Vương thái hậu đầu tiên là khóc lóc rồi làm ầm ĩ cuối cùng dọa tự vẫn. Cơ Hoành tuy còn nhỏ chưa hiểu chuyện cũng đứng bên lau nước mắt dỗ dành, làm cho tiểu thị vệ tên Mân Tô đó với bộ mặt ngây thơ giật ống tay áo chàng cầu xin: “Quân thượng làm thái hậu khóc rồi, mau dỗ đi”. Húc Dương điên đầu, đành chịu thua…

Về sau tiểu thị vệ Mân Tô lớn dần, càng trở nên một trang nam nhi tuấn tú, Húc Dương càng nhìn tiểu thị vệ càng thấy không ổn. Mân Tô dùng bữa với họ nhưng không hề động đến rau cần và cà chua là loại rau có nhiều chất dinh dưỡng, Húc Dương cau mày, cảm thấy không ổn. Mân Tô mặc áo chùng màu lam nhạt, mảnh mai như một cây hành, Cơ Hoành rất thích ngồi xích lại gần to nhỏ với tiểu thị vệ đó, Húc Dương cau mày cảm thấy không ổn. Mân Tô nửa đêm luyện kiếm ở hoa viên, luyện kiếm thì không hề chi, nhưng lại không biết đường chuẩn bị cái khăn để lau mồ hôi, nhỡ cảm lạnh không chăm sóc được Cơ Hoành thì sao, Húc Dương cau mày cảm thấy không ổn. Con ngựa của Mân Tô gần đây bị ốm, đi lại không tiện, nếu Cơ Hoành có việc sai tiểu tử đó đi chặng đường dài đến nơi nào đó, làm sao đi nhanh được, Húc Dương cau mày, cảm thấy không ổn. Vậy là Húc Dương hạ một đạo chỉ, đại ý có bốn điểm: Thứ nhất, mỗi người mỗi bữa ăn nhất thiết phải ăn rau cần và cà chua. Thứ hai, trong cung không được may áo, may tất cả bằng lụa màu lam. Thứ ba, xuất môn luyện kiếm nhất định phải mang theo khăn bông lau mồ hôi. Thứ tư, trong cung phải có một kho quản ngựa, ngựa của ai bị ốm có thể đến mượn dùng. Quả nhiên, kho quản ngựa vừa dựng xong, mới đưa vào mấy con ngựa, Mân Tô đã hớn hở đến mượn một con dắt đi, hơn nữa, tiểu tử đó dạo này do kiên trì ăn rau cần và cà chua, cơ thể vốn mảnh mai đã trở nên rắn chắc hơn nhiều, Húc Dương một mặt cảm thấy yên tâm, một mặt tự nhủ tất cả đều vì Cơ Hoành. Chàng cảm thấy vì tiểu muội chàng quả thực đã vất vả, nhọc lòng bao nhiêu.

Là một trong bảy vị quân vương của Ma tộc, bổn phận của chàng vốn đã nặng nề, mỗi ngày lại phải phân tâm để ý đến tiểu muội và tiểu thị vệ điển trai kia. Hôm nay tiểu thị vệ đó nói mấy câu với Cơ Hoành? Có phải nhiều hơn hôm qua hai câu? Khoảng cách gần nhất mà Mân Tô ở bên Cơ Hoành là mấy tấc? Có phải gần hơn một tấc so với hôm qua? Từng chi tiết đều khiến chàng bận tâm, lo lắng. Hơn nữa chỉ cần có mặt Mân Tô, ánh mắt chàng luôn không làm chủ được, luôn liếc mấy cái xem tiểu tử điển trai có biểu hiện nào không đúng thân phận đối với Cơ Hoành. Nhưng cho đến khi cùng các vị trưởng bối trong tộc nghị bàn xong hôn sự của Cơ Hoành, quyết định phải gả nàng vào cung Thái Thần của Đông Hoa Đế Quân, Húc Dương vẫn không phát giác được dấu hiệu tư tình nào của hai người đó, lòng chàng không hiểu sao lại có chút thất vọng, nhưng đây là lần đầu tiên sau bao nhiêu năm chàng cảm thấy Mân Tô rất ổn, cảm thấy cái vẻ hoạt bát của tiểu tử đó khi cúi mi nhìn xuống có vài phần khiến người ta yêu mến, dần dần thái độ, nói năng của chàng với Mân Tô cũng trở nên hòa nhã hơn trước vài phần.

Nhưng không biết vì sao, từ sau đó, chàng thấy Mân Tô thường lặng lẽ ngồi một mình ngơ ngẩn trong hoa viên, chàng sải bước đến trước mặt, mấy lần cũng không nhận ra, nếu có sực tỉnh phát hiện ra chàng, thì chàng chưa kịp lên tiếng đã chạy biến như con thỏ. Có lần chàng quả thực rất hiếu kì, khi rón rén đến gần tóm gáy áo Mân Tô, ai ngờ tiểu tử đó lại dùng đến cả chiêu ve sầu thoát xá, ngang nhiên tuột khỏi tay chàng, để lại chiếc áo rộng trống không trong tay chàng, bay bay trong gió. Chàng cầm chiếc áo, đứng nguyên chỗ đó rất lâu, cảm thấy hơi kì, mấy ngày sau đều không thấy Mân Tô, hoặc là từ xa phát hiện một góc vạt áo hơi giống, dụi mắt nhìn, lại đã biến mất tăm, chàng nghi ngờ mắt mình gần đây hơi kém.

Húc Dương từ nhỏ đã rất chú ý dưỡng sinh, luôn có thói quen đi dạo trong vườn hoa viên sau bữa trưa, hôm nay chàng đi đến bờ ao, từ xa đã nhìn thấy bóng Mân Tô mấy ngày nay không hiểu lủi đi đâu, đang cắm cúi làm gì bên ao sen, chàng nhón chân bước tới gần, quả nhiên là cậu ta, mặc chiếc áo chùng có những đường hồ màu thanh thiên giống như quả mướp, đang cầm bút bò trên những tảng đá tô tô vẽ vẽ gì đó, bộ dạng vừa chăm chú vừa thành kính. Húc Dương biết Mân Tô từ nhỏ không thích bút nghiên, lớn bằng ngần ấy chỉ biết vài chữ, làm sao có thể viết được gì, chàng quả thật vô cùng hiếu kì, trầm ngâm hồi lâu, rón rén đến sau lưng đứng xem.

Bờ ao, gió mang hơi sen thoáng lạnh, chàng ngó nhìn, có đến nửa trang giấy thô là chữ hoặc hình vẽ xiêu vẹo, xâu chuỗi lại thành mấy câu cũng rất văn vẻ ngụ tình, hình như là “Đêm về cảnh đẹp như thơ, nhớ chàng trằn trọc canh chầy”. Húc Dương tuy tuổi không nhỏ nhưng cũng không rành chuyện phong tình, cũng có thể nhận ra đây là bức thư tình, phần mở đầu không thấy đề tên, cũng khó đoán rốt cuộc tiểu tử đó định viết cho ai.

Húc Dương giơ tay, rút nhanh tờ giấy trên bàn đá, Mân Tô đang cắn bút trầm tư, ngẩng đầu nhìn thấy chàng, mặt bỗng đỏ lựng, vô thức giơ tay định giật lại, nhưng không kịp.

Gió nhẹ thổi qua, một góc bức thư hơi cuốn lên, Húc Dương vừa đọc vừa đoán từng chữ, rồi nhìn lướt một lượt, trầm ngâm đọc hai câu: “Sàng tiền nguyệt quang bạch, triển chuyển bất đắc miên[1]”. Dừng lại hỏi: “Viết cho ai?”.

[1] Nghĩa là: Trước giường ánh trăng bạc, trằn trọc không ngủ được. Lấy ý câu thơ: “Trước giường ánh trăng sáng vằng vặc ngỡ sương sa trên mặt đất” trong bài Tĩnh dạ tứ của Lý Bạch.

Mân Tô bình thường hoạt bát như một con khỉ con, lúc này mặt lại cúi gằm, tai đỏ tới tận vành, đứng im nhưng không trả lời.

Húc Dương hiểu ra: “Viết cho Cơ Hoành?”.

Mân Tô kinh ngạc ngẩng nhìn chàng một cái thật nhanh, lại lập tức cúi xuống.

Gã tiểu thị vệ này dám thích tiểu muội của chàng, vậy mà trước nay không để lộ dấu vết. Chàng nghĩ, là do trước đây rất bình yên còn bây giờ thấy Cơ Hoành sắp được gả đi cho một nam tử hoàn hảo nhất tứ hải bát hoang, cho nên mới khiến tiểu tử đó lộ ra nỗi niềm giấu kín trong lòng đã lâu? Nhìn bộ dạng này, nhất định đã không thể nào kìm nén được tình cảm với Cơ Hoành nên mới viết thư thổ lộ, đương nhiên, Cơ Hoành là tiểu công chúa đáng yêu, rất xứng với bức thư tình này…Húc Dương suy nghĩ rất lung nhưng không để lộ ra mặt, đứng ngây ra mãi, rồi “hừ” một tiếng, bỏ đi…

Hai ngày sau, tin Yến Trì Ngộ giao đấu với Đông Hoa ở núi Phù Vũ đã lan khắp vùng Nam Hoang yên tĩnh bao năm, truyền đến tai Cơ Hoành. Cơ Hoành lòng muôn phần áy náy, trong đêm mưa tối mịt mùng, một mình lẻn đi núi Phù Vũ để can gián. Ngay đêm Cơ Hoành trốn đi, mấy thị vệ lọt vào phòng Mân Tô, trói chàng ta đang nằm ngơ ngẩn đưa ra khỏi cung.

Lúc này, bên cạnh thủy kính, Húc Dương một mình bày một ván cờ, vừa suy nghĩ nước đi, vừa bồn chồn quan sát động tĩnh trong thủy kính. Chàng nhìn thấy Mân Tô lúc đầu không ngoan ngoãn chịu để cho thị vệ trói, mà nhanh như cắt rút thanh kiếm ở đầu giường chặn toán thị vệ, định đấu một trận sống mái, đến khi thị vệ trưởng nghiêm mặt tuyên bố: “Quân thượng hạ lệnh đưa ngươi đến núi Bạch Thủy tự phản tỉnh lỗi lầm”, thanh bảo kiếm trong tay Mân Tô mới “xoảng” một tiếng rơi xuống nền, các thị vệ mới nhân cơ hội xông đến nhanh chóng trói lại. Khi Mân Tô đã bỏ tay chịu trói, Húc Dương nghe thấy tiểu tử đó buồn rầu hỏi thị vệ trưởng: “Tiểu bối biết mình có tội…nhưng có đúng ý quân thượng là phải đến núi Bạch Thủy?”. Thị vệ trưởng thở dài: “Quân thượng có chỉ đúng là núi Bạch Thủy”. Nghe lời xác nhận đó, Mân Tô im lặng cúi đầu, từ chỗ của mình Húc Dương cũng không nhìn ra vẻ mặt Mân Tô lúc đó. Chỉ khi áp giải Mân Tô ra khỏi tẩm cung của Cơ Hoành, mới thấy tiểu tử đó đột nhiên ngẩng đầu nhìn về phía điện Xích Hồng nơi chàng thường ngày nghị sự, mặt trắng bệch không sắc máu, nhưng ánh mắt lại rất bình thản.

Tạm thời giam lỏng Mân Tô, mà lại giam ở núi Bạch Thủy, đưa ra quyết định này cũng khiến Húc Dương hao tổn một ít tâm lực. Bởi lẽ, trong tứ hải bát hoang, vùng thổ địa rộng lớn nhất chính là Nam Hoang do Ma tộc thống lĩnh, thứ đến là Tây Hoang do Quý tộc thống lĩnh. Còn các nước như Thanh Khâu do Hồ tộc chín đuôi và các vùng sở thuộc ngũ hoang như đông nam, đông bắc, tây nam, tây bắc đứng đầu là Đông Hoang tổng thổ địa cũng chỉ bằng Nam Hoang. Lãnh giới của Thiên tộc nhiều hơn một chút, ba sáu thiên trên trời và tứ hải đông tây nam bắc dưới đất cùng với Bắc Hoang đại địa đều dưới quyền cai quản của họ, có điều nhân khẩu của Thiên tộc cũng quả thực nhiều hơn, lại thêm hàng năm những bậc tiên tu ở phàm thế ngoài tứ hải bát hoang, sau khi tu tiên đắc đạo cũng nhập vào Thiên tộc nên bổn phận của Thiên tộc cũng nặng nề hơn. Tuy vậy, mặc dù Ma tộc thừa hưởng đức của tổ tông chiếm cứ vùng đại lục rộng nhất tứ hải bát hoang, tiện bề thống lĩnh, nhưng trong đại lục này cũng không ít rừng thiêng nước độc, núi Bạch Thủy chính là nơi đáng sợ nhất. Trong ấn tượng của người dân xung quanh, đó là ngon núi đã đến là không thể thoát ra. Thế dốc đứng cả bốn mặt, vô cùng hiểm trở, bên trong quanh năm đầy chướng khí, thảo mộc sinh trưởng ở đây đa phần đều có độc, dã thú do sinh sống trong môi trường khắc nghiệt cũng trở nên hung dữ. Người nào lọt vào đây coi như lọt vào tử địa. Khi nghe tin Húc Dương đưa mình đến núi Bạch Thủy, sắc mặt Mân Tô xám ngoét như vậy cũng không phải không có căn nguyên.

Thực ra khi quyết định đưa Mân Tô đến núi Bạch Thủy, Húc Dương không có ý đó, chàng chỉ định: Một là để tách Cơ Hoành và Mân Tô, chàng cảm thấy nếu tiểu tử kia dám bạo gan thổ lộ, Cơ Hoành đứa bé ngây thơ lương thiện chưa biết chừng đồng ý cũng nên, như vậy sẽ trở thành chuyện đàm tiếu đáng xấu hổ của bộ tộc. Hai là đưa Mân Tô đến núi Bạch Thủy cho dù Cơ Hoành từ núi Phù Vũ trở về biết, với mối thâm giao từ thưở nhỏ động lòng muốn cứu cũng không thể đi được, nhất định chỉ có đến tìm chàng khóc lóc ầm ĩ, như vậy cũng không sao. Chàng chỉ có một đối sách là trì hoãn, trì hoãn cho đến khi suôn sẻ gả Cơ Hoành cho Đông Hoa rồi sẽ thả Mân Tô, cách này là thượng sách. Vả lại, Mân Tô từ nhỏ bẩm sinh đã có đặc tính kì lạ, bách độc không thể xâm nhập được vào cơ thể, còn mặc dù núi Bạch Thủy nhiều mãnh thú, nhưng là thị vệ của công chúa, ngay mấy con mãnh thú cũng không trị nổi thì cũng không xứng là thị vệ của công chúa. Với suy tính như thế, Húc Dương thanh thản ra chỉ lệnh, đưa Mân Tô đến núi Bạch Thủy.

Ánh mắt Mân Tô lại nhìn về phía này lần cuối, đến mức dưới cái nhìn đó quân cờ trong tay chàng tuột ra, lăn theo mép bàn rơi xuống đất, chàng nhận ra nét bối rối trong đôi mắt bình thản đó. Húc Dương cầm quân cờ lên thầm nghĩ, tiểu tử kia từ nhỏ chưa từng nếm mùi lãnh cung, đưa đến núi Bạch Thủy rèn luyện cũng không phải không hay. Nhưng ngộ nhỡ Mân Tô không trở về được nữa thì sao, điều này chàng chưa hề nghĩ tới.

Cái đêm Cơ Hoành từ núi Phù Vũ trở về, Nam Hoang có một trận mưa như trút nước, chuyện Mân Tô bị phạt đưa đến núi Bạch Thủy chắc chắn Cơ Hoành sẽ biết ngay. Húc Dương ngồi trong điện Xích Hồng vừa uống trà vừa có ý chờ tiểu muội đến hỏi tội, nhưng đã uống cả mạt trà vào miệng vẫn chưa thấy bóng dáng Cơ Hoành. Đến sáng hôm sau, thị nữ của Cơ Hoành tay nâng váy loạng choạng chạy đến cửa tẩm điện của chàng, Húc Dương mới biết, tiểu muội của mình đã biến mất. Đương nhiên chàng cũng biết Cơ Hoành đến núi Bạch Thủy cứu Mân Tô. Mọi suy tính của chàng tuy vẹn toàn, nhưng lại bỏ qua nghĩa khí của tiểu muội mình.

Mà con đường hiểm trở khúc khuỷu lên núi chính là nhân duyên thực sự khiến Cơ Hoành gặp Đông Hoa Đế Quân ở đầm Bạch.

Mấy ngày hôm đó mưa liên miên không ngớt, cứ như dòng Thiên Hà bị khuấy đảo, nước dềnh lên dội thẳng xuống Nam Hoang, không khí ẩm ướt nặng nề. May là hoa sen hồng trồng khắp nơi ở cung Đan Lãnh được uống no nước trời, nở ra những đóa sen đỏ như đèn lồng, mơn mởn diễm sắc nhìn rất vui mắt. Từng tốp thị vệ được cử đi, kinh động đến cả thâm cung của Thái hậu, nhưng vẫn không mang được tin tức gì về Cơ Hoành. Vương thái hậu mặc dù có tuổi nhưng tiếng khóc vẫn không kém ngày xưa, mỗi bữa cơm đều đúng giờ đến trước mặt Húc Dương khóc một trận, khóc đến nỗi lòng chàng đau từng trận. Cả vương cung hỗn loạn xung quanh chuyện công chúa Cơ Hoành biến mất, đến quá Ngọ hôm đó, khi Húc Dương truyền lệnh đưa con sư tử trắng một cánh ra để chàng cưỡi, đích thân đến núi Bạch Thủy một chuyến, thì bất chợt Đông Hoa Đế Quân thân vận áo chùng tím ôm Cơ Hoành đang hôn mê xuất hiện ở cửa cung Đan Lãnh.

Rất nhiều người ở Ma tộc thật ra cả đời cũng chưa từng nghĩ họ có thể được chiêm ngưỡng tiên nhan của bá chủ thiên địa huyền thoại, cho nên, cảnh tượng đó đến giờ họ vẫn nhớ rất sâu. Cả tầng không xám xịt vần vũ mây mù, mưa ngớt dần, chỉ còn lác đác hạt nhỏ, mười dặm trước cung môn sen hồng trải thành thảm đỏ, hào quàng màu sen sáng rỡ cả vùng, một trang nam nhi tóc trắng tuấn mĩ uy nghi cưỡi gió đáp xuống. Sen hồng ma tính nặng, không chịu nổi tiên quang đó, cánh hoa từ từ khép lại, lộ ra con đường cỏ xanh rộng để gót tiên chàng bước lên, tiến thẳng tới cung môn. Còn Cơ Hoành mắt nhắm nghiền, mái tóc dài xổ tung như dòng thác đen, mặt tái nhợt nằm trong lòng Đông Hoa. Trông nàng vô cùng yếu ớt, hai tay vòng ôm cổ chàng, thân người hình như được quấn bằng áo choàng của chàng, lộ ra đôi gót chân trần nhỏ xinh trắng nõn, cổ chân mảnh dẻ còn đeo mấy viên huyết châu đỏ thắm yêu dị.

Trong hai đêm một ngày ở núi Bạch Thủy đó rốt cuộc đã xảy ra chuyện gì, trên đời ngoài Đông Hoa, Cơ Hoành cùng lắm là có thể cả con muỗi dữ xúi quẩy ở đầm Bạch, có lẽ không một ai khác biết. Những gì được biết chỉ là Đông Hoa lại ở thêm một ngày nữa trong cung Đan Lãnh, đợi Cơ Hoành hôn mê tỉnh dậy, cũng là để tiện người của Ma tộc ngưỡng mộ đến ngắm tiên nhan hiếm có của chàng. Cơ Hoành sau khi tỉnh, giống như chim non lạc mẹ, rất thân thiết với Đông Hoa, nhưng tuyệt nhiên không nhắc nửa lời đến Mân Tô. Húc Dương thấy vậy cả mừng, chàng thấy đưa Mân Tô lên núi Bạch Thủy vẫn là diệu kế, bởi vì tuy khiến Cơ Hoành rơi vào nguy hiểm một phen nhưng, nhưng lại làm cho tiểu muội bướng bỉnh đó nảy sinh tình cảm với Đông Hoa, nước cờ này chàng đi vẫn rất tuyệt. Ngày thứ ba, khi Đông Hoa chuẩn bị rời cung Đan Lãnh, Húc Dương mời chàng đến tiểu điện dùng trà, nghị sự, một tuần trà vừa dứt, Húc Dương với thành ý hôn sự nên làm liền tay, nhân lúc này, đề nghị ba ngày sau là ngày tốt gả Cơ Hoành vào cung Thái Thần vĩnh viễn kết giao hai tộc là hay nhất. Đông Hoa bằng lòng.

Yến Trì Ngộ kể đến đây, thở dài hai hơi, lại lầm bầm mấy câu, Phượng Cửu vẫn nghe rõ, đại ý chàng ta phàn nàn rằng, lúc đó chàng bị thương không nặng lắm, nếu biết Cơ Hoành trốn đi núi Bạch Thủy chàng ta nhất định sẽ đuổi theo chặn lại, như vậy sẽ không có chuyện Cơ Hoành gặp Đông Hoa, chàng ta và Cơ Hoành đã không kết lương duyên, rằng ông trời nhất thời mù mắt thế nào.

Chiếc lá Phượng Cửu đội trên đầu đã gần héo quắt bởi nắng, nàng thu mình dưới chiếc lá hỏi Yến Trì Ngộ: “Sao huynh biêt Đông Hoa nhất định thích Cơ Hoành? Biết đâu chàng có chỗ khó nói?”.

Tiểu Yến nắm chặt bàn tay, các khớp ngón tay lạo xạo, nghiến răng, phẫn nộ rít lên: “Ông ta dám!”. Càng phẫn nộ nói tiếp: “Cơ Hoành băng thanh ngọc khiết, tuệ chất lan tâm, chim sa cá lặn, nguyệt thẹn hoa hờn như vậy, nam nhi thích nàng, một đại mỹ nhân như vậy lại còn có gì khó nói”. Chàng Yến rít lên, lộ ra hàm răng trắng đều tăm tắp: “Ông ta không xứng là nam nhi!”.

Yến Trì Ngộ là người lỗ mãng, lại có thể nói liền một hơi năm thành ngữ nho nhã như vậy khiến Phượng Cửu bội phần ngạc nhiên, nhưng nghĩ đến vị trí độc tôn của Cơ Hoành trong lòng chàng ta, nàng định mở miệng phản bác nhưng lại thôi, lặng kẽ chỉnh đi chỉnh lại cái lá gần héo trên đầu.

Thấy thái độ ngập ngừng của Phượng Cửu, Yến Trì Ngộ thở dài, trầm ngâm nói tiếp: “Thực ra mỗ hiểu ngươi đang nghĩ gì, nữ nhi các người một khi đã ưng đàn ông, cảm thấy chỉ có bản thân mình mới phù hợp nhất với người đó, những kẻ khác đều không xứng”. Giọng Tiểu Yến rất thành thật: “Mỗ cảm thấy Mặt lạnh không thich Cơ Hoành, mỗ có thể hiểu, bởi năm xưa mỗ cũng từng cảm thấy Cơ Hoành không thích Mặt lạnh”. Chàng Yến lại thở dài ảo não: “Nhưng hai người đó ở riêng với nhau một ngày hai đêm, thử nghĩ xem. Ôi dào, thực tình mỗ không muốn nghĩ, nhưng bao nhiêu đôi vốn ghét nhau, do cùng lạc vào rừng, hoặc cùng dạt lên đảo hoang, lâu dần trở nên có tình với nhau”. Chàng Yến vẫn ảo não lại thở dài: “Lùi một bước nghĩ lại, nếu Mặt lạnh thực sự không có ý với Cơ Hoành, cớ sao còn cưới nàng, nếu hắn không ưng, Thiên tộc các ngươi ai dám ép?”. Nói xong những lời làm Phượng Cửu buồn bã cúi đầu, lại ngẫm thấy những lời đó cũng làm bản thân tổn thương không nhẹ, Tiểu Yến im lặng chịu đựng nỗi đau ngấm ngầm.

Phượng Cửu cảm thấy Tiểu Yến thực sự nói rất có lý, lặng lẽ chỉnh cái lá trên đầu, ngồi yên một lát, nghĩ đến một chuyện lại nghiêng đầu hỏi Yến Trì Ngộ: “Nhưng muội biết”. Nàng ho một tiếng: “Nghe đâu, lần đó họ cùng bị nhốt trong cái gì gọi là Liên hoa cảnh, khi chia tay Cơ Hoành còn muốn Đông Hoa cho nàng ta con tiểu linh hồ mà cả hai cùng tìm thấy, chẳng phải Đông Hoa không đồng ý, nếu chàng đúng là rất thích Cơ Hoành đã không hẹp hòi như vậy, chuyện này có vẻ như…”.

Yến Trì Ngộ ngắt lời nàng: “Ngươi thì biết gì, đó là mưu kế!”. Lại giải thích rõ: “Ví dụ ngươi thích Mặt lạnh, nhất định tìm cách gặp ông ta,vậy mỗ hỏi ngươi, cách tự nhiên nhất là gì?”. Không đợi nàng trả lời, Tiểu Yến đã nói chắc như đinh đóng cột: “Là mượn sách! Ngươi mượn ông ta cuốn sách một lần, trả sách lại gặp lần nữa, có mượn có trả, cứ thế dần dần thành quen, một khi đã quen còn chuyện gì khó? Đông Hoa không cho Cơ Hoành con linh hồ đó, cũng là dụng ý như vậy. Ngươi nghĩ lại xem, Cơ Hoành đã thích con tiểu linh hồ như thế, sau này nhất định thường xuyên đến cung Thái Thần của ông ta thăm nó, vậy chẳng phải cho ông ta rất nhiều cơ hội?”. Nói đoạn Tiểu Yến cau mày, phiền muộn một hồi, lại thở dài não ruột: “Con người Mặt lạnh thật thâm hiểm!”.

Phượng Cửu ngẫm nghĩ, một lần nữa bàng hoàng nhận ra Yến Trì Ngộ nói đúng. Nhớ lại, hồi đó mặc dù không cảm thấy, thực ra sau khi Cơ Hoành vào cung Thái Thần, Đông Hoa đối xử với mình quả thực rất khác. Hồi đó nàng không biết hai người họ còn có những ngày cùng chung hoạn nạn ở núi Bạch Thủy, những gì biết về họ vẫn dừng lại ở đoạn Đông Hoa từ chối Cơ Hoành ở núi Phù Vũ và nàng không tìm ra ở giữa hai người có gì khác thường khi sống chung hàng ngày. Bây giờ nghĩ lại, thì ra là nàng đã không nghĩ đến những ẩn tình sâu xa.

Ba trăm năm trước, Cơ Hoành trong cung Thái Thần là một vị công chúa rất ham hiểu biết. Phượng Cửu còn nhỏ, khi nàng dựa vào chân Đông Hoa nhìn chàng câu cá ở bên bờ ao Phấn Đà Lợi, thường xuyên thấy Cơ Hoành tay cầm cuốn sách cổ đã ố vàng chạy đến thỉnh giáo Đông Hoa, chỗ này nên giải thích thế nào, có điển cố gì, Đông Hoa đều vui lòng chỉ bảo, theo con mắt nhìn nhận của nàng lúc đó, hai người không có gì vượt qua khuôn khổ, nhưng cái sự ham hiểu biết của Cơ Hoành thực sự khích lệ nàng, những cuốn Kinh Phật chàng chú giải xong, chưa kịp sai người đến Tây Thiên hoàn trả phật Tổ, chàng đều đưa cho Cơ Hoành đọc. Quả thật về mặt này chàng rất ưu ái Cơ Hoành .

Một ngày hạ nhàn rỗi của tháng bảy, Liên Tống Quân ở cung Vô Cực cầm một cuốn giấy nhỏ ung dung đến tìm Đông Hoa Đế Quân, sau một hồi vòng vo, mới nói ra sắp đến sinh nhật của Thành Ngọc Nguyên Quân, nghe nói gần đây nàng thích sưu tầm đoản đao, nên Liên Tống vẽ một kiểu đao mới, muốn nhờ Đông Hoa đúc cho một thanh đoản đao thật độc đáo làm quà mừng sinh nhật Thành Ngọc.

Sự độc đáo ở chỗ khi cần đánh giáp lá cà thì là đoản đao, nhưng khi giao đấu ở khoảng cách xa hơn nó sẽ là thanh trường kiếm, còn khi thực lực quá chênh lệch với đối phương, nó có thể tàng giấu ám khí, phóng những mũi kim độc vào đối phương, khi đi săn lại có thể gập lại thành một cây cung sắt, ngoài ra, trong bếp nó có thể trở thành một con dao thái rau. Liên Tống Quân phong độ ngời ngời phe phẩy cái quạt, lòng thầm toan tính như sau: nếu đúc thành công thanh đoản đao này, nghĩa là khi Thành Ngọc mang đoản đao đó là tương đương với mang theo năm loại khí giới là: đoản đao, trường kiếm, ám khí, cung và dao thái, hơn nữa, do công dụng đặc biệt như vậy, nó sẽ được nàng thường xuyên mang theo người. Mặt khác Liên Tống còn tính đến một chi tiết tinh tế, khí cụ độc đáo này tuyệt đối không thể sử dụng pháp thuật để chế tạo, nhất định phải được làm bằng phương pháp thủ công, mới thể hiện sự mới mẻ và thành ý vô song của Liên tam điện hạ với Thành Ngọc Nguyên Quân. Nhưng vấn đề nan giải là Liên tam điện hạ chàng mặc dù thường làm ra thần khí hàng yêu nhưng xưa nay thiên về dùng pháp lực chế ra. Bây giờ cần làm một đoản đao tinh vi như vậy, có chút khó khăn, nghĩ đi nghĩ lại, cảm thấy muốn làm thủ công một khí cụ lợi hại độc đáo như thế chỉ có nhờ cậy Đông Hoa.

Phượng Cửu từ trong lòng Đông Hoa nhảy phắt lên án thư có bản vẽ trải rộng, nhảy nhót một vòng xung quanh, phát hiện bản vẽ quá tinh vi, nhưng có mấy chỗ hơi thô, khi lắp ghép có thể để lại dấu vết, như vậy tiếng thơm về tài năng trác việt của Đông Hoa e cũng bị ảnh hưởng. Liên Tống điện hạ, mặc dù ở tứ hải bát hoang xưa nay nổi tiếng phong lưu có tài quyến rũ nữ nhi, nhưng cũng khó phát hiện ra chi tiết tinh tế như vậy. Phượng Cửu xúc động, tim đập thình thình, hôm nay đúng là ông trời mở mắt, cho nàng cơ hội thể hiện tài năng. Nàng cho rằng mình sửa lại bản vẽ này, Đông Hoa nhất định nhận ra tài năng của nàng không thua kém gì Cơ Hoành, nghĩ tới đó lòng rạo rực sung sướng, vừa lặng lẽ dùng móng chặn lên chi tiết chưa thỏa đáng trên bản vẽ, chỉ sợ Liên Tống lại nhận chính chàng ta phát hiện ra.

Nhưng nàng đã lo xa, Liên Tống lúc này đang thuyết phục Đông Hoa giúp mình: “Hiền huynh xưa nay cũng hứng thú làm đồ gốm, mấy ngày trước đệ tìm thấy một nơi sản xuất đồ gốm trên đất của Huyền Yến ở Bắc Hoang, là nơi có loại đất làm gốm nhất đẳng, nhưng bị lão tiểu tử Huyền Yến canh giữ quá chặt, huynh giúp đệ làm thanh đoản đao này, đệ sẽ vẽ sơ đồ nơi có loại đất quý kia cho huynh, huynh nói một câu với Huyền Yến, ông ta không dám từ chối”.

Đông Hoa chậm rãi rót trà: “Hay là ta đem nguyên liệu cho ngươi để ngươi tự chế?”.

Liên Tống thở dài: “Hiền huynh không phải không biết đệ có chút hiềm với Huyền Yến. Chả là năm xưa đệ đến phủ đệ của lão tiểu tử đó dự bữa tiệc nhỏ, tiểu phu nhân của lão không may lại để ý đến đệ, ngày nào cũng viết thơ tình cho đệ, Huyền Yến vẫn để bụng chuyện đó”.

Đông Hoa thong thả đặt ấm trà xuống: “Con người ta xưa nay không nợ tình người khác nhiều, cũng không thích dùng uy ép ai”. Một tay vuốt ve bộ lông mượt của Phượng Cửu, nói tiếp: “Sau hôm nay, ngươi đem hết đồ gốm sứ trong phủ đổi hết thành kim ngân ngọc khí, lại tung tin mình bị dị ứng với đất gốm đồ gốm, đồ gốm càng thượng hạng ngươi càng dị ứng nặng. Sinh nhật ngươi năm nay, Huyền Yến nhất định sẽ cống tiến đất gốm tốt nhất của ông ta cho ngươi. Ngươi hãy chuyển cho ta”. Liên Tống nhìn chàng hồi lâu.

Đông Hoa ung dung uống ngụm trà, ngước nhìn chàng ta: “Có vấn đề sao?”.

Liên tam điện hạ cười gượng lắc đầu: “Không, không có vấn đề gì.”

Khi Liên Tống lòng phân vân, gập chiếc quạt trong tay ra về thì đã giáp Ngọ, Đông Hoa lại đi lấy cốc rót nửa cốc trà vào miệng Phượng Cửu, nàng ngoan ngoãn cúi đầu hớp hai ngụm, cảm thấy đúng là trà ngon, Đông Hoa luôn cho nàng ăn đồ ngon, uống đồ ngon, nếu nàng đúng là thú cưng thì chàng là một chủ nhân tốt hiếm có, Đông Hoa thấy nàng vẫn bất động quỳ cạnh bản vẽ, hỏi: “Ta đi chọn nguyên liệu làm đoản đao, ngươi đi không?”. Thấy nàng dứt khoát lắc đầu, còn giả vờ ngoẹo đầu ngủ, chàng xoa nhẹ đầu nàng rồi một mình đi ra.

Đông Hoa chân trước vừa bước ra khỏi cửa, Phượng Cửu chân sau đã lập tức hành động, nàng đã dần dần biết cách sử dụng hoàn thành một số động tác khó, ví dụ miệng và chi phối hợp cuộn bản vẽ lại, miệng ngậm nó quẳng lên lưng, lén chạy một mạch khỏi cung Thái Thần tránh mấy tiểu tiên đồng đang đá cầu cạnh khóm hoa, chạy thẳng đến phủ của Ti Mệnh Tinh Quân.

Nàng và Ti Mệnh xứng đáng là chỗ thâm giao từ nhỏ, chỉ bằng mấy đường móng vạch đơn giant Ti Mệnh đã hiểu nàng muốn làm gì, lấy cuộn giấy trên lưng nàng xuống, dựa vào nét vẽ chỉ dẫn của nàng, dùng bút sửa lại chỗ chưa ổn trên bản vẽ theo đúng ý nàng. Sửa xong đang định cuộn lại thì Thành Ngọc Nguyên Quân ghé chơi phủ Ti Mệnh, hứng thú ngó nhìn, đột nhiên than thở: “Kẻ nào điên rồ vẽ ra thứ đồ chơi quái dị này!”. Phượng Cửu từ bi nheo mắt nhìn xa, cảm thấy vô cùng thông cảm với Liên tam điện hạ.

Khi Phượng Cửu thở hổn hển mang được bản vẽ quay lại thư phòng, Đông Hoa vẫn chưa về, nàng ôm chân án thư thoăn thoắt trèo lên, giũ người hất bản vẽ xuống, miệng và chi phối hợp mở ra, rồi giữ cho phẳng, đang thầm nghĩ, làm thế nào dùng móng nói với Đông Hoa, bản vẽ này có chỗ không ổn, nàng đã nhờ bằng hữu sửa lại theo ý nàng, không biết có hợp ý Đông Hoa, thì có hai tiếng gõ cửa, ngừng một lát, lại “cạch” một tiếng tự mở ra. Nửa cái đầu xinh đẹp của Cơ Hoành thò vào, thấy nàng ngồi trên án thư hình như công chúa rất thích, vội vàng chạy đến bên án, Phượng Cửu mắt sắc nhìn thấy trong tay Cơ Hoành cầm một cuốn kinh Phật đã ngả vàng, Một thiếu nữ Ma tộc thích đọc kinh Phật như vậy nàng mới gặp lần đầu.

Cơ Hoành tìm trước tìm sau một lượt, trở về xoa xoa đầu nàng, nheo mắt hỏi: “Đế Quân không có nhà ư?”

Nàng ngoảnh đầu sang bên không cho nàng ta xoa, tung người nhảy vào chiếc ghế gỗ hoa lê bên cạnh án thư, tâm trạng Cơ Hoành hôm nay hình như rất tốt, lại không chấp thái độ thiếu thân thiện đó của nàng, vừa ngân nga một điệu hát vui vui vừa rút một cây bút trong ống bút trên án, nhìn Phượng Cửu đang thảo luận với nàng: “Hôm nay có một đoạn kinh đặc biệt khó hiểu, Đế Quân lại thường xuyên hành tung bất định, mi xem ta để lại mảnh giấy cho chàng được không?”. Phượng Cửu ngoẹo đầu sang một bên, không nhìn công chúa.

Cơ Hoành vừa cầm bút, chấm mực, đầu ngọn bút lông dê còn chưa chạm vào mảnh giấy nhỏ nàng vừa tìm thấy trên án, cánh cửa đã mở ra. Lúc này người đứng ở ngưỡng cửa, ngược chiều ánh sáng chính là chủ nhân của thư phòng, Đông Hoa Đế Quân tay xoay xoay một mảnh thép thiên nhiên đen huyền óng ánh, sau khi đẩy cửa đi thẳng đến bên án thư như không nhìn thấy ai, lúc đó mới hơi liếc Cơ Hoành đang cầm bút và bức vẽ trên án.

Lát sau, chàng cầm bức vẽ lên ngắm ngía, trái tim Phượng Cửu như nhảy vọt lên tới cổ họng, quả nhiên nghe thấy giọng Đông Hoa trầm ngâm nói với Cơ Hoành: “Hai chỗ này là nàng thêm vào? Sửa rất hay”. Trong giọng nói quả nhiên có một vẻ khâm phục hiếm hoi mới thấy chàng bộc lộ: “Ta tưởng nàng chỉ biết đọc sách, không ngờ còn biết cả thứ này” . Một nhân tài về binh khí đã hiếm, mà lại kim khí cho nên chàng lại hào phóng khen thêm hai câu: “Có thể hiểu được bản vẽ này của Liên Tống đã là khó lại còn tìm ra hai chỗ khiếm khuyết để sửa, ca ca nàng nói nàng hiểu nhiều biết rộng quả không sai”. Cơ Hoành vẫn cầm bút mặt băn khoăn nhưng vẫn lộ vẻ phấn khởi, vô tình ghé sát Đông Hoa ngó xem bức vẽ.

Phượng Cửu sưng sờ nhìn nàng ta áp lại gần mà Đông Hoa không có ý né tránh, chàng còn thản nhiên đưa bức vẽ cho Cơ Hoành: “Nàng đã hiểu cái này lại có hứng thú, ngày mai ta bắt đầu mở lò luyện đao, nàng cùng ta làm nhé”.

Cơ Hoành xưa nay ham hiểu biết, cần mẫn đọc sách, mặc dù không hiểu mấy câu hỏi trước của Đông Hoa nhưng câu sau thì hiểu vui vẻ nhận lời: “Có thể cùng làm việc với Đế Quân, học những điều mới mẻ là phúc phận của nô tỳ” . Rồi lại tỏ ra hơi lo lắng: “Nhưng nô tỳ vụng tay, sợ làm vướng chân Đế Quân”. Đông Hoa nhìn bức vẽ lần nữa, rồi vừa đưa cho công chúa, giọng chàng vẫn vẻ khâm phục khó giấu: “Nàng chỉ nói vậy, nàng đâu có ngốc”.

Phượng Cửu bi phẫn nhìn mọi chuyện xảy ra, không kìm được, lao đến cắn một cái vào tay Cơ Hoành, Cơ Hoành kinh hoàng kêu “ối” một tiếng, Đông Hoa giơ tay tóm Phượng Cửu đang giận giữ nhe răng, chàng cau mày hạ giọng hỏi: “Sao lại tùy tiện cắn người? Lại là ân nhân của ngươi?” Nàng muốn nói không phải lỗi của nàng, tại Cơ Hoành nói dối, chính nàng sửa bản vẽ chứ không phải Cơ Hoành. Nhưng không nói ra được, nàng bị Đông Hoa nâng lên ngang mặt, cử chỉ này của chàng rõ ràng là cưng chiều một con thú, họ xưa nay chưa từng thực sự bình đẳng. Phượng Cửu bỗng thấy buồn vô hạn, cố vùng vẫy thoát khỏi tay chàng, loạng choạng va hết chỗ nọ chỗ kia trong phòng mới ra tới cửa, chân vừa phóng qua cửa, nước mắt đã rơi lã chã. Một chút bất cẩn chân sau mắc vào bậu cửa, ngã lăn ra đất đau tái mặt, nấc lên một tiếng, khi ngoái đầu, đôi mắt nhòe ướt lại chỉ nhìn thấy Đông Hoa cúi đầu xem vết thương trên tay Cơ Hoành, đến một cái liếc mắt cũng không dành cho tiểu hồ ly bị bắt nạt này. Thực ra nàng không cắn sâu, cho dù ấm ức cũng không làm được chuyện xấu, có lẽ Cơ Hoành quá nhạy cảm, đặc biệt sợ đau, nếu sớm biết nàng đã cắn nhẹ hơn chút nữa, Phượng Cửu cố kìm nước mắt bỏ chạy, sau khi cơn tức tối qua đi lòng lại thấm buồn, nỗi buồn của một tiều hồ ly không được coi là nỗi buồn sao?

Phượng Cửu bị quân vương Huyền chi Nhiếp Sơ Dần của Ma tộc lấy đi hình hài vốn có, khốn đốn trong tấm da hồ ly tầm thường, không dễ thoát thân, hơn nữa trong khốn cảnh đó còn gánh vác trọng trách nhân sinh theo đuổi tình yêu với Đông Hoa, quả thực càng khó khăn. Nàng cũng hiểu đã rơi vào khốn cảnh như vậy việc gì cũng phải nhẫn nhịn. Câu tục ngữ “Xót con thì không lừa được chó sói” chính là vậy. Hành xử lần này với Cơ Hoành quả thực quá đáng, khiến nàng ta bộc lộ tính điệu đà tiểu thư vốn không mấy khi bộc lộ.

Nàng cảm thấy thái độ của Đông Hoa rõ ràng là đứng về phía Cơ Hoành, nàng với Cơ Hoành có xích mích, Đông Hoa lựa chọn giúp Cơ Hoành chứ không phải nàng, lại còn không phân biệt phải trái mắng nàng trước. Phượng Cửu càng tủi thân, phiền muộn, so vai rụt cổ thu mình trong khóm hoa.

Vốn định lủi ra xa một chút, nhưng lại hy vọng Đông Hoa thông minh như vậy, lát nữa biết đâu sẽ nghĩ lại ban ngày đã trách oan cho nàng, chạy đi tìm nàng xin lỗi? Ngồi xa quá nhỡ chàng không tìm được thì sao? Vậy thì vẫn nên ngồi gần một chút, nàng ủ rũ đi một vòng khắp cung Thái Thần, rầu rĩ lựa chọn khóm hoa câu tô ma trước cửa tẩm điện của Đông Hoa. Để nằm dễ chịu một chút, nàng lại lặng lẽ đi đến suối Tiểu Hoa gần đó nhặt ít cỏ cát tường vò rối, lặng lẽ làm một cái ổ cho mình trong khóm hoa. Bởi rất đau lòng lại mất sức, nằm co trong ổ ngáp mấy cái, hai mi mắt cố gắng gượng một hồi rồi từ từ khép lại.

Khi Phượng Cửu thức dậy đúng lúc có làn gió thổi qua, hoa câu tô ma trên đầu rung rào rào, mới mơ màng thò đầu ra, chỉ thấy ánh sao rực đầy trời, sáng đến nỗi hạt bụi trong đám mây bay bên cạnh cũng nhìn rõ, bồ đề vãng sinh phía xa phát ra những đốm sáng xanh yếu ớt trong màn đêm yên tĩnh, giống như những con đom đóm đột nhiên lớn gấp bội lặng lẽ đậu trên tường cung. Nàng ba chân bốn cẳng định chạy ra nhìn xem Đông Hoa đã về chưa, ngẩng đầu, quả nhiên thấy tẩm cung chỉ cách mấy bước, đã thắp đuốc. Nhưng Đông Hoa rốt cuộc có đi tìm nàng không lại khiến Phượng Cửu rất băn khoăn. Nàng nhảy lên bậc thềm trước đèn, kiễng chân ôm bậu cửa cao, qua cánh cửa mở hé nhìn vào trong điện, muốn tìm ra một chút manh mối, chỉ một cái nhìn, toàn thân đã như bị đóng đinh trên bậu cửa.

Vừa rồi ngửa nhìn trời, sao Nam Đẩu đã di chuyển vào Nhị Thập Tứ Thiên, theo chút ít kiến thức của nàng về sao, hiểu ra lúc này đã qua giờ Hợi. Giờ này mà Đông Hoa cơ hồ lại không hề buồn ngủ mà đang cầm bút vẽ gì, hình như là vẽ bình phong, nhưng tại sao Cơ Hoành lại ở trong tẩm điện của chàng? Phượng Cửu sững sờ dán người vào bậc cửa, mãi vẫn không hiểu ra thế nào.

Trên xà ngang treo bằng pha lê treo mấy chiếc đèn hình cành cây soi khắp tẩm điện sáng như ban ngày, chàng trai áo chùng tím đứng trước bức bình phong trắng tinh vẫn chưa vẽ được gì và thiếu nữ áo trắng phục trước án thư đang cầm bút cắm cúi vẽ. Nhìn xa đúng là bức họa tuyệt mỹ, mà bức họa này phải là kiệt tác của phụ thân nàng, một họa sư tài hoa nhất tứ hải bát hoang.

Gió lùa qua cửa sổ, làm ngọn đuốc trên cao chập chờn chực tắt, thực ra nên đổi những ngọn đuốc đó thành dạ minh châu, ánh sáng trong, tự nhiên lại bình ổn hơn nhiều nhưng Đông Hoa mấy năm nay hình như thích phong vị mập mờ sáng tối.

Trong khung cảnh tích mịch đó, Cơ Hoành đột nhiên gác bút, hơi nghiêng đầu nói với Đông Hoa: “Đây chính là chỗ gập trường kiếm thành cái hộp sắt, bên trong cần để những chiếc kim lê hoa tạo thành một ống đựng kim khí bí mật, bản vẽ của tam điện hạ cố nhiên là hoàn hảo, nhưng nét này nô tì suy nghĩ rất lâu cũng không hiểu điện hạ muốn thể hiện ý gì, Đế Quân…”, đang nói thấy Đông Hoa tay cầm bút lướt trên bức lụa trắng, chăm chú như quên bẵng xung quanh, những bông hoa phật linh hiện ra dưới ngọn bút, bên rìa bức lụa, trông mềm mại sinh động tựa như chao mình trong gió, công chúa dừng một lát, nhẹ nhàng sửa lại cách xưng hô: “…sư phụ…” giọng mặc dù nhẹ hơn tiếng muỗi nhưng vẫn lọt vào tai Đông Hoa. Chàng dừng bút ngoái nhìn nàng, không phản đối cách xưng hô đó chỉ buông hai chữ: “Nói đi!” .

Phượng Cửu xưa nay vốn tinh mắt, dù ánh đuốc lập lòe lại cách một đại điện vẫn nhìn thấy gợn hồng trên má Cơ Hoành lúc cúi đầu. Ánh mắt Cơ Hoành cúi xuống trên nền điến sáng choang: “Ý nô tỳ là sư phụ có thể dừng bút chỉ dẫn nô tỳ một chút…”.

Cuối cùng Phượng Cửu đã hiểu nàng ta đang vẽ gì, chế tạo thần khí xưa nay Đông Hoa vốn không phải động tay, các công việc tầm tầm, không nặng không nhẹ như mạ, đúc xưa nay đều do các tiên bác đảm nhiệm, lúc này có lẽ Cơ Hoành đọc bản vẽ của tam điên hạ, sau đó vẽ lại cho rõ ràng, đơn giản để các tiên bác dễ hiểu dễ thực hiện.

Hiểu ra nguyên do cảnh tượng kia, Phượng Cửu coi như không còn khúc mắc nữa, thấy Cơ Hoành vụng tay như vậy, nàng lại mừng, nỗi mừng chưa kịp lan ra, lại buồn. Mừng là vì chỗ Cơ Hoành thấy khó đối với nàng lại cực đơn giản, nghĩa là nàng sáng trí hơn nàng ta. Buồn bởi vì đây là điểm duy nhất nàng hơn Cơ Hoành nhưng công lao này cuối cùng lại bị nàng ta cướp mất. Nàng âm thầm nuôi hy vọng ngay một chuyện đơn giản như vậy Cơ Hoành cũng làm không tốt, theo tính cách Đông Hoa không biết có châm biếm vài câu. Lại khấp khởi chờ xem đoạn sau thế nào.

Nhưng trái với mong đợi, Đông Hoa lại chẳng nói gì, chỉ giơ tay đón cây bút Cơ Hoành đưa, cúi đầu vẽ hai nét trên bản vẽ, xong xuôi nhẹ nhàng giải thích: “Đây là chốt kim loại, ấn vào miếng thép là có thể thu kiếm về, Liên Tống vẽ quá đơn giản.” Nói vắn tắt hai câu lại ngẩng nhìn Cơ Hoành: “Hiểu chưa?” Có vẻ rất sẵn lòng nhẫn nại giải thích thêm.

Phượng Cửu vô thức há miệng thấy cổ họng càng nghẹn càng đau. Nàng còn nhớ khi mình thỉnh thoảng ngốc nghếch, hoặc là Trọng Lâm làm gì không vừa ý Đông Hoa, chàng luôn giễu cợt làm tổn thương lòng tự trọng của họ, như một thói quen. Nhưng chàng không làm tổn thương lòng tự trọng của Đông Hoành, chàng rất dịu dàng với nàng ta.

Dưới ánh đuốc bập bùng khi Cơ Hoành đỏ mặt gật đầu, Đông Hoa lại cầm cây bút lúc trước gác trên nghiên mực, nhìn nàng một cái nói: “Hai chỗ kia Liên Tống cũng vẽ đơn giản chẳng phải nàng đã sửa rất tốt sao? Chỗ này thực ra đâu khó bằng.”

Cơ Hoành ngớ người, sắc hồng trên mặt phai đi ít nhiều, lát sau nói: “… Hai chỗ đó…” lại dừng “…là do may mắn thôi.” Nụ cười gượng vụt tắt: “Nhưng trước giờ nô tỳ chỉ đọc sách một mình, chỉ biết những điều vụn vặt, sao bằng hôm nay theo sư phụ học thêm được rất nhiều.” Sắc hồng lại dậy trên má, át đi màu trắng xanh xao, trong yên lặng, ánh mắt Cơ Hoành dừng lại trên bức bình phong Đông Hoa đang vẽ, mắt chợt sáng lên, khẽ nói: “Cũng muộn rồi, nhưng… nô tỳ muốn đêm nay vẽ cho xong. Để kịp thời gian thi công của sư phụ, nếu đêm nay nô tỳ vẽ xong, sư phụ có thể tặng nô tỳ bức bình phong này coi như thưởng cho nô tỳ?”

Đông Hoa cơ hồ hơi ngạc nhiên, nhưng lại thoải mái nhận lời bằng một từ giản gọn: “Được.” Đúng lúc ngòi bút lông điểm vào tấm lụa trắng căng phẳng, chỉ vài nét phác đơn giản cảnh sơn thủy với những đỉnh núi lẩn trong sương thấp thoáng hiện ra. Cơ Hoành bỏ cây bút trong tay, cũng ghé đến thưởng thức bút pháp của chàng, lát sau không cưỡng được cơn buồn ngủ, che miệng ngáp mấy cái. Đông Hoa tay cầm bút vẫn lướt như múa trên tấm lụa, giục nàng: “Về nghỉ đi, ngày mai làm tiếp.”

Cơ Hoành lấy tay che miệng nói: “Nhưng như vậy sẽ ảnh hưởng đến thời gian thi công của sư phụ?”. Mắt liếc bức bình phong, lại bẽn lẽn: “Nô tỳ vốn định hoàn thành công việc sẽ được thưởng bức họa này đem về…”

Đông Hoa bỏ bút lông sói vào bình rửa, thay cỡ bút lông dê nhỏ hơn chấm mực: “Một ngày có là gì, còn bức bình phong này ta sẽ cho Trọng Lâm mang đến cho nàng”.

Thực ra đến bây giờ, Phượng Cửu vẫn chưa làm rõ được lúc đó nàng đã rời tẩm điện của Đông Hoa như thế nào. Một số người sau khi tinh thần bị chấn động mạnh sẽ lựa chọn lãng quên ký ức gần với sự kiện đó, nàng đoán mình cũng thuộc số này. Chỉ còn nhớ là sau đó hình như nàng lại trở về cái ổ cỏ của mình, nằm ngắm sao một lúc, trong cái đầu trống rỗng vẫn vấn vương cái ý nghĩ xem chừng Đông Hoa không có ý đi tìm nàng nhưng rồi lại nghĩ, thì ra, nếu yêu cầu Đông Hoa cũng có thể đáp ứng, nhưng sao chưa thấy chàng làm thế với nàng?

Phượng Cửu từng nhiều lần thầm ao ước, tưởng tượng, nếu có một ngày nàng có thể qua lại với Đông Hoa dưới hình hài con người chứ không phải hồ ly, thậm chí nếu Đông Hoa thích nàng, họ sẽ sống chung thế nào, trước đó nàng luôn không thể tưởng tượng ra, nhưng qua đêm nay nhìn thấy cảnh chàng ở bên Cơ Hoành, nàng cảm thấy nếu thực sự có ngày đó, nàng và Đông Hoa ở bên nhau có lẽ cũng chỉ như thế. Rồi lại nghĩ Cơ Hoành vào cung Thái Thần vốn là để làm phu nhân của Đông Hoa, kề cận bên chàng, chỉ tại nàng xưa nay mãi không chịu nhìn thẳng vào sự thực đó mà thôi.

Nàng và Đông Hoa tựu chung có ngày đó không, lần đầu tiên Phượng Cửu cảm thấy chuyện đó trở nên quá xa vời. Nàng mơ hồ cảm thấy mình đến Cửu Trùng Thiên xa lạ, hy sinh nhiều như vậy tuyệt đối không phải vì kết cục đó, khi mới đến đây, nàng tràn trề hi vọng thế nào. Nhưng bây giờ, biết làm sao, bước tiếp theo sẽ thế nào nàng hầu như không có ý niệm gì hết, chỉ cảm thấy mệt mỏi bải hoải trong gió đêm thấm lạnh. Ngẩng đầu nhìn ánh sao lóng lánh như tuyết, bốn trăm năm nay, lần đầu tiên Phượng Cửu thấy nhớ Thanh Khâu xa cách vạn trùng, nhớ những người thân bị nàng bỏ lại quê hương.

Đêm nay cảnh huyền hoặc thơ mộng là thế, sao lòng nàng tan nát nhường này?

Đêm đó Đông Hoa không những không đi tìm nàng, mấy ngày sau cũng không. Phượng Cửu âm thầm nghĩ, ngày thường chàng làm gì cũng đưa nàng đi cùng, có phải chỉ do cảm thấy quá trống trải, cần có vật gì ở bên, vật đó là gì cũng không quan trọng. Hôm nay, chàng lại có một đệ tử thông minh lanh lợi xinh đẹp như Cơ Hoành ở bên, không chỉ có thể giúp chàng việc vặt mà còn có thể nói chuyện giải khuây, chàng đã không cần tiểu hồ ly này nữa.

Càng nghĩ càng thấy sự tình có lẽ đúng như thế, nỗi chua chát lại đầy vơi trong lòng.

Mấy ngày nay Cơ Hoành và Đông Hoa quả thực quấn quýt như hình với bóng, mặc dù khi họ ở bên nhau, Phượng Cửu luôn nấp trong khóm hoa hoặc bụi cỏ phía xa quan sát, do có đôi tai thính vẫn có thể loáng thoáng bắt được vài lời của họ. Nàng phát hiện, nhiều câu nói của Cơ Hoành làm Đông Hoa hứng thú. Ví dụ, nói tới chuyện nung gốm sứ, Phượng Cửu cảm thấy nếu nàng có thể nói được, khi Đông Hoa vừa nung thành công một bình rượu bằng sứ trắng bóng tinh xảo cầm trên tay ngắm nghía, nàng cũng chỉ có thể nói đại loại như, chiếc bình xem ra có thể bán được khá tiền. Nhưng Cơ Hoành thì khác. Cơ Hoành vuốt ve bình rượu dáng thon tinh xảo, mỉm một nụ cười đôn hậu nói với chàng: “Nếu sư phụ dùng đan thạch mài thành bột nhào với đất nặn hình, có thể chiếc bình sau khi nung sẽ có màu ráng hồng rất đẹp”. Cơ Hoành nói vậy, mặc dù Đông Hoa chưa kịp trả lời, nhưng Phượng Cửu quan sát sắc mặt chàng nhận ra, chàng vô cùng hứng thú.

Nàng ém mình trong đầm cỏ nhìn một hồi, càng nhìn càng thấy chướng mắt, vẫy cái đuôi dài định lảng đi chỗ khác chơi. Không ngờ ém người lâu, chân hơi tê, khi tập tễnh đứng lên liền bị Cơ Hoành tinh mắt liếc thấy, vội vàng chạy đến, giơ tay như muốn ôm nàng.

Phượng Cửu lòng thầm cảm phục, Cơ Hoành thực sự không để bụng chuyện mấy hôm trước, nhìn đôi tay ngọc chìa ra, chỉ cách mình một đoạn bằng chiếc lá phỉ, cuối cùng Cơ Hoành cũng nhớ ra vết răng hôm trước vẫn còn trên tay, đôi tay đó thoáng đắn đo dừng lại, Phượng Cửu im lặng nhìn nàng ta một lát, lại nhìn Đông Hoa cũng theo Cơ Hoành vừa đến, nhưng hận cái chân vẫn còn tê không chạy được, đành cụp đôi mắt hồ ly tròn xoe xuống, tủi thân ngoảnh đầu sang bên. Bộ dạng này nhìn rất nhu mì tội nghiệp, không ngờ khiến Cơ Hoành động lòng, đôi tay ngọc vốn dừng trên không lại tiến tới kéo nàng vào lòng, rồi dịu dàng vuốt mảng lông trên đầu còn chưa phát triển đầy đủ của nàng, thấy nàng không phản đối, lại càng vui vẻ vuốt tiếp.

Phượng Cửu không phải không muốn cự lại, chỉ vì tứ chi đang tê, vừa tê vừa mỏi không có sức phản kháng. Lại thêm lòng sầu muộn, nhớ lại lúc ở núi Phù Vũ khi Cơ Hoành xin nuôi nàng, Đông Hoa đã từ chối thẳng thừng, bây giờ nàng bị Cơ Hoành thương hại như vậy, chàng lại như không thấy, đứng nhìn cảnh đó, cơ hồ lại thấy thú vị, quả nhiên chàng đã có ý khác với Cơ Hoành.

Cơ Hoành hài lòng vuốt ve nàng một hồi mới buông tay, nâng nàng lên cao hỏi: “Rõ ràng trong Thập ác liên hoa cảnh mi thích ta như vậy, lúc chia tay còn lưu luyến thế. Ồ, có lẽ mi cũng lưu luyến sư phụ, nhưng bây giờ ta và sư phụ có thể cùng chăm sóc mi, tiểu hồ ly mi lẽ ra nên vui chứ?”. Thấy nàng mãi không có phản ứng, mạnh dạn ôm nàng lên quay về phía lò gốm chỗ hai người làm việc.Phượng Cửu cảm thấy máu trong người dần dần lưu thông, muốn vùng vẫy thoát ra, không ngờ Cơ Hoành đọc bản vẽ thì yếu, nhưng tay ôm rất chặt, đi đến chiếc ghế đá mới hơi nới lỏng, giơ tay véo nắm đất nặn thành chiếc bát, vui vẻ nói với nàng: “Đây là bát ta với sư phụ làm riêng cho mi, vốn định vẽ một số họa tiết đánh dấu, vừa rồi đột nhiên nghĩ ra ấn móng của mi vào đánh dấu chẳng phải cũng rất thú vị sao”.

Nói xong nắm lấy móng phải chi trước của nàng, ấn một dấu nhỏ vào cái bát.

Lòng tự trọng của Phượng Cửu thất tán sau mấy ngày lang thang bên ngoài đột nhiên quay về, tiếng Cơ Hoành vốn trong như giọng oanh vàng, nhưng không biết sao hôm nay nghe như chích vào tai, nhất là câu: ‘Ta và sư phụ có thể cùng chăm sóc mi. Ta và sư phụ làm riêng cho mi cái bát”. Tựu chung tại sao nàng núp trong hình hài này phục bên cạnh Đông Hoa, mà đến giờ sau bao nhiêu nỗ lực bền bỉ, những gì đạt được chẳng qua chỉ là địa vị của con thú cưng, nàng thấy mình thật vô dụng. Nàng vốn là tiểu nữ thần tiên được sủng ái nhất Thanh Khâu, mặc dù vương thất Thanh Khâu của nàng trong con mắt Cửu Trùng Thiên có quan niệm đẳng cấp khắt khe, xem ra quá tùy tiện thiếu lễ nghi, nhưng đồ dùng bữa của nàng không phải là cái bát sứ thường, không phải ngủ trên ổ rơm, lòng tự trọng của nàng đột nhiên phình lên, lại thêm Cơ Hoành cơ hồ quên hẳn chuyện bị nàng cắn hôm trước, vẫn vui vẻ cầm chiếc móng ngọc của nàng hồn nhiên ấn vào cái bát bằng đất sét, nỗi ấm ức trào lên, Phượng Cửu trở tay cào Cơ Hoành một cái.

Cái vuốt vốn cong và sắc, nàng lại bất chấp nặng nhẹ, do Cơ Hoành vẫn nửa quỳ ôm nàng trong lòng, cả bộ vuốt sắc cào mạnh vào má nàng ta, để lại năm vệt dài rớm máu, hai vệt sâu nhất lập tức rỉ ra hai giọt máu.

Lần này Cơ Hoành lại không hét kêu đau, chỉ đờ đẫn bất động, sắc mặt quá bàng hoàng, cái bát vừa nặn trong tay rơi xuống bẹp dúm. Máu trên mặt ứa càng nhiều, nhìn thấy hai vệt máu đã tụ thành dòng nhỏ, chạy dọc theo má, nhỏ xuống nhuốm đỏ cổ áo nàng ta.

Phượng Cửu trố mắt bối rối.

Nàng lờ mờ cảm thấy, lần này do kích động nhất thời, nàng đã gây họa lớn.

Trước mắt bỗng nổ đom đóm, Phượng Cửu thấy Đông Hoa dùng chiếc mùi soa trắng muốt, một tay bịt miệng vết thương, lau máu cho Cơ Hoành, tay kia túm gáy mình lôi khỏi lòng Cơ Hoành. Cuối cùng Cơ Hoành như sực tỉnh, tay run run kéo ống tay áo Đông Hoa lau nước mắt: “Thiếp…thiếp chỉ muốn thân thiện với nó, rõ ràng trước đây nó…nó thích thiếp”. Đông Hoa cau mày đưa mùi soa cho nàng ta, Phượng Cửu bàng hoàng phục trên đất nhìn động tác đó của chàng, đầu vẫn còn nghĩ, con người này có lúc thực tinh tế, nhiều nước mắt như thế chảy qua vết thương trên mặt Cơ Hoành nhất định là chàng rất đau lòng, thương xót nên đưa khăn để nàng ta lau nước mắt.

Đằng có tiếng chân bước gấp, Phượng Cửu cũng chẳng ngoái lại xem người đến là ai, chỉ thấy Đông Hoa quay đầu lạnh nhạt nói: “Dạo này nó quá tai quái, đem nhốt lại”. Đến khi Trọng Lâm đứng cạnh nàng cung kính cúi đầu, vâng một tiếng, nàng mới hiểu hai chữ “tai quái” Đông Hoa vừa thốt ra là nói ai.

Phượng Cửu đờ đẫn mãi, đến khi bừng tỉnh thì cả Đông Hoa lẫn Cơ Hoành đã không còn ở đó, chỉ có lò gốm bên cạnh đang lập lòe đỏ lửa, ngoài kia cách ngọn lửa lập lòe một trượng là Trọng Lâm trưởng quản cung Thái Thần đứng ngây như gỗ, khi thấy trong đôi mắt mộng du của nàng đã có thần, mới thở dài, cúi người vẫy nàng lại: “Đế quân ra lệnh nhốt ngươi, cũng không biết nhốt ở đâu, nhốt đến bao giờ, vừa rồi các ngươi gây ra chuyện gì nước mắt vắn dài ta cũng không tiện hỏi nhiều”. Ông ta lại thở dài: “Tạm thời đến phòng ta ngồi một lát”.

Ngày trước nàng làm sai chuyện gì, chỉ cần phụ thân cầm roi là nàng đã chạy biến. Nếu không muốn bị nhốt nàng cũng có thể nhẹ nhàng trốn thoát, nhưng lúc này nàng không chạy trốn, thẫn thờ theo sau Trọng Lâm đi trên con đường nhỏ hai bên đầy hoa, lòng trống trải, muốn cào cấu vào đâu đó, lại không biết cào cấu vào đâu, một con bướm lượn lờ chao một vòng trước mắt, nàng thảng thốt giơ chân trước xua nó đi. Trọng Lâm ngoái đầu nhìn, lại thở dài.

Ngồi trong phòng của Trọng Lâm không biết bao lâu, lòng mỗi lúc một càng sầu héo. Trọng Lâm cho biết tình trạng vết thương của Cơ Hoành, thì ra công chúa Cơ Hoành từ nhỏ đã sợ máu, da thịt lại non, cho dù chỉ một vết thương nhỏ cũng chảy rất nhiều máu, có điều dù với người cơ thể săn chắc mà bị cào như vậy, cũng vẫn bị thương nặng, huống hồ công chúa Cơ Hoành, cho nên phải chiết mấy viên tiên đơn linh dược của Đông Hoa mới coi như tạm ổn, làm mọi người lao tâm lo lắng một phen.

Nhưng Trọng Lâm không nói, Đông Hoa định nhốt nàng bao lâu, cũng không nói vì sao, sau đó chàng không hề đến thăm nàng, có phải sai người nhốt xong liền quên ngay, hoặc là chàng đã lại có một con thú cưng mũm mĩm khác nên quên hẳn nàng. Con người Đông Hoa, hình như rất nhiều thứ có thể gây hứng thú nhất thời đối với mắt xanh của chàng. Câu cá, chế hương, nung gốm, thực ra có lúc nàng lờ mờ cảm thấy, chàng hầu như không để tâm vào mấy thứ lặt vặt đó. Cho nên nàng cũng không thể biết Đông Hoa liệu có để một tấc lòng hoặc nửa tấc lòng vào con thú cưng là nàng không.

Mấy ngày sau, Phượng Cửu thấy lông trên người vón lại từng mảng, mụn nổi từng đám, Trọng Lâm hình như cũng không đành lòng thấy nàng ngứa ngáy, đứng ngồi không yên, tự ý thả nàng ra, nhưng dặn dò nhớ lưu ý tránh Đế Quân, nếu để Đế Quân nhìn thấy là sẽ khiến ông ta mất chức trưởng quản cung Thái Thần này, Phượng Cửu gật đầu coi như nhận lời, ngật ngưỡng đi ra ngoài trời sưởi nắng, rũ bộ lông vừa rụng vừa nhạt màu hậu quả những ngày bị nhốt trong nhà.

Những nơi Đông Hoa thường đến đương nhiên không thể lai vãng, đầu óc trống rỗng, Phượng Cửu bước thấp bước cao, không biết lạc chân đến chỗ nào, tai bỗng láng máng nghe thấy mấy vị tiểu tiên đồng chơi trò oẳn tù tì, một tiểu tiên đồng nói với tiểu tiên đồng khác: “Nói trước nhá, lần này ai thua, người đó phải đi cho con súc sinh lông lá đó ăn, ai chơi ăn gian kẻ đó là con ba ba!” Tiểu đồng gật đầu: “Được! Ai chơi ăn gian kẻ đó là con ba ba.” Lại nói nhỏ vẻ hiếu kỳ: “Nhưng con sư tử trắng một cách hung dữ như thế, vị quân vương Xích chi Ma tộc lại mang đến tặng công chúa Cơ Hoành để cưỡi, các tiểu đồng nói xem công chúa Cơ Hoành hiền hậu như vậy liệu có cưỡi được con vật lông lá hung dữ đó không?” Một tiểu đồng thật thà: “Cũng khó nói, nhưng khi con súc sinh đó được đưa vào cung, Đế Quân ngài lại rất thích”.

Phượng Cửu đã nghe Chiết Nhan nói, Đông Hoa thích những con vật có lông mượt, hơn nữa phải có tướng mạo uy mãnh. Đầu nàng trống rỗng lý giải lời của các tiểu tiên như sau: Đông Hoa đã tìm được thấy thú cưng vừa ý hơn, bây giờ ngay đến là thú cưng của chàng, nàng cũng không còn tư cách.

Bốn trăm năm nay, tất cả những gì có thể, nàng đều đã cố hết sức, nếu đến giờ kết quả vẫn vô vọng, có phải trong sổ se duyên của Ông Tơ đã viết rõ rành, nàng và Đông Hoa hoàn toàn vô duyên?

Phượng Cửu tâm thần ngơ ngẩn men theo dòng suối xanh xanh đi về phía trước, không lâu sau nhìn thấy một hàng rào gỗ chắn lối đi, nàng ngơ ngác một hồi, phía dưới hàng rào có một khe hở đủ chui qua, Phượng Cửu nghiêng người lách qua, theo dòng suối đi tiếp, mới được hai ba bước chân đã khựng lại.

Nàng thu mình nấp sau cây hạnh tử già to cao bên đường trầm tư hồi lâu, thò cái đầu lông lờm xờm ra, căng mắt nhìn, xa xa phía trước một con sư tử trắng, chỉ có một cánh không biết xuất hiện từ lúc nào.

Còn người đứng trước con sư tử độc đáo đó chính là Đông Hoa đã mấy ngày nàng không gặp.

Trong rừng có mấy đám mây bảy sắc lơ lửng, dấu hiệu linh khí hội tụ. Nàng nép sau gốc cây nhìn trộm Đông Hoa dáng cao thẳng đẹp như ngọc tạc đứng bên khóm hoa, nàng tuy tủi thân, cũng rất nhớ chàng. Nhưng không dám chạy ra, nàng đã làm Cơ Hoành bị thương, khiến chàng phẫn nộ, đến giờ vẫn chưa nguôi. Mặc dù cho rằng mình đáng thương hơn, nhưng bây giờ nàng đang theo đuổi Đông Hoa, do vậy dù tủi thân thế nào cũng chịu nhún, nàng đã xác định rõ như thế.

Cạnh chân Đông Hoa có một chiếc thùng gỗ mở nắp, trong thùng thò ra mấy đóa tuyết linh chi trắng đục, Phượng Cửu hiểu, con sư tử trắng kia là loài mãnh thú quý hiếm chỉ ăn linh chi, nhưng Đông Hoa lại đem linh chi thượng thặng nhất cho nó ăn, loại linh chi đó, ngay nàng cũng chưa được nếm. Lúc này thấy chàng cúi xuống cầm lên một miếng, con sư tử trắng đứng cách vài bước đã nhảy vù tới như cơn lốc, ăn ngấu nghiến trên tay chàng, chớp mắt cái đã ngốn xong, thỏa mãn ợ một cái. Phượng Cửu thấy chướng mắt, vừa ngoẹo đầu vừa lén dứ nắm đấm. Đông Hoa cho nó ăn xong, tay vuốt ve bộ lông trắng như tuyết bóng mượt của nó, giống như đã làm với nàng những lúc nàng làm nũng.

Phượng Cửu cảm thấy mấy ngày nay tâm thần mình càng lúc càng bất ổn, lần này khi nàng vừa sực tỉnh sau một hồi ngơ ngẩn, ngước nhìn, cả Đông Hoa và sư tử trắng đều biến mất. Nàng giơ tay dụi mắt phía trước chỉ có đám mây bảy sắc. Nàng còn hoài nghi có phải mình nằm mơ, khi ngẩng đầu lại va phải thân cây hạnh tử, đang mơ màng nghĩ, nếu vừa rồi là mơ tại sao mình lại nép sau thân cây thì chợt nghe thấy một giọng ồm ồm khủng khỉnh: “Này, mi chính là con linh thú trước đây Đế Quân sủng ái nhất đấy à?”

Phượng Cửu cảm thấy hai chư “trước đây” như trích vào tai nhưng nàng đang buồn chán, không có sức bận tâm cái đó. Mắt vừa lóe, ngoái về phía tiếng nói, một tia chớp vụt trong đầu, tức thì tỉnh táo hẳn, kẻ đứng đằng sau hỏi nàng câu đó chính là con sư tử trắng một cánh vừa rồi khi còn cách khá xa, thân hình đồ sộ của nó đã che cả một khoảng nắng trên đầu, đẩy nàng vào bóng râm của bụi rậm ở phía chếch cây hạnh tử.

Con sư tử trắng cúi nhìn nàng đầy hứng thú, vẫn giọng khủng khỉnh: “Ta nghe các cung nô thì thầm, là trước đây Đế Quân sủng ái mi thế nào, còn tưởng mi à con hồ ly quý hiếm đến đâu…” Nó cười khẩy một tiếng: “…thì ra, cũng chỉ thế này.”

Lòng tự tôn của Phượng Cửu lại bị động chạm, cúi đầu nhìn tứ chi của mình, lông quả nhiên xơ xác rối bù, lại nhìn tứ chi của sư tử trắng, mỗi chiếc lông đều sạch bóng mượt mà, mềm mại phất phơ trong gió, nàng bối rối rụt chân lại đột nhiên thấy mình rơi vào cảnh tranh sủng với một con thú cưng thực sự, lòng bỗng cay đắng não nề, quay đầu định bỏ đi.

Con sư tử trắng nhảy vù như cơn lốc đứng chắn đường, còn giơ chân đẩy nàng: “Đi vội thế làm gì”. Phượng Cửu bị đẩy suýt ngã, bò dậy, trừng mắt nhìn thân hình đồ sộ ngang ngược đứng chắn lối đi, nhưng nàng quên mất lúc này nàng là hồ ly, vẻ phẫn nộ đó khi trong hình hài con người chắc chắn sức uy hiếp rất lớn, nhưng một con tiểu hồ ly trừng mắt, hiệu quả đương nhiên là hạn chế.

Sư tử trắng lừ đừ mắt lim dim, lại đẩy nàng lần nữa: “Thế nào, không phục hả?”. Thấy nàng vùng vẫy bò dậy, nó liền đè một chân lên ngực nàng, ép xuống đất làm nàng không thể cựa quậy, từ trên cao khinh khỉnh nhìn xuống: “Ta còn nghe nói, mi ỷ thế được Đế Quân sủng ái, sinh hư, không biết điều, dám làm chủ nhân Cơ Hoành của ta bị thương?”. Lại giơ chi khác trùm lên hai chi trước đang chới với của nàng, vừa ấn một nhát, hai chi trước của nàng lập tức ứa ra hai giọt máu, nhìn bộ dạng thảm hại của nàng, nó hả hê nói: “Tiểu chủ nhân của ta lương thiện khoan dung, bị loại hạ phẩm như mi làm tổn thương cũng không để bụng, nhưng ta lại không có lòng khoan dung như vậy, hôm nay gặp ta coi như mi xúi quẩy”.

Những lời nói sau của nó, Phượng Cửu nghe không rõ, chỉ cảm thấy sau cơn đau buốt ở chi trước, mặt lại nóng bừng, liền ngay đó có vật gì sắc nhọn đâm vào má, móc một cái, cơn đau như xé tức thì lan khắp mặt, nàng đau đớn kêu thét, cảm thấy mình như con cá cố há mồm, nhưng đương nhiên không thể phát ra tiếng.

Con sư tử trắng thong thả nhấc vuốt lên, trên đó dính đầy máu, từng giọt rơi xuống mí mắt Phượng Cửu, nàng hổn hển mở to mắt, cảm thấy tầm nhìn loang máu đỏ, mây cuối trời, hoa phật linh trắng phía xa, đều nhuốm màu đỏ thẫm. Con sư tử đẹp đẽ lúc này khoác bộ lông đã chuyển màu đỏ trước mặt nàng dường như hơi ngạc nhiên, mặt lộ nụ cười quái đản: “Quả nhiên như bọn họ đồn, mi không biết nói”.

Phượng Cửu thực ra từng nghe nói sự dũng mãnh của loài sư tử trắng chỉ có một cánh, bao nhiêu tiểu thần tiên, lão thần tiên của Cửu Trùng Thiên có bao đều muốn bắt chúng về thuần phục để cưỡi, mấy năm nay con trai út của Thiên Quân săn được một con tặng cho cháu mình là Dạ Hoa Quân không mấy hứng thú với chuyện cưỡi thú lạ, đem con linh thú hiếm đó nhốt trong vườn săn của Lão Thiên Quân thỉnh thoảng dắt đi chơi. Phượng Cửu biết rõ sức mình, mặc dù nguyên thần là hồ ly nhưng, nhưng pháp thuật có được đều tu luyện dưới hình hài con người, ví dụ nhiều pháp thuật lợi hại cần dùng ngón tay làm kết ấn mới có hiệu quả, hiện nay hình hài nàng thế này, thực lực quá chênh lệch, không tiện đối đầu với nó.

Sư tử trắng dùng vuốt vỗ vỗ nửa mặt phải đầy vết thương của nàng, Phượng Cửu không thể kêu rên để giảm bớt cơn đau thấu xương, không biết lần đó Cơ Hoành có đau thế này không, có lẽ không, bởi nàng không cố ý, hơn nữa vuốt của nàng kém xa, sao có thể sắc và tàn nhẫn như con sư tử này.

Con sư tử hình như lại rất hứng thú, giống như mèo vờn con chuột nằm dưới móng đã sợ chết khiếp, lại vỗ vào nửa mặt phải đã nát bét bê bết máu của nàng: “Có phải mi vẫn hoang tưởng Đế Quân sẽ chạy đến cứu mi? Mi làm bộ đáng thương như vậy, cho nên ngày trước mới khiến Đế Quân động lòng phải không? Nhưng mà, mi có thấy đã có một con vật hiếm có như ta đây, Đế Quân liệu có còn thích mi không? Từ hồi ta đến đây, Đế Quân ngày nào cũng cùng công chúa đến thăm ta, nhưng chưa bao giờ nhắc nửa câu đên đồ tạp mao là mi, ta nghe các cung nô nói, Đế Quân đã nhốt mi lâu rồi…”. Nó cười ha hả: “À, mà theo ta biết, Đế Quân không ra lệnh thả mi, sao mi lại ra ngoài được?”.

Phượng Cửu biết, loại linh thú hung mãnh này thực ra rất thích con vật khác khuất phục, càng giãy giụa chúng càng được thể dày vò, với bản tính hung dữ và sự hưng phấn quái đản, con sư tử này có thể giày vò nàng đến chết cũng nên. Tục ngữ nói, có cái chết nhẹ tựa lông hồng, có cái chết nặng tựa Thái Sơn, tử tôn họ Bạch nếu hôm nay chết ở nơi này, bằng cách này, thì bài vị cũng không có tư cách được thờ cúng ở Thanh Khâu.

Phượng Cửu nằm bẹp trên bãi cỏ, thoi thóp thở, đột nhiên không hiểu, mình đường đường là một nữ thần, tại sao lại chạy đến Cửu Trùng Thiên xa xôi, rồi lạc bước ra nông nỗi này. Cơ Hoành tủi thân còn có Đông Hoa bảo vệ, lại còn một con sư tử trắng trung thành báo thù cho chủ. Nhưng nỗi tủi của nàng, người thân ở mãi tận Thanh Khâu thậm chí không biết.

Con sư tử vỗ đầu nàng một lúc, thấy không có phản ứng, quả nhiên dần dần cảm thấy vô vị, hừ một tiếng, dùng vuốt quặc lấy đi món đồ chơi đeo trên cổ nàng, ung dung bỏ đi. Món đồ chơi đó là một mảnh bạch ngọc, hôm Đông Hoa đưa nàng về Cửu Trùng Thiên đã đeo vào cổ nàng rất hợp vơi màu lông của Phượng Cửu, trước đây nàng rất thích, cũng rất coi trọng, không cho ai chạm vào. Lúc này miếng bạch ngọc không những bị con sư tử trắng chạm vào mà còn bị nó cướp mất, nàng lại không thể làm gì, chỉ âm thầm đau khổ. Trong Thập ác liên hoa cảnh hơn ba tháng trước, thực ra nàng cũng bị thương, nhưng hồi đó có Đông Hoa ở bên, nàng không thấy đau bao nhiêu, lúc này lại thấy cơn đau ầm ĩ giằng xé, cũng không nói được là da thịt đau hay trái tim đau, hoặc là cả hai. Nàng nhìn những đám mây trôi trên trời, mắt dần dần cay nóng, mấy giọt nước mắt dần dần chảy ra từ khóe mắt, nàng nén đau, khẽ nhấc chân thận trọng tránh chạm vào vết thương. Tình yêu, theo đuổi tình yêu sao khó thế?

Phượng Cửu nằm trên bãi cỏ hoang rất lâu, cơn đau như xé từ vết thương làm nàng kiệt sức không thể nhúc nhích, chỉ mong có ai qua đường thương tình đem nàng về bôi cho ít thuốc giảm đau, nhưng mặt trời dần dần lệch về tây, sắp tối rồi, chưa kịp đợi được người tốt bụng nào đó, thì nhớ ra chỗ này hoang vắng, làm gì có ai nhàn rỗi đến đây.

Tháng chín mùa thu, trời mát mẻ, càng những nơi linh khí thịnh, về đêm càng lạnh, nhìn xung quanh linh khí dày đặc, lát nữa đêm xuống có nhiều sương mù, sẽ càng lạnh. Phượng Cửu cố chống chân đứng lên, người xiêu vẹo, loạng choạng chưa được mấy bước lại chực ngã, cố mãi mới đi được ba trượng, lại kiệt sức, đành phục xuống lết từng tý về phía trước, mặc dù vẫn chạm vào vết thương ở chi trước đau buốt, nhưng không phải chịu sức nặng của toàn thân, nên vẫn di chuyển nhanh hơn chút ít.

Nhìn màn đêm mỗi lúc một đen, trời mỗi lúc một lạnh, cơ thể Phượng Cửu lúc nóng lúc lạnh, đầu óc vốn tỉnh táo cũng nặng dần, mặc dù tứ chi đã tê, cảm giác đỡ đau hơn khiến nàng có thể bò nhanh một chút, nhưng vẫn khó ra khỏi khu rừng này trước khi trời tối để may ra tìm được cái nhà xin trú tạm, rất có thể đêm nay ngã gục, chết ở đây, nàng vô cùng lo lắng. Nhưng càng lo càng không phân biệt được phương hướng, đầu choáng váng, u u nặng trĩu không biết bò đến đâu, bỗng “ùm” một tiếng rơi xuống nước, uống liền mấy ngụm nước, trong miệng bỗng sặc mùi máu tanh, mắt tối sầm, ngất đi.

Theo lời kể của Ti Mệnh, hôm đó ông ta dùng xong bữa tối, kì cọ răng xong, pha ấm trà, loại trà xuất xứ từ một ngọn núi tiên nào đó dưới Hạ giới do một sư muội biết điều nào đó của ông cúng tiến, mang cái ghế gấp, định nhân cảnh đêm thanh, trăng sáng ra bờ ao sen trong phủ để câu cá. Mới vừa quăng xuống đã có cá cắn câu, khẽ kéo cần, thấy rất nặng cả mừng, thầm nghĩ phen này vớ được con cá lớn cả trăm năm mới gặp, vội vàng kéo lên, không ngờ trên móc câu lại là một con tiểu hồ ly chỉ còn thoi thóp, tiểu hồ ly này đương nhiên là Phượng Cửu.

Phượng Cửu ở lại chẵn ba ngày trong phủ của Ti Mệnh, phiền Ti Mệnh phải đến chỗ các đồng liêu tiên bác đang luyện đan luyện dược, nợ không ít ân tình mới xin được các loại thánh dược, đem về trị thương cho nàng. Có loại bôi, có loại sắc uống, Ti Mệnh vẫn còn nhớ từ nhỏ Phượng Cửu đã sợ đắng nên bao giờ sắc xong cũng cho thêm mật để nàng dễ uống. Nhờ phúc của những viên thánh dược, những vết thương đầy mình của Phượng Cửu bình phục rất nhanh, bốn năm ngày sau đã có thể xuống giường. Ti Mệnh cầm cuốn sổ ghi mệnh số của người trần, nhắc lại câu đã hỏi nàng không biết bao nhiêu lần: “Tiểu tiên thành tâm thành ý thỉnh giáo điện hạ, thân mệnh là nữ thần tu luyện không ít, điện hạ đã làm gì để bản thân rơi vào thảm cảnh thế này?”.

Nhưng mấy ngày nay tâm trạng nàng rất xấu, nên cũng lờ đi không trả lời.

Thỉnh thoảng Phượng Cửu lại nằm trong chăn mây ngơ ngẩn, ngoài cửa sổ mây lãng đãng, tiếng tiên hạc lảnh lót, nhưng lòng ngổn ngang, thầm nghĩ mối tình suốt hơn hai ngàn năm của mình có phải đã đến lúc từ bỏ?

Nàng quả tình đã sức cùng lực kiệt. Hơn bốn trăm năm trước, khi Ti Mệnh còn là sai dịch đi tuyển cung nô cho các cung thất trên Thiên giới, nàng đã nhờ ông ta đưa mình vào cung Thái Thần với danh nghĩa cung nô, chính là muốn có thể tiếp cận với Đông Hoa. Sợ song thân của họ biết được nữ tử của họ không quản ngại hạ mình đến Cửu Trùng Thiên làm nô tỳ, nàng đã thỉnh cầu thượng thần Chiết Nhan tìm cách tạm thời thu hồi ấn hiệu Phượng tộc trên trán, tóm lại, mọi sự đã chuẩn bị chu toàn, lúc xuất hành Chiết Nhan còn động viên: “Phượng Cửu điện hạ xinh đẹp khéo léo, lại có tài nấu ăn, Đông Hoa dù là nổi tiếng lãnh đạm, có thể cưỡng lại nhan sắc và sự ân cần dịu dàng của điện hạ, nhưng nhất đinh không thể cưỡng nổi tài nấu ăn của điện hạ, cứ yên tâm mà đi, đã có ta và tiểu thúc Bạch Chân làm hậu thuẫn rồi”. Nàng phơi phới niềm tin, hùng khí tràn trề cưỡi mây đi, nhưng từng ngày từng tháng từng năm của bốn trăm năm trôi qua, mặc dù cùng sống trong một cung điện, Đông Hoa vẫn không hề chú ý đến nàng, có nghĩa tất thảy mọi sự đều phải tính đến chữ duyên. Nếu hai người thực sự có duyên, thì sẽ như cuốn cổ thư của cô cô Bạch Thiển viết, những lệnh nam lệnh nữ cho dù cách nhau vạn trùng, một người ở trên trời một người ở dưới mười tám tầng âm phủ, cũng có thể xảy ra chuyện trời đột nhiên nứt toác, đúng chỗ lệnh nam khiến chàng rơi xuống trước mặt lệnh nữ, tuyệt đối không khó khăn như nàng và Đông Hoa.

Về sau nàng biến thành hồ ly, coi như kề cận bên Đông Hoa. Nhiếp Sơ Dần thu mất bộ lông của nàng, muốn đòi lại trước thời hạn quả thực hơi khó, nhưng không phải không thể, nhờ tiểu thúc Bạch Chân hoặc nhờ Chiết Nhan là có thế lấy được. Nhưng Đông Hoa hình như rất thích con tiểu hồ ly là nàng, chàng luôn thờ ơ với những nữ thần nữ tiên, nàng đều từng chứng kiến, nàng biết mình chẳng có gì đặc biệt hơn những nữ thần, nữ tiên kia, nếu thu hồi bộ lông, trở lại hình người, có lẽ sẽ bị Đông Hoa đẩy đi, không được kề cận bên chàng, hơn bốn trăm năm trôi qua vô ích chẳng phải đã chứng minh điều đó. Đương nhiên nàng không thể mãi mãi là thú cưng của chàng, nàng phải nói với chàng nàng chính là Phượng Cửu tiểu nữ thần của Thanh Khâu, có điều phải đợi thêm ít nữa, khi họ thân mật hơn, thân mật hơn nữa đã, nhưng ai ngờ ngày đó vẫn chưa đến, lại giữa đường xuất hiện một Cơ Hoành trong cung Thái Thần. Có lẽ lại là một ví dụ nữa chứng tỏ sự vô duyên của nàng và Đông Hoa.

Nghĩ đến đây, đúng lúc Ti Mệnh đến thay thuốc cho nàng như thường lệ.

Từ khi nàng rơi vào khốn cảnh này, mỗi lần Ti Mệnh xuất hiện, luôn có một vẻ lầm lì kì quặc, như thương cảm như bực bội, như trách móc, hôm nay lại thay đổi thái độ giống như trúng đại tà gì, phá lệ chăm sóc nàng, khuôn mặt thanh tuấn còn nghiêm hơn cả phụ thân nàng, đôi mắt phượng vừa lãnh đạm vừa giễu cợt.

Phượng Cửu không kìm được liếc ông ta hai cái, bỗng rùng mình co người lùi vào chăn.

Ti Mệnh cho thuốc vào cái cối nhỏ bằng vàng, lấy chày nghiền nát, rồi xúc một thìa, cho thêm ít đường đảo đều, đưa đến tận miệng nàng.

Phượng Cửu băn khoăn nhìn ông ta.

Ti Mệnh lặng lẽ nhìn lại nàng: “Loại thuốc này không thể hòa nước uống, phải nuốt khan, một canh giờ sau mới được uống nước”. Lại lấy mấy quả quýt trong cái đĩa bên cạnh giường, bóc vỏ đưa cho nàng: “Nếu vẫn đắng thì ăn mấy múi quýt cũng không sao”.

Phượng Cửu giơ móng đón múi quýt, cúi đầu liếm từng chút thuốc bột, nghe thấy Ti Mệnh thở dài, lúc này giọng cũng nhẹ nhàng: “Tiểu tiên nhàn rỗi đã đến Thập Tam Thiên thăm dò chuyện của điện hạ, nghe nói điện hạ gây ra thương tích cho công chúa của Nam Hoang nên bị Đông Hoa nhốt? Vết thương tích của điện hạ, không phải do công chúa kia báo thù chứ?”.

Phượng Cửu liếm thuốc chợt dừng khẽ lắc đầu.

Ti Mệnh lại nói: “Hai ngày nữa là đại hôn lễ của Đông Hoa, nghe nói thành hôn với vị công chúa điện hạ làm bị thương, điện hạ dự định thế nào?”.

Phượng Cửu sững sờ nhìn múi quýt quắp trong móng, nàng biết họ sẽ kết hôn, nhưng không ngờ nhanh vậy, ngẩng đầu thẫn thờ nhìn Ti Mệnh, có vài điều muốn hỏi, chưa kịp hiện trong mắt, Ti Mệnh hình như đã hiểu: “Không có ai đi tìm điện hạ, dường như họ không biết điện hạ đã mất tích”.

Phượng Cửu cúi đầu tiếp tục dùng vuốt bóc sạch từng sợi gân trên múi quýt.

Ti Mệnh đột nhiên giơ tay sờ trán nàng, động tác này của ông ta thực ra có phần không phải phép, nhưng bàn tay chạm vào bờ trán lạnh giá của nàng lại rất ấm, mắt dân dấn nước, nàng bàng hoàng nhìn ông ta.

Trong thảng thốt, cảm thấy bàn tay ông dịu dàng xoa trán nàng như an ủi, sau đó ông hỏi: “Có phải điện hạ muốn quay về Thanh Khâu?”.

Nàng gật đầu.

Ông lại hỏi: “Mối tình theo đuổi suốt hơn hai nghìn năm, điện hạ thực sự từ bỏ?”.

Nàng lại gật đầu.

Ông vẫn hỏi: “Vậy có muốn gặp ông ta lần cuối?”.

Nàng vẫn gật đầu.

Phượng Cửu cảm thấy câu hỏi của Ti Mệnh đều tựa như nàng đang hỏi chính mình, giống như trong nàng có hai con người, một kiên cường, một yếu đuối, người kiên cường đang ép người yếu đuối đưa ra quyết định cuối cùng cho mối duyên đó, trong mối duyên này, nàng kiên trì đến ngày hôm nay thực ra không dễ dàng, trước đây nàng có thể kiên trì lâu như vậy là bởi vì bên cạnh Đông Hoa không có người khác, nàng thích chàng, một mối chung tình thật đẹp. Nhưng giờ chàng sắp kết hôn, trở thành phu quân của người khác, nếu nàng vẫn để cho tình cảm đơn phương kia níu kéo, chỉ tổ cho mối tình đẹp biến thành sự đeo bám làm người ta chán ghét, nữ nhi Thanh Khâu không ai chịu được sự hạ mình như thế. Mặc dù nàng vẫn đang ở độ tuổi thiếu niên, có thể ngông cuồng, nhưng sự đã đến nước này không thể lún sâu, cuộc đời sau này có khi càng bất hạnh, vẫn còn chặng đường đời dài như thế phía sau, sao có thể cam chịu bất hạnh.

Nàng cẩn thận tách quả quýt đưa cho Ti Mệnh một nửa, trong đôi mắt hai tròng đen trắng rõ ràng đã không còn ngấn nước, Ti Mệnh đón nửa quả quýt, lát sau, khẽ nói: “Được, để ngày mai điện hạ khá hơn chút nữa, tiểu tiên sẽ đưa điện hạ đi gặp người đó”.

Trong kí ức của Phượng Cửu, lần gặp Đông Hoa đó là trong một ngày trời râm gió nhẹ. Nói là gặp thực ra có vẻ không xứng với ý nghĩa của từ đó, chỉ là Ti Mệnh ôm nang trong lòng, dùng phép ẩn hình lọt vào cung Thái Thần để nàng từ xa nhìn Đông Hoa lần cuối.

Đó là một khu vườn nhỏ Đông Hoa thường lui tới, trong ao, lá sen vươn cao tươi tốt, xanh mỡ màng, điểm suốt những bông sen dị sắc, trên cao ngôi đình bát giác bằng gỗ đàn màu trắng dành riêng cho nàng hóng mát, nhưng lúc này người ngồi trong đình lại là công chúa Cơ Hoành và con sư tử trắng một cánh của nàng ta.

Trong đình, trên mặt bàn pha lê có một tờ giấy nổi vân vàng trải rộng, Cơ Hoành đang cúi xuống viết gì trên đó, con sư tử trắng phục dưới chân cách đó hai bước, Phượng Cửu rùng mình vừa nhìn thấy con sư tử đó, toàn thân nàng đã đau buốt như một phản xạ.

Cơ Hoành viết xong, vẫy con sư tử đến gần, con sư tử hung dữ đó lại tỏ ra rất nghe lời, lặng lẽ đợi chủ nhân viết xong trải lên lưng nó cho khô mực, lại dụi đầu vào tay Cơ Hoành, có lẽ bị nhột Cơ Hoành cười khanh khách nói với Đông Hoa ngồi bên ao sen ngoài đình, đang xoay con đoản đao trong tay: “Xem chừng Tố Tế đói rồi, tuyết linh chi ở chỗ sư phụ mặc dù chưa đến bữa, hay cứ cho nó ăn tạm một cái vậy”.

Thì ra con sư tử này tên là Tố Tế. Cạnh chân Đông Hoa quả nhiên có chiếc thùng gỗ, vẫn đựng đầy linh chi bóng mỡ.

Tố Tế là con thú cưng ngoan, nghe Cơ Hoành nói vậy không chồm như cơn lốc đến trước mặt Đông Hoa lần trước, mà oằn lưng để giữ yên tờ giấy khỏi rơi, ung dung duyên dáng bước từng bước từng bước xuống bậc thềm hình lục giác, sau đó vừa thong thả ăn linh chi trong tay Đông Hoa vừa ngước đôi mắt to cảm kích nhìn chàng, khiến Cơ Hoành hài lòng khen ngợi.

Phượng Cửu ngồi trong lòng Ti Mệnh, hé mắt nhìn cảnh tượng đó, gạt bỏ những tạp niệm hẹp hòi, khách quan nhận thấy cảnh tượng trước mắt quả là bức họa tuyệt mĩ hài hòa hiếm thấy, nam chủ nhân tuấn mỹ, nữ chủ nhân diễm kiều và một con linh thú được cả hai sủng ái, chính nàng cũng không khỏi trầm trồ ngưỡng mộ.

Mây khóm phật tang trong vườn đang mùa hoa nở, đài hoa tựa chiếc chuông nhỏ treo trĩu đầu cành, gió vừa thổi là lung lay như sắp rơi. Phượng Cửu khẽ tựa trong lòng Ti Mệnh, ông hỏi nhỏ: “Muốn đi rồi hả?”.

Cả hai đang định rời đi, bỗng một tia hàn quang lóe lên kèm tiếng gió rít nhanh như ánh chớp lướt bên người, cắm phập vào cành phật tang gần đó. Phượng Cửu nín thở, ngây nhìn bức tranh phía xa, trong màn mưa tơi tả những phiến hoa phật linh bay như tuyết, bóng áo chùng tím thanh tú mà uy nghi thư thái tiến đến, tư phong đó, trước đây khi luôn ở bên chàng, nàng cũng chưa từng ngắm nhìn chăm chú như vậy.

Nàng vẫn nín thở nhìn chàng bước đến bên cây phật tang, giơ tay phủi những cánh hoa còn dính trên thân kiếm, mắt trầm ngâm giơ thanh kiếm lên soi trước ánh nắng nhạt. Nàng nghĩ thanh trường kiếm kia chính là đoản đao trong tay chàng lúc trước, thể chính là thanh đoản đao Liên Tống nhờ chàng làm tặng sinh nhật Thành Ngọc Nguyên Quân. Lúc này hình như Đông Hoa đang thử trọng lượng và tốc độ kiếm. Hình như kiếm quá nặng tốc độ chậm, lực gió khi phóng ra chỉ có thể làm bay hoa phật linh, chứ không thể phạt dứt cánh hoa. Chàng chăm chú ngắm nghía,vẻ tư lự mà nàng đã quá đỗi quen thuộc, Phượng Cửu luôn cảm thấy thần thái này của chàng mới là đẹp nhất.

Chàng giơ tay rút thanh kiếm trên cành, lại một trận mưa hoa, những cánh hoa phật linh mỏng manh theo tay chàng tơi tả bay, nàng giơ móng, mấy phiến hoa tàn rơi trên vuốt nhọn, Phượng Cửu thẫn thờ nhìn những cánh hoa không nguyên vẹn, lát sau ngẩng đầu, cuối tầm măt chỉ còn cái bóng tím phía xa mờ dần trong màn mưa hoa phật linh trắng xóa.

Nàng nghĩ họ gần nhau như thế, nhưng chàng không nhìn thấy nàng.

Thực ra Đông Hoa có gì sai? Chàng chưa từng biết nàng là Phượng Cửu của Thanh Khâu, chưa từng biết nàng thích chàng, cũng không biết để có chàng nàng đã phải hy sinh nỗ lực thế nào. Chỉ là giữa họ không có duyên. Cái gọi là tình yêu không phải cứ nỗ lực là có, nàng đã nỗ lực như vậy vẫn không có được, đã đủ nản lòng. Mặc dù trong định mệnh họ vô duyên, nhưng nàng vẫn da diết nuối tiếc. Trong đầu vang lên những lời hỏi đáp, là đối thoại giữa cái tôi kiên cường và cái tôi yếu đuối. Ti Mệnh xoa đầu nàng, thở dài cùng quay ra, Phượng Cửu cảm thấy cuộc đối thoại riêng tư đó cơ hồ vẫn vang bên tai.

“Chia ly buồn lắm phải không?”.

“Có gì đáng buồn, nhất định có ngày gặp lại”.

“Dù có ngày đó, mình sẽ không còn nhìn chàng với tình cảm thế này”.

“Những gì cần trân trọng đều đã lưu vào kí ức, mất đi tình cảm của mình, lẽ nào không phải là tổn thất của chàng? Lúc này người buồn nên là chàng”.

Vậy mà không biêt sao, lại có giọt nước từ khóe mắt lăn ra, rơi xuống cánh hoa phật linh đậu trên vuốt, giống như một giọt bi thương đặc quánh tứa ra từ vết đau, nàng không nhịn được, ngoái lại, trong ánh mắt ướt nhòa, vẫn chỉ thấy tan tác cánh hoa bay, thiên địa một phiến tĩnh mịch, nàng nhìn mãi những phiến hoa trên vuốt, thu mình trong lòng Ti Mệnh se sẽ viết ra một câu muốn hỏi: “Sau này, tất cả sẽ ổn chứ?”. Nàng cảm giác ông dừng bước, rất lâu, bàn tay một lần nữa vượt qua lễ giáo, xoa trán nàng, trả lời: “Phải, điện hạ, tất cả rồi sẽ ổn thôi”.

Ngày hôm sau, ba mươi tháng chín, sách chiêm tinh nói ngày nay rất thuận việc hôn sự, tế lễ, khai quang, quét nhà, Thập Tam Thiên coi như đã nghênh đón được đại hôn của Đông Hoa Đế Quân và công chúa Cơ Hoành, hôn lễ tưởng sẽ long trọng chưa từng có, không ngờ lại diễn ra rất bình thường, ngoài cung Thái Thần hỷ khí tưng bừng hơn, chư thiên khác không có động tĩnh gì, quả nhiên rất hợp phong cách không ưa phô trương của Đông Hoa.

Phượng Cửu vốn định sẽ rời Cửu Trùng Thiên vào đêm hôm đó, trước lúc xuất hành nàng nhờ bếp lò của phủ Ti Mệnh nướng mấy củ khoai tây gói lại, buộc lên lưng lặng lẽ đi một vòng Thập Tam Thiên, để bọc khoai tây trước cổng cung Thái Thần. Coi như quà cưới cho đại hôn của Đông Hoa, cũng như đoạn tuyệt mối tơ duyên với chàng, sự chăm sóc mấy tháng nay của Đông Hoa với nàng, Phượng Cửu sẽ ghi trong lòng. Nàng chẳng có quà gì quý tặng chàng, mấy củ khoai tây nướng không biết cuối cùng liệu có tới tay Đông Hoa, khi nhìn thấy chúng không biết chàng có nhớ tới con hồ ly bé bỏng này. Nhưng, nếu không nhớ cũng chẳng sao, vầng trăng vằng vặc treo trên cao, loáng thoáng có tiếng tơ trúc hý nhạc rộn ràng từ trong cung vọng ra, Phượng Cửu lòng lại vô cùng an tịnh, không vui không buồn, chỉ cảm thấy một nỗi niềm không thể nói, từ từ nhấn chìm mình, giống như lần trước sau khi bị con sư trắng hành hạ, lết đi rồi rơi xuống ao sen, nhưng cũng không biết rốt cục tình hình lúc đó thế nào.

Hơn ba tram năm sau, lật lại những hồi ức cũ, lại có cảm giác mơ hồ không thực, đây cũng là lần đầu tiên nàng nhớ lại chi tiết quá vãng đau buồn suốt ba trăm năm, mới ngỡ ra một điều, tâm trạng dựa trên những chi tiết. Có phải một số chuyện, nếu nghĩ thông cũng chẳng là gì, nếu không nghĩ, sẽ không đau lòng đến vậy?

Còn về cuộc tình duy nhất của Đông Hoa trong mấy chục vạn năm mà Yến Tri Ngộ kể, vì sao lại là cuộc tình xúi quẩy, Phượng Cửu cũng đại khái đoán được ít nhiều. Cố nhiên Đông Hoa thích Cơ Hoành, thậm chí hai người đó chỉ cách một ngưỡng cửa là đã đi đến kết cục viên mãn, nhưng đến ngưỡng cửa đó, cuối cùng lại rẽ ngang. Trong đêm đại hôn nổi tiếng của họ, tân nương Cơ Hoành không hiểu sao mất tích, người mặc hỷ bào đỏ chói, đội khăn trùm đỏ ngồi trong hỷ phòng là công chúa Tri Hạc. Chuyện này tại sao đến đỉnh núi lại rẽ sang ngả khác, Phượng Cửu đã biết trước mọi người một bước, khi nàng mang khoai tây nướng đến cung Thái Thần đã bị Tri Hạc mình mặc hỷ bào đỏ chói ngăn lại ở góc tường cung, nói một thôi những lời nhảm nhí. Lúc đó thậm chí Tri Hạc còn đưa ra những lý do lệch lạc Phượng Cửu tin là giữa nàng ta và Đông Hoa quả thực vẫn còn hy vọng cuối cùng sẽ viên mãn thanh thản, định làm tổn thương nàng. Phượng Cửu còn nhớ, lúc đó nàng cảm thấy chuyện thật kỳ quặc, nhưng dù gì Đông Hoa đã sắp thành hôn, lúc đó nàng vẫn chưa xác định Đông Hoa có thực lòng với Cơ Hoành, cảm thấy bất luận chàng lấy Cơ Hoành hay Tri Hạc đối với nàng cũng chẳng có gì khác, cũng không thể hiểu nổi chàng kết hôn với Tri Hạc nàng có bị tổn thương hơn hay không. Lúc đó, cả thân thể lẫn trái tim nàng, những vết thương dù chưa lành, nhưng không biết có phải do trải qua những biến cố quá đau đớn, quá nặng nề đến nỗi trở nên tê liệt hay còn nguyên nhân nào khác, mà trái lại không hề thấy đau đớn.

Trong cốc Phạn Âm, dưới cái nóng oi ả thỉnh thoảng có tiếng ve sầu lanh lảnh, Yến Trì Ngộ bên cạnh nói càng hào hứng: “Mặc dù thiên hạ đồn không hiểu vì sao Cơ Hoành mất tích trong đêm tân hôn, nhưng qua nguồn tin bí mật mỗ nghe nói, Cơ Hoành đã bỏ trốn về với tiểu thị vệ Mân Tô”. Chàng ta cười ha hả một trận: “Đêm động phòng hoa chúc, tân nương mới cưới lại bỏ trốn với gã đàn ông khác, một chuyện mất mặt như thế ai chịu được, ngươi nói xem, Mặt lạnh có phải rất xúi quẩy không?”.

Phượng Cửu ngạc nhiên một hồi, đêm đó sau khi nàng rời khỏi Cửu Trùng Thiên, cũng không thăm hỏi gì về Đông Hoa nữa, giờ nghe Yến Trì Ngộ nói vậy, bội phần kinh ngạc, nhưng vẫn hoài nghi câu chuyện của Yến Trì Ngộ, bởi vì hồi còn ở cung Thái Thần, nhìn thái độ của Cơ Hoành đối với Đông Hoa, rõ ràng chỉ một vẻ thực lòng ngưỡng mộ sủng bái, không giống người chỉ cho nàng là tấm lá chắn, trong khi lòng lại hướng về người khác. Chuyện này chưa biết chừng còn có ẩn khúc chi đây.

Mây dần dần kéo đến càng nhiều, ánh nắng co dần, xem chừng sắp có mưa. Phượng Cửu vừa liếc nhìn trời, vừa liếc sang Yến Trì Ngộ vẫn cười khoái trá, như không dừng lại được, trong khi lòng nàng đang não nề vì gợi lại chuyện xưa, cảm thấy hơi chướng mắt, không nén nổi châm chọc một câu: “Người hùng như tráng sĩ cũng thích Cơ Hoành, nhưng công chúa lại bỏ trốn với người khác, không phải với tráng sĩ, vả lại cho dù công chúa chưa động phòng với Đông Hoa, nhưng chung quy hai người họ đã bái thiên địa, vẫn coi là đã thành phu thê, dù gì vẫn còn hơn tráng sĩ, cớ sao tráng sĩ lại vui như thế?”.

Yến Trì Ngộ sắc mặt kì dị nhìn nàng: “Bái thiên địa? Chẳng phải ngươi ở trong phủ của Đông Hoa, quái thật, cớ sao lại không biết?”.

Phượng Cửu ngớ ra: “Biết gì cơ?”.

Yến Trì Ngộ gãi đầu: “Mặt lạnh không bái thiên địa với Cơ Hoành, nghe nói trước khi bái thiên địa ông ta muốn gặp con tiểu hồ ly chính là con linh thú được ông ta rất cưng sủng, lệnh cho trưởng quản dẫn nó đến, lệnh vừa ra, mới phát hiện con linh thú không biết đã mất tích bao lâu rồi”.

Phượng Cửu đứng bật dậy ngắt lời Yến Trì Ngộ: “Để ta đi xem cái mỏm đá hình rẻ quạt này có đường lên hoặc xuống nào không, bị nhốt mãi chỗ này cũng ngán, Yến tráng sĩ nói nhiều chắc cũng mệt rồi, ta thấy nên nghĩ cách thoát khỏi đây thì hơn”.

Nói đoạn, chạy thẳng về phía trước, Yến Trì Ngộ hét sau lưng: “Không nghe nữa à? Thú vị như thế mà”. Hai ba bước đã đuổi kịp nàng, vẫn hào hứng kể: “Về sau, Mặt lạnh vội vã đi tìm con hồ ly đó, không kịp bái thiên địa với Cơ Hoành. Đúng là chuyện nực cười, ông ta còn chạy đến tìm mỗ đòi con hồ ly, tưởng là mỗ bắt nó mang bán, mỗ giống một người bán cả con hồ ly sao? Muốn bán cũng phải bán tiên nữ cung nga trên trời chứ, ông ta quá coi thường mỗ. Có điều nghe nói ba trăm năm nay ông ta vẫn đang tìm nó mà không tìm được. Mỗ cảm thấy con hồ ly đó có lẽ đã không còn trên đời này nữa, không biêt nó có gì độc đáo mà được ông ta thích như vậy”.

Tiểu Yến lẩm bẩm chán chê, ngẩng đầu nhìn Phượng Cửu đang quỳ một chân trên bờ vực nhìn xuống, tảng đá nàng giẫm lên kẹp giữa vách đá hình như không vững, chàng ta vội nhắc: “Cẩn thận”. Giọng vừa cao vừa bất ngờ làm Phượng Cửu giật mình, một chân bước hụt, Yến Trì Ngộ toát mồ hôi lao đến.
 
Tham gia
6/7/19
Bài viết
101
Điểm cảm xúc
41
Điểm
28
Phượng Cửu quấn một tấm chăn lớn ngồi ở gian phòng phía đông, vừa ngáp vừa sưởi, vừa chép lại lần thứ bảy bản ‘Địa nhật kinh sơ’ do phu tử bắt chép phạt.

Hồi nhỏ đi học nàng rất hiếu động, các vị phu tử ở Thanh Khâu cũng thường bắt chép phạt một số sách kinh, nhưng cha mẹ các đồng môn hồi đó phần lớn đều là người làm công trong nhà nàng, cho nên để lấy lòng Phượng Cửu chúng thường tình nguyện làm mọi việc cho nàng, những bài tiên sinh bắt phạt đều do bọn chúng làm hết. Phượng Cửu học lâu như vậy, nhưng văn phạt, võ phạt xưa nay chưa bao giờ phải động tay. Không ngờ bây giờ thế sự đổi thay, nàng tự nhận mình đã ba vạn tuổi cũng không còn quá trẻ, lại đường đường là nữ vương Thanh Khâu, lúc này lại phải ngồi gò lưng trong học đường của Tỷ Dực Điểu chép kinh, cũng coi là chuyện đáng thở than.

Do vậy Phượng Cửu rút ra hai kết luận. Một, có thể thấy rồng mạnh không bắt nạt rắn đất, lão tổ tông rõ ràng không lừa nàng. Hai là, có thể thấy một chiến hữu như lợn có thể cự được kẻ địch tương đương mười con sói, lão tổ tông lại lần nữa không lừa nàng. Rắn đất ở đây chính là phu tử nghiêm khắc của Tỷ Dực Điểu, còn chiến hữu như lợn đương nhiên duy nhất chỉ có Yến Trì Ngộ mới xứng với danh xưng kêu như vậy.

Sự việc thế nào cuối cùng cũng đi đến bước này, nửa năm nay, Phượng Cửu thường xuyên suy nghĩ, nghĩ hoài, nghĩ mãi, chỉ có thể quy cho số mệnh.

Nửa năm trước, nàng với Tiểu Yến tráng sĩ không may rơi vào một mỏm đá nhô ra của cốc Phạn Âm, sau khi hai người dành hai khắc bình yên nói chuyện với nhau, nhắc lại những chuyện xa xưa, lại không may từ mỏm đá đó rơi xuống vực, lại không may rơi trúng người nhị hoàng tử của bộ tộc Tỷ Dực Điểu sống dưới vực, vậy là khốn khổ đến bây giờ

Nhị hoàng tử đó họ Tương Lý, tên là Manh, tên đầy đủ là Tương Lý Manh, thường được gọi là Manh thiếu gia.

Do bộ tộc này từ xa xưa có quy chế đàn ông chưa thành hôn không được một mình ra khỏi vực, nhưng Manh thiếu gia mặc dù chưa thành hôn nhưng lại một lòng hướng về thế giới phồn hoa bên ngoài, đã nung nấu ý định chuẩn bị từ lâu, chọn ngày tốt định bỏ nhà trốn đi, không ngờ vừa ra khỏi cổng thành, thì bị Phượng Cửu từ trên trời rơi xuống, đè trúng người làm chàng ngã ngất.

Yến Trì Ngộ chèn giữa Phượng Cửu và nhị thiếu gia, thực ra đầu cũng choáng váng, khi tỉnh lại, hai người đã bị trói, áp giải đến đại điện vương cung Tỷ Dực Điểu. Trên vương vị là nữ vương Diêm tộc, cũng là mẫu thân của Manh thiếu gia.

Phượng Cửu mặc dù nhiều môn không chăm học, nhưng may có môn lịch sử lại học rất tốt, biết bộ tộc Tỷ Dực Điểu có quan hệ với Thanh Khâu, bây giờ mình rơi vào đây, nhất định không thể để lộ thân phận, nên đưa mắt ra hiệu cho Tiểu Yến. Tiểu Yến vốn thần kinh rắn như thép, nhìn nàng hồi lâu, vẫn không lĩnh ngộ được hàm ý trong mắt nàng, có điều may là chàng vốn không biết nàng là nữ vương Thanh Khâu.

Làm ngất nhị hoàng tử có thể là chuyện lớn, có thể là chuyện nhỏ. Nếu nhị hoàng tử mãi mãi không tỉnh thì là chuyện lớn, nếu kịp thời tỉnh lại, bên cạnh lại có người nói rõ mọi chuyện thì sẽ là chuyện nhỏ.

May mà, Manh thiếu gia kịp thời tỉnh lại, làm dịu ngọn lửa phẫn nộ đang bừng bừng trong lòng nữ vương từ mẫu ngồi trên ngai. Trước đó đã xử, giam hai người vào tử lao, giữa đường đổi thành áp giải đến thủy lao. Nhưng cửa ngục thủy lao còn chưa mở, lại có lệnh truyền không giam nữa, lập tức cung kính rước hai vị về đại điện.

Phượng Cửu và Yến Trì Ngộ được tháp tùng trở về đại điện lúc trước họ đã bị tra vấn, nghe nói vừa rồi có người cấp tốc chạy đến đại điện nói rõ mọi sự giúp họ, đã điều tra ra, hai người vốn là tiểu vương tử và tiểu muội thuộc bộ tộc Dạ Điểu chỉ cách một con sông, do ngưỡng mộ phong thái học phủ của bộ tộc láng giềng mới tìm đến đây du học, không may bị ngã rơi trúng hoàng tử, tất cả chỉ là hiểu lầm.

Phượng Cửu thầm nghĩ, câu chuyện này mới là hiểu nhầm, nhưng nữ vương lại tin, chứng tỏ quả thật ông trời giúp họ, cho nên không thể phụ lòng ông trời.

Lần thứ hai lên điện, thái độ nữ vương đã khác hẳn, không còn bộ mặt phẫn nộ như Phật Mẫu Kim Cương lúc trước, hiền hậu nhìn họ, thân thiện và khiêm nhường thu lại chỉ lệnh: hai vị tựa như khách của bộ tộc, lại ham học như vậy, đặc ân ban cho vào học phủ của vương tộc, một là thỏa lòng hiếu học của họ, hai là cũng tiện cho đồng bối trẻ của hai bộ tộc giao lưu…

Giữa triều đường Tỷ Dực Điểu, Phượng Cửu thầm nghĩ, bản thân nàng mặc dù xưa nay ghét nhất suốt ngày chúi mũi vào kinh sử, nhưng dù gì cũng đã học cả vạn năm, chỉ cần tỏ ra nhu mì, đi học trở lại cũng không khó khăn gì, chịu đựng một chút là qua, nhưng Tiểu Yến tráng sĩ là người phóng khoáng bất kham có lẽ không chịu nổi qui chế nghiêm ngặt của học phủ, có khi thà ngồi thủy lao còn dễ chịu hơn đối diện với bút nghiên.

Vì vậy, lúc này Phượng Cửu hơi căng thẳng, chỉ sợ Yến Trì Ngộ đột nhiên lỡ miệng nói câu gì khiến hai người rơi vào hiểm cảnh. Nàng cảm thấy với trí tuệ của chàng, Tiểu Yến rất có thể gây ra chuyện đó. Nhưng không ngờ biểu hiện của chàng hôm đó lại rất ổn, chàng vốn tính nôn nóng, sau khi vào đại điện, ánh mắt dừng ở đâu đó ngơ ngẩn một hồi, vẻ nôn nóng trong mắt dần biến mất, hơi cúi đầu ra vẻ ngoan ngoãn nghe theo sự sắp đặt của nữ vương.

Cũng may chàng có ngoại hình thanh tú, khiêm nhường lặng lẽ đứng ở đó, cho nên không nhận ra chàng vốn là bá vương của Ma tộc. Lúc này Phượng Cửu cảm thấy hơi lạ, nhìn theo ánh mắt của Tiểu Yến, trong đám thần tử đứng hai bên điện như đang xem trò vui, ánh mắt Tiểu Yến nhìn lướt qua họ, rồi dừng lại trên người một cô nương áo trắng có mạng che mặt màu trắng, Phượng Cửu bất giác nhìn kỹ người đó, do sự bất thường của Tiểu Yến, nên nàng càng phải lưu tâm, nhưng quả thật không phát hiện ra cô nương đó có điều gì đặc biệt hơn các cô nương áo trắng đứng ở đây, cho nên lát sau cũng không bận tâm nữa…

Đêm đó hai người nghỉ chân ở học phủ của Tỷ Dực Điểu.

Mấy ngày đầu, Phượng Cửu còn nghĩ phải tìm cách trốn khỏi cái vực này, nhưng qua thăm dò, phát hiện quả thực trên trời không có đường, dưới đất không có cửa. Nếu còn pháp thuật còn có thể nghĩ ra cách nào đó, nhưng sự kỳ dị ở cốc này chính là, chỉ có nội trong vương thành mới có thể sử dụng được phép thuật, một khi ra ngoài thành, cho dù là nửa bước, pháp thuật cao siêu đến mấy cũng vô hiệu. Nàng cũng từng thử một số thuật di chuyển trong thành, nghĩ là chỉ cần không di chuyển ra ngoài vương thành, đến cửa cốc coi như đã thành công một nửa. Kết quả, nàng và Tiểu Yến từ phía tây vương thành sang phía đông, cuối cùng rơi trúng vào nhà một quả phụ nào đó ở đông thành lúc cô ta đang tắm, bị bà mẹ chồng mù của quả phụ cầm chổi đuổi ra.Thấy tình hình xem chừng sẽ bị nhốt lâu dài ở đây, nửa tháng đầu, Phượng Cửu cũng tỏ ra nôn nóng, mỗi ngày qua đi càng nôn nóng hơn, cho nên lại nghĩ đến kẻ đầu sỏ khiến mình bị nhốt ở đây – Đông Hoa Đế Quân ở Thập Tam Tiên. Mặc dù trong lòng, nàng rất muốn rạch rõ ranh giới với Đông Hoa, nhưng xét đến ngoài khu vực này dù có bao nhiêu chúng sinh nhưng chỉ có Đông Hoa – một người còn sống biết nàng rơi vào nên vẫn mong mỏi chàng đến cứu mình. Đương nhiên nàng hiểu, trước khi rơi xuống chỗ này, nàng đã đắc tội với Đông Hoa, hy vọng trong ba bốn ngày chàng đến cứu là không thể, vậy nên cho chàng một thời gian để nguôi giận, thầm nghĩ, nếu nội trong vòng một tháng chàng xuất hiện ở đây, đưa nàng về, thì cái tội tự tiện đưa nàng đến núi Phù Vũ để nàng rơi vào hiểm cảnh, Phượng Cửu có thể rộng lượng bỏ qua. Mặc dù tương truyền, cốc Phạn Âm này mười năm mới mở một lần, nhưng nàng tin nếu Đông Hoa muốn cứu nàng, tất sẽ có cách đi vào.

Nhưng, một tháng, hai tháng, ba tháng trôi qua, vẫn không thấy Đông Hoa đến cứu mình.

Cốc Phạn Âm về đêm rất thê lương, Phượng Cửu quấn chặt người trong tấm chăn bông, thỉnh thoảng lại đột nhiên nghĩ, con người Đông Hoa có lẽ quá thù dai, cho dù chỉ vì chút tình nghĩa đều là thần tiên, lẽ nào không hề lo lắng cho sự an nguy của bậc tiểu bối này? Nhưng trở mình một cái, lại nghĩ khác, lại cảm thấy, chuyện này cũng khó nói, trước đây khi còn là tiểu hồ ly, nàng đã hiểu Đông Hoa, xưa nay với người nào việc nào chàng cũng thờ ơ, có lẽ trên đời này, với chàng chỉ có Cơ Hoành là ngoại lệ.

Bình thường mặc dù nhiều lúc nàng tỏ ra điềm tĩnh, nhưng rốt cuộc vẫn chưa đến tuổi có thể điềm tĩnh nhìn nhận sự đời, ngay chuyện Đông Hoa chưa đến cứu mình, nàng cũng buồn bã tủi thân mấy ngày. Mấy hôm sau, cuối cùng xốc lại tinh thần suy nghĩ thực tế hơn, lại thấy sự đã như thế, đành đợi mười năm sau, cốc Phạn Âm mở cửa lần nữa. Thực ra, tĩnh tâm nhìn ngắm, chỗ này cũng không tồi, so với trước đây là nô tỳ quét dọn trong cung Thái Thần vẫn tốt hơn không biết bao nhiêu lần. Người nhà có lẽ sẽ tìm nàng, nhưng sẽ không quá lo cho nàng, họ biết Phượng Cửu sẽ không xảy ra chuyện gì lớn. Sau khi nghĩ thông những điều đó, tinh thần cũng khá lên nhiều.

Với tư cách là bằng hữu chung hoạn nạn, Yến Trì Ngộ thấy nàng vui vẻ hơn nhiều so với mấy tháng trước cũng rất vui, dẫn nàng đi uống mấy bữa rượu, lại an ủi nàng một vài đạo lý đại loại như, con người ta cần phải an định theo cảnh ngộ mới có thể luôn vui vẻ, khiến trái tim nàng thực sự an định ở nơi đây.

Lúc này, thấm thoát nửa năm đã trôi qua.

Vào một ngày tuyết thưa, hoe hoe nắng, Phượng Cửu đã chép mười lần kinh thư, thận trọng cầm bốn góc tờ giấy lên thổi cho khô mực, rồi gấp lại, đang định ngày mai sẽ cung kính dâng lên cho phu tử.

Nàng có được giác ngộ như vậy quả không dễ, vị phu tử đó chủ yếu giảng về cách chế luyện thần binh, nhưng hơi bất mãn bởi vì bộ tộc Tỷ Dực Điểu nhiều năm không chú trọng công việc này, Phượng Cửu vốn am hiểu về mặt đó. Mỗi lần vị phu tử kia giảng bài nàng đều đưa ra những câu hỏi làm khó ông ta, từ đó trở thành cái gai trong mắt ông thầy. Nàng cho rằng số của mình cả đời không có duyên với các vị phu tử, bắt đầu từ khi phụ thân muốn hạn chế tính hiếu động của nàng, đưa nàng vào học phủ, nhưng ngày đầu tiên đi học Phượng Cửu đã là cái gai trong mắt các vị phu tử. Nàng đã quen bị các vị đó không ưa, sớm có rất nhiều chiêu đối phó với họ, cho nên khi vào học phủ của cung đình Tỷ Dực Điểu nàng cũng không mấy để ý đến vị phu tử có bộ râu dê kia.

Nhưng gần đây vị phu tử râu dê lại có quyền lực rất lớn.

Học phủ của cốc Phạn Âm cứ mười năm mở một cuộc so tài giữa các môn sinh, người thắng cuộc có thể nhận giải thưởng là quả tươi mới ra trong năm của cây bần bà bên suối Giải Ưu. Suối Giải Ưu là dòng suối thánh của cốc Phạn Âm, bắt nguồn từ thâm cung, bên bờ suối có một gốc cây bần bà, mười năm mới ra hoa, mười năm kết quả một lần, lại chỉ ra một quả duy nhất, tùy theo tình hình của năm mà kết ra loại quả có công dụng diệu kỳ khác nhau. Theo truyền thuyết, cây bần bà là cây đại thụ thứ năm có tác dụng diệu kỳ ở Cửu Trùng Thiên, bốn cây kia là vô ưu, diêm phù đề, bồ đề và long hoa. Trong cổ kinh thư xưa còn có đoạn ghi chép ví von như sau: “Sắc môi Phật Đà đỏ thắm như quả bần bà.”, nhưng mười vạn năm trước, những cây bần bà ở Cửu Trùng Thiên không hiểu nguồn cơn gì đều không ra quả, ngày nay Hạ giới cũng chỉ có một cây duy nhất bên suối Giải Ưu ở cốc Phạn Âm này còn ra quả, vậy nên càng vạn phần quý hiếm. Hơn nữa qua nguồn tiểu đạo được biết, quả bần bà kết ra trong năm nay vẫn có công dụng kỳ diệu, đối với người trần có thể hoàn xương thịt cho người đã chết, còn đối với các bậc tiên tu, nếu có diễm phúc được nếm quả thần đó thì tiên lực sẽ tăng bội phần, nếu là tiên nữ dung nhan sẽ càng vạn phần thanh xuân diễm lệ, còn tươi thắm hơn quả phan đào trong vườn của Thái hậu nương nương ở Cửu Trùng Thiên. Trước công hiệu thần kỳ như vậy của quả bần bà, môn sinh nào chẳng động lòng, cuộc thi tài năm nay còn chưa mở đã nóng hừng hực.

Đại quyền mà vị phu tử râu dê được nữ vương Tỷ Dực Điểu ban cho chính là thế, do năm nay số sĩ tử ghi danh dự thi đông gấp bội, không có trường thi nào đủ rộng để có thể chứa hết người tham dự, học phủ trình lên nữ vương, nữ vương hạ bút ngự phê, lệnh cho phu tử sàng lọc trước một lần. Vậy là dưới thánh ân, ai được dự thi ai không, quyết định bởi câu nói của vị phu tử râu dê kia. Đại quyền của vị phu tử đó trong học phủ hiện không ai sánh bằng.

Phượng Cửu từng tìm thời cơ lén vào gần suối Giải Ưu, nhìn cây bần bà có thể kết ra thứ quả dị thường thần diệu đó. Giữa tán lá xanh biếc, lấp lánh, quả nhiên nhìn thấy quả thần đỏ thắm hào quang từng được ví với sắc môi của Đức Phật Di Đà ở Tây Thiên. Nàng đứng từ xa, nhìn rất lâu, nếu quả bần bà nhỏ bé kia quả thực có thể hoàn lại xương thịt cho người đã chết, có một cố nhân của nàng qua đời đã nhiều năm, nàng muốn vì người đó, thử vận may một lần.

Vị phu tử đang nắm đại quyền có thể giúp mình cơ hội chiếm được quả bần bà, Phượng Cửu đương nhiên không thể đối đầu. Ông ta phạt nàng chép kinh, nàng tuyệt nhiên không thể vứt xó như trước, cần chép thì phải chép, tỏ ra cung kính nghe lời, phải khiến ông ta nhìn thấy nàng là vui, không phải thấp thỏm lo sợ những câu hỏi hóc búa của nàng như trước, ngoài ra nàng còn suy nghĩ thấu đáo hơn, phải tìm cách xóa hết những tội đã đắc với vị phu tử, lúc này không chỉ cần cung kính nghe lời, còn phải nịnh nọt lấy lòng ông ta.

Nhưng làm thế nào để lấy lòng phu tử? Phượng Cửu cau mày lại giở tập kinh thư vừa chép, phu tử vốn chỉ phạt nàng chép năm lần ‘Đại nhật kinh sơ’, nàng chép luôn mười lần, như thế có phải đã thể hiện sự cung kính, đẹp lòng phu tử không, nếu viết thêm câu “Tế Hàn tiên sinh phúc vĩnh hưởng, tiên thọ vô cương” liệu có càng khiến ông ta hài lòng?

Không, ngộ nhỡ phu tử không có hứng xem hết, không đọc được câu đó, chẳng phải viết phí công sao? Xem ra vẫn nên đem câu nịnh bợ kia viết ngay phía trên đầu trang giấy thì hơn. Nàng lại cầm bút, nhìn tuyết tích tụ ngoài cửa sổ, lại băn khoăn nghĩ một hồi, không biết tên của vị phu tử kia là Tế Hàn, hay Hàn Tế?

Đúng lúc đó, Yến Trì Ngộ nửa mình đầy tuyết vội vàng đẩy cửa vào. Bởi hai người trên danh nghĩa là vương tử và công chúa của bộ tộc Dạ Điểu nên được coi là huynh muội, bố trí cho ở chung một lạc viên, cái tên lạc viên cũng mang đậm phong cách của bộ tộc này, gọi là Tật Phong Viên, tọa lạc ngay cạnh học phủ. Do Yến Trì Ngộ hình như đã quên công chúa Cơ Hoành quay ra thích cô nương áo trắng gặp ở đại điện lúc ban đầu, cho nên mỗi khi hết thời gian học, thường đến chỗ cô nương kia chuyện trò, không có nhiều thời gian làm chướng mắt Phượng Cửu, hai người sống nửa năm yên bình, hòa thuận, trong lạc viên rộng rãi này.

Phượng Cửu nghển đầu về phía Yến Trì Ngộ đang chỉnh lại xống áo: “Huynh có biết phu tử của chúng ta tên gì không?”

Tiểu Yến ngạc nhiên: “Chẳng phải tên là phu tử sao?” Nói đoạn hào hứng ghé lại gần: “Phu tử đó còn có tên khác à?"
 
Tham gia
6/7/19
Bài viết
101
Điểm cảm xúc
41
Điểm
28
Ngày hôm sau, mới sáng sớm Phượng Cửu đã đến tông học, muốn hỏi đồng môn phu tử rốt cuộc có tên húy là gì. Nàng quả thực không ngờ muốn xu nịnh người khác lại khó khăn như vậy, hơn nữa tên của vị phu tử này lại bị giấu kỹ hơn cả khuê danh của các tiểu thư. Trong tông học, nửa năm nay, ngoài Yến Trì Ngộ, Phượng Cửu chỉ giao hảo với nhị hoàng tử Tương Lý Manh, nhưng khi đến chỗ Manh thiếu gia hỏi thăm, ngay cả Manh thiếu gia cũng không thể nào biết được tôn húy của lão phu tử.

Giờ Mão (từ năm giờ đến bảy giờ sáng), trên trời một vầng trăng đơn độc tỏa ra ánh sáng trong trẻo, thông thường lúc này chỉ có học trò con nhà quan nghèo chuyên cần dùi mài kinh sử, nhưng hôm nay từ xa đã nghe thấy tiếng ồn ào trong tông học, tiếng nói tuy không to, nhưng âm thanh như vậy không phải một, hai người có thể tạo ra được. Phượng Cửu lờ mờ cảm thấy có trò hay để xem, lập tức hết buồn ngủ, rảo bước đi đến lòng thầm nghĩ, chim dậy sớm có sâu ăn, hôm nay ngủ ít một canh giờ quả thiệt.

Không biết ai đã hiến mấy viên dạ minh châu, cả học đường rộng lớn sáng trưng, Phượng Cửu lặng lẽ lẻn vào từ cửa sau, ngước mắt thấy đa số đồng môn đều có mặt, hơn nữa còn tấp nập qua qua lại lại, hình như đang bố trí cạm bẫy ngầm gì đó quanh học đường.

Người tay chống eo cầm tờ sơ đồ rách chỉ huy mọi người lại chính là đường muội (em họ) của Manh thiếu gia, quận chúa Khiết Lục.

Phượng Cửu đứng bên cạnh một lúc, trong thời gian đó có hai, ba đồng môn đi vào, có mấy người giao hảo với Khiết Lục bước lên thăm dò, Phượng Cửu nghe được đại khái.

Thì ra hôm nay vốn là một tiên quân nào đó ở Cửu Trùng Thiên đến giảng về trà đạo cho họ, chiều qua khi tan học lại nghe phu tử nói tiên quân đó bận việc lần này không đến được, sai một vị tiên bác đến thay, hôm nay chính là ngày vị tiên bác đó đến giảng. Kế hoạch của bọn Khiết Lục là dùng những cái bẫy này đuổi vị tiên bác kia đi, như thế môn trà đạo không có ai giảng, có thể vị tiên quân trên trời biết bọn họ tha thiết mong chờ ngài như vậy, sẽ đích thân đến giảng bù cho họ. Phượng Cửu cảm thấy họ nghĩ như vậy quả thực quá ư ấu trĩ, ngây thơ.

Phượng Cửu đến tông học này chưa lâu, chỉ nghe nói vài lời đồn về vị tiên quân này. Trong những lời đồn ấy, mọi người do cung kính đều không nhắc tới danh hiệu của vị này, hình như là một bậc tiên giả vô cùng tôn quý. Vị tiên tôn quý đó nghe nói có địa vị rất cao ở Cửu Trùng Thiên, Phật duyên cũng rất dày, nhưng xưa nay chưa từng nạp đệ tử, nghe đâu năm xưa Thiên Quân có ý đem thái tử Dạ Hoa đến cầu vị đó nhận làm đệ tử cững bị từ chối. Tóm lại, đó là một nhân vật lớn rất lợi hại, một nhân vật lợi hại như vậy lại coi trọng bộ tộc Tỷ Dực Điểu bé nhỏ này, bằng lòng đến giảng dạy ở tộc của họ, mặc dù mười năm mới đến một lần, hơn nữa mỗi lần cũng chỉ lưu lại nửa tháng, một tháng, cũng khiến cả bộ tộc cảm thấy vinh hạnh. Điều duy nhất đáng tiếc là bộ tộc này xưa nay không giao du với bộ tộc khác để đến nỗi vinh hạnh chói lọi đó bị bưng bít trong cốc, không có chỗ tỏa sáng, khiến người ta không khỏi thấy tiếc.

Khi Phượng Cửu mới nghe nói về vị tiên kia, trong đầu liền điểm qua một lượt những vị thần tiên nàng biết ở Cửu Trùng Thiên, chọn ra được hai người, một là Đông Hoa, hai là Thái Thanh Đạo Đức Thiên Tôn trong Tam Thanh Tứ Ngự[1] còn gọi là Thái Thượng Lão Quân. Từ chối không nhận Dạ Hoa làm đệ tử quả thực là chuyện Đông Hoa có thể làm ra, nhưng lại nghĩ Đông Hoa không phải là người thích gây rắc rối cho bản thân, đến đây giảng bài trong khi nơi này có nhiều nữ tử phiền phức như vậy, trước đây chẳng phải chính chàng vì sợ bị các nữ tử của Ma tộc đeo bám mới từ bỏ Ma đạo sao? Trái lại Thái Thượng Lão Quân của cung Đâu Suất có vẻ là một ông lão rất thú vị, nhưng Lão Quân lại có nhiều người ở Phạn Âm Cốc ngưỡng mộ như vậy là điều Phượng Cửu không ngờ tới.

[1] Tam Thanh Tứ Ngự chỉ ba vị thiên thần có địa vị cao nhất trong Đạo giáo là Nguyên Thủy Thiên Tôn, Linh Bảo Thiên Tôn, Đạo Đức Thiên Tôn và bốn vị đại đế là Bắc Cực Đại Đế, Trường Sinh Đại Đế, Thiện Hoàng Đại Đế, Hậu Thổ Hoàng Địa Chi.

Trời rạng dần, có thể nhìn thấy ngoài cửa sổ những ngọn núi như được đẽo gọt mà thành, sương mù trên đỉnh núi tan đi, cây cối xanh ngắt, lộ ra chút sinh khí trong gió tuyết.

Các đồng môn đã bố trí xong cạm bẫy ngầm, đang giải lao đứng thở thì Manh thiếu gia lặng lẽ đi vào, nhìn thấy cảnh đó sững ra một lúc. Phượng Cửu thấy bộ dạng chàng ta như định khuyên đường muội điều gì, liền nhích về phía họ hai bước dỏng tai nghe.

Manh thiếu gia quả nhiên thở dài nói với quận chúa Khiết Lục: “Bản thiếu gia hiểu muội có tình ý rất sâu với vị đó, nhưng người ta biết được bao nhiêu, có từng bận tâm đến muội không? Luận về tuổi tác vị đó xứng là lão tổ tông của lão tổ tông của lão tổ tông muội, muội như vậy có khi còn làm phiền người ta, từ đó người ta không đến tộc ta giảng bài nữa.” Lại thở dài lần nữa: “Thực ra chuyện đó với ta thì không sao, nhưng mẫu quân sẽ trị tội muội rất nặng, lúc đó muội lại trách ta không nói đỡ cho muội. Vả lại, mấy ngày trước ta nghe nói ở Cửu Trùng Thiên vị đó đã tìm được hiền thê, mặc dù chưa bái thiên địa nhưng đã đối xử như với phu nhân của mình, nghe đồn ngài rất coi trọng rất cưng sủng nữ tử đó, thậm chí hai người còn tắm chung ngủ chung với nhau... Này này này, muội khóc cái gì, đừng khóc nữa...”.

Quận chúa Khiết Lục nói khóc là khóc luôn, không chút nể mặt đường huynh (anh họ) của mình. Tiếc là Manh thiếu gia có bộ dạng phong lưu nhưng lại không biết ứng phó với nước mắt của nữ nhân, ngây người không biết làm gì.

Phượng Cửu quay người đi, giơ tay khép lại cái quai hàm vừa rồi ngạc nhiên quá rớt xuống, chống tay vào bàn từ từ ngồi xuống rót cho mình cốc trà lạnh uống cho bớt kinh ngạc: Ở Cửu Trùng Thiên người phong lưu nhất phải kể đến tam hoàng tử Liên Tống của Thiên Quân, nhưng ngay Thiên Tống cũng chưa thấy bị đồn đại chưa bái thiên địa đã tắm chung, mà cho dù có làm chuyện đó cũng nên bưng bít cho kín, vậy là mình đã xem thường Thái Thượng Lão Quân rồi. Chà chà, thì ra Thái Thượng Lão Quân không hề ăn chay, ngài quá thẳng thắn, quá lợi hại, quá xuất chúng.

Phượng Cửu đang cắn ngón tay út thầm khâm phục cảm thán, lại nghe thấy quận chúa Khiết Lục nức nở nói: “Huynh cố tình, huynh thầm yêu đế cơ Thanh Khâu mà không có được nàng, mới mong thiên hạ ai cũng cả đời cô quả như huynh, tôn thượng ngài thanh cao như vậy sao có thể dính dáng đến tin đồn thế tục. Những gì huynh nói về ngài, muội không tin một chữ nào.” Nói xong giậm chân bỏ đi.

Phượng Cửu ngước nhìn thấy sắc mặt Manh thiếu gia như tái nhợt, bốn chữ “đế cơ Thanh Khâu” mà Khiết Lục vừa nói nàng nghe rất rõ, đầu tiên là hơi ngạc nhiên, sau đó bàng hoàng. Lòng thầm nghĩ cô cô của mình mặc dù đã xuất giá vậy mà tiếng thơm vẫn không kém năm xưa, ở một nơi xa xôi thế này vẫn có chàng thiếu niên bị cô cô làm cho hồn xiêu phách lạc, thật là làm cho nhà họ Bạch nở mày nở mặt. Nhưng Manh thiếu gia quá non so với cô phụ cho dù chàng có cơ duyên đến trước mặt cô cô, cô cô chắc chắn cũng không để mắt đến chàng. Phượng Cửu nhìn Manh thiếu gia đang đứng ngơ ngẩn phía xa, vô cùng thông cảm lắc đầu, đúng lúc chàng ta ngoái lại liếc về phía nàng, hai ánh mắt gặp nhau.

Hai người nhìn nhau một lát, Manh thiếu gia cầm bản sơ đồ rách quận chúa Khiết Lục cầm lúc trước, vẫy nàng đến: “Cửu Ca, lại đây, việc bố trí cạm bẫy công chúa thạo nhất, ta thấy sơ đồ này của Khiết Lục có nhiều chỗ chưa ổn, nàng ta đã muốn làm cạm bẫy này, tốt nhất là để vị tiên bác đến giảng thay kia rơi vào bẫy hai, ba ngày cũng không ra được, không thể giảng bài thay thì tốt. Công chúa xem nên bố trí lại thế nào?”

Tiếng “Cửu Ca” này Phượng Cửu biết là đang gọi nàng, ở Phạn Âm Cốc, nàng mượn thân phận cửu công chúa của bộ tộc Dạ Kiêu, khuê danh của cửu công chúa chính là Cửu Ca. Manh thiếu gia đúng là một người anh họ tốt, bị em họ chế giễu như vậy mà vẫn nghĩ cho nàng ta, thật là rộng lượng. Phượng Cửu bê cốc trà lạnh ghé lại nhìn sơ đồ trong tay chàng ta, chẳng qua chỉ là mấy trò đơn giản sơ sài, có thể hại vị tiên bác xúi quẩy đến giảng bài lần này bị dính ít nước, ngã mấy cái, ăn ít vôi mà thôi, theo kinh nghiệm đấu trí nhiều năm của nàng với các phu tử thì thật chẳng đáng kể.

Phượng Cửu giơ tay chỉ vào học đường: “Những chỗ khác nên dỡ đi, chỗ này dùng pháp thuật làm một cái giếng sâu thông với sông Tư Hành ở ngoại thành rồi dùng phép che mắt, đảm bảo vị đó một khi dẫm lên là “rầm” một cái rơi xuống, chắc chắn mười ngày nửa tháng không thể xuất hiện trước mắt hai chúng ta.”

Manh thiếu gia nhíu mày suy nghĩ một lúc rồi trả lời: “Như vậy có ác quá không? Nếu vị tiên bác đó quay lại trách tội…”.

Phượng Cửu uống ngụm trà: “Hoặc cũng có thể xem xét chỗ này đào một cái hố sâu ở chỗ này, bên dưới cắm đao nhọn truyền đầy thần lực, đợi ông ta rơi xuống, "xử" ông ta luôn, thế là xong. Đương nhiên so với cách trước thì việc vứt cái xác hơi phiền phức một chút.”

Manh thiếu gia cầm bản sơ đồ hồi lâu: “… Ta thấy cách ban đầu tốt hơn.”

Đỉnh núi Phù Vũ đá sừng sững, rừng rậm rạp, mặc dù đã vào đông, nhưng cây cối vẫn chưa nhuốm màu khô héo, cây lá vẫn rậm rạp tỏa bóng, chỉ loáng thoáng lộ ra mảnh trời xanh be bé. Thinh không vẳng qua tiếng hạc tiên lảnh lót cùng với tiếng vỗ cánh vun vút, vừa nhìn đã biết là một ngọn tiên sơn không bình thường.

Trọng Lâm, vị tiên trông coi sổ sách của cung Thái Thần đứng ở trước vách đá của Phạn Âm Cốc, vô cùng lo lắng thở dài. Bắt đầu từ hơn hai trăm năm trước khi Diệu Nghĩa Tuệ Minh Cảnh hỗn loạn không yên, cứ mười năm Đế Quân lại mượn danh nghĩa dạy học vào Phạn Âm Cốc một lần, khử sạch khí đục tam độc từ Tuệ Minh Cảnh tràn ra. Đế Quân bí mật đến đây, lần nào cũng do ông đi theo, lần này không có ông, không biết Đế Quân ngài sống ở đó liệu có quen.

Sự tồn tại của Diệu Nghĩa Tuệ Minh Cảnh ngoài thần sáng thế từ thời thượng cổ, không có mấy người biết, mặc dù mang một cái tên của nhà Phật, thực ra nó không phải là nơi đất lành. Ngay từ thuở hồng hoang, sau khi thiên địa như quả trứng gà vỡ vỏ hóa ra mới có tứ hải lục hợp bát hoang để chúng tiên, ma sinh sống, và rất, rất nhiều năm sau sinh ra hàng tỷ Đại Thiên Phàm thế. Phàm thế là nơi con người sinh sống, nhưng con người bản tính phàm tục đã gieo mầm nghiệp, chưa quá trăm năm, vô vàn Phàm thế đã tích tụ bao nhiêu khí đục do ba thứ độc tham, sân, si kết thành. Bị thứ khí độc nặng nề này quấy nhiễu khiến các Phàm thế lễ giáo băng hoại, chiến loạn triền miên, sinh linh lầm than, có cơ diệt vong. Để bảo vệ Phàm thế, Đông Hoa đã bế quan bảy đêm tạo ra một thế giới khác trong thiên địa để thu hết khí đục từ tam tộc mà các giới không thể chịu đựng, đó chính là Diệu Nghĩa Tuệ Minh Cảnh sau này. Mấy chục vạn năm vụt trôi như bóng câu qua cửa, do Tuệ Minh Cảnh như chiếc vại lớn chứa hết tam độc mà thế gian không thể chứa đựng, thiên địa mới trở nên thanh bình.

Nhưng đến một ngày nếu Diệu Nghĩa Tuệ Minh Cảnh sụp đổ sẽ là đại nạn của cả con người và thần tiên.

Trọng Lâm trộm nghĩ, điều bất hạnh là cái ngày đó thực ra đã đến từ ba trăm năm trước, nhưng may thay, Đế Quân bỏ chút thời gian sửa chữa nó, khiến các vị thần tiền tránh được kiếp nạn mà không hề hay biết. Bất hạnh hơn là sự cứu vãn của Đế Quân thực ra chỉ là kéo dài thêm thời hạn sụp đổ của nó, rốt cuộc có thể kéo dài được bao lâu không ai biết. Vả lại, hơn hai trăm năm nay, khí đục tam độc trong Tuệ Minh cảnh bắt đầu lan dần ra ngoài, may có Phạn Âm Cốc vẫn là nơi đất sạch không bị vẩn đục bởi hồng trần đặc biệt thu hút khí đục phát tán, mới khiến Đế Quân không cần phí nhiều công sức gom chúng lại bèn có thể một lần tịnh hóa chúng, cũng may là bộ tộc Tỷ Dực Điểu có thể chất đặc biệt, khí đục không gây tác hại cho họ như khí đục hồng trần.

Trọng Lâm chống vào tảng đá thở dài lần nữa. Rất nhiều người lầm tưởng Đế Quân ở trong cung Thái Thần là ẩn dật hưởng phúc, đương nhiên, phần lớn thời gian ngài quả thực là đang thưởng phúc thanh nhàn, nhưng vào lúc quan trọng này, Đế Quân vẫn rất hữu dụng, rất đáng tin cậy.

Có điều, hôm nay Trọng Lâm đứng đây thở dài không chỉ vì những đại sự của thiên địa này, hôm nay Đế Quân có vẻ bất thường khiến ông hết sức băn khoăn. Do tối qua Phật Đà ở Tây Thiên Phạn Cảnh đại giá, bề ngoài là luận đàm kinh phật với Đế Quân thực chất là bàn về Tuệ Minh Cảnh. Là một tiên bộc trung thành và tận tâm, Trọng Lâm cảm thấy đại sự can hệ đến sự tồn vong của thiên địa, hai vị tôn thần tất phải đàm luận cân nhắc rất lâu, vậy thì hôm nay chuyến đi đến Phạn Âm Cốc giảng bài vốn đã định của Đế Quân có lẽ phải hoãn. Trước đó cũng từng có chuyện vào ngày đã định Đế Quân lại có việc khác và đều cử một vị tiên bác khác đi thay, thế là ông vừa trung thành vừa tinh ý chuyển lời đến Phạn Âm Cốc, tạm thời có một tiên bác thay Đế Quân đến giảng bài. Hôm nay ông cùng với một tiên bác trong cung rất am hiểu trà đạo cưỡi mây đến đỉnh núi Phù Vũ, lại đã thấy Đế Quân dáng tiên như ngọc đứng trên đỉnh Phù Vũ, đang giơ tay vạch một đường huyền quang, theo đường huyền quang đó đi vào Phạn Âm Cốc.

Trọng Lâm cảm thấy, mặc dù Phạn Âm Cốc quả thật kỳ quái, chỉ có mỗi năm trong vòng hai tháng bắt đầu từ Đông Chí, một vị tiên pháp lực cao cường dùng ngoại lực mở cốc mới không khiến nó nhuốm khí đục hồng trần, mà hôm nay là ngày Đông Chí, là ngày đầu tiên an toàn mở cốc nhưng cũng không cần phải vội. Hơn nữa, Đế Quân xưa nay không phải là người vội vàng, hai tháng liền sau ngày hôm nay ngài có thể tự do ra vào cốc. Nhưng ngài lại bỏ mặc Phật Tổ vẫn đang làm khách ở cung Thái Thần, bất chấp vạn dặm xa xôi bay đến núi Phù Vũ, lẽ nào chỉ vì có thể lập tức vào cốc giảng bài cho cho cái tổ Tỷ Dực Điểu con đó hay sao. Đế Quân ngài có tư tưởng tình cảm cao sang thuần khiết đến thế ư?

Trọng Lâm băn khoăn nghĩ mãi không hiểu căn nguyên, đành chặc lưỡi nghĩ bụng cứ cho là hai năm nay tư tưởng tình cảm của Đế Quân ngày càng cao sang thuần khiết đi, liền cùng vị tiên bác cùng đến cưỡi mây quay về cung Thái Thần.

Tông học của Tỷ Dực Điểu cho đến nay đã có lịch sử rất lâu đời, nghe nói do một vị tiên cao minh kiến tạo, không chỉ địa thế tuyệt vời, cảnh trí trong trường cũng rất đặc sắc. Trong khuôn viên rộng thênh thang với mười thư trai bao bọc xung quanh này còn có một dòng suối trong trẻo rất thi vị. Nước suối chảy theo địa thế cao thấp không đều đục thành những bậc thang lát đá xanh, phía trên hoặc dưới bậc thang đều trồng hòe xanh và cây tùng già, mùa hè soi bóng nước, cảnh sắc phảng phất ý Thiền. Mùa đông như lúc này bị tuyết phủ kín, khoác trên mình bộ đồ màu bạc, trông chúng có vẻ thi vị thanh tịnh cô liêu mà khoáng đạt.

Phượng Cửu vốn rất thích cảnh sắc ở đây, thường đến đây dạo chơi, hôm nay lại không có hứng, chỉ mang theo mấy cuộn kinh thư chép tối qua, nàng cau mày men theo dòng suối đi xuống.

Một canh giờ trước, Phượng Cửu bỏ buổi học trà đạo, trốn ra ngoài tìm Tế Hàn phu tử, bởi nghe nói trước giờ học chiều, phu tử sẽ tuyên bố danh sách những người được vào vòng năm nay. Nàng vốn định thực thi sách lược mưa dầm thấm lâu, từ từ gây thiện cảm với phu tử, nhưng thời gian quá gấp, đành dùng một liều thuốc mạnh, dứt khoát bỏ học đi lấy lòng phu tử, có thể phu tử thấy nàng lấy lòng một cách chân thành sẽ cảm động. Thực ra nàng cũng rất muốn chứng kiến cảnh tượng vị tiên bác được Thái Thượng Lão Quân phái đến rơi xuống bẫy, cho nên trước lúc ra ngoài còn thầm thì với Yến Trì Ngộ dặn chàng ta lúc về kể mọi chi tiết hay ho cho nàng nghe.

Nàng cứ tưởng hai việc đó đều sắp xếp ổn thỏa, ai dè Tế Hàn phu tử thường ngày hành tung luôn ổn định, hôm nay lại tìm mãi không thấy bóng dáng. Bên ngoài gió tuyết lớn như vậy, Phượng Cửu chạy tứ phía tìm kiếm, đã càng ngày càng mất hứng. Nhìn về phía học đường, không biết vị tiên bác kia đã bị sập bẫy chưa, nếu vị đó có đầu óc, không mắc bẫy, bây giờ mình quay lại học đường có thể tránh gió, nhưng cũng không tránh được tội trốn học, nhất định sẽ bị trách phạt. Nghĩ trước nghĩ sau, cảm thấy vẫn nên ở bên ngoài, vừa đợi vừa nghĩ nếu không phải nịnh Tế Hàn phu tử, lúc này đốt mấy cuộn kinh thư trong tay áo mà sưởi thì tốt biết mấy. Nhưng mình chép những mười cuộn, đốt một cuộn chắc cũng không sao nhỉ?

Phượng Cửu đang ngồi xổm dưới một cây tùng già, tay nhấc ống tay áo đắn đo suy nghĩ thì bị ai đó vỗ vai, ngoái đầu lại thấy Tiểu Yến tráng sĩ tay cầm một con dao nhọn ướm vào gương mặt nõn nà của mình xoay ngang xoay dọc, sắc mặt thâm trầm nói với nàng: “Muội xem, mỗ nên rạch một đường thế này, hay một đường thế này, hay là rạch đường thế này trước rồi mới rạch đường thế này sau? Theo ý nữ nhi các người, nên rạch như thế nào để khuôn mặt của mỗ trông anh tuấn hơn?”

Phượng Cửu tỏ vẻ cao thâm giơ tay vẽ một chữ vương (王)[2] lên trên trán chàng ta: “Muội thấy vẽ thế này sẽ anh tuấn hơn.”

[2] Giống ba vạch trên trán hổ. Người Trung Quốc có tục lệ vẽ chữ "vương" lên trán trẻ con với mong muốn đứa trẻ lớn lên khỏe mạnh, dũng mãnh như hổ.

Tiểu Yến sát khí đằng đằng nhìn nàng một hồi, ảo não quẳng dao đi, cũng ngồi xổm dưới gốc tùng cạnh nàng: “Muội cũng cảm thấy vạch hai nhát dao trên mặt thực ra cũng không được coi là đặc biệt anh tú ư?” Nói đoạn rầu rĩ thở dài: “Vậy muội thấy mỗ để râu thì sao, râu quai nón hình như rất hợp với khuôn mặt của mỗ…”

Những lời tào lao của Yến Trì Ngộ lọt tai Phượng Cửu, vào tai trái ra tai phải, nàng mừng vì cuối cùng Tiểu Yến đã ngộ ra các thiếu nữ không thích chàng ta là bởi khuôn mặt chàng ta quá đẹp, nhưng đồng thời từ tận đáy lòng cũng cảm thấy nếu có ngày Tiểu Yến thực sự để râu quai nón, trên trán còn khắc chữ “vương”, tạo hình như thế thực ra không hề được các thiếu nữ thích thú hơn bộ dạng chàng ta bây giờ.

Trên cây có hai đám tuyết đọng đè gẫy cành cây, Phượng Cửu hắt hơi, ngắt lời Tiểu Yến: “Trên đường đến đây huynh không nhìn thấy phu tử à, không biết hôm nay ông ta rong ruổi nơi đâu, làm người ta tìm mãi không được.”

Tiểu Yến quay phắt lại kinh ngạc nhìn nàng: “Muội không biết à?”

Phượng Cửu giật nảy mình, lùi lại một bước, lưng dán vào thân cây: “Cái… cái gì, muội phải biết cái gì?”

Tiểu Yến bực bội gãi đầu: “Mỗ thấy muội ở đây vừa buồn vừa chán, còn tưởng tan học được một tuần hương, Manh huynh đã đến báo với muội chuyện đó rồi”. Gãi đầu nói tiếp: “Cũng không phải chuyện gì lớn, đối với muội thực ra là buồn vui lẫn lộn, muội xem mỗ dùng thành ngữ có chuẩn không? Muội đừng sốt ruột, mỗ sẽ từ từ kể cho muội nghe, buồn là cái bẫy mà muội đặt ra, người cần sập thì không sập, nhưng vị phu tử muội đang cần tìm… đây là phần vui này, khi phu tử dẫn vị nào đó đi vào, không để ý giẫm lên, sa vào bẫy của muội…”. Tiểu Yến dừng lại đợi nàng phản ứng, nói tiếp: “Manh huynh đoán có lẽ phu tử là người bản địa thông thạo thủy lộ ở đây, cũng không cho muội thời gian chạy trốn, nửa canh giờ đã từ dưới sông Tư Hành bò lên, còn tuyên bố sẽ lột da muội. Theo phân tích của Manh huynh về sắc mặt của phu tử lúc đó thì rất có thể ông ta sẽ làm như vậy thật.” Nói đến đây lại hoảng hốt nhìn nàng: “Mỗ còn thấy lạ là muội đã biết chuyện này sao không lập tức trốn đi, còn ngồi đây chờ gì nữa, một khắc trước mỗ đã thầm nhận định muội là một anh hùng hảo hán, hóa ra là do muội chưa biết tin.”

Phượng Cửu ngồi dựa vào thân cây, nghe Tiểu Yến nói rõ đầu đuôi mọi sự mà đầu óc choáng váng, nhìn ra xa thấy một điểm đen trông rất giống phu tử đang từ từ đi đến, mí mắt vừa máy một cái, theo phản xạ, nàng đã co cẳng chạy biến.

Vừa chạy, Phượng Cửu vừa tính toán khả năng có thể đứng lại nói rõ mọi chuyện giải thích hiểu lầm này với phu tử đang trong cơn thịnh nộ là bao nhiêu, kết quả tính toán là nàng quyết định chạy nhanh hơn.

Sự đời luôn khó lường như vậy, bây giờ đừng nói còn hy vọng lấy được lòng phu tử để được vào danh sách dự thi đoạt quả tần bà, cho dù nàng có bảy quỳ chín lạy hai tay dâng mười cuộn kinh thư trong tay áo, có lẽ cũng chỉ có thể khiến phu tử lột da nàng nhẹ tay một chút.

Yến Trì Ngộ đuổi theo nàng hét to nhắc: “Mỗ còn chưa nói hết, vẫn còn một tin vui nữa muội chưa được nghe…”. Liếc thấy bóng phu tử đang nhanh chóng lại gần, sợ tiếng hét vừa rồi của mình làm bại lộ hành tung của nàng Yến Trì Ngộ vội vàng đứng lại quay về phía khác, lại làm như thật hét mấy tiếng nữa, lòng mãn nguyện tự cho rằng gần đây mình ngày càng thông hiểu nhân tình thế thái, tiến bộ quả là không nhỏ.

Phía thượng lưu con suối có một đám ma ha mạn thù sa[3] mọc ở bờ sông, trong băng tuyết lạnh giá lại nở rộ vô cùng diễm lệ. Tam giới có rất nhiều kỳ hoa, Phượng Cửu xưa nay không hứng thú với hoa cỏ, nên không biết hết, chỉ biết đám hoa này là ma ha mạn thù sa, chỉ do trước đây trong phòng Đông Hoa thường chuẩn bị sẵn hoa này để cúng. Nàng vẫn nhớ vài giây trước lúc đi qua không hề nhìn thấy trong đám hoa có người, lúc này nhìn ra xa, giữa thảm ma ha mạn thù sa hình như có một bóng người cao lớn trong màu áo tím. Lúc đầu Phượng Cửu tưởng mình hoa mắt, trên Cửu Trùng, dưới Hạ giới, trong tứ hải bát hoang trung thành với xiêm y màu tím, hơn nữa, lại có thể mặc đẹp tuyệt như thế này ngoài Đông Hoa Đế Quân không còn ai khác. Nhưng Đông Hoa sao có thể xuất hiện ở đây vào lúc này, nếu để cứu nàng, lẽ ra chàng phải đến từ nửa năm trước, nửa năm trước không đến kịp, nửa năm sau theo lý càng không thể đến. Lúc này chàng nên ở đâu đó trên Thiên giới đọc kinh Phật và câu cá có vẻ còn hợp lẽ hơn.

Trong lúc trong đầu Phượng Cửu đang thầm gạt đi giả định đó, không chú ý trượt chân một cái, loạng choạng chực ngã, may bám được vào thân cây hòe khô bên cạnh lảo đảo một lúc mới đứng vững, mắt lại quét một lượt, trong đám hoa phía sau mấy cây tùng già chếch bên kia suối quả nhiên không thấy bóng người áo tím nào nữa. Phượng Cửu hà hơi vào hai bàn tay cóng lạnh thầm nghĩ, hôm nay mình gặp quỷ hay sao, định ngó xem phu tử có đuổi kịp không, vừa quay đầu đã bị tóm tại trận.

Phía sau, cách nàng mấy bước, phu tử khom người chống tay lên cái eo già cố đứng thẳng, nhìn thấy nàng lùi một bước có vẻ định chạy trốn, trong lúc luống cuống lại nhanh tay túm được ống tay áo nàng. Phượng Cửu quá đỗi kinh ngạc bởi phu tử thường ngày ốm yếu vậy hôm nay nhanh như khỉ, nàng còn chưa kịp phản ứng thì cả hai chân hai tay liền bị phu tử nhanh nhẹn dùng hai sợi dây thừng trói tiên xiết chặt. Nàng nghe thấy phu tử nói: “Xem đồ học trò ngỗ nghịch nhà ngươi chạy đằng nào nữa!”, lại nghe thấy câu tiếp theo: “Bài học quan trọng nhất mà tông học dạy các ngươi là tôn sư trọng đạo, với việc làm hôm nay của ngươi, ta phạt ngươi quỳ trong thủy lao, ngươi không thấy oan chứ! Ta thấy ở đây đã có sẵn thủy lao.” Lời chưa dứt liền định niệm chú quẳng nàng xuống suối.

Đã bị trói bằng thừng trói tiên thì không thể dùng tiên trạch để bảo vệ cơ thể, không có tiên trạch bảo vệ, bị ngâm trong nước giữa trời đông tuyết giá này mười phần chắc tám sẽ động đến tiên nguyên. Nhưng cá tính của Phượng Cửu từ nhỏ đã không bao giờ chịu xin tha, lúc bị tung lên không đáp trả bằng câu cửa miệng của tiểu thúc Bạch Chân: “Hôm nay ông đây xui xẻo”. Rồi nghiến răng chuẩn bị chịu cực hình.

Phu tử tức đến nỗi hai chòm râu dê vểnh lên, hai ngón trỏ ngoắc vào nhau, khi pháp quyết dìm nàng xuống sông sắp thành hình, thì hai sợi thừng trói tiên trói chân tay Phượng Cửu bỗng tuột ra, một giọng nói thong thả từ mé chếch phía sau vọng đến: “Ngươi phạt giam cô nương này ở thủy lao, ai sẽ nấu ăn cho bản quân?”

Tuyết lớn như nhưng chiếc lông ngỗng rơi liên tục từ sáng sớm đến bây giờ, trong màn tuyết trắng xóa, Đông Hoa Đế Quân toàn thân áo tím thong thả bước ra từ phía sau hai cây tùng già chắn trước thảm hoa ma ha mạn thù sa, những bông tuyết vừa chạm vào mái tóc trắng liền lập tức biến mất, quả nhiên là vị tiên có phong thái thần tiên nhất tứ hải bát hoang, làm thần tiên đã lâu, chàng đứng nơi nào nơi đó cũng biến thành tiên cảnh.

Hoa ma ha mạn thù sa dưới chân Đông Hoa từ từ vén ra một con đường tuyết rộng lớn, Phượng Cửu cúi đầu nhìn chuỗi dấu ủng mây chàng lưu lại đến khi dấu ủng đến ven suối. Nàng định thần ngẩng đầu trợn mắt nhìn Đông Hoa một cái rồi quay đầu bỏ đi.

Nửa năm nay, Phượng Cửu thậm chí đã từng mơ, mơ thấy biểu đệ Cục bột nhỏ của mình hai chân đạp hai bánh xe phong hỏa, cái eo mũm mĩm dắt cây thương đỏ vội vàng phóng xuống Hạ giới cứu nàng, nhưng có thể gặp lại Đông Hoa ở Phạn Âm Cốc này thì nàng thật tình chưa từng nghĩ đến, đến nằm mơ cũng chưa từng mơ thấy. Nửa khắc trước, nàng còn tưởng mình đã không còn để bụng chuyện Đông Hoa là trưởng bối nhưng thấy tiểu bối là nàng chết mà không cứu, lúc này thấy Đông Hoa bằng xương bằng thịt, vẻ mặt không hề có chút hổ thẹn trước mặt nàng, không hiểu sao lòng nàng bỗng bừng bừng lửa giận.

Hôm nay phu tử tập trung tất cả sức lực vào việc nhanh nhẹn tóm gọn và bắt trói Phượng Cửu, lúc này thấy biến cố đột ngột này, hai chân liền nhũn ra, hai đầu gối khuỵu xuống hành đại lễ với Đế Quân. Nhưng Đế Quân ngài không nhìn thấy đại lễ đó của phu tử, Đế Quân ngài đuổi theo đứa học trò ngỗ ngược lúc nãy bị ông ta bắt trói định ném xuống nước rồi. Phu tử vừa quỳ trên đất vừa ngẫm nghĩ ý nghĩa mấy lời vàng ngọc vừa rồi của đế quân, có phải Đế Quân nói hôm nay ngài gặp nha đầu Cửu Ca, cảm thấy nha đầu này rất hoạt bát có thể hầu hạ mình, nên thuận miệng bảo Cửu Ca làm nô tỳ mấy ngày, hay là Đế Quân đã quen Cửu Ca từ trước, hôm nay thấy nàng ta bị phạt nên mới ra mặt bênh vực? Phu tử nghĩ đến đây trái tim già nua đã vọt lên cổ họng, liên lụy cả cơ thể chân tay mềm nhũn ra, trời ơi, gay to rồi.

Gió hiu tuyết nhẹ lướt qua đầu cành cây, Phượng Cửu biết Đông Hoa đi theo nhưng vẫn không dừng lại. Chỉ hai, ba bước chân, Đông Hoa đã trầm tư đứng chắn trước mặt nàng, Phượng Cửu thử đi tiếp mấy bước, thấy chàng vẫn mặt dày không tránh đường, nàng ngẩng đầu trừng mắt nhìn chàng lần nữa: “Ngươi đến cứu ta sao? Nửa năm trước ngươi đi đâu?” Nàng hứ một tiếng: “Hứ, hôm nay cuối cùng cũng đã nhớ ra chuyện cứu ta rồi hả? Nói cho ngươi biết, ta không thèm!”. Nói xong quay đầu men theo bờ suối quay về, cúi đầu lại nhìn thấy đôi ủng mây của Đông Hoa, nàng vội đứng lại: “Tránh ra, tránh ra, chớ cản đường ta!”

Đông Hoa đứng cách một thước[3], chăm chú nhìn nàng một lúc, đột nhiên lên tiếng: “Thú vị thật, ngươi đang dỗi ư? Ta đến cứu ngươi nửa năm trước và cứu ngươi nửa năm sau có gì khác nhau sao?”.

[3] Đơn vị đo độ dài của Trung Quốc, một thước xấp xỉ 0.33 mét.

Phượng Cửu nhảy lùi về phía sau ba trượng, lửa giận trong ngực càng bốc mạnh, đúng là một trưởng bối vô liêm sỉ, lại còn dám hỏi mình cứu sớm hay cứu muộn nửa năm có gì khác!

Phượng Cửu nắm chặt tay đến nỗi các khớp xương kêu răng rắc: “Ngươi thử bị người ta biến thành cái khăn tay buộc vào chuôi kiếm đi quyết đấu trong sợ hãi xem, đấu xong còn bị ném xuống vực nửa năm, ngươi thử xem!”. Hét xong, Phượng Cửu đột nhiên nhận ra nửa năm trước sao mình lại cảm thấy đã tha thứ cho Đông Hoa được nhỉ, cảnh ngộ này ai gặp phải mà may mắn sống sót chắc ngày nào cũng phải châm kim vào hình nhân của Đông Hoa rồi, nghĩ thế liền hào khí ngút trời bồi thêm một câu: “Ta chỉ giận dỗi một chút, không châm kim vào hình nộm của ngươi là vì ta có tu dưỡng tốt, vậy mà ngươi còn dám hỏi ta có gì khác!.” Nói đoạn, nàng bẻ một cành tùng khô, ướm trên tay mình rồi bẻ “rắc” một cái, vô cùng hào hùng, phẫn nộ nhìn Đông Hoa, kết luận: “Nếu còn dám hỏi ta câu hỏi ngu ngốc đó nữa, ngươi sẽ có kết cục như cành tùng khô này!”

Phượng Cửu cảm thấy hôm nay thái độ của nàng đối với Đông Hoa cuối cùng đã trở nên bình thường, nửa năm trước, khi ở Cửu Trùng Thiên nàng vẫn còn đối xử với chàng e dè ý tứ, luôn bất giác để ý đến chuyện mình từng thích chàng suốt hai nghìn năm nên đối xử rất khách sáo, dịu dàng, nhỏ nhẹ với chàng, sau này nàng bị chàng trêu trọc như thế hoàn toàn là do chính nàng tự tìm đến. Lúc nhỏ, khi bực bội nàng thậm chí từng trách mắng cả Phật Đà gia gia ở Tây Thiên Phạn Cảnh ngay trước mặt ngài, đương nhiên chẳng được lợi lộc gì, về sau bị phụ thân dùng gậy đánh cho một trận, nhưng như thế mới thể hiện được bản sắc anh hùng nữ nhi không thua kém nam nhi của nàng - Phượng Cửu hồng hồ ly Thanh Khâu. Trên thế gian có mấy người dám cãi lại Phật Đà gia gia ngay trước mặt ngài, nhưng Thanh Khâu Phượng Cửu dám. Thế gian có mấy người dám tuyên bố sẽ bẻ Đông Hoa như bẻ cành tùng khô ngay trước mặt chàng, nhưng Thanh Khâu Phượng Cửu dám. Nàng lập tức muôn phần khâm phục bản thân, cảm thấy rất đã, rất hả dạ. Nhưng cũng đoán Đông Hoa sẽ bực, những nhân vật lớn xưa nay hầu như đều không chịu được xúc phạm như thế, e là ngày hôm nay sẽ không kết thúc bình an. Có điều, hai người đánh một trận chấm dứt hết ân oán cũng thực sảng khoái, mặc dù nàng nhất định sẽ thua, chính Đông Hoa sẽ bẻ nàng như bẻ cành tùng khô, vậy thì có thể xử lý đối phương thế nào là dựa vào bản lĩnh của bản thân đi.

Phượng Cửu cảm thấy biểu hiện của mình lúc này nhất định rất đúng mực, bởi vì nàng nhìn thấy một nét ngạc nhiên thoáng qua trong đôi mắt tĩnh như đầm sâu của Đông Hoa. Điều này nàng có thể lường được, ở Cửu Trùng Thiên nàng đã kiềm chế quá tốt, quá cung kính giữ lễ với Đông Hoa, cho nên hôm nay nàng không cung kính, không giữ lễ như thế nữa, chàng cần chút thời gian để thích ứng và tiêu hóa một chút.

Nét ngạc nhiên trong mắt Đông Hoa chỉ thoáng qua rất nhanh. Là thần tiên là phải có tâm tư tĩnh tại an nhiên trước mọi biến cố của vạn vật.

Đông Hoa lại yên lặng nhìn nàng một lúc, mãi sau mới nói: “Ý ngươi là bây giờ ngươi đang rất tức giận, nếu ta bằng lòng biến thành chiếc khăn tùy ngươi muốn làm gì thì làm, có thể ngươi sẽ không tức giận như vậy nữa?”. Một nét cười thoáng qua gương mặt chàng: “Điều đó có gì khó.” Phượng Cửu còn chưa kịp phản ứng, quả thật Đông Hoa đã biến thành chiếc khăn lụa màu tím rơi lên đầu nàng.

Phượng Cửu sững người. Rất lâu sau, nàng khẽ thổi một hơi, một góc khăn hơi bay lên, nàng giật mình: “Nội ơi, không phải là ảo giác chứ.”

Chiếc khăn lụa giống như khăn trùm của tân nương rủ xuống che mắt Phượng Cửu, nàng cụp mắt, chỉ nhìn thấy những bông tuyết nhỏ xíu rơi lả tả dưới chân, chần chừ một lát, nhớ lại hàm ý câu nói vừa rồi của mình, hình như nàng không hề có ý bảo Đông Hoa phải biến thành chiếc khăn nàng mới hài lòng. Vừa rồi nàng mắng chàng một trận thực ra đã xả được năm phần giận, làm thế nào mới có thể xả hết giận trong lòng để không còn ấm ức nữa thì nàng không biết. Logic của Đông Hoa thế nào mà lại nghĩ ra như vậy, nàng thấy hơi thần kỳ.

Phượng Cửu giơ tay rút chiếc khăn trên đầu xuống, khăn lụa màu tím to gấp mấy lần chiếc khăn mà nàng biến thành lần trước, có thêu mấy khóm bồ đề vãng sinh sắc hoa thanh nhã, chất liệu cũng tốt hơn, ngửi còn thấy hương bạch đàn mà Đông Hoa quen dùng. Tay nàng run lên, chiếc khăn sắp tuột khỏi tay, lại nhẹ nhàng tự bay trở lại tay nàng. Giọng Đông Hoa ôn tồn vang lên: “Cầm cho chắc đừng để rơi xuống tuyết, ta sợ lạnh.”

Phượng Cửu trợn mắt hồi lâu, lập tức ngồi xuống bốc một nắm tuyết vê tròn, gói trong khăn, xong xuôi lại hớn hở đem chôn cái khăn xuống hố tuyết, nửa canh giờ sau, nàng chọc chọc vào chiếc khăn ướt sũng, hỏi: “Này, ngài còn sợ gì nữa?”

“…”

Khi Yến Trì Ngộ trở về Tật Phong Viện, thấy Phượng Cửu đang hong chiếc khăn tay trên đống lửa. Nha đầu này thêu được chiếc khăn đẹp như vậy bao giờ, chàng ta rất tò mò, nhưng hiện đang có chút tâm sự, thế là chàng ta mất hứng hóng hớt.

Phượng Cửu đã cầm chơi chiếc khăn này gần một canh giờ, sau khi nàng bới chàng ra khỏi hố tuyết, Đông Hoa không hề mở miệng nói nửa, nhưng nàng cảm thấy nam tử hán nhất ngôn cửu đỉnh, biến thành khăn tay để nàng xả giận là ý kiến do Đông Hoa tự đưa ra, nàng vốn không nghĩ đến. Chàng đã đưa ra đề nghị này thì nàng không thể phụ tâm ý của chàng được. Hơn nữa, bất luận xét từ góc độ nào, nàng cũng không hề phụ tâm ý của chàng. Sau khi chôn Đông Hoa trong hố tuyết nửa canh giờ, nàng lại ngâm chàng trong nước lạnh một hồi, nước lạnh làm chiếc khăn mềm hơn, sau đó nàng còn dùng chàng ép hai bát nước cam, rồi lại trải chàng trên một tảng đá, dùng bàn chải to cọ sạch nước cam bám trên mặt lụa, cuối cùng ngâm trong nước tròn một khắc mới lấy lên đốt lửa định hong khô. Trong suốt quá trình đó, Đông Hoa vẫn lặng thinh không nói gì, Phượng Cửu cảm thấy chàng quả thật rất kiên cường.

Trước khi Yến Trì Ngộ đẩy cửa đi vào, Phượng Cửu nhìn chiếc khăn tay hong trên đống lửa đã bị giày vò đến nỗi ít nhất phai mất ba phần màu, lòng cũng hơi áy náy, cảm thấy đối xử với Đông Hoa như vậy có phải hơi quá đáng. Nhưng nghĩ đến lúc đầu còn định cho chàng vào chảo dầu rán một lúc, mặc dù là do trong nhà không có dầu nàng mới từ bỏ ý định, nhưng nếu nàng muốn hành hạ chàng như vậy thật, ra ngoài mua ít dầu về rán chàng đâu có khó gì, chứng tỏ nàng vẫn còn đối xử tốt với chàng. Nàng tự thuyết phục mình xong bèn một lòng một dạ hong khô chàng, chuẩn bị đợi chàng khô rồi hai người sẽ hóa giải mọi hiềm khích, một nụ cười xóa mọi ân oán, họ tu tiên mà, rất coi trọng hai chữ “khoan dung”, hai chữ “độ lượng”, hai chữ “tha thứ”, vẫn nên để chàng lĩnh hội những ưu điểm đó của nàng.

Củi nổ lép bép lóe ra một tia lửa nhỏ, Yến Trì Ngộ sắc mặt buồn buồn lấy chiếc ghế gấp cũng ngồi xuống cùng Phượng Cửu sưởi ấm, vừa ngồi xuống đã rút trong ống tay áo một gói giấy và mở ra, chia cho nàng nửa gói hạt dưa.

Ánh lửa in cái bóng nghiêng nghiêng lặng lẽ cắn hạt dưa, vừa cô đơn vừa sầu muộn của Yến Trì Ngộ.

Phượng Cửu nhìn chàng ta một lát, cảm thấy Tiểu Yến quả không hổ là đóa hoa đẹp, khi đóa hoa nhuốm buồn trông càng quyến rũ. Đời này chàng ta muốn trở nên anh tuấn trừ phi trở lại bụng mẹ đầu thai kiếp khác, nếu không với ngoại hình như vậy, cho dù để râu quai nón từ cằm đến quá tai, trên đỉnh đầu khắc chữ “vương”, chàng ta vẫn sẽ là một bông hoa diễm sắc.

Đột nhiên thấy thông cảm với chàng, nàng ghé lại gần, quan tâm hỏi: “ Tiểu Yến tráng sĩ, huynh là một tráng sĩ, lúc này lại ảo não thở dài như vậy, đã xảy ra chuyện gì lớn vậy?”. Tiểu Yến xưa nay luôn thích được gọi là tráng sĩ, nàng cảm thấy mở đầu như thế, chàng ta sẽ vui hơn.

Vẻ sầu muộn của Tiểu Yến quả nhiên dịu đi rất nhiều, ngẩng đầu đang định nói, không may lại bị sặc vỏ hạt dưa, trong lúc cuống lên vớ luôn chiếc khăn đang hong trên lửa, bịt miệng ho một trận, khạc mảnh vỏ dưa vào khăn rồi gói lại, thở dài não ruột: “Đông Hoa Mặt lạnh đã đến cốc Phạn Âm rồi, muội biết chưa?”

Phượng Cửu im lặng nhìn chiếc khăn tím sau khi lau miệng hình như Tiểu Yến định dùng để xì mũi trong tay chàng ta, nàng rùng mình, cẩn thận lùi lại một bước, lặng lẽ gật đầu.

Tiểu Yến thở dài: “Mỗ vốn tưởng với tu vi hiện nay của mình thực ra đã không kém Mặt lạnh bao nhiêu. Không, mỗ cảm thấy có thể còn hơn hắn một bậc. Nhưng…”. Tiểu Yến dữ tợn nắm chặt chiếc khăn trong tay: “Khi mỗ qua đầm Thủy Nguyệt, nhìn thấy Mặt lạnh đang dùng điệp vũ trụ, đem vạn dặm không gian giữa Phạn Âm Cốc và Cửu Trùng Thiên gấp ép lại…”

Thuật điệp trụ, Phượng Cửu có biết pháp thuật này, thường là một tiên thuật mà một vị tiên trước khi vũ hóa, trong lòng nếu còn vương vấn, có thể dùng tiên lực và tiên nguyên cuối cùng gấp ép không gian, khiến trong nháy mắt có thể nhìn thấy người hoặc vật mà mình vương vấn để viên tròn ước nguyện trong lòng, thuận lợi vũ hóa. Thoạt nghe hơi giống thuật di chuyển trong chớp mắt, nhưng thuật di chuyển trong chớp mắt là trong chớp mắt di chuyển tiên thân đến một nơi cách xa nghìn dặm trong cùng một thế giới, còn thuật điệp trụ có thể sử dụng ở hai thế giới cách nhau cả vạn dặm, nguyên lý là thu gọn không gian giữa hai nơi, ở giữa vẫn ngăn cách bởi thời không đã bị thu gọn giống như chiếc gương, hai bên chỉ có thể nhìn nhau mà không thể chạm vào nhau. Tiểu Yến phản ứng mạnh như vậy, Phượng Cửu hơi bất ngờ, bởi vì đối với những bậc thần tiên cấp bậc cao, pháp thuật này thực ra không khó, không cần sắp vũ hóa mới có thể làm được, nhưng do dù là thần tiên cấp bậc cao sử dụng một lần cũng rất hao tổn tiên lực, cho nên không vạn bất đắc dĩ, không phải lúc tình thế khẩn cấp, mọi người hầu như không sử dụng nó.

Phượng Cửu lờ mờ cảm thấy có gì không ổn, vừa suy nghĩ vừa trả lời qua loa: “Chắc cung Thái Thần xảy ra chuyện gì khẩn cấp, một pháp thuật lớn như vậy không phải lúc khẩn cấp thường không sử dụng. Huynh bất hòa với Đông Hoa, cung của ngài ấy xảy ra chuyện huynh nên mừng mới phải. Hơn nữa, pháp thuật như vậy muội nghe nói huynh cũng làm được, có thể duy trì trong thời gian nửa tuần nhang, muội còn nhớ hình như kỷ lục đó còn đứng đầu ở Ma giới của huynh, ngay ở Thiên Giới cũng không có mấy ai vượt qua được, thứ lỗi cho muội không hiểu, huynh hà tất phải chấn động và buồn bã đến thế?”.

Tiểu Yến nghiến răng trừng mắt nhìn nàng, nghiến răng xong bộ dạng càng thê lương, rất lâu sau mới từ từ nói: “Chơi cờ.”

Phượng Cửu hỏi: “Cái gì?”.

Tiểu Yến đau khổ nghẹo đầu sang một bên, “Mặt lạnh dùng pháp thuật này chẳng qua là để chơi cờ với bạn hữu trên Thiên giới. Mỗ vừa nhìn thấy hắn đang chơi cờ vây với gã công tử đào hoa tên Liên gì đó ở Thiên giới các người.” Dừng lại một chút, chán nản nói tiếp: “Mỗ cảm thấy mỗ đã thua.”

Phượng Cửu im lặng hồi lâu, thấy Tiểu Yến thẫn thờ như bị đả kích rất mạnh, không ngờ chàng ta xinh đẹp như vậy, tỏ ra vẻ mặt này cũng khiến người ta thương cảm. Phượng Cửu bỗng lại lần nữa nổi lòng mẫu tử, định bất chấp hậu quả giơ tay xoa mái tóc dài đen nhánh của Tiểu Yến, may mà được nửa chừng thì lý trí còn sót lại trỗi dậy, khựng lại vỗ vai chàng ta, đắn đo hồi lâu, nàng an ủi: “Mặc dù lần này ngài ấy thắng huynh, nhưng ngài ấy tất sẽ có chỗ kém huynh, hà tất phải dùng sở đoản của mình so với sở trường của người?”. Tưởng là nói được một lời hay ho hợp tình hợp cảnh. Không ngờ Tiểu Yến tính dò hỏi cặn kẽ, trong tình huống đó còn truy hỏi một câu: “Ví dụ?”.

Phượng Cửu đắn đo thầm ví dụ một hồi, lùi một bước, nói thử: “Ví dụ huynh xinh đẹp kiều diễm hơn Đông Hoa?”. Tiểu Yến bi phẫn vò chiếc khăn trong tay ném vào đầu nàng.

Lúc này trong đống than củi đang cháy lại có tiếng “lép bép” và bắn ra đốm lửa, khi chiếc khăn màu tím đã bị chà bạc màu vẽ một đường vòng cung rơi vào tầm mắt, Phượng Cửu cuối cùng cũng hiểu ra điều bất ổn mà vừa rồi nàng cảm thấy.

Rất lâu sau, nàng rút chiếc khăn trên đầu xuống đặt trong tay, mắt sáng rực nhìn nó hồi lâu, nghiến răng nói với Tiểu Yến: “Vừa rồi huynh nói nhìn thấy Đông Hoa chơi cờ với Liên Tống là vào lúc nào?”

Tiểu Yến ngơ ngác nhìn vào chiếc khăn trong tay nàng, lại ngơ ngác nhìn nàng: “Vừa mới rồi, có lẽ bây giờ họ vẫn đang chơi. Khi mỗ bỏ đi còn thấy Mặt lạnh dẫn trước một nước.”
 
Tham gia
6/7/19
Bài viết
101
Điểm cảm xúc
41
Điểm
28
Phượng Cửu cảm thấy, đã là thần tiên, vô liêm sỉ một chút cũng không sao, nhưng sao có thể vô liêm sỉ như Đông Hoa? Nàng vò chiếc khăn bằng chứng kết tội, lòng bừng bừng phẫn nộ vội vàng chạy đến đầm Thủy Nguyệt định tính sổ với Đông Hoa.

Vài bông tuyết rơi xuống, Phượng Cửu vừa bước gấp vừa cúi đầu nhìn chiếc khăn trong tay.

Bởi vì gần đây nàng đã tự định vị mình là một vị tiên độ lượng, biết tiến biết lùi, thế là nàng cho rằng thực ra dù Đông Hoa không đề nghị tự biến thành cái khăn để nàng xả giận, thì một vị tiên độ lượng như nàng nhiều nhất cũng chỉ lặng lẽ ghi hận trong lòng khoảng chín, mười năm, vài chục năm sau vẫn có thể tha thứ cho chàng.

Nhưng chàng lại lừa nàng, chuyện này quả thực muốn nhẫn nhịn cũng không thể. Đông Hoa khi làm như vậy lẽ nào không nghĩ nếu bị nàng phát giác sẽ hận chàng suốt đời? Hay là chàng cảm thấy nàng hoàn toàn không có khả năng phát giác ra trò lừa này của chàng? Theo hiểu biết của nàng về Đông Hoa, có lẽ khả năng thứ hai hợp lý hơn, cơn phẫn nộ trong lòng bỗng chốc lại tăng gấp bội.

Thủy nguyệt bạch lộ mọc đầy trong đầm Thủy Nguyệt, đây thánh địa của Phạn Âm Cốc. Trong truyền thuyết, thủy nguyệt bạch lộ là một loại cây thần sống ba nghìn năm, chết ba nghìn năm, vì thế đầm mới có tên như vậy. Mặc dù gọi là đầm, thực ra nó giống hồ hơn, đầm rộng bát ngát soi bóng mười dặm rừng bạch lộ rậm rạp mọc trong nước. Nghe đồn nữ vương của tộc Tỷ Dực Điểu đặc biệt thích cây bạch lộ vươn thẳng lên trời ở nơi này, thường đến đây nghỉ ngơi, tắm suối nước nóng, do vậy đầm Thủy Nguyệt cảnh sắc mặc dù rất đẹp nhưng bình thường ít người lai vãng, vô cùng yên tĩnh.

Giữa vùng mây nước sương khói, xa xa Phượng Cửu quả nhiên nhìn thấy Đông Hoa ngồi dưới gốc một cây bạch lộ rất lớn đánh cờ với người ta, bàn cờ bày ngay trên mặt nước, xung quanh chàng sương tiên bảng lảng. Nhưng tu vi của Phượng Cửu quả thật chưa cao, đại khái chỉ có thể lờ mờ nhìn thấy không gian bị Đông Hoa dùng thuật điệp trụ nén lại, Liên Tống mà Tiểu Yến nói trong mắt nàng chỉ là một cái bóng trăng trắng.

Nhưng cái bóng trăng trắng Liên tam điện hạ lại nhìn thấy nàng, trong trái tim hoàn lương đã lâu của Liên tam điện hạ, gần đây tiên nữ đáng để ngài quan tâm ngoài Thành Ngọc chỉ có tiểu đế cơ này của Thanh Khâu. Nhớ lại từ ngày chàng kết giao với Đông Hoa, chàng không nhớ Đông Hoa đặc biệt có hứng thú với tiên nữ nào tỏ ra săn đón chàng ta. Con người Đông Hoa sinh ra đã chay tịnh, không tơ vương phong nguyệt, ngay đến thượng thần Mặc Uyên được bát hoang suy tôn là không vương bận phong nguyệt nhất, chàng cũng biết thượng thần từng có mối ân oán tình thù với nữ thần Thiếu Quán, thủy tổ của Ma tộc. Nhưng Đông Hoa nhiều năm nay không hề có sơ hở gì để chàng phát hiện, khiến tam điện hạ cảm thấy rất mất hứng.

Nhưng vị tiên siêu nhiên không vướng bụi trần khiến những vị tiên lục căn chưa tịnh như chàng tự than không bằng, kính ngưỡng vô cùng, gần đây mắt xanh lại để vào tiểu đế cơ mới chừng ba vạn tuổi, vẫn còn chưa lớn của Thanh Khâu. Phát hiện này có một thời gian khiến Liên tam điện hạ cảm thấy mình bị sét đánh.

Thấy mỹ nhân hỏa khí bừng bừng có vẻ muốn tìm người tính sổ đã chỉ còn cách trăm bước, Liên tam điện hạ đang có tâm trạng chờ xem kịch hay, vui vẻ gõ bàn cờ phấn khởi nhắc Đông Hoa lúc này vẫn đang trầm tư nghĩ nước cờ: “Vừa mới đến Phạn Âm Cốc huynh đã đắc tội với đế cơ của nhà họ Bạch rồi à? Xem bộ dạng nàng lao tới như hận không thể lấy dao chặt hiền huynh thành tám khúc, đệ thấy hôm nay máu không đổ e là khó mà xong được, hiền huynh trêu chọc gì nàng?”

Liên tam điện hạ nhất thời đắc ý nên sơ suất, quân cờ trắng trong tay đặt lệch vị trí, quân đen trong tay Đông Hoa nhất thời vây riết không nương tình, vậy là trong khi Liên Tống hối hận vỗ trán, Đế Quân hơi ngẩng đầu nhìn Phượng Cửu sắp đến gần, khẽ trả lời câu hỏi của tam điện hạ, thở dài rất nhẹ: “Không có gì, chỉ đánh giá thấp trí tuệ nàng ta thôi.”

“…”

Nên đòi Đông Hoa món nợ này thế nào, chuyện này khi vội vàng lao đến trong đầu Phượng Cửu đã lên kế hoạch xong, mắng một trận rõ ràng chưa đủ hả giận, rút binh khí chặt chàng thành tám khúc nàng đã từng nghĩ tới, nhưng nàng không phải là người không biết tự lượng sức mình, nếu rút binh khí ra thật đến lúc đó ai chặt ai thành tám khúc còn chưa biết.

Có điều, chiếc khăn tay mà Đông Hoa biến thành quả thực thêu rất đẹp, khi giày vò nó nàng không ngắm kỹ, vừa rồi trên đường đi đã nhìn rất kỹ, phát hiện ở một góc khăn, dọc theo đường chân kim rất nhỏ có thêu một chữ “Cơ”, xem ra đây không phải là chiếc khăn tùy tiện biến ra, mà giống như vật Đông Hoa thường mang theo người, có lẽ là do ý trung nhân Cơ Hoành của chàng tặng.

Phượng Cửu nhớ lại mình đã từng trân trọng thế nào miếng bạch ngọc đeo trên cổ do Đông Hoa tặng nàng, cảm thấy Đông Hoa đã quan tâm Cơ Hoành như vậy, nếu hủy hoại chiếc khăn này ngay trước mặt chàng, nhất định chàng sẽ đau lòng và phẫn nộ hơn nhiều so với chính chàng bị chặt thành tám khúc.

Nàng cảm thấy mình nghĩ ra trò đó thật độc ác, nhưng càng nhìn chiếc khăn càng thấy chướng mắt. Nàng băn khoăn nghĩ trò độc ác đó đương nhiên vẫn phải làm, vậy thì khi làm xong sẽ về đọc kinh phật hai lần, coi như tự siêu độ cho hành vi xấu xa này đi.

Nhưng Phượng Cửu trăm suy nghìn tính, lại không tính đến tu vi có hạn của mình, vừa đặt chân vào đầm Thủy Nguyệt liền bị không gian nén ép bởi thuật điệp trụ ép hiện ra nguyên hình. Đương nhiên, cho dù biến thành hồ ly nàng cũng là con hồ ly xinh đẹp, sắc lông như huyết ngọc đỏ rực, chỉ có bốn móng trắng như tuyết, chín chiếc đuôi phía sau càng diễm lệ, rực rỡ như những tia nắng ban mai đầu tiên khi mặt trời lên, cho dù có thích những con thú lông mềm hay không đều không thể không mê mẩn bộ dạng này của nàng. Nhưng, dưới hình hài này mà đi dạy dỗ Đông Hoa rõ ràng chẳng có uy thế gì cả, chưa biết chừng còn khiến chàng cảm thấy rất mới mẻ đáng yêu. Nhưng nếu quay về thế này thì nàng lại thấy rất tức giận.

Nhìn thấy Đông Hoa ở cách đó không xa, dường như ván cờ với Liên Tống đã kết thúc, đang ngồi trên ghế đá kiên nhẫn đợi nàng đến gây rắc rối. Chàng lại có thể ung dung thư thái như vậy khiến cảm giác băn khoăn trong lòng nàng lập tức bay tới tận Tây Thiên, nàng quắp chiếc khăn tay sát khí đằng đằng chạy thẳng đến trước mặt Đông Hoa.

Đông Hoa nhìn thấy hình hài của nàng, dường như sững ra một lát.

Nàng bỗng giật mình, trong bao nhiêu sở thích của Đông Hoa có một sở thích là những con thú có lông mềm mượt, chắc chàng không thích nàng rồi chứ? Hình dáng nguyên thân của nàng xưa nay khó “chống đỡ” nổi, lúc còn nhỏ, có lần nghịch ngợm nàng bỏ ba đậu[1] vào cơm của tiểu thúc, khiến tiểu thúc đi ngoài ba ngày, nhưng nàng chỉ cần lộ nguyên hình một chút, tiểu thúc liền tha thứ cho nàng ngay lập tức, đó là bằng chứng sống động cho thấy ngay từ nhỏ Phượng Cửu đã là “hồ” nhan họa thủy.

[1] Loài thân mộc, hạt có thể làm thuốc, có độc tính, gây tháo dạ mạnh.

Đông Hoa ngồi bên bàn cờ, ánh mắt nhìn nàng vừa chăm chú vừa khó đoán, giống thần sắc chàng khi đúc một thanh kiếm, làm một lư hương, hoặc quét men bóng cho bộ đồ trà.

Lúc này,những cành thủy nguyệt bạch lộ màu trắng mảnh mai vươn thẳng lên trời, những phiến lá hình trăng non ken dày thành những tán lá sum suê màu lam sáng, nở đầy những chùm hoa trắng như sương mù. Một cơn gió tuyết thoáng qua, những chùm hoa khẽ khàng rơi xuống, chưa kịp xuống nước đã tan thành sương trắng, từng đàn cá nhỏ màu trắng bơi lượn quanh gốc cây, thỉnh thoảng lại nhảy lên. Trong bảng vảng sương mù, Phật âm tịch mịch từ xa vẳng đến, không biết ai đó đang ngân nga mấy câu Kinh Thi: “Tu đồ đề, phát a nặc đa la tam diểu tam bồ đề tâm giả, vu nhất thiết pháp, ứng như thị tri, như thị kiến, như thị tin giải, bất sinh pháp tướng...”[2].

[2] Đây là một đoạn trong đoạn kinh thứ ba mươi mốt của kinh Kim Cương Bát Nhã Ba La Mật, là lời Đức Phật nói với đệ tử Tu Bồ Đề.

Giải nghĩa: Tu Bồ Đề muốn trở thành một người lớn lao, hoàn toàn giác ngộ, có trí tuệ lớn thì phải nhận thức, lý giải về tất cả Phật pháp như thế, chứ không cố chấp với pháp tướng của Phật pháp.

Phượng Cửu cảm thấy cảnh tượng trước mắt quá hư ảo, nhưng cơ hồ lại rất hợp với kiểu thần tiên như Đông Hoa, lúc này chàng nhìn nàng chăm chú như vậy, trán nàng bỗng toát mồ hôi lạnh.

Nàng nhớ ra chàng từng là bá chủ thiên địa, lẽ ra bất luận chàng làm chuyện gì thất đức với nàng, là một tiểu bối, nàng vẫn nên tôn kính chàng, không thể thất lễ.

Thế là nàng do dự nghĩ, bây giờ rốt cuộc mình có nên giẫm đạp lên chiếc khăn lụa chàng yêu quý trước mặt chàng không?

Tiên khí bảng lảng quanh người Đông Hoa, chàng chống tay vào má nhìn bộ dạng hồ ly của nàng hồi lâu, đột nhiên nói: “Có phải hồi ngươi còn nhỏ ta từng cứu ngươi không?”.

Phượng Cửu đang cầm chiếc khăn, ngẩng phắt đầu nhìn chàng, sững sờ một hồi, không gật cũng không lắc.

Đông Hoa lại vẫn còn nhớ đã từng cứu nàng, khiến nàng cảm thấy hết sức kinh ngạc. Vì hồ ly đỏ chín đuôi khắp Thiên giới, Hạ giới chỉ có mình nàng, quả là quý hiếm, khó trách có không ít kẻ muốn bắt nàng, cho nên xưa nay khi ra ngoài rong chơi, nàng đều giấu tám chiếc đuôi đi, bản lĩnh này nàng luyện đã nhiều năm, cho dù tu vi cao thâm như Đông Hoa, không nhìn kỹ cũng không nhìn ra nàng vốn có chín đuôi, cho nên lúc đầu chàng cũng không biết người mình cứu hóa ra chính là tiểu đế cơ của Thanh Khâu.

Hồi đó ở núi Cầm Nghiêu, khi Đông Hoa cứu nàng thoát khỏi miệng hổ tinh, chắc tưởng nàng là con hồ ly hoang trong núi tu vi còn non yếu, bèn trùm lên nàng một màn tiên khí bảo vệ rồi bỏ đi. Thực ra cũng là chuyện hơn hai nghìn năm trước. Hai nghìn năm qua đi, hình dạng hồ ly của không thay đổi bao nhiêu.

Nhưng rất nhiều năm sau, trong tình cảnh này, Đông Hoa biết được hai người từng có mối duyên như vậy, không biết nàng luôn đi nhanh một bước, hay là sự đời luôn đi chậm một bước.

Phượng cửu ngồi trên đất, nhìn đăm đăm chiếc khăn lụa quặp trong vuốt, cảm thấy hơi khó xử, quả nhiên tiểu thúc nói đúng, chuyện báo thù nếu không ra tay ngay, rất dễ mất khí thế rồi cho qua luôn, lúc chạy đến đáng lẽ nàng phải ném thẳng chiếc khăn vào mặt Đông Hoa. Lúc này nàng bị cảnh sắc tuyệt đẹp này ảnh hưởng, cảm thấy cảnh giới tinh thần đột nhiên nâng lên một tầm cao mới, không thể ném khăn tay được nữa.

Thấy nàng mãi không nói gì, Đông Hoa bình thản nói: “Vậy là ta cứu mạng ngươi một lần, ngươi còn chưa báo đáp, ta lừa ngươi một lần, ngươi không chấp, coi như báo đáp, khăn tay hãy trả lại ta, ngươi giày vò nó phai hết màu ta cũng không chấp nữa”.

Lời Đông Hoa Phượng Cửu nghe sao thấy vô cùng chói tai, cảm giác cảnh giới tinh thần lại tụt xuống. Nàng cúi đầu: “Thực ra tiểu bối đã trả ơn rồi”, giọng nhỏ như tiếng muỗi.

Đông Hoa hơi sững ra: “Sao?”.

Rồi nàng đột nhiên ngẩng đầu, trợn mắt nhìn chàng, giọng mang âm mũi đặc trưng sau khi biến thành hồ ly, giận dữ hỏi chàng: “Có phải ngài rất thích chiếc khăn này? Bởi vì là của Cơ Hoành thêu tặng ngài?”. Lời vừa dứt liền giơ vuốt phải rũ cái khăn ra trước mặt chàng vẻ khiêu khích, sau đó bịt vào mũi xì lấy xì để, rồi vo tròn ném xuống chân chàng, tiếp theo trợn mắt nhìn chàng một cái, quay người bỏ chạy, được mấy bước còn ngoái đầu làm mặt xấu với chàng.

Đông Hoa ngơ ngác nhìn theo bóng nàng, cảm thấy dạo này nàng sinh động hoạt bát hơn nhiều so với hồi ở Cửu Trùng Thiên nửa năm trước.

Liên Tống Quân ẩn trong cung Nguyên Cực cách xa vạn dặm xem xong tấn trò đó, là vị tình thánh nổi tiếng một thời ở Cửu Trùng Thiên, chàng có chút khúc mắc muốn thỉnh giáo Đông Hoa, thế là chàng hắng giọng hỏi: “Có lẽ đệ đã nhìn ra vấn đề nằm ở đâu rồi. Thực ra hiền huynh đã biết nàng giận vì bị huynh biến thành chiếc khăn, cũng nhận ra huynh cần biến thành chiếc khăn để nàng giày vò xả hận, tại sao còn biến ra cái khăn giả lừa nàng?”

Đông Hoa cúi nhìn chiếc khăn nhàu nát dưới chân, nếu đó là do chàng biến ra, bộ dạng chàng bây giờ đã thảm hại như chiếc khăn nhàu bạc màu kia: “Ta đâu có ngốc.”

Liên Tống nghẹn họng hồi lâu, nói: “... Đương nhiên, hiền huynh không ngốc, có điều đã gây ra tình thế tồi tệ như thế, nếu huynh có thể thu xếp êm thấm, từ nay đệ sẽ gọi huynh là gia gia”.

Bàn tay Đông Hoa đang thu bàn cờ chợt dừng lại, trầm tư nói: “Nghe đâu Thái Thượng Lão Quân mới luyện được một loại tiên đan, uống vào có thể quên có lựa chọn một số chuyện, không có thuốc giải tuyệt đối không thể nhớ lại được, hôm nào đệ tìm ông ta xin cho ta một bình”.

Khóe miệng Liên Tống giật giật: “... Huynh làm vậy có phải hơi bỉ ổi?”.

Bàn cờ Đông Hoa đã thu xong, suy nghĩ rất nghiêm túc rồi trả lời vắn tắt: “Không cảm thấy”. Lại nói thêm: “Lần sau gặp lại, nhớ gọi ta là gia gia.”

“...”.

Hôm trước, danh sách những người được vào vòng trong đã được công bố, trong đó quả nhiên không có tên Cửu Ca. Khi biết tin xấu đó Phượng Cửu quấn chặt người trong áo choàng nhàu nhĩ, ngồi bên cửa sổ mở rộng cho khuây khỏa, nhưng cớ sao gió lạnh không xua được nỗi buồn. Nàng xịt xịt mũi băn khoăn nói với Tiểu Yến cũng ngồi trong phòng: “Theo lý mà nói phu tử đã biết muội là chỗ quen biết cũ của Đông Hoa, muội thấy ông ta vốn là người biết điều, lẽ ra không cần Đông Hoa mở lời cũng nên nể mặt Đông Hoa mà cho muội vào vòng trong mới phải, tại sao vẫn không có tên muội trong danh sách? Hay là người viết sơ suất bỏ sót?”.

Tiểu Yến hắt hơi, xoa mũi than thở: “Không ngờ lão phu tử này lại là người không sợ cường quyền, trung trinh tiết liệt, mỗ phải nhìn ông ta bằng con mắt khác rồi.” Phượng Cửu rất muốn nhắc chàng ta, trung trinh tiết liệt không dùng như thế, nhưng nghĩ lại, lại thấy Tiểu Yến gần đây rất thích sử dụng thành ngữ, nói chuyện càng ngày có văn hóa, cũng không phải là chuyện không hay. Nàng nhìn ra lớp tuyết dày ngoài cửa sổ, cảm thấy bàn luận với Tiểu Yến vấn đề có tính logic cao như vậy là sai lầm, liền chuyển sang vấn đề đơn giản hơn: “Nói đến Đông Hoa, trước khi chúng ta rơi xuống Phạn Âm Cốc, huynh và ngài ấy còn đang quyết đấu, muội vốn tưởng kẻ thù tái ngộ sẽ rất nóng mặt, mấy hôm nay hai người nhất định tìm cơ hội tỷ thí lần nữa...”. Họ mãi chưa giao đấu, nàng chờ đến sốt ruột.

Mặt Tiểu Yến bỗng đỏ ửng, ngẩng đầu giọng đắn đo: “Muội... muội lo cho mỗ à?”. Mắt chàng ta sáng lên vẻ hào sảng, đi đến vỗ vai nàng: “Tiểu muội tốt! Mặc dù muội từng là người trong cung của Mặt lạnh, nhưng có lương tâm như vậy, không hổ mỗ lâu nay xem trọng muội!”.

Phượng Cửu bị chàng ta vỗ mạnh đến nỗi ngửa ra đằng sau, lòng hơi hổ thẹn ngồi im, nghe chàng trịnh trọng giải thích: “Thực ra, ngay hôm đầu tiên Mặt lạnh vào Phạn Âm Cốc, khi mỗ và hắn oan gia ngõ hẹp gặp nhau, hai bên đã có một thỏa thuận, hắn không can thiệp vào quan hệ của mỗ với Cơ Hoành, mỗ cũng không tìm hắn để rửa hận”.

Phượng Cửu xoa vai, ngớ ra hỏi: “Chuyện này can hệ gì tới công chúa Cơ Hoành?”.

Tiểu Yến càng ngẩn ra: “Chẵng lẽ mỗ chưa nói với muội, Cơ Hoành năm xưa bỏ trốn với thị vệ Mẫn Tô, chính là chạy đến Phạn Âm Cốc này sao?” Chàng ta gãi đầu, khuôn mặt như hoa mùa thu dưới trăng chợt ửng hồng: “Thực tình mỗ cũng chỉ mới biết nửa năm trước, hóa ra thị vệ Mẫn Tô mà Cơ Hoành si mê thì ra lại là nữ cải nam trang, hơn nữa nàng ta lại thích ca ca của Cơ Hoành, sau khi biết chân tướng sự việc Cơ Hoành không chịu nổi đả kích, cãi nhau với Mẫn Tô một trận kịch liệt rồi chia tay, nhưng thấy không còn mặt mũi nào quay về Ma tộc liền ở lại Phạn Âm Cốc làm nhạc sư cung đình”.

Mắt Tiểu Yến phát ra một loại ánh sáng khác hẳn vừa rồi, sôi nổi nói với Phượng Cửu: “Muội còn nhớ lúc chúng ta bị hỏi tội ở triều đường không? Mặc dù Cơ Hoành đã trùm khăn che mặt, nhưng vừa nhìn ta đã nhận ra ngay, nửa năm nay, chúng ta qua lại với nhau rất vui vẻ, ta thấy ta có cửa!”.

Phượng Cửu nghe một loạt tin tức hoang đường từ miệng Tiểu Yến nói ra như nghe tiên âm vẳng lại từ nơi nào xa lắm, trong đầu chỉ nghĩ tới một điều duy nhất, Tiểu Yến tráng sĩ cuối cùng đã biết cách sử dụng từ “ta”, quả là một tiến bộ.

Còn Cơ Hoành, Phượng Cửu nhớ lại chuyện năm xưa, cảm thấy dường như nàng ta đã trở thành một ký hiệu trong ký ức, mặc dù Yến Trì Ngộ nói họ từng gặp nhau ở triều đường của tộc Tỷ Dực Điểu, nhưng nàng cũng không thể nào gắn thiếu nữ áo trắng xinh đẹp đó với công chúa Cơ Hoành ngay lập tức được.

Nhắc đến Cơ Hoành, tâm trạng Phượng Cửu thực ra hơi phức tạp, Cơ Hoành không giống Tri Hạc, nàng không đơn thuần nói rõ có ghét nàng ta hay không, cho dù vì Đông Hoa Phượng Cửu rất có thành kiến với Cơ Hoành, nhưng không thể vì vậy mà phủ định lòng tốt của Cơ Hoành với mình. Phượng Cửu vẫn nhớ, trong Thập Ác Liên Hoa Cảnh, Cơ Hoành đã thật lòng yêu quý bảo vệ nàng, đương nhiên, ở Cửu Trùng Thiên, nàng ta đã vô ý làm nàng tổn thương, nhưng nàng cũng làm Cơ Hoành tổn thương, coi như hòa.

Trước nay nàng không cho rằng năm xưa mình từ bỏ Đông Hoa là một sự tác thành cho họ, nhưng nàng không thể ngờ Cơ Hoành có thể bỏ Đông Hoa vào đúng ngày đại hôn, từ góc độ này nàng quả thực có phần khâm phục vị công chúa Ma tộc đó. Có điều, loanh quanh thế nào cuối cùng hai người đó lại trùng phùng ở Phạn Âm Cốc này, có mối duyên phận như vậy quả thực cảm động đất trời. Khách quan mà nói, nếu đến bây giờ Đông Hoa vẫn còn thích Cơ Hoành, vậy họ được ở bên nhau cũng là một giai thoại. Dù gì ngay Yến Trì Ngộ, người có mạng lưới thông tin rộng nhất tứ hải bát hoang cũng nói Cơ Hoành là mối tình duy nhất của Đông Hoa bao nhiêu năm qua, không thể vì mình và Đông Hoa vô duyên mà ích kỷ mong Đông Hoa suốt đời cô đơn. Tư tưởng hẹp hòi đó không phải là khí độ của Thanh Khâu Phượng Cửu, nữ vương Đông Hoang này.

Trong lòng đã nghĩ được như vậy, đột nhiên cảm thấy thiên địa thực bao la, trong lòng thật thanh thản, nàng muôn phần kính phục bản thân đã biết suy nghĩ vì đại cục như vậy.

Có điều chuyện gì ra chuyện đó, Đông Hoa thân là trưởng bối, tùy tiện đem một tiểu bối là nàng vứt ở Phạn Âm Cốc này để nàng rơi vào hiểm cảnh vẫn là điều không thể tha thứ, nàng cho rằng mình vẫn nên tiếp tục ghi hận trong lòng thì hơn.

Nhưng những điều đó thực ra đều không quan trọng, bây giờ điều quan trọng hơn, khiến nàng thực sự phiền muộn là chuyện khác, nàng không được tham dự cuộc so tài năm nay của tông học, làm sao có được quả tần bà chỉ dành cho người ưu tú nhất? Không lấy được quả tần bà, làm sao cứu được Diệp Thanh Đề? Lẽ nào chỉ còn cách lấy trộm? Lấy trộm thực ra chưa hẳn không phải là cách hay, vậy có nên kéo Tiểu Yến vào việc nguy hiểm nhưng vô cùng ý nghĩa này không? Phượng Cửu ngẫm nghĩ một lát, cảm thấy để chắc chắn chết cũng phải kéo Tiểu Yến vào cuộc.

Tuy nhiên lấy trộm quả tần bà không dễ, cái cây đó nhìn bên ngoài tưởng chừng như không ai trông nom, nhưng theo tin nội bộ của Manh thiếu gia, bốn góc quanh cây có bốn cột đá[3] lớn (nếu ai tin chúng là cột đá thật kẻ đó chính là kẻ ngốc nhất thiên hạ), trong mỗi cột đá đều cực lớn đó đều có một con mãng xà lớn chuyên bảo vệ cây thần, nếu phát hiện có kẻ xâm phạm, kẻ đó còn chưa chạm vào quả tần bà, e là đã bị chúng cắn đứt cổ. Khi Manh thiếu gia kể cho Phượng Cửu nghe đến đây còn giơ tay làm động tác bẻ cổ, đồng thời đôi mắt phượng dài lóe hàn quang, khiến nàng rợn sống lưng, cảm nhận sâu sắc mức độ nguy hiểm của việc này.

[3] Nguyên gốc Hán-Việt là hoa biểu, một loại cột đá có chạm trổ hình rồng phượng, dùng để trang trí những kiến trúc lớn như cung điện, lăng tẩm ở Trung Quốc thời xưa.

Phượng Cửu nghĩ, mặc dù trong hai người có Tiểu Yến pháp thuật cao cường, nhưng chưa điều tra rõ về bốn con mãng xà kia, lỡ Tiểu Yến manh động bị mãng xà nuốt sống… Nghĩ tới đây, nàng nghiêm túc ngắm nghía Tiểu Yến một hồi, nhìn chàng ta môi hồng da trắng mà ảo não, người đẹp như thế nếu bị mãng xà nuốt sống thì đáng tiếc biết mấy.

Phượng Cửu quyết phải nghĩ ra một kế sách vẹn toàn.

Nàng vắt óc suy nghĩ ba ngày.

Mãi đến sáng sớm ngày thứ ba, khi những tia nắng đầu tiên chiếu qua đỉnh tuyết trắng xóa phía xa, Phượng Cửu vẫn chưa nghĩ ra được kế gì hay ho thì đã nghe nói sáng hôm nay có giờ giảng về trà đạo của Đông Hoa,học ở đầm Trầm Nguyệt. Ý nghĩ đầu tiên của nàng là phải trốn học, dùng xong bữa sáng bình tĩnh lại một chút, lại cảm thấy thực ra mình không nợ nần gì Đông Hoa, hà tất phải trốn tránh, trầm tư một lát nàng rút hai cuốn truyện mỏng trong đống sách chất cao như núi, nhìn sắc trời rồi quen đường thuộc lối đi thẳng đến đầm Trầm Nguyệt.

Bài hôm nay sẽ giảng về đạo bày trà. Trong ấn tượng của Phượng Cửu, tất cả mọi sự, chỉ cần dính đến chữ “đạo” là không tránh khỏi thần thần bí bí, nhưng có lần nàng đã được Chiết Nhan giáo huấn, thực ra cái gọi là thần đạo đó chính là sự công phu tinh tế, yêu cầu thập toàn thập mỹ đến từng chi tiết, là biểu hiện của phẩm vị trác việt và phong nhã. Có điều,thần đạo của Đông Hoa rõ ràng không phải do phẩm vị với chả phong nhã, xưa nay nàng vẫn biết đó chỉ là vì chàng sống quá lâu, thời gian là thứ vô tận nhất trong cuộc đời dài dặc của chàng, cho nên những việc càng phải bỏ nhiều thời gian, càng cần nhẫn nại chàng càng hứng thú. Ví dụ, để phù hợp với hai chữ "cảnh giới", chàng đã kỳ công bố trí giảng bài trong đầm Trầm Nguyệt, hơn nữa còn biến đầm Trầm Nguyệt đông hàn băng tuyết trở nên tràn trề sắc xuân hai, ba ngày liền. Thực ra nói thật là đối với chàng hai chữ "cảnh giới" chẳng đáng mấy đồng, đa phần là chàng cảm thấy làm thế coi như tìm được trò để giết thời gian. Về mặt này nàng rất hiểu Đông Hoa.

Nhưng hôm nay Phượng Cửu nhớ nhầm giờ học, phá lệ đến rất sớm.

Trong đầm Trầm Nguyệt không một bóng người, chỉ có mấy con cá trắng thi thoảng từ mặt nước vọt lên, làm xao động khung cảnh tĩnh mịch. Phượng Cửu chăm chú nhìn những lộc non mới nhú trên cành thủy nguyệt bạch lộ, ngáp một cái, trong mười dặm vuông quanh đây băng tuyết đã tan, sắc xuân mơn mởn. Không có việc gì làm, sau khi ngáp mấy cái khí xuân ấm áp tất nhiên đã làm nàng buồn ngủ, nhìn trời hình như vẫn còn sớm liền dạo quanh đầm một vòng, chọn một thảm hoa dại mềm mại dưới gốc đại thụ chắn gió, định lấy trời làm màn lấy đất làm chiếu ngủ thêm giấc nữa, nhân tiện tiếp tục suy tính làm sao có thể thuận lợi lấy trộm được quả tần bà.

Nhưng vừa nằm xuống một lát, đã nghe thấy tiếng bước chân lại gần, khi gió đưa tiếng nói vào tai nàng, Phượng Cửu còn tưởng vẫn đang trong mơ, bàng hoàng một hồi mới nhớ ra mình vừa nằm xuống chưa lâu, chưa kịp ngủ sao đã kịp mơ. Chủ nhân của tiếng nói đó, khi nghĩ tới nàng ta trong ký ức chỉ cảm thấy nàng ta đã trở thành một ký hiệu mờ nhạt, bây giờ mới hiểu ký hiệu đó muốn trở thành con người thật chỉ cần một thoáng chớp mắt. Chủ nhân của tiếng nói chính là Cơ Hoành, giọng oanh vàng uyển chuyển không hề khác chút nào so với ba trăm năm trước. Phượng Cửu không hiểu tại sao diện mạo, thân hình Cơ Hoành đều mờ nhạt trong ký ức của nàng, duy chỉ có giọng nói lại lưu dấu ấn sâu như vậy, sâu đến mức Cơ Hoành vừa gọi hai tiếng “sư phụ” nàng đã biết chính là nàng ta.

Cơ Hoành đã gọi như vậy người kia đương nhiên là Đông Hoa.

Phượng Cửu khe khẽ trở mình, sau khi nghe thấy mấy tiếng bước chân khẽ khàng, Cơ Hoành nói tiếp sau tiếng gọi: “Lần này sư phụ muốn pha trà Giải Nhãn Thanh ạ? Vậy nô tự ý chọn bộ ấm chén màu xanh lá sen này, tuy xưa nay sư phụ thích dùng chén sứ đen huyền sẽ càng nổi bật màu xanh lục của trà, nhưng nô cho rằng dùng loại ấm chén sứ xanh này tôn trà Giản Nhãn Thanh sẽ càng thêm phần tao nhã, cũng càng làm nổi bất sắc xuân hôm nay”. Đông Hoa hình như “ừ” một tiếng, dù không thật nhiệt tình hưởng ứng, nhưng Phượng Cửu biết khi chàng kiểm tra bộ đồ trà, có thể phân tâm "ừ" một tiếng ít nhất cũng chứng tỏ chàng không thấy bị Cơ Hoành quấy rầy. Không, người ta đồn chàng luôn có tình ý với Cơ Hoành, vậy ý nghĩa của tiếng “ừ” đó đương nhiên không phải chỉ có vậy, chưa biết chừng còn là khen ngợi kiến thức của Cơ Hoành cũng nên.

Phượng Cửu vừa nghe lỏm vừa cảm thấy đây đúng là cuộc đối thoại của những con người có phẩm vị cao nhã, bản thân nàng cả đời e là không thể đạt được đến cảnh giới này, đồng thời bất giác lại thấy tiếc cho Tiểu Yến. Tiểu Yến xưa nay uống trà bằng cốc vại, nhìn đã biết không hợp với Cơ Hoành, hơn nữa Cơ Hoành còn biết Đông Hoa thích dùng chén men sứ đen huyền. Mặc dù Tiểu Yến cảm thấy mình có cửa nhưng Phượng Cửu thực lòng cảm thấy Tiểu Yến chỉ tưởng tượng ra thế thôi. Lúc đầu, khi Tiểu Yến xác nhận với nàng Đông Hoa có tình cảm với Cơ Hoành đương nhiên nàng rất bàng hoàng, nhưng hôm nay bất chợt gặp Cơ Hoành, nhìn hai người có thể trở về bên nhau lòng nàng lại không mấy xao động. Nàng thấy thời gian quả nhiên là liều thuốc tốt, bao nhiêu năm qua cuối cùng nàng đã có chút tiến bộ.

Qua những bông hoa ma ha mạn thù sa đỏ chói, vùng này được Đông Hoa dùng pháp thuật hoán đổi thành bầu trời trong tiết xuân, quả là khác hẳn cảnh băng tuyết vạn dặm mọi ngày. Phượng Cửu giơ tay che mắt, qua kẽ ngón tay nhìn thấy những đài hoa cực lớn bị gió thổi nghiêng ngả trên đầu, tựa như làn sóng biển màu đỏ dập dềnh, nàng bị chìm trong con sóng đó, vừa hay giấu mình càng kín đáo.

Sau khi trao đổi một, hai câu như vậy, hai người đang chuẩn bị cho buổi trà đạo mãi không nói gì nữa. Phượng Cửu nhắm mắt, lại có vài tiếng bước chân ngắt quãng rất nhẹ vẳng tới, có lẽ là các cô nương đến giành chỗ, xem ra vẫn còn khá sớm. Đêm qua suy nghĩ hơi nhiều, lúc này nàng hơi mệt, đang định tranh thủ thời gian ngủ chút nữa đột nhiên chếch phía trước có tiếng nói thầm thì. Nhà họ Bạch mặc dù xưa nay không quá khắt khe trong việc dạy dỗ tiểu bối nhưng gia giáo cũng rất nghiêm, nghe lén chuyện người khác không phải là việc hay ho gì, Phượng Cửu đang giơ tay định lấy ống tay áo bịt tai, giọng oanh vàng véo von lại lọt vào tai nàng trước.

Hai giọng đó nàng chưa nghe thấy bao giờ, một giọng trẻ con nghe có vẻ khí thế hơn, cất tiếng thanh thanh hỏi: “Người ngồi dưới gốc cây bạch lộ bày bình trà kia chính là Đông Hoa Đế Quân mà Khiết Lục thích ư? Nghe nói từ thuở hồng hoang ngài đã hóa sinh từ Bích Hải, đã sống không biết bao nhiêu vạn năm, nhưng tại sao trông lại trẻ như vậy?”

Một giọng già dặn trầm tĩnh hơn trả lời: “Bởi vì những vị thần thượng cổ như Đế Quân đương nhiên khác với Linh Hồ chúng ta, tộc Linh Hồ một khi thọ quá nghìn tuổi là nhan sắc phai tàn, nhưng Đế Quân thọ ngang trời là do...”

Thiếu nữ tộc Linh Hồ cười khúc khích, vẫn giọng thanh thanh: “Nghe đồn, Đông Hoa Đế Quân cao quý vô cùng, uy nghi nhất mực, lại nghiêm nghị lạnh lùng không gần nữ sắc. Nhị ca ca cũng không gần nữ sắc, cho nên bên cạnh toàn các thị đồng hầu hạ, nhưng ta thấy lúc này người chuẩn bị ấm chén cho Đế Quân rõ ràng là một cô nương mỹ miều”. Nàng ta dừng lại, tinh nghịch thở dài: “Có thể thấy lời đồn không đúng, ngươi nói xem, nếu ta...”.

Giọng trầm tĩnh kia đột nhiên căng thẳng, vội ngắt lời nàng ta: “Công chúa định làm gì?”. Không thấy lời đáp, giọng nói kia càng cuống: “Theo như thần thăm dò, cô nương áo trắng kia có thể hầu hạ bên cạnh Đế Quân vì nàng ta không phải người bình thường. Nàng ta hơn hai trăm năm trước đã lâm nạn rơi xuống Phạn Âm Cốc làm nhạc sư trong cung, Đế Quân đến Phạn Âm Cốc giảng bài chính vào năm kế tiếp. Nhiều năm như vậy Đế Quân đến đây chỉ để mình nàng ta theo hầu. Công chúa vốn thông minh tất đã đoán ra điều này nghĩa là gì, nếu thất lễ với cô nương kia, hậu quả tộc Linh Hồ chúng ta tuyệt đối không thể gánh vác, công chúa hành sự nên cân nhắc kỹ...”.

Một cơn gió ấm thổi qua, một vùng hoa đỏ trải dài tựa như tấm thảm lụa màu đỏ khẽ cuộn lên, công chúa của tộc Linh Hồ lặng lẽ hồi lâu sau những lời điềm tĩnh, hợp tình kia. Phượng Cửu bị buộc nghe lén cũng yên lặng theo. Nàng hiểu ra ba điều. Thứ nhất, hai giọng nói không quen kia thì ra là thất công chúa của bộ tộc Linh Hồ và tùy tùng của nàng ta, hôm qua nàng nghe nói nàng ta do cơ duyên tình cờ được nữ vương bộ tộc Tỷ Dực Điểu cho phép đến nghe. Thứ hai, Đông Hoa người ta nửa năm sau đến Phạn Âm Cốc thì ra không phải là để cứu nàng mà là nhân cơ hội đến hẹn hò với Cơ Hoành. Thứ ba, tùy tùng của thất công chúa là người có tài, trong lúc khẩn cấp vẫn nói năng khúc triết có tình có lý như vậy, có thể mời về Thanh Khâu làm văn thư ở đại điện.

Phượng Cửu nghĩ một hồi lại ngơ ngẩn một hồi, nghe thấy tiếng chân khe khẽ, hình như hai người đã bỏ đi, nàng giơ tay vuốt tóc mái xõa trước trán. Đông Hoa lần này đến Phạn Âm Cốc lại là vì lý do đó. Thực ra, như thế mới phù hợp với phong cách hành xử vốn có của chàng, chàng vốn không mấy bận tâm đến sự sống chết của người khác. Nhưng khi gặp lại nàng lại mặt dày tưởng chàng đến cứu mình. Phượng Cửu bỗng thấy hơi xấu hổ, nhất định chàng cảm thấy bộ dáng đùng đùng nổi giận của nàng lúc đó rất nực cười. Một người có tư cách giận dỗi với người khác ít nhất cũng phải có vị trí nào đó trong lòng người kia. Nhưng Đông Hoa đến đây cốt chỉ để gặp Cơ Hoành xa cách mười năm mới được gặp một lần, chẳng liên quan gì đến Phượng Cửu này. Thực ra chuyện này rất bình thường, chàng vốn không thể coi trọng nàng. Phượng Cửu trở mình điều chỉnh tư thế, lại ngẩn ngơ một lúc, đầu bỗng trống rỗng không biết đang nghĩ gì, rất lâu sau định thần trở lại nàng uể oải ngáp dài, bắt đầu học theo cách Chiết Nhan đã dạy, nhẩm đếm hạt đào từ từ chìm vào giấc ngủ.

Phượng Cửu cảm thấy dường như mình ngủ rất sâu, nhưng lại có mấy khắc tỉnh táo, giờ học trà đạo đã lặng lẽ diễn ra trong khi nàng ngủ, lúc mơ màng sắp tỉnh thỉnh thoảng nghe thấy tiếng các học trò ngồi gần nàng bàn luận sôi nổi vấn đề về trà học và huyền học cao thâm khiến nàng nửa tỉnh nửa mơ lại nhanh chóng rơi vào giấc mộng. Không biết nàng ngủ bao lâu, trong mơ có vài ba tiếng bước chân xa dần rồi biến mất, vọng lại cùng với tiếng bước chân là giọng khe khẽ của một học trò nào đó phàn nàn: “Đang giữa đông hàn, hiếm hoi mới được ngắm mười dặm rừng bạch lộ trong tiết xuân ấm áp, Đế Quân lại không thể nương tay kéo dài thêm chút thời gian nữa sao?”. Phượng Cửu thầm than cô nương này thật ngây thơ không hiểu Đế Quân chỉ thích giậu đổ bìm leo chứ xưa nay không có hứng nương tay.

Lát sau có vật gì lành lạnh mềm mượt tựa lông ngỗng lướt trên mặt Phượng Cửu, nhưng đó mới là khúc dạo đầu, làn gió ấm áp bao trùm thảm hoa đột nhiên biến mất, gió tuyết bỗng lùa vào ống tay áo, nước tuyết lập tức thấm vào lưng áo nàng, Phượng Cửu vùng vẫy muốn bò dậy, hắt hơi liền mấy cái, nhưng mãi không thể mở mắt ra được, hơi lạnh theo sống lưng từng tấc bò lên, lạnh đến mức nàng nằm co như còn tằm trong kén, trong cái đầu choáng váng u mê bi phẫn hiện ra hàng chữ: “Bạch Phượng Cửu, mi là đồ ngốc à? Chọn hoài chọn mãi, cuối cùng chọn đúng nơi quỷ quái này mà ngủ, không biết ma ha mạn thù sa một khi gặp tuyết sẽ đưa người nằm trên nó rơi vào mộng mị triền miên sao?” Sau đó trong đầu lại buồn rầu tự trả lời: “Phải, mình là đồ ngốc, đích thị quá ngốc.” Nàng run lẩy bẩy tự trách mình ngu xuẩn, nửa canh giờ sau rét cóng ngất xỉu luôn.

Tương truyền Phượng Cửu có tật hễ ốm là trở nên rất trẻ con, hơn nữa lại trẻ con một cách vô cùng thú vị. Theo chứng thực bảy mươi năm trước, Thương Di Thần Quân ở núi Chúc Việt vô cùng say mê Phượng Cửu chính là một lần may mắn chứng kiến phong thái của nàng khi bị ốm. Có thể thấy đó không phải là lời đồn thất thiệt.

Phượng Cửu lần này bị rét cóng hơn nửa canh giờ giữa trời băng tuyết, mặc dù được người nào đó tốt bụng cứu, bế nàng về ủ trong chăn ấm nửa ngày nhưng bị nhiễm thương hàn rất nặng, hơn nữa dư độc của man ha mạn thù sa vẫn còn. Trong giấc mơ đầu óc nàng hỗn độn, cảm giác mình lúc này là một con tiểu hồ ly bé tý, nằm thoi thóp trên giường là do thi bắt cá ở biển Vãng Sinh với con sói xám núi bên cạnh, không may bị sặc nước chết đuối.

Có một bàn tay đặt lên trán lúc nàng còn chút tri giác, nàng thấy hơi lạnh nên lùi về phía sau, cả người chùm kín trong chăn. Bàn tay đó hơi ngừng lại, rồi vén chăn để hở miệng và mũi nàng ra, lại kéo chăn chẹn kín dưới cái cằm thon nhỏ xinh xắn của nàng, cảm thấy dễ chịu hơn một chút, nàng nịnh bợ dụi má vào bàn tay mát lạnh đó. Lúc nhỏ nàng rất biết cách tỏ ra ngoan ngoãn lấy lòng người khác, về khoản này nàng là nhân tài kiệt xuất của nhà họ Bạch, lúc này khi còn đang nửa mơ nửa tỉnh đã bất giác lộ ra bản tính. Nhưng trong u mê nàng vẫn cảm thấy bàn tay này tiếp nhận sự nịnh bợ lấy lòng của nàng nhưng lại không âu yếm xoa đầu nàng đáp trả. Điều này rất không bình thường. Phượng Cửu lập tức tự phản tỉnh trong mơ, cảm thấy có lẽ đối phương chê mình nịnh bợ không đủ thành tâm, nghĩ vậy thò tay ra khỏi chăn nắm lấy bàn tay kia, rất thành tâm thành ý nhiệt tình dụi má lên mu bàn tay đó.

Nắm bàn tay đó, nàng cảm giác thấy các đốt ngón tay rất rõ ràng, ngón tay thon dài lúc trước còn lạnh nắm lâu liền bắt đầu trở nên nóng ấm. Đặc điểm này rất giống bàn tay mẫu thân nàng, Phượng Cửu dùng cái đầu u u mê mê của mình khó nhọc suy xét vấn đề và cảm thấy có thể dịu dàng âu yếm như vậy với nàng chắc chính là mẫu thân nàng. Mặc dù bàn tay không mềm như bàn tay mẫu thân, có lẽ là do trời quá lạnh nên tay mẫu thân tê cóng cũng nên. Nàng bỗng thấy thương mẫu thân, dẩu môi lẩm bẩm mấy câu, lại gần ngón tay trân trọng hà mấy hơi, rồi nắm lấy định ép vào ngực mình, muốn giúp mẫu thân ủ ấm. Nhưng bàn tay kia không biết bằng cách nào đã kịp thời né tránh trước khi nàng kéo nó vào chăn, chỉ có mình nàng trong chăn gấm, có tiếng động khe khẽ bên tai giống như bàn tay đó đang dém chăn cho nàng.

Phượng Cửu cảm thấy cử chỉ này của mẫu thân rõ ràng là vẫn không chấp nhận tình cảm của nàng. Vậy thì chứng tỏ chắc chắn mẫu thân thực sự rất giận chuyện nàng không nghe lời nên bị đuối nước ở biển Vãng Sinh rồi. Tuy bây giờ mẫu thân chăm sóc nàng rất chu đáo cẩn thận, nhưng khi nàng khỏi ốm chưa biết chừng vẫn không thoát khỏi mấy cái roi.

Nghĩ đến đây nàng rùng mình thì nghe thấy mẫu thân hỏi: “Còn lạnh à?”. Giọng nhẹ thoáng qua, mơ hồ như từ rất xa vọng lại, nàng không phân biệt được là giọng nam hay nữ, xem ra mình ốm không nhẹ. Nhưng nàng lại thở phào, mẫu thân đã chịu hỏi nàng như vậy chứng tỏ chuyện này vẫn còn cơ vãn hồi, nếu nàng tỏ vẻ đáng thương làm nũng một chút có khi có thể tránh được trận đòn này.

Nàng gật đầu thật mạnh trong chăn, cố hắt hơi hai cái, hắt hơi xong lại tủi thân cắn môi: “Không phải Phượng cửu cố ý ngã xuống biển, ngủ một mình lạnh lắm, lạnh lắm, lạnh lắm, người hãy ngủ cùng Phượng cửu đi mà...”. Cuối cùng còn kèm giọng mũi nghèn nghẹn như vô số móc câu nhỏ móc vào lòng từ mẫu trong thiên hạ, chỉ cần có một tấm lòng từ mẫu là sẽ đầu hàng ngay lập tức. Phượng Cửu thầm gật đầu khâm phục tài làm nũng của mình.

Nhưng mẫu thân nàng hôm nay lại tỏ ra kiên định khác thường, một chuỗi tiếng động nhẹ vang lên, hình như là mẫu thân cầm cái chậu chuẩn bị đi ra, vừa bước vừa lẩm bẩm: “Bắt đầu mê sảng, xem ra bệnh không nhẹ”. Tiếng nói nghe rất mơ hồ, Phượng Cửu không chắc câu nói ấy có ẩn chứa sự xót thương như nàng tưởng tượng, chút xót thương đó liệu có giúp nàng thoát được trận đòn sau khi khỏi ốm không. Nàng không biết, lòng hoang mang, lại thực sự cơn đau khi roi quất vào người, trong tuyệt vọng, nhân lúc chưa nghe tiếng mở cửa, nàng quyết định dùng tuyệt chiêu giấu kín bấy lâu, chúi mặt vào chăn, hu hu giả khóc.

Tiếng bước chân quả nhiên dừng lại, Phượng Cửu thấy có cửa, tiện đà khóc to hơn, tiếng nói kia lại chậm rãi vang lên: “Khóc cũng không ích gì”. Nàng vừa khóc vừa khinh thường nghĩ, nửa khắc nữa nếu mẫu thân còn có thể tỉnh táo lạnh lùng nói ra câu đó, Bạch Phượng Cửu này sẽ cung kính tôn mẫu thân là nữ hiệp anh hùng, tuyệt chiêu sở dĩ được gọi là tuyệt chiêu không phải chỉ có cái tên kêu thôi đâu.

Vừa rồi còn khóc nhỏ, bây giờ phấn chấn tinh thần lập tức khóc thật to, nàng lên hẳn ba tông, lại còn khóc có tiết tấu hẳn hoi, người kia thở dài: “Gào mấy cũng vô ích, ta đâu phải là...”. Nàng lập tức gào to, bản thân nghe cũng váng đầu, cho nên mấy tiếng cuối cùng đối phương nói đương nhiên nàng không nghe được.

Phượng Cửu khóc nghiêm chỉnh hai trận, phát hiện mẫu thân vẫn chưa bỏ đi, cũng không lên tiếng. Nàng cảm thấy rõ mẫu thân hôm nay định lực quá tốt, lại nghĩ nếu khóc thêm trận nữa mà mẫu thân vẫn không động lòng thì sao, hay là tạm thời thu lại binh, khóc nữa sẽ khản cổ, lại còn nhức đầu nữa!

Nàng khóc trận cuối, thấy mẫu thân vẫn không nhượng bộ, vô cùng lo sợ, thầm nghĩ dạo này mẫu thân đến là khó xử lý, phân tâm nhất thời không để ý nên bị sặc, ho dữ dội, nhưng cuối cùng đã dụ được mẫu thân đang đứng đằng xa lại gần, đỡ nàng lên vỗ xuôi lưng cho nàng.

Khóc nấc lên như vậy vô cùng khó chịu, nắm lấy vật gì tựa như ống tay đưa lên định lau mũi. Trong cơn mụ mị, đối phương nâng mặt nàng lên lau nước mắt cho nàng, cảm thấy bàn tay đó rất lạnh liền vô thức né tránh, lại được thể ấm ức dỗi: “Mặc kệ Phượng Cửu, cứ để Phượng Cửu khóc đến chết cho xong...”. Nhưng người đó lúc này có vẻ vô cùng nhẫn nại, nắm tay nàng: “Ngoan nào!”. Nàng cảm thấy hai tiếng đó hơi quen, cũng khá dịu dàng, nên cũng không làm căng nữa, vùng vằng cho có chút đỉnh rồi chìa cái má và hai mắt khóc sưng ra để người đó lau sạch mặt cho.

Sau một hồi quấy rối như vậy, nàng cảm thấy mặc dù hơi khác dự đoán của nàng nhưng có lẽ vẫn đạt được hiệu quả, có lẽ mẫu thân sẽ bỏ qua cho nàng chuyện ngã xuống biển, bất giác thở phào một hơi rõ dài, đúng lúc đó lại nghe thấy giọng nói vừa rồi còn dịu dàng đột ngột vang lên: “Thực ra ta hơi hiếu kỳ ngươi có thể khóc to nhất đến mức nào, lúc ốm chắc cũng ảnh hưởng đến việc phát huy khả năng nhỉ?”.

Nàng không thở nổi, còn tức trào nước mắt, cảm thấy vừa rồi ra sức khóc như vậy thật uổng công. Nàng giãy giụa vừa lau những giọt nước mắt yếu đuối vừa lùi vào góc giường: “Người không thương Phượng Cửu chút nào, Phượng Cửu chết cóng cũng đáng đời, khóc chết cũng đáng đời, khỏi ốm bị người trói lại đánh đòn cũng đáng đời!”.

Một bàn tay kéo nàng lại quấn chặt như cái kén, nàng cảm thấy một ánh mắt dừng trên người mình một lát, giọng nói kia lại vang lên: “Ta cảm thấy ta không hứng thú với việc trói ngươi lại đánh một trận đâu”. Phượng Cửu nức nở nghĩ điều đó cũng chưa hẳn, mắt khó chịu không mở ra được, vừa thầm nghĩ sao mẫu thân dạo này trở nên lạnh lùng như vậy làm thế nào đây, trận đòn này xem ra không tránh được, khỏi ốm rồi mình đến rừng đào của Chiết Nhan trốn tạm mới là thượng sách. Vậy thì đến lúc đó phải tạo mối quan hệ tốt với Tất Phượng Điểu của tiểu thúc để hắn đưa mình đi mới được.

Đang thầm tính toán như vậy nàng lại thấy mình bị quấn chặt hơn, tiếng bước chân đi xa lát sau lại quay về, chăn lại mở ra một khe, một bình ủ ấm nóng hổi đặt vào lòng nàng, Phượng Cửu ôm bình ủ ấm khẽ sụt sịt hai tiếng nữa rồi chìm vào giấc ngủ.

Sau khi ngủ một giấc no nê, mở mắt ra, trán Phượng Cửu toát mồ hôi lạnh, khi nàng ốm có lúc thần trí không tỉnh táo sẽ có tật gì nàng rất rõ, nhưng cảnh tượng đập vào mắt vẫn vượt quá phạm vi chịu đựng của nàng. Lúc này Phượng Cửu xiêm y xộc xệch gục trên đùi một người, tay ôm chặt eo người đó, hai người đang ở trên một chiếc giường cực kỳ lộng lẫy với mấy lớp rèm sa trắng vây quanh, phía trong rèm lại có hai bức bình phong, trên tấm thảm lụa dưới chân bình phong là lư hương hình kỳ lân, hương an thần giúp ngủ ngon từ miệng kỳ lân chầm chậm tỏa ra. Chỉ là chỗ ngủ cũng có thể rảnh rỗi mà tốn thời gian bài trí như vậy, kiểu người này nàng chỉ biết hai người, một là thượng thần Chiết Nhan ở rừng đào mười dặm, một người là Đông Hoa Đế Quân của cung Thái Thần.

Tiếng giở sách sột soạt vang trên đầu nàng, Phượng Cửu lặng lẽ ngước mắt nhìn thấy kim ấn của kinh Phật trên bìa sách, mấy sợi tóc trắng xõa xuống trước mặt nàng. Mồ hôi lạnh trên trán nàng toát ra càng nhiều, trước khi một giọt rơi xuống thì tiếng nói từ sau trang sách đã vang ra: “Đừng sợ, ta không làm gì ngươi, trong lúc ngủ ngươi tự bám lấy ta, lại thấy nóng nên đã tự nới lỏng cổ áo”. Cuốn kinh Phật được dịch sang một bên, quả nhiên là Đông Hoa Đế Quân, người mà gần đây nàng không muốn trêu vào.

Phượng Cửu đờ đẫn nằm bò trên người chàng “ừ” một tiếng, kêu xong chân tay cứng đờ dịch khỏi người chàng. Lúc này giả chết là hạ sách, sự nhẫn nại của Đông Hoa nàng đã lĩnh giáo từ lâu. Một chuyện xấu hổ như vậy, đàng hoàng chịu xấu mặt có lẽ còn cứu vãn được vài phần thể diện. Mặc dù nếu nàng tỉnh táo tuyệt đối không mong người cứu mình là Đông Hoa, giờ lại nợ chàng một đại ân, nhưng người ta khi hôn mê cũng không có tư cách lựa chọn ân nhân cứu mạng, thế là tự nhiên phải nợ một cái ơn rồi. Nàng ôm chăn nhích về phía góc giường đối diện, thầm tính khoảng cách này khá là phù hợp để nói chuyện, nghĩ một lát bèn lựa lời nói: “Lần này Đế Quân lại cứu tiểu bối, tiểu bối cảm kích tự đáy lòng, nếu không tiểu bối đã chết trong sơn cốc này chưa biết chừng, coi như Đế Quân lại cứu mạng tiểu bối lần nữa, đương nhiên nếu nửa năm trước Đế Quân không đưa tiểu bối đến núi Phù Vũ, tiểu bối cũng không đến nỗi rơi vào cảnh ngộ hôm nay, nhưng chung quy... chung quy lần này vẫn là Đế Quân cứu mạng tiểu bối, đại ân này quá lớn không thể chỉ nói cảm ơn là đủ, nên tiểu bối cũng không cảm ơn nữa, hai chuyện này chúng ta coi như hòa, Đế Quân ngài thấy thế nào?”.

Đầu óc Đế Quân rõ ràng rất tỉnh táo, chàng co chân, chống cánh tay nhìn nàng: “Vậy còn chuyện nửa năm ta không đến cứu ngươi mà ngươi vẫn luôn để bụng và chuyện biến thành chiếc khăn lừa ngươi thì sao?”.

Phượng Cửu thầm nghĩ, chàng vẫn còn dám nhắc tới hai chuyện đó thật quá to gan, ho một tiếng nói tiếp: “Hai chuyện đó...”. Hai cái nhọt đó trong lòng nàng đương nhiên không thể một sớm một chiều tiêu tan.

Phượng Cửu chỉnh sửa lại xiêm áo, mấy hôm trước khi mới gặp lại Đông Hoa, quả thật nàng rất kích động, còn dễ nổi đóa khi bị chàng trêu, có điều tính nàng xưa nay xả được giận là tâm trạng dễ chịu hơn nhiều. Lại thêm mấy ngày này được biết rất nhiều tin chưa từng biết, khả năng nhìn nhận sự việc của nàng bất giác cao hơn hẳn một bậc, có thể trả lời câu hỏi của Đông Hoa từ một độ cao khác: “Vạn sự có nhân có quả, Đế Quân Phật pháp cao thâm đương nhiên hiểu đạo lý trong đó hơn Phượng Cửu, hai chuyện này tiểu bối nhìn nhận thế nào chẳng qua cũng là một cách nhìn nhận mà thôi”.

Nói đến đó thần sắc nàng hơi phức tạp, nói tiếp: “Thực ra tiểu bối có vấn đề muốn hỏi Đế Quân hơn hai chuyện đó. Tiểu bối cũng biết khi ốm đau tiểu bối có phần thất thường, nhưng nếu như tiểu bối...”. Nàng dừng lại, nghiến răng tiếp tục: “Có lẽ khi ốm tiểu bối sợ lạnh, coi Đế Quân là cái lồng sưởi thơm liền xáp vào, nhưng nếu Đế Quân đẩy ra một lần, tiểu bối nhất định sẽ không xáp vào nữa, khi ốm đau đầu óc không tỉnh táo, tiểu bối xáp lại gần, tại sao Đế Quân không đẩy ra, nhất nhất quyết chờ tiểu bối xấu mặt chứ?”.

Thần sắc Đông Hoa vô cùng thản nhiên, dường như còn hơi nghi hoặc với câu chất vấn của nàng: “Ngươi chủ động lao vào lòng ta, ta thấy chuyện đó rất là hiếm có, về lý mà nói tại sao phải đẩy ra?”.

Phượng Cửu nhìn ngón tay chàng hờ hững gõ lên cuốn kinh Phật, không hiểu cái lý mà chàng vừa nói rốt cuộc là cái lý gì, nghẹn họng hồi lâu mới nghĩ ra một câu: “Tiểu bối còn nhớ trước đây Đế Quân không phải là người trọng lý lẽ như vậy...”.

Khói thơm từ lư hương trên thảm tỏa ra nhạt dần, Đông Hoa đứng lên mở nắp lư, vừa cho thêm hương hoàn vào vừa ung dung nói: “Khi ta không muốn nói lý thì không nói, khi muốn thỉnh thoảng ta cũng nói một chút”.

Phượng Cửu cúi đầu nhìn chàng, chưa nghĩ ra nên tiếp lời thế nào, bất luận là hồ ly hay người khi nàng và Đông Hoa bên nhau quả nhiên đều khó nói chuyện như vậy. Nàng đoán chắc lần này mới tỉnh dậy sau cơn bạo bệnh, tinh thần sa sút, cứ muốn phân cao thấp trong trận khẩu chiến này e là cuối cùng mình cũng thiệt thòi, đành giận dỗi ngậm miệng, gãi mũi, trong lúc đó lại đưa mắt nhìn quanh, thấy phía trước bình phong còn để một bình mai gầy. Đâm xiên mọc xẹo quả nhiên là phong cách của Đông Hoa.

Không biết nàng ngủ đến giờ nào, chắc là thời gian không ngắn, nghĩ đến đó nàng thấy hơi lo Tiểu Yến sẽ đi tìm, nhân lúc Đông Hoa gạt gọn tro hương liền tìm đôi giày dưới chân giường xỏ vào, định cáo từ. Nhưng cứ vén màn bỏ đi như vậy rõ ràng không hợp lễ giáo cho lắm, thầm lẩm bẩm vẫn nên cảm ơn một câu, thế là ho một tiếng, khách khí nói: “Bất luận thế nào lần này được Đế Quân chăm sóc Phượng Cửu sẽ ghi tạc trong lòng, bây giờ cũng muộn rồi, cũng làm phiền Đế Quân quá nhiều, xin cáo từ”. Đông Hoa thủng thẳng đáp: “Ờ” rồi cất thìa múc hương, nói: “Nghe nói hồi nhỏ có lần ngươi đi đêm bị rơi vào ổ rắn, từ đó không bao giờ dám đi đêm nữa, không biết ngươi có nhìn kỹ sắc trời bên ngoài không, đã tối rồi...”.

Màn trướng vừa hé ra liền lập tức bị khép chặt lại, trong chớp mắt, Đông Hoa vừa cho thêm hương vào lư đã bị Phượng Cửu đè ngã xuống giường. Chàng ngớ người: “Có phải phản ứng của ngươi hơi quá khích?”. Từ cuối cùng vừa nói ra, miệng đã bị nàng bịt chặt. Phượng Cửu đè chàng ngã xuống giường vẻ mặt vừa nghiêm nghị vừa nghiêm trang, lại có chút căng thẳng mà có thể chính nàng cũng không nhận ra, áp sát vào chàng nói bằng khẩu hình: “Đè Đế Quân thế này không phải là ý định của Phượng Cửu, Đế Quân nhẫn nhịn một chút đừng phản kháng gây ra tiếng động nào, vừa rồi tiểu bối nhìn thấy có bóng người lướt qua ở bên ngoài, hình như là công chúa Cơ Hoành, không biết có phải công chúa định vào đây không?”.

Đè ngã Đông Hoa quả thật không phải là ý định của Phượng Cửu, vừa rồi khi nàng hé rèm cửa, bất ngờ nhìn thấy bên ngoài bức rèm châu ngăn cách gian trong và gian ngoài có một bóng người áo trắng lướt qua, không biết có phải đã nép ở đó một thời gian rồi không, thoạt nhìn rất giống Cơ Hoành. Cũng may tẩm phòng của Đông Hoa đủ rộng, ở giữa còn cách một hồ nước nóng bốc hơi nghi ngút, những câu trao đổi vừa rồi của họ có lẽ Cơ Hoành không nghe thấy. Cái bóng giống Cơ Hoành lướt qua làm Phượng Cửu giật mình, một cách bản năng muốn quay lại bịt miệng Đông Hoa đang nói chuyện để khỏi bị Cơ Hoành phát hiện, nhưng quay người quá gấp, vướng vào tấm thảm dưới chân, chồm đến như hổ đói vồ mồi làm Đông Hoa đang không chút đề phòng ngã ra giường.

Đông Hoa nhướn mày nhấc tay nàng ra, nhưng vẫn cố gắng phối hợp với nàng, hạ giọng hỏi nhỏ: “Vì sao Cơ Hoành đi vào chúng ta không thể gây tiếng động?”.

Phượng Cửu thầm nghĩ, nửa đêm canh ba Cơ Hoành có thể vào tẩm cư của chàng cho thấy hai người có quan hệ không bình thường, nếu phát hiện mình vừa ra khỏi giường của chàng không biết nàng ta sẽ gây ra trận mưa máu gió tanh thế nào. Mấy ngày trước Manh thiếu gia xem hoàng lịch, bảo mình dạo này đang có sao hạn trên đầu cần lưu ý một chút, tình huống này không lưu ý thì lúc nào lưu ý? Mặc dù lòng nghĩ vậy, thốt ra miệng lại là một câu chẳng liên quan, giọng nàng vẫn rất nhỏ, nói ra trong tình cảnh này tự nhiên thêm vài phần trang trọng không phù hợp lắm với tuổi của nàng: “Đã có duyên phận thì nên trân trọng, hiểu lầm nếu có thể tránh nên cố tránh, trước đây khi tiểu bối thích một người, muốn xin ông trời một chút duyên phận cũng không được, trưởng bối chắc không biết duyên phận là chuyện khó khăn thế nào đâu”.

Bây giờ nàng có thể bình tĩnh nói ra những lời đó trước mặt Đông Hoa bản thân nàng cũng sững ra, cúi đầu nhìn Đông Hoa bị đè, bị bịt miệng lâu như vậy mà vẫn giữ phong độ hoàn mỹ quả thật không dễ, hơi xấu hổ dịch người vào trong giường để chàng đỡ bị đè nặng, đồng thời dỏng tai nghe tiếng động bên ngoài.

Đông Hoa bình tĩnh nhìn nàng một hồi, đột nhiên nói: “Ta cảm thấy hình như ngươi có gì hiểu lầm ta?”. Chữ cuối cùng vừa dứt, miệng chàng một lần nữa bị Phượng Cửu mau lẹ bịt chặt.

Nàng dỏng tai nghe, tiếng bước chân mỗi lúc một gần, Phượng Cửu vừa bịt miệng Đông Hoa vừa thầm khâm phục mắt mình tinh tường, quả nhiên Cơ Hoành đang ở bên ngoài, nhưng nàng ta lại đi vào thật khiến nàng vẫn không khỏi kinh ngạc. Trong rèm, ánh nến sáng choang, cảnh tượng này chỉ cần không phải người mù đều nhìn ra Đông Hoa chưa ngủ, cũng không biết Cơ Hoành định làm gì. Quan hệ giữa hai người lẽ nào đã đến... mức đó? Lẽ nào Cơ Hoành muốn làm một việc thú vị, mang lại cho Đông Hoa một niềm vui bất ngờ là nửa đêm canh ba đến vén rèm giường ngủ của chàng? Phượng Cửu đang thất kinh, tay do vậy cũng run run, nhưng dù thất kinh vẫn nhớ phân tâm đưa mắt ra hiệu cho Đông Hoa tạm thời bảo Cơ Hoành đi khỏi đây. Trong chớp mắt nàng cảm thấy đất trời đảo lộn, lúc định thần trở lại không hiểu thế nào đã thành nàng ở dưới, Đông Hoa ở trên.

Tiếng động phát ra không nhỏ, bước chân bên ngoài hơi ngập ngừng. Phượng Cửu cố đánh mắt ra hiệu với Đông Hoa, mấy lọn tóc trắng của chàng rủ xuống, thần sắc chàng không có vẻ gì lo lắng hai người sắp bị phát hiện, một tay giữ Phượng Cửu, tay kia sờ trán nàng, động tác hơi cứng nhưng giọng nói lại dịu dàng: “Làm loạn đủ rồi chứ? Đủ rồi thì nằm yên, ta đi lấy thuốc cho”. Nhưng tệ ở chỗ giọng nói hoàn toàn không hạ thấp, người bên ngoài cách hồ nước nóng cũng có thể nghe thấy. Phượng Cửu tuyệt vọng rên rỉ vậy là hết, nếu Cơ Hoành khóc lóc làm ầm ĩ lên thì nàng làm sao chống đỡ nổi, thôi, mau chóng chuồn là hơn. Nhưng Đông Hoa trước khi xuống giường còn thất đức kéo chăn quấn chặt nàng, lại còn dùng phép cấm chế, bị chăn quấn chặt, dù nàng thả sức vùng vẫy cũng không thể thoát ra.

Khoảnh khắc Đông Hoa vén rèm đi ra, Phượng Cửu thầm đếm: một, hai, ba, Cơ Hoành chắc chắn sắp khóc, sắp khóc, sắp khóc rồi, rèm vừa vén lại khép ngay, nửa vạt ánh sáng từ bên ngoài chiếu vào, chỉ có tiếng Đông Hoa căn dặn bên ngoài: “Ngươi đến thực đúng lúc, giúp ta trông nom người trong phòng”. Người trả lời “vâng” rõ ràng chính là Cơ Hoành, nhưng trong tình cảnh này Cơ Hoành lại không khóc lóc, cũng không làm ầm ĩ, cũng không nặng lời một, hai câu, điều đó càng khiến nàng muôn phần bối rối, Cơ Hoành kiên cường đến thế sao? Đông Hoa cư xử như vậy trước mặt ý trung nhân rốt cuộc có ý đồ gì? Phượng Cửu bị ủ trong chăn, đầu óc nhất thời vô cùng hỗn độn.

Về sau nàng đem sự việc không thể lý giải đó chia sẻ với Yến Trì Ngộ nhờ chàng ta phân tích. Yến Trì Ngộ liền nói ngay ra được bản chất vấn đề: “Mỗ biết ngay là Mặt lạnh thực ra không rộng lượng như vậy, hắn đồng ý cho Cơ Hoành qua lại với mỗ nhưng trong vẫn ghi hận, cho nên trút hết sự ghen tuông đó lên Cơ Hoành”.

Phượng Cửu tỏ ý không hiểu, Tiểu Yến nhẫn nại giải thích: “Muội xem, Mặt lạnh cho Cơ Hoành biết trên giường của hắn còn có một mỹ nhân bội phần kiều diễm. Mỹ nhân này vừa rồi còn vô cùng phong tình làm nũng với hắn. À, mỹ nhân bội phần kiều diễm đó chính là muội. Thực ra Mặt lạnh chỉ muốn làm tổn thương Cơ Hoành, bởi Cơ Hoành qua lại với mỗ cũng làm tổn thương hắn. Có thể thấy tình của Mặt lạnh với Cơ Hoành rất sâu nặng, nhất định phải làm tổn thương nàng mới có thể xoa dịu tình cảm của hắn. À, cái từ ‘tình cảm’ này dùng thế đúng không? Đợi mỗ tra sách đã. Này này, đừng nhìn mỗ như thế, trong rất nhiều truyện người ta viết vậy mà!”.

Tiểu Yến nói đến đây mỉm cười dữ tợn: “Mặt lạnh càng đối xử như vậy với Cơ Hoành mỗ càng có nhiều cơ hội đoạt lại Cơ Hoành từ tay hắn. Mỗ cảm thấy càng ngày mình càng có cơ thắng”. Phải nói rằng Tiểu Yến sinh ra trong bộ dạng này đúng là bi kịch, ngay khi cười dữ tợn, mắt lộ hung quang vẫn đẹp như hoa như ngọc. Phượng Cửu buột miệng khuyên chàng: “Huynh đừng như thế, Phật nói thà dỡ một ngôi chùa cũng không phá một mối lương duyên”. Tiểu Yến hơi lung lay, thốt lên: “Ờ, muội nói cũng phải, nếu phá thì hậu quả thế nào?”. Phượng Cửu ngẫm nghĩ: “Hình như cũng không có hậu quả gì. Thôi mặc, huynh muốn phá thì phá đi”. Đoạn đối thoại trí tuệ này kết thúc ở đây.

Phượng Cửu cảm thấy cách giải thích của Tiểu Yến về logic thực ra không ổn, nhưng về tình lý lại rất xác đáng, nhưng chuyện tình cảm xưa nay làm gì có logic, phân tích của Tiểu Yến cũng coi như đáng tin. Có điều kết cục của ngày hôm đó là nhân lúc Đông Hoa lấy thuốc chưa quay lại, Phượng Cửu nhanh trí biến thành hồ ly chui khỏi chiếc chăn giam giữ nàng, đẩy rèm ra chuồn trước một bước. Ra đến hồ nước nóng liền bị Cơ Hoành ngăn lại, nàng nhìn thấy cặp môi tái nhợt trên khuôn mặt vốn tái nhợt của nàng ta lập tức trở lại bình thường trong giây phút nhìn thấy nàng, dường như có chút thất thần tự nhủ: “Thì ra chỉ là một con hồ ly, mình cả nghĩ rồi”. Lúc đó nàng không hiểu hàm ý câu nói đó của Cơ Hoành, chỉ tranh thủ chuồn thật nhanh ra ngoài. Gần đây qua phân tích này của Tiểu Yến, nàng mơ hồ hiểu ra câu nói đó của Cơ Hoành. Xem chừng nàng đã phá hỏng kế hoạch của Đông Hoa khiến chàng cuối cùng không thực hiện được ý đồ làm tổn thương Cơ Hoành. Trong tình yêu lại có nhiều tâm tư vòng vo lắt léo ngoắt ngoéo như vậy, những tâm tư này lại vòng vèo kết nối móc ngoặc vào nhau, năm xưa nàng chưa học được chút nào mà cũng dám đến cung Thái Thần chinh phục Đông Hoa, chỉ có thể nói là hoàn toàn dựa vào lòng can đảm, cuối cùng quả nhiên thất bại, hôm nay mới biết có thể còn có những đạo lý sâu xa như vậy.
 
Trạng thái
Không mở trả lời sau này.
Top