Lượt xem của khách bị giới hạn

[Huyền huyễn] [Truyện Hoàn] Tam Sinh Tam Thế Chẩm Thượng Thư - Đường Thất Công Tử

Trạng thái
Không mở trả lời sau này.
[Huyền huyễn] [Truyện Hoàn] Tam Sinh Tam Thế Chẩm Thượng Thư - Đường Thất Công Tử
Tham gia
6/7/19
Bài viết
101
Điểm cảm xúc
41
Điểm
28
01.

Mùng bảy tháng tư, ngày Quất Nặc bị hành hình đã đến rất nhanh.

Phượng Cửu còn nhớ mang máng cô cô Bạch Thiển của nàng đã từng đọc cho nàng nghe một câu thơ của phàm nhân, ý muốn bồi dưỡng khí phách cho nàng. Câu thơ này thể hiện khí phách rất lớn: “Mạc sắc thương mang khán kính tùng, loạn vân phi độ nhưng tòng dung[1]”.

[1] Ý nghĩa của câu thơ: Cây tùng đứng hiên ngang mạnh mẽ giữa đất trời, dù mây mù cuồn cuộn bay tới nó vẫn ung dung đứng thẳng.

Phượng Cửu cảm thấy tiếc vì cô cô không nhìn thấy được khí phách ung dung hiên ngang của mình trên Linh Sơ đài hành hình Quất Nặc. Mặc dù khí phách đó của nàng thực ra là do bị ép buộc mà ra.

Nghe nói cây thánh đao đó rất kén ăn, từ trước đến giờ không uống thứ gì khác ngoài máu tươi, kế sách ném túi máu vào cây thánh đao của nàng xem ra không thể thực hiện được, sự việc đã đến nước này rồi, đành phải cố mà xông lên thôi.

Có điều, nàng bất chấp tất cả để dũng cảm chiến đấu với mãnh hổ và dùng mưu trí đấu với Thượng Quân, mặc dù khi nắm tay vào lưỡi đao, mồ hôi lạnh trên trán nàng đã túa ra như mưa, nhưng may mà không giữa đường đứt gánh, cứu được đôi uyên ương trên đài một cách oai phong, cũng coi như nổi tiếng một lần.

Chỉ có một việc duy nhất đáng tiếc là khi còn ở đầm Thủy Nguyệt, nàng đã quên không nói trước với Tức Trạch.

Tuy nhiên may mà mấy ngày gần đây chắc Thượng Quân cũng không tìm được chàng ta. Hôm đó, khi nàng và Tức Trạch chia tay trước lối rẽ vào đầm Thủy Nguyệt, Tức Trạch nói rằng chàng ta phải đi xa một chuyến, mười ngày sau sẽ trở về Kỳ Nam Thần Cung, nếu có việc gì có thể tới thần cung tìm chàng ta.

Nàng suy nghĩ trong giây lát, cảm thấy trước tiên cần lưu lại một phong thư, đợi khi Tức Trạch quay trở về thân cung lập tức sai Trà Trà mang tới đó, để chuyện nói dối lần này được trót lọt, chuyện này mới chính thức kết thúc được.

Hơn nữa, ngoài việc viết bức thư này cho Tức Trạch, còn phải viết thư cho Trầm Diệp nữa.

Mà không phải chỉ một bức thư, mà là rất nhiều bức thư.

Nàng nhìn bàn tay phải của mình bị bao bọc giống như một chiếc bánh màn thầu nhân thịt, vô cùng đau đầu thở dài một tiếng.

Phượng Cửu đương nhiên hiểu rằng, A Lan Nhược liều mình cứu Trầm Diệp trên Linh Sơ đài tuyệt đối không phải chỉ vì muốn chọc giận phu quân của nàng ấy.

Theo lời của Mạch thiếu gia nói, tính cách của A Lan Nhược rất hay thay đổi, có lúc trầm ngâm yên lặng, có lúc phấn khởi nồng nhiệt, lúc lại tinh nghịch hiếu động, nhưng nếu tìm hiểu sâu một chút, thực ra nàng ấy là một người yêu ghét hết sức rõ ràng. Ví dụ Thượng Quân và Quân Hậu từ nhỏ đã không yêu quý nàng ấy, nàng ấy cũng không quý mến bọn họ. Mạch thiếu gia đối tốt với nàng ấy từ nhỏ, nàng ấy luôn ghi sâu ân tình đó trong lòng. Nhưng tại sao Trầm Diệp từ trước đến giờ đều không thích nàng ấy, nàng ấy lại vẫn gieo gốc tình với chàng ta trên Linh Sơ đài, điều này quả thực rất khó lý giải.

Hoặc giả nói mọi tình cảm dưới gầm trời này đều có nguyên nhân của nó, nhưng riêng tình cảm nam nữ lại nảy sinh không theo bất kỳ một đạo lý nào, khi nó phát tác lại có thể lấy đi cả tính mạng của con người.

Trước đây, sau khi Quất Nặc thụ hình trên Linh Sơ đài, sự việc sau đó rốt cuộc như thế nào?

Theo như lời Tô Mạch Diệp nói, ngày hai mươi tám tháng tư, Trầm Diệp một mình vào trong phủ của A Lan Nhược, được lão quản gia sắp xếp cho nghỉ tại đình viện phụ. A Lan Nhược buổi sáng luyện viết chữ, buổi chiều nghe hát, đêm xuống lại cùng Mạch thiếu gia phân tích mấy câu huyền cơ, không tới gặp chàng ta. Ngày hôm sau thủ trong tay áo mấy cuốn sách, nhàn nhã chơi cả ngày trời ở thuỷ các, cũng không tới gặp chàng ta. Hôm sau nữa trời mưa âm u, thuỷ các không phải là nơi lý tưởng để đến, bèn bày bàn cờ trong hoa sảnh nghiền ngẫm, cũng không tới gặp chàng ta.

Đêm xuống, lão quản gia tới bẩm báo, nói rằng ngày đầu tiên lão đã chuyển lời tới thần quan đại nhân đúng như lời dặn của công chúa rằng ngài ấy là khách quý tới phủ này, nếu đình viện không hợp ý của ngài ấy, trong phủ vẫn còn một vài đình viện có thể dành cho ngài ấy, những lúc rảnh rỗi trừ khuê phòng của công chúa ngài ấy có thể tuỳ ý đi dạo trong phủ để ngắm cảnh cho thư giãn.

Nhưng ba ngày qua, thần quan đại nhân lại không hề rời khỏi đình viện nửa bước, hơn nữa có thể thấy tâm trạng của ngài ấy thực sự không tốt, thường xuyên cau mày.

Hơn nữa lão quản gia mặc dù đã làm theo lời dặn dò của công chúa, tới thần cung thăm dò trước về khẩu vị của thần quan đại nhân, nhưng những món ăn được làm theo khẩu vị đó, ngài ấy cũng ăn rất ít.

Không biết phải xử lý tình thế này như thế nào, lão quản gia đành tới bẩm báo.

Lão quản gia chắp tay trong áo, dỏng tai nghe lời dặn dò của nàng. A Lan Nhược trầm tư giây lát, tiện tay cầm một tập giấy trắng, mài mực cầm bút, viết một bức thư.

Đây là bức thư đầu tiên mà nàng viết cho Trầm Diệp.

A Lan Nhược tổng cộng đã viết cho Trầm Diệp hai mươi bức thư. Khi cắt đứt với Trầm Diệp, những bức thư này bị trả lại cho nàng, sau khi nàng qua đời, chúng lại được chuyển đến tay Tô Mạch Diệp, tuy nhiên, hai mươi trang giấy đó đã bị chàng ta thiêu rụi trước linh vị của A Lan Nhược.

Tình cảm nửa đời người, chỉ như một làn khói mỏng.

Nhưng đến tận bây giờ Mạch thiếu gia vẫn có thể nhắc lại nhiều câu viết trong thư, ví dụ như phần mở đầu của bức thư đầu tiên: “Vừa nghe có khách mới chuyển đến Mạnh Xuân viện, xin gửi thiệp tới bái chào. Trước đây ta đã từng làm khách trong viện suốt ba năm, e rằng không có người tới ở, tiểu cảnh trong viện sẽ héo mòn, nay nghe nói thần quân đến ở, trong lòng ta cảm thấy rất vui mừng”.

Trong thư nàng giả làm một nữ tiên sinh từng làm khách trong phủ công chúa, năm ngoái đã ra khỏi phủ để vào tông học của vương tộc, khi nhàn rỗi thích pha trà, uống rượu, khi còn làm khách trong Mạnh Xuân viện, đã chôn rất nhiều rượu ngon ở đó, đặc biệt là một vò rượu mơ chôn ở dưới Ba Tâm đình. Nàng đã ra khỏi phủ, không có phúc được hưởng, liền tặng lại vò rượu ấy cho chàng, nghĩ tới việc làm khách nhà người luôn khiến người ta cảm thấy đau lòng, mong rằng chàng có thể mượn chút rượu đó để an ủi tinh thần.

Bức thư kết thúc ở đây, câu nào cũng đều rất nhẹ nhàng, cũng không nói thêm gì nữa.

Khi đề tên, nàng viết hai chữ Văn Điềm.

Văn Điềm quả đúng là một tài nữ trong tông học, năm xưa cuộc sống nghèo khó, nhờ tài danh học vấn mới được thu nạp vào cửa phủ của nàng, nàng nhờ Tức Trạch tiến cử mới vào được tông học. Tuy nhiên, Văn Điềm chưa từng ở Mạnh Xuân viện.

Đặt tên là Mạnh Xuân vì mỗi độ đầu xuân, cảnh trí trong điệp viên đẹp nhất. Mỗi mùa xuân đến, A Lan Nhược đều tới đó ở một thời gian, trồng vài cây trà, ủ vài vò rượu mới.

Thư được phong kín, lão quản gia cung kính nhận phong thư, A Lan Nhược chợt nhớ ra điều gì, dặn dò: “Nếu Trầm Diệp hỏi bức thư này từ đâu gửi tới, hãy nói là một vị tiên sinh trong tông học nhờ ngươi mang đến, về phần ta, nửa chữ cũng không được nhắc tới”.

Lão quản gia cúi đầu vâng lời, trong lòng nghi hoặc nhưng không hề thể hiện ra bên ngoài. A Lan Nhược tự rót cho mình một ly trà, nói tiếp: “Nếu biết đó là thư do ta viết, dù nửa chữ chàng cũng không đọc. Bị giam lỏng ở đó, quả thực rất buồn phiền, có một người nói chuyện với chàng, cũng coi như có chút an ủi. Người có thể nói chuyện với chàng, ta đoán cũng không nhiều, chắc cũng chỉ có mấy vị tiên sinh trong tông học thì chàng mới coi trọng một chút”.

Phong thư mạo danh Văn Điềm này quả nhiên đã phát huy tác dụng. Ngày thứ ba sau khi bức thư được gửi đi, theo lời bẩm báo của lão quản gia, trong hai ngày liền, thần quan đại nhân đã ăn được nhiều hơn mấy ngày trước. Tối qua, sau khi dùng bữa, Thần Quan đại nhân còn tới Ba Tâm đình đi dạo một chút, đám người dưới không dám đến quá gần ngài, nhưng thời gian ngài dừng lại ở đó cũng không dài, khi trở về đã viết một bức thư trả lời, lệnh cho lão quản gia đưa tới cho Văn Điềm tiên sinh ở tông học.

A Lan Nhược mở phong thư, cũng là một tờ giấy màu trắng, Trầm Diệp viết chữ rất đẹp, nội dung lại rất đơn giản, chỉ tỏ ý cảm ơn. Nếu là người bình thường, một bức thư đơn giản thế này, phần lớn chỉ là lễ tiết lấy lệ. Nhưng bởi tính cách của Trầm Diệp. Nếu thật sự là muốn làm lấy lệ, không trả lời thư mới là cách hành xử của chàng. Khoé môi của A Lan Nhược khẽ cong lên, một ý cười nở trong ánh mắt. Lão quản gia hiểu ý vội vàng trình giấy bút và nghiên mực, thúc giục chủ nhân cất bút.

Trong bức thư thứ hai, nàng nhắc tới thư phòng trong Mạnh Xuân viện, ý muốn giúp chàng giết thời gian. Sách được lưu giữ trong thư phòng đó thực ra còn phong phú hơn cả thư phòng mà nàng đang sử dụng, tất cả cũng đều do đích thân nàng sắp xếp, hơn nữa, buổi tối trước ngày Trầm Diệp tới, lại được bổ sung thêm một vài quyển sách mới. Trong số sách ở đó, nàng đặc biệt yêu thích mấy quyển sách du ký, ngôn ngữ mạnh mẽ hào hùng như sóng dâng trào, vì vậy lời phê chú trên đầu sách của nàng cũng có hơi khác. Nàng đặt chúng ở ngăn dưới cùng của giá sách, thực ra bình thường không ai chú ý tới.

Nàng đương nhiên cũng không viết rõ về những chuyện đó trong thư, chỉ giới thiệu cho chàng vài cuốn sách cổ quý giá, khi nhận được thư trả lời của chàng, bức thư của chàng dài thêm được hai câu, nói rằng phần phê chú trên mấy quyển sách du ký khá thú vị, nhìn bút tích giống như là bút tích của nàng, lại giới thiệu hai cuốn sách du ký mà chàng yêu thích cho nàng.

Sau đó có một ngày, Tô Mạch Diệp bày một thế cờ có tên gọi là Thiên Thư Hội cho nàng phá giải, nàng nhọc công suy nghĩ nhưng vẫn không ra kết quả, vừa hay lúc đó lão quản gia trình lên bức thư thứ sáu của Trầm Diệp, nàng tiện tay vẽ thế cờ này vào trong thư. Ngay buổi chiều ngày hôm đó liền nhân được bức thư thứ bảy của chàng. Hai trang thư, một trang là thế cờ của Tô Mạch Diệp đã được phá giải, trang kia chàng vẽ một thế cờ khác cho nàng phá giải.

Đến cuối mùa xuân, lời lẽ trong thư của chàng đã ngày một nhiều hơn, mặc dù vẫn lạnh nhạt, nhưng đã có nhiều khác biệt so với sự xa cách ban đầu.

Theo lời bẩm báo của lão quản gia, gần đây mặc dù không đoán biết được biểu hiện trên khuôn mặt của thần quan đại nhân nhưng tâm trạng của ngài ấy đã vui vẻ phấn chấn hơn trước một chút, ngài ấy vẫn chưa ra khỏi cổng Mạnh Xuân viện, nhưng lúc thì nghiền ngẫm phá giải các thế cờ, vẽ kỳ phổ, hoặc mang sách ra Ba Tâm đình ngồi đọc, hoặc đi đi lại lại trong viện. Chỉ riêng hành động cuối cùng - đi đi lại lại trong viện, lão quản gia không đoán biết được thần quan đại nhân đang làm gì.

Nhưng A Lan Nhược lại biết Trầm Diệp đang làm gì, trong một phong thư chàng đã nhắc qua về chuyện này, chàng tìm được một vò rượu mà nàng chôn trước đây, đựng vào trong bốn bình sứ trắng, đêm xuống vừa đánh cờ vừa uống hết nửa bình, đoán rằng nàng đã ủ rượu bằng các loại quả mọng được tắm sương thu, phong kín lại chôn dưới đất suốt ba mùa, lại lấy hạt cải mọc vào mùa thu hong khô, cho vào trong rượu khoảng nửa tháng để lấy hương thơm, sau đó lại phong kín, chôn xuống đất thêm hai năm, hỏi nàng xem có đúng như vậy không?

Đương nhiên, chàng đã đoán không nhầm, đã nói rất đúng. Cùng với phong thư, lão quản gia còn trình lên một bình sứ trắng, nói rằng thần quan đại nhân dặn đưa bình rượu này cho Văn tiên sinh.

Đó là bức thư trả lời thứ hai mươi của Trầm Diệp.

Một đêm không trăng, gió thổi ào ạt, A Lan Nhược tay cầm bình sứ trắng đi tới bên ngoài Mạnh Xuân viện, tung người một cái, nhảy lên cây long não già bên ngoài viện.

Cây long não này vừa hay đối diện với phòng của Trầm Diệp, trong phòng còn một ngọn đèn chưa tắt, soi rõ bóng dáng nghiêng nghiêng của chàng bên cửa sổ. A Lan Nhược chọn một chạc cây vững chắc, nằm xuống, mở nắp bình rượu, vừa uống vừa nhìn về phía ô cửa sổ khép chặt.

Rượu mới uống được một nửa, tình cờ lại gặp Tô Mạch Diệp đi chơi đêm trên cây long não, nhàn tản tọa lạc trên một chạc cây bên cạnh nàng, mở miệng nói một tràng dài: “Vi sư dạy bảo ngươi đã mấy chục năm, những thứ khác ngươi học hành qua quýt cũng có thể bỏ qua, tinh hoa của hai chữ phong lưu lại cũng không học được, chiêu thư từ qua lại, còn có thể chấp nhận được, còn việc nhớ người rầu rĩ một mình uống rượu này quả thực rất hèn nhát”.


A Lan Nhược đang nằm thoải mái, lười không buồn cử động, nói: “Sư phụ nói sai rồi. Việc uống rượu một mình, nếu thiên không thời, địa không lợi, nhân không hòa, khi thực hiện đều có vẻ cố ý. Còn đêm nay, một người bất đắc dĩ như con, ở một nơi bất đắc dĩ như thế này, trong một tâm trạng bất đắc dĩ, làm một việc bất đắc dĩ, lại tự nhiên như mặt trời mọc mặt trăng sẽ lặn, hoa nở rồi hoa sẽ tàn”. Nàng bật cười, giơ bình rượu lên, lắc lắc: “Như vậy là hèn nhát hay là phong lưu? Tất nhiên là phong lưu rồi”.

Hai chữ phong lưu vừa thốt ra khỏi miêng, ô cửa sổ nhỏ phía đối diện chợt mở tung, bóng người màu đen nhanh chóng đi ra. Mi mắt của A Lan Nhược khẽ động đậy. Khi Trầm Diệp đứng trên bức tường phía xa, đối diện với hai người, chiếc bình sứ trắng đã được nàng giấu trong tay áo một cách ổn thỏa.

Vị thần quan áo đen đứng trong gió, còn hai thầy trò nàng, một người nằm, một người ngồi chẳng ra thể thống gì. Trầm Diệp cau mày đưa mắt liếc nhìn hai người, lạnh lùng nói: “Nhị vị đêm khuya tới đây, chắc có điều gì chỉ giáo”. Tô Mạch Diệp đứng dậy trên cành cây: “Chỉ giáo thì không dám, đêm nay cảnh sắc tươi đẹp, mượn quý địa đây để đàm văn luận đạo một chút mà thôi”. Lại nói: “Nghe nói thần quan đại nhân rất tinh thông thiền cơ huyền lý, không biết có ý muốn cùng ngồi luận đạo không?”.

A Lan Nhược phì cười, nói: “Sư phụ muốn thần quan đại nhân ngồi trên tường luận đạo cùng sư phụ sao?”.

Tô Mạch Diệp nghiêm túc nói: “Việc luận đạo, quan trọng là thành tâm, năm xưa nghe nói rằng chim Kim Sí (cánh vàng) bên cạnh Phật Tổ trước khi chưa quy hóa, đã cùng ngộ ra nhân quả ân oán với kẻ thù trên cùng một ngọn cây…”.

Trầm Diệp lại nhìn A Lan Nhược chằm chằm, hỏi một câu không hề liên quan: “Ngươi uống rượu gì vậy?”.

Nàng sững người lại, một lát sau đã lấy lại được thần sắc: “Của một người bạn tặng, tuy nhiên chỉ có một bình nhỏ, ban nãy đã uống hết rồi, đại nhân xuất hiện không đúng lúc rồi”.

Tô Mạch Diệp liếc nhìn hai người, nhướn mày, cười nói: “Người ban tặng rượu này ngày mai sẽ tới phủ chơi, thần quan đại nhân nếu có hứng thú với loại rượu này, ngày mai đích thân tới gặp người bạn đó là sẽ hiểu cả thôi”.

Trầm Diệp nhìn chàng ta: “Người tặng rượu là ai?”.

Chưa đợi Tô Mạch Diệp đáp lời, giọng nói của A Lan Nhược đã bình thản vang lên: “Văn Điềm của tông học, Văn Điềm tiên sinh”.

Khi cái tên đó vừa vang lên, thần sắc lạnh lùng của Trầm Diệp có chút khác thường.

02.

Theo cách nói của Mạch thiếu gia, chuyện lúc đó A Lan Nhược mượn danh Văn Điềm để thư từ qua lại với Trầm Diệp, chàng đã vô tình phát hiện ra. Đêm hôm đó, biết rõ rằng A Lan Nhược đang cố gắng giấu giếm sự việc với Trầm Diệp, vẫn đem chuyện tặng rượu ra nói vài câu, đó là do chàng cố ý làm như vậy.

Lúc đó, chàng không biết mình có tình cảm như thế nào với A Lan Nhược, chỉ cảm thấy rằng nếu nàng muốn có được Trầm Diệp, chàng sẽ giúp nàng toại nguyện. Trong chuyện này, nàng đã suy nghĩ quá nặng nề, một lòng thuận theo Trầm Diệp, quanh co lắt léo đến nỗi khiến chàng không thể trơ mắt ra nhìn. Khi chàng nói ra những lời đó, chỉ nghĩ rằng cần sớm tạo một cơ hội khiến Văn Điềm dứng trước mặt Trầm Diệp, như vậy mới khiến A Lan Nhược sớm đưa ra quyết định.

Hoặc là nàng thừa nhận mình mới là Văn Điềm trong các bức thư ngay trước mặt Trầm Diệp, mọi việc được làm sáng tỏ, mối tình này sẽ như thế nào còn phải chờ xem tạo hóa, nhưng chung quy vẫn còn một cơ hội. Hoặc là nàng tự biến mình thành cây cầu nối giữa Trầm Diệp và Văn Điềm, nhường mối nhân duyên này cho Văn Điềm thật, cắt đứt hoàn toàn tình cảm của mình với Trầm Diệp. Nhưng cho dù là lựa chọn nào, vẫn còn tốt hơn việc kéo dài tình trạng hiện tại.

Mạch thiếu gia cảm thấy, mượn thân phận của người khác tự đau khổ trong một cuộc tình là một việc mà đồ đệ của chàng không nên làm.

Phượng Cửu thầm nghĩ, nếu là nàng, nàng sẽ chọn cách đầu tiên. Tất cả chỉ vì nàng đã từng được nghe một lời đồn đại, nếu làm mối cho người khác hai lần, bản thân mình sẽ khó lấy chồng. Nàng bấm ngón tay nhẩm tính, mình đã làm mối giúp Đông Hoa và Cơ Hoành một lần rồi, nếu làm thêm một lần nữa thì cả đời này coi như xong.

Nhưng A Lan Nhược, có lẽ thực ra đã được gả đi rồi, không cần phải lo lắng cho chuyện sau này, lại có lẽ chưa từng làm mối bao giờ, muốn thử xem nó như thế nào.

Nói tóm lại, sau một đêm ngồi thẫn thờ, nàng đã lựa chọn cách thứ hai. Khi trời mới tờ mờ sáng đã truyền gọi Văn Điềm vào trong phủ, đặt hai mươi bức thư của Trầm Diệp vào tay nàng ấy trong sự kinh ngạc của Văn Điềm. Nàng dặn dò Văn Điềm rất kỹ lưỡng và chu đáo, duy có tình cảm của nàng đối với Trầm Diệp là được giấu kín, bình thản bịa ra một lời nói dối: “Khi Quất Nặc bị đưa ra khỏi Vương đô đã cầu xin ta chăm sóc cho thần quan đại nhân, ngươi biết là ta cũng khá lương thiện, đương nhiên đã nhận lời. Nhưng là ta và ngài ấy từ trước đến giờ nhìn nhau không thuận mắt, những bức thư thăm hỏi nếu đề tên của ta chắc chắn sẽ khiến ngài ấy tức giận, nên mới lấy tên của tiên sinh. Nhưng gần đây trong phủ có nhiều việc, ta cũng có chút lực bất tòng tâm, nên mới mời tiên sinh tới phủ, không biết tiên sinh có chịu nhận trách nhiệm nặng nề là thay ta viết thư thăm hỏi cho thần quan đại nhân được không? Cũng không phải chuyện gì đặc biệt, chẳng qua chỉ là chút thú vui trong cuộc sống lúc nhàn tản mà thôi”.

Trước đây Văn Điềm đã nhận khá nhiều ân huệ nàng, hơn nữa lại là một người hiểu rõ lễ nghĩa, đương nhiên đã nhận lời giúp đỡ, hoàn toàn không chút nghi ngờ lời nói dối của A Lan Nhược.

Nàng nhìn Văn Điềm lật giở từng bức thư của Trầm Diệp, thi thoảng lại tán thưởng vài câu: “Trước đây không hề để ý, hóa ra thần quan đại nhân cũng là một người thú vị, mấy thế cờ đó, rất hay”.

A Lan Nhược mỉm cười, nói: “Tiên sinh tinh thông kỳ nghệ, trước đây, khi còn ở trong phủ, ta đã rất ít khi thắng được tiên sinh, lần này vừa hay có thể giao lưu học hỏi với thần quan đại nhân”. Dừng lại một chút, lại nói: “Tuy nhiên khi tiên sinh trả lời thư cũng cần mô phỏng theo bút tích của ta, lúc đó chưa kịp nghĩ ngợi nhiều, những bức thư ấy mặc dù đề tên của tiên sinh nhưng bút tích lại là của ta”.

Văn Điềm mím môi, nói: “Chuyện này cũng không khó”.

Trong buổi gặp mặt ngày hôm sau, Trầm Diệp quả nhiên đã xuất hiện.

A Lan Nhược vốn không cầu kỳ, nhưng Mạch thiếu gia lại là người rất cầu kỳ, vì vậy bữa tiệc gặp mặt được bố trí trên một đình hóng mắt ở giữa hồ.

Mái đình này là tác phẩm tâm đắc của Mạch thiếu gia. Chỉ có một con đường nhỏ nối liền đình hóng mát với bờ hồ, đình được dựng ở giữa hồ, xung quanh trồng rất nhiều sen, đứng từ xa nhìn lại, mái đình giống như một búp hoa nở giữa tầng tầng lớp lớp lá sen. Tại sáu mái đình cong cong đều được treo chuông gió, mỗi khi gió thổi tới, chuông gió lại ngân vang, càng có ý thiền. Có thể coi đây là nơi tụ hội những nét phong nhã của thế gian, không có chỗ nào là không chú trọng cầu kỳ.

Nhưng tên gọi của đình do A Lan Nhược đặt lại lấy ba chữ đơn giản nhất, gọi thẳng là Hồ Trung Đình (đình ở giữa hồ). Mạch thiếu gia đắn đo một hồi, cảm thấy tên gọi này cũng được coi là thẳng thắn một cách thú vị, bèn chấp nhận. A Lan Nhược lấy một miếng gỗ tử đàn chưa sơn, dùng bút lông ngòi to chấm loại mực đen nước vào cũng không dễ phai, viết ba chữ “Hồ Trung Đình” lên đó rồi treo lên mái đình coi như đã làm xong biển tên. Mạch thiếu gia giật giật khóe miệng, cảm thấy tấm biển này cũng được coi là rất tự nhiên mộc mạc, cũng chấp nhận.

Khi Trầm Diệp bước vào đình, dừng bước trước cửa đình, ánh mắt dừng lại trên ba chữ như rồng bay phượng múa trên tấm biển gỗ tử đàn. Thiếu nữ mặc xiêm áo màu trắng ngồi bên trong đình đưa mắt liếc nhìn A Lan Nhược, dường như đã hiểu ý, nói vọng ra ngoài: “Ba chữ kia Văn Điềm viết cũng không được đẹp lắm, nhờ ý tốt của công chúa mà đến giờ vẫn được treo trên cửa đình, hôm nay đã khiến cho đại nhân chê cười rồi!”.

Ánh mắt của Trầm Diệp nhìn về phía nàng ấy. Dung mạo của Văn Điềm chỉ có thể nói là thanh tú, nhưng mặc bộ xiêm y trắng đứng bên trong đình, sắc nước phiêu diêu làm nền phía sau lưng, nhìn lại rất thanh tịnh hòa nhã.

Ánh mắt của Trầm Diệp đã dịu dàng hơn, khẽ nói: “Văn Điềm?”.

Thiếu nữ khẽ mỉm cười: “Đúng vậy”.

Sau đó Tô Mạch Diệp đã hỏi A Lan Nhược, khi nhìn thấy cảnh tượng ấy, trong lòng nàng cảm thấy như thế nào? Sau đó này cũng không phải sau lâu lắm. Trầm Diệp vừa vào trong đình được một lát đã được Văn Điềm mời tới bên hồ đấu một ván cờ.

Trong đình chỉ còn lại mình chàng và A Lan Nhược, một người đang ngồi bên bếp lò đun trà, một người lơ đãng bóc quýt, ánh mắt trống trải đến nỗi không biết đang nghĩ gì nữa.

Câu hỏi này của Mạch thiếu gia thực ra có chút cay nghiêt, cay nghiệt đến nỗi như chọc thẳng vào cõi lòng của người khác.

Bên hồ, vị công tử áo đen và thiếu nữ áo trắng trông vô cùng đẹp đôi. A Lan Nhược ném quả quýt đã bóc sẵn cho Mạch thiếu gia, khuôn mặt vẫn nở được một nụ cười, chỉ có điều nụ cười có phần bất đắc dĩ: “Văn Điềm là một cô gái tốt, tài năng và vốn hiểu biết cũng xứng với chàng, gia thế tuy bần hàn một chút nhưng chàng bây giờ cũng đã sa cơ, Văn Điềm kết duyên với chàng vào lúc này, đã thể hiện sự thanh cao không màng vinh hoa phú quý của nàng ấy, hôm nay con đã làm được đến bước này, nếu hai người bọn họ nên duyên, cũng coi như con đã làm được một việc thiện”.


Tô Mạch Diệp cau mày: “Những lời ngươi nói với Quất Nặc trên Linh Sơ đài hôm đó, không giống với việc ngươi làm ngày hôm nay”.

A Lan Nhược nhướng mày: “Mấy lời nói đó à, chẳng qua con chỉ muốn trêu chọc Quất Nặc mà thôi”. Ngước nhìn hai bóng người một đen một trắng đang đánh cờ bên hồ, khẽ nói: “Con người chàng, lạnh lùng kiêu ngạo, lại có ngoại hình ưa nhìn, linh lực tốt, kiếm pháp tốt, viết chữ đep, chơi cờ giỏi, sở thích hay kiến thức cũng đều rất tốt, kiểu lạnh lùng tự kiêu đó lại rất hấp dẫn người khác”.

Lại cười nói: “Sư phụ đã từng nghĩ chưa, chàng ghét con thực ra cũng không phải lỗi của chàng. Mẫu phi sau khi tái giá đã sinh ra con và Thường Đệ, đó là một hành động bất trinh, do đó con và Thường Đệ đều mang trong mình dòng máu nhơ bẩn. Chuyện này thực ra chẳng qua chỉ là một cách nhìn nhận mà thôi. Đối với vạn vật trên thế gian, mỗi người đều có cách nhìn nhận riêng, không thể nói ai sai ai đúng. Chỉ là chàng có suy nghĩ như vậy, con và chàng đương nhiên không có cơ hội gì rồi. Chàng nhìn Văn Điềm như vậy, thực ra con cũng có chút ngưỡng mộ”.

Hồi lâu, nàng nói: “Nhưng con cũng hy vọng chàng sẽ sống tốt”.

Tô Mạch Diệp đưa cho nàng một ly trà: “Chuyện tình cảm, khi vướng vào sẽ chẳng có ích lợi gì cả, may mà ngươi còn chút lý trí trong chuyện này, đã tới bước này, ngươi cũng nên sớm từ bỏ đi”.

A Lan Nhược đón lấy ly trà, cảm ơn chàng vài câu.

Chuyện này bèn được cho qua như thế, không hề được nhắc tới nữa, hai người chỉ nói chuyện phiếm, đợi cặp trai tài gái sắc ở bên kia chơi cờ xong quay trở lại.

Sau buổi gặp gỡ ở Hồ Trung Đình, nghe lão quản gia nói, Trầm Diệp và Văn Điềm đã gửi cho nhau bốn bức thư. Văn tiên sinh còn gửi kèm theo thư hai món quà nhỏ, một là con chim sẻ trắng được tết bằng cỏ, một là dây đeo quạt may mắn thêu tay, Trầm Diệp cũng tặng lại nàng ấy hai quyển sách.

Sách do Trầm Diệp chọn, sai quản gia ra chợ mua, hai quyển du ký của Thương Lãng Tử. A Lan Nhược lúc đó đang cầm trên tay một ly trà ngồi bên hồ sen cho cá ăn, không để ý bị nước trà nóng làm bỏng lưỡi, khi cảm giác bỏng rát đã dịu lại, dặn dò lão quản gia rằng từ nay về sau, chuyện của hai người đó như thế nào, không cần bẩm báo lại, chung quy Trầm Diệp đến phủ của nàng không phải để ngồi tù. Lại nói, hai quyển sách mà Trầm Diệp mua tặng cho Văn Điềm, cũng mua thêm hai quyển về cho nàng đọc.

Xét về một số phương diện nào đó, Phượng Cửu có chút khâm phục A Lan Nhược. Nhớ lại năm xưa khi nàng đau khổ về chuyện tình cảm, thi thoảng còn khóc lóc, uống rượu giải sầu, còn A Lan Nhược lại tặng không người trong mộng của mình vào tay kẻ khác, chưa nói tới chuyện khóc lóc hay uống rượu, ngay cả một tiếng than thở thừa thãi cũng không có, thường ngày cần làm việc gì vẫn làm việc đó. Phượng Cửu cảm thấy, so với nàng ấy, cảnh giới của mình rõ ràng là còn kém hơn, có phần xấu hổ.

Nhưng ý trời, không phải ngươi muốn nó như thế nào thì nó sẽ như thế ấy. Trong lúc sóng yên biển lặng không hiểu sao lại xảy ra chuyện ngoài ý muốn, đó mới là ý trời.

Ba, bốn ngày sau, trong một lần dạo chơi vào ban đêm ở Ba Tâm đình, Trầm Diệp vô tình nhìn thấy hai hàng chữ đề trên một thân cây đậu đỏ ngay bên cạnh đình. Nét chữ đã được viết từ rất lâu, khắc sâu vào thân cây, đúng là họa sắt, móc bạc, nét chữ rất giống với nét chữ trong các bức hoạ được cất trong hộp đựng sách của chàng. Mười sáu chữ xếp thành hai hàng: Nguyệt ánh thiên hà, phong quá mậu lâm, khai hoài sướng ẩm, trần ưu đốn thích[2].

[2] Mười sáu chữ đó có nghĩa là: Ánh trăng phản chiếu bầu trời sao, gió thổi qua rừng cây rậm rạp xanh tươi tốt, thoải mái uống rượu, lập tức quên hết mọi ưu phiền trên thế gian.

Phía dưới hai hàng chữ đó có một dòng lạc khoản. Chàng nhờ ánh trăng để đọc lạc khoản, sắc mặt chợt trở nên trắng bệch. Trong lạc khoản lại không đề ngày tháng, chỉ có một cái tên đứng chơ vơ đơn độc. Tương Lý A Lan Nhược.

Phượng Cửu dỏng tai nóng lòng muốn nghe đoạn tiếp theo, Tô Mạch Diệp lại gõ gõ cây tiêu màu xanh ngọc bích trên tay, cố tình úp úp mở mở: “Lúc này chân tướng sự việc đã được làm rõ, nếu ngươi là Trầm Diệp, khi biết người viết thư cho mình là A Lan Nhược chứ không phải Văn Điềm, ngươi sẽ cảm thấy như thế nào?”.

Phượng Cửu suy nghĩ một lát, thăm dò nói: “Rất... rất vui?”

Mạch thiếu gia cười nói: “Nếu là ta, ta cũng rất vui mừng, có một cô nương đối tốt với mình như vậy, còn là một trang tuyệt sắc, dù thế nào cũng là được hưởng lợi”.

Phượng Cửu như gặp được tri âm, lập tức ngồi sán lại gần thêm một chút: “Chẳng phải đúng thế sao!”.

Tô Mạch Diệp dừng lại một lát, nhưng lại nói: Đáng tiếc là người mà A Lan Nhược gặp phải là Trầm Diệp, mà Trầm Diệp lại không phải là ngươi, cũng không phải là ta”.

A Lan Nhược đón nhận cơn thịnh nộ của Trầm Diệp trong thư phòng.

Lúc đó nàng đang ngả người trên một chiếc sập thấp cắn hạt dưa và đọc quyển du ký mới ra của Thương Lăng Tử, chợt thấy một miếng vỏ cây có khắc chữ rơi xuống ngay trước mặt mình. Nhìn lên theo hướng của vỏ cây, là một chiếc áo bào màu đen và gương mặt tối sầm ẩn chứa sự giận dữ của Trầm Diệp.

Chàng đứng từ trên cao nhìn xuống, ánh mắt lạnh lùng tóe lửa: “Thư là do ngươi viết, rượu là do ngươi ủ, thế cờ cũng là do ngươi giải. Coi ta là một thứ đồ chơi, tùy ý đùa giỡn, có phải rất thú vị không?”.

Chàng tiến lại gần thêm bước nữa, ánh mắt càng nảy lửa: “Thấy ta bị ngươi lừa chóng cả mặt, còn thật lòng viết thư trả lời cho ngươi từng bức từng bức một, nghĩ đến việc sẽ có ngày ta như thế này, có phải trong lòng ngươi vô cùng vui sướng không?”.

A Lan Nhược nhìn từng hàng chữ đen trong sách hồi lâu, bỗng cất giọng nói: “Sư phụ đã nói với ta, hoặc là ta nên tranh giành, hoặc là ta nên từ bỏ. Vốn dĩ ta đã từ bỏ, huynh không nên chạy tới đây”.

Nàng suy nghĩ một lát, nói tiếp: “Có những chuyện dù huynh đã biết được, thực ra huynh cũng nên giả vờ như không biết, hai chúng ta, chẳng phải nên như hai người xa lạ giống như trước đây sao?”.

Trầm Diệp nhìn nàng, giọng nói lạnh lùng: “Trước đây chúng ta lại chỉ là hai người xa lạ ư? Lẽ nào không phải là căm ghét lẫn nhau?”.

Bàn tay đang cầm cuốn sách của A Lan Nhược run rẩy, khẽ nói: “Hoặc giả, huynh chưa từng nghĩ, ta không hề căm ghét huynh như huynh căm ghét ta, có lẽ ta còn rất thích huynh, làm những việc đó thực ra chỉ vì muốn huynh được vui”.

Nàng ngẩng đầu lên: “Huynh xem, trước khi huynh biết rằng thư là do ta viết, chẳng phải đã rất vui vẻ hay sao?”.

Chàng lùi lại một bước: “Ngươi đang đùa giỡn”.

Nàng dường như có chút rối loạn: “Nếu không phải đang đùa giỡn thì sao?”.

Thần sắc chàng cứng đờ, nói: “Giữa hai chúng ta, khả năng gì cũng có, người xa lạ, kẻ thù, kẻ tử thù, hoặc là cái khác, duy nhất chỉ không có khả năng đó”.

A Lan Nhược nhìn chàng hồi lâu, cười nói: “Lời ta nói có thể là thật, có thể là giả, có thể ta thật lòng thích huynh, có thể ta thật lòng muốn đùa giỡn với huynh”.

Nghe nói từ đó về sau, Trầm Diệp và Văn Điềm cũng không trao đổi thư từ qua lại nữa. Văn Điềm có viết thư hỏi A Lan Nhược một lần, A Lan Nhược chỉ nói đơn giản rằng Trầm Diệp đã biết rõ sự thật, cảm thấy không phải vì trước đây đã kéo nàng ấy vướng vào chuyện này. Văn Điềm không nói gì cả, chỉ gửi thư lại an ủi nàng vài câu.

Tô Mạch Diệp kể đến đó, thấy trời đã tối, tạm thời quay về nghỉ ngơi.

Phượng Cửu đã từng rất nhiều lần suy nghĩ xem A Lan Nhược và Trầm Diệp cuối cùng là như thế nào, nhưng không ngờ lại có một khởi đầu đau thương như vậy, khiến nàng cảm thấy có chút nặng nề, cũng cảm khái không nguôi. Do đó trước khi đi ngủ đã ăn thêm một chiếc bánh bao, no quá nên thấy khó ngủ, ra vườn hoa đi dạo một vòng, nhớ lại chuyện mà Tô Mạch Diệp kể lúc ban ngày, thở dài vài tiếng, phơi thêm chút sương đêm rồi mới lên giường đi ngủ.
 
Tham gia
6/7/19
Bài viết
101
Điểm cảm xúc
41
Điểm
28
Ngày vết thương trên tay Phượng Cửu khỏi, có thể nhấc được chiếc muôi to dùng để xào nấu, nàng bấm ngón tay nhẩm tính, Tức Trạch thần quân chắc cũng đã trở về Kỳ Nam thần cung rồi.

Trong đầm Thủy Nguyệt, nàng từng khoe khoang với Tức Trạch rằng mình làm món kẹo mật rất ngon, Ở Thanh Khâu ngũ hoang, điều mà nàng tự hào nhất chính là tài nghệ nấu ăn, hận một nỗi mấy ngày trước bị thương ở tay không thể kịp thời thể hiện, khó khăn lắm mới kìm nén được đến ngày vết thương khỏi hẳn. Thầy thuốc vừa mới tháo băng giúp nàng, nàng lập tức phấn chấn lao ngay vào trong bếp với tốc độ nhanh như gió. Nhưng món kẹo mật này, phải làm thành hình dạng như thế nào đây?

Ồ, trong thiên hạ, phàm là những người hiểu biết, nếu phải yêu thích một loại thú, đương nhiên nên yêu thích loài hồ ly. Nàng tự cảm thấy Tức Trạch có thể được coi là một người hiểu biết. Nàng vô cùng tự tin với hình dáng hồ ly nguyên thân của mình, thế là nàng dứt khoát làm khuôn kẹo mật hình tiểu hồ ly theo nguyên thân của mình. Đợi đường mật được đun chảy, vừa ngân nga hát vừa đổ đường mật đã nấu xong vào các khuôn mẫu, đợi đến khi nguội lạnh, đổ ra thành một tiểu hồ ly bằng đường vô cùng xinh xắn đáng yêu. Mỗi chiếc kẹo hình hồ ly đều được cắm thêm một que tre để tiện cầm ăn.

Nàng làm liền một mạch mười cái kẹo hồ ly xinh xắn đáng yêu, gói kín lại cùng với bức thư nhờ Tức Trạch giúp nàng che giấu việc nói dối mà nàng đã chuẩn bị từ mấy hôm trước, lệnh cho Trà Trà mau chóng mang tới Kỳ Nam Thần Cung, đưa tận tay cho Tức Trạch. Nàng còn dặn dò Trà Trà: “Kẹo so với thư, thư quan trọng hơn một chút, nếu gặp phải chuyện gì lớn, có thể bỏ kẹo để bảo vệ thư”.

Ánh mắt Trà Trà nhìn nàng có chút nghi hoặc, tiếp đó lại có chút giật mình như đã hiểu ra, có chút an ủi, lại có chút vui mừng.

Nàng nghe được một tiểu đồng đi cùng Trà Trà cất giọng hỏi với vẻ khó hiểu: “Tại sao thư lại quan trọng hơn một chút ạ?”.

Trà Trà đã đi ra tới nguyệt môn, hạ thấp giọng nói câu gì đó nàng không nghe rõ, hình như đã nói rằng: “Lần đầu tiên điện hạ viết loại thư đó cho thần quân đại nhân, đương nhiên thư phải quan trọng hơn một chút”.

Phượng Cửu gãi đầu quay về phòng định nằm nghỉ thêm chút nữa, loại thư đó, loại thư đó là thư gì? Một tiểu cung nữ lại còn hiểu biết hơn mình, còn biết được thế nào là loại thư đó. Nói lại thì rốt cuộc cái gì là loại thư đó?

Tô Mạch Diệp đến vào giờ Dậu, thần sắc vội vàng, nói rằng Tức Trạch cho gọi gấp, chàng ta phải tới Kỳ Nam thần cung một chuyến, chàng ta đoán rằng nàng vẫn chưa có động tĩnh gì với mấy bức thư A Lan Nhược viết cho Trầm Diệp, mấy ngày nay chàng ta đã viết lại hết rồi, cách vài ba ngày nàng hãy gửi một bức thư tới Mạnh Xuân viện.

Phượng Cửu quả thực vẫn chưa làm gì, thầm than Mạch thiếu gia đúng là tri âm của nàng. Mặc dù có chút kỳ lạ, Tô Mạch Diệp thân là một vị cao nhân ở ngoài cốc, ngay cả Thượng Quân cũng phải nể mặt chàng ta vài phần, vốn không phải Tức Trạch muốn triệu kiến là có thể triệu kiến được ngay, nhưng niềm vui sướng khi nhìn thấy hai mươi bức thư trước mặt đã tạm thời xóa bỏ nghi hoặc này của nàng.

Hồi nhỏ, nàng ghét nhất là môn Phật lý, tiếp theo là ghét việc bị phu tử bắt viết văn. Nghĩa cử này của Mạch thiếu gia khiến hình ảnh của chàng ta trong tim nàng nhất thời trở nên vĩ đại vô song, gần như suốt dọc đường nàng đều nhảy chân sáo đưa tiễn chàng ta ra khỏi phủ công chúa.

Nhân lúc trăng lên đầu ngọn liễu, Phượng Cửu gọi lão quản gia tới, đưa bưc thư đầu tiên đến Mạnh Xuân viện.

Bữa tối, nàng ăn hết một bát cháo, dùng hết nửa chiếc bánh, đang định thu dọn để nghỉ ngơi, một tiểu đồng tử loạng choạng lao vút vào trong đình viện của nàng. Tên tiểu đồng đó khóc thút tha thút thít, nói rằng Mạnh Xuân viện đã xảy ra chuyện lớn rồi.

Phượng Cửu giật nảy mình, chuyện lớn như thế nào mà khiến một đứa trẻ xinh xắn sợ đến mức này. Tiểu đồng tử đưa tay sờ cục u trên trán, khóc đứt cả hơi.

Lẽ nào trong phủ của nàng còn có chuyện ỷ mạnh hiếp yếu, lại còn hiếp đáp một người yếu ớt của yếu ớt thế này, đúng là bệnh hoạn mà. Phượng Cửu nắm lấy tay của tiểu đồng tử, phẫn nộ cau mày lại: “Đi, tỷ tỷ sẽ làm chủ cho ngươi”.

Trong Mạnh Xuân viện, dường như tất cả người hầu trong viện đều tập trung ở phòng của Trầm Diệp, nhìn bóng người qua cửa sổ, quả giống như đang có một vụ lộn xộn.

Phượng Cửu đắn đo cân nhắc, việc dạy bảo đám người dưới này, nàng nên nghiêm khắc răn đe hay hiền hòa chỉ bảo thì tốt hơn. Trên đường lao đến đây thực ra đã vơi bớt phân nửa cơn tức giận của nàng, nàng suy nghĩ một lát, cảm thấy cần phải hòa nhã hiền hậu một chút.

Vừa làm bộ mặt hiền hậu bước vào cửa, một chiếc bát sứ bay ra chào đón, đập ngay vào cái trán hiền hậu của nàng.

Chiếc bát sứ rơi xuống đất, tất cả mọi người trong phòng đều ngớ người, lão quản gia - người đang chỉ huy đại cục quỳ sụp xuống, vừa lau mồ hôi vừa thỉnh tội: “Không…. không biết điện hạ đại giá, lão… lão nô…..”.

Phượng Cửu điềm tĩnh lấy tay áo lau sạch nước canh trên mặt, ngắt lời ông ta: “Sao vậy?”.

Đám người hầu đã qua huấn luyện thành thục, nhanh nhẹn mà lặng lẽ đứng dậy, người nâng khăn tay, kẻ quét dọn mảnh vỡ, lão quản gia vội vàng run rẩy đáp: “Đêm hôm nay Trầm Diệp đại nhân uống rất say, lão nô không thể rời đi bẩm báo với điện hạ, sợ rằng điện hạ sẽ lo lắng khi chờ lâu không thấy lão nô bẩm báo, nên mới sai Khúc Sênh chạy đi bẩm báo một tiếng, nhưng không ngờ lại làm kinh động tới điện hạ, lão nô thật đáng chết…”.

Phượng Cửu lúc bấy giờ mới nhìn rõ Trầm Diệp đang nằm trên giường.

Có vài người hầu đứng quanh giường, nhìn những thứ nằm trên đất, những thứ cầm trên tay, đoán rằng trước khi nàng bước vào, hoặc là đang thu dọn mảnh bát sứ bị đập vỡ, hoặc là đang cầm bát thuốc mới cho Trầm Diệp uống.

Hóa ra Trầm Diệp say rượu. Say rượu ấy à, chuyện nhỏ như hạt vừng, nếu nàng chỉ là Phượng Cửu, lúc này sẽ vứt khăn lau mặt ở đó rồi bỏ đi.

Nhưng lúc này nàng là A Lan Nhược.

A Lan Nhược luôn rất nặng tình với Trầm Diệp, chàng ta chỉ cần cau mày cũng khiến nàng lo lắng mất nửa ngày, còn chu toàn viết thư dỗ dành chàng ta, khiến chàng ta vui vẻ. Lúc này chàng ta lại say rượu, việc này, chắc chắn là một đại sự rồi.

Lão quản gia nhìn sắc mặt của nàng, thăm dò nói: “Trầm Diệp đại nhân uống say, tâm trạng có phần không ổn đinh, điện hạ… điện hạ ở đây khó tránh khỏi việc bị va chạm, ở đây có lão nô túc trực là được rồi, hay là điện hạ ra phòng ngoài nghỉ ngơi?”.


Phượng Cửu phân tích tình thế trước mắt, nếu là A Lan Nhược, lúc này nhất định sẽ vô cùng lo lắng, vừa nghĩ như vậy, nàng vội vàng lo lắng nói: “Như vậy sao được, lần này ta tới là vì muốn thăm huynh ấy, huynh ấy uống say đến như vậy, không túc trực bên cạnh huynh ấy, sao ta có thể yên tâm được?”. Vừa nói xong câu đó, không đợi người bên cạnh kịp phản ứng, bản thân đã tự thấy sến đến nỗi lồng ngực thắt lại, vội vàng đưa tay lên xoa ngực.

Lão quản gia nghe xong câu nói đó, lại có vẻ như đã hiểu ra, bạo gan đỡ nàng ngồi lên một chiếc ghế ở gần đó, an ủi nói: “Đại nhân uống say nhưng thực ra lại rất trầm lặng, chỉ lúc bọn nô tài muốn bón canh giải rượu cho đại nhân, ngài ấy mới có chút kháng cự, ban đầu còn không cho đám nô tài lại gần, nếu lại gần một chút, chén bát sứ dâng lên nhất loạt đều bị đại nhân đập vỡ, chỉ trong một chốc lát, không biết đã đập vỡ bao nhiêu cái rồi, haizz…”.

Trong khi lão quản gia đang nói, xoảng, lại thêm một chiếc bát sứ nữa bị đập vỡ. Có hai tỳ nữ và một thị tùng đang ngồi trước giường của Trầm Diệp, một người thuần thục thu dọn mảnh bát vỡ, một người thuần thục dâng một bát thuốc khác lên, tiểu thị tùng cao to lực lưỡng thì ngăn cản bàn tay đang định làm đổ thêm bát thuốc nữa của Trầm Diệp.

Lúc này, để thể hiện lòng khoan dung và yêu chiều đối với Trầm Diệp, Phượng Cửu đương nhiên phải nói một câu: “Huynh ấy muốn đập thì cứ đập đi, các ngươi ngăn cản làm gì”.

Tiểu thị tùng vội vùng rụt tay lại như phải bỏng, trên khuôn mặt của lão quản gia lại lộ ra thần sắc tiếc nuối và đau lòng: “Điện hạ không biết đấy thôi, đồ sứ mà đại nhân đập vỡ, đều là những vật phẩm quý giá bậc nhất do hoàng cung ban thưởng, ví dụ như cái bát ban nãy, đáng giá mười hộc[1] minh châu…”.

[1] Hộc: Dụng cụ đo lường dùng để đong chất hạt rời thời xưa thường làm bằng gỗ, có dung tích khoảng mười lít.

Phượng Cửu lập tức thấy tiếc như đứt từng khúc ruột, nhưng để tỏ vẻ ưu ái Trầm Diệp, không thể không làm trái với lương tâm nói: “Ha ha, thảo nào tiếng vỡ nghe lại vui tai như vậy”.

Lão quản gia nhìn nàng, đương nhiên lại càng hiểu rõ hơn một chút.

Một tỳ nữ biết quan sát dâng lên một chiếc khăn nóng đã được dấp nước thuốc cho Phượng Cửu đắp lên vết sưng trên trán. Trầm Diệp đang nằm trên giường bỗng nhiên cất tiếng nói: “Bảo bọn họ ra ngoài hết cả đi”.

Mí mắt của Phượng Cửu nháy nháy, chàng ta nói câu nói này một cách rất tỉnh táo.

Đám người hầu nhất loạt ngẩng đầu lên nhìn về phía nàng, Phượng Cửu bị những ánh mắt đó nhìn, lập tức quẳng chiếc khăn tay đi, chạy vội tới bên giường một cách rất chuyên nghiệp, vô cùng quan tâm hỏi một câu thừa thãi: “Huynh đã cảm thấy đỡ hơn chút nào chưa?”.

Lão quản gia ra hiệu cho đám người hầu lui ra ngoài chờ đợi, bản thân lão lại đứng tại một góc gần cửa bên trong phòng, ngộ nhỡ Phượng Cửu có điều gì đó cần sai bảo.

Trầm Diệp mở mắt nhìn nàng, say rượu lại có thể say đến mức sắc mặt trắng nhợt, đây là lần đầu tiên Phượng Cửu được thấy. Lời nói xem ra có vẻ tỉnh táo, nhưng ánh mắt lại hoàn toàn mông lung, Phượng Cửu cảm thấy, chàng ta quả thực đã say rồi.

Trầm Diệp nhìn nàng hồi lâu, cuối cùng cũng mở miệng nói: “Ta biết nơi này không thể giống hệt như trước kia, rất nhiều chuyện đều có thể thay đổi. Nhưng chỉ cần thể xác này còn tồn tại, dù thay đổi như thế nào cũng không sao cả. Tốt nhất là tất cả đều thay đổi, ta mới không…”. Còn chưa nói hết câu, chàng ta dường như đang cố kìm nén điều gì, trong giọng nói ẩn chứa nỗi đau khổ to lớn: “Nhưng một cái vỏ, chỉ là một cái vỏ mà thôi, sao có thể viết ra bức thư đó được. Không, tốt nhất bức thư đó cũng không có, tốt nhất…”. Chàng ta nắm lấy tay nàng, nhưng lại buông ra, dường như đã kiệt sức: “Ngươi không nên là nàng. Ngươi không thể là nàng”. Hồi lâu, lại nói: “Người quả thực không phải là nàng”.

Phượng Cửu nghe vậy liền cảm thấy giật mình, khẽ cất giọng hỏi chàng ta: “Huynh nói, ta không nên là ai?”.

Trầm Diệp nhìn lên đỉnh màn, nhưng lại không trả lời câu hỏi của nàng, thần sắc anh tuấn đến mức đáng sợ, lạnh lùng đến mức đáng sợ, cũng mơ hồ đến mức đáng sợ, khàn giọng nói: “Ta đã nói với nàng, giữa hai chúng ta, có thể có bất cứ khả năng gì, người xa lạ, kẻ thù, kẻ tử thù, hoặc giả là những thứ khác, duy chỉ không có khả năng hai người cùng thích nhau. Lúc đó nàng đã cười. Ngươi nói xem, nụ cười của nàng có hàm ý gì?”.

Phượng Cửu trầm mặc hồi lâu: “Có thể nàng ấy cảm thấy câu nói này của huynh rất hay”.

Trầm Diệp không buồn để ý, ngược lại còn chăm chú nhìn nàng, trong ánh mắt mơ màng có đau khổ kìm nén, hồi lâu, mỉm cười: “Nàng nói có thể đang đùa giỡn ta, có thể là thích ta, nhưng thực ra, cái sau mới là điều mà trong lòng nàng nghĩ, ta đoán như vậy có đúng không?”. Niềm vui ngẫu nhiên trong sự đau khổ, giống như một đóa mạn thù sa màu trắng bỗng nhiên nở rộ trong sự im lặng chết chóc của nỗi tuyệt vọng. Phượng Cửu cuối cùng đã có phần hiểu được tại sao hồi đó A Lan Nhược lại một lòng yêu mến Trầm Diệp, thần quan đại nhân quả là có một ngoại hình đẹp.

Nàng im lặng một lát, không biết phải trả lời thế nào, hồi lâu, nói: “Ừm, cũng tốt”.

Trầm Diệp rõ ràng không hiểu nàng đang nói gì, ngay cả bản thân nàng cũng không biết. Thực ra nàng nhớ tới câu chuyện mà Tô Mạch Diệp kể cho nàng nghe, trong lòng vô cùng kinh ngạc, trong đầu cũng hoàn toàn rối loạn. Thấy Trầm Diệp dừng lại một lát, dường như lại muốn nói thêm điều gì đó, thấy có chút phiền phức, dùng tay chặt mạnh lên vai của chàng ta.


Xung quanh trở nên yên tĩnh rồi.

Nàng đang định sắp xếp lại dòng suy nghĩ của mình, vô tình ngước mặt lên, thấy lão quản gia đang đứng nép bên cửa, kinh ngạc nhìn nàng.

Phượng Cửu lập tức hiểu ra, cú chặt tay vừa rồi, nàng đã chặt một cách quá đường đột, liếc nhìn Trầm Diệp bị đánh ngất lịm trên giường, khóe môi nàng giật giật, vội vàng cứu vãn tình thế, nói: “Huynh ấy không chịu uống canh giã rượu, cũng không chịu nằm yên nghỉ ngơi một chút, chẳng phải sẽ càng khó chịu hơn, động thủ mặc dù là hạ sách, tốt xấu gì cũng còn có tác dụng, haizz, đánh lên người huynh ấy, thực ra lòng ta rất đau đớn, lúc này nhìn huynh ấy, trong lòng ta thật sự đau đớn từng cơn”.

Thần sắc kinh ngạc của lão quản gia quả nhiên đã biến thành vẻ lo lắng và thông cảm, thử an ủi nàng: “Điện hạ…”.

Phượng Cửu ôm ngực cắt ngang lời của lão: “Có lúc đau như bị móc vào tim, có khi lại đau như xé rách tâm can, còn nỗi đau lúc này, lại giống như có một mũi kim nhọn có gai đâm từng chút xuyên qua trái tim, á, đau đớn vô cùng! Ta quay về nghỉ ngơi một chút, để cơn đau này dịu bớt, những chuyện còn lại, các ngươi hãy thay ta hầu hạ ở đây!”. Vừa nói vừa ôm ngực bước đi, còn liên tục quay đầu lại nhìn cho tới khi ra khỏi cửa.

Trên mặt lão quản gia lộ vẻ cảm động trước sự si tình của nàng, lập tức thể hiện lòng trung thành, nói: “Lão nô nhất định sẽ hầu hạ đại nhân chu đáo, chia sẻ nỗi lo lắng cùng với điện hạ…”.

Vừa bước ra ngoài cửa, Phượng Cửu thở phào một hơi, đưa tay lên lau mồ hôi trên trán. Diễn kịch quả là một hoạt động kỹ thuật, may mà trước đây cũng coi như nàng đã có chút kinh nghiệm nên mới không bị luống cuống trong tình thế bất ngờ tối hôm nay.

Còn nhớ có một lần Tô Mạch Diệp uống quá lên hai ly rượu, đã cảm thán với nàng rằng tình cảm là thứ thật huyền diệu khó lý giải, sao lại có thứ có thể gắn kết hai người không liên quan gì tới nhau lại như vậy, nàng vui thì ngươi cũng vui, nàng buồn thì ngươi cũng buồn. Trong lòng Phượng Cửu lúc này cảm khái vô hạn, điều này có gì khó hiểu chứ, ví dụ như nàng và Trầm Diệp, đến nước này, cho dù là tình cảm gì thì họ cũng có một chút tình cảm. Chàng ta vui vẻ, liền không tới làm phiền nàng, nàng sẽ rất vui vẻ, chàng ta buồn phiền, liền tới giày vò nàng, nàng cũng sẽ rất buồn phiền.

Nàng thở dài một tiếng, quay đầu nhìn lại căn phòng ngủ lại bắt đầu trở nên huyên náo của Trầm Diệp, nhớ lại những lời nói sến rện ban nãy với lão quản gia, khẽ rùng mình một cái, vội vàng chuồn đi.

Trong phòng ngủ của mình, Phượng Cửu cầm ly trà trên tay xoay qua xoay lại, khi nàng suy nghĩ điều gì đó, luôn có thói quen xoay xoay trên tay một vật gì đó.

Nàng biết rằng Tô Mạch Diệp luôn nghi hoặc người tạo ra thế giới này là ai. Trước đây bọn họ cũng chưa nhìn ra ai để lộ hành tung gì. Cho tới đêm này, khi Trầm Diệp uống say. Rượu quả thật chẳng phải là thứ tốt đẹp gì.

Nếu đúng là Trầm Diệp là người tạo ra thế giới này, chàng ta tạo ra thế giới này là muốn có được kết cục tốt đẹp với A Lan Nhược, vậy tại sao từ khi nàng vảo trong mộng cảnh này, Trầm Diệp lại luôn không buồn để ý tới nàng? Chuyện này nói như vậy không thông. Đêm nay chàng ta còn nói một vài câu kỳ quặc, ví dụ như nàng không nên là A Lan Nhược, nàng chỉ là một cái vỏ….

Mạch thiếu gia đã từng nói, người tạo nên thế giới này không quá thần thông quảng đại như vậy, người rơi vào đây thay thế cho người trước đó, về lý mà nói chỉ có bản thân người rơi vào mới biết, người tạo nên thế giới này sẽ không thể biết được. Hay nói một cách khác, Trầm Diệp không thể biết nàng chính là Bạch Phượng Cửu chứ không phải A Lan Nhược, nhưng chàng ta lại luôn miệng nói nàng chỉ là một cái vỏ, lẽ nào… chàng ta tạo ra một A Lan Nhược khác, nhưng lại không có cách nào lừa dối bản thân rằng A Lan Nhược này là giả, vì vậy mới nói nàng chỉ là một cái vỏ?

Bấc đèn nổ tách một tiếng, một sợi ký ức mong manh bỗng hiện lên trong đầu nàng. Đêm hôm đó, sau khi nàng được Trầm Diệp cứu ra khỏi lồng Cửu Khúc, trong khi ngất đi vẫn nghe được một câu nói, mặc dù không nhớ được nhiều, nhưng vẫn có chút ấn tượng về đại ý: “Ta sẽ làm cho nàng sống lại, ta nhất định sẽ khiến cho nàng quay trở lại”. Giờ đây nghĩ lại, giọng nói đó hơi giống giọng của Trầm Diệp.

Phượng Cửu suy nghĩ một hồi, cảm thấy đau đầu, hơn nữa đêm khuya nếu suy nghĩ quá nhiều sẽ khó ngủ, nàng đặt chiếc chén xuống dự định khi nào tỉnh dậy sẽ tính sau. Ngủ một giấc đến sáng, khi tỉnh dậy, lão quản gia đã chờ nàng bên ngoài cửa, dâng lên một chén canh bổ dưỡng, nói rằng Trầm Diệp đại nhân đã tỉnh rượu, nghe nói đêm qua công chúa đích thân tới thăm ngài, đã rất cảm động, đoán rằng công chúa đêm qua hao tâm tổn trí, do đó đã dặn dò nhà bếp hầm bát canh này, lệnh cho lão nô mang tới dâng lên công chúa giúp công chúa tỉnh táo tinh thần, có thể nhận thấy Trầm Diệp đại nhân còn rất quan tâm tới công chúa.

Khi lão quản gia nói những lời này, trong mắt ánh lên những giọt nước mắt vui mừng. Phượng Cửu uống bát canh trong ánh mắt long lanh nước mắt của lão, quả nhiên thấy rất tỉnh táo. Trong bữa ăn sáng, nàng dùng thêm nửa bát cháo nữa, sau khi thu dọn xong xuôi, nàng cảm thấy hôm nay hình như có chuyện đại sự gì đó cần phải tìm tòi suy nghĩ, những chuyện đại sự này, hình như còn liên quan tới câu nói gì đó mà Trầm Diệp đã nói đêm hôm qua. Tốn bao nhiêu công sức, nhưng lại không nhớ nổi cần phải tìm tòi suy nghĩ điều gì. Nàng trầm ngâm hồi lâu, cảm thấy nếu không nhớ ra, chắc là chuyện không quan trọng lắm, hoặc bản thân mình nhất thời đã nhớ nhầm, cũng không bận tâm đến nữa.

Tô Mạch Diệp bị Tức Trạch triệu đi mất, Trà Trà bị nàng phái đi mang kẹo hồ ly tới cho Tức Trạch, còn Tức Trạch giờ này cũng đang ở Kỳ Nam thần cung. Chưa biết chừng ba người bọn họ giờ này đang ngồi quanh một chiếc bàn nhỏ uống trà thưởng thức kẹo hồ ly, nhất định là vô cùng náo nhiệt vô cùng vui vẻ.

Phượng Cửu cảm thấy có chút thê lương, lại có chút cô đơn.

Nàng thê lương mà cô đơn chui trong bếp làm kẹo hồ ly cả ngày, sau khi làm xong, bản thân nàng ăn hai chiếc, tặng cho đám người hầu trong viện mỗi người hai chiếc, để phần cho Tô Mạch Diệp năm chiếc, vẫn còn thừa năm chiếc.

Nàng suy nghĩ một lát, nghĩ đến chén canh ban sáng Trầm Diệp sai người mang tới cho nàng, nhận quà mà không đáp lễ thì thật là thất lễ, nàng là một người hiểu lễ nghĩa, liền gói hết số kẹo hồ ly còn lại, sai lão quản gia mang tới cho Trầm Diệp cùng phong thư thứ hai.
 
Tham gia
6/7/19
Bài viết
101
Điểm cảm xúc
41
Điểm
28
01.

Buổi tối, Phượng Cửu nằm nghỉ trên giường từ rất sớm, nàng dự cảm rằng đêm nay Trầm Diệp lại gây ra chuyện gì đó hành hạ nàng, cứ thấp thỏm chờ đợi lão quản gia chạy tới thông báo.

Đợi suốt nửa canh giờ, mãi không thấy lão quản gia tới, bản thân mình càng chờ đợi lại càng tỉnh táo, bèn bước xuống giường xỏ giày, định tới Mạnh Xuân viện liếc trộm vài cái. Phượng Cửu thầm than thở bản thân mình thật quá chuyên nghiệp, năm xưa chưa chắc A Lan Nhược đã chu đáo tỉ mỉ như nàng bây giờ.

Trong lúc cảm thán, phía ngoài cửa sổ bỗng vọng lại tiếng chim hót ríu rít. Trong phủ không nuôi loại chim nào, đêm xuống lại có tiếng cả đàn chim cùng hòa ca, thật kỳ lạ. Nàng đưa tay mở cửa sổ, thò đầu ra ngoài nhìn.

Phượng Cửu cảm thấy, nàng đã lớn bằng ngần nay, nhưng chưa từng bị chấn động mạnh mẽ như vậy.

Trong đình viện, vi A Lan Nhược thích vẻ đẹp tự nhiên hài hòa nên cảnh vật trong viện đều rất giản dị, nên đình viện này của nàng là một đình viện hết sức bình thường, điểm đặc biệt trong sân chẳng qua chỉ là có một cây cổ thụ rễ lớn đan xen ở chính giữa sân, khi trời nắng to, đó là một nơi hóng mát lý tưởng.

Nhưng lúc này, dưới ánh trăng sáng trong, trước mắt nàng lại là cảnh từng khóm hoa lớn nở rộ liên tiếp nối đuôi nhau, tạo thành một biển hoa phật linh lay động, loài chim nhỏ phát sáng không rõ tên gọi bay nhảy giữa biển hoa, cánh hoa bay bay trong gió, rụng thành lớp thảm hoa trắng tinh trên mặt đất, phía trên thảm hoa vài tấc dập dờn những đóa hoa mộc lan màu lam, giống như những ngọn đèn lơ lửng treo trên không trung.

Vị thần quân áo tím ung dung đứng dưới cây hoa, miệng ngậm nửa cây kẹo hồ ly, cúi đầu kết một vòng hoa trên tay, phát hiện ra nàng đã mở cửa phòng, lặng ngắm nàng một lát, đưa vòng hoa đã bện sẵn về phía nàng, hất hàm nói: “Lại đây”.

Rất lâu sau Phượng Cửu vẫn không có chút động tĩnh, mấy chú chim đã lanh lợi bay tới bên cạnh Tức Trạch, mỏ ngậm vòng hoa chiêm chiếp bay về phía đỉnh đầu của Phượng Cửu. Vòng hoa được bện từ cành non của cây an thiền, gắn những bông hoa dại màu trắng hoặc màu xanh lam, đội lên đầu nàng rất vừa vặn.

Phượng Cửu vẫn sững sờ đứng tựa người vào khung cửa, trong đầu nhất thời có rất nhiều suy nghĩ. Ví dụ như Chiết Nhan thường khoe khoang rừng đào mười dặm của ngài ấy thế này thế kia, giờ đây xem ra rừng đào mười dặm đó của ngài ấy ngoài việc hơn hoa phật linh ở chỗ có thể kết trái thành mười dặm quả đào ra, nếu luận về cảnh sắc thì còn kém xa. Lại ví dụ như Kỳ Nam thần cung xa xôi như vậy, giờ này Tức Trạch lại xuất hiện trong viện của nàng, có thể thấy chàng ta đã phải vội vàng đi tới đây, có nên mời chàng ta vào trong phòng ngồi uống một ly trà nóng hay không? Lại ví dụ trong các sử sách thời thượng cổ có ghi chép, thời thượng cổ, các tiên nam thường thích tết vòng hoa tặng cho tiên nữ mà mình yêu mến làm vật đính ước, Tức Trạch tặng vòng hoa này cho mình làm quà cảm ơn vì mình đã làm kẹo hồ ly, có thể thấy chàng ta rất khách sáo, và chàng ta chưa từng đọc sử sách thời thượng cổ…

Trong tiếng chim hót líu lo, mặc những suy nghĩ phức tạp của nàng, Tức Trạch vẫn ung dung nhàn nhã đứng dưới gốc cây hoa: “Lại đây, ta đưa nàng đi xem tết Nữ nhi”.

Câu nói đó vọng lại, giống như có một sức hút vô hình, khi đi về phía Tức Trạch, gấu váy của nàng vương vào thảm hoa, kéo theo những cánh hoa rời khỏi mặt đất tạo thành những đốm sáng uốn lượn quanh mắt cá chân của nàng.

Phượng Cửu rút chân lại, đá tung lên nhiều cánh hoa, cánh hoa liền biến thành càng nhiều đốm sáng. Lũ chim nhảy nhót đùa nghịch huyên náo giữa những đốm sáng, nàng cũng đá một cách vui vẻ, hớn hở nói với Tức Trạch: “Hiếm khi ngài biến nơi đây trở nên tươi đẹp như vậy, chúng ta chơi ở đây một lát, không ra ngoài nữa…”. Còn chưa nói hết câu, eo của nàng đã bị ôm gọn, ba chữ “Có được không” vừa thốt ra, hai người đã đứng vững trong chợ đêm của Vương thành.

Từng chòm sao lung linh trên bầu trời, ánh đèn màu rực rỡ dưới mặt đất, hoa phật linh và hoa mộc lan bay lơ lửng trong không trung, phía bên dưới là tiếng người ồn ào huyên náo.

Phượng Cửu tròn xoe mắt, há miệng ngạc nhiên nhìn những cánh hoa bay lượn trong không trung: “Ngài phủ kín ảo cảnh này… khắp cả Vương thành ư?”.

Vừa hay có hai cô nương vui cười đi ngang qua trước mặt họ, nói với nhau: “Chắc là do vị thần quân nào đó đêm nay tâm trạng vui vẻ, để cô gái mình thích được vui nên mới tạo ra ảo cảnh đẹp đẽ như thế này trong ngày tết Nữ nhi, chúng ta gặp may được thấy cảnh này, vị thần quân đó thật si tình, cô gái được ngài ấy thích cũng thật có diễm phúc…”.

Người có diễm phúc là Phượng Cửu đang chuyên tâm đuổi theo Tức Trạch đi vào chợ, nàng không nghe rõ mấy cô nương đó nói gì, khi đuổi kịp còn không quên chân thành nói: “Tạo ra ảo cảnh như vậy mặc dù không cần dùng pháp thuật mạnh, nhưng phủ kín cả một diện tích rộng lớn như vậy, khó tránh khỏi việc bị tổn hao tinh lực, ngài xem, mấy ngày trước ngài còn bị thương, lúc này còn chưa biết đã khỏi hẳn chưa, thực ra ta cũng chưa hiểu tại sao ngài lại làm một chuyện lợi bất cập hại như vậy, ngài nghĩ thế nào vậy, ban nãy khi còn ở trong viện, ta quên mất việc trên người ngài còn bị thương”.

Bộ dạng của Tức Trạch giống như nàng hỏi một câu rất ngốc nghếch: “Chẳng phải bọn họ đã nói rồi sao, đêm nay tâm trạng của ta rất tốt”.

Phượng Cửu cảm thấy rất khó hiểu: “Dạo trước cũng không thấy tâm trạng của ngài vui vẻ đến mức này, hôm nay sao tâm trạng lại tốt như vậy chứ?”.

Tức Trạch chỉ cây kẹo mật hình hồ ly đã tan chảy tới mức mất hết hình dáng ban đầu: “Nàng đã tặng cho ta cái này”.

Phượng Cửu đứng ngẩn người.

Nàng lặng lẽ nhìn cây kẹo hồ ly một cái, lại lặng lẽ nhìn Tức Trạch một cái, hồi lâu, nói: “Ta tặng cho ngài vài cây kẹo hồ ly, ngài đã vui mừng đến vậy ư?”.

Giọng nói của Tức Trạch rất dịu dàng, “ừm” một tiếng đáp lại, nhìn nàng bằng ánh mắt sâu thẳm: “Nàng tặng kẹo hồ ly cho ta, ta rất vui mừng, quay về cùng nàng đi chơi tết Nữ nhi, tạo ra ảo cảnh mà nàng yêu thích, ta có ý gì, nàng đã hiểu chưa?”.

Một tiếng “ừm” của Tức Trạch đã khiến trái tim hồ ly của Phượng Cửu tan chảy thành nước, nghe xong câu hỏi khẽ của chàng ta, lượng nước vừa tan chảy lại nóng đến nỗi dường như muốn sôi lên. Đây là một chàng trai trẻ khiến người ta cảm thấy ấm áp trong lòng biết bao, khi còn nhỏ đã không có cha mẹ, không được ai yêu thương, lúc này chỉ tặng chàng ta vài cây kẹo hồ ly không đáng tiền, chàng ta lại vui mừng đến như vậy, chỉ mình chàng ta dùng cách này để báo đáp nàng, người bình thường một chút ân tình sẽ báo đáp lại gấp mười, còn chàng ta một chút ân tình lại báo đáp gấp trăm.

Phượng Cửu nhìn Tức Trạch bằng ánh mắt ta hiểu, trong giọng nói ẩn chứa sự xót xa và cảm động: “Ta hiểu, ta đều hiểu cả”.

Tức Trạch yên lặng một lát: “Ta cảm thấy nàng vẫn chưa hiểu”.

Phượng Cửu thương cảm nhìn chàng ta. Ở thời buổi bây giờ, tình cảm tốt đẹp nhận một chút ân tình báo đáp lại gấp trăm như Tức Trạch quả thực không còn nhiều, chắc cũng không dễ dàng tìm được tri âm. Tức Trạch nhất định là một thanh niên có nội tâm rất cô độc. Có quá nhiều người không hiểu chàng ta, vì vậy khi gặp được một người hiểu chàng ta như mình, nhất thời sẽ khó tiếp nhận nổi. Việc này cũng không nên ép chàng ta.

Nàng càng nhìn chàng ta, tình cảm của người mẹ càng cuồn cuộn dâng lên trong lòng, hận một nỗi không thể quay lại thời điểm chàng ta còn nhỏ, hóa thành mẫu thân của chàng ta để chăm sóc cho chàng ta, không kìm nén được, đưa tay lên vai chàng ta: “Ngài nói ta chưa hiểu, ta sẽ chưa hiểu vậy, ngài nói thế nào thì sẽ như thế đó”. Lại nhìn vào tay chàng ta: “Chiếc kẹo hồ ly này chỉ còn cái que thôi, chín chiếc kia ngài đã ăn hết rồi sao? Ngài thích ăn cái này? Hiện giờ ta không mang theo bên người, trong chợ đêm chắc có bán bánh ngọt, ta sẽ mua hai hộp cho ngài ăn lót dạ trước, sau khi về nhà sẽ làm tiếp cho ngài, được không? Hoặc ta sẽ làm cho ngài thứ khác, ta không chỉ biết làm mỗi món đó”.

Tức Trạch lại nhìn nàng hồi lâu, khẽ nói: “Ta không kén ăn, nàng làm món gì ta ăn món đó”. Lại nói: “Nàng vất vả vì ta như vậy, ta rất vui”.

Phượng Cửu gần như muốn khóc, câu nói này mới ân cần làm sao. Nàng cũng quen biết một số thiếu niên hoặc thanh niên có nội tâm cô độc, nhưng không ai ân cần dịu dàng như Tức Trạch. Điều này lại thể hiện thêm một nét đáng quý của Tức Trạch.

Phượng Cửu nhìn khuôn mặt của chàng ta, tượng tượng xem khi còn nhỏ chàng ta là một đứa trẻ ân cần đáng yêu như thế nào, không cha không mẹ, lớn bằng ngần này, không biết đã phải chịu đựng bao nhiêu nỗi ấm ức, hận một nỗi không thể lập tức mua hết những thứ mà hồi nhỏ chàng ta chưa biết tới cho chàng ta, lần lượt dạy chàng ta chơi thỏa thích tất cả những trò chơi mà hồi nhỏ chàng ta chưa từng được chơi.

Nàng trìu mến túm lấy tay áo của Tức Trạch, hào sảng nói: “Đi, ta dẫn ngài đi chơi những trò chơi thật hay”.

Tết Nữ nhi, xét theo mặt chữ, chính là ngày lễ tết của các cô gái, các thần tiên bên ngoài Phạn Âm Cốc đều không ăn tết này, nhưng hơn hai trăm năm trước, Phượng Cửu là khách quen của phàm giới, đương nhiên có chút hiểu biết, nhận thấy dưới phàm trần có ngày lễ Khất xảo[1], có vài phần giống với ngày lễ này.

[1] Khất xảo nghĩa đen là cầu mong được kéo tay, tết Khất xảo là ngày tết vào mùng bảy tháng bảy âm lịch của người Trung Quốc thời xưa, vào ngày này các thiếu nữ cầu xin Chức Nữ ban cho mình sự khéo tay.

Nhưng đám địa tiên chơi tết, đương nhiên sẽ càng thú vị hơn. Ví dụ như phố đèn lồng này, mỗi hình vẽ thú thần trên đèn lồng đều có thể nói chuyện và cử động, dù là những chiếc đèn lồng chỉ vẽ hình hoa cỏ, khi ghé lại gần còn có thể nghe được tiếng gió dập dờn giữa những cánh hoa, Lại ví dụ sạp hàng bày bán hình người nặn bằng bột, cái nào cái nấy đều nghịch ngợm đáng yêu, sống động như thật, chỉ nhìn thôi cũng đã thấy rất thích thú.

Anh chàng bán người bột dùng bột thừa nặn thành hình một chiếc đàn không hầu[2] xiên que tre, cắm vào giữa đám người bọc bột rực rỡ sắc màu, cây đàn không hầu bằng bột nặn lại có thể phát ra tiếng đàn. Phượng Cửu cảm thấy rất thú vị, ngắm nghĩa nó lâu hơn, nghe thấy giọng nói của Tức Trạch vang lên trên đầu: “Nàng thích chiếc đàn không hầu này ư?”.

[2] Một loại đàn dây cổ

Tức Trạch hỏi như vây, lại khiến nàng nhớ tới biểu đệ của mình, Cục bột nhỏ. Cục bột nhỏ là đứa trẻ vô cùng khéo léo, muốn có thứ gì từ trước đến giờ không hề đòi hỏi trực tiếp, ví dụ nàng đưa nó đi chu du xuống phàm giới, nó mở to đôi mắt to tròn long lanh nước, vặn xoắn vạt áo xấu hổ hỏi nàng: “Phượng Cửu tỷ tỷ, tỷ muốn ăn bánh nướng không?”. Nàng liền hiểu ngay rằng Cục bột nhỏ muốn ăn bánh nướng.

Cách hỏi này của Tức Trạch hoàn toàn giống với kiểu hỏi của Cục bột nhỏ.

Anh chàng bán người bột mồm năm miệng mười nói với Tức Trạch: “Công tử quả nhiên có con mắt tinh tường, tiểu nhân mặc dù có hư danh là cao thủ nặn người bột, nhưng thực ra sở trường nhất của tiểu nhân là nặn đàn không hầu, rất nhiều công tử trong thành đều thích tới chỗ của tiểu nhân mua một cây đàn không hầu bằng bột nặn để tặng cho người trong mộng, chiếc đàn bày trên sạp này đã là chiếc cuối cùng của ngày hôm nay rồi, nếu công tử muốn mua thì tiểu nhân sẽ…”.

Còn chưa nói hết câu Phượng Cửu đã đập mạnh một thỏi vàng lên sạp hàng: “Được, ta mua, mau gói lại”.

Anh chàng bán người bột sững sờ há hốc miệng ngạc nhiên, lắp bắp nói: “Là… là tiểu… tiểu thư trả tiền? Bình thường… không phải đều là các công tử mua tặng các tiểu thư ư?”.

Tức Trạch còn chưa kịp phản ứng, Phượng Cửu đã đón lấy cây đàn bằng bột, vội vàng đặt vào tay chàng ta, giọng điệu hiền từ một cách khác thường: “Hồi nhỏ chắc ngài chưa từng được chơi trò này, đúng không, thứ này mặc dù được nặn bằng bột gạo, nhưng không thể ăn được, đặt nó ở đầu giường chơi thì được. Nếu muốn ăn, phía trước có một hàng bán đường họa[3], ta sẽ mua cho ngài”. Lại nói một cách đầy háo hức chờ đợi: “Ngài thích cây đàn không hầu này không?”.

[3] Đường họa là một loại kẹo, người nghệ nhân dùng đường nóng chảy để tạo nên rất nhiều hình thù khác nhau như con rồng, xe đạp, chim chóc….

Tức Trạch khó nhọc nhìn nàng một lát, đắn đo nói: “… Thích”.

Phượng Cửu cảm thấy thỏa mãn, quay đầu sang hào sảng với anh chàng bán người bột đang sững sờ tròn xoe mắt ngạc nhiên: “Ngươi nặn được cái này, ngài ấy rất thích, đây quả là một công lao rất lớn, tiền thừa không cần phải trả lại, coi như cảm tạ tài năng của ngươi”.

Anh chàng bán người bột thu tiền thừa vừa trả lại như một người mộng du, kính nể đưa mắt nhìn theo bóng dáng Phượng Cửu đang khuất dần, lẩm nhẩm tán dương: “Thật là một kỳ nữ, thật vĩ đại”.

Phượng Cửu đã mua một cây đường họa hình rồng biết phun lửa cho Tức Trạch đúng như lời hứa, nàng còn mua thêm hai hộp bánh ngọt nữa.

Suốt dọc đường, Tức Trạch đã hỏi nàng có muốn mua quả cầu được làm từ lông đuôi của Tỷ Dực Điểu, một chiếc mặt nạ hồ ly bằng gỗ bách có thể nhướn mày, một chiếc khóa bát quái bị ghép nhầm sẽ kêu lên hay không. Vậy là nàng lần lượt mua cho Tức Trạch một quả cầu, một chiếc mặt nạ, một chiếc khóa. Mỗi lần mua xong đều hỏi Tức Trạch một câu có thích không với thái độ đầy háo hức chờ đợi, đương nhiên Tức Trạch chỉ có thể trả lời rằng rất thích.

Nàng nghe Tức Trạch nói hai chữ rất thích, liền không kìm nén được cảm giác vui sướng, liền không kìm được thưởng ngay cho những người chủ sạp hàng đó.

Dạo chơi suốt cả đêm, chơi đến nỗi nhẵn cả túi, nhưng nàng lại vô cùng hài lòng.

Ba, bốn đứa trẻ đeo mặt nạ nô đùa chạy ra trước mặt họ, một cậu bé cao lớn nhảy lên với một bông hoa mộc lan lơ lửng trong không trung, đóa hoa giống như có tri giác, cứ tránh né cậu bé, cậu bé sững người lại trong giây lát, bật cười khanh khách rồi chạy biến đi.

Phượng Cửu liền nhớ tới tuổi thơ nghịch ngợm như quỷ sứ của mình, quay đầu lại vui vẻ nói với Tức Trạch: “Khi ta còn nhỏ như chúng, cũng rất thích chạy đi chạy lại trên phố như thế”.

Tuổi thơ của nàng quả thực có rất nhiều truyện thú vị, vừa đi vừa hớn hở đắc ý kể cho Tức Trạch nghe một truyện trong số đó: “Hồi đó ta có một người bạn học là một con sói xám, có một lần ta không cho cậu ta chép bài, cậu ta nhân lúc ta đang ngủ trưa ở trường đã bôi nhọ hết cả… ờ hết cả lông trên người ta”.

Tức Trạch gạt đốm sáng rớt xuống đầu nàng ra: “Hồi nhỏ nàng thường xuyên bị bắt nạt ư?”.

Phượng Cửu nhướng mày: “Sao có thể như vậy được, những bạn học khác nịnh nọt hiếu kính ta còn không kịp, chỉ có mình sói xám đệ đệ thi thoảng còn dám phản kháng lại một chút, đương nhiên đều bị ta đáp trả hết. Một lần, phu tử đưa bọn ta vào trong núi để nhận biết về các loại thảo dược, buổi tối ngủ lại ở trong rừng, ta liền vào trong rừng bắt một chú thỏ xám, nhân lúc sói xám đệ đệ ngủ liền nhét con thỏ vào dưới bụng của cậu ta, sáng sớm hôm sau đã nói với cậu ta rằng đó là chú thỏ cậu ta sinh ra lúc nằm mơ, ta còn đỡ đẻ giúp cậu ta, sói xám đệ đệ liền sợ đến phát khóc”.

Một nụ cười nở trên môi Tức Trạch: “Làm tốt lắm”.

Phượng Cửu thở dài: “Nhưng sau đó cậu ta biết được là ta đã lừa gạt cậu ta, liền đuổi theo ta suốt hai tháng trời”.

Tức Trạch nói: “Chỉ đuổi có hai tháng thôi ư?”.

Phượng Cửu bất lực liếc nhìn chàng: “Bởi vì hai tháng sau là tới kỳ thi cuối năm, cậu ta muốn chép bài môn lịch sử thời thượng cổ của ta”.

Tức Trạch gật đầu nói: “Xem ra nàng rất giỏi môn lịch sử thời thượng cổ”.

Phượng Cửu có một thoáng sững sờ, nhưng lập tức gạt bỏ tạp niệm trong đầu, thẳng thắn nói: “Điều này, bởi vì từ nhỏ ta rất sùng bái một vị tôn thần, ngài ấy là đại anh hùng thời thượng cổ, một bộ lịch sử thời thượng cổ đều ghi lại những chiến công huy hoàng của ngài ấy, ta đương nhiên phải học giỏi rồi”.

Thấy Tức Trạch bỗng nhiên dừng bước, nàng cũng dừng lại, lại nói: “Thực ra hồi đó, ta còn muốn dốc sức học những môn học mà ngài ấy yêu thích, thật tiếc là ngài ấy lại thích môn Phật lý, môn học này ta lực bất tòng tâm. Ta vẫn luôn không hiểu trước đây ngài ấy suốt ngày đánh đánh giết giết, sau đó tại sao có thể học được Phật lý một cách tinh thông như vậy, rồi một ngày ta cuối cùng đã hiểu, người vung kiếm giết người, chưa chắc đã không thể bàn luận Phật lý. Thực ra ngài ấy còn thích câu cá, nhưng đáng tiếc là phu tử lại không dạy môn câu cá”. Nói xong lại thở dài một tiếng đầy tiếc nuối.


Chợt ngẩng đầu lên, trong mắt Tức Trạch ẩn chứa điều gì đó mà nàng không hiểu rõ, bàn tay của chàng ta chỉnh sửa lại vòng hoa có phần hơi lệch trên đầu nàng, hạ thấp giọng nói: “Nàng đã làm rất nhiều việc vì người đó”.

Phượng Cửu nhận thấy đây là một lời khen ngợi, có chút ngại ngùng, tiện tay lấy chiếc mặt nạ bằng gỗ trên tay chàng đeo lên mặt, giọng nói ồm ồm vọng ra từ phía sau tấm mặt nạ: “Chuyện đó… chuyện đó thực ra cũng không đáng gì, chẳng qua hồi nhỏ có chút ngốc nghếch mà thôi”. Bỗng nghe thấy tiếng reo hò nhộn nhịp phía trước, nhón gót lên nhìn, lập tức túm lấy tay áo của Tức Trạch, giọng nói vui vẻ hơn ban nãy rất nhiều, hứng khởi nói: “Hình như các cô nương đang ném túi hương ở phía trước, đi, đi, chúng ta cũng tới đó xem xem!”.

02.

Trong ngày tết Nữ nhi ở bộ tộc Tỷ Dực Điểu, Phượng Cửu đã từng nghe nói việc các cô nương ném túi hương.

Nghe nói vào ban đêm trong thành có một ngôi lầu cao mọc lên, tên là Vụ Nữ Lâu, là lễ vật đính ước mà Vụ Nữ quân - người cai quản sao Vụ Nữ tặng cho một vị vương tử của tộc Tỷ Dực Điểu. Vụ Nữ quân đã bỏ ra không ít công sức, tuy nhiên bộ tộc Tỷ Dực Điểu thường không lấy người ngoại tộc, hai người mặc dù có tình cảm, nhưng cuối cùng chỉ có thể than hai tiếng vô duyên, để lại một tòa tháp cô độc chỉ xuất hiện vào đêm tết Nữ nhi, để các cô nương có tâm sự được lên đài cao, vẹn tròn niềm mong mỏi trong lòng họ.

Trong truyền thuyết, đêm xuống, các cô nương mang theo túi hương chính tay mình thêu trèo lên lầu cao, nếu người trong lòng của mình đi ngang dưới lầu sẽ ném túi hương lên người đó, nếu chàng ta có ý sẽ nhận túi hương, nếu vô ý sẽ vứt bỏ túi hương, nhưng nếu đã nhận túi hương sẽ phải đi chơi một đêm với cô nương đã ném túi hương.

Từ tận đáy lòng Phượng Cửu cảm thấy rằng đây quả thực là một trò chơi vừa có tình lại vừa thú vị, nếu mấy vạn năm trước ở Thanh Khâu có trò chơi này, Mê Cốc cũng không đến nỗi độc thân tới tận bây giờ.

Nàng hăng hái hồ hởi dẫn Tức Trạch đi thẳng tới Vụ Nữ Lâu, trên đường đi lại ngang qua sạp hàng bán người bột ban nãy, anh chàng bán người bột vội vàng vẫy gọi họ: “Tiểu thư vội vàng như vậy có phải muốn tới Vụ Nữ Lâu? Xin khuyên tiểu thư một câu, công tử nhà tiểu thư có ngoại hình quá tuấn tú, không thể tới nơi đó được đâu!”.

Trong lúc vội vàng Phượng Cửu còn không quên quay đầu lại cảm ơn anh chàng đó một câu, vui vẻ nói: “Chúng ta chỉ tới xem trò vui thôi, chàng ta đã có nơi có chốn rồi, đương nhiên sẽ không nhận túi hương của các cô nương một cách bừa bãi đâu, cảm ơn tiểu ca nhắc nhở”.

Anh chàng ấy lại nói gì đó, tiếng nói chìm lẫn vào trong tiếng của đám đông, nhưng câu nói vừa rồi của anh chàng đó cũng nhắc nhở Phượng Cửu, nàng không yên tâm quay sang nhìn Tức Trạch, nói: “Những lời ta nói ban nãy, ngài đều nghe rõ cả chứ?”.

Tức Trạch tự nhiên nắm lấy tay nàng đề phòng hai người bị đám đông tách rời: “Ừm, ta đã có nơi chốn rồi”.

Phượng Cửu gỡ mặt nạ ra, vẻ mặt rất trịnh trọng: “Á, câu nói này cũng là câu của ta, nhưng đó không phải là trọng điểm, điều quan trọng là ngài tuyệt đối không thể nhận túi hương của các cô nương một cách bừa bãi, có hiểu không?”.

Ban nãy quên dặn dò chàng ta, một thanh niên cô độc không có tuổi thơ như Tức Trạch, lúc này thấy thứ gì cũng sẽ cảm thấy mới lạ, từ việc chàng ta thích quả cầu, mặt nạ tới khóa bát quái là có thể nhận thấy một phần. Nếu chàng ta cảm thấy túi hương của các cô nương cũng rất mới lạ, lại tò mò nhận túi hương của họ… cô nương ném túi hương sẽ nghĩ rằng tâm nguyện của mình đã thành sự thật, chàng ta lại chỉ muốn vui chơi một chút, khi các cô nương biết được, đau khổ khóc lóc một hồi còn tốt, nếu ai đó nghĩ quẩn, gieo mình từ trên Vụ Nữ Lâu xuống…

Nghĩ tới đó, nàng cảm thấy trong lòng trĩu nặng, lại nói với chàng ta lần nữa: “Nhất định không được nhận túi hương của bọn họ, hiểu không?”.

Tức Trạch chăm chú nhìn nàng, trong ánh mắt ẩn chứa một nụ cười, đáp: “Ừm, hiểu rồi”.

“Thật sự đã hiểu rồi chứ?”.

“Thật sự hiểu rồi”.

Phượng Cửu thở phào nhẹ nhõm.

Đáng tiếc rằng nàng vừa mới thở phào một cái, từ Vụ Nữ Lâu ở phía trước, các túi hương đã bay thẳng vào hai người bọn họ.

Phượng Cửu chau mày, trong truyền thuyết, khi các cô nương ném túi hương, nhận hay không nhận là tùy vào các công tử, ném, chẳng qua thứ được ném đi là một cơ hội, một duyên phận. Nhưng mấy cái túi này lại dường như dính chặt vào người chàng ta, kiểu ném này lại là một sự cưỡng cầu.

Nàng cuối cùng đã hiểu được lời nhắc nhở của anh chàng bán người bột kia có ý gì.

Làn gió đưa hương thơm từ trên Vụ Nữ Lâu bay xuống, một hàng mỹ nhân đứng tựa vào lan can trên lầu khẽ cười, một loạt mỹ nhân khác đang vui vẻ huyên náo định xuống lầu mời vị công tử bị túi thơm rơi trúng, cũng chính là mời Tức Trạch thần quân thực hiện lời hứa.

Đại nương bán son phấn bên cạnh lầu nhìn Phượng Cửu vẻ thông cảm: “Cô nương chắc là người nơi khác đến đây nên đêm nay mới đưa người thương tới chỗ này phải không?”.

Phượng Cửu không để ý tới cách gọi người thương của vị đại nương kia, sán lại gần hỏi: “Sao đại nương biết chúng ta từ nơi khác tới? Đại nương có biết, tại sao những túi thơm kia không thể gỡ xuống được không?”.

Đại nương cả đời bán son phấn dưới chân Vụ Nữ Lâu đương nhiên biết rõ, thần sắc khó đoán, nói: “Trước đây những túi thơm này quả thực chỉ là loại túi thơm thông thường, Vụ Nữ Lâu cũng thực sự là nơi cầu lương duyên, nhưng một trăm năm trước trong thành xuất hiện một mĩ nam có dung mạo trác tuyệt, là người trong mộng của rất nhiều vị tiểu thư. Các cô nương vì muốn được làm bạn một đêm với vị mỹ nam tử này đã tập trung sức lực của tập thể, làm ra loại túi thơm khi ném vào người khác sẽ không thể gỡ xuống này”. Xuýt xoa một tiếng: “Vị mỹ nam tử đó vì thế đã không thể không một mình đi chơi khắp Vương thành cùng bảy mươi ba tiểu thư trong đêm tết Nữ nhi. Lão vẫn còn nhớ đêm đó, quả đúng là một cảnh tượng kỳ lạ hiếm có”.

Trong đầu Phượng Cửu thầm tưởng tượng một hồi, tán thưởng nói: “Quả đúng là một cảnh tượng kỳ lạ hiếm có. Không biết sau đó vị mỹ nam tử kia đã lấy ai trong số bảy mươi ba vị tiểu thư kia, tuy nhiên cho dù lấy ai, chắc cũng đều là một giai thoại”.

Vị đại nương nhìn lại nàng với vẻ thông cảm: “Sau đó ư, sau đó vị mỹ nam tử chín đời độc đinh này đã đoạn tụ luôn”.

Phượng Cửu sững sờ, quay phắt lại nhìn Tức Trạch. Thảo nào các trang nam tử qua qua lại lại trước lầu trong đêm nay đều là hạng đui què mẻ sứt, thảo nào Tức Trạch vừa xuất hiện đã bị ném túi thơm đầy người. May mà thân thủ của chàng ta nhanh nhẹn, có thể vì mải bảo vệ che chắn cho nàng, lại thêm không để ý tới việc bị ném túi thơm, trên người mới khó tránh khỏi việc bị trúng vài túi.

Là do nàng cố ý kéo Tức Trạch tới đây, mặc dù nàng không cố tình nhưng nếu Tức Trạch đi theo lối mòn của người đi trước, cũng bị biến thành đoạn tụ ở đây… điều này thật không thể tưởng tượng nổi.

Nàng không dám tưởng tượng thêm, nắm lấy tay của Tức Trạch, kéo chàng ta bỏ chạy. Chỉ nghe loáng thoáng phía sau có giọng nữ nũng nịu vang lên: “Công tử, đừng bỏ chạy…”. Nàng càng cắm đầu kéo Tức Trạch chạy nhanh hơn.

Đám đông lũ lượt mở đường, tiếng gió vù vù thổi phía sau lưng, trên đường bỏ chạy cũng giẫm nát vài đóa hoa mộc lan rơi xuống.

Đèn đường dần dần trở nên thưa thớt, Tức Trạch - người đang bị kéo chạy theo phía sau chậm rãi nói: “Sao bỗng nhiên lại bỏ chạy?”.

Phượng Cửu nghe thấy câu hỏi này, nhớ tới đám mỹ nhân ở trên lầu, lập tức rùng mình một cái: “Không chạy thì còn làm gì nữa? Lẽ nào ngài muốn suốt đêm ở bên cạnh họ, đưa họ đi chơi đêm khắp Vương đô?”.

Tức Trạch dừng lại một chút: “Nàng không muốn ta đi cùng bọn họ?”.

Vừa nói vừa kéo Phượng Cửu vào một ngõ nhỏ, nơi này tuy ít đèn hơn một chút nhưng hoa phật linh và hoa mộc lan lại dày đặc hơn ở chợ đêm nhiều, mặt trăng cũng ló ra từ trong đám mây, tỏa ánh sáng vằng vặc.

Phượng Cửu đứng vững, vừa thở hổn hển vừa thầm nghĩ, đây đúng là một câu hỏi thừa thãi, ta đương nhiên không hy vọng ngài bị bọn họ biến thành đoạn tụ rồi, nhưng vừa rồi trong lúc chạy gấp nàng nói mấy câu, giờ hụt hết cả hơi, lúc này ngay cả việc ừ một tiếng cũng không ừ nổi, chỉ có thể miễn cưỡng gật đầu. Cái gật đầu này, lại dường như khiến Tức Trạch rất hài lòng.

Hoa phật linh và hoa mộc lan dập dềnh bay lượn, trong ngõ yên lặng một cách kỳ lạ, chỉ có thể nghe thấy tiếng thở hổn hển của nàng. Ban nãy chạy nhanh như vậy nhưng vòng hoa đội trên đầu cũng không bị rớt xuống, mái tóc dài buông xõa giống như một tấm lụa đen rủ xuống từ vòng hoa, mồ hôi hai bên Thái Dương dính ướt vài lọn tóc, bông hoa phượng vũ giữa trán trở nên vô cùng diễm lệ, khuôn mặt trắng ngần cũng ửng hồng.

Nàng quả thực rất xinh đẹp, nhưng vì tuổi còn nhỏ, còn chưa có vẻ phong tình, nhưng lúc này, lại giống như một mỹ nhân đã trưởng thành vô cùng phong tình quyến rũ.

Chiếc mặt nạ bằng gỗ bách đang đeo trên cổ nàng, tai hồ ly trên mặt nạ vướng vào cằm nàng, cọ vào cằm khiến nàng thấy khó chịu, đưa tay định đẩy ra, nhưng nó lại bật ngược trở lại, nàng lại đẩy tiếp, động tác này có vẻ trẻ con.

Tức Trạch bước lại gần, đưa tay giúp nàng giữ chặt chiếc mặt nạ, chỉ giữ như vậy, không nói giúp nàng gỡ ra, cũng không nói sẽ không giúp nàng gỡ ra. Đôi mắt đẹp của chàng ta nhìn nàng.

Phượng Cửu không biết chàng ta muốn làm gì, cũng ngước mắt lên nhìn lại, ánh mắt quấn lấy nhau hồi lâu, nàng mới chậm chạp cảm thấy rằng, bầu không khí lúc này không ổn lắm. Thấy Tức Trạch nghiêng người về phía mình, nàng vội vàng lùi lại phía sau một bước, mở miệng nói: “Lâu lắm rồi không chạy như thế này…”. Những tiếng cuối cùng còn chưa kịp thốt ra đã bị Tức Trạch nuốt gọn. Một tay chàng vẫn giữ chiếc mặt nạ, một tay ôm eo nàng khẽ thì thầm bên môi nàng: “Ta cũng vậy”.

Phượng Cửu chớp chớp mắt, đưa tay đẩy Tức Trạch ra, nhưng không đẩy được, hơi thở của chàng lướt qua môi nàng, khiến nàng cảm thấy ngưa ngứa. Bàn tay nàng đặt lên lồng ngực chàng, đẩy nhưng không được, không đẩy thì không ra sao, nàng lại đẩy thêm một lần nữa, vẫn không đẩy được. Còn muốn đẩy thêm nữa, cảm thấy bàn tay đang ôm eo nàng bỗng ép mạnh, cả người nàng nép sát vào người chàng. Nàng giật mình, mở miệng khẽ kêu lên một tiếng. Nàng nhìn thấy nụ cười lướt qua đôi mắt đen láy của chàng, trong chốc lát có một vật gì đó vừa trơn vừa mềm trượt vào trong miệng nàng, đầu óc nàng nổ rầm một tiếng, chấn động nhận ra rằng đó là lưỡi của chàng.

Đôi mắt của chàng vẫn rất trầm tĩnh, dường như đã được ánh trăng thắp sáng, đầu lưỡi cuốn lấy đầu lưỡi nàng tấn công từng chút một, nàng không biết chàng muốn ép bản thân mình tới đâu, lờ mờ cảm thấy rằng cứ tiếp tục như vậy cũng không phải cách, nàng thử động đầu lưỡi cứng đơ của mình. Nhận thấy Tức Trạch hơi sững lại. Việc này lại càng khích lệ nàng, vụng về cuốn lấy lưỡi của Tức Trạch đẩy lưỡi của chàng ra, Tức Trạch chăm chú nhìn nàng, lưỡi chàng lại hết sức phối hợp, để mặc nàng ép lên lưỡi chàng cho tới lúc lưỡi nàng trượt sâu vào trong miệng chàng.

Đôi khi nàng quả thực rất hiếu thắng, cũng thích tỏ ra mạnh mẽ, mà một khi tâm lý hiếu thắng được nhen nhóm, thì không thu lại được ngay. Mùi hương bạch đàn bao trùm lấy nàng, là mùi hương trên người Tức Trạch. Đầu óc nàng trở nên trống rỗng, theo bản năng hiếu thắng, chỉ muốn cũng ép Tức Trạch đến mức hết đường lui mới thôi.

Tay nàng bám lên vai chàng, nhón chân, nép sát môi của mình vào môi của chàng, đầu lưỡi lục lọi quấn quýt trong miệng chàng, tự cho rằng rất có tính công kích. Mãi lâu sau, khi môi lưỡi nàng rời khỏi miệng Tức Trạch, cảm thấy cuống lưỡi hơi tê tê, đau đau, còn thở hổn hển. Hơi thở của Tức Trạch lại rất đều đặn, phả vào đầu mũi của nàng, miệng của chàng di chuyển tới khóe môi nàng, đùa nghịch làn môi khiến nàng run rẩy, chàng dừng lại một chút bên khóe môi nàng, sau đó buông nàng ra.

Mặt nạ bằng gỗ bách lại được đeo trên cổ nàng, tai của hồ ly vẫn cọ vào cằm nàng.

Thời gian dường như lắng động cuối cùng lại bắt đầu chuyển động, những đám hoa mộc lan tụ lại quanh người bắt đầu tách ra, va vào nhau tạo ra những đốm sáng, hệt như ánh đom đóm trong ngày hè.

Phượng Cửu cảm thấy mông lung hồi lâu, ngẩn ngơ hồi lâu, ý thức được ban nãy mình vừa làm gì, trở nên trầm lặng hồi lâu.

Tức Trạch vuốt ve vòng hoa trên đầu nàng, nàng nghiêng đầu né tránh, bỏ mặc tay chàng dừng lại giữa lưng chừng không, vừa hay một đóa mộc lan rớt xuống, chạm vào đầu ngón tay, đốm sáng vỡ vụn, giống như một gợn sóng trong lòng bàn tay.

Nàng đứng trong bóng tối, nói: “Ta…”, cứ ta, ta ấp úng hồi lâu, vẫn không nói tiếp được, thấy Tức Trạch không để ý tới nàng, hồi lâu, trong giọng nói có chút áy náy, nói năng lộn xộn: “Ta không biết ban nãy mình đã làm gì nữa, tối nay ta vốn dĩ cảm thấy rất vui vẻ, giống như hồi nhỏ vô lo vô nghĩ, thực ra lúc nãy, vốn dĩ ta rất vui”.

Tức Trạch nhìn nàng: “Tại sao bây giờ lại không vui nữa?”.

Nàng trấn áp sự bối rối, cố giả bộ điềm tĩnh: “Gần đây ngài đã giúp đỡ ta rất nhiều, ta cảm thấy mối giao tình giữa hai chúng ta đã xứng đáng với hai chữ bằng hữu, hoặc giả ta đã làm điều gì đó khiến chàng hiểu nhầm, nhưng đó không phải là ý của ta. Chúng ta mặc dù mang danh vợ chồng, nhưng đây cũng không phải là ý của hai chúng ta. Chúng ta hãy làm bạn tâm giao, ngài cảm thấy có được không?”.

Tức Trạch lạnh lùng nói: “Nàng cảm thấy như vậy sẽ tốt ư?”, thần sắc điềm tĩnh, hỏi: “Vậy ban nãy, nàng nghĩ tới ai?”.

Nàng nghĩ tới ai? Nàng đương nhiên chẳng nghĩ tới ai cả, nàng chỉ cảm thấy ban nãy bản thân mình đã bị trùng tà nên mới hiếu thắng trong chuyện đó. Lắc đầu quầy quậy nói: “Ta chẳng nghĩ tới ai cả, ngài đừng vu oan cho ta”. Nàng chỉ mong chàng ta mau mau bỏ qua chuyện này, lại bổ sung thêm: “Ta nghe nói không có chấp niệm, không vọng tâm có rất nhiều lợi ích. Trước đây ta không như vậy, giờ lại muốn biến thành như thế, ta không muốn có chấp niệm và vọng tâm, cũng không muốn bản thân mình trở thành chấp niệm và vọng tâm của người khác. Ta nói như vậy ngài hiểu chứ?”.

Tức Trạch lặng lẽ nhìn nàng, khi nàng nói những lời này, hoàn toàn không giống vẻ ngây thơ khi thỏa sức chạy nhảy đùa giỡn giữa những đóa mộc lan ban nãy, trong thần sắc lại ẩn chứa một vẻ thận trọng hiếm thấy. Quả nhiên, vẫn quá nhanh. Có lúc chàng cảm thấy nàng rất thông mình, nàng lại rất ngốc nghếch, có lúc cảm thấy nàng rất ngốc nghếch, nàng lại rất thông minh. Muốn giảm bớt sự cảnh giác của nàng, xem ra chỉ có thể thuận theo ý của nàng trước.

Ánh mắt của chàng dừng lại trên người nàng, giây lát, nói: “Ban nãy chỉ là do chất độc trong người ta còn chưa giải được hết, nàng đang nghĩ gì vậy?”.

Phượng Cửu ngớ người.

Ban nãy khi Tức Trạch hôn nàng, nàng đương nhiên đã nghĩ tới việc hoặc là Tức Trạch lại trúng độc, hoặc là chàng ta thích nàng nên mới hôn. Nàng cảm thấy rằng chàng ta không thể xui xẻo đến như vậy, cả hai lần đều bị trúng độc, vậy đương nhiên là cũng có chút thích nàng, mà nàng lại hôn lại, rõ ràng là đầu nàng đã bị kẹp vào cánh cửa rồi.

Nàng lấy hết dũng khí, tự cho rằng đã nói được một lời giãi bày hợp lý lại không gây tổn thương lòng tự trọng của Tức Trạch, nhưng không ngờ chàng ta lại chỉ vì chất độc còn chưa giải hết, có thể bản thân mình hôn lại chàng ta là vì mình cũng bị nhiễm chất độc trên người chàng ta. Quả nhiên vẫn là do độc.

Tức Trạch hỏi nàng đang nghĩ gì, nhất định là đã nhận ra việc nàng cảm thấy chàng thích nàng, câu nói này chắc chắn ám chỉ rằng nàng đã nghĩ quá nhiều, nàng quả thực đã suy nghĩ quá nhiều, nghĩ đến đó, khuôn mặt liền đỏ ửng vì hổ thẹn, gượng cười lấp liếm nói: “Ồ, hóa ra là chất độc còn tồn dư, ta… con người ta tâm tư tinh tế, có lúc dễ suy nghĩ hơi nhiều, ngài đừng cười nhé, ha ha… ha ha. Có điều chất độc mà ngài trúng phải cũng thật lợi hại, đã mười mấy ngày rồi mà vẫn chưa hóa giải được hết, không nghiêm trọng đấy chứ?”.

Tức Trạch trầm lặng nhìn nàng hồi lâu, đắn đo nói: “Chất độc của giao long, có lợi hại hơn bình thường một chút, nhưng cũng không quá nghiêm trọng”.

Phượng Cửu dựa vào góc tường, nhất thời không biết nên nói thêm điều gì, thấy Tức Trạch không nói gì nữa, bầu không khí trở nên gượng gạo, hồi lâu, nói: “Vậy mấy ngày vừa rồi khi chất độc phát tác, ngài chắc chắn đã rất khó chịu phải không?”.

Tức Trạch thản nhiên nói: “Ừm, đều phải cố gắng kìm nén”.

Phượng Cửu khẽ ồ một tiếng, ngõ nhỏ lại trở nên yên lặng trong giây lát, dưới bầu không khí yên lặng, trong đầu nàng lại hiện lên một câu hỏi, muốn kìm chế không hỏi, cuối cùng lại không kìm chế được, cất giọng: “Nếu đã đều phải cố gắng kìm nén, vậy ngài… ban nãy sao ngài không cố gắng kìm nén?”.

Tức Trạch thẳng thắn nói: “Kìm nén quá nhiều cũng không tốt”. Lại nói: “Nàng đã nói chúng ta là bạn tâm giao, nếu đã là bạn bè, chắc nàng sẽ không để tâm khi giúp đỡ ta một việc nhỏ chứ”.

Không hiểu sao Phượng Cửu lại có chút bực mình, nhưng Tức Trạch nói cũng có lý, hơn nữa, nếu lúc này nổi giận thì chứng tỏ bản thân mình quá hẹp hòi, đành tiếp tục cười ha ha nói: “Ta đương nhiên không để tâm, nhưng dù sao ngài cũng đã kìm nén lâu như vậy rồi…”.

Tức Trạch chăm chú nhìn nàng: “Chính bởi vì đã kìm nén rất lâu rồi, khi không cần kìm nén mới không kìm nén nữa”. Không đợi Phượng Cửu trả lời, chàng đã đưa tay ôm ngực, nhíu mày làm bộ đau đớn, nói: “Ban nãy chạy gấp quá, vết thương dường như lại vỡ miệng, ta thấy hơi đau, hãy quay về thôi”.

Đã mười mấy ngày rồi vẫn còn chất đôc, hơn nữa miệng vết thương còn chưa lành, nhưng Tức Trạch lại nói không nghiêm trọng. Rõ ràng đang muốn lừa nàng. Bản tính của Phượng Cửu đôi khi rất quan tâm đến người khác, lúc này đã quên hết cảm giác gượng gạo ban nãy, trong lòng chỉ còn lại cảm giác lo lắng, vội tiến lên một bước đỡ lấy Tức Trạch nói: “Ta thấy vết thương này của ngài còn chưa ổn định, sớm biết thế này đã không đi ra ngoài rồi, mau quay về thôi, ta sẽ bảo người chữa trị cho ngài”. Khi nàng cau mày lo lắng đỡ lấy Tức Trạch, lại không thấy một nụ cười đắc thắng trên khóe môi của chàng ta.

Trà Trà vẫn còn ở Kỳ Nam thần cung, tiểu cung nữ thay thế cho nàng ta có một khuôn mặt thông minh nhưng vì tuổi còn nhỏ, có một số việc lại không biết cân nhắc như Trà Trà. Ví dụ như vấn đề đêm nay Tức Trạch sẽ nghỉ ở đâu.

Nếu là Trà Trà, chắc sẽ lặng lẽ thần không biết quỷ không hay bỏ thêm một chiếc gối vào giường của Phượng Cửu mà thôi. Tiểu cung nữ thay cho nàng ta lại rất thận trọng, việc gì cũng phải hỏi ý kiến của Phượng Cửu: “Điện hạ, đem này thần quân vẫn nghỉ trong sương phòng như thường lệ ạ? Điện hạ đã chuẩn bị phòng nghỉ ở cả sương phòng phía Đông và sương phòng phía Tây cho thần quân, nhưng không biết thần quân muốn nghỉ ở phòng phía Đông hay phía Tây?”.

Thực ra Tức Trạch đang thoải mái nằm trên giường của Phượng Cửu, dược sư vừa tới thăm khám vết thương trên người chàng ta.

Trên người chàng ta vốn dĩ chẳng có vết thương nào, không ngờ Phượng Cửu đêm hôm khuya khoắt vẫn có thể mời được dược sư, chướng nhãn pháp có máu lại không che giấu nổi thần tiên, vậy là đành phải tự tạo một vết thương trên lồng ngực, lúc này chàng ta đang thực sự dưỡng thương.

Phượng Cửu ngáp một cái hỏi Tức Trạch: “Đã muộn rồi, ngài muốn nghỉ ở sương phòng phía Đông hay phía Tây?”.

Lồng ngực của Tức Trạch được băng bó, hai mắt nhắm nghiền, cũng không buồn ngẩng đầu lên, nói: “Ta cảm thấy ta không thể nhúc nhích được nữa, đêm nay ta sẽ nghỉ ở đây vậy”.

Phượng Cửu díp hết cả mắt lại, ngáp một cái, nói: “Cũng được, đêm này ngài cứ nghỉ ở đây, ta sẽ tới sương phòng phía Đông nghỉ ngơi, à, cần phải để một đứa hầu túc trực ở trong phòng, nếu có việc cũng tiện sai nó tới thông báo cho ta”.

Tức Trạch vẫn không động đậy, miệng nói: “Một kẻ hầu sao có thể chăm sóc chu đáo như bạn bè tâm giao được”. Làm ra vẻ nghi hoặc nhìn nàng, khẽ nói: “Chẳng phải nàng đã nói chúng ta là bạn tâm giao hay sao?”.

Bạn tâm giao, quả đúng là nàng đã nói như vậy. Nhưng khi nàng nói ra câu này, là chiếu theo cách làm của Tiểu Yến tráng sĩ. Tiểu Yến cũng là bạn tâm giao của nàng, thường cùng nàng uống rượu tâm tình, mặc dù không có văn hóa gì, nhưng luôn thử trở nên có văn hóa. Nhưng người bạn tâm giao Tức Trạch này, lại cứ như ông lớn của nàng.

Nàng gãi gãi đầu một cách bất đắc dĩ, đành nói: “Thôi được, nhưng đêm này nếu chất độc lại phát tác, ngài phải kìm nén đấy”. Lại nghiêng đầu dặn dò tiểu cung nữ, chỉ vào bức bình phong sáu tấm phía trước giường nói: “Hãy chuẩn bị cho ta một chiếc giường nhỏ bên ngoài tấm bình phong”.

Phượng Cửu dễ mềm lòng, lại dễ bị kích thích tình mẫu tử, nếu đêm nay tình cảm của người mẹ trong lòng nàng vẫn mãi không dứt, chưa biết chừng không cần Tức Trạch nhắc nhở, nàng đã tích cực ở lại đích thân chăm sóc cho chàng. Đáng tiếc là nụ hôn của Tức Trạch lại khiến cho trái tim mềm nhũn thấm đượm tình yêu thương của người mẹ trong nàng bị rơi xuống một hố băng lạnh ngắt.

Tức Trạch đã phản tỉnh rất đúng, bước đó của chàng quả là hơi nhanh. May mà sau đó ứng biến thần kỳ, coi như đã cứu vớt được một nửa cục diện.

Mấy ngày Tức Trạch tạm nghỉ trong viện của Phượng Cửu để dưỡng thương, mỗi lần nàng định ra ngoài làm một việc gì đó thì chàng lại có triệu chứng của vết thương tái phát. Là một người bạn tâm giao, nàng đương nhiên không thể làm việc khác, chỉ có thể suốt ngày túc trực không rời nửa bước bên cạnh chàng.

May mà khi ở bên Tức Trạch lại không hề cảm thấy vô vị, còn khiến nàng hiểu biết nhiều hơn.

Ví dụ như việc uống trà, nàng vốn nghĩ rằng Đông Hoa pha trà thích dùng chén sứ men đen đã được coi là cầu kỳ, nhưng khi ở bên Tức Trạch mới biết rằng, cầu kỳ kiểu đó là cầu kỳ quá lố, ý vị lớn lao của việc uống trà là ở chỗ thiên địa hợp nhất, tựu địa thủ tài[4].

[4] Có nghĩa là dùng ngay nguyên liệu ở đó.

Đang đầu mùa hạ, trong đình viện đã có vài đóa sen nở, Tức Trạch bảo nàng đi kiếm mấy đóa, đặt lá trà vào trong nhụy hoa, đợi sau khi đêm xuống, cánh hoa khép lại, ủ lá trà bên trong, ngày hôm sau lấy ra dùng nước suối từ trên núi chảy xuống để đun trà, cho dù uống bằng cốc lớn, thì cũng là uống hương vị thiên nhiên tuyệt diệu, tự nhiên sẽ thấy thú vị.

Lại ví dụ như hoa cỏ trong đình viện, trước đây nàng chỉ biết thích cành nào thì ngắt vài ba cành về chơi trong lọ, chưa từng nghe nói tới việc cắm hoa vào trong chậu. Tức Trạch lại có hứng thú nhàn tản, lấy một chiếc bát rộng làm chậu hoa, đổ đầy đất vào trong đó, lựa chọn những cành non trong vườn hoa cắm vào trong đất, điểm xuyết những hòn đá linh bích, thêm những đóa hoa nhỏ liền trở thành một tiểu cảnh sơn thủy hết sức phong lưu. Những cánh hoa thừa còn lại thi thoảng còn được chàng tết thành những con bướm hay con thỏ cho nàng.

Thi thoảng họ cũng chơi cờ, nàng đương nhiên không phải là đối thủ của chàng, nhưng chàng không phải lúc nào cũng giành phần thắng, thi thoảng cũng nhường cho nàng thắng một hai ván, nhưng việc nhường đó cũng rất có học vấn, nhường một cách có lý có tình, không hề lộ liễu.

Khi nàng trằn trọc khó ngủ, chàng liền đọc sách cho nàng nghe qua tấm bình phong, giọng đọc của chàng trầm ấm, khi dịu dàng giống như gió nhẹ mơn man trên khuôn mặt, nhanh chóng khiến nàng chìm vào giấc ngủ. Mỗi lần như vậy, nàng đều cảm thấy rằng có một người bạn tâm giao có văn hóa thật hiếm có biết bao, nàng có thể tưởng tượng được rằng nếu Tiểu Yến đọc sách cho nàng nghe, nhất định có tới một nửa số chữ trong sách mà chàng ta không biết, cần phải thỉnh giáo nàng, chỉ có thể càng đọc càng khiến cho nàng thêm tỉnh táo.

Càng ở bên nhau, nàng cảm thấy Tức Trạch là một con người thú vị, ở bên chàng như vậy, thời gian trôi đi rất nhanh, nàng chẳng để ý tới thời gian nữa.

Hôm nay nàng bỗng nổi hứng, đích thân xuống bếp chuẩn bị thuốc cho Tức Trạch, phía sau bụi trúc cạnh hành lang, hai cung nữ đang thì thầm to nhỏ, lời thì thầm bàn tán vô tình lọt vào tai nàng: “Ta đã nói là thần quân thực ra có tình cảm rất sâu sắc với điện hạ của chúng ta mà lại, nghe nói trong đêm tết Nữ nhi, biển hoa trong khắp Vương đô là tác phẩm của thần quân, chắc chắn điện hạ đã động lòng rồi, từ sau đêm đó, điện hạ và thần quân ở riết trong phòng, ngày đêm bên nhau, tính ra đã được sáu ngày rồi, oa… chưa biết chừng phủ chúng ta sắp có thêm một tiểu điện hạ nữa, ngươi nói xem chúng ta có nên chuẩn bị một ít quần áo trẻ con, tới lúc đó nhờ Trà Trà tỷ tỷ mang cho tiểu điện hạ, nghĩ tới việc tiểu điện hạ mặc quần áo do chúng ta may chạy đi chạy lại bắt bướm trong sân viện, chẳng phải sẽ rất vui sao, thần quân ngài phải hành động nhanh hơn chút nữa…”.

Phượng Cửu trượt chân một cái, suýt nữa cắm đầu vào hồ cá ngay bên cạnh, may mà nàng nhanh tay bám được vào lan can. Nhưng qua lời nhắc nhở đó, nàng mới chợt nhận ra bản thân mình đã quanh quẩn bên Tức Trạch suốt sáu ngày rồi. Nàng vốn là một người không thể ngồi yên một chỗ, lần này lại có thể ở trong phòng suốt sáu ngày… Từ tận đáy lòng nàng cảm thấy kinh ngạc. Lại nghe hai cung nữ kia nói rằng Tức Trạch có tình cảm sâu đậm với nàng, còn mong mỏi hai người đóng cửa ở trong phòng để tạo ra một tiểu điện hạ nữa. Nàng có phần dở khóc dở cười, khóe môi giật giật suốt dọc đường đi xuống bếp.

Đợi đến khi bê thuốc về phòng, vốn định kể câu chuyện thú vị này cho Tức Trạch nghe, trong chính phòng sáng sủa, lại không thấy bóng dáng của chàng đâu, nhưng trên chiếc bàn dài cạnh cửa sổ lại có một mẩu giấy ghi lời nhắn.

Trên trang giấy, nét bút uốn lượn rất có khí thế, nói rằng phải ra ngoài một chuyến, hôm nay hoặc ngày mai sẽ quay về. Ra ngoài làm gì, chàng lại không nói rõ.
 
Tham gia
6/7/19
Bài viết
101
Điểm cảm xúc
41
Điểm
28
01.

Trường Phượng Cửu học khi nàng còn nhỏ dạy rất tạp, cái gì cũng dạy, do đó nàng đã từng học Phật, cũng từng học Đạo. Nàng cho rằng, điều quan trọng nhất trong chữ Đạo là hài hòa, ví dụ đã có trời thì sẽ có đất, đây là một kiểu hài hòa. Có nam thì sẽ có nữ, đây cũng là một kiểu hài hòa. Tức Trạch đi rồi, Tô Mạch Diệp trở về, đây cũng là một kiểu hài hòa.

Khi Mạch thiếu gia đột nhiên xuất hiện ở Hồ Trung Đình, Phượng Cửu đang bám vào lan can hờ hững cho cá ăn.

Nghe có tiếng động phía sau lưng, hững hờ quay đầu lại, khi nhìn kỹ bộ dạng của Tô Mạch Diệp, rùng mình một cái suýt nữa thì ngã từ trên lan can xuống.

Tô Mạch Diệp, Tô nhị hoàng tử đệ nhất phong nhã đệ nhất phong lưu của Tây Hải lúc này đầu tóc rũ rượi, hai mắt đỏ ngầu, trên bàn tay thon dài là một bình trà lớn, hào sảng dốc trà lạnh vào miệng mình.

Yên lặng trong giây lát, Phượng Cửu tự cấu mình một cái, xác định bản thân mình lúc này không hề nằm mơ, sán lại gần nghi hoặc nói: “Mạch thiếu gia, bộ dạng này của ngài, lẽ nào là do đêm qua đã xông vào khuê phòng của cô nương nhà nào đó rồi bị phụ thân của cô nương ấy vác gậy đuổi đánh?”.

Tô Mạch Diệp quẳng bình trà xuống, liếc nhìn nàng một cái, ánh mắt ẩn chứa vẻ bi phẫn: “Tức Trạch mời ta tới thần cung giúp ngài ấy chế tạo một loại pháp khí, đúng vào lúc quan trọng, ngươi sai Trà Trà đem kẹo hồ ly gì đó tới, ngài ấy nhận thứ quà quỷ quái đó, chẳng nói thêm lời nào giao phó toàn bộ việc còn lại cho ta, sau khi xuống núi lại không buồn quay về. Ta vô cùng mệt mỏi, lúc này tay chân đã cứng đơ, mặt mũi cũng cứng đơ rồi”.

Thấy vẻ kinh ngạc trên khuôn mặt nàng, thở dài nói: “Ta nói những lời đó không phải vì muốn trách tội ngươi, nhưng ngươi phải thông cảm, bộ dạng ngày hôm nay của ta là bộ dạng của bảy, tám ngày hao tổn tiên lực hơn nữa còn chưa hề chợp mắt, lúc này đây vẫn còn hơi sức để nói truyện với ngươi, thực sự là nhờ phúc của Tây Hải, còn nhờ ta cao số”.

Ban nãy Phượng Cửu có chút sửng sốt, thực ra lại không liên quan tới chuyện áy náy, chỉ là cảm thấy Tức Trạch quá muốn báo đáp ân tình. Nhìn dung nhan ủ rũ phờ phạc của Mạch thiếu gia lúc này, trong lòng nàng không hiểu sao lại nhen lên một cảm giác thông cảm, an ủi chàng ta: “Ngài xem, Tức Trạch là một người tri ân, ngài có công lớn như vậy với ngài ấy, đợi khi thứ pháp khí kia thành công, không biết ngài ấy sẽ báo đáp ngài như thế nào nữa, chỉ nghĩ đến thôi cũng khiến người ta kích động”. Nói đến đó, quả nhiên có chút kích động, xúc động nói: “Tuy nhiên, Mạch thiếu gia, ngài lại thiếu gì báu vật, cũng không thích mỹ nhân, ta đoán rằng ngài ấy nhất định sẽ lựa chọn một cách báo ân có tình có nghĩa, càng đáng được trân trọng hơn, ví dụ như sẽ đích thân vào bếp làm một bữa tiệc để khoản đãi ngài…”.

Tài nghệ nấu nướng của Đế Quân là một thứ rất mơ hồ huyền hoặc hơn nữa cũng rất nguy hiểm. Lời than thở của Liên Tống như vẫn còn vang lên bên tai. Bình trà trong tay Mạch thiếu gia khẽ run rẩy, nói: “Nếu ngài ấy không nhớ tới việc báo đáp, ngươi tuyệt đối đừng có nhắc nhở ngài ấy đấy”. Thấy Phượng Cửu lộ vẻ nghi hoặc, đờ mặt bổ sung thêm: “Bởi vì mỗi ngày làm việc thiện là gia quy của Tây Hải chúng ta, cần phải không mong được báo đáp, khi giúp đỡ người khác còn mong báo đáp, sẽ bị tụt xuống một hạng, sẽ bị người trong tộc coi thường”.

Phượng Cửu lập tức hiểu ra, ánh mắt lộ rõ vẻ tán thưởng. Mạch thiếu gia hắng giọng, vội vàng chuyển sang chủ đề khác: “Chuyện này không nhắc đến nữa, lần này ta quay về, một là tới vương cung để lấy một thứ, hai là thực ra cũng có điều muốn hỏi ngươi, ở chỗ Trầm Diệp, mấy ngày qua có điều gì không ổn thỏa không?”.

Thế nào là ổn thỏa, thế nào là không ổn thỏa. Phượng Cửu trầm tư suy nghĩ về vấn đề này. Trầm Diệp mấy ngày gần đây trầm lặng nhốt mình trong Mạnh Xuân viện, trầm lặng đến nỗi nếu Mạch thiếu gia không nhắc tới, nàng sẽ quên mất trong phủ nàng còn có vị này, trong khái niệm của nàng, cái này được gọi là ổn thỏa. Nhưng nàng không biết liệu đây có phải là điều ổn thỏa mà Mạch thiếu gia cần không, hàm hồ nói: “Chàng ta không tới kiếm chuyện với ta, chắc có thể coi là ổn thỏa”.

Mạch thiếu gia bật cười một tiếng, trong thần sắc lại không thấy ý cười, đương nhiên để nhìn ra được ý cười trên khuôn mặt đó lúc này cũng là một chuyện khó khăn, nói: “Hắn ta vốn dĩ sẽ không tới kiếm chuyện với ngươi trước. Trước đây đối với A Lan Nhược cũng vậy, giờ đây đối với ngươi đương nhiên cũng phải như thế”.

Điều này gợi lên sự hiếu kỳ của Phượng Cửu, nàng nói: “Ta cũng đã từng nghe một vài tin đồn, nói rằng sau này Trầm Điệp đã vì A Lan Nhược mà vung một kiếm chém đứt ba mùa, tin đồn này còn được lan truyền rất rộng rãi, có thể thấy rõ tình cảm của chàng ta đối với A Lan Nhược. Nhưng vạn sự đều có nhân quả, ta cảm thấy, tình cảm này chắc không chỉ được nảy sinh sau khi A Lan Nhược đã mất đi, lần trước ngài kể cho ta nghe một nửa chuyện cũ của họ, hôm này ngài không ngại kể nốt nửa còn lại chứ?”.

Tô Mạch Diệp tựa lưng vào thành ghế, đưa mắt nhìn đám lá sen dày đặc trong hồ, nói: “Một nửa còn lại ư? Những điều ta biết được cũng không nhiều, những chuyện có bằng chứng rõ ràng, chẳng qua cũng chỉ có một vài chuyện mà thôi”. Lại nói: “Lần trước ta kể tới đâu rồi? Đến đoạn Trầm Diệp biết A Lan Nhược chính là người chấp bút viết thư cho mình, đùng đùng nổi giận, tới thư phòng của nàng ấy nói những lời đoạn tuyệt đúng không?”.

Phượng Cửu khẽ than thở nói: “Người xa lạ, kẻ thù, kẻ tử thù, chàng ta nói giữa họ chỉ có khả năng đó”.

Mạch thiếu gia lạnh lùng cười nói: “Hắn ta nên ghi nhớ câu nói này cả đời, suốt đời nên tuân thủ theo câu nói này. Việc này đối với A Lan Nhược mới là một điều may mắn”.

Trong đình bỗng trở nên yên lặng, hồi lâu, Tô Mạch Diệp khẽ nói: “A Lan Nhược có một phong độ, trong số những linh vật có tuổi thọ không quá một nghìn, là người ung dung phong khoáng nhất mà ta từng gặp”.

Có thể nhận thấy được phần nào sự phóng khoáng của A Lan Nhược sau lần gặp Trầm Diệp ở thư phòng. Nếu là những nữ tử khác, khi bị người trong lòng mình trách mắng bằng những lời lẽ nặng nề như vậy, mặc dù không đến nỗi dùng nước mắt để rửa mặt thì việc tự giam mình trong khuê phòng suốt ba, bốn ngày liền cũng là bình thường.

Nhưng cử chỉ hành động của A Lan Nhược lại giống như chuyện trong thư phòng chưa từng xảy ra.

Không cần nghĩ đủ cách quan tâm tới Trầm Diệp nữa, cuộc sống của nàng lại trở nên nhàn nhã hơn, ngoài những việc thường làm như luyện chữ, xem kịch ra, nhân lúc phu tử dạy bắn cung ở tông học về quê thăm người thân, nàng còn tới tông học dạy bắn cung thay vị phu tử đó mấy ngày. Mặt trời mọc thì ra đi, mặt trời lặn thì quay về, chung sống hòa bình với Trầm Diệp - người đang buồn bã giam mình trong Mạnh Xuân viện.

Mấy ngày này vì nàng tới dạy thay trong tông học nên thường xuyên tình cờ gặp Văn Điềm trong bộ dạng nhét mấy quyển sách trong tay áo, vội vội vàng vàng bước đi. Con người Văn Điềm cũng đúng với tên gọi của nàng ấy, không màng danh lợi, sau khi tan học cũng không thích ngao du với đám phu tử cùng dạy học, cuộc sống luôn rất quy củ nề nếp. Mấy ngày trước nàng có điều không phải với Văn Điềm, nghĩ nàng ấy suốt ngày vùi đầu trong sách vở, về nhà chắc cũng chỉ ngồi một mình bên đèn, chắc chắn sẽ rất buồn chán, thi thoảng gặp nàng ấy liền sai đầu bếp chuẩn bị thêm một đôi đũa, đưa Văn Điềm cùng về phủ dùng bữa tối.

Văn Điềm yêu cờ đến si mê, từng có duyên chơi cờ với Trầm Diệp, mặc dù A Lan Nhược không biết ván cờ của họ như thế nào, nhưng nhiều điệu bộ của Văn Điềm đoán rằng nàng ấy luôn lưu luyến khó quên. Cuối cùng, trong lần thứ ba khi nàng đưa Văn Điềm về phủ, nữ tiên sinh ngập ngừng hồi lâu, thận trọng hỏi nàng xem có thể tới Mạnh Xuân viện thăm Trầm Diệp, thỉnh giáo chàng ta một vài nước cờ được không.

Nàng đương nhiên đã chấp thuận.

Sắc mặt của Văn Điềm lộ rõ vẻ cảm kích.

Sau đó Văn tiên sinh thường xuyên ra vào Mạnh Xuân viện.

Mấy ngày đầu lão quản gia thường xuyên tới bẩm báo, ngàu hôm nay Văn tiên sinh mấy giờ vào viện, mấy giờ ra khỏi viện, đã nói mấy câu với Trầm Diệp, hai người đã chơi mấy ván cờ.

Có một lần còn lo lắng thêm vào một câu, lão đã nhận thấy Trầm Diệp mặc dù không dễ gần gũi, nhưng bằng lòng coi trọng vị Văn tiên sinh này, lại để vị tiên sinh này được ra vào Mạnh Xuân viện, liệu có điều gì không ổn thỏa không.

A Lan Nhược mỉm cười, nhìn lão quản gia, nói: “Có một người bạn cùng trò chuyện là một chuyện tốt, ngươi cứ theo sát người ta như vậy cũng đủ khiến người ta mất hứng rồi. Thần quan đại nhân muốn làm gì, đó là việc của chàng ta, chúng ta mở rộng cửa phủ là để giúp đỡ chàng ta chứ không phải giam giữ người ta. Câu này, ta nhớ hình như trước đây từng nói với ngươi rồi”.

Lão quản gia ghi nhận lời dạy bảo này, quay về nghiêm túc suy nghĩ một hồi, đã ngộ ra một chân lý, phải giữ kín miệng lại.

Nhưng lão quản gia cả đời đi theo A Lan Nhược, luôn tâm niệm hai chữ trung thành, cảm thấy dù điện hạ dường như đã ám chỉ rằng truyện của Trầm Diệp sau này không cần bẩm báo, vẫn phải bẩm báo. Ví dụ như Trầm Diệp đại nhân mấy ngày gần đây thường xuyên ngồi ngây người khi chơi cờ với Văn tiên sinh, chuyện này cần phải báo lại.

Lão quản gia có óc quan sát vô cùng tinh tế, chú ý thấy mấy ngày gần đây Trầm Diệp mặc dù thường hay xuất thần, nhưng không phải lúc nào cũng xuất thần, chỉ là khi chơi cờ ở Ba Tâm đình hay trong Tiểu Thạch lâm, Trầm Diệp mới phân tâm như vậy.

Trong Ba Tâm đình, chàng thường thích đưa mắt ngắm nhìn cây đậu đỏ bên cạnh đình. Theo quan sát của lão quản gia, cây đậu đỏ này không có gì bí hiểm cả, chỉ là có dáng vẻ đẹp đẽ một chút, trên thân cây to lớn còn bị mất một mảng vỏ cây mà thôi. Lão lờ mờ nhớ rằng trên thân cây đó đã từng có hai câu đề tự của A Lan Nhược.

Tiểu Thạch lâm là nơi trước đây A Lan Nhược thường luyện bắn tên trong Mạnh Xuân viện, ở đó từng tảng đá lớn xếp chồng chất, rộng rãi tĩnh mịch, khi trời có gió nhẹ, ngồi chơi cờ tại đó có thể vô cùng tĩnh tâm.

Văn tiên sinh cầm quân cờ trên tay, dung mạo vô cùng ôn hòa thanh tú, người vô tâm một chút sẽ nghĩ rằng Trầm Diệp đang thẫn thờ nhìn Văn tiên sinh, nhưng lão quản gia đương nhiên có thể nhận thấy ánh mắt của Trầm Diệp đang lướt qua đỉnh đầu của Văn Tiên Sinh, tập trung nhìn vào một tảng đá lớn phía sau lưng của nàng ấy.

Trên tảng đá lớn có đề mấy hàng chữ: “Sầu hoài nan khiển, hà nhu cấp khiển. Phù sinh đa thái, thiên mệnh định chi. Ưu sầu úy bố, tự hữu tận thời[1]”.

[1] Tạm dịch: Nỗi buồn khó xua đuổi, sao phải vội vàng xua đuổi. Kiếp phù sinh muôn hình vạn trạng, số trời đã định. Nỗi buồn phiền sợ hãi sẽ đến lúc tự kết thúc thôi.

Mặc dù không có lạc khoản, lão quản gia lại vẫn biết được đó là chữ của ai. Trong phủ thường ngày chỉ mình A Lan Nhược thích viết thư pháp, nhưng viết thư pháp trên giấy một cách chính thống lại không phải sở thích của nàng, mỗi khi cao hứng liền tiện tay nhặt một thứ gì đó viết vài nét, trước đây còn thường xuyên đề lạc khoản dưới chữ, sau đó viết nhiều rồi, ngay cả lạc khoản cũng lười không buồn đề nữa.

Lão quản gia trung nghĩa nhìn thấy vậy thì luôn ghi nhớ trong lòng, nhân một ngày A Lan Nhược đang trong tâm trạng vui vẻ, mở khóa bịt miệng, giả bộ như vô tình tiết lộ chuyện này.

A Lan Nhược mài mực, mỉm cười thở dài một tiếng, nói: “Ta đã từng lừa gạt chàng, chàng nhìn thấy nét chữ của ta sẽ khó tránh khỏi việc bực mình, các ngươi tội gì phải bày bàn cờ ở những nơi đó”. Mực trên tay đậm dần, lại nói: “Tuy nhiên, những chỗ không có bút tích của ta ở Mạnh Xuân viện cũng ít, nếu quả thực chàng có cảm thấy chướng mắt, ngươi xem xử lý như thế nào, hoặc là bóc hết vỏ cây có khắc chữ đi, xóa bỏ hết chữ viết trên đá đi vậy”.

A Lan Nhược nói một cách rất thoải mái, nhưng những dòng đề tự đó, lão quản gia không nỡ xóa bỏ. Trong lòng lão cảm thấy có thể là nàng đã nghĩ nhầm rồi, lại cảm thấy cho dù nàng đã nghĩ đúng, nhưng chẳng phải Trầm Diệp không hề nói ra rằng ngài ấy cảm thấy chướng mắt những dòng đề tự kia sao. Vậy phải xử lý chúng như thế nào, hủy bỏ hay giữ lại, hãy đợi tới một ngày nào đó chính miệng ngài ấy nói ra rồi xử lý sau vậy.

Tính ra mới có mấy ngày cũng đã xảy ra không ít chuyện, nhưng Trầm Diệp được đưa vào trong phủ của công chúa với tư cách chế tạo gương lưu ly cho thái tử Dạ Hoa, mặc dù chỉ là một cái cớ nhưng bề ngoài vẫn phải làm chút gì đó. Trong Mạnh Xuân viện đã sớm chuẩn bị cho Trầm Diệp một căn phòng, ngay cả nguyên liệu để chế tác, mấy ngày gần đây cũng đã tập hợp đầy đủ, chỉ đợi ngày khai lò luyện gương. Văn Điềm lại tới tìm A Lan Nhược, nói rằng sớm đã nghe được tin đồn về việc Trầm Diệp chế tạo gương, luôn muốn được mở rộng tầm nhìn, lần này chàng luyện gương cần tìm một trợ thủ, nàng ấy tự đề cử mình, cầu xin công chúa ban cho một cơ duyên.

A Lan Nhược ban cho nàng ấy cơ duyên đó.

Tô Mạch Diệp gõ vào miệng chén, nói với nàng: “Điệu bộ này của Văn tiên sinh, giống như là thực sự đã có tình cảm với Trầm Diệp, nàng ấy cầu xin ngươi điều gì, ngươi đều đáp ứng, sự rộng lượng đó khiến ta rất khâm phục”.

A Lan Nhược nghiêng người rót trà cho chàng ta: “Trầm Diệp có nhân duyên của chàng, chàng không có tình cảm với con không phải là lỗi của chàng, sư phụ muốn con vì thế mà trở thành một tiểu nhân vì ghen tức mà sinh hận thù hay sao?”. Lại nói: “Một nửa hận thù trên thế giới này đều là thù niệm tự sinh mà thôi, con lại không cảm thấy cần thiết phải thù hận, đây có lẽ cũng là cái lợi của việc chưa từng có được. Lần này chẳng qua chỉ là tạo điều kiện cho nhân duyên của chàng mà thôi, hành động tiện tay sao có thể nói rằng rộng lượng hay không rộng lượng”.

Hồi lâu, Tô Mạch Diệp nói: “Ta vốn dĩ không nghĩ rằng ngươi sẽ vì chuyện này mà sinh lòng căm phẫn, nhưng cũng khó tránh khỏi việc để tâm. Ta chỉ đang nghĩ, nếu một ngày ngươi vì hắn ta mà căm hận, sẽ là vì điều gì?”.

A Lan Nhược xoay ly trà trong tay: “Đó nhất định là vì đã từng có được. Ví dụ chàng yêu con, sau đó không yêu nữa, lại đi yêu người khác”. Lại tự cười nói: “Chuyện nhi nữ tình trường nhỏ như cát bụi, sư phụ nghe xong chắc sẽ thấy ê răng, nào, hãy uống một ly trà cho đỡ ê”.


Tô Mạch Diệp nhìn vào trong ly trà: “Thế gian có chuyện lớn, cũng có chuyện nhỏ, thế nào là chuyện lớn, thế nào là chuyện nhỏ, điều này lại rất khó phân định, ví dụ như chuyện tình trường giữa thái tử Dạ Hoa và thượng thần Bạch Thiển ở Cửu Trùng Thiên, ta cảm thấy không thể coi thường”.

A Lan Nhược nói: “Sư phụ nói đúng, tuy nhiên chuyện của con chỉ là chuyện không tưởng, con cũng chưa từng nghĩ tới”.

Phàm giới có một vị hiền nhân đã nói, chuyện trên đời này không có gì là tuyệt đối, có lẽ muốn nói tới điều này. Các thần tiên luôn tự phụ rằng mình trường thọ, chưa đến lúc thất ý thì chưa tìm hiểu thiên mệnh. Có biết thế nào là thần tiên không, không phải con cháu các vọng tộc sinh ra đã là thần, phàm là yêu tinh hay người phàm trần muốn tu luyện thành tiên đều phải từ bỏ lục dục thất tình. Lục dục đã dứt bỏ rồi, cũng chẳng còn gì để thất ý, vì vậy trong việc bàn luận về sự chưa biết, đại đa số thần tiên thực ra không bằng người phàm trần.

Vị phu tử dạy bắn tên đã quay về, dâng lên rất nhiều đặc sản mang tới từ quê nhà, cảm tạ A Lan Nhược. Không cần phải tới tông học, nàng được rảnh rỗi vài ngày ở trong phủ, thi thoảng mang sách tới Hồ Trung Đình hóng mát.

Một vài lần đã gặp Trầm Diệp và Văn Điềm ở bên hồ. Nàng không hề né tranh, cứ thế đi qua, Văn Điềm mỉm cười thỉnh an nàng, nàng cũng mỉnh cười đáp lại. Trầm Diệp nhìn nàng im lặng không nói, nàng bước qua hai bước lại quay đầu lại nói: “Hôm qua nghe Từ quản gia nói huynh luyện gương cần một nguyên liệu đặc biệt, hình như là một loại đá gì đó lấy từ Kỳ Nam hậu sơn, bọn họ vẫn chưa thu gom đủ cho huynh được, Từ quản gia không hiểu rõ về loại nguyên liệu đó, việc này cần huynh đích thân tới lựa chọn, ta đã trình thư lên Thượng Quân, ngày kia cũng đang định tới thăm Tức Trạch, huynh có đi cùng ta không?”.

Trầm Diệp lạnh lùng nói: “Có phải thấy ta bị giam cầm ở đây như chim trong lồng thật đáng thương nên mới ban cho ta ân huệ này không?”.

A Lan Nhược lấy quyển sách che ánh nắng mặt trời trên đầu, nói: “À, nếu huynh nói đó là ân huệ, thì đó là ân huệ vậy”.

Văn Điềm giảng hòa, nói: “Đến lúc đó ta có thể đi cùng được không, núi Kỳ Nam là nơi nếu không có lệnh của Thượng Quân thì không được tùy tiện vào, nhưng ta cũng rất muốn được mở rộng tầm mắt”.

Hai người vẫn nhìn nhau, không ai chịu nhượng bộ nửa bước, Trầm Diệp nói: “Văn Điềm đương nhiên có thể cùng đi”.

A Lan Nhược sững sờ, cười nói: “Có Văn Điềm cùng đi sẽ tránh được việc hai chúng ta giữa đường gây lộn, cũng tốt”.

02.

Hai ngày sau, ở Kỳ Nam hậu sơn, cây ngô đồng soi bóng, gió vờn qua khóm trúc.

A Lan Nhược xách theo một giỏ bánh hấp, bánh luộc, bánh chiên tự làm ngồi trên khoảng đất trống bên ngoài trúc xá đợi Tức Trạch điều khí xong sẽ mở cửa đón khách. Trầm Diệp lạnh lùng liếc nhìn giỏ bánh cạnh nàng một cái, không nói gì cả, dẫn Văn Điềm vào trong núi nhặt đá trước.

Tức Trạch điều khí tới tận giữa trưa, vừa mở cửa, ngáp dài, tựa lưng vào rào trúc, tà áo trắng phấp phới bay: “Ngươi tới thật nhanh. A, còn mang theo cả bánh cho ta ư?”.

A Lan Nhược xách giỏ bánh bước về phía chàng ta: “Ngài gửi thư tới nói rằng mới bắt được con khuyển nhân giúp ta luyện cung, thì phải biết rằng muộn nhất là hôm nay hoặc ngày mai ta sẽ tới thăm, đóng cửa suốt nửa ngày, ta còn tưởng ngài không muốn gặp ta nữa”. Nói như vậy nhưng khuôn mặt lại hiện rõ vẻ cực kỳ hưng phấn: “Con khuyển nhân hiện đang ở đâu?”.

Tức Trạch đón lấy giỏ bánh, bước ra ngoài vài bước: “Bộ dạng dở sống dở chết của ngươi ban nãy làm ta sợ chết khiếp, đương nhiên không thể để cho ngươi mang xui xẻo tới cho ta được, lúc này cuối cùng cũng tươi tỉnh trở lại, nếu sớm tươi tỉnh như thế này thì tốt biết bao, hiếm khi tới thăm ta được một lần, nên tươi tỉnh như vậy”.

A Lan Nhược than thở: “Mấy ngày gần đây tinh thần không được tốt lắm, nhưng cũng không thể coi là dở sống dở chết chứ, ngài để ta ngồi ở ngoài phơi nắng suốt nửa ngày là để ta phơi ra một chút sinh khí ư?”.

Tức Trạch nhón một miếng bánh bỏ vào miệng: “Không vì cái đó thì còn vì điều gì nữa?”. Chàng ta giơ lên vạch một đường, lớp mây mù dần tan biến, hiện ra một dải thạch lâm. Trong rừng, những tảng đá kỳ quái trùng trùng điệp điệp, phía trên là một vầng hào quang màu tím, loáng thoáng vọng lại tiếng gầm gào của dị thú. Cảm thấy tiếng gầm gào này thật vui tai, chàng ta lắng nghe một lát mới nói: “Con khuyển nhân này đã gây họa nhiều năm, ta phải tốn khá nhiều công sức mới bắt được nó, trong các loại dị thú, nó thuộc loại có thân thể linh hoạt nhất, hơn nữa lại không có cảm giác đau đớn, phù hợp nhất cho ngươi luyện cung. Nếu ngươi có thể bắn trúng khuyển nhân, Phạn Âm Cốc này chẳng còn thứ gì mà ngươi không thể bắn trúng được nữa”.

A Lan Nhược hóa cung tên từ trong tay áo ra, cười nói: “Để ta tới gặp nó”.

Khuyển nhân là một loại dị thú từ thời thượng cổ đầu có bốn cái sừng, tập tính cũng tương ứng với ngoại hình hung dữ của nó, vô cùng mạnh. A Lan Nhược rút cung Tiển Thời ra, bay vào trong thạch trận. Khuyển nhân đã bị Tức Trạch bỏ đói vài ngày, ngửi thấy hơi người rất kích động, dù bị đói không còn đủ sức lực, nhưng móng vuốt sắc hơn thường ngày, thân thể còn linh hoạt hơn thường ngày, gần như liều mạng vì một miếng ăn. Thật hiếm có.

A Lan Nhược lợi dụng khoảng cách địa thế của thạch trận, tập trung tinh thần kéo xa khoảng cách với con khuyển nhân, mũi tên lao vút đi xé rách không trung, nhưng chưa tới gần cơ thể của nó đã bị con thú nhanh nhẹn tránh được. Tức Trạch đứng bên ngoài chậm rãi nói: “Ngươi ngắm chuẩn sau đó bắn cung thì không trúng được, mấy thứ ngươi bắn trước đây đều không nhanh bằng mũi tên của ngươi, nhưng con khuyển nhân này lại mãi mãi có thể nhanh hơn mũi tên của ngươi, chi bằng hãy tính toán tốc độ mũi tên, rồi tính toán tốc độ di chuyển của nó nhắm bắn lệch đi”.

Lời nói của Tức Trạch không phải không có lý, nhưng quả thực lại không hề dễ dàng, điều này có nghĩa là A Lan Nhược cần làm ba việc, thứ nhất là phải né tránh con khuyển nhân đề phòng bị nó vồ được rồi nuốt gọn, hai là phải lập tức thầm tính toán chuẩn xác, ba là phải tốn nhiều sức lực để quan sát và nắm vững thói quen di chuyển của nó.

Hai bên kịch liệt giao tranh trong thạch trận suốt nửa canh giờ, không ai chịu thua ai, món mồi ngon trước mặt mà không được thưởng thức khiến con khuyển nhân vô cùng phẫn nộ.

Tức Trạch đứng bên cạnh thạch lâm, vừa uống trà vừa nói: “Đã đến lúc ngươi cần ra ngoài rồi đấy, trong một canh giờ vẫn chưa bắn trúng được nó là chuyện thường tình, nếu vì quá mệt mỏi mà bị nó nuốt gọn, ta biết ăn nói thế nào với sư phụ của ngươi đây”.

Vừa dứt lời, trong trận vang lên một tiếng gầm rú cuồng nộ của con khuyển nhân.

Thiếu nữ áo đỏ vừa rồi đã lấy đà từ một cột đá, bay lên giữa không trung bắn ra một mũi tên đã được tính toán kỹ lưỡng, cắm trúng vào lồng ngực của con quái thú bốn sừng, vô cùng đẹp mắt, cũng vô cùng chuần xác. Ánh mắt trầm tĩnh của nàng hiện lên một tia hưng phấn, định hạ xuống đất rồi nhanh chóng ra khỏi trận. Bi kịch lại xảy ra vào chính lúc này.

Trong lúc hạ xuống đất, không chú ý tới đống hạt tỳ bà trên mặt đất, trượt chân mất thăng bằng, ngã nhào xuống, đập trán vào một đoạn măng đá ngay bên cạnh.

Nói ra thì chậm nhưng chuyện xảy ra lại rất nhanh, con khuyển nhân đang cuồng nộ đã sắp lao tới.

Trên không trung bỗng nhiên vang lên tiếng đập gấp gáp, đôi cánh màu đen giống như một dải mây dày đặc che kín cả bầu trời, con khuyển nhân đang lao tới bị một lưỡi kiếm đâm trúng gắn chặt vào một cột đá bên cạnh. Tất cả chỉ xảy ra trong một tích tắc. Vị công tử áo đen ánh mắt tĩnh lặng như nước, dùng tay tạo phong ấn, trong ánh sáng bạc, các phiến đã kỳ quái trong rừng đột ngột chuyển động, con khuyển nhân giãy giũa muốn thoát ra khỏi sự trói buộc của thanh trường kiếm, gầm rú muốn lao qua thạch trận.

Pháp trận đã được Trầm Diệp sắp xếp lại, không rải rác lỏng lẻo như ban nãy, nhất cử nhất động của con khuyển nhân đều bị khống chế, nhưng hai người ra khỏi trận cũng không dễ dàng như ban nãy, chàng chỉ để lại một khe hở đủ cho hai người ôm nhau lăn qua ở phía Tây Nam nơi cách xa con khuyển nhân nhất.

A Lan Nhược đưa tay ôm vết thương đang chảy máu trên trán, mơ hồ nhìn chàng, dường như không hiểu nổi tại sao chàng lại bỗng nhiên xuất hiện. Trong thời khắc nguy cấp như vậy, làm gì còn thời gian suy nghĩ những việc khác. Trầm Diệp ôm gọn A Lan Nhược trong lòng, một tay đỡ lấy phần đầu bị thương của nàng áp vào ngực mình, đôi cánh màu đen cuộn chặt lấy hai người, trước khi con khuyển nhân giãy giụa lao qua tảng đá gần nhất, lăn người chui qua khe hở nhỏ của kết giới. Khi hai người bọn họ cũng lăn ra khỏi thạch trận, Tức Trạch đã gia cố thêm kết giới, ánh mắt dừng lại trên người Trầm Diệp, tán thưởng nói: “Mấy năm không gặp, ngươi lâm trận càng lúc càng bình tĩnh”. Lại nói: “Hồi nhỏ đã thích tỏ ra lạnh lùng, sao trưởng thành rồi vẫn không có chút biến chuyển gì vậy?”.

Trầm Diệp lạnh lùng nói: “Con khuyển nhân hung dữ như vậy, ngươi lại để nàng đối đầu với nó?”.

Tức Trạch nói: “Chẳng phải là nàng đã bắn trúng nó rồi sao, nếu không phải vì bỗng nhiên bị trượt ngã”, gãi đầu áy này nói: “À, cũng tại ta, hôm qua khi dạo chơi trong thạch trận, đã ăn mấy quà tỳ bà…”. Nhưng lại lập tức nghiêm sắc mặt, nói: “Nhưng trên chiến trường thật sự cũng như vậy, sẽ chẳng có ai thu dọn hạt tỳ bà cho nàng, tất cả đều phải dựa vào sức mình, việc này cũng là để nhắc nhở nàng phải đề cao cảnh giác”.

A Lan Nhược nằm trong vòng tay của Trầm Diệp, khẽ góp lời: “Ta thấy, trên chiến trường lại không có ai ăn tỳ bà vì vậy ta không cần phải lo lắng về điều đó”.

Trầm Diệp nhìn Tức Trạch, trong ánh mắt không hề có chút ấm áp: “Khi nàng rơi vào tình thế nguy hiểm, ngươi đang làm gì, nàng là thê tử của ngươi mà”.

Tức Trạch lập tức áy náy nói: “Ta đang ăn bánh mà nàng mang cho ta, không để ý tới…”. Nhưng lại lập tức nghiêm sắc mặt: “Bái đường là thành phu thê ư, đó là cách nhìn nhận thiển cận của các ngươi, ta và A Lan Nhược lại không hề cảm thấy như vậy. Hơn nữa, chẳng phải ngươi đã nhanh hơn ta một bước, bay tới cứu nàng, ta còn ra tay chẳng phải sẽ thừa thãi hay sao?”.

Sắc mặt của Trầm Diệp sầm sì lạnh lùng như băng tuyết mùa đông: “Nếu ta không nhanh một bước nàng đã bị con khuyển nhân cắn đứt một cánh tay rồi”.

Tức Trạch ngạc nhiên nói: “Người có khả năng bị cắn đứt một cánh tay là nàng, nàng còn không chất vấn ta, tại sao ngươi lại chất vấn ta?”.

Bàn tay của Trầm Diệp vẫn phủ lên vết thương đang rỉ máu trên trán A Lan Nhược, khuôn mặt nàng cũng lộ vẻ hiếu kỳ, phụ họa theo: “A, câu hỏi thú vị này, ta cũng muốn biết”.

Lần đầu tiên Trầm Diệp cúi đầu xuống nhìn nàng, máu trên trán nàng ướt bàn tay chàng, chàng từng khinh miệt nói rằng đó là thứ không sạch sẽ, lúc này lại để mặc nó làm ô uế ngón tay mình. Chàng không hề bỏ tay ra, trong ánh mắt thoáng hiện lên sự giằng xé.

A Lan Nhược khẽ hỏi: “Trầm Diệp, có phải huynh đã thích ta rồi không?”.

Chàng nói: “Sao ngươi dám…”.

Nàng gỡ các ngón tay đang bịt vết thương trên trán mình ra, giọng nói của chàng lại có chút bực bội: “Yên phận một chút đi”.

Nàng mỉm cười: “Huynh thật sự thích ta, Trầm Diệp”.

Ngón tay của chàng lại đè lên trán nàng, đôi môi mím chặt không nói gì nữa, nhưng trong ánh mắt lạnh lùng lại chỉ có hình bóng của nàng. Hình ảnh của nàng xộc vào trong mắt của chàng như vậy, giống như một người ở thế giới bên ngoài xông vào một bình nguyên băng tuyết đã bị năm tháng phủ bụi, ngoài nụ cười của nàng, cảnh tượng phía sau vẫn ngàn năm không thay đổi, vẫn tuyết giăng trắng trời.

Nhưng như vậy đã là hiếm có lắm rồi.

Nàng liền trở nên vui mừng, đưa tay nâng cằm chàng: “Không thừa nhận cũng không sao, ta đau đầu, huynh cười lên một cái cho ta xem”.

Chàng vẫn ôm nàng, nâng cằm lên theo tay nàng, nhưng lại cụp mắt xuống nhìn nàng: “Ngươi muốn chết”.

Nàng cười như không: “Có ai từng đùa nghịch cằm của huynh giống như ta chưa?”.

Chàng vẫn nhìn nàng như vậy, đợi nàng rút tay lại: “Ngươi thử nói xem?”. Đáng lý ra câu nói đó phải có vẻ phẫn nộ, nhưng trong giọng nói lại chẳng có chút phẫn nộ nào.

Bàn tay đang vội vàng chạy tới đưa khăn của Văn Điềm sững lại giữa lưng chừng, sắc mặt trắng bệch, Tức Trạch thêm một miếng bánh vào miệng, đưa mắt nhìn sắc trời, hắng giọng tổng kết: “Ai cần lên giường nằm thì khẩn trương lên giường nằm, ai phải đi nấu cơm thì khẩn trương đi nấu cơm, đứng ngây ra đó làm gì?”.

Trầm Diệp có thích A Lan Nhược hay không, mặc dù khi nghe Mạch thiếu gia kể phần đầu câu chuyện, trong lòng Phượng Cửu quả thực toát mồ hôi, lúc này lại giống như có một tảng đá nặng rơi xuống vực sâu, sau một tiếng động mạnh, thứ bay lên là trái tim của nàng. Nàng cảm thấy vui vẻ, cảm thấy thanh thản.

Quả thực, khi nghe Mạch thiếu gia nhắc tới con khuyển nhân, nàng cũng từng nghĩ, để diễn lại đúng câu chuyện này với Trầm Diệp, liệu nàng có phải tới Kỳ Nam hậu sơn để gặp gỡ con khuyển nhân trong truyền thuyết đó không.

Khi nàng nghĩ tới đó, liền thấy tê hết cả da đầu.

Nhưng nỗi xúc động khi A Lan Nhược và Trầm Diệp cuối cùng cũng ở lại bên nhau đã lặng lẽ che lấp chút lo lắng trước đó. Trong số mệnh của nàng, đường tình duyên gặp nhiều trắc trở, do nàng thích A Lan Nhược từ tận đáy lòng nên hy vọng đường tình duyên của nàng ấy sẽ thuận lợi hơn mình một chút, kết cục này khiến nàng rất hài lòng.

Nàng cầm một ly trà lên uống, Tô Mạch Diệp liếc nhìn nàng, thần sắc như cười như không trên gương mặt phờ phạc đó khiến nàng lập tức lạnh buốt tận xương tủy, Phượng Cửu rùng mình một cái, nhớ ra vị nhân huynh đang ngồi đối diện mình còn có một biệt danh là Thiên diện thần quân.

Thiên diện thần quân Tô Mạch Diệp khẽ gõ ngón tay xuống bàn: “Ta biết ngươi đang nghĩ gì, cảm thấy đây là một kết cục tốt đẹp ư?”, Đưa mắt nhìn xa xăm ra hồ, nói: “Đây lại chẳng phải là kết cục gì, mà sau đó còn xảy ra khá nhiều chuyện, chuyện được coi là tốt, chỉ có một truyện đó”. Dừng lại một lát, nói: “Tức Trạch luôn tìm thời cơ để hòa ly[2] với A Lan Nhược”. Ánh mắt vẫn nhìn về phía mặt hồ, nói tiếp: “Tức Trạch là một người trượng nghĩa, mặc dù cuộc hôn nhân này không có ý nghĩa với chàng ta, nhiều năm qua chàng ta chưa từng trình biểu nói đến việc hòa ly, vì thương xót A Lan Nhược là một công chúa có thân phận éo le, mang danh nghĩa thê tử của chàng ta, cuộc sống cũng tốt hơn một chút. Từ sau ngày hôm đó ở Kỳ Nam hậu sơn. Trầm Diệp và A Lan Nhược đã ở bên nhau hai năm, giữa bọn họ trong hai năm đó xảy ra truyện gì, ta cũng không rõ lắm, thời gian đó ta quay về Tây Hải, chỉ biết trong hai năm đó, Trầm Diệp vẫn bị giam trong phủ của A Lan Nhược”.

[2] Một chế độ ly hôn thời cổ đại, đôi bên nam nữ cùng đồng ý ly hôn.

Phượng Cửu thầm nghĩ, Mạch thiếu gia nói chàng ta về Tây Hải cũng là vì Tây Hải có chuyện, chưa biết chừng là một cái cớ để thoái thác. Có thể lúc đó chàng ta đã hiểu được A Lan Nhược có ý nghĩa với mình như thế nào, đáng tiếc là giai nhân đã có mối lương duyên khác. Mạch thiếu gia vì bị tổn thương tình cảm nên mới quay về Tây Hải. Đã hiểu ra ẩn ý này, Phượng Cửu tự cảm thấy rằng khi nói chuyện cần tránh né điều này một chút, nói: “Những chuyện ngay cả ngài cũng không biết, không nhắc tới cũng không sao, chỉ là ban nãy ngài nói rằng còn khá nhiều chuyện không hay đã xảy ra, không biết đó là những chuyện gì?”.

Tô Mạch Diệp sững người lại một chút, hồi lâu, nói: “Trong sử sách có ghi, hai năm sau, Thượng Quân Tương Lý Khuyết lâm bệnh qua đời, thái tử Tương Lý Hạ kế vị, ngày kế vị là hai mươi tư tháng bảy, đúng ngày sinh của Long Thụ bồ tát. Bảy ngày sau khi kế vị, bộ tộc láng giềng là Dạ Kiêu chửi mắng thậm tệ bộ tộc Tỷ Dực Điểu dung túng cho dân vùng biên giới vượt biên săn bắn, xuất binh khiêu chiến. Tương Lý Hạ tử trận, Tương Lý Hạ không có con, theo đúng thứ tự thừa kế vương vị, nếu Quất Nặc không bị phế làm thường dân, nàng ta sẽ kế vị, sau đó tới A Lan Nhược, rồi tới Thường Đệ. Ngày mười chín tháng tám, Quất Nặc đang bị lưu đầy được đón về Vương đô kế vị, ngày hôm sau, A Lan Nhược thắt cổ tự vẫn”.

Phượng Cửu chấn động.

Tô Mạch Diệp nói tiếp: “Có thể là do A Lan Nhược hồn phi phách tán, mà theo lời của bộ tộc Tỷ Dực Điểu, thắt cổ tự vẫn là cách thức tốt nhất để hồn phi phách tán, nên bọn họ mới dám dùng cái đó để lừa gạt ta”.

Phượng Cửu lấy lại bình tĩnh trong giây lát, cau mày nói: “Ta từng nghe nói, sau khi A Lan Nhược qua đời, vị nữ vương kế nhiệm kia lập tức hạ lệnh liệt ba chữ tên của nàng thành cấm ngữ. Bây giờ ta lại có chút nghi hoặc, Quất Nặc qua mặt A Lan Nhược để kế vị, tông tộc lại cho phép ư? Hơn nữa bọn họ nói chắc như đinh đóng cột rằng A Lan Nhược đã thắt cổ tự vẫn, lại không hề đưa ra cho ngài một lý do gì sao? Còn Quất Nặc, tại sao nàng ta lại liệt ba chữ tên của A Lan Nhược thành cấm ngữ?”.

Sắc mặt của Tô Mạch Diệp không chút biểu cảm, nói: “Có tin đồn nói rằng, Thượng Quân không phải qua đời vì lâm bệnh, mà là do bị A Lan Nhược hạ độc”.

Chàng đưa mắt nhìn Phượng Cửu: “Đương nhiên, nếu là lý do này, câu hỏi mà ngươi đưa ra cũng không khó giải thích, nhưng liệu ngươi có tin vào lời đồn này không?”.

Phượng Cửu lắc đầu theo bản năng, bỗng nhớ ra, nói: “Còn Trầm Diệp lúc đó thì sao?”.

Tô Mạch Diệp lạnh lùng cười nói: “Trầm Diệp? Theo tin đồn, sau khi Thượng Quân qua đời, hắn ta đã được đón về Kỳ Nam thần cung, A Lan Nhược bị bắt giam vì cái chết của Thượng Quân, hắn ta từng dâng tấu…”.

Trong lòng Phượng Cửu bỗng trĩu nặng: “Trong tấu chương đã viết những gì?”.

Nụ cười trong ánh mắt của Tô Mạch Diệp vô cùng lạnh lùng: “Trong tấu chương thỉnh cầu giao vụ án của A Lan Nhược cho thần cung, nói rằng nàng đã phạm trọng tội như vậy, xét về lý cần để thần cung đích thân xử tử”. Dừng lại hồi lâu, nói: “Ngay ngày hôm sau, A Lan Nhược bèn tự vẫn”.
 
Tham gia
6/7/19
Bài viết
101
Điểm cảm xúc
41
Điểm
28
01.

Đêm hôm đó, Phượng Cửu nằm mơ, trong giấc mơ mây đen mù mịt che kín bầu trời, gió thổi qua bình nguyên rộng lớn, lửa cháy khắp nơi, khói bụi tràn ngập trong không trung. Một con sông dài uể oải uốn lượn vắt ngang bình nguyên rộng lớn, bên sông thấp thoáng một bóng người.

Phượng Cửu mơ hồ nhận ra người đó mặc xiêm y màu đỏ, mặc dù nhìn không rõ hình dáng nhưng trong lòng lại biết đó chính là A Lan Nhược. Nàng mang theo vô số câu hỏi, dẫm lên đám cỏ khô, muốn lại gần nàng ấy hơn một chút, nhưng không hiểu sao, luôn không thể nào tiếp cận nàng ấy.

Nhìn thấy bóng người áo đỏ đang chìm dần vào trong lớp khói bụi dày đặc, nàng vội vàng nói: “Sao nàng lại tự vẫn, có chuyện gì đáng để nàng phải chịu nỗi khổ hồn phi phách tán mà tìm tới cái chết như vậy?”

Tiếng nói mang theo cả ý cười của cô gái theo gió bay tới, ẩn chứa vẻ phóng khoáng mà Tô Mạch Diệp đã từng nói: “Đúng vậy, tại sao chứ?”. Ngọn lửa bỗng nhiên lan rộng, lưỡi lửa như một con mãnh thú lao tới chân Phượng Cửu, nàng giật mình kinh ngạc, nhảy lên không trung, chỉ cảm thấy cơ thể mình nhẹ tênh, bừng tỉnh.

Phượng Cửu trằn trọc suy nghĩ về những điềm báo trong giấc mơ đó suốt cả buổi sáng, vẫn không tìm ra điều gì. Đúng lúc này Trà Trà – người hôm qua vừa cùng Mạch thiếu gia quay trở về xách váy chạy vào, nhắc nàng rằng Mạch thiếu gia sắp trở lại thần cung, hôm qua nàng ấy thu dọn thư phòng, thấy một túi nhỏ đựng kẹo hồ ly, bên trên có gài một mẩu giấy nhỏ ghi tặng Mạch thiếu gia, hỏi nàng còn định tặng Mạch thiếu gia nữa hay không. Phượng Cửu vỗ mạnh vào đầu, cảm thấy Trà Trà nhắc nhở thật đúng lúc. Vội chạy tới thư phòng lấy kẹo hồ ly, sau đó hớn hở chạy đi tìm Mạch thiếu gia.

Sau một đêm ngon giấc, hôm nay trông Tô Mạch Diệp còn ra hồn người, hình ảnh của một công tử hào hoa cũng đã quay lại được bảy, tám phần.

Phượng Cửu đầy hào khí ném túi kẹo hồ ly xuống trước mặt chàng ta, Tô Mạch Diệp sặc một ngụm trà trong cổ họng: “Thứ này, ta cũng có phần ư?”.

Phượng Cửu rộng lượng nói: “Đương nhiên, ngay cả một tiểu tử quét dọn trong viện của ta cũng có phần, không có Lý Ânào lại không để dành cho ngài một phần cả”. Nói như đang kể công: “Đương nhiên phần của ngài lớn hơn phần của bọn họ, hơn nữa trong phần của ngài ta còn cho thêm một vị đường. Phần tặng cho Trầm Diệp và phần của ngài giống nhau, nghe nói Trầm Diệp chia cho tiểu đồng tử trong viện của chàng ta, đám tiểu đồng tử đều cảm thấy khẩu vị này cũng không tồi”.

Thần sắc trên khuôn mặt của Mạch thiếu gia biến đổi vài lần, cuối cùng cũng dừng lại ở hai sắc thái không đành lòng và thương xót, nhận túi kẹo hồ ly rồi nói với Phượng Cửu: “Chuyện này, ngươi đã nói với Tức Trạch chưa?”.

Phượng Cửu ngạc nhiên hỏi: “Tại sao ta lại phải nói với ngài ấy về chuyện này?”

Sắc thái không đành lòng và thương xót trên mặt của Mạch thiếu gia càng rõ ràng hơn, đáp: “À, không nhắc tới là tốt nhất, hãy nhớ rằng sau này cũng đừng nhắc, việc đó có lợi cho ngươi”.

Phượng Cửu càng cảm thấy mơ hồ: “Tại sao không được nhắc tới?”.

Mạch thiếu gia nhủ thầm trong lòng bởi vì ta còn muốn sống thêm hai năm nữa, ngoài miệng lại đắn đo nói: “Ồ, bởi vì với thân phận này của ngươi, tự tay làm kẹo mật tặng cho người hầu hoặc tặng cho bạn bè, sư phụ như chúng ta thực ra đều không phù hợp với quy định, trước đây A Lan Nhược không làm những chuyện đó, nếu ngươi nói với Tức Trạch, ngộ nhỡ ngài ấy nghi ngờ, chẳng phải sẽ phức tạp hơn hay sao”.

Phượng Cửu chợt hiểu ra: “Cũng đúng, chuyện này là do ta suy nghĩ chưa chu toàn, ngài suy nghĩ thật chu đáo”.

Nói tới đó, vì nhắc tới Tức Trạch vài lần, lại có một chuyện khác hiện lên trong đầu của Phượng Cửu, nàng nói với Tô Mạch Diệp: “Ta bỗng nhiên nhớ ra, có một việc còn muốn thỉnh giáo ngài, vì ta là thú sống ở trên cạn, không hiểu biết nhiều về thủy tộc, tuy nhiên ngài thuộc thủy tộc nên chắc biết, máu độc của giao long có cách hóa giải không?”. Máu độc của giao long đã ở trong người của Tức Trạch suốt mười mấy ngày vẫn không thanh lọc được hết, đám thầy thuốc của bộ tộc Tỷ Dực Điểu chung quy lại chỉ là địa tiên, không hiểu biết nhiều, lại không chẩn đoán được loại độc đó, mặc dù Tức Trạch nói là không phải độc gì ghê gớm, nhưng lại khiến Phượng Cửu hơi lo lắng nên mới hỏi như vậy.

Tô Mạch Diệp không hiểu, nói: “Máu độc của giao long? Giao long không phải là độc vật, ngược lại máu của giao long còn là một thánh phẩm bổ dưỡng rất hiếm có, hơn nữa khi độc vật bình thường ngấm vào máu của giao long, chỉ trong tích tắc đã bị khắc chế hóa giải. Có một vài chất độc mạnh vì bị lẫn quá nhiều độc vật, các thầy thuốc còn thường thích dùng máu của giao long để làm thuốc dẫn, hóa giải trước những chất độc có thể hóa giải, chất độc còn lại sẽ dễ dàng hóa giải hơn nhiều. Ai nói với ngươi là trong máu của giao long có độc?”.

Phượng Cửu mông lung nhìn Tô Mạch Diệp, kinh ngạc đến nỗi lời nói cũng không còn lưu loát nữa: “Nhưng… nhưng ngài ấy nói rằng mình bị trúng chất độc trong máu của giao long làm… làm như thế là do không tự chủ được khi chất độc phát tác”.

Tô Mạch Diệp rót cho mình một ly trà, nhướng máy nói: “Ai nói với ngươi câu đó chắc chắn là đang lừa gạt ngươi”. Chén trà vừa đưa tới ngang miệng, bỗng dừng lại, quay đầu sang nhìn nàng nói: “Ngươi nói ngài ấy làm như thế, làm như thế là làm như thế nào?”.

Phượng Cửu yên lặng.


Tô Mạch Diệp thăm dò nói: “Ngài ấy không có lợi dụng ngươi điều gì chứ?”

Ban đầu khuôn mặt của Phượng Cửu hơi trắng nhợt một chút, sau đó hai má ửng hồng, sắc hồng càng ngày càng đậm, chỉ một câu nói, khuôn mặt đã ửng đỏ như vừa tô thêm son phấn.

Khóe môi của Tô Mạch Diệp giật giật. Người này là ai, trong lòng chàng gần như biết rõ.

Đế Quân.

Hôm nay chàng quá là xui xẻo, hoặc giả nói, từ khi chàng bắt đầu nhận lời nhờ vả của Liên Tống vào trong này gặp Đế Quân, chàng đã luôn gặp xui xẻo. Cách thức theo đuổi cô nương của Đế Quân quá kỳ lạ khó lường khiến chàng không hiểu được, nhưng nếu Đế Quân biết chàng làm hỏng việc tốt của ngài ấy, chàng biết quá rõ mình sẽ có kết cục như thế nào.

Phượng Cửu ngồi ngược sáng trên một chiếc ghế, vẫn ngây người, không biết đang nghĩ gì.

Tô Mạch Diệp ho một tiếng, làm trái lương tâm, cứu vãn tình thế: “Thực ra, máu của giao long ấy mà, mặc dù hóa giải được một vài chất độc nhỏ, nhưng độc tình lại không nằm trong số đó, nếu độc tình đã ngấm vào máu của giao long…”.

Phượng Cửu đưa tay lên chống cằm, sắc đỏ trên mặt đã tan đi vài phần, lạnh lùng nói: “Ngài muốn nói rằng có thể con giao long đó đã bị trúng độc tình trước, lan truyền chất độc đó cho người khác cũng chưa biết chừng? Nhưng ví dụ ta trúng độc tình, ngài chạm vào máu của ta, lẽ nào cũng sẽ nhiễm độc tình ư? Trên đời làm gì có loại độc tình nào như vậy, Mạch thiếu gia, không phải ngài nghĩ rằng ta thật sự dễ bị lừa như vậy chứ?”.

Tô Mạch Diệp cười trừ một tiếng, dường như đã có thể tưởng tượng ra cảnh Đế Quân kề kiếm Thương Hà vào cổ mình như thế nào rồi. Hồi lâu, chàng ta thở dài một tiếng, nói với Phượng Cửu: “Trước đây ngươi nói với ta, ngươi muốn gặp được một người tốt hơn, một người mà khi ngươi gặp nguy hiểm sẽ tới cứu ngươi, sau khi cứu ngươi rồi sẽ không tùy tiện vứt bỏ ngươi, một người mà khi ngươi đau đớn sẽ an ủi ngươi. Ngươi có bao giờ từng nghĩ, chưa biết chừng người đang lừa gạt ngươi đó lại chính là người mà ngươi đang tìm kiếm?”.

Phượng Cửu sững người lại, nói: “Quả thực ta và ngài ấy ở bên nhau rất vui, nhưng…”.

Tô Mạch Diệp nói: “Thực ra người đó là ai, ta chắc cũng đoán được bảy, tám phần. Có phải ngươi cảm thấy rằng, đôi khi sở thích và tính cách của ngài ấy rất giống Đông Hoa Đế Quân không?”. Không đợi Phượng Cửu trả lời, lại nói: “Ta nghĩ, ngươi không phải là không thích ngài ấy, chỉ là cảm thấy điều này giống với việc biến ngài ấy thành cái bóng của Đông Hoa Đế Quân, đã bao nhiêu lần nói sẽ quên đi nhưng cuối cùng vẫn không quên được, ngươi đã nghĩ như vậy, đúng không?”.

Thực ra những câu hỏi của Tô Mạch Diệp, một nửa là bịa đặt. Đương nhiên, chàng ta cũng biết rằng những điều chàng ta bịa đặt thật hoang đường, Phượng Cửu chắc chắn sẽ lên tiếng phản bác, chàng ta chắc sẽ không tránh khỏi việc phải phải nói thêm khá nhiều lý lẽ không xác đáng nữa, cố gắng dẫn dắt nàng đi vào con đường không xác đáng này. Nếu nàng có thể nghĩ theo những lời chàng ta vừa nói một lần, tất nhiên sẽ có lần thứ hai, nghĩ thêm nhiều lần nữa, chưa biết chừng lại tin rằng nàng quả nhiên đã thích Tức Trạch.

Sự việc tới ngày hôm nay, đây cũng là biện pháp duy nhất mà chàng có thể giúp đỡ Đế Quân.

Phượng Cửu trầm ngâm giây lát, trong giây lát đó, Tô Mạch Diệp đã uống hết nửa ly trà, chàng cảm thấy sự trầm lặng của Phượng Cửu trong lúc này chính là đang tập trung tinh lực để trách mắng chàng một trận đến nơi đến chốn, trận trách mắng này là do chàng tự chuốc lấy, chàng sẵn sàng chờ đợi.

Hồi lâu, Phượng Cửu cuối cùng cũng lên tiếng, hạ thấp giọng nói: “A, có thể ngài nói đúng”.

Nửa ly trà còn lại đã bị Tô Mạch Diệp rót thẳng vào trong cổ áo, tròn mắt há miệng nhìn Phượng Cửu.

Phượng Cửu lại trầm ngâm thêm giây lát, nói với chàng: “Hôm nay ngài nói rất nhiều, đều là những lời vàng ngọc khiến ta có cảm giác được mở mang đầu óc, ngài còn có điều gì muốn khuyên ta không?”.

Tô Mạch Diệp lập tức có cảm giác bồng bềnh không chân thực, giọng nói lại rất bình tĩnh, nói: “Ờ, không còn gì nữa, chỉ còn một câu, nếu ngươi quả thực thích ngài ấy, đừng thấy áp lực, có khả năng ngươi vốn thích kiểu người như vậy, thật trùng hợp cả Đế Quân và ngài ấy đều là kiểu người đó”.

Sau khi Mạch thiếu gia đi, Phượng Cửu đã ngồi rất lâu trong phòng của chàng ta, ánh sáng ban mai rực rỡ, rất hợp để suy nghĩ. Ban nãy, khi nói chuyện với Mạch thiếu gia, chỉ trong nửa tuần hương nàng đã lần lượt chuyển qua bốn cảm xúc từ kinh ngạc, phẫn nộ, nghi hoặc tới hiểu rõ, xoay chuyển đến nỗi nàng có chút chóng mặt, suy nghĩ mọi chuyện rất không rõ ràng. Nàng kinh ngạc vì Tức Trạch đã lừa gạt nàng, phẫn nộ vì Tức Trạch lại gạt nàng, nghi hoặc tại sao Tức Trạch lại lừa gạt nàng, hiểu rõ Tức Trạch lừa gạt nàng có thể vì thích nàng.

Khi hiểu rõ điều này, lúc đầu đương nhiên đã khiến nàng giật mình, nhưng trước đây khi cô cô Bạch Thiển của nàng dạy nàng bí quyết làm bài xem quẻ, có một câu nổi tiếng, đó là những người không có năng khiếu như họ, muốn thuận lợi qua được môn học này dưới tay của phu tử, cần phải nắm vững một loại bí quyết đoán mò, loại bỏ hết những khả năng đã biết, khả năng còn lại cuối cùng, cho dù trông có vẻ không thể có khả năng đó, cũng là khả năng lớn nhất, đó chính là bí quyết xem quẻ tướng mệnh.

Mặc dù, về việc có thích nàng hay không, Tức Trạch đã từng phủ nhận. Nhưng Phượng Cửu cũng được coi là một người từng trải trong tình trường, khi nhìn nhận sự việc đương nhiên không còn nông cạn nữa, biết là với chữ tình, có kiểu cắn răng chịu đựng tất cả, ví dụ như cô phụ Dạ Hoa của nàng, có kiểu mù quáng dám làm dám chịu giống như người bạn tốt Tiểu Yến của nàng, còn có kiểu nhất quyết không chịu thừa nhận, e rằng Tức Trạch chính là kiểu người đó.

Rốt cuộc nàng nhìn nhận thế nào về Tức Trạch, điểm này, lúc đầu nàng chưa hiểu rõ lắm. Trong số bạn bè của nàng, không còn nghi ngờ gì nữa, Tức Trạch là người có văn hóa nhất, là người có phẩm vị nhất, nàng đương nhiên có cảm tình với Tức Trạch, nếu không cho dù mượn cớ trong máu giao long có độc, chàng cũng không thể lợi dụng nàng mà vẫn còn “nguyên vẹn” như vậy được. Năm xưa, khi sói xám đệ đệ chơi trò tượng gỗ với nàng, vô tình va phải nàng, hằn một vết răng lên mặt nàng, sói xám đệ đệ đã bị nàng đánh đến nỗi ba tháng liền không dám nói chuyện với nàng.

Nhưng nếu nói trong lòng nàng thực ra có vài phần để ý tới Tức Trạch, tại sao ban đầu khi cho rằng Tức Trạch thích nàng, nàng lại lo sợ như vậy? Nàng thực sự cảm thấy mơ hồ. Cho tới khi những câu nói của Tô Mạch Diệp lọt vào tai nàng, giống như đục một cái lỗ trên đỉnh đầu nàng, một luồng ánh sáng trong suốt chiếu rọi vào trong bộ óc của nàng, dù đau nhưng thấu triệt. Nàng thực sự thấy Mạch thiếu gia không hổ danh là Mạch thiếu gia, có thể trong lòng nàng thực sự nghĩ như vậy. Mà câu chỉ bảo cuối cùng của Mạch thiếu gia đối với nàng, tựa như một làn gió trong mát thổi qua tâm hồn nàng, khiến một chút sương khói u mê chưa được luồng sáng ban nãy loại trừ được thổi tan hết.

Ngay lập tức, nàng cảm thấy bản thân mình trở nên sáng suốt.

Không sai, những cảm giác quen thuộc của nàng đối với Tức Trạch, chính là bởi vì chàng ta và Đông Hoa Đế Quân đều là một kiểu người, nhưng cảm tình của nàng đối với Tức Trạch lại không phải vì Đông Hoa Đế Quân, bởi vì nàng thích kiểu người đó, tình cờ bọn họ đều là kiểu người đó.

Mạch thiếu gia nói rất có lý. Có lẽ Tức Trạch chính là người mà mình đang tìm kiếm.

Nàng suy nghĩ, bản thân mình còn gánh theo món nợ gì nữa?

Đầu tiên là Diệp Thanh Đề. Trong đầm Thủy Nguyệt, sau khi từ biệt Tức Trạch, nàng phát hiện ra túi gấm đựng quả tần bà trong tay áo, biết được thân xác này quả nhiên là nguyên thân của mình. Quả tần bà được nàng cất giữ cẩn thận, đợi sau khi ra khỏi Phạn Âm Cốc, có thể dùng quả này để khiến Diệp Thanh Đề sống lại, lúc đó, có thể coi như nàng đã trả được món nợ với chàng ta, lời hứa chịu tang cho chàng ta cũng coi như có thể hủy bỏ.

Người tiếp theo là… cái tên Đông Hoa hiện lên trong đầu nàng. Nàng sững người lại, Đế Quân quả thực đã ban cho nàng khá nhiều ân huệ, đương nhiên cũng khiến nàng phải chịu nhiều khổ cực. Tuy nhiên, lúc này ngài ấy đã sóng đôi cùng Cơ Hoành, điều nàng cần làm là nên rộng lượng một chút, chúc hai người bọn họ mãi mãi bên nhau. Đế Quân thực ra đã không còn liên quan gì tới nàng, nếu nhiều năm sau, ngài ấy chợt nhớ tới nàng, chắc trong ấn tượng chỉ là hình ảnh của một người bạn nhỏ rất thú vị mà thôi.

Sau khi nàng suy nghĩ thấu đáo một hồi, tự cảm thấy bản thân mình quả thực không còn mang món nợ tình cảm nào nữa, nếu đã như vậy, người mà nàng một lòng muốn gặp đã từ trên trời rơi xuống rồi, sao không mau chóng bắt lấy?

Tức Trạch ấy mà, chẳng qua chỉ hơi cứng đầu một chút, tuy nhiên, ngay cả Đông Hoa Đế Quân khó chinh phục như vậy nàng cũng đã thử rồi, Tức Trạch lẽ nào còn khó chinh phục hơn cả Đông Hoa? Nghĩ như vậy, nàng điềm tĩnh uống một ngụm trà, liền cảm thấy rất chắc chắn.

02.

Ba ngày sau, Quất Nặc ra khỏi Vương đô. Ngày phải chịu đại hình trên Linh Sơ đài, Quất Nặc bị động thai, Khuynh Họa phu nhân khẩn thiết cầu xin, Thượng Quân đã mở lòng từ bi, cho phép nàng ta được ở lại Vương đô thêm một vài ngày để dưỡng thai.

Qua lời Mạch thiếu gia, Phượng Cửu biết rằng năm xưa, A Lan Nhược đã làm một việc tốt, tạo cơ hội cho Quất Nặc và Trầm Diệp được gặp mặt lần cuối, vì vậy mấy ngày trước đó đã lo lót với hình quan, sắp xếp cho hai người gặp mặt từ biệt bên cạnh một dòng sông nhỏ trong veo bên ngoài thành. Nghe nói năm xưa A Lan Nhược thực ra không cùng đi, nhưng vì nàng nhàn rỗi, cảm thấy đi xem trò vui một chút chắc cũng không có vấn đề gì.

Ánh chiều tà rọi xuống lòng sông, hàng dương liễu rủ bóng hai bên bờ. Những cảnh tượng cảm động được miêu tả trong sách du ký thịnh hành của bộ tộc Tỷ Dực Điểu như bẻ liễu tặng nhau, nước mắt thấm ướt vạt áo… lại không hề xuất hiện.

Quất Nặc thân hình gầy yếu, đứng dưới một cây dương liễu, Trầm Diệp đứng thẳng, nhìn về phía bờ bên kia. Viên hình quan râu ria rậm rạp đứng phía sau, cách họ ba, bốn bước chân, ánh mắt sáng quắc nhìn về phía họ, hai người yên lặng rất lâu.

Phượng Cửu thầm than thở sao trên thế gian lại có người không biết ý như vậy, bất kỳ ai khi bị người ngoài nhìn chằm chằm như vậy, e rằng đều không thể nói được bất cứ lời tâm sự nào. Nàng thở dài một tiếng, gọi viên hình quan râu ria rậm rạp kia lại giúp nàng thử trà. Dạo trước nàng đã học được thú vui uống trà nơi đồng hoang của Tức Trạch, tiện thể mang theo một bộ đồ trà để luyện tay nghề.

Quả nhiên chân trước của viên hình quan vừa mới nhấc lên, phía chân sau, Quất Nặc đã có động tĩnh, giọng nói rất nhỏ, bất đắc dĩ Phượng Cửu lại sở hữu đôi tai thính của loài hồ ly, những lời thì thầm theo gió lọt vào tai nàng, hết sức rõ ràng.

Nàng ta đã nói một câu chứa đầy sự hối hận: “Kiếp này muội chỉ có thể phụ tình ý của biểu ca, là do muội quá không hiểu chuyện, giờ đây muội đã không còn xứng đáng với biểu ca, chỉ mong rằng… mong rằng tại đây hẹn thề kiếp sau, nếu có kiếp sau, nhất định sẽ không phụ bạc lẫn nhau”.

Tay Phượng Cửu lập tức nổi da gà, bàn tay đang chia trà ra các chén khẽ run rẩy, nàng dỏng tai lên, muốn nghe phản ứng của Trầm Diệp. Tai nàng vểnh lên một lát, nhưng trong một lát đó, Trầm Diệp lại không hề có phản ứng gì. Hồi lâu, mới dường như nghi hoặc nói: “Ta đối với ngươi, có tình ý gì?”.

Giọng nói của Quất Nặc có chút run rẩy: “Huynh… huynh nói rằng muội là muội muội từ nhỏ lớn lên cùng huynh, cho dù muội có phạm lỗi, nhưng không thể bỏ mặc, huynh không phải là người thích xen vào chuyện của người khác, biết rõ nếu cứu muội sẽ có hậu quả đáng sợ như thế nào, nhưng vẫn liều mình bất chấp nguy hiểm, tất cả những điều đó, lẽ nào không phải bởi vì biểu ca đối với muội…”

Trầm Diệp lạnh lùng nói: “Cứu ngươi chỉ vì muốn bảo toàn huyết mạch của phụ thân ngươi, tri ân không báo đáp thì không phải là quân tử, ngươi cần cảm tạ phụ thân của ngươi đã có đại ân đối với ta”.

Quất Nặc không tin, nói: “Vậy tại sao hôm nay huynh lại tới tiễn muội, không phải… không phải là không nỡ xa muội sao?”.

Trầm Diệp đáp: “Nhân cơ hội để được ra ngoài một chuyến mà thôi”.

Quất Nặc run rẩy nói: “Huynh… huynh từ nhỏ đã không thích Thường Đệ và A Lan Nhược, nhưng lại đối tốt với muội nhất”.

Trầm Diệp khinh miệt nói: “Dòng máu trên người mẫu thân của ngươi không trong sạch không may mắn, ta nên sớm biết điều đó, ngươi và Thường Đệ cùng một mẹ sinh ra, tự cam tâm sa đọa, vốn chẳng có điểm gì khác biệt, trước đây ta đã đánh giá ngươi quá cao”.

Quất Nặc giận đến nỗi run rẩy, giọng nói dường như đang muốn khóc: “Nếu muội không trong trắng, không may mắn, vậy còn A Lan Nhược, nàng ta và muội cũng cùng một mẹ sinh ra, đã được gả cho người khác mà vẫn tán tỉnh huynh, chẳng phải là còn không trong trắng, không may mắn, tự cam tâm sa đọa hơn sao? Huynh lại cam tâm tình nguyện để nàng ta giam lỏng…”.

Trầm Diệp lạnh lùng cười: “Ta cam tâm tình nguyện bị nàng giam lỏng cả đời đấy, ngươi định thế nào?”.

Đôi tai đang dỏng lên nghe ngóng của Phượng Cửu khẽ run rẩy, tay đỡ cằm để nó khỏi trượt xuống đất, viên hình quan lo lắng tiến lên hỏi: “Điện hạ bị đau răng ư?”. Phượng Cửu lắc đầu đưa cho hắn ta một ly trà đã rót sẵn, lại chỉ về phía bên sông, ý muốn nói là uống trà xong có thể lên đường được rồi.

Hôm nay tới xem trò vui, quả nhiên đã xem được một trò vui lớn. Nàng quả thực không ngờ rằng việc Trầm Diệp cứu Quất Nặc thực ra còn có ẩn tình đó, nhưng điều này cũng rất hợp với tính cách của chàng ta. Trầm Diệp quả thực không phải người thương hoa tiếc ngọc, Phượng Cửu hiểu rất rõ cái miệng của chàng ta có thể khiến người ta đau khổ tới mức nào. Lúc này, nhìn bóng dáng run rẩy trong gió như một phiến lá khô của Quất Nặc, trong lòng lại dấy lên một cảm giác đồng cảm.

Quất Nặc bước đi như người vô hồn, Trầm Diệp đứng bên sông ngắm cảnh, cảnh vật bên ngoài Vương thành, núi cao nước chảy, đương nhiêu khoáng đạt hơn những tiểu cảnh được tạo dựng lên trong phủ.

Phượng Cửu thầm nghĩ, ban nãy Trầm Diệp đã cãi nhau với Quất Nặc, có thể sẽ thấy khát, liệu có nên mời chàng ta một ly trà cho nhuận họng. Lời mời gọi vừa thốt ra khỏi miệng, lại có chút hối hận, theo như sự ghét bỏ lúc ban đầu của Trầm Diệp đối với A Lan Nhược, chắc chắn chàng ta sẽ không tới, nàng đã uổng phí lời mời rồi. Nghĩ vậy, lập tức cảm thấy ngượng ngùng vô vị, chuẩn bị đổ bỏ nửa bình trà còn thừa, thu dọn bộ đồ pha trà.

Không ngờ Trầm Diệp lại bước tới. Không chỉ bước tới, mà còn khoanh chân ngồi xuống. Không chỉ ngồi xuống, còn ngồi xuống trước mặt nàng. Đưa tay về phía nàng: “Trà mà ngươi vừa nói đâu?”.

Phượng Cửu không hổ danh là người có kinh nghiệm diễn kịch, nhanh chóng nhập vai, nói: “À, đây, đây”, đưa cho chàng ta một ly trà nóng vừa mới rót đầy.

Để diễn giống thật, thể hiện sự quan tâm của A Lan Nhược đối với Trầm Diệp, chỉ trong vài giây phút ngắn ngủi Phượng Cửu còn nặn ra được hai câu nói quan tâm, đôi môi của chàng ta vừa chạm vào miệng chén, đã lo lắng nói: “Ta vừa mới đun trà xong, e rằng còn rất nóng, huynh hãy thổi cho nguội đã…”. Khi chàng ta uống vào miệng, lại hỏi một cách đầy chờ đợi: “Trà này không có gì mới lạ cả, chỉ là lá trà thô thôi, nhưng nước dùng để đun trà lại là sương trên lá sen, huynh nếm thử xem uống có quen không?”. Trầm Diệp đặt ly trà xuống, nhìn nàng bằng một ánh mắt sâu xa. Nàng điềm tĩnh đưa cho chàng ta một chiếc khăn lụa, bày tỏ sự quan tâm thứ ba, âu yếm nói: “Ban nãy khi uống trà chắc huynh không để ý? Nhìn xem, khóe miệng còn dính bọt trà kìa, hãy dùng cái này để lau đi…”.

Trầm Diệp nhìn nàng một hồi, nhận lấy chiếc khăn lụa, trong giọng nói lại ẩn chứa một chút mỉa mai: "Ta không hiểu nổi ngươi, mấy hôm trước còn nghe nói ngươi và Tức Trạch thần quân tình cảm mặn nồng, là cặp phu thê quý tộc điển hình trong tông thất, hôm nay ngươi lại quan tâm tới ta như thế, tại sao vậy?”.

Phượng Cửu khẽ giật mình. Vỗn dĩ trong thời đại của A Lan Nhược, Tức Trạch không hề ra khỏi núi Kỳ Nam, chuyện giữa hai người Lan – Trầm cũng không liên quan gì tới chàng ta cả. Nhưng lần này nàng lại quên mất, Tức Trạch là một biến số. Mạch thiếu gia đã từng nhắc nhở nàng, những việc khác nàng muốn thế nào cũng được, nhưng mối quan hệ giữa A Lan Nhược và Trầm Diệp, nàng nhất định phải cố gắng làm theo những chuyện đã xảy ra trước đây, bởi vì đây là một mấu chốt rất quan trọng, chưa biết chừng sẽ là thứ dẫn tới kết cục sau này.

Phượng Cửu nắm lấy tay của Trầm Diệp, chân thành nói: “Ta và Tức Trạch chẳng qua chỉ là vui chơi qua đường mà thôi, với huynh…”. Bốn chữ “mới là thật lòng” sắp thốt ra khỏi miệng, vì bỗng nhiên nhớ ra trong đoạn này, A Lan Nhược chẳng qua chỉ là thầm thích Trầm Diệp mà thôi, tình cảm này chưa được bộc lộ ra ngoài, lại vội vàng nuốt mấy chữ đó lại.

Sự việc thật trùng hợp, khi Trà Trà dẫn theo Tức Trạch – người bỗng nhiên quay về phủ tới bên sông tìm Phượng Cửu, cảnh mà hai người bắt gặp chính là cảnh tượng này.

Lúc ấy, dương liễu buông mành, gió mát hiu hiu thổi, giữa thảm cỏ xanh biếc là một bàn trà, Trầm Diệp và Phượng Cửu ngồi đối diện với nhau. Phượng Cửu đưa tay qua bàn trà, nắm lấy tay của Trầm Diệp, đôi mắt dịu dàng chứa chan tình cảm, đang khẽ nói gì đó.

Lúc này đầu óc của Trà Trà vô cùng rối loạn, thấy Tức Trạch đã tiến lại gần vài bước, cũng tiến thêm vài bước theo sau, bèn nghe thấy giọng nói của điện hạ nhà mình lọt vào tai: “Tức Trạch là một người tốt, có thể mấy chữ ‘vui chơi qua đường’ mà ban nãy dùng không được chính xác cho lắm, nhưng lời vừa rồi của huynh khiến ta rất lo lắng, ta và chàng ta quả thực chỉ là chút tình nghĩa giúp đỡ lẫn nhau, ta có thể thề với trời đất rằng, giữa ta và chàng ta tuyệt đối không có gì cả, trước đây không có, bây giờ không có, sau này cũng không thể có được, huynh có tin ta không?”.

Trà Trà không kịp cân nhắc xem những câu nói đó của Phượng Cửu có ý nghĩa như thế nào, chỉ nghe giọng nói dịu dàng ủy mị này của nàng xương cốt đã giòn tan quá nửa. Vô tình hắt hơi một cái, khi nghiêng đầu chợt nhìn thấy sắc mặt của Tức Trạch hơi sững người lại, khuôn mặt của thần quân trắng bệch, ánh mắt lạnh lùng đến nỗi giống như băng tuyết đã đông cứng mấy nghìn năm vậy.

Trà Trà sợ sệt quay đầu lại, thấy hai người ban nãy còn đang cúi đầu thì thầm bên bàn trà giờ đã quay ra nhìn bọn họ, một người lạnh lùng, một người kinh ngạc, chắc là đều bị kinh động bởi tiếng hắt hơi ban nãy của nàng nên mới phát hiện ra sự có mặt của bọn họ.

Trà Trà đưa mắt liếc nhìn, bàn tay của điện hạ vẫn đặt lên tay Trầm Diệp, ánh mắt của điện hạ dù kinh ngạc nhưng tình cảm dịu dàng ban nãy vẫn chưa thu lại hết, vẫn còn dập dềnh trong cặp đồng tử long lanh. Hơn nữa, hôm nay điện hạ toàn thân màu đỏ, ngồi bên cạnh Trầm Diệp trong bộ xiêm y màu trắng[1], trông như một cặp trời sinh, vô cùng tương xứng.

[1] Đoạn này nguyên gốc là Tức Trạch nhưng có lẽ Trầm Diệp thì đúng hơn.

Ánh mắt của Tức Trạch chăm chú nhìn bọn họ trong giây lát, nàng chưa bao giờ nhìn thấy biểu hiện này trên khuôn mặt của thần quân, nhưng rốt cuộc đó là biểu hiện gì, nàng cũng không nói rõ được. Thần quân tiến lên phía trước một bước, lại dừng lại, nhìn hai người đang ngồi yên lặng thêm giây lát, không nói gì cả, quay người bước đi. Nàng còn nhớ trước đây bóng dáng của thần quân luôn rất uy nghi, cho dù có chuyện lớn tày trời thì bước chân của ngài cũng vẫn chậm rãi từ tốn, luôn rất có phong độ, lúc này không hiểu sao lại có chút vội vàng như vậy.

Trà Trà đứng ngây người tại chỗ, cảm thấy lúc này không tiện đi theo. Nàng nghe thấy Trầm Diệp nói với chủ nhân của mình vẻ sâu xa: “Nếu giữa hai người không có gì, tại sao chàng ta lại bỏ đi?”.

Nàng nghe thấy chủ nhân ân cần nhưng hàm hồ nói: “À, giữa ta và Tức Trạch quả thực không có chuyện gì, huynh không cần đem việc đó ra thăm dò ta, có thể chàng ta cảm thấy đã làm phiền chúng ta uống trà ngắm cảnh nên mới đi thôi. Hay là huynh cảm thấy khi uống trà phải đông người mới vui? Nếu huynh thích vui vẻ hơn một chút thì ta sẽ gọi chàng ta quay lại”.

Trà Trà nhìn bóng dáng của thần quân hơi sững lại một chút, trong giây lát nàng có cảm giác liệu có phải thần quân sắp nổi cáu. Nhưng chỉ trong nháy mắt, bóng thần quân đã biến mất trong tầm mắt của họ. Trà Trà nhớ lại hình bóng của thần quân, cảm thấy thần quân quả không hổ danh là thần quân, dù chỉ là bóng phía sau lưng nhưng cũng như cây ngọc trước gió, nhưng có lẽ gió hơi mạnh, khiến cây ngọc kia có phần tiêu điều. Trong lòng Trà Trà bỗng nhen lên cảm giác thương cảm.

03.

Phượng Cửu bần thần nhìn ngắm cơn mưa xối xả như dội từ Thiên Hà xuống bên ngoài cửa sổ.

Chuyện trên bãi cỏ vào buổi chiều, nàng khâm phục bản thân mình có thể giương mắt nhìn Tức Trạch quay người bỏ đi, mà vẫn có thể vỗ về Trầm Diệp, cùng chàng ta uống nốt nửa tuần trà, lại đưa chàng ta về Mạnh Xuân viện. Đây chính là sự chuyên nghiệp của nàng. Tình cảnh của nàng lúc đó, giống như một vị khác phong lưu tới lầu xanh tìm mỹ nữ, bị phu nhân chua ngoa đanh đá của nhà mình lao tới bắt gian. Nàng cảm thấy, cho dù là một kẻ thường xuyên phạm lỗi, cũng không thể làm cho sự việc êm đẹp hơn nàng. Nàng vừa cảm thấy làm tình thánh thật không dễ dàng lại vừa cảm thấy bản thân mình dường như đã làm một cách rất xuất sắc, rất có tư chất.

Sau khi Trầm Diệp quay về Mạnh Xuân viện, nàng đi tìm Tức Trạch hồi lâu, mãi cho tới khi trời mưa ào ào vẫn không tìm thấy bóng dáng của Tức Trạch, nàng liền quay về phủ. Theo nàng phỏng đoán, Tức Trạch đang ghen, nhưng chàng luôn là một người hiểu lý lẽ, cũng không cần vội vàng giải thích với chàng ngay lúc này, đối phó với Trầm Diệp rất tốn sức lực, nàng cần giữ lại chút tinh lực, nếu dầm mưa về bị ốm sẽ không được tốt lắm.

Trà Trà đặt giá nến xuống trước cửa sổ, nhìn vào màn đêm đang sầm sập đổ mưa, lo lắng nói với Phượng Cửu: “Mưa to thế này, thần quân nhất định sẽ bị ướt mất”.

Phượng Cửu ngáp một cái, nói: “Chàng có thể tìm được nơi tránh mưa, không cần phải lo lắng chuyện này”.

Trà Trà thở dài: “Điện hạ không tìm thấy thần quân, nhất định là do ngài ấy cố ý né tránh điện hạ. Nhất định là ngài ấy vừa muốn gặp điện hạ lại vừa sợ điện hạ. Vừa muốn gặp để điện hạ giải thích rằng giữa điện hạ và Trầm Diệp đại nhân không có chuyện gì, lại sợ gặp rồi điện hạ sẽ giải thích rằng giữa điện hạ và Trầm Diệp đại nhân quả thực có tình cảm…”.

Phượng Cửu nói: “Chắc chàng không phải là người suy nghĩ rối rắm như vậy chứ…”.

Trà Trà thở dài nói: “Nghĩ đến việc thần quân đại nhân đi giữa đất hoang không một bóng người, lúc này trời đang mưa lớn, nhưng trong lòng thần quân đại nhân đã đầy ắp sự chấn động và bi thương, còn ý thức được trời mưa không chứ? Những hạt mưa lạnh ngắt quất lên người ngài ấy, thấm ướt áo ngài ấy, mặc dù lạnh thấu xương, nhưng so với nỗi tuyệt vọng ở trong lòng, cái lạnh đó có là gì chứ?”.

Phượng Cửu nói: “Chàng chắc không như vậy chứ…”.

Trà Trà trách móc nhìn Phượng Cửu: “Đợi đến khi ý thức được rằng trời đang mưa lớn, thần quân đại nhân chắc chắn sẽ nghĩ rằng, nếu mưa lớn như vậy mà điện hạ vẫn xuất hiện, khi đứng đối diện với ngài ấy, ngài ấy nhất định sẽ ôm điện hạ vào lòng, cho dù điện hạ đã làm cho ngài ấy tổn thương nặng nề, ngài ấy cũng là đều không bận tâm. Nhưng điện hạ, người”, nàng ta lại trách móc nhìn Phượng Cửu thêm một lần nữa: “Điện hạ lại vì trời mới đổ vài hạt mưa đã vội vàng quay về phủ. Điện hạ làm như vậy là đặt thần quân đại nhân ở vị trí nào chứ, ngài ấy nhất định sẽ cảm thấy vô cùng thê lương, đau khổ, hận một nỗi không thể bị mưa xối đến chết ấy chứ”.

Phượng Cửu có cảm giác đầu mình bị đánh một cú đến mơ hồ, nói: “Chàng không đến nỗi như vậy chứ…”.

Trà Trà nhân cơ hội đó, vội nói: “Điện hạ có muốn đi tìm thần quân thêm một lần nữa không?”

Trong đầu Phượng Cửu thử tưởng tượng ra cảnh tượng Tức Trạch thần quân đau khổ vì tình trong mưa, kết quả là lại tưởng tượng ra cảnh chàng ta vừa ngắm mưa vừa thưởng thức món lẩu. Trò đau khổ vì tình trong mưa sao Tức Trạch có thể làm nổi? Nàng thầm than Trà Trà đã suy nghĩ quá nhiều, hắng giọng một tiếng: “Ta đi ngủ đây, còn về Tức Trạch, chắc chàng đã sớm ngủ rồi, ngày mai mưa tạnh ta sẽ đi tìm chàng”.

Trà Trà thở vắn than dài một hồi, lắc đầu, quay người giúp nàng trải chăn đệm.

Bên ngoài cửa sổ mưa to gió lớn, Phượng Cửu mơ hồ thầm nghĩ, mấy ngày vừa qua trời nắng gay gắt, một trận mưa lớn vừa hay có thể gột rửa bầu không khí mờ mịt giữa trời đất, mưa lạnh đập vào song cửa, nàng dần dần chìm vào giấc ngủ. Tới nửa đêm, bỗng cảm thấy chiếc giường võng xuống, một làn hơi lạnh ẩm ướt lướt qua mặt. Vốn dĩ đêm nay nàng ngủ không sâu, ngay khoảnh khắc giật mình tỉnh dậy, khẽ búng tay một cái, cây nến ngoài màn đã được thắp sáng.

Ánh nến vàng vọt khẽ hắt vào trong màn, miễn cưỡng có thể soi một bóng người. Tức Trạch thần quân nhắm mắt nằm ở một góc giường, khắp người toát ra luồng khí lạnh buốt, cảm thấy có ánh sáng chiếu vào, khó chịu mở mắt ra, ánh mắt mơ màng trong giây lát, sau đó tập trung vào người Phượng Cửu đang túm chặt cổ áo co người vào một góc giường, nói: “Nàng làm gì ở đây vậy?”.

Phượng Cửu nhìn chàng một hồi, như muốn nói: “Câu hỏi này, có lẽ nên để ta hỏi thì đúng hơn”.

Ánh mắt của Tức Trạch lộ vẻ không hiểu, nàng ngáp một cái, nói: “Bởi vì đây là giường của ta”. Thấy điệu bộ của Tức Trạch đêm nay dường như phản ứng chậm hơn bình thường, cảm thấy kỳ lạ, nói: “Có phải ngài đã sớm quay về rồi không, thảo nào tìm ngài suốt cả buổi chiều ở bên ngoài cũng không tìm thấy, ngài ở trong phòng phía Đông hay phía Tây vậy? Bây giờ lại đi vào phòng của ta… chắc là mộng du đi nhầm phòng rồi chứ gì?”.

Tức Trạch yên lặng hồi lâu, nói: “Đi dạo ở bên ngoài, quên cả thời gian, vừa mới quay về, không để ý đã đi vào nhầm phòng”.

Ngoài cửa sổ vẫn có tiếng gió mưa gào thét, Phượng Cửu khẽ rùng mình, lục tìm phía đầu giường một hồi, tìm ra một chiếc vỏ trai, mở nắp ra, luồng ánh sáng dịu nhẹ lập tức bao trùm khắp căn phòng. Lúc bấy giờ Phượng Cửu mới nhìn thấy khắp người Tức Trạch giống như vừa ngâm nước, ngay cả lớp chăn đệm dưới người chàng cũng đều bị nước ngấm ướt sũng.

Phượng Cửu sững người lại, Trà Trà tính toán như thần.

Nàng đưa tay nắm lấy ngón tay lạnh tới tím tái của Tức Trạch, giống như đang nắm phải một cục tuyết.

Phượng Cửu nghiến răng nói: “Mưa lớn như vậy, ngài không biết trú mưa sao, hoặc tạo ra một tiên chưởng để tránh mưa, ngài cũng không làm nổi ư?”.

Tức Trạch nhắm mắt lại gà gật nói: “Ta đang mải suy nghĩ, không để ý trời mưa”.

Phượng Cửu bước qua người chàng.

Tức Trạch nắm lấy tay nàng, giọng nói lộ rõ vẻ mệt mỏi: “Sao phải vội vã ra ngoài né tránh hiềm nghi thế, bộ dạng của ta đã như thế này rồi, liệu có thể làm gì nàng chứ?”.

Phượng Cửu vùng vẫy.

Tức Trạch nói: “Ta sẽ không làm gì nàng đâu, ta váng đầu, nàng ở lại với ta một lát”.

Gân xanh nổi lên trên trán của Phượng Cửu: “Tránh hiềm nghi cái gì, ở lại với ngài một lát gì chứ, dầm mưa suốt năm, sáu canh giờ, ngài có thể không váng đầu được sao, ta đi chuẩn bị bồn tắm cho ngài ngâm mình một lát, ngài còn cử động được thì mau cởi y phục ra, quấn chăn lại, nếu không cử động được thì cứ ở đó đợi ta, đừng cử động”.

Tức Trạch nói: “Ta không nhúc nhích được nữa”.

Phượng Cửu xắn tay áo vừa chuẩn bị bồn tắm bên ngoài tấm bình phong vừa nói: “Vậy thì ngài hãy mặc nguyên quần áo mà ngâm nước”.

Tức Trạch yên lặng hồi lâu, nói: “Ta lại có thể cử động được rồi”.

Lợi ích của việc có pháp thuật chính là ở điểm này, dù nửa đêm khuya khoắt khi đám đầy tớ nô bộc đều đã ngủ say cũng có thể biến ra một chậu nước tắm nghi ngút khói. Phượng Cửu đưa tay nhúng vào nước hồi lâu để thử độ nóng xem có phù hợp không, lại dùng bình phong quây kín bồn tắm lại, bê một chiếc ghế nhỏ ra cửa, ngồi quay lưng lại rồi mới gọi Tức Trạch ra tắm.

Nghe thấy một loạt tiếng động lạch cạch phía sau lưng, Phượng Cửu nghi ngờ rằng liệu có phải Tức Trạch đã va phải bàn ghế, nhưng lúc này ngộ nhỡ chàng ta đã cởi quần áo… Nàng cố gắng kiềm chế ham muốn quay đầu lại để quan tâm tới chàng, cho tới khi phía sau tấm bình phong vang lên tiếng nước chảy. Lúc bấy giờ mới xách ghế ngồi lại gần tấm bình phong, đề phòng Tức Trạch cần tới sự giúp đỡ của nàng.

Vì tộc Tỷ Dực Điểu bản thân là một loài chim, không thích thêu hoa văn hình chim chóc trang trí trên bình phong, mấy tấm bình phong ghép lại trước mặt kia được dệt bằng tơ lụa, trên đó thêu hoa sen tám lá thanh tịnh. Nhưng lúc này hơi nước nghi ngút bốc lên từ phía sau tấm bình phong, những bông sen tám lá như chìm trong sương mờ, trông lại có chút yêu kiều mê hoặc.

Phượng Cửu tự cấu vào đùi mình, liền nghe thấy giọng nói của Tức Trạch vang lên phía sau bình phong: “Khi ta đi dạo, đã nghĩ tới bức thư mà nàng viết cho ta”.

Phượng Cửu không hiểu, nói: “Bức thư nào?”.

Tiếng nước chảy phía sau tấm bình phong tạm dừng, Tức Trạch nói: “Nàng nói nàng mượn danh nghĩa của ta để cứu Trầm Diệp trên Linh Sơ đài, bởi vì nàng cảm thấy chàng ta có tình cảm sâu sắc với Quất Nặc và rất nghĩa khí, khiến nàng rất cảm động”.

Phượng Cửu cuối cùng cũng nhớ ra bức thư liên quan tới Trầm Diệp mà nàng đã gửi cho Tức Trạch cùng gói kẹo hồ ly, đại khái đã viết vài câu hào nhoáng, nhưng thực ra nàng đã quên mất nội dung cụ thể trong bức thư, cũng không biết Tức Trạch bỗng nhiên nhắc tới chuyện này là có ý gì, chỉ ậm ừ nói: “À, đúng là có chuyện như vậy”.

Tức Trạch nói: “Ban đầu ta đã tin, vì ta cảm thấy rằng, nàng sẽ không lừa dối ta”.

Trái tim của Phượng Cửu trong giây lát như muốn nhảy ra khỏi cổ họng, chàng nói như vậy, lẽ nào chàng đã biết được mình không phải A Lan Nhược, hơn nữa còn biết được mình đã câu kết với Mạch thiếu gia để làm điều gì sao? Mồ hôi lạnh túa ra trên trán.

Tức Trạch nói tiếp: “Hóa ra vì nàng thích hắn ta nên mới cứu hắn ta”. Giọng nói trầm thấp của chàng ẩn trong làn hơi nước, nghe không rõ ràng lắm, Phượng Cửu chợt thở phào nhẹ nhõm, hóa ra chàng có ý đó. Đưa tay lau mồ hôi trên trán, nàng nhẹ nhõm tiếp lời: “Quả thực ta không lừa dối ngài, ngài đã suy nghĩ quá nhiều rồi”. Nhưng vì trái tim đang treo ngược của nàng bỗng được giải tỏa, trong giọng nói khó tránh mang vẻ vui mừng, lọt vào tai Tức Trạch, lại thành dường như chỉ cần chàng nhắc tới tên của Trầm Diệp đã có thể khiến nàng vô cùng vui vẻ.

Lại là một khoảng yên lặng khó nói.

Tức Trạch chậm rãi nói: “Nàng bắt đầu thích hắn ta từ khi nào?”. Không đợi nàng trả lời, lại nói: “Bởi vì hắn ta đã cứu nàng thoát khỏi lồng Cửu Khúc còn ta lại không tới cứu ư? Nàng muốn tìm một người có thể tới cứu nàng mỗi khi nàng gặp nguy hiểm, nàng cảm thấy hắn ta mới chính là người đó, đúng không?”.

Phượng Cửu liền thấy tỉnh táo, trước đó Tức Trạch luôn miệng nói hai người bọn họ chẳng qua chỉ là bạn tâm giao, đây là những lời mà một người bạn tâm giao nên nói ư? Hơn nữa, nàng muốn tìm một người như thế nào, nàng nhớ rằng những lời này mới chỉ nói qua với Mạch thiếu gia, sao lúc này ai cũng biết được mẫu người mà nàng muốn tìm kiếm?

Kẻ ương bướng kia lại có dấu hiệu muốn mở miệng. Nàng đắc ý hắng giọng, cố ý khích cho Tức Trạch nói rõ ra, đáp: “Ngài là bạn tâm giao của ta mà, khi ta gặp nguy hiểm, ngài quả thực không nhất thiết phải là người tới đầu tiên, ngài xem, ngài và Trầm Diệp đâu giống nhau”.

Nàng đang chờ đợi một câu nói từ tận đáy lòng của Tức Trạch, phía sau tấm bình phong lại mãi không có động tĩnh gì. Nàng chờ đợi khá lâu, sự yên lặng phía sau tấm bình phong rất không bình thường, ngay cả tiếng nước chảy cũng không có. Phượng Cửu giật mình, lúc này chàng đang bị chóng mặt, chắc không bị ngất trong nước đấy chứ.

Không để ý tới việc Tức Trạch hiện giờ đã thoát y, nàng bước vội qua tấm bình phong. Vì ban nãy nàng đã cho thêm các loại thảo dược như gừng khô và cỏ thấu cốt có tác dụng giải hàn, nước tắm bị thảo dược làm cho đục ngàu, không thấy bóng dáng của Tức Trạch đâu.

Phượng Cửu cất giọng gọi hai tiếng, không có tiếng trả lời. Nàng run rẩy bước hai bước tới bên thùng nước, nàng không buồn vén tay áo lên, thò tay vào trong nước, chạm phải một vật cứng, vừa lôi vừa kéo nhấc lên. Tức Trạch ngoi lên khỏi mặt nước, một nửa người lộ ra trên mặt nước, một cánh tay đang bị nàng túm chặt, một bàn tay đang vén mái tóc dài ướt sũng, cau mày nhìn nàng. Dưới ánh sáng dịu dàng của viên minh châu, những giọt nước lung linh lay động trên làn da trần của chàng, ánh mắt của Phượng Cửu di chuyển từ xương quai xanh, lên cổ, rồi lên mặt chàng, cố gắng kìm nén sắc hồng sắp lan trên mặt, giả bộ điềm tĩnh nói: “Làm ta giật mình, ngài nằm dưới nước làm gì vậy?”.

Tức Trạch lạnh nhạt nói: “Suy nghĩ, nàng ồn ào quá”.

Bàn tay đang níu lấy cánh tay chàng của Phượng Cửu khẽ cứng đơ, ban nãy nàng còn chắc chắn rằng chàng có tình cảm với nàng, giờ đây chàng nói câu đó, nàng lại không dám chắc chàng rốt cuộc có ý hay không có ý với nàng nữa, hoặc có thể mấy ngày gần đây thực ra nàng đã tự mình đa tình, hành tung của Tức Trạch mặc dù cổ quái, nhưng thực ra chàng lại không hề có ý đó đối với mình? Vì Tiểu Yến tráng sĩ – quân sư tình yêu của nàng hiện không có ở đây, không thể kịp thời giải thích cho nàng hiểu, nàng cảm thấy mông lung trong giây lát, ngượng ngùng buông tay của chàng ra, nói: “Ờ, vậy ngài hãy tiếp tục suy nghĩ đi, ngâm xong rồi thì mặc quần áo và trở về sương phòng phía Đông nhé, ta tới đó trước chuẩn bị giường chiếu cho ngài”.

Nàng quay người định bước đi, cánh tay trần lại bị Tức Trạch nắm chặt, giọng nói khàn đục kìm nén vang lên từ phía sau lưng: “Trầm Diệp có điểm gì tốt hơn ta?”.

Phượng Cửu đứng sững tại chỗ, nếu chàng không chê nàng ồn ào, nàng sẽ cảm thấy chắc là chàng đang ghen, nhưng lúc này, lại không hiểu nổi nữa. Nếu xét về ý nghĩa trên mặt chữ của vấn đề này… nàng suy nghĩ trong giây lát, thành thật nói: “Về điều này, ta chưa từng so sánh”.

Nàng chưa từng có suy nghĩ gì khác với Trầm Diệp, đương nhiên sẽ không so sánh chàng ta với Tức Trạch. Nhưng đối với Tức Trạch, câu nói này rõ ràng có nghĩa là nàng một lòng chung tình đối với Trầm Diệp, không thèm so sánh Trầm Diệp với những người khác. Bầu không khí trong phòng nhất thời lại vô cùng tĩnh mịch, giữa những tiếng thở vẫn có thể nghe được tiếng gió ngoài cửa sổ. Phượng Cửu cảm thấy không hiểu sao cổ họng lại có chút nghèn nghẹn, nàng giật tay ra.

Bỗng nhiên, nàng bị kéo giật xuống, nàng đứng không vững, trượt chân ngã nhào, nước trong bồn tắm bắn tung tóe. Hương thơm của các loại dược thảo chống cảm hàn phảng phất trước đầu mũi, làn nước ấm thấm ướt chiếc váy dài của nàng, lớp vải sa mỏng ở cánh tay ướt sũng, dính chặt lên làn da trắng ngần. Phượng Cửu khẽ cử động, kinh ngạc phát hiện ra mình đang ngồi trên đùi của Tức Trạch. Khuôn mặt của Tức Trạch gần trong gang tấc.

Một mỹ nam tử, mái tóc dài ướt sũng, khuôn mặt còn đẫm nước, thường ngày ăn vận kín đáo đến nỗi hận một nỗi muốn quấn kín mít cả yết hầu, lúc này lại để lộ nửa thân trần trên mặt nước, trong cặp đồng tử màu tối dường như đang ấp ủ một cơn mưa bão, nhưng thần sắc lại rất bình tĩnh.

Khuôn mặt của Phượng Cửu đỏ ửng như quả cà chua, ngồi yên trên đùi chàng, không dám nhúc nhích. Đến nước này, nàng quả thực không theo kịp, không biết chàng có ý gì.

Bàn tay còn lại của Tức Trạch vuốt ve khuôn mặt nàng, hạ thấp giọng nói: “Trầm Diệp biết nói lời hay ý đẹp khiến nàng vui lòng? Nói nàng xinh đẹp, tính cách tốt, lại giỏi giang?”. Chàng dừng lại một chút, đăm đăm nhìn vào mắt nàng: “Những lời hay ý đẹp mà nàng muốn nghe đó ta chưa từng nói, cũng không thể nói được. Nhưng ta đối với nàng như thế nào, lẽ nào nàng lại không nhận ra sao?”.

Phượng Cửu khẽ “à” một tiếng, một lát sau lại lên giọng “á” thêm một tiếng nữa.

Từ “à” phía trước, là phản ứng qua loa lấy lệ sau khi nghe chàng nói nhưng đầu óc rối mù chẳng hiểu gì cả, còn từ “á” phía sau, là suy nghĩ một lát, loại trừ tất cả mọi khả năng, cuối cùng đã hiểu rõ chàng đang nói gì, lại bị giật mình kinh sợ.

Quanh đi quẩn lại, chàng quả nhiên vẫn có ý đó mà.

Phượng Cửu cố gắng kìm nén sự vui mừng, ngoài mặt vẫn giả bộ điềm tĩnh.

Hồi lâu, Tức Trạch nói tiếp: “Ta chưa từng nghĩ sẽ không kịp, chưa từng nghĩ nàng sẽ không cần ta nữa”. Chàng nói câu này một cách rất tự nhiên, dường như quả thật là Phượng Cửu vứt bỏ chàng, khiến chàng phải chịu vô vàn nỗi ấm ức.

Phượng Cửu tiếp lời: “Do đó ngài mới ghen, mới chạy ra ngoài dầm mưa?”

Tức Trạch ngẩng đầu lên nhìn trần nhà: “Ta đang nghĩ xem nên làm như thế nào, kết quả vẫn chưa nghĩ ra nên làm như thế nào. Có lẽ trừ khử Trầm Diệp cũng là một cách, nhưng có lẽ sẽ khiến nàng đau lòng”.

Phượng Cửu vui mừng nói: “May mà ngài vẫn còn nghĩ tới việc liệu ta có đau lòng hay không nên mới không lỗ mãng trừ khử Trầm Diệp”.

Tức Trạch lạnh lùng nói: “Mặc dù nàng khiến ta đau lòng, nhưng ta là một đấng nam nhi, có thể khiến nàng cũng phải đau lòng được sao”.

Phượng Cửu hít ngược một hơi: “Ngài còn nói là ngài không biết nói những lời ngọt ngào”.

Tức Trạch chán nản nói: “Đó đã được coi là một lời ngọt ngào sao?”.

Trong lúc nói chuyện, nước tắm trong bồn đã hơi nguội, Phượng Cửu cảm thấy tâm trạng của Tức Trạch dường như cũng đã ổn định hơn, bạo gan trèo ra khỏi bồn tắm, Tức Trạch mệt mỏi tựa lưng vào thành bồn, không ngăn cản nàng, cũng không nói thêm gì nữa.

Phượng Cửu đứng bên ngoài bồn tắm, nhìn xuống Tức Trạch. Sự chênh lệch về độ cao này khiến nàng có thêm dũng khí, trong lòng đầy ắp cảm khái và cảm động rằng cuối cùng đường tình duyên của mình cũng được suôn sẻ, sự câu nệ và e dè trong bồn tắm ban nãy lập tức tiêu tan, bộ dạng vô cùng ghen tuông của Tức Trạch khiến nàng cảm thấy thật đau lòng. Nhưng ai bảo chàng trước đây lại cứng đầu không chịu thừa nhận chứ?

Dùng pháp thuật làm nước tắm nóng lên, nàng thần thần bí bí tiến lại gần, khe khẽ nói bên tai Tức Trạch – người đang nhắm mắt dưỡng thần trong bồn tắm: “Chàng ghen đến mức này là cũng thôi được rồi đấy, em có nói là em thích Trầm Diệp ư?”. Đôi mắt của Tức Trạch bỗng mở to. Nàng đặt tay lên vai chàng, giống như đang vỗ về con trẻ: “Chiều nay chẳng qua chỉ là hiểu nhầm thôi, em thích chàng như vậy, sao có thể không cần chàng được chứ”. Nói xong hôn lên má chàng một cái, trong lòng cảm thấy vô cùng ngọt ngào. Tức Trạch còn chưa kịp phản ứng, nàng đã hắt hơi một cái, cảm thấy ớn lạnh khi lớp vải sa mỏng ướt sũng dính sát vào người, vội vàng bước qua tấm bình phong để thay váy áo.

Đêm nay, Phượng Cửu vô cùng khâm phục bản thân mình, chỉ đơn giản như vậy mà có thể thu phục được Tức Trạch, trải qua nghìn năm tu luyện, quả nhiên tay nghề rất tốt, không hề thua kém Tiểu Chúc m ở ngọn núi bên cạnh.

Lúc này chỉ còn một việc khiến nàng có chút đau đầu. Nàng là A Lan Nhược giả, đương nhiên không thể sống cả đời ở đây, nhưng Tức Trạch lại là người trong mộng cảnh này, đến lúc đó sẽ phải đưa chàng ra bằng cách nào? Không biết chàng có muốn ra ngoài cùng với nàng hay không?

Nàng suy nghĩ một hồi, lại cảm thấy việc này không vội suy nghĩ trong lúc này, bèn lười không muốn suy nghĩ, vừa ngân nga một khúc nhạc vừa thay bộ chăn đệm bị Tức Trạch làm ướt ban nãy. Hai người giờ đã hiểu rõ tâm tư tình cảm của nhau rồi, chàng lại đang chóng mặt, đương nhiên không cần phải chuyển về sương phòng phía Đông giữa đêm hôm khuya khoắt như thế này, có thể nghỉ ngơi tại đây, nàng nghỉ trên chiếc giường nhỏ ngay bên cạnh như thường lệ là được rồi.

Tức Trạch dường như còn muốn ngâm mình thêm chút nữa, nàng thu viên minh châu lại, chỉ để một ngọn nến gần tấm bình phong cho Tức Trạch, vì nghĩ rằng đã nửa đêm, nếu Tức Trạch đi ra nàng cũng có chút xấu hổ, không biết phải nói gì, liền trèo lên chiếc giường nhỏ nghỉ ngơi trước, định giả vờ ngủ.

Giả vờ ngủ là sở trường của nàng.

Nàng nghe thấy tiếng bước chân khe khẽ lại gần giường của nàng, ánh nến đã tắt, phía ngoài chiếc giường nhỏ khẽ võng xuống. Tức Trạch đã tắm xong, quay lại, tranh giành giường ngủ với nàng. Nàng vốn đang nằm nghiêng người ở bên trong, lúc này chỉ cảm thấy một luồng hơi ấm phía sau lưng, hơi nước mờ mịt dường như cũng được mang theo lên giường, đan xen mùi hương của thảo dược và hương bạch đàn, không hiểu sao lại có vẻ quấn quýt vương vấn.

Phượng Cửu bấu chặt chăn băn khoăn, lúc này nàng nên tiếp tục giả vờ ngủ hay nhắc nhở Tức Trạch một câu, chăn đệm bên giường lớn kia nàng đã thay bộ khô ráo giúp chàng rồi, bảo chàng nằm giường lớn?

May mà Tức Trạch không có động tĩnh gì xa hơn nữa, chỉ kéo một góc chăn đắp lên người mình, hạ giọng nói với nàng: “Nếu đã không có tình cảm với Trầm Diệp, tại sao buổi chiều lại nói với hắn ta những lời đó?”.

Phượng Cửu thầm thở dài trong lòng, chàng hỏi thật thẳng thắn, có điều xin lỗi chàng, em đã ngủ rồi.

Bàn tay của Tức Trạch đặt trên vai nàng, giọng nói rất khẽ, gần như ghé sát tai nàng, nói: “Có muốn biết giả vờ ngủ sẽ có hậu quả như thế nào không?”.

Phượng Cửu giống như phải bỏng, loáng một cái đã lăn ra mép giường, gượng gạo nói: “Cái đó ấy à, em và Trầm Diệp đóng kịch khích chàng một chút thôi, không ngờ chàng lại dễ kích động như vậy”.

Điều này tuy là nói bừa, nhưng lúc này không phải là thời cơ tốt để nói thật, hơn nữa Tức Trạch dường như đã tin lời nói dối này. Nhớ tới hành động ghen tuông của Tức Trạch, thực sự khiến nàng cảm thấy rất thương chàng, nhưng cũng có chút tức cười, nàng mím môi cười nói với chàng: “Việc này cũng đáng để chàng ghen tới mức độ này, sau này nếu em nói thêm với ai đó vài câu, chàng cũng đều ghen hay sao. Chữ nhẫn là một chữ hay, chàng cần phải học một chút”.

Một bàn tay vuốt ve má nàng qua lớp chăn, Tức Trạch khe khẽ thở dài một tiếng: “Ta không ghen, ta sợ không kịp”.

Phượng Cửu nhất thời nín bặt, hơi nóng lập tức lan trên khuôn mặt. Lúc này kỵ nhất là yên lặng. Nàng giả bộ không bận tâm, xoay người, quay lưng về phía Tức Trạch nói: “Làm gì có nhiều việc không kịp đến thế, trong chuyện này, chàng lại không nghĩ thoáng được như em, em kể cho chàng nghe một câu chuyện, chàng sẽ biết mình phải học tập em”.

Nàng hắng giọng, quả nhiên lấy giọng kể chuyện, nói: “Trước chàng, em đã từng thích một người, em đã từng nhắc tới người đó khi đi ngắm hoa nguyệt lệnh cùng chàng, chắc chàng cũng biết. Để tiếp cận người đó, năm xưa em đã từng giả làm một con thú cưng của chàng ta. Lúc đầu, chàng ta đối với em rất tốt, nhưng sau đó chàng ta có một vị hôn thê, sự việc đã có phần khác trước. Em đã từng bị vị hôn thê của chàng ta bắt nạt, chàng ta đều đứng về phía họ, có điều dù tới nước đó, nhưng hồi ấy em một lòng thích chàng ta, em cũng chưa từng cảm thấy mình không kịp nữa”.

Kể xong đoạn quá khứ này, nàng im lặng một lúc, lại hắng giọng, phê bình Tức Trạch, người đang nằm bên cạnh: “Câu chuyện này, mặc dù là một câu chuyện rất xui xẻo, nhưng cũng coi như có chút ý nghĩa nêu gương đối với chàng, chàng xem, khi chàng ghen, em đã ra ngoài tìm chàng, chàng dầm mưa em đã chuẩn bị nước tắm cho chàng giải hàn, như vậy mà chàng vẫn còn nói là không kịp, vậy em…”.

Những lời còn lại đều bị nàng nuốt vào cổ họng, Tức Trạch ôm nàng từ phía sau lưng, khẽ nói: “Hắn ta là một tên khốn nạn”. Nàng kinh ngạc đến nín thở, không nói được gì nữa. Cử chỉ hành động của chàng trong đêm nay không hiểu sao lại vô cùng dịu dàng, ôm gọn nàng trong lòng, cánh tay vòng quanh người nàng, dường như nàng là một báu vật tuyệt thế không thể đánh mất được. Ngoài cửa sổ, gió bão vẫn gầm rít, cái ôm này lại kéo dài vô tận.

Đêm nay có thể sẽ xảy ra chuyện gì đó, không phải nàng chưa nghĩ tới, mặc dù nàng vô cùng thích Tức Trạch, nhưng đối với chuyện viên phòng, theo bản năng, nàng vẫn có chút lo sợ.

Trong phòng chỉ nghe thấy hơi thở của nhau, hồi lâu nàng cảm thấy mái tóc dài phía sau gáy của mình được một bàn tay dịu dàng vén ra. Gần đây nàng thường đắp chăn dày, đêm xuống thường mặc ít váy áo, trên người chỉ mặc một chiếc váy lụa, vì có Tức Trạch ở trong phòng nên mới khoác thêm một tấm áo lụa màu tím. Lúc này, chiếc áo lụa lại tuột xuống vai theo tay của Tức Trạch, làn da lộ ra ngoài cảm giác hơi lạnh, nàng khẽ run rẩy.

Một nụ hôn đặt lên bờ vai trần của nàng, nàng có thể cảm nhận được đôi môi của chàng đang lần tìm dọc theo cổ nàng, nàng có thể cảm nhận được chàng gần trong gang tấc, có mùi bạch đàn. Mặc dù trong phòng tối đen như mực, bàn tay chàng lại ung dung trượt tới phía trước người nàng, cởi nút buộc trên áo nàng, luồn vào lớp váy dài bên trong, mang theo sự ấm áp riêng có sau khi tắm xong, mơn man trên làn da nhạy cảm của nàng. Những ngón tay nho nhã điềm tĩnh giống như đang viết chữ, giống như đang vẽ tranh, lại giống như đang chơi đàn.

Phượng Cửu cảm thấy mình như bị gác lên một chiếc nồi lớn, phía dưới dùng lửa nhỏ om từ từ, om đến nỗi máu nàng sôi lên sùng sục, nàng có phần không kìm nén được nữa, hơi thở trở nên hổn hển, đưa tay ra định ngăn những ngón tay đang mơn man làm loạn trên da thịt nàng, khi nắm được cánh tay của chàng, nàng lại chẳng còn chút sức lực nào cả.

Mọi cử chỉ hành động của chàng trong đêm nay đều nằm ngoài dự liệu của nàng, nàng muốn lên tiếng cự tuyệt, nhưng lại mơ hồ gọi tên chàng, đôi môi liền bị phong kín lại. Lúc này không chỉ máu trong người bị đốt nóng tới cực điểm mà ngay đầu óc nàng cũng bị om thành một nồi cháo đặc, nàng nhớ họ đã từng hôn nhau vài lần, nhưng đều không giống như lúc này, động tác cắn mút liếm láp cuồng nhiệt khiến người ta trở nên kích thích, rạo rực. Đúng rồi, kích thích, rạo rực.

Một bàn tay của nàng tỳ lên lồng ngực để trần của chàng, một bàn tay níu lấy vai chàng, bị chàng hôn đến nỗi u mê đầu óc mà vẫn còn phân tâm nghĩ rằng đêm nay chàng mặc áo thật xộc xệch. Nàng không nhìn thấy dáng vẻ của chàng, đưa tay ra chạm vào lồng ngực rắn rỏi ấm áp của chàng, nhưng lồng ngực đó lại không trơn mượt mịn màng, hình như có một vài vết sẹo, nàng dùng tay vuốt ve những vết sẹo đó một cách vô thức, lại khiến những ngón tay đang dịu dàng mơn man quanh vòng eo nàng siết chặt hơn, nụ hôn của chàng càng sâu hơn.

Trong hơi thở hổn hển bị kìm nén, một cảm giác vui mừng nhen lên trong đầu nàng, nàng mơ màng cảm thấy dường như mới vài giây trước đây còn muốn đẩy chàng ra, tại sao phải đẩy chàng ra chứ? Nàng không thể nghĩ ra lý do, chỉ hết lần này tới lần khác đáp lại nụ hôn của chàng, cảm giác rạo rực trong máu khiến nàng cấp thiết muốn tìm một lối thoát, cho tới khi cởi hết váy áo, da thịt nàng áp sát vào da thịt của chàng, làn da ẩm ướt và ấm áp mang theo cả mồ hôi đó cuối cùng đã khiến nàng bình tĩnh hơn.

Trước đây, nàng từng nghe nói rằng việc này hơi đáng sợ, lúc này lại cảm thấy không hề đáng sợ chút nào. Nụ hôn của chàng thanh niên tóc trắng trước mặt rõ ràng lại khiến người ta cảm thấy rất vui sướng. Nàng không biết tiếp sau đó sẽ như thế nào, chỉ cảm thấy cho dù xảy ra bất cứ chuyện gì, đều là chuyện đương nhiên như trăng đến rằm trăng tròn, như nước chảy tất thành sông. Nhưng cho dù như vậy, khi chàng đi vào cơ thể nàng, nàng vẫn cảm thấy kinh ngạc.

Hơi thở của chàng mang theo cả âm mũi rất dễ nghe, gần bên tai nàng, một cảm giác nhói đau vi diệu lan tỏa trong cơ thể nàng, đầu óc đặc sệt ban nãy giờ đã có dấu hiệu của sự tỉnh táo, ngón tay chàng mơn man điểm hỏa trên cơ thể nhạy cảm của nàng với một sự khắc chế tuyệt đối, những nụ hôn cũng dồn dập tiếp bước những ngón tay.

Sự dễ chịu mà những cái vuốt ve và những nụ hôn mang lại đã xua tan cảm giác đau đớn không quá rõ ràng ban nãy, vầng trán ướt mồ hôi của chàng tỳ vào trán nàng, chàng hỏi: “Đau không?”. Giọng nói trầm đến mức giống như trận gió trước cơn mưa bão, âm cuối lại giống như một móc câu nhỏ móc vào trái tim nàng khiến nó khẽ run rẩy.

Nàng ấm ức gật gật đầu, bàn tay lại níu lấy vai chàng, ôm chặt lấy chàng, nói như khóc bên tai chàng: “Hơi đau. Chàng dầm mưa, chẳng phải vẫn bị chóng mặt hay sao?”. Chàng vòng tay ôm lấy eo nàng, cất giọng khàn đục nói: “Mặc kệ”.

Sau một đêm mưa to gió lớn, ngày hôm sau ánh mặt trời vô cùng rạng rỡ. Ánh nắng sớm mai chiếu vào chiếc giường mềm mại, Phượng Cửu đang quấn chăn ngồi ở một góc giường ngủ, một bên giường ngủ kê sát với tấm bình phong. Chàng thanh niêm nằm nghiêng trên giường đang say giấc nồng, mái tóc xõa rối bời trên gối, tấm chăn lụa đắp ngang eo, mái tóc trắng ánh lên những tia sáng lành lạnh dịu dàng trong ánh mặt trời, làm nền cho một khuôn mặt vô cùng tuấn mỹ đang say ngủ, khuôn mặt của Phượng Cửu liền ửng đỏ.

Khụ khụ! Đêm qua, nàng và Tức Trạch đã viên phòng. Chuyện viên phòng này, thực ra cũng không đáng sợ như lời đồn đại. Thực ra ban đầu cũng hơi đau, nhưng so với cảm giác đau đơn vì bị dao đâm khi đánh nhau với người khác, quả là chẳng thấm vào đâu, hơn nữa, sau đó cũng không còn đau nữa. Nàng lờ mờ nhớ rằng nàng đã khóc một chút, nhưng cũng không phải khóc vì chuyện đó. Sinh trưởng ở Thanh Khâu – một vùng đất có phong tục tập quán rất khoáng đạt, nàng cảm thấy chuyện này không có vấn đề gì, trước đây, vì Đông Hoa Đế Quân mà giữ mình thật trong sáng thuần khiết mới khiến người thân trong gia tộc của nàng biết chuyện băn khoăn không hiểu nổi.

Nàng cảm thấy viên phòng với Tức Trạch rất tốt, nàng đã thích Tức Trạch, Tức Trạch cũng thích nàng, làm chuyện này hoàn toàn là lẽ đương nhiên, chỉ có điều… chỉ có điều hơi đường đột. Nhưng như vậy cũng có cái hay, trước đây nàng còn hơi lo lắng, khi mọi việc đã rõ ràng Tức Trạch sẽ không bằng lòng cùng nàng rời khỏi đây, lần này chàng đã chiếm hữu nàng một cách triệt để rồi, còn có thể thoái thác được sao. Nghĩ tới đó, nàng như được cổ vũ.

Người này là của nàng rồi.

Nàng có chút phấn chấn, ghé lại gần, tiếng chăn lụa sột soạt, Tức Trạch vẫn không có động tĩnh gì, xem ra chàng quả thực ngủ rất say. Nàng kéo chăn đắp lại cho chàng, đưa tay vuốt mái tóc trắng của chàng. Không ngờ chàng lại mơ màng lên tiếng: “Sao không ngủ tiếp đi?”. Nàng đỏ mặt khẽ nói: “Bởi vì theo phong tục, sáng sớm sau đêm viên… viên phòng phải… phải dậy để làm bánh khoai tím”. Chàng vẫn nhắm mắt, một nụ cười hiện lên trên khóe môi, giọng nói vẫn còn ngái ngủ: “Nàng muốn để tất cả mọi người đều biết đêm qua chúng ta mới viên phòng hay sao? Những việc mang tính hình thức, không cần quá câu nệ”. Đưa tay ra lần tìm tay nàng, nắm chặt lấy: “Ngủ cùng ta thêm một lát nữa”. Nàng liền nằm xuống, năm ngón tay đan chặt lấy năm ngón tay chàng, trong ánh nắng sớm mai tươi đẹp ấy, mãi nguyện nhắm mắt lại, cùng chàng ngủ tiếp.
 
Tham gia
6/7/19
Bài viết
101
Điểm cảm xúc
41
Điểm
28
01.

Người phàm trần có một câu thơ, nói về sự ngắn ngủi của ngày xuân, câu thơ đó là “Điểu ca hoa vũ thái thú túy, minh nhật tửu tỉnh xuân dĩ quy[1]”. Năm xưa, khi Phượng Cửu nghe được câu thơ đó từ chỗ người phụ thân yêu thích văn chương của mình, hiếm khi có dịp thể hiện khả năng cảm nhận văn chương của nàng, nói rằng sở dĩ người phàm trần than vãn ngày xuân ngắn ngủi cũng bởi vì mùa xuân là mùa đẹp nhất trong bốn mùa, những thứ tốt đẹp đều khiến người ta chìm đắm, cũng không cảm nhận được thời gian trôi qua, khi giật mình quay đầu lại, luôn cảm thấy ngắn ngủi. Nàng nói ra những lời đó, khiến phụ thân như gặp được tri âm, đợt đó ánh mắt của người nhìn nàng vô cùng hiền hòa.

[1] Hai câu thơ trong bài Du xuân ở đỉnh Phong Lạc của nhà thơ thời Bắc Tống Âu Dương Tu. Dịch ý: Chim ca hoa khoe sắc, thái thú (một chức quan) uống rượu say, ngày mai khi tỉnh rượu, xuân đã qua mất rồi.

Hôm nay, khi vứt Tức Trạch thần quân ra khỏi cửa phủ, đứng ngáp mà nhìn theo bóng dáng xa dần của thần quân, Phượng Cửu lại có chút buồn bã khi nhớ tới câu thơ này. Khi tỉnh rượu thì ngày xuân đã trôi qua, lần hội ngộ này của nàng và Tức Trạch mặc dù không ngắn ngủi như vậy, nhưng sáu, bảy ngày quả thực đã trôi qua nhanh chóng giống như một cuộc xuân say.

Thực ra nàng vốn định giữ Tức Trạch ở lại lâu hơn, nhưng việc này khó tránh khỏi có chút tàn nhẫn đối với Mạch thiếu gia. Hôm qua, Mạch thiếu gia đã gửi cho Tức Trạch một lá thư dài, vô tình để nàng đọc được, trong thư tội nghiệp trình bày rằng chàng ta đang trong giai đoạn cuối cùng chế tạo thứ pháp khí kia, loại pháp khí cao diệu này, khi chế tạo thành hình sẽ rất hung dữ, nếu không xử lý tốt, khoan nói tới việc lãng phí công sức trước đây, có thể còn bị nó tấn công lại, việc này vô cùng quan trọng, mong thần quân sớm hồi cung lo liệu.

Cuối thư còn xót xa rơi lệ hỏi một câu, mấy ngày trước chàng ta đã gửi cho thần quân tổng cộng là mười một bức thư dài, thần quân không nhận được hay nhận được rồi đã coi như giấy vụn, đem nhóm đèn rồi.

Lúc đó nàng bèn nhớ ra trong mấy đêm gần đây, dường như trong nến phảng phất mùi mực, trong lòng bất giác thông cảm với Mạch thiếu gia.

Với một trái tim thông cảm và đại nghĩa, ngày hôm sau, nàng dứt khoát ném Tức Trạch ra khỏi phủ.

Ném Tức Trạch đi, quả thực cũng có chút đáng tiếc, mấy ngày nàng ở bên Tức Trạch, nàng đi chơi các nơi trong Vương thành một cách rất thích thú, cuộc sống thú vị hơn trước đây nhiều.

Ví dụ như Tức Trạch dẫn nàng đi thả câu, thực ra nàng không có hứng thú với việc này lắm, vốn nghĩ chỉ là chiều theo chàng thôi, nhưng khi đã đi rồi, nàng lại là người chơi đùa thỏa thích nhất. Tức Trạch chuẩn bị một chiếc thuyền nhỏ giản dị, phía mũi thuyền đặt một bếp lò nhỏ và các lọ đựng tương, dầu, mắm, muối, đưa nàng xuôi theo dòng nước, thưởng thức cảnh xuân bên ngoài thành, gần đến trưa, chàng neo thuyền lại, khi chàng câu cá thì nàng hâm rượu, cá câu lên nàng dùng để làm một bữa ăn thịnh soạn, dùng xong bữa trưa, chàng chèo thuyền vào một đầm sen, chàng ngồi đọc sách còn nàng nằm trong lòng chàng ngủ trưa, tia nắng mặt trời xuyên qua đám lá sen, chiếu lốm đốm lên mặt nàng, nàng liền áp mặt vào lồng ngực của chàng.

Chàng rất thích vừa cầm sách vừa vô thức đùa nghịch những sợi tóc mềm mượt của nàng, trước đây, khi nàng còn là một tiểu hồ ly ở cung Thái Thần, Đông Hoa Đế Quân cũng thích đùa nghịch bộ lông của nàng như vậy, lúc đó nàng còn là một con thú cưng, cảm thấy rất dễ chịu, rất an tâm, động tác của Tức Trạch lúc này, không hiểu sao lại khiến nàng ngoài cảm giác an tâm còn cảm thấy thật thân thiết. Nàng suy đoán chắc là vì hai người tâm ý tương thông, lại thầm than rằng bốn chữ “tâm ý tương thông” này thật thần diệu biết bao.

Bởi vì Tức Trạch là một người không hay bận tâm tới lời đàm tiếu của dư luận, ví dụ như đưa nàng đi thả câu, đưa nàng đi ngắm hoa, cùng nàng xem trò vui, chàng đều thoải mái thực hiện, cũng chưa từng nghĩ tới chuyện cải trang che giấu, vì vậy khó tránh khỏi việc gặp phải người quen nhận ra họ. Với bộ tộc Tỷ Dực Điểu, việc các đôi phu thê quý tộc cùng nhau dạo chơi trong ngày xuân không phải là chuyện hiếm, nhưng những đôi phu thê khác ra ngoài dạo chơi thường thích khoe khoang phô trương, dạo chơi bằng cách đi bộ thăm thú đường phố như hai người họ lại quả thực rất khác biệt. Chỉ mấy ngày sau, thông tin Thần Quan Trưởng tiền nhiệm và nhị công chúa tình cảm phu thê mặn nồng lại được lan truyền khắp Vương đô, một lần, Phượng Cửu vào cung thỉnh an, ánh mắt của Quân Hậu nhìn nàng cũng có phần khác thường.

Phượng Cửu không bận tâm lắm tới việc chuyện này lan truyền trong cung như thế nào, nàng chỉ thầm lo lắng, không thể để Trầm Diệp biết được. Phượng Cửu cảm thấy, theo một câu ngạn ngữ dưới phàm trần, hành động này của nàng là một hành động ăn trong chén, nhìn trong nồi, là một hành động tồi tệ. Nhưng nàng đã nhận lời với Mạch thiếu gia, trong lòng cho dù áy náy, cũng chỉ có thể toàn tâm toàn ý làm một kẻ tồi tệ tử tế. Một kẻ tồi tệ tử tế là như thế nào? Các tiên sinh mặc dù chưa từng dạy, nhưng may mà có Liên tam điện hạ trên thượng giới để tham khảo.

Chiều ngày thứ ba sau khi Tức Trạch đi, lão quản gia tới mang theo lời mời của Trầm Diệp. Phượng Cửu vừa mới tỉnh dậy sau giấc ngủ trưa, có chút mơ hồ trước lời mời gọi này. Trong câu chuyện của Mạch thiếu gia, Trầm Diệp dường như chưa từng chủ động mời A Lan Nhược tới Mạnh Xuân viện? Hay là thực ra trước đây Trầm Diệp đã từng mời, chỉ là Mạch thiếu gia không biết mà thôi, hoặc là chàng ta quên không nói với nàng? Nàng mang theo nghi vấn đó, giữ tâm lý lấy bất biến ứng vạn biến, bước vào Mạnh Xuân viện, vòng qua Tiểu Thạch lâm, bước vào Ba Tâm đình.

Trong đình lúc này không một bóng người, một chiếc bình lưu ly đặt trên bàn đá trống. Ánh nắng mặt trời u ám buổi chiều chiếu vào, lớp sương mù trắng bạc cuộn xoáy trong bình nhuốm một màu vàng rực, chắc chiếc bình đã được thi triển kết giới, lớp sương mù cuồn cuộn bên trong bình không có cách nào thoát ra được.

Phượng Cửu vô cùng hiếu kỳ, đặt tay lên thân bình, một cảm giác ớn lạnh tới tận xương tủy xông thẳng lên đầu nàng. Nàng run rẩy, định thu tay về, nhưng chiếc bình như dính chặt lấy tay nàng. Phượng Cửu có chút kinh ngạc, nhất thời chỉ chú ý vào chiếc bình, cũng không lưu tâm tới mọi động tĩnh xung quanh, cho tới khi một giọng nói vang lên bên tai: “Có thấy quen thuộc không?”. Phượng Cửu ngẩng đầu lên, bắt gặp đôi mắt trầm tĩnh lạnh lùng của vị công tử áo đen. Trầm Diệp.

Nàng quả thực cảm thấy có phần quen thuộc, bởi vì thực ra chiếc bình này có vài phần giống với chiếc bình mà hồi nhỏ nàng thường dùng để chơi dế. Nhưng nàng lờ mờ cảm thấy rằng, Trầm Diệp chắc không hỏi nàng chuyện đó. Nàng thấy khi Trầm Diệp giơ tay lên, một tay kết ấn, chỉ trong nháy mắt, kết giới trong bình lưu ly đã hoàn toàn biến mất. Phía xa vang lên tiếng gió, tiếng sấm chớp, giống như tiếng ma quỷ gào khóc, trong nháy mắt mây đen kéo tới đầy trời. Ánh chớp rạch ngang bầu trời xám xịt, mặt trời lặn xuống, thay vào đó là một vầng trăng khuyết. Ánh trăng khuynh thành.

Khác với sắc trời yêu dị này, lớp sương trắng mềm mại trong bình lại dần dần dịu lại, giống như một áng mây bị xé vụn, từng sợi từng sợi len lỏi giữa các đầu ngón tay của Phượng Cửu. Cảm giác ớn lạnh từ từ ngấm dần vào xương ngón tay của nàng.

Bầu trời xuất hiện hiện tượng không lành này, hoặc bởi vì yêu nghiệt đã bị thu phục, hoặc có ai đó đang thi triển pháp thuật nghịch thiên. Nàng gắng gượng chịu đựng cơn choáng váng xộc lên trong đầu, nhìn về phía Trầm Diệp: “Đây là… đây là pháp thuật gì vậy?”.

Vị thần quan áo đen chăm chú nhìn lớp sương trắng đang chui vào người nàng, lạnh nhạt nói: “Nàng đã từng nghe nói, trong số đám địa tiên có giới hạn về tuổi thọ, cũng giống như người phàm trần, có thể dùng đèn Kết Phách hoặc pháp thuật khác để tạo ra một hồn phách mới chưa?”. Dừng lại một lát, nhìn nàng nói: “Nếu hồn phách đã bị thiêu đốt thành tro bụi, ngay cả đèn Kết Phách trên thượng giới cũng không có tác dụng, nhưng có người nói với ta rằng, nếu có thể tạo ra mộng cảnh này, không những có thể làm lại từ đầu, còn có thể có công dụng giống như đèn Kết Phách, tạo ra một hồn phách mới cho người đã khuất”.

Phượng Cửu sững người lại, nàng có một ấn tượng mơ hồ là bản thân mình dường như đã từng nghi ngờ, mộng cảnh này có thể là do Trầm Diệp tạo nên, nhưng sau đó tại sao lại không tìm hiểu kỹ thì dù thế nào cũng không nhớ ra nổi. Hôm nay chàng ta lại thẳng thắn thừa nhận như vậy, nàng không hề cảm thấy kinh ngạc như trong tưởng tượng của mình.

Nàng và Tô Mạch Diệp đã tạo ra một màn kịch lớn, vốn còn có chút áy náy, nào ngờ, Trầm Diệp lại cũng đang diễn kịch.

Còn một chút tỉnh táo duy nhất sót lại trong đầu, nàng biết rằng ít nhất nàng phải giả bộ kinh ngạc, giả bộ không biết gì để chứng minh rằng nàng quả thực là A Lan Nhược trong thế giới mà Trầm Diệp tạo ra. Xem ra, chàng ta quả thực cũng không hề nghi ngờ nàng.

Tầm nhìn đã trở nên mơ hồ, nàng cắn chặt môi lại, nghe được giọng nói rất khẽ của chàng ta: “Sai lầm thì cũng đã sai lầm rồi, ta chưa từng muốn lừa gạt nàng làm lại từ đầu, nhưng cho dù thế nào, nàng phải quay trở lại, hận ta cũng được, coi ta là người xa lạ cũng được, đó đều là một kết quả, để có ngày hôm nay, ta đã chờ đợi suốt hai trăm ba mươi năm rồi”. Sau mỗi câu nói, sắc mặt chàng ta lại trắng hơn một chút, dường như mỗi câu nói này đều khiến chàng ta cảm thấy đau khổ, nhưng giọng nói lại rất lạnh lùng.

Đợi đến khi hồn phách màu trắng bạc đó chui hết vào trong cơ thể của Phượng Cửu, nàng chỉ cảm thấy trước mắt tối sầm, bên tai vang lên câu nói cuối cùng, dường như đến từ thế giới bên ngoài: “Bọn họ nói thế giới này là tâm ma của nàng, chỉ riêng mình ta biết, nàng chưa bao giờ có tâm ma, người có tâm ma chính là ta”.

Phượng Cửu chưa từng biết rằng, rơi vào một giấc ngủ say lại là một chuyện đau khổ như vậy.

Xét về lý, lợi ích của việc ngất đi là không có tri giác. Hiện giờ cơ thể của nàng quả thực không có cảm giác gì, nhưng trong ý thức lại vẫn có chút bị đày đọa.

Trong tâm trí, nàng giương mắt lên nhìn hồn phách của mình đánh nhau với một hồn phách khác, đối với bất kỳ ai, trải nghiệm này cũng đều rất mới mẻ. Lúc đầu, Phượng Cửu thực ra không kịp phản ứng lại, còn khoanh tay đứng bên cạnh xem trò vui, cho tới khi hai luồng khí trạch ngay trước mắt quấn lấy nhau càng lúc càng dữ dội, thậm chí còn cắn nuốt lẫn nhau, nàng bắt đầu cảm thấy đau đầu, mới giật mình ý thức được rằng hai hồn phách trước mặt đang đánh nhau.

Nàng cảm thấy ngày hôm nay bản thân mình vô dụng tới mức khiến người ta kinh ngạc, nàng không thể ngăn cản hai hồn phách gây lộn, chỉ có thể chịu đau đớn, xét về tình về lý coi như còn có thể tha thứ được, nhưng ban nãy, khi ngón tay của nàng bị dính chặt vào chiếc bình lưu ly, nàng cũng không thể kháng cự lại, chuyện này rất kỳ lạ.

Đầu nàng đau đến nỗi dường như có vô số nhạc tiên vác chiêng lớn đồng loạt gõ mạnh trong đó, Phượng Cửu cố gắng nhịn đau để phân tâm suy nghĩ, vừa chợt nghĩ ra chút gì đó, lại nhìn thấy hồn phách của mình đột nhiên thị uy, nuốt gọn hồn phách của A Lan Nhược. Chính vào lúc hồn phách của A Lan Nhược biến mất, một trận tuyết lớn liền trút xuống, chỉ trong chốc lát đã tích thành một tấm gương dài ngay trước mặt nàng. Nàng không nhớ bài học lần trước, lại đưa tay ra, khi đầu ngón tay chạm vào mặt gương, một sức mạnh cực lớn kéo nàng vào trong đó. Còn chưa kịp đứng vững, một đoạn ký ức từ đầu bên kia của thời gian ào ào kéo đến.

Đó không phải là ký ức của nàng, đó là ký ức của A Lan Nhược. Phía sau tấm gương bí hiểm này là cuộc đời của A Lan Nhược, là mọi suy nghĩ của A Lan Nhược, là niềm vui nỗi buồn của A Lan Nhược, chỉ trong giây lát ngắn ngủi, nàng đã cảm nhận được tất cả. Đoạn quá khứ đó giống như một cây đèn kéo quân, chuyên chở những câu chuyện vụn vặt, cứ xoay tròn không ngừng nghỉ, nhưng mỗi một vòng quay đều hiện lên những phong cảnh khác nhau.

Phượng Cửu có chút hiếu kỳ, tình cảnh này, lẽ nào là do hồn phách của nàng đã nuốt hồn phách của A Lan Nhược, khiến A Lan Nhược nhập vào trong người của nàng, trở thành một bộ phận của nàng? Vậy A Lan Nhược còn có thể sống lại như lời Trầm Diệp nói không, nếu nàng ấy sống lại, bản thân mình sẽ ra sao?

Vấn đề liên quan đến tính mệnh này, nàng chỉ suy nghĩ trong một thời gian ngắn, cảm thấy những chuyện nhàm chán này đợi sau khi tỉnh lại suy nghĩ cũng được, không nên lãng phí thời gian, trước mắt còn có một chuyện quan trọng đang cấp thiết chờ đợi nàng khám phá, cần nàng hao tâm tổn trí. Sau khi suy nghĩ thông suốt, nàng lập tức vứt điều nghi vấn đó qua một bên, vô cùng hào hứng, toàn tâm toàn ý quan tâm tới một việc quan trọng khác đang cấp thiết chờ đợi nàng khám phá – đó là chuyện gặp hoạn nạn biết được chân tình trong thạch trận giam hãm khuyển nhân ở Kỳ Nam hậu sơn, câu chuyện tiếp sau đó giữa Trầm Diệp và A Lan Nhược như thế nào?

Nàng tốn công lục tìm trong hồi ức, xâu chuỗi nhiều đoạn ký ức lại, nhìn thấy một vài cảnh tượng thực sự, đầu tiên chính là hai năm mà Mạch thiếu gia nói là không biết rõ lắm.

02.

Trong hai năm sương mù dày đặc đó, Phượng Cửu vui mừng vì mình đã đoán đúng, Trầm Diệp và A Lan Nhược quả thực có một mối chân tình. Bởi vì đây là hồi ức của A Lan Nhược, tấm lòng của A Lan Nhược đối với Trầm Diệp vô cùng rõ ràng, nhật nguyệt có thể làm chứng, còn tấm lòng của Trầm Diệp đối với A Lan Nhược, chắc năm xưa A Lan Nhược chưa bao giờ thấy rõ, giờ đây, Phượng Cửu đương nhiên cũng không thấy rõ lắm.

Liên tam điện hạ ở trên thượng giới có mấy lời phát ngôn rất nổi tiếng, nói rằng một mối tình sẽ như thế nào, thì phải xem xem người trải qua mối tình đó là người như thế nào. Ví dụ như trên thế gian có mối tình mãnh liệt sục sôi, cũng có mối tình êm đềm bình lặng, còn có những mối tình tương kính như tân[2]. Có người tình cảm sâu sắc nhưng không thể hiện ra bằng lời, có người tình cảm sâu sắc và lời nói cũng nồng nàn. Không thể nói tình yêu của người khác không giống với tình yêu của mình thì tình yêu của người khác không được coi là tình yêu.

[2] Tương kính như tân: luôn tôn trọng nhau, coi trọng nhau như khách.

Nàng luôn khâm phục Liên tam điện hạ là một cao thủ trong chuyện phong nguyệt, phong nguyệt kinh mà đích thân Liên tam điện hạ nói đương nhiên là một tấm chân kinh. Nàng đem tấm chân kinh ấy khoác lên người Trầm Diệp và A Lan Nhược, cảm thấy hai năm qua, dẫu rằng hành động của Trầm Diệp hiếm khi quá thân mật với A Lan Nhược, trong lời nói cũng khó có thể chọn ra lời yêu đương nào đau đớn để bình luận, nhưng có thể, chàng ta chính là kiểu người tình cảm sâu sắc nhưng không thể hiện bằng lời nói, tình cảm của chàng ta chính là loại tình cảm tương kính như tân.

Hồi ức về hai năm đó quá vụn vặt, Phượng Cửu lười không muốn kiểm tra từng thứ một, chọn bừa một đoạn trong khoảng thời gian cuối cùng, mở ra xem. Cảnh tượng đập vào mắt là một hồ sen rộng lớn như một tấm gương, giữa hồ sừng sững một mái đình, trên chiếc bàn đá trong đình đặt một đống hoa mà nàng không biết tên, bên cạnh là một chiếc bình miệng rộng.

Trầm Diệp tay cầm sách, ngồi bên cạnh bàn đá, hai năm sống ẩn dật khiến khí chất lạnh lùng của chàng càng lắng đọng hơn, chăm chú nhìn vào cuốn sách, thi thoảng lại lật một trang. A Lan Nhược ngồi bên cạnh chàng, chăm chú nghiên cứu bó hoa trên bàn, lúc thì ướm cành hoa đã được cắt tỉa vào miệng bình, lúc lại khua khua trước mặt Trầm Diệp để chàng nhìn xem nàng cắt tỉa có đẹp không, có cần phải sửa lại không.

Nhiều lần như vậy, Trầm Diệp rời mắt khỏi cuốn sách, lạnh lùng nói với nàng: “Nàng ngồi cạnh ta chỉ để quấy rầy ta đọc sách sao?”.

A Lan Nhược dùng cành hoa nâng cằm của chàng lên: “Một mình đọc sách chẳng thú vị chút nào, nô gia chiều theo đại nhân như vậy”, nàng mỉm cười: “Chẳng phải là vì đại nhân không muốn rời xa nô gia dù chỉ một khắc hay sao?”.

Trầm Diệp nghiêng đầu né tránh, bất đắc dĩ chỉ vào nơi lá hơi dày trên cành hoa: “Bản lĩnh tự quyết định của nàng càng ngày càng tiến bộ, chỗ này cành hơi dài, lá cũng hơi nhiều một chút”.

A Lan Nhược ung dung mỉm cười: “Đại nhân quá khen, nô gia chỉ là giỏi suy đoán tâm tư của đại nhân mà thôi”.

Trầm Diệp đón lấy chiếc kéo cắt hoa trong tay nàng, bàn tay khẽ run lên, nói: “Còn gọi ta một tiếng đại nhân, tự xưng thêm một tiếng nô gia nữa, ta sẽ vứt nàng ra ngoài đấy”.

A Lan Nhược dịu dàng mỉm cười: “Đại nhân đã nhiều lần nói sẽ vứt nô gia ra ngoài, nhưng chưa lần nào làm được”. Khi thu lại cành hoa, đài hoa vừa hay chắn ngang tóc mai bên tai nàng, toát lên một vẻ kiều diễm riêng có, ánh mắt của chàng dứng lại khá lâu trên khuôn mặt nhìn nghiêng của nàng, nàng như không nhìn thấy, khi cắm nốt cành hoa cuối cùng vào trong bình, lại nghe thấy giọng nói rất khẽ của chàng: “Quay lại đây”.

Nàng quay đầu lại nhìn chàng, ánh mắt vẫn ẩn chứa nụ cười: “Ban nãy chỉ là nói đùa, huynh đừng vì giận dỗi mà vứt muội đi”.

Chàng lại không nói gì, đứng lên hái một đóa hoa nhỏ trong bình, hơi cúi người xuống, cài đóa hoa lên vành tai nàng, ngón tay của chàng dừng lại sau khi khẽ vuốt ve tóc mai của nàng, rút tay lại, cầm sách lên, ánh mắt lại chăm chú nhìn vào trang sách, sau một hồi im lặng, còn ra vẻ lật một trang.

Nàng sững người lại, đưa tay chạm vào đóa hoa nở rộ bên vành tai, một hồi lâu sau khẽ nói: “Đôi khi muội cảm thấy không đủ, nhưng đôi khi lại cảm thấy huynh như vậy rất tốt”.

Ánh mắt của chàng lại rời khỏi quyển sách ngước lên nhìn nàng, dường như có chút nghi hoặc: “Cái gì không đủ?”. Nhưng nàng chỉ mỉm cười lắc đầu.


Ánh nắng ban mai nhuộm một màu ấm áp lên ngôi đình nhỏ giữa hồ, bầu trời cao rộng, làn nước sâu thẳm, hồ sen yêu kiều dưới nắng sớm, tỏa hương thơm ngát. Hình ảnh hai người ngồi tựa bên nhau trong đình dần dần tan biến trong ký ức, chỉ lưu lại một cái bóng nhạt màu giữa không gian rộng lớn.

Cái bóng này khiến Phượng Cửu xúc động, thậm chí có chút thương cảm khi cảm thấy rằng nếu câu chuyện của hai người bọn họ mãi dừng lại ở đây cũng không có gì là không tốt. Nhưng những việc phải đến rồi sẽ đến, hôm đó Mạch thiếu gia đã nói rằng vài lời ghi chép ít ỏi trong sử sách về những chuyện xảy ra sau hai năm này vô cùng thê thảm. Phượng Cửu cảm thấy rằng, sử sách ấy mà, khó tránh khỏi có những khi không đúng với sự thật. Nhưng khi lật giở tỷ mỉ khoảng ký ức tiếp sau đó, nàng kinh ngạc phát hiện ra rằng sử sách ghi chép những việc liên quan tới cái chết của Thượng Quân Tương Lý Khuyết lại chính xác một cách hiếm thấy.

Đêm ngày mười sáu tháng bảy, từ trong cung truyền tin ra ngoài, nói rằng Thượng Quân đã băng hà vì lâm bệnh nặng. Thượng Quân trước nay sức khỏe tráng kiện, nhưng không hiểu đã mắc phải căn bệnh nan y nào mà nói băng hà là băng hà luôn. Khi thông tin được truyền đến, A Lan Nhược và Trầm Diệp đang chơi cờ, quân cờ màu đen rơi “cạch” xuống bàn cờ, làm rối loạn cả thế trận, Trầm Diệp cầm quân cờ màu trắng, yên lặng, đám nô tỳ mang chiếc áo choàng đi đêm tới, hoang mang lo sợ vắt lên tay nàng. A Lan Nhược vội vã bước ra cửa, khi bước qua bục cửa, còn quay đầu lại nói: “Nước cờ vừa rồi không tính, thế cờ này cứ giữ nguyên như vậy, hôm khác hai chúng ta chơi lại xem ai thắng ai thua”. Trầm Diệp cất tiếng: “Đợi đã”. Chàng đứng lên, ngắt một đóa hoa trắng trong chiếc bình hoa đặt bên cạnh thư án, chậm rãi đi tới trước mặt nàng, rút cây trâm bằng ngọc cài trên mái tóc của nàng ra, cài đóa hoa trắng vào tóc nàng, ngón tay khẽ vuốt ve tóc mai của nàng rồi dừng lại, mới nói: “Đi đi”.

Ba ngày sau A Lan Nhược mới được rảnh tay quay về phủ, trong phủ vẫn như thường ngày, riêng vị Thần Quan Trưởng làm khách ở Mạnh Xuân viện suốt hai năm vài khắc trước vừa được đón về Kỳ Nam thần cung rồi.

Lão quản đưa đưa tay lau mồ hôi túa ra trên trán, bẩm báo rằng đang định sai người vào cung báo cho công chúa, không ngờ công chúa đã về phủ rồi, Thần Quan Trưởng vừa mới ra khỏi phủ, chắc cũng chưa đi xa. Ý muốn nói rằng nếu công chúa muốn từ biệt Thần Quan Trưởng, lúc này vẫn còn kịp.

Với thân phận của A Lan Nhược, lúc này mà đuổi theo thực ra không phải là một việc hay ho gì, lão quản gia đã lo lắng tới mức mụ mị cả đầu óc, may mà nàng vẫn giữ được sự tỉnh táo. Nàng chỉ thất thần trong giây lát, cởi áo choàng ra, gỡ đóa hoa trắng đã héo khô trên đầu xuống, ngây người ngồi đó. Gió đêm thổi tới, cánh hoa bị gió thổi rơi rụng, nằm trên nền nhà lát gạch trắng được lau chùi cẩn thận đến nỗi không có một hạt bụi, nó giống như một vết bẩn gì đó. Nàng nhìn cánh hoa trơ khấc trên tay, đau khổ cười nói: “Đêm ấy chàng tặng ta cái này, thực ra là đang từ biệt ta? Ta lại không hề nhận ra”.

Triều đại nào có quần thần của triều đại ấy, mỗi Quân Vương khác nhau có sự sắp xếp quyền lực khác nhau. Sức mạnh của thần cung độc lập tới tông thất, dù là Tương Lý Khuyết tại vị, trấn áp một thần cung không có Thần Quan Trưởng còn có chút khó khăn, huống hồ là thái tử Tương Lý Hạ sắp kế vị nhưng lại hoàn toàn không có căn cơ. Đây chính là lý do mà Trầm Diệp được đón về Kỳ Nam thần cung.

Mặc dù đều là quân vương của một nước, những suy nghĩ này của Tương Lý Hạ, Phượng Cửu lại thực sự không thể lý giải. Từ khi nàng biết ghi nhớ mọi chuyện, ngũ hoang ngũ đế ở Thanh Khâu của nàng chỉ thay đổi một vị đế vương, đó là khi nàng thay thế cô cô của nàng. Hơn nữa, nàng còn nhớ rằng, cô cô của nàng từ khi bị thay thế, ngày nào cũng sống rất vui vẻ, ánh mắt cô cô nhìn nàng luôn ẩn chứa sự đồng cảm của người đã từng trải. Hơn nữa, đám thần tử ở Đông hoang phần lớn đều không có bản lĩnh gì, sở thích lớn nhất là cải trang thành dân thường ra bày hàng buôn bán ngoài chợ, nếu có gây lộn phần lớn là vì ai đã tranh mất vị trí bày hàng của ai. Nói theo cách nói đường hoàng của họ thì các thần tiên ở nước Thanh Khâu này tuy mưu cầu một chức vị, nắm giữ một chút quyền lực vì nhà vì nước, nhưng sao có thể giống người phàm trần, để quyền lực quay lại thao túng bọn họ. Mặc dù trong số các vị thần tiên trên Cửu Trùng Thiên cũng có người thích tranh giành quyền lực, nhưng tất cả đều bởi vì họ không có mục tiêu theo đuổi trong cuộc đời, chưa từng biết tới thú vui của việc bày sạp bán hàng, những người đã từng trải qua nhưng vẫn đi tranh giành quyền lực, đó là bởi vì họ không có niềm vui trong cuộc sống. Phượng Cửu cảm thấy, đám thần tử đó của nàng nói đúng hay sai, tạm thời không bàn luận nhiều, nhưng thực sự đã giảm bớt cho nàng rất nhiều công việc.

Đoạn ký ức này từng đoạn từng đoạn liên kết với nhau rất chặt chẽ, giống như một dòng thác lớn dội xuống từ trên vách núi, đập vào lớp đá vụn dưới đáy vực, tung bọt lạnh lẽo. Cái gọi là bi kịch, từ thuở khai thiên lập địa đến nay, đều mang dáng vẻ đường đột hốt hoảng nhưng lại hung ác vô tình. Đoạn ký ức tiếp theo chính là tin đồn mà Tô Mạch Diệp từng kể với nàng.

Hóa ra, đó không phải là một tin đồn vô căn cứ.

Ngày hai mươi hai tháng bảy, thời điểm nhập quan cho Thượng Quân sắp xong, đêm xuống, phủ công chúa bị bao vây, A Lan Nhược bị khóa bằng khóa sắt, đưa ra khỏi phủ, áp giải vào trong cung, tội danh giáng xuống đầu nàng là tội giết vua.

Viên quan đứng đầu Hình ty chịu trách nhiệm xử lý vụ án này chính là em ruột của Khuynh Họa phu nhân, cậu ruột của nàng.

Thượng Quân băng hà, xét về lý, người thừa kế phải là thái tử, nhưng thái tử Tương Lý Hạ trước đây là một vị thái tử không được coi trọng, lúc này đang là một thái tử ở thế yếu, sau này có thể cũng chỉ là một vị Thượng Quân bù nhìn mà thôi, mọi quyền hạn đều rơi vào tay của Khuynh Họa phu nhân. Mà trong triều ai ai cũng đều biết, vị quan chủ quản của Hình ty kia chính là tâm phúc của Khuynh Họa phu nhân. Nói một cách khác, người đổ tội danh lên đầu A Lan Nhược chính là mẹ ruột của nàng, người một lòng muốn nàng phải chết cũng chính là mẹ ruột của nàng.

Ngày thứ bảy sau khi A Lan Nhược bị nhốt trong đại lao, Khuynh Họa phu nhân đại giá, vào trong đại lao thăm nàng. Trong nhà lao chật hẹp, một chiếc nệm cỏ được dùng làm chỗ ngủ, một chiếc bàn gỗ mục nát nhỏ kê cạnh cửa buồng giam, bên cạnh bàn là một ngọn đèn dầu tù mù, A Lan Nhược toàn thân áo trắng, ngồi dựa vào chiếc bàn nhỏ luyện chữ, một tên lính canh đứng gác cạnh một chậu lửa ngoài cửa phòng giam, nàng viết xong trang giấy nào, tên kính canh bèn thu lại rồi đốt luôn trang giấy đó.

Gấu váy dài của Khuynh Họa phu nhân quét qua bậc đá trong nhà lao âm u, nàng nghe thấy tiếng lụa là sột soạt lướt qua mặt đất, ngẩng đầu nhìn người tới một cái, mày mắt cong cong: “Mẫu thân nhớ ra mà tới thăm con, có thể thấy mọi việc trong cung đã được mẫu thân lo liệu ổn thỏa”. Ngữ khí hòa nhã, giống như lúc này họ không gặp nhau trong nhà lao, mà gặp nhau ở hậu hoa viên của vương cung, chào hỏi như bình thường.

Khuynh Họa trong trang phục cung đình trang nghiêm diễm lệ, dừng lại trước cửa nhà lao hai bước, tên lính gác mở cửa buồng giam rồi lui ra. A Lan Nhược kết thúc nét bút đang viết dở, nói tiếp: “Trong nhà lao chẳng có việc gì làm, ban đầu thực ra con chưa hiểu rõ tại sao mẫu thân lại gán tội danh này cho con, nhưng sau khi suy nghĩ một chút, cũng coi như đã hiểu được một vài lý do”.

Khuynh Họa lạnh lùng nói: “Ngươi luôn rất thông minh”. Cúi xuống nhìn vào khuôn mặt của nàng trong giây lát, rút từ trong tay áo ra một văn thư và một bình sứ, cân nhắc trên tay một lát, cúi người đặt lên chiếc bàn gỗ mục nát: “Xem cái này đi”. Giọng nói của bà ta không chút cảm xúc giống như lời đáp lại qua loa đại khái, không chút tình cảm của bà ta khi ngày thường nàng tới thỉnh an vậy.

Ánh nến leo lét, hắt lên tờ văn thư gấp gọn, lờ mờ hiện lên các nét mực. A Lan Nhược đưa tay mở tờ giấy trước mặt ra, đưa mắt liếc qua những nét chữ cương nghị, đẹp đẽ trên giấy. Trong ánh nến tối mờ, ánh mắt càng di chuyển xuống dưới, sắc mặt càng trắng nhợt. Hồi lâu, nàng ngẩng đầu nhìn về phía mẫu thân, ngoài sắc mặt có phần nhợt nhạt, ngón tay vẫn đang run rẩy ra, thần sắc lại rất ung dung, thậm chí khóe môi còn nở một nụ cười: “Bức văn thư mà Trầm Diệp đại nhân trình lên này viết rất quy cách, không phóng khoáng phong lưu như thường ngày”.

Khuynh Họa nhìn nàng, ánh mắt gần như thương hại, hồi lâu, lại hỏi nàng: “Có quen không?”.

A Lan Nhược cúi đầu suy nghĩ, một lúc sau, khẽ cười một tiếng, không trả lời trực tiếp vào câu hỏi: “Phụ thân cả đời quyết đoán, nhưng không ngờ lại thất bại bởi một chữ tình. Phụ thân chắc chưa từng nghĩ rằng cho tới tận hôm nay, mẫu thân vẫn không quên được phụ thân của Quất Nặc. Quất Nặc quả đúng là cái gai trong mắt người, người đuổi Quất Nặc ra khỏi vương thành, cắt đứt tiền đồ của nàng ta, lúc đó chỉ thú sảng khoái nhất thời, nhưng lại chôn mầm họa khiến người lâm bệnh băng hà ngày hôm nay. Nhưng mẫu thân đã nín nhịn nhiều năm qua, chính là người làm việc lớn, đương nhiên không chỉ muốn dừng lại tại đây, mục tiêu cuối cùng của mẫu thân là muốn để Quất Nặc kế vị, giành lại tất cả mọi thứ mà phụ thân đã cướp mất từ tay phụ thân của nàng ta trước đây, đúng không?”.

Nhìn sang ánh nến bên cạnh, lại nói: “Thái tử, con, và cả Thường Đệ, chúng con đều cản đường của Quất Nặc. Thái tử không phải con ruột của mẫu thân, mẫu thân đương nhiên sẽ không nương tay, Thường Đệ đầu óc rỗng tuếch, ngoài bản tính kiêu căng ra, chẳng có gì cả, hoặc làm cho nàng ta phát điên cũng là một cách, tông thất cũng sẽ không để một cô gái bị điên lên làm Thượng Quân. Nhưng nếu cả hai người con gái chờ kế vị đều phát điên sẽ dễ khiến người ta hoài nghi, bàn ra tán vào, nhất định một người trong số đó phải chết, mẫu thân đã giữ Thường Đệ thì con không thể không chết”. Nàng gượng cười: “Con không ngờ mẫu thân lại làm tới mức này, kế sách của mẫu thân, quả thực đã không để lại cho con một chút đường lùi”.

Một bầu không khí yên lặng chết chóc bao trùm trong nhà lao, A Lan Nhược đặt tờ văn thư sang một bên, trải rộng một trang giấy, lan rộng, nàng khẽ nói: “Mẫu thân hỏi con sống có quen không, năm xưa bị mẫu thân quẳng vào trong hang rắn, con cũng đã sống được. Lần này khi mẫu thân giam con vào đây, còn không quên việc con thích luyện chữ, phá lệ chuẩn bị giấy mực cho con, giúp con giết thời gian, sao con có thể không quen được?”.

Hồi lâu, Khuynh Họa nói: “Ngươi chắc biết rằng việc này không chỉ dựa vào sức lực của một mình ta”.

Cây bút trong tay A Lan Nhược khẽ run rẩy, tám chữ “phù sinh đa thái, thiên mệnh định chi” vốn được viết rất đẹp, chứ cuối cùng vì nét bút bị run, đã phá hỏng cả thần khí.

Nhưng nàng vẫn giữ chặt cây bút.

Ánh mắt của Khuynh Họa dừng lại trên chữ của nàng, lạnh lùng nói: “Trầm Diệp từ khi sinh ra đã ở địa vị cao sang, ngay cả Thượng Quân cũng phải kiêng nể vài phần, từ nhỏ đã là một người có chủ kiến, tuy vì cứu Quất Nặc mà tự hủy hoại tiền đồ, nhưng mọi chuyện trên thế gian này, thứ mà người ta muốn mưu cầu nhất chính là tiền đồ, hắn vốn có ý định sẽ tính kế lâu dài trong khi bị lưu đày, ngươi lại biến hắn thành vật sở hữu của mình, người có biết rằng việc này đã phạm vào điều đại kỵ của hắn không?”. Liếc nhìn nàng một cái, nói tiếp: “Ban nãy ngươi than rằng phụ thân ngươi nặng tình, cuối cùng cũng bại ở một chữ tình. Phụ thân ngươi thủ đoạn tàn độc, ta sống không bằng chết, lại chỉ có thể dựa dẫm vào ông ta. Còn ngươi thì sao, mặc dù ngươi thông minh, trong chuyện này lại kém xa phụ thân của ngươi, Trầm Diệp chỉ vừa giả vờ có tình cảm với ngươi, đã khiến ngươi dốc hết tấm chân tình, ngươi rơi vào tình cảnh này, chẳng phải cũng bại bởi một chữ tình hay sao?”.

Bóng nến chập chờn in trên tờ văn thư đặt ở mép bàn. Trước kia cũng là những nét chữ này, viết trên trang giấy trắng, hỏi A Lan Nhược số rượu nàng ủ mà chàng tìm thấy trong viện có phải có cách ủ như chàng đã viết trong thư không. Giờ đây, cũng là những nét chữ này, viết ra vài dòng ngắn gọn, nhưng câu nào câu nấy lại hết sức hoang đường, “Tương Lý A Lan Nhược giết vua giết cha, tâm địa độc ác, không khác gì loài lang sói, tội ác đã rõ ràng, còn hơn cả loài hùm beo…”.

Trên tờ giấy tuyên nàng đang viết dở, sau câu “Thiên mệnh định chi” lại thêm tám chữ, “Ưu sầu úy bố, tự hữu tận thời”. Mỗi khi gặp phải những chuyện đau khổ khó mà chịu đựng nổi, nàng thường thích dùng câu này để an ủi bản thân mình. Tám chữ đó được viết một cách mạnh mẽ cứng cỏi, sau khi thu nét bút cuối cùng, nàng khẽ nói: “Mẫu thân nói giả vờ có tình cảm là có ý gì?”.

Ánh mắt của Khuynh Họa càng lộ rõ vẻ thương hại, nói: “Hắn đã xin vương huynh của ngươi một mối hôn sự”.

A Lan Nhược chậm rãi ngẩng đầu lên.

Khuynh Họa nói: “Không phải là một cô nương có thân phận cao quý gì cả, được cái đoan trang trong sáng, làm phu tử trong tông học. Nghe nói cô nương này xuất thân từ phủ của ngươi, tên Điềm, Văn Điềm, một cái tên nghe thật thanh nhã”.

A Lan Nhược nhắm chặt mắt lại, hồi lâu, nói: “Con hơi mệt, mẫu thân xin hãy về đi”.

Khuynh Họa quay người bước đi hai bước, quay đầu lại nói: “Vụ án của ngươi đã được định đoạt trong buổi sáng hôm nay, ba ngày sau hành hình, trưa nay Trầm Diệp trình văn thư này, xin Thượng Quân giao quyền hành hình cho thần cung. Ngươi chắc chắn phải tới thần cung, các dụng cụ hành hình ở thần cung nhiều hơn trong đại lao của Hình ty nhiều, ta biết ngươi dù hồn phi phách tán cũng không muốn chịu sự sỉ nhục này, nếu quả thực không thể chịu đựng nổi, hãy tự kết liễu đời mình bằng thuốc trong bình sứ kia. Đây là sự thương xót cuối cùng mà một người làm mẹ như ta có thể dành cho ngươi”.

Đợi bóng dáng của Khuynh Họa biến mất khỏi quầng sáng yếu ớt của ngọn đèn dầu, cả người A Lan Nhược đột nhiên run rẩy, phun ra một ngụm máu tươi khiến tờ giấy đặt trên bàn trở nên loang lổ, ngọn lửa nhỏ trong đèn dầu lay động, cuối cùng cũng tắt lịm.

Bóng dáng của Khuynh Họa hơi dừng lại ở cửa nhà lao, khi định cất bước đi tiếp, A Lan Nhược bỗng nhiên lên tiếng, giọng nàng khản đặc: “Mẫu thân đối với con, có gì gọi là thương xót chứ?”.

Sau một trận ho, nói tiếp: “Mẫu thân chắc vẫn còn nhớ, năm xưa Mạch sư phụ cứu con ra từ trong hang rắn, lần đầu tiên gặp người, bọn họ nói rằng người là mẫu thân của con, con đã thật sự vui sướng, người xinh đẹp biết bao. Con nhìn thấy người đi về phía con, liền vội vàng chạy về phía người, muốn xin người một cái ôm, nhưng không cẩn thận bị vấp ngã. Người đi ngang qua con, như thể không nhìn thấy con, như thể con chỉ là một cây hoa, một ngọn cỏ, hoặc một viên đá. Gấu váy của người lướt qua mặt con, người bước qua người con mà không buồn liếc nhìn xuống, tiếng sột soạt của lụa là giống hệt như trong buổi tối hôm nay”.

Ngón tay của Khuynh Họa nắm lấy lan can gỗ ngay bên cạnh.

Lại thêm một cơn ho, nàng khe khẽ nói tiếp: “Kiếp này con không biết yêu là gì, mẫu thân tiếc rẻ không cho con, con tự mình giành lấy, mẫu thân cũng hủy hoại nó, thực ra con càng muốn không biết gì hết, sao mẫu thân nhất định phải tàn nhẫn như vậy? Lẽ nào con là kẻ thù của mẫu thân, nhìn thấy con đau đớn là một việc rất vui sướng hay sao?”.

Khóe môi của Khuynh Họa khẽ động đậy, hồi lâu, nói: “Nếu ngươi còn có luân hồi, kiếp sau ta sẽ trả lại ngươi”.

A Lan Nhược mỉm cười, mệt mỏi nói: “Trần duyên với mẫu thân, hãy để nó kết thúc ở kiếp này, nếu còn có luân hồi con cũng không cầu mong điều gì, chỉ mong trong kiếp luân hồi sẽ không phải gặp lại mẫu thân nữa”.

Trong sự im lặng chết chóc, tiếng bước chân của Khuynh Họa xa dần, nếu nghe kỹ, có thể thấy thấp thoáng chút rối loạn trong những bước chân tưởng chừng như vững càng đó. Đợi đến khi bóng dáng của Khuynh Họa biến mất sau cánh cửa âm u của nhà giam, tên lính gác đứng ở đằng xa hốt hoảng chạy lại, châm ngọn đèn dầu khác.

Cảnh tượng cuối cùng trong đoạn này là cảnh A Lan Nhược gấp tờ văn thư nhuốm máu trên bàn lại, chậm rãi đưa vào ngọn đèn dầu, ngọn lửa vờn quanh những vết máu mờ mờ, chỉ trong nháy mắt đã đốt nó thành tro bụi. Tàn tro rớt xuống mặt bàn, còn mang theo một vài đốm lửa nhỏ.

Tô Mạch Diệp đã từng hỏi nàng, nếu một ngày nào đó nàng căm hận vì Trầm Diệp, sẽ là vì điều gì, lúc đó nàng đã nói đùa rằng như vậy chắc chắn là vì đã từng có được, ví dụ như chàng yêu nàng, sau đó không yêu nữa, lại đi yêu người khác. Không ngờ một lời lại đoán trúng như vậy, chàng có lẽ thậm chí chưa từng yêu nàng, ngay cả hồi ức mà nàng tự cho là trân quý đó cũng đều là giả. Thật cao minh biết bao.

Nàng cụp mắt nhìn ngón tay bị lưỡi lửa liếm bị thương, một lúc sau, tự nói với bản thân mình: “Nhìn thấy bộ dạng ngày hôm nay của muội, có phải đã khiến huynh bớt tức giận rồi không, Trầm Diệp?”. Hồi lâu, lại nói: “Huynh có biết cách báo thù như thế này, đối với muội, có phần quá nặng rồi không?”. Ngọn đèn dầu soi bóng nàng nghiêng nghiêng lên bức tường đá tối tăm, tư thế rất đoan trang nghiêm ngắn nhưng lại vô cùng mỏng manh.

03.

Thế sự xoay vần, khó được như mong muốn của con người. Khó như ý của A Lan Nhược, cũng chưa chắc đã hợp ý của Khuynh Họa.

Một ngày trước khi bị dẫn giải tới Kỳ Nam thần cung, A Lan Nhược đã bị cướp đi.

Kỳ Nam hậu sơn, sắc trời êm dịu, ánh nắng ấm áp, trong rừng thi thoảng vọng ra tiếng chim hót, ngay cả con khuyển nhân trong thạch lâm cách đó không xa cũng an nhàn ưỡn bụng phơi nắng, tất cả đều hiền hòa tĩnh lặng,dường như mọi biến động bên ngoài núi đều là những thứ vô nghĩa lý và nực cười.

Khi Phượng Cửu nhìn thấy vị công tử áo trắng đang ngồi trên ghế đá nói lý với A Lan Nhược, thực ra nàng không nhận ra đó là ai.

Mái tóc đen của vị công tử đó được búi gọn lên đỉnh đầu, một khuôn mặt điềm nhiên lạnh lùng, lời nói hành động lại không hề câu nệ, nâng nâng bắp ngô trên tay, dường như hận một nỗi không thể gõ bắp ngô đó lên trán A Lan Nhược: “Sự việc đã đến nước này, cái vương cung ghẻ đó còn gì đáng để ngươi phải nhớ nhung chứ, khó khăn lắm ta mới cứu được ngươi ra khỏi đó, ngươi lại vội vã đòi quay trở lại, lẽ nào là vì Trầm Diệp?”. Nói đến đó, chàng ta hơi trầm ngâm, gõ gõ bắp ngô lên mặt đá: “Không đúng, tới lúc này còn không quên được hắn ta, điều này không giống tính cách của ngươi, ngươi xuống núi, rốt cuộc là muốn làm gì?”.

Bên cạnh phiến đá mà vị công tử đó ngồi có hai cây cổ thụ xum xuê xanh tốt, giữa hai thân cây mắc một cái võng để nằm hóng mát bằng dây leo to chắc, A Lan Nhược ngồi dựa trên võng, đưa mắt ra xa ngắm nhìn cảnh sắc bên ngoài rừng cây, chậm rãi nói: “Trước đây ngài thường nói: Đời người trên trần thế này chẳng qua chỉ là một cuộc trải nghiệm, ta cảm thấy rất có lý. Cuộc đời dài hay ngắn quan trọng là ở trải nghiệm, trải nghiệm nhiều thì cũng là sống lâu, trải nghiệm ít thì cũng như chưa sống được bao nhiêu. Gần dây ta đã hiểu, cuộc đời này của ta, có vẻ rất ngắn ngủi, thực ra cũng có thể coi là rất dài”. Dừng lại một lát, nói tiếp: “Nếu nói trong vương cung còn có ai đó đáng để bận tâm thì chỉ có vương huynh mà thôi, tính cách của huynh ấy lạnh lùng, thực ra không hề quan tâm đến vương vị, trận chiến với bộ tộc Dạ Kiêu chắc chắn không phải là ngẫu nhiên, nhất định là mẫu… là kế sách của Khuynh Họa phu nhân, muốn mượn đao giết người, trừ khử vương huynh. Vương huynh không phải là một vị tướng giỏi, một khi ra chiến trường, nhất định sẽ không thể sống sót mà quay trở về”.

Vị công tử áo trắng cau mày nói: “Cho dù Tương Lý Hạ đối tốt với ngươi, nhưng đây là số kiếp của hắn, trong hoàn cảnh này, ngươi còn có thể bảo toàn tính mạng cho hắn ư? Lúc này ngươi đã thoát ra khỏi vòng nước xoáy, hà tất phải tự lao đầu vào đó nữa”.

A Lan Nhược chậm rãi đáp lời: “Ngài đã biết tính ta, thì cũng nên đoán được rằng ta không thể bỏ mặc vương huynh. Ta sẽ ra chiến trường thay cho vương huynh, đến lúc đó vẫn cần nhờ ngài để mắt giúp đỡ. Ngài yên tâm, ta rất quý mạng sống của mình, sẽ tự cân nhắc nặng nhẹ, so với vương huynh, ta vẫn còn cơ hội sống sót”. Liếc nhìn khuôn mặt nghiêm nghị của vị công tử áo trắng, cười nói: “Hiếm khi nhìn thấy sắc mặt này của ngài, may mà kiếp này những người đối tốt với ta không quá nhiều, ngài và Mạch sư phụ cũng không xui xẻo như vương huynh, không cần ta phải mạo hiểm ứng cứu như vậy”.

Công tử áo trắng chăm chú nhìn nàng trong giây lát, nói: “Ngươi luôn rất bướng bỉnh, giờ đây ta có nói gì cũng không thể giữ ngươi ở lại, chiến trường là nơi nguy hiểm, nếu lần này đi không trở lại thì sao?”.

Nàng điềm tĩnh đáp: “Nếu lần ra đi này không thể trở lại, cho dù ta chết đi, cũng là chết trận dưới danh nghĩa của vương huynh, còn có ý nghĩa hơn bị Khuynh Họa phu nhân ép tự sát nhiều. Đến lúc đó phiền ngài thay tên đổi họ cho vương huynh, đưa huynh ấy đến một nơi an toàn, để huynh ấy sống một cuộc sống bình thường”. Hồi lâu, nói tiếp: “Ta đã từng viết cho Trầm Diệp hai mươi bức thư, cũng phiền ngài giúp ta lấy lại, trong thư toàn là những tình cảm chân thật, để ở chỗ của huynh ấy, ta thấy có chút nực cười”.

Công tử áo trắng thở dài một tiếng: “Những điều ngươi dặn dò ta đều đã ghi nhớ, chỉ mong rằng đến lúc đó ta không phải làm những việc này, khi nào thì ngươi xuống núi?”.

Nàng nằm trên chiếc võng được bện bằng dây leo, thoải mái đặt tay ra sau gáy, một nụ cười hiện lên trên khóe môi: “Gió mát, nắng nhẹ, hôm nay là một ngày rất thích hợp để ngủ, hãy để ta trộm chút thảnh thơi[3]”.

[3] Nguyên tác Hán Việt là “Thâu đắc phù sinh bán nhật nhàn”, câu thơ trích trong bài Đề Hạc Lâm tự bích (Đề trên tường chùa Hạc Lâm) của nhà thơ đời Đường, Lý Thiệp. Ý nghĩa câu thơ là giải thoát bản thân khỏi sự phiền não buồn chán để bản thân tới một nơi thoát tục, tu dưỡng tâm hồn.

Cảnh đào nguyên ở Kỳ Nam hậu sơn dần dần biến mất trong bóng mờ của hoàng hôn, trái tim của Phượng Cửu trĩu nặng, cố gắng mở nốt đoạn ký ức cuối cùng. Nếu nói đến sách truyện, ở chỗ cô cô Bạch Thiển của nàng lưu giữ rất nhiều sách, từ nhỏ nàng được nghe được đọc nên đương nhiên cũng biết khá nhiều, những câu chuyện bi thương như vớt ra từ bình nước mắt, nàng đã đọc qua không biết bao nhiêu cuốn, nhưng vẫn không sánh được với câu chuyện mà nàng chứng kiến lần này. Đoạn hồi ức này thậm chí còn không có nửa giọt nước mắt, nhưng lại giống như một thanh kiếm tuyệt thế, vô cùng lạnh lùng và nặng nề, khi cướp đoạt tính mạng của người khác lại vô cùng gọn dàng dứt khoát, tuyệt đối không dây dưa lằng nhằng. A Lan Nhược bị tổn thương một cách bình lặng, đau đớn một cách bình lặng, ngay cả khi lao tới chỗ chết, cũng lao đi một cách vô cùng bình lặng.

Theo sử sách ghi chép lại mà Tô Mạch Diệp kể cho Phượng Cửu nghe, nói rằng Tương Lý Hạ ngự giá thân chinh ra chiến trường, chiến đấu suốt mười bảy ngày, vì không đủ mạnh nên cuối cùng đã tử trận trên chiến trường. Trong đoạn ký ức này Phượng Cửu thấy được chân tướng bị che đậy trong sử sách mỏng manh. Người tử trận trên chiến trường không phải là Tương Lý Hạ, mà là A Lan Nhược.

Trận chiến với bộ tộc Dạ Kiêu, nguyên nhân là do bộ tộc Tỷ Dực Điểu dung túng cho dân vùng biên vượt biên săn bắn, hai bộ tộc giao chiến, đương nhiên chiến trường diễn ra ở vùng biên cương. Sông Tư Hành lững thững chảy từ thời viễn cổ, chảy tới tận cùng phía Nam, vòng qua hẻm núi Bình Vận, rồi hòa vào lòng biển Từ Bi hết năm này qua năm khác. Đoạn sông Tư Hành chảy từ núi Bình Vận ra biển Từ Bi thường được gọi là sông Nam Tư Hành, bên sông có một khu rừng nhạc âm rộng lớn, trồng toàn cây nhạc âm. Hai tộc Tỷ Dực Điểu và Dạ Kiêu đời đời lấy khu rừng này làm biên giới giữa hai nước.

Ngày mùng bảy tháng tám, A Lan Nhược lao tới chiến trường. Chiến sự bắt đầu từ ngày mùng một, mới có sáu ngày, bộ tộc Tỷ Dực Điểu đã mất rất nhiều đất đai, bị đẩy lùi về phía nam sông Tư Hành, tám vạn đại quân đã bị tổn thất mất ba vạn, năm vạn binh sĩ còn lại và mười hai vạn hùng binh của bộ tộc Dạ Kiêu, mỗi bên chiếm cứ một bờ sông Tư Hành.

Quân lệnh xin tiếp viện liên tiếp được gửi cấp tốc về Vương thành, Khuynh Họa phu nhân coi như không thấy, án binh bất động. Trước mặt có hùng binh, sau lưng không có quân tiếp viện, quân sĩ mất hết chí khí, mặc dù chưa kết thúc cuộc chiến nhưng đã lộ vẻ thất bại. Đêm xuống, A Lan Nhược lẻn vào trong quân trướng, làm Tương Lý Hạ ngất xỉu, đưa chàng ta ra khỏi doanh trại, bản thân nàng mặc áo giáp của chàng ta, ngồi vào ghế chủ soái.

A Lan Nhược dẫn dắt năm vạn binh mỏi mệt, lợi dung địa thế của sông Tư Hành bày Bán Nguyệt trận, chặn bộ tộc Dạ Kiêu ở bên ngoài sông. Máu đào nhuộm đỏ dòng sông Tư Hành, xác chết la liệt phía bờ Nam, bấy giờ đang là cuối mùa hạ, đêm xuống, gió mát thổi bên sông lại chỉ ngửi thấy mùi xác chết thối rữa và mùi máu tanh nồng. Bán Nguyệt trận chặn được kẻ địch bảy ngày, khiến bộ tộc Dạ Kiêu tổn thất năm vạn binh, nhưng vì lương thảo không đủ, hơn nữa lại lâu ngày không có viện binh, không thể chống cự được bộ tộc Dạ Kiêu ỷ người đông thay phiên nhau tấn công, cuối cùng vào nửa đêm ngày thứ bảy, đã công phá được một lỗ hổng.

Sao Mai trên bầu trời sáng lên, đại vương tử của bộ tộc Dạ Kiêu vô cùng vui mừng, định dẫn quân vượt sông. Dưới ánh trăng sao, nhìn qua bờ sông bên kia, lại thấy trong tay chủ tướng của địch quân bỗng hóa ra một cây cung sắt cao bằng thân người, ba mũi tên không gắn lông xé gió rạch nát màn đêm lao tới vun vút, đâm thẳng vào giữa lòng sông, biến thành ba cây cột sắt lớn, đứng thẳng một hàng giữa dòng nước chảy xiết.

Chiêu Hồn trận.

Sao Mai bị một đám mây đen bỗng dưng xuất hiện quấn lấy, chao đảo như sắp rơi, một luồng kim quang bỗng phát ra từ thân hình cao ráo đang đứng sừng sững bên cạnh cây cung sắt. Sau một tiếng thét dài xé tan khoảng không, luồng kim quang lơ lửng giữa không trung ngưng tụ lại tạo thành một con Tỷ Dực Điểu khổng lồ, cúi nhìn xuống hai bên bờ sông, uy nghiêm bay lượn, sải cánh rộng quạt mạnh khiến binh hùng tướng mạnh đều ngã chổng vó. Bóng người bên cạnh cây cung sắt lại đứng im bất động, gió mạnh thổi bay chiếc mũ giáp trên đầu, lộ ra một mái tóc dài đen nhánh, một khuôn mặt lạnh lùng, diễm lệ.

Trong tiếng thét bi ai, con Tỷ Dực Điểu màu vàng đậu lên cây cột sắt giữa lòng sông, đôi cánh giang rộng phủ kín hơn nửa mặt sông, vỗ cánh lần nữa, toàn thân bỗng nhiên bốc cháy.

Lưỡi lửa lớn hừng hực thiêu đốt, giống như một trận nghiệp hỏa[4] vô tận, chặn giữa dòng sông Tư Hành, tạo thành một bức tường chắn tự nhiên đối với quân địch. Gió khô nóng thổi tới khiến rừng nhạc âm bờ bên kia kêu ding dang. Sở dĩ cây này gọi là cây nhạc âm là bởi vì cành cây, lá cây khi đung đưa theo gió có thể tấu lên một khúc nhạc.

[4] Lửa địa ngục thiêu đốt trừng phạt kẻ ác.

Để ngăn chặn quân địch ở ngoài sông Tư Hành, A Lan Nhược đã dùng Chiêu Hồn trận, thiêu đốt hết linh hồn của mình. Đây chính là nguyên nhân khiến nàng hồn phi phách tán. Đây mới là nguyên nhân khiến nàng hồn phi phách tán.

Màn đêm đen như mực, lửa cháy cuồn cuộn trên dòng sông chảy xiết, tiếng kêu gào thảm thiết của con Tỷ Dực Điểu xuyên qua rừng nhạc âm, trong rừng tấu lên tiếng hát kỳ diệu, dường như đang ai điếu cho cái chết của công chúa một bộ tộc. Còn trên dòng sông dài vô tận, những bông hoa nhạc âm nhỏ xinh trắng muốt lại không hề e sợ gió nóng, giống như những chú chim nhỏ đang di trú, xuyên qua lưỡi lửa phiêu tán trong lòng sông, lại giống như một trận tuyết nhẹ, có một đóa đặc biệt ngoan cường, vượt qua bao gian khó chầm chậm đậu trên tóc mai của A Lan Nhược, nàng đưa tay gài nó vào trong tóc, ngón tay khe khẽ vuốt lên tóc mai rồi dừng lại. Đó là một động tác mà Trầm Diệp vẫn quen làm khi cài hoa lên tóc nàng. Nàng sững người lại, hồi lâu, lại khẽ mỉm cười. Con Tỷ Dực Điểu màu vàng kêu lên một tiếng thảm thiết cuối cùng, nàng vuốt ve đóa hoa trắng bên vành tai, chậm rãi nhắm mắt lại. Con chim lớn giữa dòng sông đứng yên như đã hóa thành một bức tượng, chỉ có ngọn lửa vẫn chưa tắt, còn nàng công chúa tóc dài tựa vào cây cung sắt, nàng đã dùng cạn sinh mạng của mình, bước vào cõi hư vô vĩnh hằng. Lửa lớn cháy suốt ba ngày không tắt, khi lửa tắt, công chúa và cây cung sắt đều đã hóa thành cát bụi, chìm vào trong lòng sông cuộn sóng.

Đây chính là cuộc đời của A Lan Nhược.

Phượng Cửu vẫn không thể hiểu được, khi nở nụ cười cuối cùng, A Lan Nhược đang nghĩ tới điều gì.

Ra khỏi đoạn ký ức này, trước mặt lại hiện lên tấm gương dài đúc từ tuyết dày, Phượng Cửu đưa tay lên tấm gương, trước mắt bỗng trở nên tối sầm, một khắc trước khi mất đi ý thức, nàng cảm thấy, lần này, cuối cùng thì mình cũng thật sự sẽ ngất đi, nếu sớm ngất đi như thế này thì tốt biết mấy.
 
Tham gia
6/7/19
Bài viết
101
Điểm cảm xúc
41
Điểm
28
01.

Nơi cao nhất trong phủ công chúa là Ba Tâm đình, bên ngoài đình trồng toàn cổ thụ, cây nào cây nấy cao chọc trời, ánh nắng xuyên qua lá cây, chiếu vào trong đình, tô điểm thêm nét cổ kính cho ngôi đình nhỏ.

Lúc này trong sơn đình có bốn người, Đông Hoa Đế Quân ngồi đối diện với Thần Quan Trưởng Trầm Diệp, Phượng Cửu đang say ngủ trong lòng Đế Quân, Tô Mạch Diệp đứng bên cạnh. Thiên thời địa lợi nhân hòa, bình tâm mà nói thì đây thực sự là một bức tranh đẹp.

Nhưng Tô nhị hoàng tử Tô Mạch Diệp nhìn cục diện trước mắt, thực sự lại có chút mơ hồ, bởi vì hai vị đang ngồi đối diện với nhau phía trước mặt đều là những người vô cùng điềm tĩnh, chàng mặc dù rất giỏi quan sát sắc mặt, lời nói, nhưng gần đây chàng bị Đế Quân bắt chế tạo pháp khí, đầu óc mệt mỏi đến nỗi có phần kém linh hoạt, hơn nữa những sự việc xảy ra trong ba ngày gần đây như chớp giật liên hồi, giật đến nỗi tới bây giờ chàng vẫn chưa thể bình tâm được.

Ba ngày trước là một ngày Hoàng đạo, ông trời đã rủ lòng từ bi khiến bức thư khẩn thứ mười hai mà chàng gửi cho Đế Quân có tác dụng, gọi được Đế Quân trở về Kỳ Nam thần cung. Chàng thúc giục Đế Quân đến nỗi muốn ộc máu tươi, may mà Đế Quân đã trở về, chàng liền nuốt cục máu đó vào trong bụng, hy vọng rằng sau khi pháp khí chế tạo xong có thể xuống núi nghỉ ngơi một chút.

Thực ra Đế Quân chưa từng nói rõ với chàng ngài muốn chế tạo pháp khí gì, với bổn phận là thần tử, chàng cũng chưa từng hỏi, chỉ làm theo lời dặn dò của Đế Quân mà thôi. Đợi đến khi Đế Quân quay về thần cung thực hiện nốt khâu chế tạo cuối cùng, khi thành hình rồi chàng mới biết rằng đó là một tấm gương, hơn nữa là một tấm gương rất khác thường – gương Diệu Hoa.

Chàng đã từng được nghe nói về tấm gương Diệu Hoa được treo ở Đệ Thất Thiên trên Cửu Trùng Thiên, đồn rằng, tấm gương này có thể tái hiện sự thay triều đổi đại, sự thịnh suy trong hàng trăm tỷ phàm thế của Tam Thiên Đại Thiên Thế Giới, nhưng Phạn Âm Cốc nơi mà bộ tộc Tỷ Dực Điểu cư ngụ cũng là đất tiên, không phải là phàm thế, xét về lý, gương Diệu Hoa sẽ không thể soi rõ được những chuyện thị phi trong quá khứ. Chàng có phần nghi hoặc, nếu không có công dụng này, vậy Đế Quân nhọc công chế tạo chiếc gương này để làm gì. Chàng nghĩ, chắc không phải để làm gương trang điểm cho Phượng Cửu đấy chứ… Lại nghĩ, ôi mẹ ơi, thực ra việc này rất có khả năng xảy ra.

May mà lần này Đế Quân lại không khác thường tới mức độ đó, khi chiếc gương được chế tác xong, Đế Quân ngắm nghía trong giây lát, rồi dùng bút tiện tay vẽ gì đó trên giấy, sau đó ném vào trong gương, chỉ một lát sau, trong gương hiện lên một cảnh tượng rất rõ ràng.

Cảnh tượng trong gương khiến chàng đờ đẫn, đó chính là xà trận bên suối Giải Ưu hơn hai trăm năm trước. Trong làn mưa giông gió buốt, bốn con mãng xà khổng lồ rắn chắc như đá tảng ngóc đầu lên trời phun phù phù với đôi mắt đỏ ngàu như máu, ngập tràn nỗi đau thương khi bị mất con. Cô bé đang được chàng ôm trong lòng vươn cánh tay ra giãy giụa đòi quay lại xà trận, nước mắt ngân ngấn trong đôi mắt sáng long lanh, miệng cũng thổi phì phì nói xà ngữ. Chàng đứng trên một đám mây, cây tiêu ngọc bích lơ lửng giữa không trung, không có người thổi nhưng lại phát ra những tiếng nhạc xua đuổi loài rắn. Cô bé vẫn quẫy đạp phản kháng trong vòng tay của chàng, chàng vốn dĩ có thể dùng pháp thuật để giữ chặt cô bé lại, nhưng không hiểu lúc đó chàng đã nghĩ gì, lại chỉ dùng sức mạnh của đôi tay để khóa chặt cô bé thích núp sau tảng đá nghe chàng thổi tiêu vào lòng. Cô bé không có cách nào thoát ra được, nước mắt chực rơi xuống, chàng vuốt trán của cô bé, khẽ nói: “Ngươi rất thông minh, mặc dù không biết nói, nhưng chắc cũng hiểu được ta đang nói gì, ngươi không phải là rắn, ngươi là nhị công chúa của tộc Tỷ Dực Điểu. Ngươi muốn tiếp tục làm một con rắn, sống ở một nơi chật hẹp, bị người cùng dòng tộc coi là dị vật hay là muốn được giang rộng đôi cánh bay lượn khắp bầu trời?”. Nước mắt đọng lại trong đôi mắt của cô bé, hồi lâu, cô bé cắn môi, dường như đang chịu đựng một nỗi đau vô bờ bến nào đó, tiếng giương cánh vang lên, một đôi cánh trắng muốt bỗng xuất hiện phía sau vai, cô bé bắt chước giọng nói của chàng: “… Tỷ Dực…”. Chàng cười nói: “Ngoan, đây là lần đầu tiên ngươi giương cánh sao? Từ nay về sau, ta sẽ là sư phụ của ngươi”.

Tỷ Dực Điểu hoặc là có một cánh, hoặc là có hai cánh, A Lan Nhược là Tỷ Dực Điểu hai cánh.

Cảnh tượng của rất nhiều năm về trước được tái hiện lại ngay trước mắt, chàng đương nhiên sững sờ, Đế Quân đã pha xong một ấm trà, chìa vào hai chén, thuận miệng nói với chàng: “Chiếc gương này đã được ta sửa lại, có thể nhìn thấy kiếp này, kiếp trước ở đất tiên”. Nhìn về phía gương Diệu Hoa, nói: “Người tạo ra mộng cảnh này chắc là Trầm Diệp, hãy xem xem hắn muốn làm gì đã, sau đó xem xem Tiểu Bạch và A Lan Nhược có mối liên hệ như thế nào, ngươi hãy ở lại đây cùng quan sát, sau này nếu xảy ra chuyện gì, còn tiện thay ta xử lý”.

Chàng nhất thời không để ý rằng Đế Quân cho phép chàng ở lại đây chính là vì muốn chàng tiếp tục làm việc không công cho ngài ấy, đầu óc bỗng chốc trở nên mông lung, giọng nói có phần run rẩy: “Ý Đế Tọa là qua chiếc gương này có thể nhìn thấy nguyên nhân dẫn tới cái chết của A Lan Nhược?”.

Đế Quân cảm thấy khó hiểu, nói: “Chuyện này rất kỳ lạ sao?”.

Chàng trấn tĩnh lại, nói: “Thần không hề biết trên thế gian còn có loại pháp khí có thể tái hiện kiếp này, kiếp trước của thần tiên, quả nhiên là rất hiếm có”. Lại nói: “Nghe nói gương Diệu Hoa mỗi lần chỉ có thể thể hiện một mặt của sự việc, xin được thỉnh giáo Đế Tọa, cảnh tượng quá khứ hiện ra lúc này liệu có phải chính là một mặt mà Trầm Diệp đã được chứng kiến không?”.

Đế Quân lạnh lùng gật đầu, tay rót trà, miệng nhắc nhở chàng: “Đừng chạm tay vào khung gương, cẩn thận kẻo bị tư tưởng tình cảm của người trong gương làm rối loạn tâm thần của chính mình”. Nhưng lời nhắc nhở đó lại vang lên một cách quá thong thả chậm rãi, chàng đã sớm hiếu kỳ chạm tay vào khung gương rồi. Chỉ trong nháy mắt, một tâm tư trĩu nặng như đá núi truyền từ khung gương qua cánh tay, xộc thẳng vào tận đáy trái tim chàng. Giống như đã tự mình trải qua một đời người chỉ trong chốc lát. Cuộc đời của người khác. Cuộc đời của Trầm Diệp.

Mạch thiếu gia còn nhớ, nhiều năm trước, A Lan Nhược từng nói với chàng, lần đầu tiên gặp Trầm Diệp là vài ngày trước một lần sinh thần tròn chục tuổi của chàng ta. Hồi đó nàng vừa mới ra khỏi xà trận chưa lâu, mặc dù có sự quan tâm chăm sóc của sư phụ là chàng, nhưng vẫn khó tránh khỏi cảm giác cô độc trong vương cung rộng lớn, nhìn thấy ai cũng muốn kết thân.

Hôm đó nàng đi dạo trong hoa viên, từ phía sau một gốc hạnh già, nàng nhìn thấy trong khóm hoa phía trước mặt, Trầm Diệp đang dẫn theo hai chị em Quất Nặc và Thường Đệ cùng chơi trò đoán bách thảo. Vị biểu ca này của nàng vốn dĩ đã có ngoại hình khôi ngô tuấn tú, ngày hôm đó có lẽ là do ánh nắng mặt trời rực rỡ chiếu soi, nhìn chàng lại càng tuấn tú phi phàm khiến nàng cực kỳ muốn kết thân.

Vài ngày nữa là tới sinh thần của chàng, nàng cảm thấy đây là một cơ hội tốt để kết thân với chàng, nàng cần phải tới chúc mừng. Nàng nhớ tới phong thái của chàng khi đứng trong khóm hoa thanh nhã ngày hôm đó, vốn định tới hoa viên hái một vốc làm quà chúc mừng, không ngờ loài hoa đó có mùa hoa rất ngắn, đã rụng hết rồi. Nàng bèn vẽ lại một cách ngờ nghệch khóm hoa trên trang giấy dựa theo trí nhớ mơ hồ của mình, trân trọng mang nó tới phủ của cữu cữu (anh, em trai của mẹ) để chúc mừng chàng. Trong ngày sinh thần hôm đó, chàng không vận thường phục giống như hôm ở trong hoa viên, bộ trang phục của thần quan trên người thể hiện rõ vẻ tuấn tú trầm tĩnh già dặn hơn tuổi. Chàng vẫn ở bên cạnh Quất Nặc và Thường Đệ, chỉ đưa mắt liếc nhìn nàng một cái từ xa rồi ngay sau đó lạnh lùng nhìn sang chỗ khác.

Buổi chiều, nàng tìm thấy bức tranh mà mình tặng chàng trong rãnh nước nhỏ ở hậu viện, mực vẽ đã bị nhòe đến nỗi không còn nhận ra đường nét trước đó nữa, Thường Đệ - tiểu muội muội của nàng đứng bên cạnh rãnh nước nhạo báng nàng: “Trầm Diệp ca ca nói rằng ngươi được rắn nuôi lớn, gặm cây cỏ để trưởng thành, vô cùng bẩn thỉu, huynh ấy không thèm nhận tranh của ngươi…”.


Hồi đó nàng kể lại chuyện này cho chàng nghe, cười nói, hồi nhỏ nàng và Trầm Diệp chỉ gặp nhau hai lần như vậy, từ đó về sau nàng không còn ý định muốn kết thân với Trầm Diệp nữa, cũng không tới làm khách ở phủ của cữu cữu nữa, nàng và Trầm Diệp thực ra ngay từ đầu đã không có duyên phận, sau đó nàng vẫn cố cưỡng cầu duyên phận với Trầm Diệp, cũng không biết đã làm sai hay đúng.

Mạch thiếu gia cho rằng A Lan Nhược quả thực đã cưỡng cầu, hơn nữa chàng tin chắc rằng chính bởi vì nàng đã cưỡng cầu mối nhân duyên này nên mới gieo mầm tai họa khiến mình hồn phi phách tán. Còn Trầm Diệp đối với A Lan Nhược, chàng chưa bao giờ tin rằng hắn ta có tình cảm gì với nàng, nếu có tình, sao có thể giương mắt nhìn nàng đi vào chỗ chết? Cho dù thế nào đi nữa, hắn ta thù ghét nàng suốt mấy chục năm, chỉ chung sống hòa thuận với nàng trong hai năm, dù mọi thứ xảy ra trong hai năm đó có thể coi là tình cảm, cũng không thể là tình cảm sâu đậm được. Còn về hành động của hắn sau khi A Lan Nhược qua đời, chẳng qua chỉ là thói sau khi mất đi mới cảm thấy trân trọng mà thôi. Trầm Diệp không hề yêu A Lan Nhược, nếu hắn ta yêu A Lan Nhược, đó mới là một câu chuyện cười.

Nhưng ông trời lại thích làm trò cười. Tâm tư tình cảm của người ở trong gương Diệu Hoa cứ cuồn cuộn dâng trào như một cơn đại hồng thủy, sắc mặt của Mạch thiếu gia dần dần trắng bệch. Đế Quân nhấp một ngụm trà, hỏi chàng: “Còn chịu đựng được không?”. Chàng cười, sắc mặt khó coi: “Mong Đế Tọa chỉ giáo, chịu đựng được thì sao, không chịu đựng được thì sao?”. Lời chỉ giáo của Đế Tọa lại rất đơn giản: “Đều phải chịu đựng”.

Người đời nói Thần Quan Trưởng lạnh lùng ít nói, tâm tư khó dò, thánh ý của Thượng Quân còn có thể suy đoán, còn tâm tư của Thần Quan Trưởng, dù có suy đoán cũng chỉ vô ích mà thôi. Vậy mà lúc này, tâm tư của vị Thần Quan Trưởng khó đoán đó lại hoàn toàn phơi bày trước mắt Mạch thiếu gia.

Chàng nhìn thấy rất rõ, giống như chàng chính là hắn ta vậy.

02.

Trầm Diệp được sinh ra một cách không hề thuận lợi. Khi mẫu thân hoài thai chàng, đã được đón tới thần cung chờ sinh nở, nhưng ngày chàng ra đời, trên trời lại không hề xuất hiện bất cứ dị tướng gì, hơn nữa, khi sinh ra chàng lại là một đứa trẻ vô cùng yếu ớt, ngay cả việc cất tiếng khóc cũng không làm nổi. Tức Trạch, Thần Quan Trưởng đương nhiệm không có mặt ở trong cung, mấy viên thần quan xấu tính đã đòi đuổi hai mẹ con chàng ra khỏi thần cung, vừa hay lúc đó Thượng Quân Tương Lý Ân đang tránh nóng ở thần cung đi qua, thấy thương tình đã giữ hai mẹ con chàng lại.

Thấy hơi thở của chàng thoi thóp yếu ớt, Tương Lý Ân đã cắt cổ tay lấy máu, dùng nửa bát máu đó để cứu mạng sống của chàng. Tiếng khóc đầu tiên của chàng vang lên đúng vào lúc giữa trưa, vốn dĩ trên trời chỉ có một mặt trời sáng chói, nhưng bỗng nhiên lại xuất hiện thêm một mặt trăng tròn, nhất thời mặt trăng và mặt trời cùng nhau chiếu sáng giữa đất trời, Tương Lý Ân cười vang: “Đây chẳng phải chính là vị tiểu Thần Quan Trưởng của bộ tộc chúng ta sao, nếu dị tướng trời giáng xuống là quang chiếu khuynh thành, chi bằng hãy lấy tên là Diệp”. Chàng theo họ mẹ, được Tương Lý Ân ban tên, bèn có một cái tên là Trầm Diệp.

Thượng Quân Tương Lý Ân làm chủ cho hôn sự của mẫu thân chàng, gả bà cho đại cữu cữu (anh vợ) của mình, mẫu thân của chàng liền rời thần cung để về nhà chồng, còn chàng, khi tròn một tuổi đã nhận sắc phong làm Thần Quan Trưởng kế nhiệm, đi theo Tức Trạch – Thần Quan Trưởng đương nhiệm để học bản lĩnh cần phải có của một Thần Quan Trưởng.

Thời gian thấm thoắt trôi đi, khi dưới núi xảy ra cung biến[1], chàng mới được năm tuổi. Tức Trạch thần quân vừa ăn bánh đậu xanh vừa cảnh cáo chàng, Kỳ Nam thần cung mặc dù có chức trách giám sát, nhưng nếu không phải vì Thượng Quân thất đức khiến trăm họ lầm than, những chuyện khác đều không thuộc chức trách giám sát của thần cung. Những chuyện như cung biến này, họ tranh giành nhau mặc kệ họ, chúng ta nếu có hứng thú thì tới xem trò vui, không có hứng thú thì đóng chặt cửa cung, ngồi uống trà ăn bánh.

[1] Cung biến: chỉ việc Tương Lý Khuyết giết Tương Lý Ân, giành ngôi vua và ép Khuynh Họa phu nhân làm vợ mình.

Bọn họ đóng cửa cung ăn bánh đậu xanh suốt mấy ngày liền, tin tức bên ngoài truyền tới nói rằng tân quân lên ngôi, đồng thời lấy vương hậu Khuynh Họa của Tương Lý Ân – Thượng Quân đời trước làm quý phu nhân, lễ quan của vương cung tới mời Thần Quan Trưởng tới cầu chúc. Tức Trạch lấy cớ đã quá no vì ăn nhiều bánh đậu xanh, không tiện xuất hành, sai vài tùy tùng khiêng chàng khi đó mới năm tuổi tới vương cung một chuyến. Lần đầu tiên chủ trì lễ cầu chúc, dù mới chỉ năm tuổi nhưng chàng lại không để xảy ra bất kỳ sai sót nào. Tức Trạch vô cùng hài lòng, từ đó về sau lại càng lười biếng, trong cung có việc gì cần tới Thần Quan Trưởng đều sai chàng đi thay. Mỗi lần đi thay, chàng đều làm tròn nhiệm vụ một cách rất xuất sắc, quả thực khiến Tức Trạch vô cùng yêu mến.

Mẫu thân của chàng được gả cho ca ca của Khuynh Họa, Khuynh Họa liền trở thành cô mẫu của chàng. Ít lâu sau Khuynh Họa sinh ra Quất Nặc, vì chàng thường xuyên vào cung nên thường giao Quất Nặc cho chàng chăm sóc. Năm chàng mười tuổi, vì phải vào trong núi để tu hành, suốt hai năm liền chàng không đặt chân vào vương cung. Khi chàng vào cung lần kế tiếp, Quất Nặc nũng nịu nói với chàng rằng, một năm trước mẫu thân đã sinh thêm một muội muội, muội muội vô cùng mềm mại đáng yêu, nhưng mẫu thân đã ném muội muội vào trong hang rắn, may mà bốn con mãng xà đó không ăn thịt muội muội, còn bắt chuột, cắn đứt cổ chuột, lấy máu bón cho muội muội.

Chỉ có một nơi trong vương cung có hang rắn, đó là bên cạnh suối Giải Ưu. Tại sao lại muốn tới xem đứa trẻ mà Quất Nặc kể, chàng cũng không thể nói ra được. Đêm hôm đó trăng sáng vằng vặc, chàng giẫm lên ánh trăng đi vào trong hoa viên, nghe được tiếng thì thầm to nhỏ của mấy cung nữ phía sau khóm trúc, nói rằng đứa trẻ trong hang rắn kia thường thích bò ra bò vào vào thời điểm này, đêm nay không hiểu sao không thấy động tĩnh gì, không biết đã bị bệnh hay bị làm sao, liệu có nên bẩm báo với Quân Hậu hay không. Mấy người đó đùn đẩy nhau xem ai tới bẩm báo với Quân Hậu sẽ tốt hơn, lại sợ Quân Hậu nổi giận, không ai muốn đi, đưa ra cái cớ Quân Hậu vứt đứa trẻ này vào trong hang rắn vỗn dĩ đã không muốn nó sống sót, nếu đứa trẻ này thực sự bị bệnh, việc đó lại càng hợp với mong muốn của Quân Hậu, nếu bọn họ tới bẩm báo, chưa biết chừng lại tự chuốc họa vào thân, tốt nhất là nên làm ra vẻ không biết, không bẩm báo gì cả. Lời thì thầm vang lên một lát rồi các cung nữ bỏ đi.

Chàng lại gần xà trận, bốn cột đá mà bốn con mãng xà phục trong đó đứng im lìm, mà ở sát bên đường biên của xà trận do bốn cột đá vạch ra, quả nhiên chàng nhìn thấy một đứa bé mới hơn một tuổi đang run rẩy nằm bò trên mặt đất. Đêm hôm đó là đêm rằm, mặt trăng tròn vành vạnh, đang đúng vào giờ chi âm, bốn con mãng xà trong cột đá chắc đang hút linh khí của ánh trăng, không để ý tới đứa trẻ này. Đề phòng làm kinh động tới mãng xà, chàng thận trọng đứng bên cạnh xà trận, cố gắng đưa tay lật ngược đứa trẻ lại. Dưới ánh trăng, chàng nhìn thấy khuôn mặt nhỏ bé nhem nhuốc của đứa trẻ, đôi môi khô nứt khép lại một cách khó nhọc, mấy chiếc răng sữa va vào nhau lập cập, nó đang ôm trong lòng một con chuột chết, trên tay dính đầy máu.

Đây là biểu muội của chàng. Cùng là biểu muội, Quất Nặc từ nhỏ đã được sống trong cảnh ăn sung mặc sướng, được kẻ hầu người hạ, đứa trẻ này lại chẳng có lấy một manh áo che thân, bị giam trong xà trận, người ngợm bẩn thỉu, chỉ có thể sống nhờ máu của loài chuột. Đứa trẻ nhỏ bé nằm trên mặt đất, run rẩy một hồi, cuối cùng không chịu nổi đã bật khóc, như bị ai đó chặn ngang cổ họng, tiếng khóc khe khẽ, mong manh. Một tiếng khóc yếu ớt không thành tiếng thành điệu như vậy nhưng lại đánh mạnh vào tim chàng.

Chàng không biết đứa trẻ này mắc bệnh gì, cũng không biết phải dùng phương thuốc thần diệu nào, nhưng trong Phạn Âm Cốc, không có phương thuốc thần diệu nào có công dụng kỳ diệu hơn máu của thần quan, điều này thì chàng biết. Vì kết giới của xà trận ngăn cản, chàng không thể vào trong xà trận đưa đứa trẻ ra ngoài, chỉ có thể cắn rách đầu ngón tay, miễn cưỡng thò tay vào trong kết giới, hướng về phía môi của đứa trẻ, mấy giọt máu rơi xuống, đứa trẻ cuối cùng đã có sức lực ôm lấy ngón tay của chàng mút mát. Đứa trẻ này rất ham ăn, không hề biết rằng máu của chàng lúc này chỉ là thuốc thần để chữa bệnh cho nó mà thôi, lại cứ nghĩ rằng đó là loại thức ăn bổ dưỡng, mút cho tới khi no căng bụng mới chịu buông ra giống như hút máu chuột.

Máu của chàng đã cứu mạng đứa trẻ, lúc này đây đang chảy trong huyết quản của đứa trẻ, chàng chưa từng dùng máu của mình để cứu mạng ai khác, điều này khiến chàng cảm thấy đứa trẻ này rất đặc biệt đối với chàng.

Chàng dùng tay áo lau sạch khuôn mặt cho nó, nhìn rõ đường nét trên khuôn mặt ấy, nhớ lại lời của Quất nặc nói rằng muội muội của nàng ấy rất mềm mại đáng yêu, chàng nghĩ cô bé này quả thực rất mềm mại đáng yêu, Khuynh Họa phu nhân thật nhẫn tâm. Sau khi đã ăn no nê cô bé bèn mở to đôi mắt trong sáng im lặng nhìn chàng, chàng vuốt ve trán cô bé, mỉm cười, cô bé thông minh cũng học theo điệu bộ của chàng, khóe môi non nớt cong lên, mỉm cười. Chàng khe khẽ vỗ về ru cô bé ngủ, cô bé mở to mắt nhìn chàng thật kỹ hồi lâu rồi mới nhắm mắt lại. Mà giờ chí âm sắp trôi qua, tinh thần cảnh giác của mấy con mãng xà sắp quay lại rồi.

Từ đó về sau, mỗi lần vào vương cung, chàng đều tìm cơ hội lặng lẽ tới thăm cô bé. Nhưng thường chỉ có vào giờ chi âm trong đêm rằm mới có thể tiếp cận xà trận. Sau đó, nhờ Tức Trạch mà chàng biết rằng máu của Thượng Quân có thể khiến mãng xà trong cột đá say ngủ, lấy cớ cần cúng tế, chàng đã tích trữ được không ít máu từ đầu ngón tay của Thượng Quân. Dùng cách này, chàng cuối cùng đã có thể bước vào xà trận. Một lần, chàng thử xem có thể bế cô bé ra ngoài xà trận được không, nhưng khi bàn tay mềm oặt của cô bé vừa chạm phải kết giới bao quanh xà trận, không hiểu sao mấy con mãng xà đang say ngủ trong cột đá bỗng bừng tỉnh, may mà chàng thân thủ nhanh nhẹn nên mới không bị nuốt vào bụng mãng xà. Lúc bấy giờ chàng mới biết rằng, một đứa trẻ mới gần mười tuổi như mình, dù mang danh là Thần Quan Trưởng kế nhiệm nhưng sức mạnh vẫn còn yếu ớt biết bao.

Chàng rất thương xót biểu muội này, âm thầm chăm sóc cô bé năm năm. Khi cô bé đói, chàng đưa thức ăn tới cho cô bé, khi cô bé lạnh, chàng dùng da rắn đã lột xác làm thành áo ấm cho cô. Việc chăm sóc này không hề lộ dấu vết, không hề bị ai phát hiện ra trong suốt năm năm, cũng tránh được cho cô bé những chuyện xui xẻo. Khi vừa mới ra đời cô bé đã bị vứt vào trong hang rắn, đương nhiên là không có tên, cô bé không phải là rắn, cô bé là công chúa của bộ tộc Tỷ Dực Điểu, cô bé cần có tên, song thân cô bé không muốn đặt tên cho cô, chàng nghĩ rằng chàng có thể đặt tên cho cô bé. Chàng đặt cho cô bé cái tên A Lan Nhược, có nghĩa là tĩnh lặng. Chàng viết ba chữ A Lan Nhược vào trong lòng bàn tay của cô bé, chậm rãi đọc thành tiếng, A Lan Nhược, đây là tên của muội, sau này khi ta nói ba chữ này, tức là đang gọi tên muội. Cô bé thông minh cũng bắt chước dùng tay vẽ bừa lên mặt đất khiến chàng cảm thấy buồn cười. Chàng dùng pháp thuật đóng dấu ba chữ đó lên cánh tay cô bé, khẽ nói, vẽ theo cái này. Cô bé ngờ nghệch túm chặt lấy tay áo của chàng, chớp chớp mắt, gắng sức nói: “Diệp… Diệp… Lan…”. Chàng khẽ nói: “Đúng, ta là Trầm Diệp, là biểu ca của muội, muội là A Lan Nhược, Tương Lý A Lan Nhược”.

Các đời Thần Quan Trưởng kế nhiệm khi tròn mười lăm tuổi sẽ phải bế quan trong hai mươi năm, tu thành sẽ trở thành Phó Thần Quan Trưởng. Hồi nhỏ chàng không có vướng bận gì, một lòng mong chờ tới thời kỳ tu hành này. Giờ đây bận rộn chăm sóc cho A Lan Nhược, lại cảm thấy trì hoãn thêm ngày nào tốt ngày ấy. Nhưng chung quy lại, đây vẫn là chức trách không thể né tránh được.

Chàng lo rằng sau khi chàng đi không ai chăm sóc cho cô bé, lại phải ăn thịt chuột, uống máu chuột, đêm từ biệt, chàng đã trồng một cây tứ quý quả[2] trong xà trận, lại đem nước suối trời trong thần cung tới tưới cho cây. Chỉ một lát sau cây tứ quý quả đã mọc cành lá xum xuê tươi tốt rồi đơm hoa kết trái, chàng hái một trái đưa cho cô bé, dạy rằng sau này mỗi khi đói bụng hãy ăn thứ này, nếu khát hãy uống nước suối Giải Ưu, tuyệt đối không được ăn thịt chuột để sống.

[2] Cây tứ quý quả: cây ra hoa kết quả suốt bốn mùa.

Năm đó cô bé đã được năm tuổi, vẻ ngoài trắng trẻo đáng yêu, nhưng vì trong xà trận thường có khí độc nên không nhớ rõ mọi chuyện và cũng không nói được. Tuy vậy cô bé chắc cũng biết đây là một cuộc chia ly, thò tay túm chặt lấy vạt áo của chàng, không chịu ngủ. Chàng nhìn cô bé, hồi lâu, nói: “Muội còn nhỏ như vậy, đến khi ta quay trở lại, muội chắc chắn đã quên ta rồi”. Cô bé lại tưởng rằng chàng đang dặn dò điều gì, gật đầu như hiểu lại như không hiểu. Chàng đưa tay vò vò tóc mái của cô bé, dưới ánh trăng trong trẻo, hoa tứ quý bay lượn theo chiều gió, một đóa rơi đúng vào vai cô bé. Chàng nhặt đóa hoa lên, cài vào tai cô, ngón tay khẽ vuốt ve rồi dừng lại, hứa hẹn với cô bé nhỏ xíu: “Ta sẽ quay trở lại, đợi khi ta lên làm Thần Quan Trưởng, thì có thể cứu muội ra ngoài”. Dừng lại một chút, ôm cô bé vào lòng: “Ta là người thân duy nhất của muội, A Lan Nhược, bọn họ không cần muội, muội còn có ta”.

Đêm hôm đó, khi chàng ra đi, cô bé bừng tỉnh trong giấc mơ, kêu khóc thảm thiết. Nhưng chàng không quay đầu lại. Để mặc tiếng khóc của cô bé dần dần biến mất phía sau lưng.

Hai mươi năm như thể đã cách cả đời người, chàng quay trở lại vương cung vừa hay đúng vào đêm rằm, Thượng Quân mở tiệc chiêu đãi, chàng nôn nóng muốn được gặp cô bé kia. Tin tức đầu tiên về nàng mà chàng nghe được lại là tin nhị hoàng tử của Tây Hải đã xông vào xà trận. Thượng Quân dẫn theo đám quần thần đang dự tiệc vội vã chạy tới suối Giải Ưu, chàng cũng vội vã đi theo. Khi lại một lần nữa đặt chân tới chốn này, giữa cảnh hoang tàn đổ nát, thứ đầu tiên lọt vào mắt chàng lại là hình ảnh trên một đám mây giữa lưng chừng không, thiếu nữ ngây thơ non nớt được vị nam tử áo trắng ôm trọn trong lòng, khoác một chiếc áo choàng trắng của nam giới bên ngoài lớp váy thô mộc làm từ da rắn, chiếc áo màu trắng tung bay trong gió, để lộ một khuôn mặt non nớt, vô cùng xinh xắn. Hai mươi năm không gặp, cô bé đã thành một thiếu nữ rồi.

Làn nước biếc trong suối Giải Ưu cuồn cuộn trào dâng, đám mãng xà không ngừng phun phì phì, tiếng nhạc khe khẽ phát ra từ cây tiêu ngọc bích, cô bé đó lần đầu tiên giang cánh trong vòng tay của nam tử áo trắng, không ai trong vương thất được sở hữu một đôi cánh trắng muốt như vậy, lông tơ trắng muốt nhẹ nhàng rơi xuống, chàng đưa tay đón lấy. Còn trên đám mây kia, ánh mắt của nam tử áo trắng lướt qua cánh tay nàng, bỗng cất giọng nói: “A Lan Nhược, ý nghĩa rất hay, ngươi không có tên, chi bằng hãy lấy tên A Lan Nhược đi”. Chàng nhìn thấy nàng mông lung nhìn nam tử áo trắng, nói một cách ngắt quãng: “A… Lan… Nhược?”. Nam tử áo trắng cười nói: “Đọc rất đúng, A Lan Nhược, ta là Tô Mạch Diệp, Tô Mạch Diệp ở Tây Hải”.

Ta là Trầm Diệp. Là biểu ca của muội. Muội là A Lan Nhược. Tương Lý A Lan Nhược.

Nhị hoàng tử ôm nàng, đứng trên không trung, gật đầu chào Thượng Quân, nở một nụ cười đầy khách khí: “Tây Hải của chúng ta khi muốn giáo dưỡng ra những bậc hảo hãn, cũng thường thách thức vứt họ ra ngoài để rèn luyện, chắc Thượng Quân có lòng muốn tôi luyện nhị công chúa nên mới lệnh cho nàng vào trong xà trận này để tu luyện chăng, có điều đứa trẻ này Tô mỗ vừa nhìn đã thấy quý mến, ngày hôm nay đã nhận nàng làm đồ đệ, bèn muốn giữ lại ở bên mình để giáo dưỡng, không biết Thượng Quân có chịu ban cho Tô mỗ chút ân tình này không?”.

Những lời này được nói ra một cách rất thể diện lại rất chọc ngoáy, thần sắc của Thượng Quân rất phức tạp, nhưng cuối cùng cũng đã chấp thuận.

Chàng thấy nhị hoàng tử vỗ về trán nàng, khẽ nói: “Từ nay về sau ngươi sẽ không phải ở đây nữa, đi theo ta, ngươi có vui không?”. Nàng khẽ gật đầu, khóe môi non nớt cong lên, nở một nụ cười, cách nàng cười vẫn giống như chàng đã dạy nàng khi còn nhỏ. Chàng nghĩ nàng quả nhiên đã quên chàng rồi, nhưng vẫn còn một vài thứ được lưu giữ trên người nàng. Nhờ trải qua hai mươi năm khổ tu, giờ đây chàng đã đủ mạnh để cứu nàng ra khỏi xà trận, nhưng lúc này chàng vẫn chưa nắm quyền lớn trong tay, nếu cứu nàng ra ngoài cũng vẫn phải trốn tránh. Tây Hải nhị hoàng tử có thể bảo vệ nàng tốt hơn chàng.

Trong khoảnh khắc tiếng nhạc đuổi rắn dừng lại, một con mãng xà bỗng nhe nanh nhọn lao về phía đám mây, cây kim nhỏ chuyên dùng để đối phó với những con mãng xà này bay ra từ đầu ngón tay chàng. Con mãng xà hung tợn khựng lại, rơi mạnh xuống đất. Chàng lặng lẽ thu tay vào trong tay áo, nhân lúc quần thần trầm trồ kinh ngạc, chàng lặng lẽ rời xa suối Giải Ưu. Chàng nghĩ khi nàng chào đời, vận mệnh của nàng không được may mắn, lúc này cũng coi như đã gặp được vận may, đây là một chuyện tốt đẹp.

Hai mươi năm tu luyện gian khổ, trong những ngày tháng vô vị trong núi, chàng thường hay nhớ tới nàng. Chàng là Thần Quan Trưởng do trời định, mẫu thân coi việc hoài thai chàng là một vinh quang, chưa từng coi chàng là con của mình, sự tôn kính dành cho chàng còn lớn hơn cả tình yêu thương của một người mẹ, chàng chưa từng được nếm trải tư vị của tình thân. Chàng từng nói với nàng, ta là người thân duy nhất của muội, nhưng thực ra nàng cũng là người thân duy nhất của chàng. Chàng đã cứu nàng trở về từ ranh giới giữa sự sống và cái chết, đặt tên cho nàng, dành cho nàng tất cả mọi tình thân. Chàng có chấp niệm, chấp niệm của chàng là nàng. Nhưng giờ đây, nàng đã có nơi nương tựa tốt hơn. Chàng nghĩ, nếu muốn chấp niệm không thành ma chướng, đã từ bỏ phải từ bỏ một cách triệt để, như vậy mới có thể bình tâm được.

Mười năm, chàng vẫn thường nhớ tới nàng, nhưng chưa từng nhắc tới nàng dù chỉ một câu, chưa từng lại gần nàng dù chỉ một chút.

Trong thời gian chàng trường tu, Khuynh Họa phu nhân đã sinh hạ Thường Đệ, chắc lúc đó, lòng căm hận của bà đối với Tương Lý Khuyết đã giảm đi không ít, so với A Lan Nhược, Thường Đệ được làm công chúa một cách thuận lợi. Mỗi lần vào cung, Quất Nặc và Thường Đệ thường thích bám lấy chàng, hai tỷ muội cũng thi thoảng nhắc tới A Lan Nhược trước mặt chàng. Quất Nặc bản tính trầm lặng, thường không thích nói nhiều về chủ đề này, mặc dù vậy nhưng cũng đã quên mất lòng tốt của mình đối với A Lan Nhược khi còn nhỏ. Còn Thường Đệ, lần nào cũng nói một cách hăng say nhất, khiến chàng rất khó chịu.

Một hôm Thường Đệ lại nhắc tới nàng: “Hôm nay muội nghe một lão cung nữ nói, khi A Lan Nhược ở trong xà trận đều phải ăn thịt chuột, uống máu chuột để sống, mọi người có thể tưởng tượng được không, uống nhiều máu chuột như vậy, máu chảy trong người của nó, chắc phần lớn đều biến thành máu chuột rồi nhỉ, chậc chậc… Bẩn thỉu thấp hèn như vậy, không hiểu sao phụ quân lại đồng ý cho nó quay trở lại tộc, còn ngồi lên ngôi vị công chúa nữa chứ, nó đâu có xứng đáng! Trầm Diệp biểu ca, huynh nói xem muội nói có đúng không?”.

Chàng nghĩ nếu nàng đã uống máu chuột, trong người liền có máu chuột, vậy nàng cũng từng uống máu của chàng, liệu có phải giờ đây trong người nàng cũng đang chảy dòng máu của chàng không? Điều này khiến chàng có chút thất thần.

Thường Đệ còn thúc giục chàng: “Biểu ca, huynh nói xem ban nãy muội nói có đúng không?”. Chàng mất hết kiên nhẫn, lạnh lùng nói: “Nếu phải bàn về huyết thống, ngươi có biết huyết thống duy nhất Kỳ Nam thần cung coi thường là gì không”. Khuôn mặt của Thường Đệ bỗng trở nên trắng bệch. Kỳ Nam thần cung rất coi thường huyết thống không trong sạch, nếu xét theo lý lẽ này, máu của Thường Đệ và A Lan Nhược không có gì khác biệt. Nhưng A Lan Nhược là do chàng nuôi dưỡng lớn lên, cũng đã từng uống máu của chàng, dù kế thừa dòng máu không trong sạch của mẫu thân nàng, vậy thì đã sao.

Tức Trạch mấy năm gần đây hầu như đã không quản việc nữa, dựng một trúc viên tịnh xá[3] ở Kỳ Nam hậu sơn, nói rằng mình lâm trọng bệnh, cần chuyển tới đó để tĩnh dưỡng. Ban đầu, chàng đã tin ngay, tới tịnh xá thăm ngài ấy, nhưng lại thấy Tức Trạch xắn quần, đi chân trần bắt cá dưới sông một cách rất hăng hái, khuôn mặt còn tươi tỉnh mà tràn đầy sinh lực hơn chàng.

[3] Tịnh xá: ban đầu chỉ nơi dùng để dạy học của nhà Nho, sau chỉ nơi dành để tu luyện của người xuất gia.

Tức Trạch giả bộ ho hắng vài tiếng, nói với vẻ chân thành: “Bản quân quả thực đã bị nhiễm bệnh, nhưng chỉ vì bản quân là người kiên cường, không thèm xuất hiện trong bộ dạng đau ốm mệt mỏi, ngươi thấy bản quân giống như một người không mắc bệnh, không đau đớn nhưng thực ra bản quân bệnh sắp chết rồi”.

Chàng nói với Tức Trạch thần quân – người sắp chết bệnh rằng: “Rất nhiều đồng liêu hẹn nhau mấy ngày tới sẽ đến đây thăm ngài, ngài kiên cường như vậy nhất định sẽ khiến họ cảm động”. Nụ cười trên khuôn mặt Tức Trạch hơi cứng đờ.

Nghe nói sau đó mỗi khi có thần quan tới tịnh xá thăm Tức Trạch, đều nhìn thấy Tức Trạch bệnh tật nằm trên giường trong bộ dạng tiều tụy.

Tức Trạch đã lâm trọng bệnh, mọi việc của thần cung đương nhiên đều dồn lên vai chàng. Năm đó, Thái Thượng Lão Quân trên Cửu Trùng Thiên mở Đạo hội dùng đạo pháp để bàn luận thiên cơ ở Bảo Nguyệt Quang Uyển trên Tam Thập Nhị Thiên, chàng đi dự hội thay cho Tức Trạch. Đạo hội kéo dài suốt chín chín tám mươi mốt ngày, dài lê thê lại vô vị, nhưng vì lần Đạo hội này đã mời rất nhiều chư tiên, vô cùng náo nhiệt. Do đó, sau khi Đạo hội kết thúc, nhân lúc đông vui, Bách Quả Tiên đã mở tiệc bách quả khoản đãi chư vị thần tiên, lại kéo dài thêm chín ngày nữa.

Đợi đến khi chàng quay trở về Phạn Âm Cốc, không ngờ rằng, chàng lại nghe thấy tiếng kèn hỷ.

A Lan Nhược đã xuất giá. Nàng được gả cho Tức Trạch.

Đó là một ngày trời trở gió, Kỳ Nam thần cung lơ lửng giữa không trung, biến hóa ra một chiếc cầu thang bằng mây vươn dài chạm đất. Trong tiếng tiên nhạc du dương, Tức Trạch thần quân trong bộ lễ phục bước xuống cầu thang, dắt tân nương áo đỏ của ngài ra từ trong chiếc kiệu đưa dâu, nắm lấy tay nàng, bước từng bước về phía cửa cung uy nghiêm. Chàng đứng phía sau một cây bồ đề không rễ bên cạnh cửa cung, thấy nàng khoác một chiếc áo choàng cùng màu ở bên ngoài hỷ phục, chiếc mũ tránh gió che lấp phần lớn khuôn mặt, chỉ để lộ đôi môi đỏ hồng cùng chiếc cằm nhỏ xinh trắng ngần. Chàng nhíu mày, lấy ra một chiếc lông màu đen trong tay áo, đặt vào lòng bàn tay, thổi khẽ, một trận cuồng phong bỗng nổi lên trên thang mây, lật tung mũ trùm đầu của nàng. Nàng dùng tay giữ mái tóc đang bay, ngẩng đầu lên, cặp lông mày thanh tú hơi nhướng lên. Đã lâu rồi chàng không gặp nàng. Trong trang phục như thế này, trông nàng thật xinh đẹp.

Chàng thất thần trong giây lát, đêm hôm đó hoa tứ quý rơi rụng lả tả như tuyết trắng, dưới cây hoa, chàng ôm nàng khi đó vẫn còn là một đứa trẻ trong lòng, khẽ hứa với nàng: “Ta là người thân duy nhất của muội, A Lan Nhược. Bọn họ không cần muội, muội còn có ta”.

Nhưng từ lần quay người bước đi trong đêm trăng của mười năm về trước, lời thề đã hứa đã không còn là lời thề nữa. Càng ngày nàng sẽ càng có nhiều người thân, sư phụ của nàng, phu quân của nàng, sau này còn có con cái của nàng nữa. Chàng nhìn nàng lần cuối cùng, trận cuồng phong đã dần biến mất, Tức Trạch đội lại mũ trùm đầu cho nàng, khóe môi đỏ thắm của nàng cong lên, nở một nụ cười bông đùa. Đó không phải là nụ cười mà chàng đã từng dạy nàng, nhưng chàng biết một người có điệu cười đó, Nhị hoàng tử của Tây Hải, Tô Mạch Diệp.

Thời gian như dòng nước chảy, trên người nàng không còn chút vết tích nào mà chàng từng lưu lại nữa, giống như chàng chưa từng xuất hiện trong cuộc đời nàng vậy. Tức Trạch dắt tay nàng bước vào trong thần cung, cánh cửa thần cung nặng nề khép lại. Chiếc lông vũ màu đen nhẹ tênh bay trở lại trong tay chàng. Mười năm trước chàng đã để mất nàng, đã mất đi rồi, còn nói gì tới chuyện mất mát thêm một lần nữa, chỉ là lần đi lướt qua nhau này, không hiểu sao, lại khiến chàng cảm thấy đau khổ nhiều hơn lần trước.

Hơn hai mươi năm sau, Tức Trạch thoái vị, chàng kế thừa ngôi vị Thần Quan Trưởng, trở thành vị Thần Quan Trưởng trẻ tuổi nhất trong lịch sử của Phạn Âm Cốc. Tức Trạch làm ra vẻ bệnh nặng, không còn sống thêm được bao nhiêu ngày nữa, tránh về Kỳ Nam hậu sơn, chàng đích thân tiễn ngài ấy vào trúc viên, Tức Trạch còn trêu đùa chàng: “Vô cùng điển trai, vô cùng thông minh, nhưng suốt ngày nghiêm mặt, đương nhiên ngươi làm mặt lạnh sẽ tuấn tú hơn khi cười, nhưng tới đưa tiễn ta, tốt nhất vẫn nên cười một chút, ta sẽ cảm thấy thoải mái hơn”.

Chàng đưa mắt nhìn khắp trúc viên, lại không hề nhìn thấy vật dụng nào của nữ tử, cuối cùng không kìm nén được hỏi: “Thê tử của ngài đâu?”. Tức Trạch rũ tung một tấm chăn có phần ẩm ướt đem phơi dưới nắng: “Một tiểu cô nương, tuổi còn rất trẻ lại ẩn cư cùng ta ở đây thì có ý nghĩa gì, đương nhiên nên ở trong phủ của mình bên ngoài núi”.

Chàng đưa mắt nhìn cảnh vật hoang dã trong núi, lạnh lùng nói: “Ngài đối với nàng thật tốt”.


Tức Trạch mỉm cười, đắc ý tán đồng: “Nàng quả thực rất có phúc khi gặp được một người tốt như ta”.

Người đời đồn rằng vị Thần Quan Trưởng đời này có dung mạo tuấn tú vô song nhưng lại có tính cách lạnh lùng kiêu ngạo khiến người khác khó mà gần gũi. Hành động của chàng cũng giống như lời đồn, từ sau khi chàng tiếp quản Kỳ Nam cung, cách hành sự của thần cung ngày càng kín đáo, nếu không phải là đại lễ, rất khó thấy bóng dáng của Thần Quan Trưởng.

Năm thứ hai sau khi chàng kế vị, Khuynh Họa phu nhân xin Thượng Quân ban hôn, chọn chàng làm phò mã của Quất Nặc, năm đó căn cơ của chàng còn chưa vững, rất khó chối từ, nhưng lấy cớ rằng còn đang ở độ tuổi vị thành niên, cần trường tu trong thanh tịnh, chỉ tiến hành lễ đính hôn, thời điểm kết hôn thì được kéo dài vô tận. Sau lễ đính hôn, chàng lại càng ở nhiều trong thần cung, tập viết chữ, luyện kiếm, trồng cây chơi cờ, chỉ làm bạn với ngọn đèn và kinh thư. Trong khu vườn nơi chàng ở, năm A Lan Nhược thành hôn, chàng đã trồng một vườn hoa tứ quý, không dùng nước suối trời để tưới, do đó cây mọc rất chậm, trong suốt gần hai mươi năm, khi có chuyện xảy đến với Quất Nặc, cây mới đơm hoa kết trái lần đầu tiên.

Mặc dù hành động của Quất Nặc đã làm chàng vô cùng mất thể diện, nhưng Quất Nặc là huyết mạch duy nhất của Tương Lý Ân, không thể không cứu. Chàng cũng biết nếu cứu Quất Nặc sẽ dẫn tới một thế cục bế tắc, Thượng Quân chắc chắn sẽ nhân cơ hội này mà đuổi chàng ra khỏi thần cung. Nhưng có một vài việc, tưởng chừng như một thế cục chết, nếu nắm vững được thời cơ, lại là một con đường sống đầy bất ngờ.

Tương Lý Khuyết là một vị quân vương ngang ngược độc đoán, từ ngày kế vị đã dòm ngó thần cung như hổ đói rình mồi, có ý muốn thao túng thần cung trong tay mình. Tức Trạch đã nhìn rõ mọi chuyện, nhưng lại là một người ngại phiền phức, do đó khi Tương Lý Khuyết vừa lên ngôi, Tức Trạch liền hoan hỷ vứt hết mọi việc cho Thần Quan Trưởng kế nhiệm, người vẫn còn là một đứa trẻ là chàng, ung dung tự tại lui về ở ẩn trên Kỳ Nam hậu sơn. Thế lực trong thần cung phức tạp hỗn loạn, lại có không ít người vô cùng cố chấp, đồng thời chưa phát hiện ra dã tâm của Tương Lý Khuyết, mấy năm gần đây mặc dù chàng đã ngồi trên ngôi vị Thần Quan Trưởng, nhưng đôi khi hành sự vẫn bị gây cản trở, khó tránh khỏi khó khăn. Tuy nhiên, một khi thần cung mất đi Thần Quan Trưởng, với cá tính cố chấp của Tương Lý Khuyết, hắn sẽ không phải cố gắng kiềm chế dã tâm của mình đối với thần cung nữa. Nếu không may là mấy năm tới Tương Lý Khuyết hành sự cẩn trọng, chàng cũng có cách khiến hắn không còn kìm chế nữa.

Nội bộ Kỳ Nam thần cung dù có tranh đấu với nhau như thế nào, chung quy vẫn không thể chấp nhận thế lực bên ngoài khinh nhờn họ. Tương Lý Khuyết hạ thủ với thần cung sớm ngày nào, thì các thế lực trong thần cung sẽ có thể vứt bỏ khúc mắc, cùng hợp lực chống lại thế lực bên ngoài sớm ngày đó. Chàng là Thần Quan Trưởng do trời định, cho dù Tương Lý Khuyết phế truất chàng, một khi vương cung và thần cung thật sự đối đầu, người trấn thủ Kỳ Nam thần cung chỉ có thể là chàng, cho dù là những lão thần quan cứng đầu kia, ngoài việc nghênh đón chàng về cũng chẳng còn cách nào khác. Việc này chính là lùi để tiến.

Chàng ngồi trên ngôi vị cao như vậy, đại Thần Quan Trưởng trẻ tuổi mà thần bí, hưởng sự tôn kính của người đời, cuộc sống lại giống như một mảnh đất hoang, chỉ sừng sững một tòa Kỳ Nam thần cung, có thể khi gió Đông thổi tung cát bụi, vẫn có thể nhìn thấy vài hạt giống của cây hoa tứ quý, nhưng cũng chỉ là những hạt giống không thể nở hoa mà thôi.

Mà rốt cuộc là nhân duyên gì lại khiến chàng gặp lại nàng trên đài hành hình Quất Nặc. Toàn thân nàng mặc đồ đỏ, giang rộng đôi cánh trắng muốt, đứng giữa lưng chừng không, hơi cúi đầu xuống nhìn chàng, nở một nụ cười trên khóe môi: “Huynh còn nhớ chứ, mặc dù không cùng huynh lớn lên như Quất Nặc, ta cũng là muội muội của huynh”.

A Lan Nhược, đây là tên của muội, sau này ta nói ba chữ này, tức là đang gọi tên muội.

“Nghe nói máu của thần quan có thể tịnh hóa những thứ ô uế, hôm nay nhờ ân trạch của thần quan đại nhân, không biết máu của ta liệu có sạch sẽ hơn nhiều không?”.

Muội còn nhỏ như vậy, khi ta quay trở lại, muội chắc chắn đã quên ta rồi.

“Chàng là do ta cứu, thì chàng là của ta”.

Ta sẽ quay trở lại, đợi khi ta lên làm Thần Quan Trưởng, sẽ có thể cứu muội ra ngoài.

“Ngươi xem, thời thế bây giờ, đang là như thế nào?”.

Ta là người thân duy nhất của muội, bọn họ không cần muội, muội còn có ta.

Làm sao có thể quên được. A Lan Nhược.

Nhưng chàng quả thực đã rời xa nàng quá lâu, không biết từ bao giờ, nàng cũng đã học được cách giam cầm và chiếm đoạt.

Trong giấc mơ sâu thẳm, sâu thẳm nhất, chàng thực ra đã từng mơ thấy nàng, mơ thấy năm đó chính chàng đã cứu nàng ra khỏi xà trận, còn nàng giang cánh trong vòng tay của chàng. Không phải chàng chưa từng nghĩ rằng có một ngày mình sẽ bị sa cơ, nhưng trên thế gian này, nếu nói có một người duy nhất mà chàng không muốn để người đó nhìn thấy chàng sa cơ, đó chỉ có thể là A Lan Nhược. Nhưng lúc này, chàng bị giam trong phủ của nàng, trong một khoảng trời nhỏ bé, giống như một tù nhân.

Không ai thích bị cầm tù.

Rồi sau đó nàng đã viết thư cho chàng, giả tên người khác để đùa cợt chàng.

Chàng là một người luôn biết cách che giấu cảm xúc, nếu người đó không phải là A Lan Nhược, chàng tuyệt đối sẽ không phẫn nộ đến như vậy.

Ánh nến lay lắt trong thư phòng, nàng biếng nhác ngồi dựa lưng trên chiếc giường thấp: “Huynh chưa từng nghĩ ta không hề căm ghét huynh như huynh căm ghét ta, có thể ta còn rất thích huynh, làm những việc đó thực ra là muốn huynh vui”. Nếu muốn chàng vui, sao phải mượn danh nghĩa của người khác, tại sao không đề tên nàng dưới mỗi bức thư? Chàng quả thực vô cùng tức giận, lần đầu tiên trong đời nói năng không suy nghĩ. Còn nàng lại bật cười: “Những lời ta nói có thể là thật, có thể là giả, có thể ta thật lòng thích huynh, có thể ta thật lòng muốn đùa giỡn với huynh”.

Khi nàng nói thật lòng thích chàng, nàng khẽ nghiêng đầu, trong điệu bộ có một nét ngây thơ mà đã lâu chàng chưa được nhìn thấy.

Trước khi nàng thốt lên những chữ này, những hạt giống hoa tứ quý không thể nảy mầm được chôn giấu trong sâu thẳm trái tim chàng, chàng chưa từng nghĩ có thể đó là yêu thích. Nhưng khi nàng nói ra những lời như vậy, lại giống như mở ra một chiếc hộp đã bị yểm chú đóng kín, những thứ được cất giấu trong đó đồng loạt lao ra ngoài.

Tại sao phải trường tu, tại sao phải cứu nàng, tại sao trong mộng cảnh sâu thẳm nhất bí mật nhất, lại chỉ xuất hiện duy nhất hình ảnh của nàng.

Trong thạch trận giam giữ khuyển nhân, chàng vào trận cứu nàng gần như là do bản năng, chàng ôm nàng lăn ra ngoài kết giới, nàng khẽ thì thầm bên tai chàng: “Huynh thật sự thích ta, Trầm Diệp”. Chàng ôm nàng trong lòng, thấy ánh mắt nàng long lanh, giống như trong đêm trăng hồi nàng còn nhỏ, chàng dạy nàng đọc tên của mình: “Diệp… Lan…”. Nàng bập bẹ đọc. Hai chữ bập bẹ đó có thể lại chính là một điềm báo.

Chàng đã được định là sẽ yêu nàng. Chàng thực ra chưa từng thôi khát khao nàng.

03.

Hai năm sau đó là một quãng thời gian tươi đẹp. Chàng trồng vài cây tứ quý trong Mạnh Xuân viện, mùa hè năm đó đã có một nửa số cây khai hoa kết trái. A Lan Nhược đứng dưới gốc cây như trầm tư suy nghĩ điều gì: “Trong xà trận cũng có cây tứ quý, hồi nhỏ muội luôn ăn thứ quả này, nghe nói trước đây trong xà trận không có loại cây này, nhưng chỉ trong một đêm, cây đã này mẩm, mọc lên rồi đơm hoa kết trái, chắc là ông trời đã thương xót muội chăng”. Những chuyện đã xảy ra, vì nàng bị khí độc trong xà trận giam hãm, quả nhiên không còn nhớ lại được nữa. Vậy cũng không sao cả, chàng nghĩ, như bây giờ đã rất tốt rồi.

Đôi khi, vào những đêm trăng sáng, nàng mang giường mây ra ngồi hóng mát dưới gốc cây tứ quý. Đêm hôm đó, chàng từ phòng chế tác gương đi ra, từ xa chỉ nhìn thấy ánh trăng sáng vằng vặc, còn nàng đang nằm trên giường mây, dáng vẻ như đã ngủ say, tán cây tứ quý to lớn tỏa bóng râm trên đầu nàng, một tập thơ rớt xuống từ tay nàng.

Chàng thích được nhìn ngắm dáng vẻ nàng khi ngủ say, cho dù trong lòng có bao nhiêu điều phiền muộn, nhìn gương mặt nàng khi ngủ cũng có thể giúp chàng lập tức quên đi tất cả. Nàng vẫn ở bên chàng.

Những đóa hoa màu trắng rơi trên chiếc giường mây, chàng cúi người sát bên nàng, lặng ngắm hồi lâu, nhặt một đóa cài lên tóc mai của nàng, ngón tay khẽ vuốt ve tóc mai nàng rồi dừng lại, lướt qua hàng lông mày, sống mũi, khóe môi của nàng. Lần đầu tiên chàng cài hoa cho nàng cũng là dưới gốc cây tứ quý, hành động thân mật này giống như đang thực hiện một lời thề, muội còn có ta, A Lan Nhược, có ta là đã đủ rồi. Hồi lâu, chàng cúi xuống, hôn lên trán nàng. Nàng không hề tỉnh dậy.

Nhưng vận mệnh lại bắt đầu sai sót từ đó.

Khuynh Họa phu nhân mượn cớ tới kiểm tra tiến độ chế tác gương, tới phủ của A Lan Nhược nói chuyện với chàng. Trong phòng chế tác gương, khuôn mặt được trang điểm giống như một chiếc mặt nạ của Khuynh Họa phu nhân hiện lên trong những mảnh gương hai mặt vỡ vụn, cất giọng nhàn nhạt, nói: “Tương Lý Khuyết còn tại vị ngày nào thì ngày đó ngươi không thể quay lại Kỳ Nam thần cung, ta không biết ngươi có diệu kế gì, nhưng biết ngươi không muốn bị giam giữ ở đây. Từ trước tới giờ ngươi luôn kính trọng phu quân đã khuất của ta, mà tấm lòng muốn báo thù cho phu quân của ta cũng chưa một ngày phai nhạt. Tại sao ta và ngươi không cùng kết hợp lại, đôi bên cùng có lợi, nếu Quất Nặc kế vị, ta thay mặt nó thề với ngươi rằng, vương cung sẽ vĩnh viễn không mạo phạm tới thần cung”.

Theo kế sách trước đây của chàng, nếu lúc này chàng còn tự do, đã sớm có thể ép Tương Lý Khuyết phải động can qua với thần cung rồi. Nhưng hiện nay Tương Lý Khuyết quả thực đã không còn lỗ mạng như trước đây, vẫn áp dụng cách áp chế dần dần nuốt gọn thần cung. Nhìn bề ngoài, ở thần cung dường như vô sự, nhưng chắc chắn các thần quan trong đó đã bị Tương Lý Khuyết ngấm ngầm thay đổi rất nhiều rồi. Gần hai năm ẩn cư, không phải chàng không hề biết chuyện gì đang xảy ra bên ngoài. Chàng luôn đợi Khuynh Họa tới tìm chàng.

Khi chàng còn nhỏ, Tức Trạch thường giáo huấn chàng rằng, Kỳ Nam thần cung chúng ta, khi chưa đến mức vạn bất đắc dĩ, tuyệt đối không vướng vào vòng tranh chấp phàm trần, những việc đó sẽ làm mất phong cách của chúng ta. Chắc chắn Tức Trạch sớm đã dự liệu được rằng cuối cùng sẽ có một ngày bọn họ bị cuốn vào những chuyện mất phong cách như vậy, ngài ấy không muốn làm việc này, do đó mới dồn gánh nặng lên vai chàng. Nếu đã có sự hỗ trợ của Khuynh Họa, Tương Lý Khuyết chắc chắn sẽ chết. Cho dù mục đích của Khuynh Họa là đưa Quất Nặc lên kế vị, nhưng Quất Nặc kế vị hay thái tử Tương Lý Hạ kế vị thì có can hệ gì tới chàng? Kỳ Nam thần cung chỉ cần cái chết của Tương Lý Khuyết mà thôi.

Khuynh Họa ba lần tới phủ, tỏ rõ thành ý, chàng bấy giờ mới đặt mưu kế vào trong một túi gấm, giao cho bà ta. Từ trước tới giờ, hạ độc vốn không phải là diệu kế gì, nhưng lại là kế sách phù hợp với Khuynh Họa nhất. Tương Lý Khuyết bản tính đa nghi, do đó trước khi tiến hành bước cuối cùng, cần phải đi rất nhiều đường vòng. Mỗi chặng đường cần phải đi như thế nào, cần né tránh điều gì, có thể lôi kéo ai trong triều đình, có thể bắt đầu lôi kéo từ ai, có một số việc thành công rồi thì thế nào, không thành công thì ra sao, xếp lại thành một tệp giấy dày, chuẩn xác giống như que tính[4]. Tương Lý Khuyết mặc dù sủng ái Khuynh Họa, nhưng lại giam cầm bà ta giống như chim trong lồng, trước đây bà ta không hiểu nhiều về chuyện triều chính, chính chàng là người đã đưa bà ta bước vào con đường tranh giành quyền lực.

[4] Que tính: Theo sử sách ghi lại, que tính được làm từ tre, trúc, gỗ, ngà voi, xương động vật, kim loại… với độ dài ngắn to bé giống nhau, thông thường có độ dài từ 13-14cm, tộng từ 0,2-0,3cm, thường được bó khoảng hơn hai trăm bảy mươi que thành một bó, bó trong túi vải, đeo bên mình, khi cần sẽ mang ra tính toán.

Hai đêm trước ngày Tương Lý Khuyết băng hà, Khuynh Họa lại một lần nữa tới phủ. Trong phòng chế tác gương, chàng đang cầm bút vẽ khung gương để sai người làm một cái khuôn theo bản vẽ đó. Mặc dù là cô mẫu của chàng, Khuynh Họa lại vẫn kính trọng gọi chàng là đại nhân, bàn luận với chàng về tình hình gần đây của Tương Lý Khuyết, đồng thời hứa hẹn rằng sau khi sự thành sẽ lập tức đón chàng về Kỳ Nam cung. Chàng cầm bút, chăm chú nhìn vào trang giấy, nói: “Nếu việc này thành, ta muốn có A Lan Nhược”. Khuynh Họa bỗng ngẩng đầu lên. Chàng tỏ thái độ lạnh lùng: “Tất cả những thứ nàng ta bắt ta chịu đựng, ta đương nhiên phải ‘đáp trả’ cho nàng ta không thiếu một phân”. Chàng ngước mắt nhìn Khuynh Họa đang nhíu mày: “Hay là nàng ta chung quy vẫn là cốt nhục của Quân Hậu, Quân Hậu thấy thương xót?”. Khuynh Họa trầm mặc giây lát, nói: “Ngày sự thành, A Lan Nhược sẽ là của đại nhân”.

Chàng sẽ không lấy Quất Nặc, mà sức mạnh của Thần cung nếu đã không thuộc về Quất Nặc, Khuynh Họa cũng không để nó thuộc về A Lan Nhược. Muốn đưa nàng trở về thần cung an toàn, đây là cái cớ tốt nhất.

Nhưng cuộc đời này của chàng, sai lầm lớn nhất là đã đánh giá thấp Khuynh Họa.

Đêm mười sáu tháng bảy, Tương Lý Khuyết băng hà. Ngày mười chín tháng bảy, chàng được vội vã đón về thần cung, chủ trì đại tang cho Tương Lý Khuyết. Mà chưa qua ba ngày, lại có một thông tin được truyền vào thần cung, A Lan Nhược giết vua, đã bị bắt giam. Lúc đó, trên đại điện của thần cung, chiếc bình tế lễ màu đen trên tay chàng rơi xuống nền nhà, một tiếng “xoảng” giòn giã vang lên. Khuynh Họa không thực hiện lời hứa của bà ta. Bây giờ bà ta suy tính mọi chuyện chu toàn trên cả dự liệu của chàng.

Chàng có tình cảm thật sự hay giả dối với A Lan Nhược, Khuynh Họa sao có thể biết được. Chiêu này của bà ta, chẳng qua chỉ muốn đề phòng một ngày nào đó, ngộ nhỡ chàng nảy sinh chân tình với A Lan Nhược, sẽ giúp A Lan Nhược uy hiếp vương vị của Quất Nặc. Bà ta phải ép A Lan Nhược vào chỗ chết, bà ta chưa từng coi mình là mẫu thân của nàng. Sao chàng lại có thể không nghĩ tới điều này.

Sau khi A Lan Nhược bị bắt giam, chàng cũng bắt đầu bị giám sát một cách chặt chẽ.

Khuynh Họa đã tới thần cung một lần, nói rất dài trước mặt chàng, dường như xuất phát từ nỗi khổ tâm của một người mẹ: “Ngươi hận A Lan Nhược như vậy, bản cung thấy thế lại cảm thấy đau lòng, nó đã giam cầm ngươi gây ra một sai lầm lớn, nhưng chung quy vẫn là cốt nhục của bản cung, nếu nó phải chịu khổ trong một thời gian dài, bản cung không nỡ nhẫn tâm. Hãy nể mặt bản cung, dù nó đã phạm sai lầm tày đình, chết cũng không trả được hết mối hận cho ngươi sao? Nếu ngươi cho bản cung ân tình này, sau này có việc gì cần tới bản cung, chỉ cần nói một tiếng là được”. Mặc dù nói vậy, nhưng ánh mắt dò xét thần sắc chàng của bà ta lại khó che giấu được vẻ sắc bén.

Chàng nhíu mày, làm ra vẻ quả thực rất không hài lòng, một lát sau, mới chậm rãi nói: “Không biết Quân Hậu có biết một nữ tiên sinh tên là Văn Điềm ở trong tông học hay không, nếu cảm thấy việc này không phải với ta, Quân Hậu có thể nhận Văn Điềm làm nghĩa nữ được không? Khi ta sa cơ, nàng đối với ta không bạc, ta và nàng tâm đầu ý hợp, có ý muốn cưới nàng làm vợ”. Khuynh Họa chậm rãi nở một nụ cười: “Có gì mà không được chứ”. Trong nụ cười đó, cuối cùng đã có vài phần nhẹ nhõm.

Khuynh Họa cho phép Văn Điềm tới thần cung làm bạn với chàng, lần gặp gỡ này, khuôn mặt luôn trầm lặng của nữ tử lại không hề xuất hiện một nụ cười, lúc không có người, khinh bỉ nói với chàng: “Ta biết ngươi lấy ta là vì muốn báo ơn, ngươi có biết người có ơn lớn nhất với ngươi lại là nhị công chúa điện hạ không? Công chúa đối tốt với ngươi, ngay cả ta cũng nhận thấy, lần này điện hạ phải chịu hàm oan, ngươi lại khoanh tay ngồi nhìn. Quả thực ta đã từng thích ngươi, nhưng hôm nay mới phát hiện ra rằng, ngươi không xứng đáng với tình cảm của ta”.

Chàng không hề giải thích, những lúc như thế này, ngoài bản thân mình ra, chàng không tin bất kỳ người nào khác. Nếu những lời nói đó của Văn Điềm xuất phát từ tấm lòng, chàng rất khâm phục. Nếu là do Khuynh Họa lệnh cho nàng ta nói ra những lời đó để thăm dò chàng, chàng lại càng phải cẩn trọng.

Khuynh Họa cuối cùng cũng tin chàng, dần dần nới lỏng sự giám sát đối với chàng, đặc biệt là khi có Văn Điềm ở bên cạnh. Ngày hôm đó, chàng dẫn theo Văn Điềm đi lấy nước suối trời ở hậu sơn, kín đáo tách riêng ra, rồi đi tới động Thanh Y một chuyến. Động Thanh Y là nơi linh khí hội tụ mạnh mẽ nhất ở núi Kỳ Nam. Hai năm trở lại đây, Tức Trạch luôn bế quan trong động này.

Mũi tên mang theo một phong thư bay qua kết giới bên ngoài động, trong thư kể về việc A Lan Nhược bị bắt giam.

Năm xưa khi Tức Trạch bế quan, đã dẫn theo hai vị thần quan vào trong động để hộ pháp, chàng mặc dù tin tưởng Tức Trạch, nhưng không tin tưởng vào hai vị thần quan hộ pháp kia, do đó bức thư đã được viết theo bút tích của người khác. Lần này chỉ mong Tức Trạch có thể tận mắt đọc được bức thư này, ra khỏi động đi cứu A Lan Nhược.

Lúc cấp bách, càng cần phải bình tĩnh và suy nghĩ chu toàn. Nếu Tức Trạch cứu được A Lan Nhược ra ngoài, vài ba tháng sau, chàng sẽ lặng lẽ rời khỏi thần cung, trùng phùng với nàng. Nếu Tức Trạch không đọc được bức thư này, chỉ còn một cách duy nhất, đó là chuyển quyền hành án của nàng về thần cung. Lúc đó, mặc dù khả năng chàng giúp nàng bỏ trốn thành công chỉ còn một nửa, hoặc còn ít hơn, nhưng dù sao cũng còn một chút cơ hội.

Khuynh Họa đã dùng mưu với chàng như vậy, nếu có thể vượt qua kiếp nạn này, chàng sẽ không để Khuynh Họa được toại nguyện. Bà ta một lòng muốn A Lan Nhược phải chết, vậy thì cuối cùng sẽ có một ngày, chàng nhất định phải để nàng ngồi lên vị trí Thượng Quân.

Trong cõi trời đất bao la rộng lớn này, chàng chưa từng có người thân, A Lan Nhược cũng không còn người thân nữa, cho dù tất cả mọi người đều bày mưu tính kế hãm hại họ thì đã sao, bọn họ chỉ có nhau, có nhau là đã đủ rồi.


Ngày mùng một tháng tám, A Lan Nhược được cướp khỏi nhà lao. Đó cũng chính là ngày Tương Lý Hạ xuất quân ra trận, khi tin tức được truyền tới, chàng đang ở trên Linh Sơ đài chủ trì lễ chúc phúc cho đại quân xuất chinh. Mấy ngày gần đây quả thực có quá nhiều chuyện đi lệch quỹ đạo, may mà chuyện này cuối cùng đã đi đúng quỹ đạo, chàng đã không đặt nhầm niềm tin vào Tức Trạch. Nhưng sau khi A Lan Nhược được cứu thoát, chàng lại càng bị giám sát chặt chẽ hơn, Khuynh Họa cuối cùng vẫn có chút nghi ngờ chàng. Tuy nhiên, may mà nàng đã được bình an. Nàng bình an là tốt rồi.

Cuộc chiến với bộ tộc Dạ Kiêu thi thoảng cũng có tin từ chiến trường báo về, mặc dù chàng ở trong thần cung, nhưng cũng biết được chút ít. Nhưng trong số chút ít thông tin đó, lại không bao gồm thông tin người chủ soái trận đánh bên sông Tư Hành lúc bấy giờ đã là A Lan Nhược chứ không phải Tương Lý Hạ.

Ngày mùng sáu tháng tám, đại quân bị tộc Dạ Kiêu đẩy lùi về phía nam sông Tư Hành, tổn thất ba vạn quân lính.

Chàng đi dạo trong thần cung, thấy trong khu vườn phủ kín hoa tứ quý, có một vài quả rụng bị chim ăn, để lộ hạt màu nâu, chàng bèn thu những hạt giống đó lại.

Ngày mùng tám tháng tám, A Lan Nhược dùng Bán Nguyệt trận để ngăn chặn quân địch, bộ tộc Dạ Kiêu bị chặn phía ngoài sông, không thể tiến thêm được một bước.

Chàng phát quang được một mảnh đất trống trong vườn, gieo hạt giống lên mảnh đất trống đó, dùng nước suối trời pha một chút nước suối thường để tưới cây, ngày hôm sau, hạt giống đã này mầm thành một cây non xanh tốt.

Ngày mười bốn tháng tám, bộ tộc Dạ Kiêu công phá thành công Bán Nguyệt trận, A Lan Nhược sử dụng Chiêu Hồn trận, trên sông Tư Hành nghiệp hỏa cháy ngút trời.

Chàng vun xới thêm đất cho cây non, mấy ngày nay đám cây non đã mọc thành tán xanh biếc, một cây trong đó còn nở một đóa hoa nhỏ xinh xắn, chàng dùng pháp thuật lưu giữ cho hoa tươi mãi, nghĩ rằng đóa hoa này rất hợp với nàng.

Ngày mười bảy tháng tám, A Lan Nhược tử trận, hồn phách tan thành cát bụi, tan biến trong dòng sông Tư Hành.

Chàng đi đi lại lại trong vườn, hoa tứ quý đã nở kín cành, chàng lấy kéo cắt một vài cành hoa đẹp nhất, cũng muốn giữ lại những cành đó để sau này nàng có thể cầm chơi.

Theo lời đồn đại, Tương Lý Hạ tử trận, A Lan Nhược mang tội chết, Thường Đệ mà Tương Lý Khuyết sinh thời cưng chiều nhất, cũng nghe đồn rằng sau khi hay tin Tương Lý Khuyết qua đời, vì quá đau buồn nên đã phát điên. Một vương thất lớn như vậy, người kế vị lại chỉ còn một mình Quất Nặc. Ngày mười chín tháng tám, Quất Nặc đang bị lưu đày bên ngoài được đón về Vương đô kế vị. Ngày hai mươi tháng tám, Quất Nặc đích thân đến thần cung xin chàng làm lễ cầu phúc, sau khi tế lễ xong đã mời chàng tới hồ sen đi dạo.

Thiếu nữ đơn thuần, luôn giữ vẻ tôn nghiêm cao quý trước đây giờ trên gương mặt lại đầy ắp vẻ từng trải, đưa mắt ra xa nhìn mặt nước giữa hồ sen, hồi lâu mới nói: “Lưu đầy hai năm, tuy chịu một vài gian khổ, nhưng trong hai năm đó, muội dường như mới sống một cuộc sống thật sự, đã hiểu được về một vài người, cũng hiểu được vô số việc. Trong ba chị em muội, thực ra người được giáo dưỡng tốt nhất lại chính là A Lan Nhược, sau khi lớn lên, muội căm ghét muội ấy như vậy chẳng qua chỉ vì muội ấy đã sống một cách thoải mái, không gò ép, khiến muội rất ngưỡng mộ. Khi muội ấy mới được sinh ra, muội còn nhớ, muội đã rất thích muội ấy”. Chàng không biết nàng ta nói những lời đó là có ý gì, cũng không tiếp lời.

Một lát sau, Quất Nặc lại nói: “Có rất nhiều việc mẫu thân không nói rõ với muội, nhưng trong lòng muội thực ra đều hiểu rõ, nói A Lan Nhược giết vua, muội, muội cảm thấy đó không phải là sự thật”. Nàng quay đầu lại nhìn chàng: “Biểu ca, mẫu thân khiến muội cảm thấy có chút đáng sợ”.

Cả đời Khuynh Họa đều vì cô con gái lớn này, hổ dữ còn không ăn thịt con, bà ta lại sẵn sàng dùng máu thịt của những đứa con gái nhỏ để đúc lên vượng tọa của Quất Nặc. Cuối cùng, Quất Nặc lại không hề có nửa phần cảm kích, mà chỉ cảm thấy bà ta đáng sợ, đây chính là báo ứng.

Chàng lạnh lùng đáp lại một câu: “Thứ mà ngươi sợ không phải bà ta, mà chính là quyền lực trong tay bà ta. Giờ ngươi đã là Thượng Quân, mẫu thân của ngươi không nên can thiệp vào việc triều chính quá lâu”.

Ngày hai mươi hai tháng tám là một ngày đẹp trời, ánh nắng không quá gay gắt, thi thoảng có gió nhẹ. Kiểu thời tiết như thế này, thích hợp nhất cho việc đi thăm bạn bè thân hữu. Dường như đã đặc biệt lựa chọn từ trước, ngày hôm đó, Tức Trạch thần quân tới thần cung thăm chàng.

Lúc đó, chàng đang đọc sách trong vườn cây tứ quý, Tức Trạch đi qua nguyệt môn, bước thẳng tới trước mặt chàng, thần sắc có phần phờ phạc lạnh nhạt, bỏ qua màn chào hỏi, ngồi ngay xuống trước mặt chàng, nói: “Bên ngoài núi đã có biết bao biến động, ngươi ẩn thân ở đây, có vẻ rất an nhàn”.

Chàng ngẩng đầu khẽ liếc nhìn Tức Trạch một cái, tay lật giở một trang, lại nhìn vào trang sách: “Ta còn nhớ trước đây ngài thường nói, thần cung là nơi đứng ngoài thế sự, nếu đã như vậy, những thế sự đó có can hệ gì với thần cung chứ?”. Lại lật giở thêm một trang sách, nói: “A Lan Nhược nàng ấy…”.

Tức Trạch cau mày, ngắt lời: “Ta chưa từng biết đến chữ tình, đương nhiên không hiểu được ngươi và A Lan Nhược suy nghĩ thế nào. Nhưng ngươi đã hỏi câu này, có thể thấy trong lòng ngươi vẫn còn nhớ tới nàng, nếu đã như vậy, sao phải ép nàng tới bước ấy. Đương nhiên, chuyện của hai người, ta là người ngoài, không tiện nói điều gì, con đường ngươi lựa chọn, con đường nàng lựa chọn, chẳng qua đều là số mệnh của mỗi người”. Tức Trạch thở dài một tiếng, nói: “Hôm nay ta tới đây, chẳng qua cũng vì thực hiện một tâm nguyện của nàng, nghe nói ngươi còn giữ hai mươi phong thư của A Lan Nhược, trước khi ra đi, nàng đã nhờ ta lấy lại”.

Những câu nói của Tức Trạch giống như đã nói lên điều gì đó, lại giống như chẳng nói gì cả, duy chỉ mấy từ ‘trước khi ra đi’ lại như những cây kim dài đâm vào tai chàng, ngón tay chàng sững lại trên trang sách, chậm rãi nói: “Trước khi ra đi? Ngài đã cứu nàng, nhưng lại để nàng ra đi sao?”.

Tức Trạch sững người lại, dường như chưa hiểu rõ tại sao chàng lại hỏi vậy.

Một linh cảm chẳng lành tràn lên trong tim chàng, chàng bỗng nhiên đứng dậy, bước về phía cửa vườn: “Ngài đã tới đây rồi, chắc sẽ có cách giúp ta sớm rời khỏi nơi đây, cho dù nàng đã đi đâu, chúng ta lập tức xuống núi, vẫn còn có thể đuổi kịp nàng. Ngài không biết nàng thường hay có những suy nghĩ kỳ quặc, nếu để nàng một mình ở bên ngoài, ta không yên tâm…”. Chàng không phải là một người thích nói nhiều, lúc này lại dường như rất sợ bị người khác ngắt lời, rốt cuộc là đang lo sợ điều gì, bản thân chàng hiểu rõ. Chàng và A Lan Nhược, bọn họ chỉ có nhau, số mệnh còn có sai sót, nhưng tuyệt đối không thể để sai sót xảy ra vào lúc này, nếu như ngay cả bước đi này cũng sai sót, nếu như…

Tức Trạch lại dường như bỗng hiểu ra điều gì đó, nói sau lưng chàng: “Không ai nói cho ngươi biết sao, Trầm Diệp, A Lan Nhược đã ra chiến trường, thay…”. Nhưng đã bị chàng lớn tiếng cắt ngang: “Đừng nói nữa”.

Đừng nói nữa.

Như thể nếu Tức Trạch không nói ra, tất cả mọi việc theo ước nguyện của chàng vẫn có thể được như ý nguyện của chàng.

Trong vườn im lặng một cách chết chóc, chỉ có tiếng gió lạnh lật giở từng trang sách, phát ra vài tiếng sột soạt.

Bàn tay chàng chống lên cửa vườn, vầng trán lấm tấm mồ hôi, nhưng vẫn cố giữ một gương mặt bình thản, dường như khi giả vờ như vậy, thì nỗi sợ hãi sâu thẳm nhất trong lòng chàng, nỗi sợ hãi đủ để khiến chàng sụp đổ hoàn toàn sẽ không thể và cũng chưa từng xảy ra.

Nhưng Tức Trạch cuối cùng vẫn chậm rãi lên tiếng ngăn cản bước chân của chàng, nói: “A Lan Nhược, nàng ấy…”, dừng lại một chút: “Bức tấu biểu đó của ngươi, Khuynh Họa đã đưa cho nàng đọc rồi. Trước khi đi tới sông Tư Hành, nàng đã nói cuộc đời này của nàng có thể không hề có nhân duyên, ngươi là do nàng giành lấy, hai năm tình cảm sâu đậm với ngươi cho dù chỉ là hư ảo, nàng cũng chấp nhận, chỉ không ngờ rằng ngươi lại căm hận nàng như vậy, nàng dù có rộng lượng đến mấy thì cuối cùng cũng có phần không thể chịu đựng nổi”. Lại nói: “Nàng nói nàng sẽ quay trở về, ta không biết nàng đi tới sông Tư Hành vốn là muốn tìm tới cái chết”.

Những lời nói hết sức bình tĩnh nhưng chữ nào chữ nấy như một mũi dao sắc bén nhất cắm sâu vào tim chàng, chàng biết Tức Trạch không cố ý nhưng chàng lại muốn những lưỡi dao đó cắm sâu hơn, đau đớn hơn, bởi vì chỉ có như vậy mới khiến chàng cảm thấy bản thân mình còn đang sống, mới còn có hơi sức phản bác lại Tức Trạch: “A Lan Nhược, nàng không thể chết, những lời ngài nói, ta đều không tin”.

Tức Trạch đưa mắt quan sát chàng trong giây lát, khẽ nói: “Ngươi tin cũng được, mà không tin cũng chẳng sao”. Lại thở dài, nói: “Sau khi nàng chết, Khuynh Họa và Quất Nặc mới biết được chuyện này, bởi vì những chuyện có liên quan tới vương quyền, bọn họ che giấu quần thần, nhưng ta không hiểu sao bọn họ lại giấu không cho ngươi biết”.

Chàng không biết bản thân mình đã phát ra tiếng bằng cách nào: “Hãy nói cho ta biết, nàng ở đâu?”.

Tức Trạch im lặng hồi lâu, trong bầu không khí tĩnh lặng vô biên đó, dường như cuối cùng đã hiểu ra, vị thần quan trẻ tuổi trước mặt không muốn tin nhưng lại không thể tin, nhưng so với việc tin tưởng ở chàng, chàng ta còn muốn tin vào mắt mình hơn. Hồi lâu sau, Tức Trạch nói: “Nàng quyết liều mình đánh cược một phen, mở Chiêu Hồn trận, hung trận thời thượng cổ đã nuốt gọn hồn phách của nàng, hóa thành cát bụi tan biết trong dòng sông Tư Hành”.

Bóng dáng của chàng run rẩy, chân loạng choạng, nhưng bước chân lại càng gấp gáp hơn.

Ngày hôm đó, vị Thần Quan Trưởng đại nhân mà đám mật thám của vương cung tự cho rằng bọn họ đã trông chừng một cách nghiêm ngặt, hoàn toàn không có khả năng kháng cự lại bước ra khỏi thần cung bằng lối cửa chính ngay trước mắt bọn họ. Hành động này khiến bọn họ nổi giận, lần lượt hiện thân ngăn cản. Thần Quan Trưởng khuôn mặt tựa Tu La, một tay cầm kiếm, ánh kiếm lướt qua, đám mật thám kia lần lượt đầu lìa khỏi xác. Trong gần một trăm tên mật thám chỉ còn duy nhất một tên sống sót, đó là tên tiểu mật thám thường ngày phản ứng vô cùng chậm chạp, lúc này chưa kịp hiện thân. Đợi khi Thần Quan Trưởng đi xa rồi, tên tiểu mật thám mới gọi bồ câu đưa thư tới, buộc bức thư thông báo việc Thần Quan Trưởng đã rời thần cung vào chân chim bồ câu, chuyển cho mẹ con Khuynh Họa lúc này đang ở bên dòng sông Tư Hành. Hai mẹ con Khuynh Họa ở bên bờ sông Tư Hành là để cầu phúc cho các tướng sĩ đã tử trận theo tục lệ của bộ tộc Tỷ Dực Điểu.

Ngày hai mươi tháng tám, bên bờ sông Nam Tư Hành, một đài cao trăm trượng được dựng lên bên cạnh hài cốt của các tướng sĩ, mây lành được gọi tới điểm xuyết thêm cho đài cao, đội nghi thức cầu phúc của nữ vương được sắp xếp rất lớn. Mấy ngày đi vội vã, chàng cũng vừa hay kịp tới nơi đúng vào ngày hôm đó.

Dòng sông như một dải ngọc, ngoằn ngoèo uốn lượn quanh núi Bình Vận, trong ánh nắng sớm rực rỡ, rừng nhạc âm khẽ ngân vang. Suốt mấy ngày liền không ăn không ngủ vội vã đi gấp, hình ảnh của A Lan Nhược cứ lởn vởn trong đầu óc trống rỗng của chàng, hễ nhắm mắt lại, trong đầu lại đầy ắp hình ảnh của nàng, tươi mới sống động như vậy khiến chàng không thể tin được, chàng không phải là người có thể tự lừa dối bản thân mình. Mấy ngày hôm nay chàng như đi trên mây, suy nghĩ và đau khổ đều rời bỏ chàng, chàng phải đến sông Tư Hành, chàng đến tìm nàng, bởi vì nơi đây là câu trả lời nàng cho chàng, cũng sẽ là kết cục cuối cùng của chàng.

Chàng chưa từng nghĩ tới việc né tránh đội nghi thức của nữ vương, chàng chỉ đi dọc theo bờ sông, tưởng tượng rằng đó chính là đoạn đường mà nàng đã đi trước lúc lâm chung, đoạn đường cuối cùng trong cuộc đời nàng. Khi đi qua đoạn đường này, nàng đang nghĩ tới điều gì? Nàng vẫn còn hận chàng sao?

Đi tới phía cuối sông, đài cao nổi lên, cờ xí rợp trời, khuôn mặt của Khuynh Họa dưới lọng che màu tím lọt vào mắt chàng lại có vẻ hốt hoảng kinh sợ hiếm thấy, chàng không biết bộ dạng của chàng lúc đó có khiến người khác hoảng sợ hay không, chỉ biết rằng Khuynh Họa nghiêm mặt hạ lệnh gì đó, lập tức một trận mưa tên ào ạt bay về phía chàng, chàng vung kiếm theo bản năng, thanh kiếm dài đứng thẳng bên bờ sông, phát ra quầng kiếm khí chặn tên lại, nhưng mưa tên liên tiếp không ngừng, cuối cùng cũng đẩy chàng vào thế tiến thoái lưỡng nan.

Một cơn gió bỗng thổi qua bên sông, dường như có ai đó tấu một khúc điếu ca trong rừng nhạc âm, hoa nhạc âm trắng lìa cành, xuyên qua trận mưa tên lạnh lẽo, bay tới rớt vào kiếm trận của chàng. Bông hoa nhạc âm nhỏ xinh đậu trên chuôi kiếm giống như một con bướm trắng tinh. Khi cánh bướm lay động, A Lan Nhược liền xuất hiện trước mặt chàng, mái tóc đen dài, xiêm áo đỏ, nàng khẽ nở một nụ cười, nhặt bông hoa trắng trên chuôi kiếm của chàng, đùa nghịch trên tay một lát rồi chậm rãi cài vào tóc, ngón tay khẽ vuốt nơi tóc mai rồi dừng lại. Trái tim chàng nhói đau, đưa tay ra muốn nắm lấy nàng, nhưng lại chỉ nắm được hư không. Đó chẳng qua chỉ là một chút hình bóng còn sót lại trong rừng nhạc âm mà thôi. Trong lúc tâm thần dao động, một mũi tên sắt đã xuyên qua kiếm khí hộ thân, đâm thẳng vào vai chàng, lực bắn mạnh khiến chàng loạng choạng lùi lại vài bước, máu tươi trào ra từ miệng nhuộm đỏ cả chuôi kiếm.

“Nghe nói Mạnh Xuân viện có khách mới đến, xin gửi thiệp tới bái chào”.

“Những lời ta nói có thể là thật, có thể là giả, có thể ta thật lòng thích huynh, có thể ta đã thật lòng đùa giỡn với huynh”.

“Huynh thật sự thích ta, Trầm Diệp”.

“Đôi khi muội cảm thấy không đủ, nhưng đôi khi lại cảm thấy huynh như vậy đã rất tốt rồi”.

Chàng để mất nàng nhiều lần như vậy, nhìn hình ảnh nàng dần tan biến ngay trước mắt mới lần đầu tiên hiểu rõ, mất mát rốt cuộc là như thế nào.

Người đó, ngươi sẽ không bao giờ còn được nhìn thấy nàng nữa, không bao giờ còn được nghe nàng nói, không có cách nào để có thể chạm vào nàng nữa. Nàng thậm chí đã quả quyết từ bỏ cả luân hồi, cho dù còn bao nhiêu kiếp sau nữa, cho dù ngươi có biến thành ai cũng không thể gặp lại nàng được nữa.

Nàng đã không còn nữa, đã hoàn toàn rời xa ngươi rồi.

Nỗi đau khổ lớn lao từ trong sâu thẳm tâm hồn dần dần xé toạc chàng ra, lan tỏa từng chút từng chút một, là nỗi tuyệt vọng muộn màng, cả đời chàng chưa từng được nếm trải cảm giác tuyệt vọng. Nếu sớm biết như vậy, sự chịu đựng kìm nén đó của chàng là vì điều gì, nỗi lo ngại của chàng đối với thế tục là vì điều gì, chàng tồn tại là vì điều gì?

Trận cuồng phong kéo tới từ chân trời, ánh sáng ban ngày bỗng chốc bị mây đen che phủ, thanh kiếm dài chặn trận mưa tên bỗng phát ra một luồng huyền quang, những mũi tên bay tới gần đều bị luồng huyền quang thiêu đốt thành tro bụi. Luồng huyền quang sinh ra từ thân kiếm, dần dần lan rộng ra bên ngoài, giống như một lò lửa đáng sợ, những nơi nó đi qua, vạn vật đều trở thành cát bụi. Đây chính là sức mạnh có thể hủy diệt đất trời, chàng không biết bản thân mình có sức mạnh này từ bao giờ, chỉ là ý muốn vạn vật cùng bị hủy diệt một khi đã nảy sinh thì rất khó thu lại, chàng cũng không hề có ý định thu lại.

Trên đài cao, trong mắt Khuynh Họa và Quất Nặc đầy ắp sự kinh hoàng, nhìn bọn họ yếu ớt không thể chống cự lại như vậy, chàng vô cùng hài lòng. A Lan Nhược đã yên nghỉ tại đây, nơi này có núi non nước biếc, có hoa lá chim muông tôm cá, như vậy rất tốt, nàng đã không thể quay trở lại, vậy thì, đồng táng cùng nàng tại nơi đây chính là kết cục cuối cùng của chàng, cũng sẽ là kết cục cuối cùng của bọn họ.

Luồng huyền quang không lành đó lan qua dòng sông Tư Hành, dòng sông dài cuồn cuộn chảy lặng lẽ bốc hơi, chỉ còn một dòng sông toàn bùn đất, chỉ còn cách đài cao cầu phúc chỉ vài trượng, Quất Nặc đã ngất lịm, duy chỉ còn một mình Khuynh Họa vẫn gắng sức chống đỡ. Trong thời khắc nguy cấp, trong đám mây dày đặc bên đài cao bỗng xuất hiện một bóng người. Tức Trạch thần quân. Dù sao cũng là một đại kiếp diệt tộc, vị Thần Quan Trưởng tiền nhiệm vốn luôn tiêu dao cũng không thể bàng quan đứng nhìn.

Ống tay áo rộng của Thần Quan Trưởng tiền nhiệm áo trắng phấp phới tung bay, tiên khí trác việt nhưng thần sắc lại khó giấu được vẻ mệt mỏi, ngài ấy đã phải dồn toàn lực để khống chế sự lan tỏa của luồng huyền quang, nói với chàng: “Không phải là không còn cách nào cứu A Lan Nhược, nghe nói trên Cửu Trùng Thiên có một thánh vật gọi là đèn Kết Phách, có khả năng tái tạo hồn phách cho người phàm trần, đèn Kết Phách này mặc dù không thể dùng được cho địa tiên như chúng ta, nhưng vạn vật đều có quy luật của nó, theo quy luật của đèn Kết Phách, tạo ra một nơi để nuôi dưỡng linh hồn, tái tạo hồn phách cho A Lan Nhược có gì là không được chứ? Trầm Diệp, ngươi muốn ôm nỗi nuối tiếc đồng táng cùng nàng ở đây hay muốn gặp nàng?”.

Luồng huyền quang đang lan tỏa bỗng chốc dừng lại, khi lời nói của Tức Trạch lọt vào tai chàng, một chút thần trí của chàng đã trở lại, chàng nhìn vị thần quan áo trắng trước mặt, giọng nói khản đặc: “Ta phải làm như thế nào?”.

Tức Trạch hạ thấp giọng: “Ngươi có bằng lòng dùng hết tu vi của kiếp này để tạo ra một thế giới khác cho nàng không? Cho dù ban đầu nàng chỉ là một thân xác giả, cho tới khi ngươi đã bỏ ra đủ lòng kiên nhẫn, tái tạo hồn phách của nàng mới có thể khiến nàng hoàn toàn sống lại được. Ngươi có tình nguyện bỏ ra cả cuộc đời mình để thực hiện việc này không?”.

Chàng nhìn vị thần quan trước mặt, thần sắc vô cùng bình thản: “Ta đã đánh mất nàng, ngài nói xem, còn điều gì mà ta không thể bỏ ra được chứ?”.
 
Tham gia
6/7/19
Bài viết
101
Điểm cảm xúc
41
Điểm
28
01.

Tô Mạch Diệp Tô nhị hoàng tử cả đời phong lưu, mặc dù bị tổn thương về tình cảm với A Lan Nhược nhưng cũng vẫn tổn thương một cách có tình thái và phong độ riêng khiến người ta thương cảm, cũng khiến không ít người trọng tình cảm khen chàng là một vị công tử hiếm có. Tô Mạch Diệp luôn tự cho rằng trong chuyện tình cảm với A Lan Nhược, một người qua đường như mình có thể coi là một người khổ vì tình, nhưng sau khi nhìn qua gương Diệu Hoa, mới biết rằng nếu nói đến mấy chữ khổ vì tình, nhân vật chính Trầm Diệp kia còn đau khổ hơn chàng rất nhiều, hơn nữa, một vài vết thương tình cảm trên người Trầm Diệp lại là do một người qua đường như chàng gây nên, chuyện này, dù thế nào chàng cũng chưa từng ngờ tới. Nhưng dù sao đây là một kết quả. Chàng đã tìm hiểu về chuyện này trong suốt hơn hai trăm năm, chẳng qua là muốn tìm một kết quả, mà chân tướng của việc này hóa ra lại là như vậy, tình yêu và sự căm hận của chàng nhất thời dường như đều không có nơi để gửi gắm, nhưng chung quy lại, đây vẫn là một kết quả.

Mạch thiếu gia tự khiêm tốn nhận mình mắt mù tai điếc, những chuyện chàng chưa từng ngờ tới: một là mối quan hệ giữa Trầm Diệp và A Lan Nhược, hai là chân tướng của việc Trầm Diệp tạo ra giấc mộng của A Lan Nhược, hai chuyện này đã đủ khiến chàng kinh ngạc, mà khi chuyện thứ ba mà chàng chưa từng ngờ tới được phơi bày ra trước mắt, hai chữ kinh ngạc sao có thể đủ để diễn tả tâm trạng của chàng.

Chuyện thứ ba không có liên quan gì tới Mạch thiếu gia, nhưng lại có mối quan hệ vô cùng lớn tới Đế Quân lão nhân gia.

Lúc đó trong gương Diệu Hoa đang tái hiện đến cảnh Trầm Diệp vung kiếm chém ba mùa trong Phạn Âm Cốc, dồn hết tu vi để tạo ra giấc mộng của A Lan Nhược dưới sự hướng dẫn của Tức Trạch. Tô nhị hoàng tử vì nhất thời ngứa tay, một bàn tay vẫn chạm vào khung gương, buộc phải chìm chìm nổi nổi trong tâm tư tình cảm của Trầm Diệp. Trong lúc mơ màng, nghe thấy Đế Quân lão nhân gia chậm rãi nói ngay bên cạnh: “Ngươi quay trở lại để ta xem xem.”

Tô nhị hoàng tử mặc dù bị cuộc đời của Trầm Diệp ở trong gương dẫn dắt, nhưng quả thực cũng không biết làm cách nào để đảo ngược chúng lại, Đế Quân dường như cũng nhớ ra điều này, chỉ là ngài đã quen sai khiến người khác rồi, nhìn bộ dạng vô dụng của chàng, trầm ngâm suy tư trong giây lát, cầm cây bút lên vẽ vài nét gì đó, ném vào trong gương, mặt gương giống như làn nước mùa xuân khẽ gợn sóng, từng gợn sóng nhỏ từ từ lan tỏa. Hình ảnh trong gương dần dần tan biến trong gợn sóng, bàn tay phải bị hút chặt vào khung gương của Tô Mạch Diệp bỗng được giải thoát, khi lại ngẩng đầu lên nhìn vào trong gương, gợn sóng đã trở lại bình lặng, hình ảnh hiện lên trên mặt gương lại là mây lành, tiếng tiên hạc du dương trên Cửu Trùng Thiên.

Tô Mạch Diệp nghi hoặc nói: “Đây là…”.

Đế Quân chống cằm chăm chú nhìn mặt gương, lạnh nhạt nói: “Ba trăm năm trước”.

Tô Mạch Diệp đưa mắt liếc nhìn đình đài lầu gác quen thuộc trong gương, càng thêm nghi hoặc, nói: “Nếu đã quay trở lại thời điểm ba trăm năm trước trong cuộc đời của Trầm Diệp, trên mặt gương sao lại hiện lên cảnh ở Cửu Trùng Thiên?”.

Đế Quân trầm ngâm xoay chiếc chén bằng sứ trên tay: “Nếu ta đoán không nhầm…”, mới nói được một nửa, lại yên lặng.

Đế Quân không hay trầm ngâm, càng không hay muốn nói rồi lại thôi. Bởi vì trầm ngâm và điệu bộ muốn nói rồi lại thôi đều thể hiện sự không chắc chắn. Đế Quân hiếm khi không chắc chắn điều gì. Tô Mạch Diệp thầm cảm thấy kinh ngạc, lại nhìn tiếp vào trong gương, thấy đám mây lành từ từ tách ra, một căn phòng hiện lên trong gương Diệu Hoa, bốn chiếc cột chống, xà ngang được dựng rất cao, điều đó chứng tỏ căn phòng rất rộng lớn. Nhưng bên trong căn phòng rất rộng lớn ấy không hề có thứ gì khác ngoài một chiếc giường mây lớn vô cùng bắt mắt, hình ảnh trên giường mây mờ mờ ảo ảo, dường như có một bóng người đang nằm. Khi hình ảnh trong gương được kéo gần lại một chút, Tô Mạch Diệp toát mồ hôi lạnh, vị thần quân áo tím tóc trắng đang nằm trên giường mây kia không phải là Đông Hoa Đế Quân thì còn là ai nữa? Liếc mắt nhìn về phía vị Đế Quân bằng xương bằng thịt đang ngồi bên cạnh mình, thấy ngài vẫn đang lơ đãng xoay chiếc chén sứ trên tay, thần sắc khi nhìn mặt gương có một vẻ trầm tĩnh dường như đã dự liệu được mọi việc.

Một lát sau, phía trước giường đã có động tĩnh. Một tiên quan trẻ tuổi xiêm áo chỉnh tề lại gần giường mây, nghiêm trang thay bình hoa trang trí ở đầu giường, nghiêm trang đốt một lò hương phía trước tấm bình phong, lại nghiêm trang dém chăn cho Đế Quân say ngủ. Vừa kéo góc chăn cho ngay ngắn xong, một vị lão tiên bá đã có tuổi bước vào phòng. Vì tiên quan trẻ tuổi và lão tiên bá kia đều mặc thường phục, không thể nhận ra phẩm cấp của hai người, nhưng vị lão tiên bá râu tóc bạc phơ kia nhìn thấy tiên quan trẻ tuổi lại hành lễ rất tôn kính, nói: “Trọng Lâm tiên quân triệu già này gấp gáp như vậy, không biết là vì chuyện gì”.

Trọng Lâm, cái tên này Tô Mạch Diệp đã từng nghe nói tới, nghe đồn sau khi Đế Quân thoái ẩn về ở cung Thái Thần, đã chọn vị tiên giả này làm tiên sứ quản lý trong cung. Trọng Lâm tiên quan chính là nô bộc trung thành bậc nhất dưới trướng của Đế Quân, nổi danh khắp bát hoang có tính thận trọng lo xa, mấy vạn năm qua luôn là một tấm gương để chư vị tiên sứ trên Cửu Trùng Thiên noi theo.

Khuôn mặt nghiêm nghị của Trọng Lâm tiên quan đầy vẻ lo lắng, đắn đo nói: “Lần này mời Vân Trang tiên bá đến chính là vì một chuyện vô cùng quan trọng. Đế Quân vì điều phục Diệu Nghĩa Tuệ Minh Cảnh nên ngủ say, ta và ông đều biết lão nhân gia đã ra lệnh cấm, việc này không được làm kinh động tới người ở ngoài cung, tránh để lục giới xảy ra hỗn loạn. Mấy ngày trước may mà có tiên bá giúp đỡ, sửa lại sổ mệnh cách người phàm trần của Ti Mệnh Tinh Quân nên mới che giấu được chúng tiên, vờ như Đế Quân có hứng thú với sinh, lão, bệnh, tử, oán hận mà phải gặp gỡ, yêu mà phải biệt ly, cầu mà không được, ngũ ấm xí thạnh[1] tám nỗi thống khổ trong cuộc đời người phàm trần, đã chuyển kiếp để chiêm nghiệm rồi. Đế Quân ngài chìm vào giấc ngủ quá vội vàng, mặc dù không để lại lời dặn dò gì khác, nhưng gần đây có một ý nghĩ lại khiến ta vô cùng bất an”.

[1] Ngũ ấm xí thạnh khổ: Là sự khổ về năm ấm hưng thịnh.

Ngũ ấm này hợp lại tạo nên thân con người, nếu không điều hòa với nhau, ấm nào thịnh quá thì phát sinh khổ não. Lại nữa, Ngũ ấm tạo nên thân con người mà thân con người phải trải qua quá trình sinh, lão, bệnh, tử đương nhiên luôn phải chịu nhiều khổ não. Ngũ ấm thạnh khổ này bao quát bảy loại khổ trước: THN thì sinh, lão, bệnh, tử, đói, khát, nóng, lạnh, vất vả nhọc nhằn; TM thì buồn, giận, lo, thương, trăm điều phiền lụy.

Vân Trang tiên bá bước gần thêm một bước: “Xin hỏi có điều gì khiến tiên quân bất an?”. Không hổ danh là thần tử trong cung Thái Thần, không hề bị nhiễm tính ăn nói làm việc vòng vo trên Cửu Trùng Thiên, luôn nói thẳng vào vấn đề chính.

Trọng Lâm thở dài, nói: “Đế Quân mặc dù đã điều phục được Diệu Nghĩa Tuệ Minh Cảnh, khóa chặt được Diểu Lạc, nhưng nếu biết Đế Quân vì thế mà đã say ngủ, cho dù Diểu Lạc đã bị nhốt, ta vẫn lo rằng liệu ả có gây ra sóng gió gì đó không. Để đảm bảo rằng Diểu Lạc sẽ không gây ra tai họa gì trong một trăm năm Đế Quân say ngủ, ta đã suy nghĩ rất nhiều, mấy ngày gần đây đã nghĩ ra một cách. Tiên bá rất giỏi tạo hồn phách, nếu tiên bá có thể dùng một nửa cái bóng của Đế Quân để tạo ra một hồn phách đầu thai vào trong Phạn Âm Cốc… Đương nhiên, nếu hồn phách này được sinh ra, chàng ta chắc chắn sẽ không biết bản thân mình là cái bóng của Đế Quân, cũng không biết bản thân mình gánh trọng trách bảo vệ Tuệ Minh Cảnh, nhưng hồn phách đó dù sao cũng sẽ mang khí tức (mùi, hơi thở) của Đế Quân, chỉ cần chàng ta đầu thai vào trong Phạn Âm Cốc sẽ là một sự uy hiếp đối với Diểu Lạc. Hơn nữa bộ tộc Tỷ Dực Điểu trong Phạn Âm Cốc tuổi thọ có hạn, một khi cơ thể hóa thành cát bụi, hồn phách được đầu thai kia đương nhiên sẽ lại hóa thành một nửa cái bóng của Đế Quân, đối với Đế Quân, việc này cũng không gây ra phiền toái về sau”.

Vân Trang tiên bá yên lặng hồi lâu, trầm ngâm nói: “Tiên quân suy nghĩ chuyện này thật chu đáo, lão ban nãy cũng đã nghĩ một lát, đây lại là cách duy nhất có thể thực hiện được. Nhưng theo lão thấy, đợi sau khi lão tạo xong hồn phách đó, đưa vào trong Phạn Âm Cốc, tiên quân và lão lại đều cần phải uống nước vong trần để quên đi việc này. Từ trước tới giờ tiên quân hành sự luôn rất cẩn trọng, chắc cũng tán đồng cách làm của lão, mặc dù nói hồn phách được đầu thai đó chỉ là vài phần hình bóng mỏng manh của Đế Quân, nhưng cũng là một phần của Đế Quân, nếu ngài và ta vô tình tiết lộ chuyện này, bị kẻ có dã tâm biết được, luyện hóa nuốt gọn linh hồn này, Đế Quân say ngủ cũng chính là lúc yếu ớt nhất, chắc chắn sẽ động tới tiên căn của người”.

Trọng Lâm gật đầu: “Điều này, tiên bá nói rất phải”.

Hình ảnh trong gương lặng lẽ mờ đi sau khi Trọng Lâm đưa vị tiên bá kia ra khỏi cung thất, những đám mây lành dập dềnh, từng mái đình, lầu gác liên miên dường như đã tan biến trong nước, gương Diệu Hoa đặt trước mặt bọn họ như một tấm gương bình thường.

Trong số các thần tiên thuộc thế hệ mới, Mạch thiếu gia luôn cảm thấy bản thân mình cũng được coi là một người gặp biến không loạn, điềm đạm bình tĩnh, nhưng hôm nay không biết là vận may thế nào, những chuyện không ngờ cứ dồn dập kéo đến khiến chàng có cảm giác không thể tiếp nhận được hết. Cho đến khi câu chuyện trước mắt được hé lộ, chàng cảm thấy bản thân mình hoàn toàn không thể điềm tĩnh nổi nữa rồi. Diệu Nghĩa Tuệ Minh Cảnh là cái quái quỷ gì, chàng không biết, nhưng bỏ qua phần này, điều mà nhị vị tiên giả Trọng Lâm và Vân Trang trong gương đã nói lại rất rõ ràng, Trầm Diệp chính là cái bóng của Đế Quân. Trầm Diệp lại là cái bóng của Đế Quân? Cụm từ sét đánh giữa trời quang cũng không thể miêu tả được một phần vạn tâm trạng của Mạch thiếu gia lúc này, nhưng nếu nói bị sét đánh, ở trước gương lúc này, đương nhiên có một người bị sét đánh mạnh hơn, chàng bất giác nhìn sang phía Đế Quân.

Đế Quân – người đáng lý ra phải bị sét đánh mạnh hơn lại vẫn rất ung dung, vẫn rất trầm tĩnh, phong thái khi rót trà cũng không có gì thay đổi.

Thực ra việc Trầm Diệp là cái bóng của mình, ban đầu khi mới vào mộng cảnh này, Đông Hoa quả thực chưa từng nghĩ tới, cho dù thi thoảng cũng cảm thấy khí tức của vị thần quan này có chút quen thuộc, cũng vì lười không muốn nhọc công suy nghĩ, tùy tiện mượn cớ hai người có khả năng đã tu luyện cùng một tông pháp để che lấp đi. Khi chàng không muốn động não, đầu óc sẽ không chuyển động. Nghi hoặc Trầm Diệp liệu có quan hệ gì với mình không lại xuất hiện từ khi nhìn thấy trong gương Diệu Hoa chàng ta có sức mạnh hủy diệt đất trời. Luồng huyền quang diệt thế đó vốn dĩ là một pháp thuật mà chàng sử dụng điêu luyện nhất. Quay ngược thời gian lại để xem, chàng đoán không nhầm, Trầm Diệp và bản thân mình quả nhiên là có vài phần liên quan đến nhau.

Nhưng sự liên quan này cũng không phải là không thể chấp nhận.

Một cái bóng thôi mà.

Biết Trầm Diệp là cái bóng của mình không hề khiến chàng kinh ngạc bằng hôm chàng nhận thấy một địa tiên lại có thể sử dụng thuật tạo thế. Mà giờ đây, câu hỏi tại sao một địa tiên có thể sử dụng thuật tạo thế lại dễ giải thích rồi, dù gì cũng là cái bóng của mình mà…

Chàng trước đây chưa từng nghĩ tới việc còn có một cái bóng nên đã suy nghĩ chưa được chu toàn, nếu Trầm Diệp đã là cái bóng của mình, vậy Tiểu Bạch và A Lan Nhược… Chàng cầm bút lên, định vẽ hình của A Lan Nhược rồi ném vào trong tấm gương Diệu Hoa đang rất yên bình kia, ngoài cửa sổ bỗng có tiếng gió và tiếng sấm, ngước mắt lên nhìn, mây đen không lành lại xuất hiện từ phía Vương đô… chàng đặt ly trà “cạch” một tiếng xuống mặt bàn, cất gương Diệu Hoa vào trong tay áo, đứng lên vội đi về phía Vương đô.

Khi tiếng gió tiếng sấm vang lên, Tô Mạch Diệp cũng nhìn ra ngoài cửa sổ, miệng vừa thốt lên “Tiếng sấm này nghe ra có phần yêu dị”, một cơn gió thoảng qua, đã thấy Đế Quân vội vã lao ra khỏi phòng. Trong những ngày chàng đi theo Đế Quân, chưa từng thấy Đế Quân vội vã như vậy, tính hiếu kỳ trỗi dậy, không kịp đắn đo suy nghĩ gì, chàng cũng chạy theo sau.

Yêu phong nổi lên, quỷ vân bay cao, Đông Hoa cưỡi gió bay đi, hạ xuống bên ngoài Ba Tâm đình trong phủ công chúa của A Lan Nhược ở Vương đô. Lúc đó vừa hay nhìn thấy Trầm Diệp đang bế Phượng Cửu lên từ một chiếc giường trong đình, bàn tay của thần quan vừa chạm vào cánh tay ngọc ngà của giai nhân liền bị một thanh kiếm dài ngăn lại, trở tay một cái, Phượng Cửu điện hạ dường như đang say ngủ đã nằm gọn trong vòng tay của Đông Hoa. Tô Mạch Diệp chậm lề dề bước xuống từ trên đám mây, thầm tán thưởng Đế Quân thân pháp thật tuyệt vời.

Kiếm Thương Hà cắm sâu vào cột đình, chặn ngang trước mặt Trầm Diệp. Nói ra thì ngày hôm đó Đế Quân sau khi lựa chọn kỹ lưỡng mới chọn thân phận của Tức Trạch, đã đóng băng Tức Trạch thần quân thật sự của mộng cảnh này trong động Thanh Y ở Kỳ Nam hậu sơn, khi bắt đầu chuyên tâm đóng vai Tức Trạch, tất nhiên, dung mạo và tính cách vốn có của Tức Trạch thần quân, chàng đều coi như phù du, nhưng ít nhất có một chuyện chàng làm rất tốt – mỗi khi rút kiếm ra, tốt xấu gì cũng đều che giấu dáng vẻ của kiếm Thương Hà – thanh kiếm nổi danh cả bát hoang, không để người khác vì nhận ra thanh kiếm này mà nhận ra thân phận của chàng.

Tuy nhiên trong lúc này, thần kiếm Thương Hà – tổ tiên của những thanh kiếm nổi danh lại ngang nhiên bày ngay trước mắt Trầm Diệp, hàng vạn mặt cắt do đá hạo anh tạo thành ở chuôi kiếm phản chiếu ánh hoàng hôn chiếu vào trong đình, sáng chói cả mắt của người nhìn vào nó.

Tô Mạch Diệp đoán rằng, nếu không có kiếm Thương Hà ngăn cản, nhìn tư thế của Trầm Diệp chắc rằng đã lập tức giành lại Phượng Cửu, nhưng kiếm Thương Hà không hổ danh là một cây kiếm nổi tiếng, vừa xuất hiện đã khiến vị thần quan trước mặt bị trấn áp. Sau giây lát yên lặng, Trầm Diệp chầm chậm nói: “Thương Hà?”. Đã nhận ra Thương Hà, sao có thể không nhận ra thân phận của vị tôn thần trước mặt? Vị thần quan trẻ tuổi im lặng trong giây lát, quả nhiên là một người thông minh hiếm có, khi lại ngước mắt nhìn về phía Đế Quân, thần sắc ẩn chứa vài phần khó lường: “Tôn thần giá đáo mộng cảnh này, khiến Trầm Diệp vô cùng vinh hạnh, nhưng Trầm Diệp có tài đức gì mà lại có thể làm phiền tôn thần phải đích thân đến nơi đây, để ý đến một việc riêng tư của thần?”.

Đối diện với cái bóng của chính mình, thần sắc trên khuôn mặt của Đế Quân lúc này… không thể nhìn ra thần sắc gì trên khuôn mặt của Đế Quân, Đế Quân đưa mắt liếc nhìn về phía chiếc bình lưu ly trống rỗng đặt trên bàn đá, nói với Trầm Diệp: “Xem ra ngươi đã tập hợp đầy đủ khí trạch để tạo hồn phách cho A Lan Nhược, đã đặt hết chúng vào trong cơ thể của Tiểu Bạch?”. Tô Mạch Diệp ngước mắt nhìn Phượng Cửu trong vòng tay của Đế Quân, lời này Đế Quân nói một cách rất bình thản, xem ra cơ thể điện hạ không có vấn đề gì lớn.

Trầm Diệp yên lặng hồi lâu, nói: “Quả nhiên trên thế giới này không có việc gì qua được pháp nhãn của tôn thần, tuy thần không biết vì sao tôn thần xuất hiện trong mộng cảnh này, tuy nhiên nữ tử trong lòng tôn thần lại là sự cố chấp của thần, mong tôn thần đại lượng mở cho thần một con đường, trả lại nàng ấy cho thần?”.

Đông Hoa ngồi xuống chiếc giường bên cạnh bàn đá, đỡ Phượng Cửu đang say ngủ tựa vào ngực mình, một tay ôm nàng, khẽ ngước mắt lên: “Người của ta, tại sao phải nhường cho ngươi?”.

Trầm Diệp chợt ngẩng phắt lên.

Cánh tay còn trống của Đông Hoa khẽ phất lên, loại bỏ thuật sửa đổi trên người Phượng Cửu, lạnh lùng nói: “Tiểu Bạch rơi vào mộng cảnh này, thân xác A Lan Nhược mà ngươi tạo ra đã bị nàng thay thế rồi”. Nhìn khuôn mặt đầy vẻ kinh ngạc của Trầm Diệp, lạnh lùng nói tiếp: “Thần quan tiền nhiệm Tức Trạch quả thực là một cao nhân, nếu A Lan Nhược chỉ là một Tỷ Dực Điểu, cách làm nàng sống lại mà hắn dạy cho ngươi mặc dù nghịch thiên nhưng cũng vẫn có thể thực hiện được. Nhưng A Lan Nhược chẳng qua chỉ là một hồn phách được tạo ra từ một cái bóng mà thôi, vốn dĩ chỉ có một kiếp, hết kiếp sống đó sẽ quay trở về với cát bụi, cho dù ngươi có thu nhập khí trạch của nàng như thế nào, cũng không thể tạo được một hồn phách. Cho dù thế nào ngươi cũng không thể khiến nàng sống lại, nàng sẽ không trở lại được nữa”.

Cây tiêu ngọc bích trong tay của Tô Mạch Diệp rơi “cạch” xuống nền đất, Trầm Diệp thất thần nói: “Ngài nói… cái gì?”.

Gương Diệu Hoa trong tay áo của Đế Quân lại một lần nữa xuất hiện, dựng ở trên bàn đá. Đông Hoa vẫn ôm Phượng Cửu trong lòng, ung dung đưa tay lên không trung lấy giấy bút, chàng vẽ một bức hình A Lan Nhược, lại viết thêm vài chữ bên cạnh bức hình nhỏ đó, ném vào trong gương, nói: “Vì sao nàng ấy được sinh ra từ một cái bóng, ta cũng có chút hiếu kỳ, cùng xem xem cũng tốt”.

02.

Không giống với việc xem cuộc đời của Trầm Diệp trước đây, ban đầu là sự ra đời của chàng ta, cảnh tượng xuất hiện trong gương Diệu Hoa lúc này lại là một lớp học.

Bên ngoài lớp học là một sườn núi xanh biếc, trên sườn núi có một vài con linh cầm linh thú đang chơi đùa, tiếng đọc đồng thanh vọng tại từ phía lớp học, bọn họ đang học một đoạn “Bàn Nhược Kinh”. Mặt trời dịch chuyển về đằng Tây, tiếng đọc sách tắt dần, dường như sắp tới giờ tan học. Một lát sau, một lão tiên giả với chòm râu dê cầm sách bước ra khỏi lớp học, tiếp theo đó lại có rất nhiều học trò bước ra theo, mỗi người dắt theo một con linh cầm linh thú trên sườn núi, cưỡi lên con thú rồi lần lượt rời khỏi đỉnh núi.

Người chậm lề dề bước ra sau cùng, được một vài thiếu niên tuấn tú vây xung quanh chính là một thiếu nữ áo đỏ. Thiếu nữ đó có mái tóc dài đen nhánh, hàng lông mày thanh tú cong cong như mảnh trăng non, giữa trán là một đóa hoa phượng vũ đỏ thắm, ánh mắt sáng như sao, đôi môi hồng như cánh đào, thần sắc có phần mất kiên nhẫn, đó chính là Phượng Cửu điện hạ của Thanh Khâu.

Tô Mạch Diệp lên tiếng: “Đây cũng là ba trăm năm trước?”

Đế Quân chăm chú nhìn Phượng Cửu ở trong gương: “Hai trăm chín mươi lăm năm trước, sớm hơn thời điểm A Lan Nhược ra đời một chút”.

Nói rằng A Lan Nhược có thể là cái bóng của Phượng Cửu chẳng qua chỉ là một phỏng đoán của Đế Quân, nhưng khi ném bức hình của A Lan Nhược vào trong gương Diệu Hoa, trong gương lại hiện lên hình ảnh của Phượng Cửu, điều này nghĩa là gì không cần nói cũng đã quá rõ ràng. Việc này quả nhiên đúng như chàng dự liệu, hồn phách của A Lan Nhược quả là được tạo thành từ bóng của Tiểu Bạch. Nhưng tại sao Tiểu Bạch lại cho bóng của mình đầu thai vào trong Phạn Âm Cốc? Hơn nữa, xem điệu bộ của nàng, dường như cũng không hề biết A Lan Nhược chính là cái bóng của mình. Chuyện này khiến Đế Quân có phần nghi hoặc.

Phượng Cửu và mấy chàng thiếu niên trong gương dần dần tiến lại gần, ba chàng thiếu niên đi gần nàng nhất lần lượt mặc ba bộ xiêm áo màu lam, trắng và lục. Nhìn kiểu dáng của trang phục, không giống các vị thần tiên của Thanh Khâu, lại giống với các thiếu niên của Thiên tộc.

Khi từ gương Diệu Hoa có thể vọng lại ra tiếng người nói chuyện, đang đến lượt chàng thiếu niên áo lam, chàng thiếu niên đó vẻ mặt phong lưu, ánh mắt đầy tình tứ liếc nhìn Phượng Cửu: “Sớm đã được nghe nói Thanh Khâu là một nơi đất lành, luôn mong muốn mấy ngày tới đây học được đi ngao du các nơi, vừa hay mấy ngày trước khi bái kiến Bạch Chỉ Đế Quân, Đế Quân có nói rằng điện hạ rất thông thuộc cảnh vật ở nơi đây, ngày kìa sẽ được nghỉ học, không biết điện hạ có thời gian cùng ta ngao du Thanh Khâu một chuyến không?”.

Phượng Cửu chịu đựng ánh mắt đầy tình tứ của chàng thiếu niên, nói: “Ta…”.

Chàng thiếu niên áo lục đẩy chàng thiếu niên áo lam ra, đôi mắt phượng sáng long lanh nhìn Phượng Cửu: “Ngao du sơn thủy chỉ trong một ngày thì sao đủ được, nghe nói tài nghệ nấu nướng của điện hạ rất cừ, ngày nghỉ đó chi bằng cùng ta xuống phàm giới ăn uống, ta biết mấy tiệm ăn rất vừa ý dưới phàm giới, có một vài món ăn mà ngay cả trên thiên giới cũng không có, chắc chắc điện hạ cũng sẽ cảm thấy rất hứng thú”.

Phượng Cửu chịu đựng ánh nhìn từ đôi mắt phượng của chàng thiếu niên, nói: “Ta…”.

Chàng thiếu niên áo trắng đứng chắn trước hai chàng thiếu niên áo lam và áo lục, trong đôi mắt như nước mùa thu có chút ưu sầu, nói với Phượng Cửu: “Ăn uống chơi bời chung quy lại không phải là việc chính đáng, nghe nói điện hạ rất giỏi hai môn chế tạo thần binh và lịch sử thời thượng cổ, vừa hay ta lại khá yếu hai môn đó, không biết vào ngày nghỉ điện hạ có thời gian giúp ta củng cố hai môn học đó không?”.

Phượng Cửu chịu đựng ánh nhìn từ đôi mắt như nước mùa thu của chàng thiếu niên, nói: “Ta…”

Ánh mắt của ba chàng thiếu niên đều lộ rõ vẻ chờ đợi.

Phượng Cửu chịu đựng ba ánh mắt đầy vẻ chờ đợi đó, quay người, lôi ra một thiếu niên đang ngủ gật từ phía sau lưng, nói với chàng thiếu niên đó: “Ta... ngày kìa là ngày nghỉ, ta đã có kế hoạch gì chưa?”.

Chàng thiếu niên đang ngủ gật dụi dụi mắt, lôi một quyển sổ nhỏ trong tay áo ra, lật giở vài trang, ngáp một cái, nói: “A, điện hạ có rất nhiều kế hoạch đấy. Bạch Chỉ Đế Quân có lệnh, trước giờ Ngọ điện hạ cần phải đi thăm hỏi ba vị thần quân đang bị thương, ồ, chính là ba vị thần quân mà ngày nghỉ lần trước, lần trước đó và lần trước nữa đã mời điện hạ đi chơi rồi bị điện hạ đánh cho gãy chân, gãy tay và bị thương ở cổ, sau giờ Ngọ, để ta xem xem, sau giờ Ngọ điện hạ phải đi gấp tới núi Chung Hồ quyết đấu với Chức Việt tiên cơ, đây là một trận tử chiến đấy, ồ, như vậy xem ra điện hạ chỉ còn rảnh rỗi vào buổi tối thôi”.

Ba chàng thiếu niên áo lam, áo lục và áo trắng đều cùng yên lặng.

Phượng Cửu mặt không biểu cảm giúp chàng thiếu niên ngủ gật gấp quyển sổ lại, quay sang nhìn ba người trước mặt, hòa nhã mà từ bi nói: “Trận đấu với Chức Việt tiên cơ cũng không đến nỗi nghiêm trọng như một trận tử chiến đâu, chỉ là chuyện phế bỏ một cánh tay của nàng ta thôi, có thể chỉ đánh tới giờ Dậu là ta có thể quay về rồi, chư vị, có ai muốn đợi ta không?”.


Ba chàng thiếu niên kinh hãi quay sang nhìn nhau, nhất thời quên cả việc dắt theo linh cầm tiên thú, cứ thế chạy xuống núi, còn chạy trốn nhanh hơn cả loài thỏ.

Ánh mắt Đế Quân chăm chú theo dõi mặt gương, khóe môi khẽ cong lên.

Sắc trời trong gương đã tối dần, chàng thiếu niên ngủ gật kia mở mắt ra liếc nhìn Phượng Cửu, đưa tay lên không trung biến hóa ra một cây bút, lại lật giở quyển sổ nhỏ trong tay, liếm liếm đầu bút gạch bỏ mấy cái tên trong đó, than thở: “Lại bị điện hạ dọa cho bỏ chạy mất ba người, mặc dù nhà điện hạ quả thực đã làm mối cho người hơi sớm một chút, nhưng cũng không cần thiết phải dọa bọn họ như vậy, điện hạ lúc này không có tâm tư đó, nhưng ngộ nhỡ sau này khi muốn mai mối, biết đâu còn cần dùng tới họ thì sao?”.

Phượng Cửu đặt tay lên đầu lông mày, nói sang chuyện khác: “Ta không có vật cưỡi, sói xám đệ đệ ngươi cũng không có vật cưỡi, con vật cưỡi Tất Phương của tiểu thúc hôm nay dường như cũng có việc gì đó không kịp tới đón chúng ta, ngươi xem chúng ta có nên gọi một đám mây tới để xuống núi hay đi bộ xuống núi?”.

Chàng thiếu niên ngủ gật kia gấp quyển sổ nhỏ lại chỉ về phía chân trời: “Ồ, đám mây lành kia là gì vậy?”.

Phượng Cửu nhìn theo hướng chỉ tay của chàng ta, không nhìn thấy đám mây lành, tuy nhiên, trên đường chân trời được ánh chiều tà nhuộm thành một dải màu vàng lại thấy đám mây đen cuồn cuộn bay tới.

Tô Mạch Diệp đoán rằng, gương Diệu Hoa mà Đế Quân cải tạo mặc dù có thể xem lại được kiếp này kiếp sau của địa tiên, nhưng không thể nhìn thấy quá khứ của một nữ thần ở Thanh Khâu, nếu có thể nhìn thấy, quá khứ này chắc chắn phải có vài mối liên hệ với sự ra đời của A Lan Nhược. Cảnh tượng vừa rồi chàng quả thực không nhìn ra có mối quan hệ gì với A Lan Nhược, nhưng lúc này, khi đám mây đen dày đặc trong gương hạ xuống đất, từ từ tan ra, chàng mới hiểu rõ vì sao gương Diệu Hoa lại hiện ra cảnh lớp học này. Vị tiên giả hạ xuống trước mặt Phượng Cửu và sói xám đệ đệ là Tạ Cô Châu – minh chủ của U Minh ty.

Sinh tử của người phàm trần và những linh vật tuổi thọ có hạn có liên quan đến ba vị thần tiên, một là Bắc Đẩu Chân Quân, hai là Nam Đẩu Tinh Quân, người thứ ba là Tạ Cô Châu – minh chủ của U Minh ty. Nam Đẩu trông coi việc sinh, Bắc Đẩu trong coi việc tử, còn U Minh ty lại quản lý việc phán quyết hình phạt đối với người sau khi chết, còn quản lý cả đài luân hồi. Cô Châu quân giống hệt như tên gọi của chàng ta, cách hành xử cũng luôn kèm theo một chữ cô, quanh năm ở trong âm giới, không thích qua lại với các thần tiên khác, chỉ vào dịp đại triều hội diện kiến Thiên Quân hàng năm mới nhìn thấy vị thần quân này một lần. Trong ấn tượng của Tô Mạch Diệp, mỗi lần gặp mặt, vị thần quân này luôn trong bộ dạng gày gò ốm yếu.

Lần này Cô Châu quân đứng trước mặt Phượng Cửu, vẫn khuôn mặt có vẻ bệnh tật, đợi nàng bảo sói xám đệ đệ đi chỗ khác rồi mới chỉ về con đường núi khúc khuỷu trước mặt, nói: “Cảnh chiều tà ở Thanh Khâu không tồi, chúng ta hãy đi men theo con đường này”.

Phượng Cửu đi theo sau Tạ Cô Châu, các học trò đều đã về nhà, sườn núi vắng lặng, khi chim chóc bay về tổ, thi thoảng lại có vài tiếng chim bay ngang qua đầu bọn họ. Hai người tìm đến gốc cây như ý rồi ngồi xuống, Tạ Cô Châu lôi bình rượu từ trong thắt lưng ra, uống một ngụm, nói: “Gần đây có một chuyện, ta đoán vẫn nên đến báo cho ngươi một tiếng”.

Phượng Cửu cười nói: “Là chuyện ta chậm trễ tặng rượu cho người sao? Chuyện này thì ngươi cứ yên tâm, ta và ngươi có tình bằng hữu, đã nhận lời sẽ tặng người một vò rượu ủ hoa đào của Chiết Nhan, ta quyết không nuốt lời, chỉ có điều, haizz, mấy ngày gần đây Chiết Nhan và tiểu thúc của ta giận dỗi nhau, đang trong cơn giận dữ, là thời khắc khó tiếp cận, dù là ta cũng không dễ…”.

Tạ Cô Châu bỗng cắt ngang: “Là chuyện của Đông Hoa Đế Quân”.

Nụ cười trên khuôn mặt của Phượng Cửu sững lại.

Tạ Cô Châu nói: “Chuyện này trên trời dưới đất có lẽ không ai biết, Bắc Đẩu, Nam Đẩu chắc cũng không hề hay biết, có lẽ vì ta quản lý đài luân hồi nên mới biết được”.

Thấy Phượng Cửu rửa tai cung kính lắng nghe, nói tiếp: “Mấy ngày gần đây ta kiểm tra sổ sinh hồn, phát hiện ra có một hồn phách được đầu hai vào một dị giới, bèn tới đó tìm hiểu mới biết đó là một hồn phách không có kiếp trước, cũng không có kiếp sau, không đến từ đài luân hồi, sau khi chết đi cũng không qua đài luân hồi. Loại hồn phách không qua đài luân hồi bèn đầu thai hóa thế chỉ có thể là do các bậc tiên giả tạo ra, mà trên thế gian này, người có thể tạo ra kiểu hồn phách đó chỉ có thể đếm trên đầu ngón tay, trong Thần tộc, ngoài ta ra, cũng chỉ có Vân Trang tiên bá trong cung Thái thần mà thôi. Mấy năm trước nghe nói Đế Quân vì muốn hoàn toàn lĩnh ngộ tám nỗi thống khổ chốn hồng trần nên đã xin được đầu thai xuống phàm giới, trong sổ mệnh cách của Ti Mệnh mặc dù ghi rằng Đế Quân đầu thai xuống phàm trần chính là ba mươi năm sau, nghe nói trong ba mươi năm này, ngài ấy ở trong cung Thái Thần để tĩnh tu, nhưng khi tĩnh tu, đã lệnh cho Vân Trang tiên bá dùng bóng của mình để tạo nên một hồn phách đầu thai vào dị giới tôi luyện một phen, điều này cũng không có gì là không thể được, cũng không có gì bất lợi”. Nói nhiều khô họng, Tạ Cô Châu lại nâng bình rượu lên, uống một ngụm: “Đế Quân đã giấu chư vị tiên giả, chuyện này xem ra vô cùng cơ mật, ta suy nghĩ hồi lâu rồi mới nói chuyện này với ngươi, ngươi có biết vì sao không?”.

Ráng chiều như đuôi cá đã dần tan đi, trên đỉnh núi xuất hiện nửa bóng trăng mờ nhạt, Phượng Cửu nằm xuống, ngước nhìn sắc trời nhá nhem, cười nói: “Vì muốn lấy của ta một vò rượu nữa ư?”.

Tạ Cô Châu liếc nhìn nàng một cái, lắc lắc bình rượu: “Trước mặt ta người giả bộ gì chứ, ngươi có chuyện gì mà ta không biết đâu? Bảy năm trước khi uống rượu cùng ngươi, trong lúc say chẳng phải ngươi đã nói là Đế Quân đã từng cứu mạng ngươi ở núi Cầm Nghiêu, ngươi muốn báo ân nên mới tới Thập Ác Liên Hoa Cảnh cứu ngài ấy, kết quả là lại được ngài ấy cứu lại, cuối cùng người vẫn nợ ngài ấy một đại ân cứu mạng, sớm muộn gì cũng phải tìm một thời cơ để báo đáp ngài ấy. Theo ta thấy, đây là một thời cơ, đối diện với cái bóng của Đế Quân còn tốt hơn đối diện với chính bản thân ngài ấy, bảo người quay lại cung Thái Thần gặp ngài ấy, e rằng có chút làm khó cho ngươi, đúng không?”.

Phượng Cửu nhắm mắt lại, nói: “Ngươi hôm nay không giống ngươi, nhiều lời quá”. Một lúc sau lại chậm rãi nói: “Trước đây ngươi từng nói những chuyện đau lòng, thời gian trôi qua, tự nhiên sẽ nhạt đi, câu này không đúng”.

Tạ Cô Châu cúi đầu nhìn nàng: “Ồ? Tại sao?”.

Gió đêm thổi tới, Phượng Cửu lấy tay che mắt lại: “Mười năm rồi, ta vẫn nhớ những chuyện đau lòng đó, mỗi khi nhớ lại, lúc ấy đau lòng thế nào, giờ đây vẫn đau lòng thế đó”.

Tạ Cô Châu cũng nằm xuống, cùng nhìn lên bầu trời đêm mờ tối: “Đó là bởi vì thời gian mà ngươi trải qua chưa đủ dài”.

Phượng Cửu nghiêng đầu nhìn chàng ta: “Thực ra ta cũng nhớ tới những khoảng thời gian tươi đẹp. Ta đã nói với ngươi chưa nhỉ, Đế Quân từng làm cho ta một mái đình lục giác để tránh nắng, từng nướng khoai lang cho ta ăn, làm món cá sốt chua ngọt cho ta, còn từng băng bó vết thương cho ta nữa”.

Tạ Cô Châu nói: “Còn gì nữa? Ngài ấy còn từng làm cho ngươi việc gì nữa?”.

Phượng Cửu khẽ mở miệng: “Ngài còn, ngài còn…” nhất thời không biết phải nói gì, quay đầu về vị trí cũ, một lúc sau nói: “Ngài ấy đã từng cứu mạng ta”.

Tạ Cô Châu lạnh lùng nói: “Cứu ngươi chẳng qua chỉ là một chuyện đơn giản với ngài, trong tình huống đó, cho dù là ai, Đế Quân cũng đều ra tay cứu giúp”. Thở dài một tiếng, nói: “Hồi ức mà ngài ấy đối xử tốt với ngươi, lại chỉ có như vậy thôi sao, Phượng Cửu, những hồi ức không đẹp lại có bao nhiêu chứ?”.

Phượng Cửu ngước lên nhìn ánh trăng lên bầu trời: “Những hồi ức không đẹp… Ngươi có muốn nghe những chuyện buồn cười mà ta đã làm không?”. Yên lặng một lát, nói: “Ờ, có một lần, ta đã sửa lại bức vẽ đoản đao của Liên Tống quân, Cơ Hoành lại mạo nhận là do nàng ta sửa, ta đã cắn Cơ Hoành, Đế Quân đã trách mắng ta và bảo vệ nàng ta, lúc ấy ta uất ức chạy ra khỏi thư phòng, đêm xuống không hiểu sao luôn cảm thấy Đế Quân sẽ vì đã trách oan ta mà đi tìm ta để xin lỗi, còn thật lòng lo lắng ngài ấy không tìm thấy ta thì phải làm thế nào, nên đã cố ý nằm cuộn tròn trước cửa tẩm điện của ngài ấy, rất buồn cười phải không?”.

Tạ Cô Châu nói: “Vậy ngài ấy có tới tìm ngươi không?”.

Phượng Cửu yên lặng, hồi lâu, rồi đáp: “Không, ngài ấy ở trong phòng cùng Cơ Hoành vẽ tranh”.

Ánh trăng dần lên quá đỉnh núi, mấy con đom đóm tụ tập dưới tán cây như ý, Tạ Cô Châu hỏi: “Sau đó thì sao?”.

Phượng Cửu nói một cách vô thức: “À, sau đó”, trầm mặc một lát, nói: “Sau đó Cơ Hoành luôn ở bên cạnh ngài ấy, mặc dù ta rất ấm ức, nhưng thực ra cũng rất muốn ở bên ngài ấy, ngươi biết lúc ấy ta luôn muốn ở bên cạnh ngài ấy, nhưng ta không tìm được một cơ hội thích hợp. Sau đó nữa… ta lại khiến Cơ Hoành bị thương, ngài ấy liền nhốt ta lại, Trọng Lâm thấy ta đáng thương, đã thả ta ra ngoài phơi nắng, nhưng lại gặp phải Tác Vinh, con vật cưỡi yêu quý của Cơ Hoành, nó… nó làm ta bị thương, ta bất cẩn rơi xuống sông, được Ti Mệnh cứu sống, sau đó nữa, ngài ấy thành thân với Cơ Hoành, ta liền rời khỏi Cửu Trùng Thiên”. Nàng thì thầm: “Đều là những chuyện vô vị, chắc ngươi nghe xong cũng cảm thấy rất vô vị, đúng không?”.

Tạ Cô Châu nhíu mày: “Từ trước đến nay, ngài ấy chưa từng nói chuyện với ngươi sao? Còn ngươi thì cứ như vậy rời khỏi Cửu Trùng Thiên sao?”.

Phượng Cửu có chút thất thần, khẽ nói: “Ờ, đúng vậy”. Đưa tay lên, nhìn bầu trời qua kẽ ngón tay: “Ti Mệnh nói tình cảm của ta, đã có thể coi là tình cảm sâu sắc như biển cả đối với Đế Quân rồi, nhưng thực ra tình yêu là gì, tình cảm sâu sắc là như thế nào, ta cũng không rõ lắm. Cho dù ngài ấy như thế nào, ta đều rất thích, nhưng so với việc ngài ấy được tôn kính, tôn quý cao vời như thế, nếu được hy vọng, ta lại mong ngài ấy không tốt như vậy. Ta mong rằng ngài ấy không sống ở cung Thái Thần, không phải là Đế Quân, như vậy chỉ có một mình ta nhận thấy những điểm tốt của ngài ấy, chỉ riêng một mình ta thích ngài ấy, ta sẽ đối xử với ngài ấy rất rất tốt. Tri Hạc từng nói rằng nàng ta từ nhỏ đã ở bên cạnh Đế Quân, tình cảm giữa nàng ta và Đế Quân ta không thể sánh được. Ta cũng biết có rất nhiều người thích ngài ấy, nhưng nếu chỉ xét về tình cảm, ta nghĩ trong số tất cả mọi người, ta nhất định là người thích ngài ấy nhất”.

Tạ Cô Châu thở dài nói: “Tấm lòng của người, trước đây ngài ấy chưa từng biết đến, có thể cả đời này cũng không thể biết được”. Lại nói: “Lúc đó ngài ấy lạnh nhạt với ngươi như vậy, ngươi không đau lòng sao?”.

Phượng Cửu thì thầm nói: “Sao có thể không đau lòng chứ? Nhưng, chung quy là do ta muốn được ở bên ngài ấy, vì ngài ấy mà biến thành một con thú cưng, vì vậy bị ngài ấy coi như một con thú cưng là chuyện đương nhiên rồi. Thú cưng là như vậy, có lúc được cưng chiều, có lúc không được cưng chiều. Ngài ấy chỉ đối xử với ta hơi lạnh lùng một chút, ta đã đau lòng chết đi được, có thể bởi vì trong lòng ta không hề coi mình là một thú cưng”.

Tạ Cô Châu lắc lắc đầu, nói: “Ngươi đã đủ hèn mọn trước mặt ngài ấy rồi, ngươi đã từ bỏ cả bộ lông quý giá, thân phận cao quý, người thân và bạn bè vì ngài ấy, nếu là báo ân, như vậy cũng đã đủ rồi”.

Phượng Cửu nhắm mắt lại nói: “Từ bỏ những thứ đó, chỉ là vì dục vọng riêng của ta thôi, việc này không thể đánh đồng với việc báo ân được”. Hồi lâu sau, nàng lại nói: “Ngươi nói rất đúng, nếu Đế Quân hạ giới là một cái bóng đây quả là một cơ hội tốt, nếu Đế Quân đã giấu chư vị thần tiên, ngài ấy ở thế giới nào ta tốt nhất cũng không cần biết. Người có thể cũng đem bóng của ta đi, tạo thành một hồn phách, đầu thai vào nơi mà ngài ấy đang ở. Ta hy vọng lần này, cái bóng của ta có thể thay ta báo ơn cho ngài ấy, khi ngài ấy gặp nguy hiểm sẽ tới cứu ngài ấy, ngài ấy muốn gì, đều giúp ngài ấy đạt được điều đó”.

Tạ Cô Châu đưa tay cầm lấy bình rượu, nói: “Ngài ấy muốn gì đều giúp ngài ấy đạt được… Nếu ngài ấy chưa có được thứ mình muốn, lần báo ân này vẫn không thành sao?”.

Phượng Cửu ngắm nhìn dãy núi tĩnh lặng phía xa dưới ánh trăng, nói: “Chẳng phải ngươi nói rằng ba mươi năm sau Đế Quân sẽ đầu thai xuống phàm giới sao? Nếu lần này không thành, đến lúc đó ta sẽ tới cầu xin Ti Mệnh, hỏi rõ xem Đế Quân đầu thai vào nhà nào ở đâu”, khẽ nói: “Ba mươi năm, ta nghĩ đến lúc đó ta gặp ngài ấy, nhất định sẽ không vô dụng như bây giờ đâu”.

Tạ Cô Châu uống một ngụm rượu, dịu giọng nói: “Được, hãy đưa một nửa cái bóng của ngươi cho ta, cho dù ân nghĩa này có đền đáp được hay không, đến lúc đó ta cũng sẽ nói với ngươi một tiếng”.

03.

Ánh trăng mông lung, cánh chim mông lung, cảnh sắc mông lung trong gương hóa thành một ngày trời xanh mây trắng, A Lan Nhược ra đời trong Phạn Âm Cốc, từng sự việc xảy ra sau đó lần lượt hiện lên trong giương. Hồn phách của A Lan Nhược tan biến bên bờ sông Tư Hành, cái bóng tạo nên hồn phách trở lại trong tay của Tạ Cô Châu ở U Minh ty, Trầm Diệp loạng choạng bước ra khỏi đình, Tô Mạch Diệp không ngăn cản, chàng ta muốn đi đâu, chàng cũng không dò hỏi.

Trầm Diệp là một người thông minh, chắc chắn đã đoán được bản thân mình là cái bóng của Đế Quân, cũng đã nhận ra A Lan Nhược chính là cái bóng của Phượng Cửu, hai cái bóng, cuộc đời của họ chẳng qua chỉ là chút tiêu khiển không mấy quan trọng trong đường đời của người khác, bất cứ ai khi biết được việc này cũng khó tránh khỏi bị đả kích. Hơn nữa, đúng như lời Đế Quân đã nói, A Lan Nhược không thể quay lại được nữa. Mà tại sao nàng lại yêu Trầm Diệp, muốn cứu Trầm Diệp, bất luận Trầm Diệp muốn gì nàng đều cố hết sức giúp hắn ta đạt được, Tô Mạch Diệp cuối cùng đã hiểu, bởi vì nàng sinh ra là vì hắn ta, nàng đã được định sẵn rằng cả cuộc đời đều vì Trầm Diệp. Chàng không biết Trầm Diệp đang nghĩ gì, khi hắn ta thất thần rời đi, vẻ mặt vô cùng đau khổ, chàng cũng không nỡ hỏi.

Trầm Diệp rời khỏi đó, Đế Quân cũng không hề ngăn cản, đừng nói là ngăn cản, thực ra lúc đó ánh mắt của Đế Quân chỉ tập trung nhìn vào trong gương, dường như không hề chú ý tới hắn ta. Đế Quân nhíu mày, chàng không rõ liệu trong thần sắc của Đế Quân có ẩn chứa sự đau buồn không, chàng chưa từng nhìn thấy Đế Quân trong bộ dạng như vậy.

Tô Mạch Diệp nghĩ, một tấm gương chẳng qua chỉ là một vật vô tri vô giác, lại có thể soi rõ nỗi sầu bi của mỗi người.


Chỉ giây lát sau, trong gương hiện lên cảnh Tạ Cô Châu lại một lần nữa tới Thanh Khâu, ngồi đối ẩm cùng Phượng Cửu bên bờ biển Vãng Sinh.

Gió se se lạnh, Phượng Cửu nâng bình lên rót rượu, nói: “Cái bóng của ta có hoàn thành tốt chức trách của nó không? Thứ mà cái bóng của Đế Quân muốn có, bóng của ta có giúp ngài ấy đạt được không?”.

Tạ Cô Châu đón lấy ly rượu, thở dài: “Không được. Thứ mà ngài ấy muốn có nhất, cho tới khi chết nàng ta cũng chưa từng hiểu được. Lần báo ân này không kết thúc như chúng ta dự liệu”.

Phượng Cửu hơi sững lại: “Nàng ta… chết rồi? Nói như vậy thì lần báo ân này lại thất bại? Xem ra không thể không chọn một ngày Hoàng đạo để đến cầu xin Ti Mệnh rồi”.

Tạ Cô Châu uống hết một chén, cầm lấy bình rượu tự rót cho mình: “Lần này gặp lại Đế Quân, ngươi đã không còn cảm thấy khó xử nữa?”.

Một đóa hoa vũ thời bay tới đậu lên kẽ ngón tay của Phượng Cửu, nàng cúi đầu cười thanh thản: “Thời gian qua lâu rồi, đương nhiên nỗi đau lòng sẽ nhạt dần đi. Trước đây ta không tin lời của ngươi, giờ đây lại cảm thấy ngươi đã nói đúng. Đến lúc đó gặp nhau dưới phàm giới, chẳng qua chỉ là để báo ân. Có thể cuối cùng cũng có một ngày, ta và ngài ấy có thể gặp nhau trên thiên đình, có thể là trong một buổi tiệc nào đó, ngài ấy là một tôn thần hiếm khi đi dự tiệc, ta là Phượng Cửu của Thanh Khâu, trong mắt ngài ấy, ta chẳng qua cũng chỉ là một tiểu Đế Cơ lần đầu gặp mặt mà thôi, tiền duyên giữa ta và ngài ấy, chẳng qua chỉ là ta từng thích ngài, còn ngài lại không hề hay biết mà thôi”.

Đông Hoa sững sờ, lần đầu tiên nàng gặp chàng là ở trên núi Cầm Nghiêu, còn lần đầu tiên chàng gặp nàng lại là ở bên bờ biển Vãng Sinh, hơn hai nghìn năm sau đó. Nàng nói cuối cùng có một ngày, có thể bọn họ sẽ gặp nhau trong một bữa tiệc nào đó, nàng nói đúng, sau đó bọn họ gặp nhau trong hôn yến của cô cô nàng, nàng suýt nữa thì đá một chậu hoa trúng vào đầu chàng. Chàng đã khiến nàng phải đau khổ bao nhiêu năm như vậy, nhưng lúc đó, trên khuôn mặt nàng lại chẳng có chút biểu hiện gì, lại làm ra vẻ như một tiểu Đế cơ thông minh, hoạt bát, xinh đẹp lần đầu tiên bái kiến chàng vậy.

Mặt gương Diệu Hoa đã trở nên tĩnh lặng hồi lâu, nhưng Đế Quân mãi không lên tiếng. Tô Mạch Diệp nói: “Đế Tọa”. Ánh mắt của Đế Quân không biết đang nhìn về phương nào, vẫn không lên tiếng. Tô Mạch Diệp bước lên phía trước một bước, lại gọi: “Đế Tọa”. Đế Quân dường như cuối cùng đã bừng tỉnh, nhìn chàng trong giây lát, mới nói: “Lần đầu tiên ngươi gặp Tiểu Bạch là khi nào?”.

Tô Mạch Diệp có chút kinh ngạc, chắc những gì diễn ra trong gương ban nãy, những lời mà Phượng Cửu nói đã khiến Đế Quân đau lòng, nhớ tới điều gì nên mới hỏi chàng câu này. Nhưng câu hỏi này lại không dễ trả lời, chàng gặp Phượng Cửu tại rừng đào mười dặm của thượng thần Chiết Nhan, hơn nữa hai người đã có cơ duyên gặp mặt riêng tư, nhưng không phải là kiểu kết giao chính thống giữa các thế gia. Nếu trả lời đúng sự thật, chưa biết chừng Đế Quân lại nghĩ rằng chàng có ý gì đó với Phượng Cửu, như vậy không thỏa đáng, nhưng lúc này nếu che giấu, sau này Đế Quân biết được, chưa biết chừng lại nghĩ rằng sở dĩ chàng che giấu là bởi vì chàng quả thực có tình ý gì đó với Phượng Cửu, như vậy cũng không thỏa đáng. Đắn đo giây lát, lại cảm thấy Đế Quân không hề chú ý tới hình thức mà họ gặp mặt, ngài chỉ hỏi về thời gian, bèn thận trọng nói: “Khoảng một nghìn năm trước, chỉ là vô tình gặp mặt điện hạ một chút thôi, Đế Quân hỏi chuyện này, không biết…”.

Đông Hoa chăm chú nhìn vào khuôn mặt đang say ngủ của Phượng Cửu trong lòng mình, tay kia vuốt ve bên má ửng hồng vì say ngủ của nàng, cau mày nói: “Nếu nàng muốn gặp các người, đều có thể rất nhanh chóng gặp được, nàng thích ta, muốn gặp ta, đã tới cung Thái Thần làm tỳ nữ suốt bốn trăm năm, chúng ta lại không có một cơ duyên gặp gỡ, xét về lý mà nói, sự gặp gỡ của chúng ta đáng ra không quá khó khăn như vậy, theo ngươi, tại sao lại như vậy?”.

Tô Mạch Diệp còn nhớ, khi Phượng Cửu kể lại mối tình này cho chàng nghe, đã dùng hai chữ “vô duyên”. Lúc đó chàng không cho rằng hai chữ này là đúng, chàng luôn cảm thấy, thứ được gọi là vô duyên, cần phải giống như chuyện quân hữu tình thiếp vô ý giống như chàng và A Lan Nhược mới được gọi là vô duyên, mà Phượng Cửu và Đế Quân lại chưa từng cưới gả, hơn nữa đều có tình cảm với nhau, chỉ là do thế sự khó định liệu, có chút trúc trắc mà thôi, sao có thể gọi là vô duyên được. Nhưng hôm nay, khi Đế Quân hỏi câu này, chàng lại có chút suy nghĩ, đắn đo nói: “Điện hạ từng nói, có lẽ là không có duyên với Đế Tọa, nhưng hạ thần cho rằng, chẳng qua chỉ là vì điện hạ đau khổ, tìm một cái cớ để từ bỏ mà thôi, không thể coi là thật được”.

Đông Hoa giơ tay trái lên tạo thành một kết ấn, nói: “Tiểu Bạch nói rất đúng, có thể quả thực là do duyên phận”. Đang nói bỗng có một cơn gió nổi lên từ lòng đất, lớp ngói trên mái đình không ngừng kêu lách cách, Phượng Cửu được Đế Quân ôm trong lòng, vẫn không có dấu hiệu sẽ thức dậy, mặt trăng trên trời bỗng nhiên được kéo gần lại, phía trước mặt trăng hiện lên một tảng đá lớn, một lão tiên giả râu tóc bạc phơ đang đứng bên tảng đá lớn đó.

Đây chính là thuật Điệp Trụ. Người rơi vào mộng cảnh này nếu sử dụng pháp thuật quá mạnh sẽ dễ khiến mộng cảnh tan vỡ, mà thuật Điệp Trụ chính là pháp thuật mạnh nhất. Nếu người tạo thế có ở đây, mộng cảnh này dù bị tan vỡ vẫn có thể dễ dàng khôi phục lại, nhưng nếu mấy người bọn họ rơi vào nguy hiểm, mất mạng luôn ở đây cũng chưa biết chừng. Tô Mạch Diệp vội tiến lên phía trước: “Tuyệt đối không thể thực hiện pháp thuật này được, vùng đất này đã có chút rung chuyển, Đế Tọa xin hãy bình tĩnh, bình tĩnh!”.

Lão tiên giả bên cạnh tảng đá lớn cất tiếng nói với một khuôn mặt hiền từ: “Theo lão thấy, Đế Quân còn bình tĩnh hơn vị tiên liêu này nhiều, có thể do tiên liêu đang ở trong đó nên không phát hiện ra rằng thế giới này vốn dĩ đã có hiện tượng sụp đổ rồi? Đế Quân có sử dụng thuật Điệp Trụ gọi lão tới để hỏi về thiên mệnh hay không, mộng cảnh này cũng không thể cầm cự được bao lâu nữa”.

Tô Mạch Diệp sững người lại.

Lão tiên giả chắp hai tay lại, nói với Đông Hoa: “Lão trông giữ đá Thiên Mệnh đã mấy vạn năm, không ngờ người đầu tiên gọi lão tới để thăm dò về thiên mệnh lại chính là Đế Quân. Tạo hóa, số kiếp của vạn vật trên thế gian đều nằm trong tay của Đế Quân, Đế Quân không phải là người bị rối trí vì thiên mệnh, lần này lại dùng cả thuật Điệp Trụ để gọi lão tới gặp, lão ngu muội không biết Đế Quân muốn tìm hiểu điều gì từ đá Thiên Mệnh?”.

Đá Thiên Mệnh chắn ngang trước mặt trăng tròn đã phình to hơn một chút theo lời nói của lão tiên giả, có thể nhìn thấy những dòng chữ đậm nhạt trên mặt đá, Đông Hoa chậm rãi nói: “Duyên phận giữa bản quân và Phượng Cửu ở Thanh Khâu, đá Thiên Mệnh đã chú giải như thế nào?”.

Tô Mạch Diệp sững lại, lão tiên giả cũng sững lại, sau đó mới nói: “Đá Thiên Mệnh khắc thiên mệnh của thần tiên, Đế Quân cũng biết, mặc dù có cách nói số kiếp định sẵn, nhưng thiên mệnh mà người khác không biết mới được định sẵn, nếu người khác đã biết về thiên mệnh, nó sẽ thay đổi theo, cho dù hôm nay lão nói cho Đế Quân biết trên đá Thiên Mệnh khắc những gì về mối quan hệ giữa Đế Quân và vị điện hạ kia, nhiều nhất là ngày hôm sau, những thứ khắc trên đó sẽ không giống như ngày hôm nay nữa, có thể sẽ thay đổi theo chiều hướng tốt, cũng có thể thay đổi theo chiều hướng xấu, nếu Đế Quân hỏi xong, mối nhân duyên với vị điện hạ kia trở nên xấu đi thì làm thế nào, lão cho rằng Đế Quân… vẫn không nên hỏi thì hơn”.

Trận gió lớn do thuật Điệp Trụ gây nên vẫn không ngừng thổi, Đông Hoa lạnh lùng nói trong cơn gió dữ dội: “Còn có điều gì tệ hại hơn việc bản quân không có duyên phận với Đế cơ của Thanh Khâu?”.

Lão tiên giả tỏ vẻ kinh ngạc, nhưng chỉ thoáng hiện qua trên khuôn mặt, lại thở dài nói: “Đế Quân tiên liệu rất đúng, Đế Quân và vị tiểu điện hạ của Thanh Khâu này, vốn dĩ là không hề có dù chỉ nửa phần duyên phận. Tiểu điện hạ một lòng yêu Đế Quân, mặc dù khiến người cảm động, nhưng chuyện duyên phận, lại không thể dựa vào sức người. Theo những gì vốn được khắc trên đá Thiên Mệnh, vị tiểu điện hạ này… tình cảm si mê cũng đành phải chôn vùi, những nỗi đau khổ đã gánh chịu đều trở thành vô ích. Tuy nhiên”, đắn đo giây lát, nói: “Ba trăm năm trước Đế Quân đã đưa bóng mình xuống hạ giới, trên đá Thiên Mệnh sinh ra một biến số”.

Đế Quân trầm giọng nói: “Nói tiếp đi”.

Lão tiên giả vuốt râu nói: “Bóng của Đế Quân hạ giới, tiểu điện hạ cũng đưa bóng của mình hạ giới để theo đuổi Đế Quân, sự cố chấp này thật hiếm có, không biết liệu có phải đã khiến trời xanh cảm động hay không, sau khi bóng của tiểu điện hạ hạ giới, trên đá Thiên Mệnh lại tạo một mối nhân duyên cho hai cái bóng này. Thiên mệnh đã định, mối nhân duyên của hai cái bóng này bắt đầu từ trong một hang rắn, người được cứu sẽ lấy thân mình để báo đáp, người tới cứu sẽ được như ý nguyện, cuộc đời tuy cũng gặp chút trắc trở, nhưng không phải là những trắc trở quá lớn, sẽ được hạnh phúc viên mãn tới già”, lão tiên giả đưa mắt liếc nhìn Tô Mạch Diệp một cái: “Nhưng vị tiên liêu này lại vô tình xen vào, không may đã làm loạn số mệnh, sinh ra những trở ngại khác, chuyện thiên số, chỉ thay đổi một chút đã thay đổi toàn bộ, dẫn đến việc hai người vốn có duyên phận với nhau lại trở nên vô duyên vô phận. Phải làm thế nào đây, thật đáng tiếc, đáng tiếc”.

Sắc mặt của Tô Mạch Diệp trở nên trắng bệch, nói: “Ta lại vô tình trở thành kẻ có tội ư?”.

Lão tiên giả nói: “Mọi sự việc đều có hai mặt, không thể chỉ nhìn nhận theo một phía, mặt này là có tội, chưa biết chừng mặt khác lại là một công đức, tiên liêu không cần quá bận tâm như vậy, nếu chỉ xét về chuyện này, Đế Quân thực ra còn cần phải cảm ơn ngài”. Ông thở dài: “Hai vị đó duyên phận còn chưa hết, nhưng cái bóng lại không có kiếp sau, đá Thiên Mệnh bèn đem mối duyên còn chưa hết của họ gắn vào Đế Quân và tiểu điện hạ, do đó mới có cuộc gặp gỡ chính thức giữa tiểu điện hạ và Đế Quân sau này, nếu không như vậy, số mệnh của Đế Quân và tiểu điện hạ phải là mãi mãi không thể gặp được nhau”.

Nói đến đây, lại có chút đắn đo, nói: “Đế Quân và tiểu điện hạ giờ đây thực ra cũng có thể coi là có duyên, chỉ có điều Đế Quân đã hỏi rồi, ngày mai đá Thiên Mệnh tất nhiên sẽ có thay đổi, Đế Quân và tiểu điện hạ sau này có duyên hay vô duyên, lão không thể phân biệt được, chỉ là lão cảm thấy rằng, nếu chút nhân duyên mỏng manh khó khăn lắm mới có được lại tan biến vì sự dò hỏi của Đế Quân, thì có phần đáng tiếc”.

Đông Hoa lạnh nhạt nói: “Thiên mệnh nói có duyên thì sao, vô duyên thì sao, bản quân chưa từng sợ thiên mệnh, cũng không cần thiên mệnh bố thí”.

Lão tiên giả chấn động, chắp tay vái, nói: “Lão nghe nói Đế Quân đã thoái ẩn, càng ngày càng không bận tâm đến thế sự, hôm nay gặp mặt, chủ nhân vẫn là chủ nhân, những lời nói vừa rồi của lão chắc có phần vượt quá giới hạn, nhưng thấy chủ nhân như vậy, lão cảm thấy vô cùng vui mừng”.

Trong khi lão tiên giả tiếp tục vái lạy, mái đình bỗng rung chuyển mạnh, gạch ngói rơi xuống nền đất, gỗ đá lăn lông lốc, Tô Mạch Diệp vịn vào cột đình, nói với Đông Hoa: “Là do thuật Điệp Trụ sao?”.

Đế Quân đưa tay lên rút thanh kiếm Thương Hà vẫn cắm trên cột đình, nói: “Là do Trầm Diệp”.

Gió mát vẫn như bình thường, trăng bạc vẫn như bình thường, nhưng dưới trăng thanh gió mát, thế giới do Trầm Diệp tạo ra lại đang rung chuyển dữ dội, núi cao đổ sập nước chảy đổi dòng, tiếng người khóc than vang lên không ngớt bốn phía xung quanh, đó là dấu hiệu của việc thế giới này sắp sụp đổ.

Trầm Diệp – chủ nhân tạo dựng nên thế giới này đã muốn tìm đến cái chết, thế giới này đương nhiên sẽ sụp đổ khi bọn họ tìm thấy Trầm Diệp bên bờ sông Tư Hành, quả nhiên thấy chàng ta đã chìm sâu xuống nước.

Dòng Tư Hành tung bọt trắng xóa thường ngày giờ phẳng lặng như một tấm gương, dòng nước đục giờ cũng hóa thành nước suối trong vắt, có thể nhìn rõ khuôn mặt yên bình tuấn mỹ của thần quan áo đen dưới đáy sông, dường như chưa từng có nỗi đau nào, cũng chưa từng có phiền muộn nào.

Tô Mạch Diệp không thể nói rõ được mình cảm thấy đồng cảm hay áy náy đối với Trầm Diệp, trên thế gian này có mối tình vì ngẫu nhiên mà bất thành như thế này, rõ ràng là hai người có tình cảm với nhau, nhưng lại phải cách biệt chân trời góc bể, ban đầu là sinh ly, sau đó là tử biệt. Thế nhân nói khi yêu, điều đau khổ nhất là sống không thể gặp gỡ, chết không thể ở bên nhau. Thế nhân nói như vậy là có phần giảm nhẹ. Khi yêu, điều khiến người ta đau lòng nhất phải là rõ ràng rất yêu nàng, nhưng tới khi chết nàng vẫn không hề hay biết, còn ngươi thì không thể nào cho nàng biết được nữa.

Tô Mạch Diệp cất lời: “Thực ra ta vẫn luôn nghi hoặc, Trầm Diệp đã tạo ra mộng cảnh này, tại sao lúc đó còn cứu Quất Nặc, để bi kịch lại xảy ra trong mộng cảnh này như đã từng xảy ra trước đây chứ?”.

Đông Hoa lạnh lùng nói: “Cứu Quất Nặc mới có thể ép Khuynh Họa phản lại Thượng Quân, Thượng Quân chết chàng ta chắc sẽ tìm cách để A Lan Nhược kế vị, kiếp trước, A Lan Nhược chết vì không có quyền lực, chắc hắn muốn cho nàng thứ đó, cho dù hắn không ở đó, cũng vẫn có thể bảo vệ được nàng”.

Tô Mạch Diệp im lặng. Khi định thần lại, thấy Đế Quân vuốt nhẹ trên vầng trán của Phượng Cửu lúc này vẫn đang say ngủ, giữa các ngón tay tụ lại một chùm sáng màu trắng bạc, Tô Mạch Diệp buột miệng nói: “Đây là…”

Đế Quân tiếp lời: “Khí trạch của A Lan Nhược mà Trầm Diệp nhọc công thu thập mặc dù bị Tiểu Bạch nuốt gọn rồi, lại phân tách nó ra thực cũng không phải là việc khó”. Vừa nói vừa tách đôi mặt nước sông Tư Hành, dòng nước biếc cuộn sóng, chùm ánh sáng màu trắng đó từ từ thâm nhập vào cơ thể của Trầm Diệp.

Khi sóng nước khép lại, đã không còn nhìn thấy hình bóng của thần quan áo đen dưới đáy sông nữa, trong nước lại mọc lên một cây tứ quý song sinh, cây vươn cao ngút trời, hoa nở đầy cành.

Đông Hoa giơ tay lên, cây tứ quý hóa thành cây non rơi vào lòng bàn tay chàng, chàng chăm chú ngắm nhìn trong giây lát, đưa cho Tô Mạch Diệp, nói: “Sau khi ra khỏi đây hãy đưa nó cho Tức Trạch, đem trồng trong Kỳ Nam thần cung”.

Tô Mạch Diệp đón lấy cây non, ấp úng nói: “Trầm Diệp nếu chết đi, hồn phách đương nhiên sẽ hóa thành bóng của Đế Tọa, trừ phi Đế Tọa…”.

Đông Hoa gật đầu nói: “Ta đã phong ấn nó trong cây này rồi”. Dừng lại một lát, nói: “Ngay cả một nửa cái bóng hóa thành A Lan Nhược của Tiểu Bạch cũng được ta phong ấn trong đó. Hai người bọn họ, vốn là người chết thì vạn sự đều tan biến, nhưng vạn sự trên thế gian nếu đều tuân theo lẽ thường tình thì khó tránh khỏi thiếu đi không ít điều thú vị. Phong ấn họ vào trong đó, nghìn vạn năm sau, liệu bọn họ có thể có chút tạo hóa nào hay không, thì còn phải xem ý trời”.

Phía sau lưng bỗng nhiên xuất hiện lửa cháy dữ dội, tiếng rắc rắc không biết vang lên từ phương nào, giống như tiếng nứt của lưu ly, kiếm Thương Hà nghe động liền xuất bao, lập tức hóa thành hàng nghìn vạn bóng kiếm, kết thành một kiếm chướng vững chắc hơn tiên chướng hộ thể nhiều, bảo vệ tuyệt đối cho ba người bên trong kiếm chướng.

Cùng với một tiếng nổ rách trời, đến khi mở mắt ra nhìn, họ đã đang ở trong suối Giải Ưu của Phạn Âm Cốc.

Trên mặt hồ rỗng tâm với bốn bức tường nước xung quanh, Liên tam điện hạ của Cửu Trùng Thiên thò đầu ra ngoài bàn cờ, từ trên cao nhìn xuống, chào hỏi họ: “Ồ, ba vị anh hùng cuối cùng cũng trở về rồi”. Chàng ta tươi cười rạng rỡ nói với người đối diện: “Bọn họ đã quay trở lại mà không hề tổn hại tới một sợi tóc, ván này bản tọa đã thắng một cách tuyệt đối rồi, ha ha, mau trả tiền đi, trả tiền đi”. Một cái đầu đang ngủ gà ngủ gật trên bàn cờ lập tức nhổm dậy, lộ ra một khuôn mặt như hoa như ngọc, vừa nhìn thấy ba vị anh hùng bình an trở về, lập tức nổi giận nói: “Tiểu Cửu sao vậy, tại sao tên Mặt lạnh đứng thẳng đi ra còn Tiểu Cửu lại được bế ra, mỗ quả nhiên anh minh, sớm đã nói rằng Mặt lạnh không nhân nghĩa như mỗ, không biết thương hoa tiếc ngọc!”. Tô Mạch Diệp chóng hết cả mặt, nhìn hai người trên mặt hồ, nói: “Đấu khẩu quả thực là một chuyện thú vị, nhưng nhị vị có thể tạm nghỉ một chút, tìm một nơi cho chúng ta nằm nghỉ không?”.
 
Tham gia
6/7/19
Bài viết
101
Điểm cảm xúc
41
Điểm
28
01.

Liên Tống quân thực ra không phải là một tiên giả chính trực, thường làm những việc trái với lương tâm, nhưng vì Liên Tống quân chưa từng cảm thấy những việc trái với lương tâm này có gì to tát, do đó hiếm khi thấy lương tâm bất an, nói theo cách của Liên Tống, đó chính là phong độ ung dung tự tại của chàng ta, nói theo cách của Thành Ngọc Nguyên Quân – người mà Liên Tống rất thích, thì là một kẻ khốn kiếp ngang ngược, làm sai không cần phải giải thích.

Kẻ khốn kiếp ngang ngược Liên Tống quân hôm nay lại vì lương tâm bất an mà có chút buồn bã và u uất.

Nói đến sự buồn bã và u uất của Liên Tống quân, không thể không nhắc tới Đông Hoa Đế Quân.

Sau khi ba người Đế Quân ra khỏi giấc mộng của A Lan Nhược, đám tiên bộc tinh ý của bộ tộc Tỷ Dực Điểu không cần ai căn dặn, đã cẩn thận chuẩn bị sẵn ba phòng nghỉ gần nhau cho ba vị. Đế Quân bế Phượng Cửu tùy ý bước vào một trong ba phòng đó, Liên Tống quân biết ý, đang định kêu đám tiên bộc không cần vào trong hầu hạ, lại thấy Đế Quân đã bước vào bên trong đột ngột xuất hiện ở cửa: “Đệ vào đây một chút”.

Liên Tống quân cảm thấy có phần khó hiểu, chàng cố ý tạo ra thời cơ này để hai người bọn họ cùng ở một nơi, cùng trò chuyện kết nối tình cảm, vừa thoát nạn mà, đây chính là thời cơ tốt để thổ lộ tình cảm, những lúc như thế này là lúc mỹ nhân thường mềm yếu nhất, chỉ cần dịu dàng ân cần một chút là sẽ có được nàng ngay, thời khắc quan trọng để có được mỹ nhân như vậy, Đông Hoa gọi mình vào để làm gì chứ?

Liên Tống mơ mơ hồ hồ bước vào trong phòng, nhìn mỹ nhân Phượng Cửu mặc nguyên quần áo nằm ngủ trên giường, sững lại, nói: “Huynh sử dụng thuật hôn mê trên người nàng ấy làm gì, đệ thấy sau khi mọi người ra ngoài, nàng ấy đã có dấu hiệu tỉnh lại, huynh lo lắng cho nàng ấy, mong nàng ấy ngủ thêm chút nữa để dưỡng thần đệ có thể lý giải được, nhưng thực ra ngủ nhiều quá cũng không tốt…”.

Đế Quân vừa dùng hai dải lụa đen buộc chặt ống tay áo vừa nói: “Hãy giúp ta trông coi nàng, trước khi ta quay lại, đừng để nàng thức giấc”.

Liên Tống nhìn ống tay áo đã được buộc chặt của chàng, nói: “Đây chẳng phải là trang phục khi luyện đan của huynh sao?”, quan tâm nói: “Lẽ nào Phượng Cửu đã nhiễm bệnh nặng?”.

Đế Quân chằm chằm nhìn chàng ta: “Còn nguyền rủa Tiểu Bạch mắc bệnh nặng thêm một lần nữa ta sẽ đánh cho đệ nhiễm bệnh nặng thật đấy”.

Liên Tống quân sán lại gần quan sát kỹ sắc mặt của Phượng Cửu: “Vậy tại sao huynh…”.

Đế Quân thở dài nói: “Nàng không muốn gặp ta, vì vậy trong giấc mộng của A Lan Nhược, khi ở bên cạnh nàng, ta đã phải giả mạo thân phận của Tức Trạch, nhưng khi nàng tỉnh dậy nhớ lại chuyện này nhất định sẽ khó xử lý, bình linh đan của Lão Quân mà ngươi mang tới, lúc này đã dùng đến rồi đây”.

Liên Tống kinh ngạc: “Huynh định cho nàng uống linh đan để nàng quên hết mọi chuyện trong giấc mộng của A Lan Nhược ư?”.

Đông Hoa chỉnh lại tay áo, lạnh nhạt nói: “Ta không hề muốn nàng quên tất cả mọi việc, vì vậy mới cần luyện lại bình linh đan đó, thay đổi công dụng của nó một chút, viết lại toàn bộ những ký ức ấy của nàng, đặc biệt là những chuyện mà ta giấu nàng”.

Liên Tống sững sờ nói: “Đây là cách mà huynh nghĩ ra sao?”. Một thánh tình như chàng tuyệt đối không nghĩ ra được cách giải quyết nào thô lỗ mà trực tiếp như vậy, nhất thời kinh ngạc tới nỗi không biết nói gì, mãi sau mới bừng tỉnh lại, nói: “Mặc dù nói thật với nàng có phần mạo hiểm, nhưng đợi nàng tỉnh lại, huynh cứ thật thà nói ra hết mọi chuyện rồi xin nàng tha thứ mới là cách giải quyết tận gốc vấn đề, huynh làm như vậy, nếu có một ngày, nàng biết rõ chân tướng sự việc, chẳng phải sẽ càng khó xử lý hơn sao? Huynh hãy suy nghĩ lại đi”.

Đế Quân đưa tay lên day trán: “Ta đã hỏi đá Thiên Mệnh, đá Thiên Mệnh nói rằng duyên phận của chúng ta rất mong manh, không thể chịu được quá nhiều trắc trở. Trong chuyện của ta, Tiểu Bạch nàng… luôn có chút khúc mắc, lúc này nếu để nàng nhớ lại những việc ta đã giấu nàng trong giấc mộng của A Lan Nhược, sau đó không biết sẽ gây ra chuyện gì nữa, duy chỉ có việc này là ta không dám mạo hiểm, suy đi tính lại, cách này vẫn là tốt nhất”.

Liên Tống quân thở dài nói: “Sớm biết như vậy, trong giấc mộng đó, huynh không nên đóng giả làm Tức Trạch để lừa nàng”. Lại trêu đùa nói: “Thấy nàng gần gũi với Tức Trạch mà huynh giả mạo, huynh không cảm thấy ghen tức sao?”.

Đông Hoa cau mày khó hiểu: “Tại sao ta phải ghen, ta chẳng qua chỉ mượn thân phận của Tức Trạch mà thôi, ta vẫn là ta, nàng lại yêu ta thêm một lần nữa lẽ nào chẳng phải là vì đời này, nàng không thể yêu ai khác ngoài ta sao?”.

Liên Tống cười trừ, nói: “Huynh nói đúng”.

Đế Quân nói xong liền nhanh chóng bước ra cửa, bỏ lại Liên Tống ngồi bên giường thở dài, thời khắc quan trọng nếu quá thận trọng chưa biết chừng sẽ làm hỏng việc lớn, hành động dứt khoát quả là tác phong của Đế Quân, nhưng quyết định lần này của Đế Quân khiến Liên Tống mơ hồ cảm thấy có phần lo lắng. Việc lừa dối tiểu hồ ly giờ đây chàng cũng được coi là một nửa tòng phạm. Liên Tống quân u uất nhìn về phía chiếc giường, lại buồn bã thở dài. Tiểu hồ ly ngây thơ lương thiện, thực ra chàng có chút không nỡ ra tay lừa dối nàng. Nhưng nếu không lừa dối nàng, Đế Quân sẽ xuống tay với chàng, mà chắc chắn sẽ ra tay rất mạnh. Có lừa dối không? Không lừa dối? Thôi cứ lừa dối vậy.

Khi Phượng Cửu mở mắt ra, trời đã vào đêm, nửa vầng trăng sáng ngoài cửa sổ chiếu vào hồ nước suối nóng trong phòng, mặt nước khẽ dập dềnh, lấp lánh như vẩy cá, hương hoa thanh mát phảng phất, nhờ ánh trăng nàng ngẩng đầu lên nhìn, hóa ra bên cạnh rèm trướng có treo một tấm gỗ sơn, bên trên đó là một chậu hoa ma ha mạn thù sa đang nở rộ. Nếu nàng không nhớ nhầm, đây là hành cung mà nữ vương sắp xếp cho Đế Quân ở trong Phạn Âm Cốc. Bọn họ đã trở về rồi ư?

Phượng Cửu ngây người hồi lâu lặng ngắm chậu hoa ma ha mạn thù sa đỏ thắm treo trên đầu, đúng rồi, Đế Quân đã đổi quả tần bà cho Cơ Hoành, khi nàng tới lấy trộm quả quý đã bị rơi vào giấc mộng của A Lan Nhược, Đế Quân đuổi theo cứu nàng, còn hôn nàng, nói với nàng rất nhiều lời dịu dàng, nàng liền tha thứ cho Đế Quân, sau đó hồn phách của nàng không hiểu sao lại nhập vào thân xác của A Lan Nhược, còn Đế Quân không hiểu sao lại trở thành Tức Trạch, A Lan Nhược và Tức Trạch vốn là phu thê, nàng và Đế Quân liền trở thành phu thê, Đế Quân đã tết vòng hoa cho nàng, đứa nàng đi chơi tết Nữ nhi, đưa nàng đi thả câu, cùng nàng ngắm hoa, mái tóc dài ướt mèm, sự âu yếm dưới tán lá sen, nụ hôn của Đế Quân… Phượng Cửu bỗng chốc trở nên tỉnh táo, hồi lâu, khẽ lẩm bẩm nói: “Thực ra là đang nằm mơ đúng không…”.

Cảm thấy bên cạnh mình có thứ gì đó cử động, nàng chậm chạp quay người lại, dưới ánh trăng mờ mờ lại đối diện với một khuôn mặt. Gương mặt khi ngủ của Đế Quân. Trái tim của Phượng Cửu lỡ nhịp. Hoặc giả thực ra không phải đang nằm mơ, chỉ là khát vọng mà nàng chôn giấu nơi sâu thẳm nhất trong tim, khát vọng mà cho dù đã bao nhiêu lần nói rằng phải từ bỏ nhưng vẫn không thể từ bỏ được, nay lại trở thành sự thật, nhất thời chưa thể quen được, vì vậy đêm đêm, khi tỉnh dậy từ giấc ngủ lại cứ ngỡ rằng mình đang mơ?

Đế Quân thích nằm nghiêng khi ngủ, thích làm rối tung mái tóc, nàng khẽ mím miệng cười, đưa tay vuốt lại món tóc rối trước trán chàng, chậm rãi, ngón tay trắng ngần lại men theo chiếc đai trên trán, trượt xuống mái tóc trắng sau vai chàng.

Đúng rồi, là thật.

Nàng không ngủ được, lặng lẽ ngắm nhìn khuôn mặt đang say ngủ của chàng, lòng bỗng trở nên mềm mại, vươn người hôn lên khóe môi chàng, áp sát vào môi chàng hồi lâu, liền thấy chàng mở to đôi mắt còn có phần mơ màng, đôi môi của nàng vẫn kề sát bên khóe môi chàng, khẽ hỏi: “Tỉnh rồi ư?”.

Chàng nhìn nàng một hồi, lại nhắm mắt lại, đưa tay ôm nàng vào lòng, dúi đầu lên vai nàng, mơ màng nói: “Vẫn còn hơi buồn ngủ, đợi ta một lát”.

Hơi thở của chàng sát bên tai khiến nàng thấy hơi buồn buồn, cũng vòng tay ôm lại chàng, khẽ cười nói: “Vẫn còn sớm, chàng ngủ tiếp đi, em sẽ không quấy rầy chàng”.

Giọng nói của chàng đã có phần tỉnh táo, khẽ nói: “Còn nàng?”.

Bàn tay nàng ấn lên huyệt An Miên phía sau tai chàng, day rất nhẹ, dịu dàng nói: “Em đã ngủ đủ rồi, chúng ta đã có thể trở về, chắc chàng đã tốn nhiều sức lực, để em day cho chàng, chàng ngủ đi”.

Chàng khẽ “ừm” một tiếng, âm cuối mang nặng giọng mũi, hoàn toàn không giống với vẻ lạnh nhạt bình thản thường ngày của chàng, khiến trái tim nàng lập tức tan chảy, lực day của bàn tay lại càng nhẹ nhàng hơn, dịu dàng hơn, còn đôi môi của chàng bỗng đặt lên cổ nàng, nàng hơi nghiêng đầu né tránh chàng: “Chẳng phải chàng nói rằng vẫn còn buồn ngủ sao?”.

Giọng nói của chàng mơ hồ vang lên bên tai nàng: “Nằm một lúc, thấy không quá buồn ngủ nữa”.

Nàng hơi nhích người ra một chút, nhìn ngắm khuôn mặt vừa mới tỉnh dậy sau giấc ngủ của chàng, dưới ánh trăng, cặp đồng tử sâu thẳm, đen láy, sống mũi cao, đôi môi hơi mím lại, kết hợp với mái tóc trắng vừa được vuốt thẳng ban nãy giờ lại hơi rối, có một vẻ uể oải mê hoặc. Chàng cũng chăm chú nhìn nàng. Nàng không nói thành tiếng, chỉ dùng khẩu hình: “Định làm chuyện xấu ư?”. Liền thấy chàng hơi nhướn mày, nụ cười nở trong ánh mắt. Nàng ngây người, sán lại chủ động gắn đôi môi mình lên môi chàng. Nhưng chàng lập tức hôn lại, đánh thành chiếm đất, không hề nương tay. Nàng ghì chặt lấy chàng.

Phía ngoài cửa bỗng vang lên tiếng vỡ loảng xoảng, một vạt áo trắng lướt qua khe cửa, bỏ lại những mảnh vỡ của viên dạ minh châu vương trên nền đất, le lói chút ánh sáng dưới ánh trăng. Phượng Cửu giật mình bởi tiếng động đó, đang định nhổm người dậy, vừa mới nhổm được nửa người đã bị Đông Hoa dùng chăn ngăn lại.

Phượng Cửu vô cùng xấu hổ khẽ lí nhí bên trong tấm chăn: “Nơi đây hiện giờ là… là nơi ở của Tiểu Yến phải không, chàng… khi chàng đổi lại có phải chưa nói với huynh ấy một tiếng không”. Đông Hoa làm phép khóa chặt cửa lại, lại hóa phép làm biến mất những mảnh vỡ của viên dạ minh châu, sau đó mới nằm xuống kéo nàng từ trong chăn ra, khẽ nói: “Khi dọn trở lại đây đã nói qua với Yến Trì Ngộ rồi, ở đây có suối nước nóng có thể giải tỏa mệt mỏi, hắn ta tạm thời ở Tật Phong viện, ban nãy chỉ là do con chuột làm rơi chậu hoa mà thôi”. Nhìn nàng ửng hồng hai má, đóa hoa phượng vũ giữa trán vô cùng rực rỡ, đưa tay vuốt ve khóe mắt hoe đỏ của nàng: “Sao thế, hoảng sợ ư?”. Nàng liếc mắt nhìn chàng, gật gật đầu, chàng khẽ hỏi nàng. “Có ta bên cạnh mà vẫn sợ sao?”. Nàng nhìn chàng giây lát, nghiêng đầu sang một bên, nói nhanh: “Được rồi, không phải là sợ, mà là xấu hổ”. Chàng ngây người, đợi đến khi phản ứng lại đã thấy mình lại đang hôn lên đôi môi của nàng, còn nàng cũng chậm rãi vòng tay ôm lấy cổ chàng. Hương hoa trong phòng ngày càng nồng, ánh trăng chiếu vào, dường như cũng nhuốm chút hương thơm.

Sáng sớm hôm sau, Phượng Cửu nhận được thư của Tiểu Yến, nói rằng giữa đường gặp Mặt lạnh và Tô Diệp Mạch đi tới Kỳ Nam thần cung có việc, nghe nói nàng đã tỉnh lại, trong lòng vô cùng mừng rỡ, hỏi nàng có thể uống rượu, ăn thịt được không, nếu rượu thịt đều có thể cho vào bụng thì mời nàng nhanh chóng tới Túy Lý Tiên hẹn hò, Manh thiếu gia muốn từ biệt riêng với nàng trước. Cả bức thư chữ viết có thể coi là thanh tú, chỉ riêng từ “hẹn hò” dùng không được thỏa đáng lắm, Phượng Cửu bất giác cảm thán, mấy ngày không gặp, Tiểu Yến ngày càng có văn hóa rồi.

Trong thư còn kể lể thêm một vài chuyện khác nữa, đại ý nói là từ khi nàng rơi vào trong giấc mộng của A Lan Nhược, bộ tộc Tỷ Dực Điểu liền phát hiện ra thân phận hoàng tử và công chúa của bộ tộc Dạ Kiêu của hai người là giả, mặc dù vì có Đông Hoa và Liên Tống, bọn họ không dám tìm hiểu thêm, nhưng Manh thiếu gia đã hỏi riêng chàng ta vài lần, nghĩ tình bạn bè, chàng ta đã thẳng thắn cho Manh thiếu gia biết thân phận Ma quân Ma tộc của chàng ta, còn thân phận của nàng, tuy chàng ta nói không rõ ràng nhưng lại khiến Manh thiếu gia ngộ nhận nàng cũng là người của Ma tộc.

Tiểu Yến chân thành nói, muốn tiếp tục giấu Manh thiếu gia hay là nói ra hết đều tùy nàng, dù gì Manh thiếu gia ôm ấp một tình cảm sâu đậm với nàng trong truyền thuyết, mà Manh thiếu gia chắc chắn không thể thắng được Mặt lạnh, có lẽ vì sự an nguy của Manh thiếu gia, xem xem có phải cứ dứt khoát che giấu thì hơn không.

Phượng Cửu nắm phong thư trong tay, tâm tư có phần trĩu nặng.

Sáng nay Đế Quân đã nói với nàng, bọn họ đã ở trong Phạn Âm Cốc đủ lâu rồi, đợi khi chàng làm xong việc ở Kỳ Nam thần cung sẽ đưa nàng trở về Cửu Trùng Thiên. Đế Quân tới Kỳ Nam thần cung, chính là vì việc trồng cây tứ quý có phong ấn khí trạch của A Lan Nhược và hồn phách của Trầm Diệp vào trong thần cung. Quá khứ của Trầm Diệp và A Lan Nhược, nàng cũng đã nghe Đế Quân nói qua một chút giống như nghe kể chuyện, quả là một quá khứ khiến người ta xót xa, khiến nàng cũng cảm thấy có chút đau thương.

Nàng níu lấy Đế Quân hỏi thêm một vài chuyện nữa, cũng biết nữ vương trong cốc hiện nay quả nhiên chính là Quất Nặc. Quất Nặc trong giấc mộng của A Lan Nhược quả là đáng ghét, nhưng Quất Nặc vốn không phải là một thiếu nữ đáng căm hận gì, kế thừa ngôi vị nữ vương cũng coi như là tạo hóa của nàng ta. Nghe nói kết cục của Khuynh Họa lại có phần thê thảm, nghe nói sau đó Quất Nặc đã thành thân với một vương phu rất quyết đoán, hai người hợp lực nhốt Khuynh Họa vào thâm cung, năm thứ hai mươi sau khi bị giam Khuynh Họa đã phát điên, thi thoảng cất tiếng nói, phần lớn lại nhắc tới A Lan Nhược.

Phượng Cửu cảm thấy những chuyện này coi như đã kết thúc, cũng không có liên quan gì tới mình, duy chỉ phong thư trên tay này, Tiểu Yến lại nhắc tới đúng vấn đề một cách hiếm thấy.

Manh thiếu gia.

Manh thiếu gia rất nghĩa khí, đã thực sự coi nàng và Tiểu Yến là bạn bè, biết bọn họ sắp đi, còn tiễn biệt họ. Làm bạn, cần phải thật lòng, nhưng Manh thiếu gia… nàng cũng có chút mơ hồ không biết có nên nói rõ thân phận của mình với Manh thiếu gia hay không, hồi lâu, buông một tiếng thở dài, nhủ thầm đến lúc đó sẽ tùy cơ ứng biến vậy.


Đã hơn một tháng không gặp, Túy Lý Tiên vẫn hoành tráng như trước đây, Manh thiếu gia gần đây thường thích ngồi ở sảnh lớn, nói rằng như vậy sẽ gần gũi với người dân hơn, khi Phượng Cửu đến, loáng thoáng nghe thấy chàng ta đang kích động nói gì đó: “Bản thiếu gia tuy chưa từng gặp nàng, nhưng đoán rằng nàng nhất định là một giai nhân mặt hoa da phấn, tĩnh như mặt nước hồ mùa thu soi bóng trăng, bước đi tha thướt như cành liễu rủ trước gió, đoan trang hiền thục, ôn hòa hiền lành có lễ độ, nếu đem so sánh với hoa, duy chỉ có hoa sen mới sánh được với nàng, nàng có vẻ tao nhã và thanh khiết của hoa sen…”.

Phượng Cửu tiện tay nâng một ly trà trên bàn lên, nói: “Ai vậy? Ai mà được tâng bốc nghe khó tin vậy, là một nhạc cơ mới đến Túy Lý Tiên ư?”.

Tiểu Yến bắt đắc dĩ nhìn nàng một cái: “Manh thiếu gia đang miêu tả điện hạ Phượng Cửu của Thanh Khâu”.

Phượng Cửu trượt chân một cái, ngã nhào từ trên ghế xuống, tay cầm ly trà ngồi dưới đất, hồi lâu, nói: “Ờ”.

Nhìn thấy nàng bị ngã, Manh thiếu gia cuối cùng cũng ngừng nói, thở dài đưa một tay ra định kéo nàng đứng lên: “Mặc dù ngươi thường chơi cùng bọn ta, nhưng rốt cuộc vẫn là một cô nương, phải chú ý tới nghi dung thể hiện một chút, trước mặt bàn dân thiên hạ thế này mà lại ngồi bệt xuống đất thì còn ra thể thống gì nữa, cô nương thì vẫn phải giống một cô nương chứ”.

Phượng Cửu thụ giáo bò dậy, Manh thiếu gia tiếp tục hào hứng nói với Tiểu Yến: “Phượng Cửu điện hạ nhất định là một thục nữ danh môn hạng nhất, vì bản chất của nàng quá cao quý thanh khiết, hơn nữa lại ngây thơ lương thiện, yêu thích những con vật nhỏ bé, tuyệt đối sẽ không động chạm tới những thứ phàm tục như rượu thịt, là một nữ thần cao quý thật sự chỉ ăn gió uống sương, hơn nữa còn rất nhân từ, ngay cả một con muỗi cũng không nỡ đánh chết”.

Phượng Cửu – người vừa dùng chiếc đũa tre đâm chết một con ruồi lớn mơ màng nhìn Manh thiếu gia.

Tiểu Yến cuối cùng cũng không thể nghe được nữa, nói xen vào: “Tuy Phượng Cửu quả đúng là… à ờ, nói thế nào nhỉ, ờ, một giai nhân mặt hoa da phấn, lần sau nói chuyện với mỗ cứ nói những lời thực tế một chút, những lời văn vẻ này mỗ nhớ được sẽ rất đau đầu, vừa nói tới đâu nhỉ? Đúng rồi, giai nhân mặt hoa da phấn, Manh thiếu gia, Phượng Cửu trong tưởng tượng của huynh là như vậy, nhưng ngộ nhỡ nàng ấy không giống như thế, huynh còn yêu nàng ấy nữa không?”. Đưa tay chỉ về phía Phượng Cửu, nói: “Nếu nàng ấy như thế này, huynh còn yêu nàng ấy nữa không?”.

Manh thiếu gia nhìn Phượng Cửu, bật cười ha hả, cười to đến nỗi không thở được nữa: “Sao có thể như vậy được chứ”, chỉ về phía nàng, nói: “Nếu điện hạ Phượng Cửu như nàng ta, ta đành phải tìm một miếng đậu phụ mà đập đầu tự tử thôi”.

Tiểu Yến đau khổ quay đầu đi.

Phượng Cửu trấn tĩnh gặm nốt cái đùi thỏ trên tay phải, chậm rãi nói: “Ta quả thực là Phượng Cửu ở Thanh Khâu, tướng quân Thường Thắng là do ta tặng cho huynh, chiếc bình bằng sành đó cũng là ta tặng cho huynh, năm xưa khi ta cứu huynh, đã gọi huynh là Tiểu Minh, giấu huynh lâu như vậy, xin lỗi nhé”.

Trong tửu lầu nhất thời trở nên vô cùng yên lặng, Manh thiếu gia sững sờ nâng ly rượu trên tay, hồi lâu, giọng nói có phần run rẩy: “Ngươi thật sự là điện hạ Phượng Cửu, chính là điện hạ Phượng Cửu không chạm tới rượu thịt, ăn gió uống sương, yêu thích các con vật và côn trùng nhỏ bé đó ư?”.

Phượng Cửu đắn đó nói: “Có thể huynh đã có chút hiểu nhầm về ta, thực ra…”.

Manh thiếu gia run giọng ngắt lời nàng: “Ban nãy ngươi uống thứ gì vậy?”.

Phượng Cửu nhìn vào ly rượu trước mặt: “Rượu”.

Giọng nói của Manh thiếu gia lại càng trở nên run rẩy hơn: “Đã ăn thứ gì vậy?”.

Phượng Cửu nhìn vào mấy chiếc xương nằm trên bàn: “Thịt thỏ”.

Giọng nói của Manh thiếu gia có chút lạc hẳn đi: “Cây đũa tre trong tay người vừa đâm thứ gì vậy?”.

Phượng Cửu nhìn chiếc đũa tre trong tay trái: “Ruồi”.

Manh thiếu gia trợn ngược hai mắt, nghiêng người ngã vật xuống đất, Phượng Cửu và Tiểu Yến đồng thanh đau đớn hét lên: “Manh thiếu gia!”.

Vừa hay lúc đó Đông Hoa, Liên Tống, Tô Mạch Diệp cùng bước vào đại sảnh, nghe thấy tiếng hét đau đớn đó, Tô Mạch Diệp vội vã tiến lên vài bước, nhìn Manh thiếu gia đang nằm trên đất, kinh ngạc nói: “Chàng ta sao vậy?”.

Tiểu Yến ngồi xổm bên cạnh Manh thiếu gia nhìn ngắm hồi lâu, lại đưa tay ra chọc chọc vài cái, đau khổ nói: “Haizz, giấc mộng mấy chục năm của Manh huynh tan vỡ, vì không chịu nổi cú sốc đó nên đã ngất đi, tuy nhiên, may mà mỗ có mang theo thuốc tỉnh thần, đợi mỗ lấy ra cho huynh ấy ngửi một chút…”.

Chỉ một loáng sau, Manh thiếu gia – người vừa chịu một cú sốc lớn dần dần tỉnh lại nhờ thuốc tỉnh thần, bò dậy thất thần liếc nhìn Phượng Cửu một cái, đẩy mạnh Tiểu Yến đang ngồi xổm trước mặt mình ra, vừa khóc vừa chạy ra khỏi tửu lâu: “Nữ nhân, ta sẽ không bao giờ tin vào nữ nhân nữa, ngay cả người phụ nữ mà ta sùng bái cũng như thế này, còn trông mong gì vào những nữ nhân khác dưới gầm trời này chứ!”.

Liên Tống phe phẩy cây quạt, không hiểu chuyện gì đang xảy ra, nói: “Chàng ta rốt cuộc đã phải chịu cú sốc gì, xem ý tứ của chàng ta, dường như từ giờ sẽ thích nam nhân? Nữ nhân thì ta quen biết rất nhiều, còn nam nhân ấy à…”, chợt nhìn Tô Mạch Diệp như nghĩ ngợi điều gì đó: “Giới thiệu ca ca của ngươi cho chàng ta thì thế nào?”.

Mạch thiếu gia nhìn theo bóng dáng của Manh thiếu gia: “Ca ca của ta… thích những người dũng mãnh, Manh hoàng tử… có lẽ chưa đủ dũng mãnh”.

Trong tay Phượng Cửu vẫn cầm miếng đùi thỏ đang gặm dở, ánh mắt nhìn Tiểu Yến có phần rầu rĩ: “Ta chưa từng nghĩ ta lại ép huynh ấy thành đoạn tụ, chúng ta có nên đuổi theo không, ngộ nhỡ huynh ấy nhất thời nghĩ quẩn…”.

Tiểu Yến liếc nhìn Đông Hoa một cái, lại nhìn Phượng Cửu, than rằng: “Haizz, đoạn tụ thì đoạn tụ, nếu huynh ấy còn dám thích muội nữa, thì không chỉ đứt tay áo (đoạn tụ) thôi đâu. Cứ để huynh ấy ra ngoài khóc lóc một chút cũng tốt, chưa biết chừng khóc xong sẽ nghĩ thông suốt, theo cao kiến của mỗ, ta và muội đuổi theo chẳng qua càng khiến huynh ấy thêm đau lòng, không đuổi theo vẫn hơn, nào nào, chúng ta hãy ăn thịt thỏ đi”.

Mọi người cùng ngồi xuống chia phần chỗ thịt thỏ, thần sắc của Đế Quân không rõ là vui hay buồn, Phượng Cửu ghé sát bên tai chàng thì thầm: “Món thịt này chẳng có gì ngon, lừa gạt bọn họ thì còn được chứ sao qua mặt được em, về nhà em làm ngon hơn cho chàng ăn”.

Ánh mắt của Đế Quân cuối cùng cũng có chút ý cười, đáp: “Được”.

Nàng tiếp tục thì thầm bên tai chàng: “Hôm nay dậy sớm như vậy, chàng chắc chắn còn rất buồn ngủ, lát nữa lặng lẽ chuồn về trước, chàng ngủ thêm một lát, em hầm canh bổ thần cho chàng, chàng tỉnh dậy là có thể uống rồi”.

Giọng nói của Đế Quân cũng nhẹ nhàng hơn một chút, đáp: “Được”.

02.

Bình an trở về từ giấc mộng của A Lan Nhược, Phượng Cửu nhẩm tính, những người quen nàng đều gặp cả rồi, chỉ còn sót lại một người, đó chính là Cơ Hoành. Giờ đây nàng mặc dù đã biết rõ Đông Hoa không có tình ý gì với Cơ Hoành, hơn nữa, qua Tiểu Yến, nàng cũng biết năm xưa Đông Hoa nhận lời lấy Cơ Hoành cũng là do có ẩn tình, nhưng chính tai nàng từng nghe Cơ Hoành bày tỏ tình cảm si mê với Đông Hoa, do đó, mấy ngày hôm nay không thấy Cơ Hoành tới quan tâm đến Đông Hoa, nàng cảm thấy đó là một chuyện may mắn. Với tình ý mà Cơ Hoành dành cho Đông Hoa, Cơ Hoành lại có thể nín nhịn tới mấy ngày không tới gặp, nàng cảm thấy cũng rất kỳ lạ, sau khi cảm thấy kỳ lạ lại cảm thấy rất khâm phục.

Nhưng nàng chẳng qua chỉ khâm phục Cơ Hoành được ba ngày năm canh giờ, Cơ Hoành không kìm nén được nữa, đã xuất hiện rồi.

Đó là ngày Đế Quân đưa nàng ra khỏi cốc, Phạn Âm Cốc này mặc dù có thể nói là một nơi ra dễ vào khó, nhưng với những người tu vi còn hạn chế, nếu muốn ra khỏi cốc vào ngày cốc không mở cũng có chút khó khăn, trừ khi được một vị tiên giả có tu vi cao thâm dẫn ra, Đế Quân đưa nàng ra là có ý muốn dẫn dắt nàng.

Tô Mạch Diệp đã thay mặt Đế Quân dặn dò từ trước, nói rằng Đế Quân thích thanh tịnh, không cần cả bộ tộc Tỷ Dực Điểu tới đưa tiễn, cũng miễn luôn cả bữa tiệc thịnh soạn mà nữ vương đã chuẩn bị xong, bảo đảm sự thuận tiện và yên tĩnh cho sơn đạo dẫn tới cửa cốc. Đã lâu rồi Phượng Cửu không dậy sớm tản bộ, đêm qua lại ngủ muộn, khó tránh khỏi vừa đi vừa buồn ngủ, thấy cỏ cây hai bên đường tươi thắm với những giọt sương mai đáng yêu cũng không khiến tinh thần của nàng rộng mở hơn. Rẽ qua một khúc ngoặt, một hồ nước hiện ra ngay trước mặt, Phượng Cửu đắn đo xem có nên tới đó vốc nước lên rửa mặt cho tỉnh táo, trong tầm nhìn mông lung, liền phát hiện ra bóng áo trắng phất phơ bay trong gió đêm bên hồ nước của Cơ Hoành.

Tiểu Yến sắc mặt không được tốt lắm đứng cách một trượng sau lưng Cơ Hoành. Để có thể giành được thành công trong chữ “tình”, hôm trước, Tiểu Yến đã nói rằng sẽ không cùng bọn họ ra khỏi cốc mà muốn tạm thời ở lại trong cốc cùng với Cơ Hoành, cho dù trên con đường tình mông lung còn gặp nhiều trắc trở, cũng quyết tâm sẽ bôn ba vất vả cùng với Cơ Hoành trên con đường tình này.

Thấy tình cảnh này… Tô Mạch Diệp vuốt ve cây tiêu ngọc bích khẽ nói với Liên Tống: “Hai người chúng ta có nên tạm lánh đi một chút không?”.

Trò vui hiếm có vạn năm mới gặp được một lần này, hơn nữa lại là trò vui có liên quan tới Đông Hoa Đế Quân, Liên tam điện hạ hận một nỗi không thể tiến sát lại gần để nhìn cho rõ hơn, nghe cho kỹ hơn, nghe Mạch thiếu gia nói vậy, phạch một tiếng mở cây quạt trong tay, che miệng khẽ ho một tiếng, nói: “Ngươi… tránh đi cũng tốt, ta ư, ta xem xem, khụ khụ, ta xem xem…”.

Cơ Hoành và Tiểu Yến rảo bước lại gần, khi chỉ còn cách Đế Quân vài bước liền dừng lại, hôm nay Cơ Hoành đặc biệt trang điểm, đôi mày cong cong như mảnh trăng lưỡi liềm, đôi môi đỏ thắm, chỉ riêng tới đôi mắt hơi sưng như vừa khóc, nhưng không hề ảnh hưởng tới khuôn mặt xinh đẹp mỹ miều này. Cơ Hoành vốn không đẹp kiểu yếu đuối đáng thương, giờ đây lại có thêm chút phong tư ai nhìn cũng thấy thương.

Ánh mắt của Cơ Hoành dừng lại trên bàn tay phải của Đế Quân, sắc mặt trở nên trắng bệch.

Phượng Cửu chưa ngủ đủ, hôm nay đầu óc trở nên vô cùng chậm chạp, liếc nhìn theo ánh mắt của Cơ Hoành. Bàn tay phải của Đế Quân đang nắm lấy bàn tay trái của nàng, nàng bỗng nhớ ra lúc ra khỏi cửa, vì nàng buồn ngủ, miễn cưỡng bước đi chậm rề rề, Đế Quân liền đưa tay dắt tay nàng, suốt đường đi dường như chưa từng buông tay. Lại nhớ tới việc Cơ Hoành vì có được quả tần bà nên tới gặp nàng để thị uy, cảm thấy lúc này mặc dù là do Cơ Hoành tự xuất hiện trước mặt nàng, nhưng việc nàng và Đế Quân cầm tay nhau lại tựa như nàng đang cố ý thị uy trước mặt Cơ Hoành, việc này đâu có gì khác với hành động của Cơ Hoành và Tri Hạc. Nàng ngáp một cái, ngộ ra việc này thực ra chẳng có ý nghĩa gì, chỉ bừa về phía hồ nước trước mặt, nói với Đế Quân: “Xem ra công chúa Cơ Hoành có điều gì đó muốn nói với chàng, em tới hồ nước trước mặt lấy chút nước rửa mặt cho tỉnh táo”. Nhân cơ hội đó rút tay mình về.

Khuôn mặt như hoa như ngọc của Tiểu Yến lộ vẻ chua xót, thấy ánh mắt của Cơ Hoành cứ đắm đuối nhìn Đông Hoa, cảm thấy không nỡ nhìn tiếp, quay sang Phượng Cửu nói: “Haizz, nghe nói thực ra trong hồ nước đó có thủy quái, mỗ chịu thiệt một chút, cùng đi với muội vậy”.

Đế Quân đưa mắt nhìn Tiểu Yến, lạnh lùng nói: “Không cần ngươi phải chịu thiệt, ta sẽ đi cùng nàng”. Chàng quay sang nói với Cơ Hoành: “Có chuyện gì lát nữa ta quay lại hãy nói” rồi nắm tay Phượng Cửu, bước về phía hồ nước. Phượng Cửu ngớ người ra: “Em đi rửa mặt cho tỉnh ngủ của em, hai người nói chuyện của hai người, chẳng phải sẽ tiết kiệm thời gian sao, sao chàng lại phải đi cùng với em?”. Đế Quân điềm nhiên nói: “Cũng không cần vội vã làm gì”. Bước đi được khoảng mười bước, Phượng Cửu dường như đã hiểu ra, có chút ngượng ngùng khẽ nói: “Chàng lo rằng em sẽ bị rơi xuống nước ư?”. Đế Quân cúi xuống nhìn nàng: “Nàng thử nói xem?”. Phượng Cửu cau mày: “Nhất định là chàng lo em ngã xuống nước sẽ khiến thủy quái nhà người ta hoảng sợ”. Đế Quân nhướn mày nói: “Nàng rất hiểu ta”. Phượng Cửu “hừ” một tiếng, vẫn chưa hết tức, lại “hừ” thêm một tiếng nữa.

Phượng Cửu ban nãy đã nhìn nhận không sai, Cơ Hoành quả là đã khóc suốt mấy ngày liền. Đêm hôm đó nàng nghe tin Đế Quân trở về, hơn nữa không về ở Tật Phong viện của Phượng Cửu mà đổi chỗ ở cho Tiểu Yến, trong lòng liền cảm thấy mối nhân duyên giữa mình và Đế Quân có thể còn có cơ hội xoay chuyển, nghĩ rằng nửa đêm chính là lúc con người ta dễ động lòng nhất, cố ý dùng một viên dạ minh châu để soi đường, bước tới phòng của Đế Quân để thăm chàng vào giữa đêm khuya.

Trước đây, khi Đế Quân ở trong tẩm điện này, nàng luôn là người hầu cận bên chàng, thi thoảng còn giả bộ không biết Đế Quân đang ở bên trong, cứ thế đi vào mà không gõ cửa, Đế Quân cũng không trách nàng điều gì. Đêm hôm đó nàng cũng có dự định như vậy, lặng lẽ vào phòng của Đế Quân đốt thêm một lò hương cho chàng, nếu Đế Quân còn chưa tỉnh giấc, ngày hôm sau chắc chắn sẽ biết được là nàng đã đốt hương cho mình, thấy được sự ân cần của nàng dành cho chàng, nếu Đế Quân thức, nàng sẽ chộp lấy cơ hội này phục xuống trước giường thổ lộ với Đế Quân về tình cảm chân thành của mình. Nàng biết mình đẹp, càng biết rằng dưới ánh trăng mờ tỏ là thời khắc mà nàng đẹp nhất, nếu lúc đó dù không thể khiến Đế Quân rung động, cũng có thể khiến chàng ghi nhớ mãi.

Ấp ủ ý tưởng đó, nàng phấn khởi đẩy cánh cửa tẩm điện của Đế Quân, sau đó… nàng đã bật khóc chạy về. Khi về rồi nàng còn khóc suốt mấy ngày nữa, cho tới khi nghe nói Đế Quân ít ngày nữa sẽ ra khỏi cốc. Nàng lau khô nước mắt, định thần lại, hiểu rõ đây là thời cơ cuối cùng.

Dù Đế Quân đã có Phượng Cửu thì sao nào, nếu xét về thứ tự trước sau, cũng là Phượng Cửu chen ngang vào giữa nàng và Đế Quân, dù Phượng Cửu có tình cảm với Đế Quân, cũng chẳng qua mới được hơn một năm, còn tình cảm của nàng dành cho Đế Quân, đã sâu sắc kéo dài tới hơn hai trăm năm, sao có thể dễ dàng từ bỏ được. Tiểu Yến nói nàng hà tất phải cố chấp như vậy, nhưng bản thân chàng ta chẳng phải cũng cố chấp đó thôi. Mối tình này, nàng vẫn cần phải tranh giành. Nhưng những lời hôm nay nàng muốn nói với Đế Quân lại rất hạ thấp bản thân, không hề muốn để ai khác nghe được, thấy Đế Quân đưa Phượng Cửu đi vã nước lên mặt cho tỉnh ngủ, sững người lại một lát rồi cũng bước theo, đi nửa đường liền cất giọng gọi Đế Quân: “Sư phụ, xin hãy dừng bước”.

Đông Hoa quay lại nhìn nàng.

Cơ Hoành e dè nói: “Hôm nay thực ra nô có việc muốn thỉnh cầu, cố ý tới đây đợi sư phụ để xin sư phụ ân chuẩn cho một việc”.

Đông Hoa vẫn yên lặng, Cơ Hoành biết ý chàng là bảo nàng nói tiếp, khó khăn tiếp: “Nô tuổi còn nhỏ, không hiểu biết nhiều đã phạm sai lầm nghiêm trọng nên dẫn đến việc ba trăm năm không thể về nhà, cũng không có mặt mũi nào mà trở về nhà, nhưng nếu tới làm khách trong Phạn Âm Cốc cũng không phải kế sách lâu dài, mong sư phụ nể mặt tiên phụ của nô, ban cho nô chút lòng thương đưa nô ra khỏi cốc, dù làm nô tỳ làm việc nặng hầu hạ trong phủ của sư phụ nô cũng cam lòng”. Nghiến răng liếc nhìn Phượng Cửu một cái: “Nếu sư phụ chịu ban ơn, nô nguyện cả đời hầu hạ Phượng Cửu điện hạ và sư phụ”.

Nghe thấy Cơ Hoành nhắc tới tên của mình, Phượng Cửu giật nảy người, cơn buồn ngủ bị dọa cho tỉnh một nửa, những lời nói này của công chúa Cơ Hoành mặc dù đã tự hạ mình xuống rất thấp, nhưng nếu Đế Quân mềm lòng đưa nàng ta lên trời, thì không khác gì rước về một mầm họa. Nam nhân thường không nhận ra những tâm tư nhỏ nhặt của phái nữ, trước đây nàng cũng không để ý, may mà Tiểu Yến tráng sĩ chỉ giáo một chút, giờ đây trong việc này cũng có chút trình độ, vội vàng vô cùng thành khẩn nói với Cơ Hoành: “Ta thấy trong Phạn Âm Cốc này non xanh nước biếc, lại không bị nhiễm khí đục chốn hồng trần, đã tốt lại còn tốt hơn, là một nơi lý tưởng để an cư, đến cung Thái Thần làm tỳ nữ làm việc nặng nhọc có gì tốt chứ, cung quy trong cung rất nghiêm khắc, một tỳ nữ làm những việc vặt vãnh thường không được vào trong phòng, tỳ nữ làm việc nặng nhọc mà ngươi nói, trước đây ta cũng từng làm rồi, làm suốt bốn trăm năm cũng chưa từng được gặp mặt Đế Quân một lần, ngươi đến làm việc đó thì thực là hạ thấp thân phận của ngươi, còn ta ấy mà, cũng là vì năm xưa ta còn nhỏ tuổi, hơn nữa da mặt lại dày”, Đế Quân nhìn nàng, nàng nhận ra vẻ trêu chọc trong ánh nhìn của chàng, nàng tự lý giải rằng có thể Đế Quân muốn nói rằng hiện giờ da mặt của nàng cũng không mỏng, mặt nàng liền nóng bừng.

Ánh mắt của Cơ Hoành thoáng chút kinh ngạc, nhưng ánh mắt lại đầy ắp hy vọng nhìn Đế Quân. Đông Hoa lạnh lùng nói: “Sống trong Phạn Âm Cốc mới có thể khắc chế độc Thu Thủy trên người ngươi, nếu ngươi có thể yên tâm sống ở đây ba nghìn năm, chất độc trên người sẽ tự biến đi hết”. Ý của chàng là Cơ Hoành không cần nghĩ đến chuyện ra khỏi cốc nữa.

Cơ Hoành hoảng hốt nói: “Nhưng nếu như vậy chẳng phải là không thường xuyên được gặp sư phụ…”.

Phượng Cửu nói: “Thực ra ta có thể để lại cho ngươi một bức vẽ…”.

Đông Hoa bỗng nói: “Phụ thân ngươi trước khi vũ hóa đã nhờ bản quân chăm sóc cho ngươi, có điều, bản quân luôn không thích chăm sóc cho người nghĩ quá nhiều đến bản quân”.

Khuôn mặt của Cơ Hoành liền trở nên trắng bệch, hồi lâu, buồn rầu nói: “Vâng, nô hiểu rồi”.

Bên hồ nước, Phượng Cửu ngây người nhìn mặt nước, Đế Quân nhúng ướt khăn tay rồi đưa cho nàng, Phượng Cửu đón lấy chiếc khăn, đắp lên mặt một lát, đợi cảm giác mát lạnh từ từ thấm vào mặt, cuối cùng đã hoàn toàn tỉnh táo, nói: “May mà năm xưa, khi em còn làm nô tỳ ở phủ của chàng, chàng không có cơ hội nhận ra em, nếu lúc đó chàng nhận ra em, những lời chàng nói với em chắc chắn cũng giống như những lời mà ngày hôm nay chàng nói với Cơ Hoành, đúng không?”. Lại đắn đo nói: “Khi chàng nói những lời đó, thực ra có chút lạnh lùng”.

Những tia nắng sớm mai bắt đầu lộ ra ở phía Đông, kéo theo một luồng sáng chói mắt, cỏ xanh bên hồ như tấm thảm nhung, Đế Quân nằm xuống ngắm nhìn bầu trời cao rộng, như đang suy nghĩ điều gì, nói: “Nếu lúc đó ta nhận ra nàng, con trai của ta bây giờ chắc đã có thể đi mua xì dầu rồi”.

Phượng Cửu đang đợi lấy chiếc khăn tay phủ trên mặt ra, không nghe rõ lắm, hỏi: “Chàng nói gì cơ?”.

Đế Quân gối đầu lên tay trái, tay phải vỗ nhẹ lên thảm cỏ bên mình, nói với nàng: “Chúng ta nằm ở đây một lát rồi trở về”.

Phượng Cửu sững người, nàng vô cùng quen thuộc với tư thế này của Đế Quân, khi câu cá, chàng thường thích gối đầu lên một cánh tay, cánh tay còn lại cầm cần câu, khi chờ cá cắn câu đôi khi còn úp quyển kinh Phật lên mặt để che nắng, Đế Quân có rất nhiều dáng vẻ ưa nhìn, nàng lại yêu thích nhất dáng vẻ thanh nhàn này. Bị mê hoặc bởi mỹ sắc, biết rằng còn có người đang đợi nhưng nàng vẫn nằm xuống, không những thế còn tự giác nằm gọn trong vòng tay của Đế Quân, nhưng ngoài miệng vẫn không quên nhắc nhở chàng: “Mạch thiếu gia và Liên tam điện hạ còn đang chờ chúng ta, chúng ta nằm một chút cho chàng đỡ thèm là được rồi…”.

Hương thơm của cỏ xanh ùa tới từng hồi, Đế Quân ôm nàng vào lòng, nhắm mắt lại: “Bọn họ sẽ tự tìm trò giải khuây, không cần để ý tới bọn họ”.

Tô Mạch Diệp từ xa nhìn hai người nằm ngắm bình minh bên hồ nước, nói với Liên Tống: “Tình huống này trước đây đã từng có chưa, theo ý kiến của ngài, lúc này chúng ta nên làm gì?”.

Liên Tống thở dài nói: “Một mình huynh ấy cho ta leo cây là chuyện thường tình, chuyện huynh ấy hẹn hò với thần nữ tiên nga rồi cho ta leo cây lại chưa từng xảy ra”, phẩy tay hóa ra một bàn cờ, lại thở dài nói: “Lúc này chúng ta ngoài việc chờ đợi còn biết làm gì nữa, tạm thời chơi vài ván để giết thời gian vậy”.
 
Tham gia
6/7/19
Bài viết
101
Điểm cảm xúc
41
Điểm
28
01.

Thực ra trong lòng Phượng Cửu đã có tính toán kỹ lưỡng.

Việc đầu tiên sau khi ra khỏi Phạn Âm Cốc là tới chỗ cô cô để xin tha tội, lúc đó là do cô cô đưa nàng lên Cửu Trùng Thiên, giữa đường đã bị Đế Quân bắt cóc, biệt vô âm tín suốt bao nhiêu ngày, mặc dù nhà họ Bạch của họ đều để con cháu tự do muốn làm gì thì làm, nhưng chưa biết chừng thời gian qua cô cô cũng rất lo lắng cho nàng, nàng cần tới chỗ của cô cô để làm cho cô cô bớt giận.

Việc thứ hai là làm Diệp Thanh Đề sống lại, năm xưa Diệp Thanh Đề vì cứu nàng mà chết dưới đao kiếm của yêu quái, hồn phách đã bị nhuốm yêu khí, cho dù chuyển thế đầu thai cũng chỉ có thể làm yêu quái, kiếp kiếp phải chịu đau khổ, chỉ có một cách duy nhất để cứu chàng ta, đó là tạo ra một tiên thể chứa đựng hồn phách của chàng ta, hóa giải luồng yêu khí ấy, sau đó tới Dao Trì gột rửa hồng trần khiến chàng ta thành tiên. Năm xưa nàng đã thu lại hồn phách của chàng ta, gửi ở chỗ Tạ Cô Châu ở U Minh ty. Giờ đây nàng đã có được quả tần bà, quả tần bà sẽ sinh ra xương thịt cho người đã chết, xương thịt được sinh ra lại không phải là một phàm thai, mà là một tiên thể, vừa hay có tác dụng kỳ diệu là khôi phục sự sống cho chàng ta. Như vậy, sau khi nhận lỗi với cô cô, có thể tới chỗ của Tạ Cô Châu lấy lại hồn phách của Diệp Thanh Đề mà nàng nhờ ngài ấy bảo quản.

Lấy được hồn phách của Diệp Thanh Đề thì có thể tới chỗ Phục Mịch tiên mẫu, lão lão của nàng một chuyến, đây chính là việc thứ ba. Nàng và Đế Quân mặc dù đã thành phu thê, lại chưa làm lễ thành thân có sự chứng kiến của mọi người trong gia tộc, thứ lễ nghĩa này trong mắt Đế Quân mặc dù phù phiếm, nhưng trong mắt các bậc trưởng lão ở Thanh Khâu, đây lại là một việc trọng đại, nàng và Đế Quân buộc phải tổ chức một lễ thành thân. Nhưng Đế Quân thứ nhất không phải con nhà thế gia, thứ hai lại không nắm quyền lớn trong tay, nghiêm trọng nhất là chàng đánh nhau rất cừ, muốn qua được cửa ải của lão lão có thể không hề dễ dàng. Nàng khó khăn lắm mới giành được Đế Quân, lẽ nào lại có thể để mối nhân duyên này bị hỏng trong tay của lão lão, vì vậy nàng phải một mình tới gặp lão lão để thuyết phục bà.

Nhưng mọi việc từ xưa đến nay, phần lớn đều không được như ý muốn của con người.

Trong một đình hóng mát ở Tẩy Ngô cung, Dạ Hoa, thái tử điện hạ của Cửu Trùng Thiên, cô phụ của Phượng Cửu phong tư vô song lúc này đang nhàn tản vẽ tranh trong đình, Bạch Thiển, cô cô của nàng đang ngồi ngả người trên một chiếc giường thấp lật giở một cuốn sách du ký, Cục bột nhỏ, tiểu biểu đệ của nàng đang cuộn tròn trong lòng cô cô ngủ say sưa.

Nàng run rẩy lại gần hành lễ với cô cô của mình, sau khi hành lễ xong, cô phụ thái tử điện hạ lại nhìn nàng mỉm cười, cô cô của nàng thì không hề ngước mắt lên, chỉ có một giọng nói vang lên từ phía sau cuốn sách du ký: “Ồ, là Phượng Cửu à, có phải con đã quên rằng gần đây con phải gánh vác đại sự gì không?”. Giọng điệu này của cô cô là giọng điệu khi có việc không mấy tốt đẹp.

Nàng lập tức rùng mình, lí nhí nói: “Không, không nhớ”.

Cô cô vẫn không hề ngước mắt lên, tiếp tục nói: “Vậy ta phải nhắc cho con nhớ, lễ Tàng binh của con diễn ra vào mười năm ngày sau”.

Lễ Tàng binh. Đầu nàng bỗng đau buốt, khuôn mặt mếu máo nói: “Cô cô, người có thể coi như hôm nay chưa nhìn thấy con không, thực ra mười lăm hoặc mười sáu ngày nữa con mới quay về cơ”.

Cô cô của nàng cuối cùng cũng ngước mắt lên, nụ cười nở trong ánh mắt: “Nếu thật sự là mười lăm hoặc mười sáu ngày nữa con mới có thể quay về, ta sẽ biến thành hình dáng của con để thay thế con trong lễ Tàng binh, nhưng con đã về rồi, đừng nghĩ tới chuyện lợi dụng gì nữa, ngoan nào, vẫn còn mười lăm ngày, mỗi ngày ngủ ít đi hai, ba canh giờ cũng đủ để chuẩn bị rồi”.

Mắt nàng ngấn nước như sắp khóc, nói: “Nhưng một ngày tổng cộng con mới ngủ có bốn canh giờ”.

Cô cô của nàng liền nhìn nàng bằng ánh mắt thông cảm: “À, thật đáng thương, nhưng người trẻ tuổi ấy mà, một ngày chỉ ngủ một, hai canh giờ cũng không có vấn đề gì”.

Nàng đưa ánh mắt cầu cứu nhìn về phía cô phụ Dạ Hoa quân, Dạ Hoa quân đặt bút xuống nói: “Ồ, quả thật rất đáng thương”.

Mắt nàng lập tức cháy lên những tia lửa hy vọng, Dạ Hoa thay một chiếc bút làm từ lông thỏ, nói: “May mà con quay về sớm, nếu về muộn bảy, tám ngày chắc chỉ còn cách phải thức cả đêm thôi”.

Lửa hy vọng trong mắt Phượng Cửu lay động một cái rồi tắt ngúm.

Mặc dù Thanh Khâu không có nhiều lễ nghi rườm rà như trên Cửu Trùng Thiên, nhưng vẫn có một vài nghi lễ chính, ví dụ như lễ Tàng binh này. Đây là nghi lễ bắt buộc phải cử hành sau khi mỗi đời quân vương mới kế vị. Ngày tân quân kế vị do Bạch Chỉ Đế Quân kết hợp giữa thiên tướng và ngày sinh của tân quân để chọn ra ngày hành lễ, thông thường là sau đó một trăm năm, trong thời gian này tân quân phải đích thân chế tác ra một loại binh khí thuận tay, vào ngày lễ Tàng binh sẽ cất trong thánh địa nơi mình trị vì dưới sự chứng kiến của các vị tiên giả trong bát hoang, lưu lại cho con cháu đời sau sử dụng. Ví dụ như thanh kiếm Đào Chú trong tay nàng, chính là một kiệt tác mà cô cô Bạch Thiển của nàng đã rèn cho lễ Tàng binh của mình năm xưa.

Từ khi nhận tiên chức từ cô cô của nàng, kế vị làm quân vương của Đông Hoang, hai trăm năm qua, một nửa thời gian dùng cho việc học hành, một nửa thời gian dành để rèn thứ thần binh này. Binh khí mà nàng rèn cũng là một thanh kiếm, vì nguyên liệu dùng để rèn kiếm được lấy từ núi Hợp Hư trong Đại Hoang nên thanh kiếm này được mệnh danh là kiếm Hợp Hư.

Trước tiệc cưới của cô cô nàng vài ngày, thực ra kiếm Hợp Hư đã được luyện xong, nhưng hộp đựng kiếm dùng trong lễ Tàng binh không biết còn đang ở chốn nào xa lắc, trước đó nàng nghĩ dù sao vẫn còn sớm, đợi sau tiệc cưới của cô cô, ở trên Cửu Trùng Thiên chơi thêm một vài tháng cũng không ảnh hưởng gì.

Nào ai biết sau đó nàng lại bị rơi vào trong Phạn Âm Cốc, ai biết nàng còn quên sạch cả việc này.

Nếu ngày hành lễ, nàng mang thanh kiếm không tới trình ra trước mặt bát hoang, gia gia Bạch Chỉ Đế Quân của nàng chắc chắn sẽ lột da hồ ly của nàng ra. Phượng Cửu đau khổ than thở ngước lên nhìn trời, mọi kế hoạch đã tính toán kỹ lưỡng trước đó của nàng khỏi cần làm nữa rồi, giờ đây chế tạo hộp đựng kiếm mới là đại sự cuộc đời. Mười lăm ngày, mười lăm ngày. Tạm thời phải cố gắng thôi.

Phượng Cửu thở ngắn than dài đi qua ao Phấn Đà Lợi ở Nhất Thập Tam Thiên, tình cờ gặp Liên Tống quân, hai người cùng dạo bước, Liên Tống quân thấy bộ dạng đau khổ như mất người thân của Phượng Cửu bèn quan tâm thăm hỏi vài câu, trước sự quan tâm của Liên Tống quân, Phượng Cửu vô cùng cảm động, nói thật hết món nợ đang phải gánh trên vai lúc này. Liên Tống phe phẩy cây quạt trong tay, cười nói: “Chẳng phải trong nhà ngươi còn cất giữ cả một Đế Quân sao? Trình độ chế tác hộp đựng kiếm của Đông Hoa có thể coi là hạng nhất, việc này huynh ấy chắc chắn có thể làm xong trong một, hai ngày, những lúc quan trọng như thế này ngươi lại để huynh ấy ở đó không đem ra dùng, chẳng phải đã phí phạm của trời sao?”, trêu đùa nói: “Ngươi nói ngọt với huynh ấy vài câu, huynh ấy sẽ làm giúp ngươi, đâu cần ngươi phải ở đây thở ngắn than dài”.

Một nửa tâm trí của Phượng Cửu lúc này còn đang mãi nghĩ xem nên chọn nguyên liệu gì để làm hộp đựng kiếm, làm hình dạng như thế nào, nghe những lời đó của Liên Tống quân, hàm hồ nói: “Chuyện của ta thực ra vẫn nên do ta tự làm, việc này nếu giao cho Đế Quân đương nhiên chắc chắn sẽ không xảy ra sai sót gì, nhưng việc gì cũng dựa dẫm vào Đế Quân thì thật là không cầu tiến, hơn nữa Đế Quân cũng không muốn ta trở thành một phế vật chỉ biết dựa dẫm vào chàng, việc này cùng lắm cũng chỉ giúp ta vạch kế hoạch tiến độ chế tạo hộp đựng kiếm thôi, những việc khác chắc cũng sẽ không giúp ta nhiều”. Nghĩ tới điều gì đó, ánh mắt nàng chợt sáng lên, nói: “Hay là tam điện hạ cùng đánh cược với ta xem Đế Quân liệu có chủ động làm thay ta không, nếu ta thắng, tam điện hạ hãy tặng cho ta ngọc Vu Phù, thứ ngoc giá trị nhất thế gian này còn thừa lại sau khi chế tạo thanh đoản đao tặng Thành Ngọc Nguyên Quân, nếu tam điện hạ thắng, ta sẽ dùng cá béo trong ao Phấn Đà Lợi làm món cá sốt chua ngọt cho tam điện hạ nửa tháng”.

Lúc đó hai người đang bước vào cửa cung, Liên Tống gấp quạt lại, cười nói: “Tiền đặt cửa mặc dù tương đối hợp lý, nhưng nghĩ tới tình thế của ngươi hiện nay, lần cá cược này ta vẫn là ta thắng thì hơn”. Chàng ta phe phẩy cây quạt, nói: “Ồ, nếu ta thắng thực ra cũng không được coi là tốt, nếu ăn món cá sốt chua ngọt của ngươi, với bản tính ghen tuông của Đông Hoa, huynh ấy chắc chắn sẽ khiến ta nôn hết ra ấy chứ”.

Phượng Cửu nói: “Tam điện hạ nói như vậy là hơi quá rồi, hơn nữa, Đế Quân cũng đâu đến nỗi như vậy…”. Hai người vừa nói chuyện vừa đi vào trong cung.

Tuy gần đây Liên Tống rất đắc ý trong tình trường nhưng trong cờ bạc lại không gặp vận may, Đế Quân sau khi nghe xong thành quả của việc Phượng Cửu tới nhận lỗi ở chỗ cô cô của nàng, quả nhiên lập tức hóa ra bút mực, sắp xếp tiến độ chế tác hộp đựng kiếm cho nàng, dán vào một cây cột đối diện với thư trác (bàn đọc sách) trong thư phòng, nghĩ một lát lại nói thêm vài lời động viên, ngoài ra không làm gì khác nữa.

Nhân lúc Đông Hoa ra khỏi thư phòng, Phượng Cửu vội vàng chắp tay hướng về phía Liên Tống, mặt mày hớn hở khẽ nói: “Được sự coi trọng của tam điện hạ, xem ra hôm nay tại hạ được sao phát tài chiếu mệnh rồi, chắc chắn miếng ngọc Vu Phù của tam điện hạ thuộc về tại hạ rồi”.

Liên Tống quân cũng khẽ nói: “Ban nãy nhìn ngươi còn ủ ê rầu rĩ, bây giờ sao lại vui vẻ như vậy, chỉ vì đã thắng được miếng ngọc Vu Phù của ta sao?”.

Phượng Cửu càng nói khẽ hơn: “Hoàn thành hộp đựng kiếm trong vòng mười lăm ngày là chuyện đã định rồi, dù rầu rĩ cũng có được gì đâu, rầu rĩ một lúc giải tỏa tâm trạng thôi, có thể lừa được miếng ngọc Vu Phù của tam điện hạ để tô điểm thêm sắc màu cho hộp đựng kiếm của ta lại là niềm vui bất ngờ, sao có thể không khiến người ta tươi vui hớn hở được?”.

Bên ngoài, Đông Hoa đã sai Trọng Lâm bày một bàn cờ cùng hai chiếc ghế đá dưới gốc cây lá đỏ. Giờ đây trong thư phòng chỉ còn một mình Phượng Cửu, nàng đang ngồi ngay ngắn trước thư trác vẽ hình dạng hộp kiếm, nếu chàng và Liên Tống chơi cờ trong thư phòng sẽ ảnh hưởng tới nàng, hôm nay thời tiết ấm áp, ngồi hóng mát chơi cờ ở bên ngoài cũng tốt.

Trọng Lâm ôm bàn cờ thay đổi tới mấy hướng liền, chốc lại hỏi Đế Quân bày ở chỗ này có được không, lát lại hỏi Đế Quân bày chỗ kia có được không, nhưng mãi vẫn chưa được. Trọng Lâm toát hết cả mồ hôi. Đừng thấy Trọng Lâm tiên quan có vẻ rất nghiêm nghị, nhưng ngài lại nổi tiếng là người hiểu ý Đế Quân nhất trong cung Thái thần, mang mỹ danh Giải ngữ hoa. Lúc này, ngay cả việc bày một bàn cờ cũng không vừa ý của Đế Quân, việc này khiến Giải ngữ hoa Trọng Lâm đại nhân cảm thấy áp lực quá lớn. Lại bày thêm mấy lần nữa, khi Trọng Lâm đại nhân sắp suy sụp mới nghe thấy Đế Quân chậm rãi nói: “Ờ, vị trí này không tồi”.

Trọng Lâm đại nhân quả thực không hiểu, bàn cờ lúc này được kê ngoài bóng râm của cây lá đỏ, cũng cách xa đám hoa cỏ, sao Đế Quân lại thích vị trí này chứ, khi đứng dậy dùng tay áo lau mồ hôi, ngước mắt lên liền nhìn thấy chiếc thư trác và Phượng Cửu đang trải giấy bày nghiên phía sau thư trác trong thư phòng. Trọng Lâm đại nhân bỗng nhiên hiểu ra, thấy chiếc thư trác đó vì không kê đối diện với cửa sổ phòng, đứng từ bên ngoài nhìn vào cho dù thế nào cũng không nhìn thỏa ý được… Giải ngữ hoa Trọng Lâm đại nhân chân thành nói với Đế Quân: “Ngoài trời vừa hay có gió mát, thư trác của Phượng Cửu điện hạ lại kê quá khuất, không thể hưởng gió mát, đợi thần kê lại thư trác cho điện hạ một chút”. Đế Quân tán thưởng nhìn Trọng Lâm, gật đầu đồng tính: “Ừm, kê lại một chút cũng tốt”.

Phượng Cửu nỗ lực làm việc trong phòng, Đông Hoa và Liên Tống nỗ lực phía bên ngoài, các quân cờ đen trắng dọc ngang trên bàn cờ, Liên Tống có chút cảm khái: “Năm ngoái huynh và đệ cũng cùng uống rượu chơi cờ trong cung Thái Thần này, đệ còn nhớ lúc đó đã từng khuyên huynh, nói rằng một ngày nào đó nếu huynh nghĩ thông, muốn tìm một vị Đế Hậu song tu, Tri Hạc cũng không tồi. Haizz, thực ra Tri Hạc với huynh, chung quy hơi miễn cưỡng một chút, nhưng lúc đó vì niệm tình nàng ta ở trong cung Thái Thần nhiều năm… Có điều, huynh chờ đợi bao nhiêu năm như vậy lại đợi được Phượng Cửu, huynh đã không uổng công chờ đợi, quả nhiên chỉ có người này xứng đáng với ngôi vị Đế Hậu của huynh”.

Đông Hoa nhướng mày, nói: “Hôm nay trước khi tới đây đệ đã uống say rồi ư? Hiếm hoi lắm mới nói được vài câu hay ho như vậy”.

Liên Tống hững hờ cười nói: “Rượu thì không uống nhưng đã đánh cược một phen”. Lại nói: “Mặc dù ấn tượng của đệ đối với Tri Hạc cũng không tồi, ừm, Tri Hạc múa đẹp, chỉ có điều nếu luận về dung mạo và khí phái, nói một câu công bằng, về điểm này thì Tri Hạc thua xa Phượng Cửu”. Chàng ta đi một quân cờ màu trắng, nói tiếp: “Hôm nay đệ đã khuyên Phượng Cửu có thể nhờ huynh thay nàng ấy chế tạo hộp kiếm, nàng ấy lại nói rằng việc của mình vốn nên tự mình làm, không thể dựa dẫm vào huynh rồi trở thành một phế vật. Đệ vốn tưởng rằng đó chỉ là những lời nói khách sáo của nàng ấy, tiểu cô nương mà, luôn muốn được người ta cung phụng, chiều chuộng, không ngờ huynh không giúp nàng ấy, nàng ấy thật sự lại không hề cảm thấy có gì không ổn, những lời nói đó lại là những lời nói thật lòng”.

Đông Hoa ngước mắt lên nhìn Phượng Cửu trong thư phòng, thiếu nữ áo đỏ đang vô cùng chuyên tâm trầm tư trước trang giấy trắng, có thể tưởng tượng ra dáng vẻ của nàng lúc phê sửa văn thư sau này trông như thế nào, Đế Quân khẽ đặt quân cờ màu đen trong tay xuống, nói: “Tiểu Bạch luôn rất biết phải trái”.

Phượng Cửu biết phải trái mấy ngày gần đây bận tối mắt tối mũi, chư tiên còn chưa vào chầu buổi sớm, nàng đã ngồi trong thư phòng, hễ ngồi vào bàn là ngồi đến chiều, lại ngồi từ chiều tới lúc lên đèn, lại ngồi từ lúc lên đèn tới tận đêm khuya. Còn Đế Quân thì bận rộn ở khu vườn nhỏ phía sau.

Ngày thứ ba Đông Hoa đem tất cả đồ nghề của nàng chuyển vào trong khu vườn nhỏ, Phượng Cửu lúc bấy giờ mới biết mấy ngày vừa rồi Đế Quân bận rộn trong vườn để làm gì. Ngước mắt lên nhìn, đình lục giác trong hồ sen đã hoàn toàn thay đổi, sáu mặt quanh đình đều được treo rèm tránh gió, bộ bàn ghế bằng thủy tinh đã được thay bằng một chiếc bàn dài, trên bề mặt thủy tinh trắng nối giữa đình và mặt nước đã được trải thảm để tránh bị lạnh chân khi ngồi trên đất.

Nghe ý tứ của Trọng Lâm, Đế Quân chê trong thư phòng quá gò bó, đặc biệt sắp xếp lại mái đình nhỏ này để tiện cho nàng làm việc. Ngày đầu tiên khi Phượng Cửu dọn vào đó, liền cảm thấy mái đình nhỏ này quả là đáng yêu hơn thư phòng nhiều. Bởi vì ở trong vườn, cả ban ngày và ban đêm đều có cảnh sắc sống động, khi làm hộp kiếm thấy mệt mỏi nàng chỉ cần ngước mắt lên là có thể nhìn ngắm phong cảnh cho đỡ mệt, khi nàng muốn ngủ chỉ cần buông rèm xuống là mái đình đã trở thành một phòng ngủ. Tâm ý này của Đế Quân khiến nàng có chút cảm động.

Phượng Cửu ăn nghỉ ở trong đình, nàng vô cùng bận rộn, nhưng từ tận đáy lòng nàng cảm thấy nếu trên Cửu Trùng Thiên lập bảng những thần tiên nhàn rỗi nhất, Đế Quân chắc chắn sẽ nằm trong ba người dẫn đầu. Vì bận rộn việc công mà nàng bất đắc dĩ phải ở một thời gian dài trong đình, Đế Quân lại cũng ăn nghỉ trong đình. Mặc dù đa phần trà nước mà nàng uống đều do Đế Quân đưa cho, khi nàng bận đến nỗi quên cả ăn cơm, Đế Quân còn tận tay đút cho nàng thứ gì đó. Nhưng thực ra phần lớn thời gian ở trong đình, Đế Quân đều đọc sách thư giãn. Khi nàng vẽ hình dáng hộp kiếm, Đế Quân ngồi bên nàng đọc sách thư giãn, khi nàng lựa chọn nguyên liệu gỗ để làm hộp kiếm, Đế Quân nằm bên cạnh nàng đọc sách thư giãn, khi nàng tách gỗ, Đế Quân nằm bên cạnh nàng đọc sách thư giãn, khi nàng thử lắp sơ hộp kiếm… chàng đã úp sách lên mặt mà ngủ rồi…

Mười ngày thoáng một cái đã trôi qua, hộp kiếm cũng đã gần như làm xong, chỉ còn hoa văn chạm trổ trên miếng ngọc Vu Phù để trang trí là chưa làm thôi, Phượng Cửu cuối cùng đã có thể thở phào. Người vừa thấy thoải mái, liền bỗng nhiên nhớ tới một chuyện lúc mơ ngủ hôm nay.

Mấy ngày trước dường như Đế Quân đã hỏi nàng xem khi nào thì có thể dẫn chàng tới Thanh Khâu diện kiến song thân nàng, lúc đó nàng đã nói như thế nào nhỉ? Lúc đó nàng hình như đang bào một thanh gỗ, không để ý nên đã nói rất thật: “Đợi em thuyết phục lão lão, sau đó thuyết phục phụ thân của em rồi sẽ đưa chàng về”.

Lúc đó nàng bận tối mắt tối mũi, lúc này khi nhớ lại lập tức giật nảy mình, sao lúc đó mình lại nói thật chứ. Lúc đó Đế Quân đang dùng sách che mặt, yên lặng rất lâu, nàng cũng không để ý, bây giờ nghĩ lại, Đế Quân chắc không giận chứ, nhưng mấy ngày sau dường như Đế Quân cũng không có biểu hiện gì khác cả.

Nàng bất giác mở to mắt, trước mắt là khuôn mặt đang yên bình say ngủ của Đế Quân, nàng vuốt ve khuôn mặt của chàng, khẽ khàng mà áy náy nói: “Em nhất định sẽ sớm thuyết phục lão lão và phụ thân, sớm đưa chàng về Thanh Khâu, tạm thời để chàng phải chịu ấm ức vài ngày, chàng không được vì chuyện này mà giận em đấy”, lại khe khẽ vỗ đầu Đế Quân. Vì xin lỗi Đế Quân, trút được tảng đá đè nặng trong lòng, nhìn sắc trời thấy vẫn còn nửa canh giờ nữa để ngủ bèn rúc đầu vào trong lòng Đế Quân để tránh ánh trăng rồi ngủ thiếp đi.

Lễ Tàng binh được ấn định vào ngày mười tám tháng hai, Phượng Cửu vất vả suốt mười bốn ngày đêm, cuối cùng vào lúc canh năm của đêm ngày mười sáu tháng hai, nàng quẳng con dao khắc đi, hoàn thành hộp kiếm, phong ấn linh khí vào hộp, coi như đã hoàn thành được việc lớn này.

Hộp kiếm bằng gỗ hán nam dài bốn tấc, làm thành hộp kéo, những chỗ kết nối hoàn toàn không để lại dấu vết, dưới đáy hộp và hai bên thành khắc hoa văn hình năm con hồ ly đùa nghịch, trên mặt hộp được khảm hai bông hoa phật linh khắc bằng ngọc Vu Phù. Phượng Cửu giỏi nấu ăn, một số món ăn nàng thường phải tỉa củ cải hay khắc bí đỏ, do đó, hoa văn khắc trên hộp kiếm cũng được thực hiện một cách hết sức tinh tế và tao nhã. Hộp kiếm này không biết so với hộp kiếm mà gia gia cùng mấy vị thúc bá của nàng làm cho lễ Tàng binh năm xưa thì thế nào, nhưng so với hộp cô cô nàng làm năm đó, quả thực đẹp hơn rất nhiều.

Phượng Cửu nhìn hộp kiếm đặt trên chiếc bàn dài, cảm thấy rất mãn nguyện, nàng tự cảm thấy hài lòng ít nhất một khắc, cảm thấy ổn rồi liền định đi ngủ. Khi đóng viên dạ minh châu thì nhìn thấy Đế Quân nằm bên cạnh chiếc bàn dài không biết đã ngủ được bao lâu rồi, nàng đưa tay kéo chiếc chăn mây đắp trên người Đế Quân lên cao hơn, sau đó thận trọng nép bên cạnh chàng.

Nhưng đã nằm xuống hồi lâu mà vẫn không buồn ngủ, trằn trọc một lát, lại trở dậy lấy giấy bút, nghĩ ngợi một lát rồi lại bắt đầu tô tô phết phết, tô phết đến nỗi ngáp dài rồi mới thu bút lại, đang định đi ngủ bỗng nghe thấy giọng nói của Đế Quân vọng lại từ phía sau: “Ta nhớ việc vẽ hình dáng nàng đã làm xong rồi, muộn thế này còn vẽ gì nữa?”.

Phượng Cửu thích nghe nhất là giọng nói của Đế Quân khi chàng vừa mới tỉnh ngủ, giọng nói khàn thấp còn mang theo chút âm mũi, nàng cảm thấy rất hay, muốn nghe chàng nói thêm nói vài câu nữa, liền cố ý không nói gì cả. Vì ánh sáng của viên dạ minh châu quá chói, không dễ gây buồn ngủ nên ban nãy nàng chỉ châm một ngọn nến bên cạnh bàn, lúc này trong đình chỉ có một luồng sáng yếu ớt. Một tay của Đế Quân đặt lên vai nàng, ghé lại gần, nhìn vào bức vẽ qua ánh sáng mờ nhạt của ngọn nến: “Xem ra… giống một ngôi nhà?”. Nghiêng đầu nhìn nàng nói: “Hử? Sao không nói gì thế?”.

Bận rộn suốt mười mấy ngày, nàng tự cảm thấy thực ra trong những ngày qua mình có phần lạnh nhạt với Đế Quân, sớm đã muốn trò chuyện tâm tình của chàng, lúc này đã được nghe khoái lỗ tai rồi, bèn mãn nguyện kéo cây nến lại gần một chút, nói: “Hộp kiếm làm xong rồi em nhất thời lại không ngủ được, liền vẽ một căn lầu bằng trúc để xem thử, động hồ ly mà cô cô để lại ở Thanh Khâu thực ra em ở không quen lắm, sớm đã muốn dựng một căn lầu trúc trong rừng trúc bên ngoài, nhưng bản vẽ trước đây của em không có phòng ngủ của chàng và tiểu hồ ly, vì vậy muốn vẽ lại một bức đưa cho Mê Cốc dựng nhà, mặc dù một năm chàng có lẽ chỉ có thể ở Thanh Khâu nửa năm thôi, nhưng em cảm thấy…”.

Đế Quân nghe vậy dường như cảm thấy rất hứng thú, đưa tay chỉ vào một điểm trong bức vẽ, nói: “Chỗ này là của ta đúng không?”, lại nói: “Ta rất nhàn rỗi, ở cung Thái Thần hay Thanh Khâu thực ra không ảnh hưởng gì, cũng có thể sống lâu dài ở Thanh Khâu, nhưng ta tưởng ta sẽ ở phòng nàng, sao còn phải làm thêm một phòng khác nữa?”.

Phượng Cửu tự đắc nói: “Đó là do em suy nghĩ chu đáo, bởi vì nếu chúng ta cãi nhau, em đuổi chàng ra ngoài, nếu không có phòng ngủ này chàng sẽ không có chỗ để ngủ, mặc dù thực ra cũng có một thư phòng, nhưng ngủ ở trong thư phòng còn phải làm phiền Mê Cốc chuẩn bị giường chiếu cho chàng, có chút phiền phức”.

Đế Quân trầm mặc, nói: “Ta cảm thấy dù ta có khiến nàng tức giận như thế nào, nàng cũng không nên đuổi ta ra ngoài”.

Phượng Cửu khoát tay nói: “À, cái đó không quan trọng, đều là những chuyện nhỏ nhặt cả thôi, tạm thời không nhắc đến nó, quan trọng là nên thêm mấy phòng cho tiểu hồ ly nhỉ? Nếu căn lầu trúc này dựng xong em dự định ít nhất sẽ ở đó hàng nghìn năm, vì vậy dựng mấy phòng đều cần phải tính toán thật kỹ, chàng cảm thấy nên để mấy phòng thì được?”.

Đế Quân nói: “Để mấy phòng tức là sinh mấy con, là ý đó đúng không? Vậy thì để một phòng là đủ rồi”.

Phượng Cửu trò chuyện một lát lại cảm thấy hơi buồn ngủ, ngáp dài nói: “Ừm, thực ra em vốn định để lại hai phòng, bởi vì có hai nhóc tỳ mới vui, đúng không, nhưng lại có phần lo lắng rằng hai đứa chúng nó sẽ tự chơi với nhau, không gần gũi với mẫu thân là em, không chơi với em thì phải làm thế nào, giống nhà cô cô, chỉ có một mình Cục bột nhỏ, Cục bột nhỏ lại tương đối quấn quýt với cô cô, em nghĩ như vậy cũng tốt, vì vậy bức vẽ này cũng chỉ để một phòng, nếu chàng cũng đồng ý…”.

Đế Quân lập tức cắt ngang: “Vậy thì sinh hai đứa, bức vẽ này nàng cũng không cần sửa lại, hãy nhường phòng của ta cho chúng, cứ quyết định như vậy đi”.

Phượng Cửu vừa mới ngáp xong, bụm miệng nói: “Nhưng…”, Đế Quân đã thổi tắt ngọn nến.

Ánh sáng mờ mờ của hoa bồ đề vãng sinh trên tường trong khu vườn nhỏ chiếu vào, trong đình không đến nỗi quá tối tăm, Đế Quân hơi đưa tay lên, sáu tấm rèm treo ở đình lục giác đều được buông xuống, che chắn hết những tia sáng đó, đôi môi của Đế Quân khẽ dừng lại trên trán nàng, kéo tấm chăn mây đang đắp trên người mình cuộn nàng vào trong chăn: “Không ngủ đi trời sắp sáng rồi đấy, thức đêm nhiều ngày như vậy, không cảm thấy mệt sao?”.

Phượng Cửu lập tức quên hết tất cả những điều ban nãy đang định nói, níu quần áo trước ngực của Đế Quân, mơ màng gật đầu: “Ban nãy nói chuyện với chàng còn không cảm thấy mệt, tắt đèn rồi không hiểu sao lại cảm thấy vừa mệt vừa buồn ngủ, nhưng ban nãy chàng đã nhìn thấy hộp kiếm chưa, em làm có đẹp không?”.

Đế Quân ôm nàng vào lòng: “Ừm, nhìn thấy rồi, làm rất đẹp”.

02.

Bên ngoài Đông Hải, trong Đại Hoang, chính là nước Thanh Khâu.

Lễ Tàng binh lần trước ở Thanh Khâu là khi thượng thần Bạch Thiển phân phong Đông Hoang khoảng mười vạn năm về trước. Theo sử sách ghi chép, lễ đài năm đó được dựng trên núi Đường Đình của Đông Hoang, mấy trăm bậc thang kết bằng các loại hoa cỏ dẫn thẳng từ lễ đài tới thánh đỉnh cao nhất của núi Đường Đình. Khi thượng thần Bạch Thiển còn trẻ tuổi, khoác trên mình bộ xiêm y trắng muốt, hai tay giơ cao hộp kiếm bước lên từng bậc thang được kết từ hoa cỏ, đặt thanh kiếm Đào Chú trên thánh đỉnh của núi Đường Đình, người có một phong tư khiến các chư tiên trong cõi hồng hoang tranh nhau truyền tụng.

Núi Đường Đình không hổ danh là núi thánh của Đông hoang, trải qua mười vạn năm vẫn xanh tươi um tùm, không hề thấy vẻ già nua. Khi tia nắng đầu tiên của buổi sớm ngày hôm nay chiếu xuống, lễ đài dùng để tiến hành lễ Tàng binh trên đỉnh núi lại xuất hiện trên thế gian, đó là một lễ đài rất cao lớn, rộng rãi, làm toàn bằng mây lành, không hề lẫn chút tạp sắc nào, lớp mây mù phiêu diêu cuộn bay trên lễ đài toát lên tiên ý vô biên, quả xứng là nơi dùng để hành lễ của thần tiên. Khán đài phía đối diện mặc dù được dựng bằng các loại gỗ quý hiếm lấy từ trên núi, xét về lý thì cũng được coi là xa hoa, nhưng so với lễ đài mây này thì vẫn còn kém một bậc.

Lúc này có ba người đang ngồi trên khán đài kém một bậc này. Người ngồi phía bên phải là thái tử điện hạ Dạ Hoa quân của cung Tẩy Ngô trên Cửu Trùng Thiên, người ngồi bên trái là Liên Tống quân của cung Nguyên Cực và Đông Hoa Đế Quân ở cung Thái Thần. Đế Quân dựa vào thành ghế, thi thoảng nghịch hộp lưu ly nhỏ xinh đang cầm trên tay, nói với Liên Tống: “Đệ đến sớm như vậy ta cũng hiểu được, chẳng qua chỉ để xem trò vui, Dạ Hoa đến sớm như vậy, hắn nhớ nhầm giờ sao?”.

Liên Tống quân cười đầy ý tứ sâu xa, nói: “Coi như huynh có phúc, có thể đích thân đến xem lễ Tàng binh của Phượng Cửu. Thanh Khâu bọn họ hiếm khi tổ chức nghi lễ trọng đại, nghi lễ quan trọng nhất trong cuộc đời chắc chính là ngày này. Tương truyền năm xưa, trong lễ Tàng binh thượng thần Bạch Thiển tuổi còn trẻ, dung mạo xinh đẹp vô song đã khiến chư tiên trong cõi hồng hoang nghiêng ngả. Tên tiểu tử Dạ Hoa mấy hôm trước khi uống rượu với đệ, đã rất hối tiếc vì không có duyên chứng kiến thượng thần Bạch Thiển làm lễ Tàng binh, chỉ có thể tưởng tượng ra hình dáng của nàng ấy năm xưa như thế nào qua ghi chép trong điển tịch, hôm nay hắn đến vào giờ này chắc là muốn được nhìn ngắm nơi mà năm xưa Bạch Thiển thực hiện lễ Tàng binh chăng”.

Đế Quân liếc nhìn Dạ Hoa ngồi đối diện đang trầm tư nhìn lên vân đài, đột nhiên hỏi: “Đệ nói xem… khi Tiểu Bạch vừa ra đời nàng có dáng vẻ như thế nào nhỉ?”.

Liên Tống quân bị sặc một ngụm trà, nói: “Câu này của huynh không nên để Dạ Hoa nghe thấy, chưa biết chừng lại nghĩ rằng huynh cố ý chọc tức hắn, chắc chắn sẽ thầm ghi thù huynh đấy”. Ánh sáng từ chiếc hộp lưu ly trong tay của Đông Hoa chiếu vào mắt chàng ta, Liên Tống chỉ chiếc quạt vào đó, hỏi: “Trong tay huynh đang cầm thứ gì vậy?”.

Đế Quân xòe tay ra: “Đệ hỏi cái này ư? Đồ ăn vặt Tiểu Bạch làm cho ta, sợ bị chảy nước dưới ánh nắng nên đã dùng hộp lưu ly để phong kín lại”.

Liên Tống quân cảm thấy như có sét đánh trúng người mình ngay giữa trời nắng: “Đồ ăn vặt? Cho huynh ư?”. Sán lại gần nhìn kỹ, bên trong chiếc hộp màu lam nhạt trong suốt quả nhiên có một ít kẹo mật, còn được làm thành hình hồ ly nữa chứ. Khóe miệng của Liên Tống quân giật giật, nói: “Đệ quen biết huynh bao nhiêu năm như vậy mà lại không biết huynh còn có thói quen ăn quà vặt, chuyện này tạm thời không nhắc đến, Phượng Cửu hôm nay phải tiến hành đại lễ trước mặt hàng nghìn hàng vạn tiên giả trong bát hoang, nhất định là rất căng thẳng, huynh lại còn bảo nàng ấy làm đồ ăn vặt cho mình, liệu có phải huynh có phần vô liêm sỉ không huynh…”.

Đế Quân vẫn đùa nghịch chiếc hộp trong tay, nhoẻn miệng cười, nói: “Đừng trách oan ta, ban ngày nàng ngủ nhiều quá, đêm qua không ngủ được, bảo ta thức dậy cùng nàng làm kẹo. Ngoài ra, lần thứ hai khi ta gặp nàng, nàng còn dám đá cả chậu hoa về phía đầu ta, lại có thể điềm tĩnh đổ tội cho Mê Cốc nữa”, đưa mắt liếc nhìn chư vị tiên giả trong bát hoang tập hợp về ngồi kín ba mươi tầng trong ba mươi tầng ngoài khắp bốn xung quanh khán đài, chậm rãi nói: “Chỉ là một thế trận nhỏ thôi mà, đệ nghĩ nàng dễ dàng bị căng thẳng như thế sao?”.

Liên Tống quân cố ý gập quạt lại, gõ gõ trong lòng bàn tay, than rằng: “Nói chuyện với huynh quả nhiên không thú vị bằng nói chuyện với Dạ Hoa”, nhìn mây lành cuồn cuộn kéo đến từ phía Đông, nói: “Mấy vị chân hoàng rảnh rỗi chắc cũng đã đến rồi, cả nhà Bạch Chỉ Đế Quân chắc cũng sắp đến, đệ đi tìm Dạ Hoa để ngồi cùng, huynh cũng lên trên ngồi đi, nếu không chư vị đến rồi nhìn thấy huynh ngồi ở đây lại không dám ngồi”. Đưa mắt nhìn về vị trí trên cao, cười một tiếng, nói: “Theo thứ bậc, gia gia của Phượng Cửu còn phải ngồi phía dưới huynh, ồ, Phượng Cửu đã có can đảm theo đuổi huynh, trong những trường hợp như thế này nàng ấy quả nhiên không cần quá căng thẳng”.

Chư vị tiên giả ngồi kín ba mươi tầng bên trong ba mươi tầng bên ngoài dưới khán đài đều là các tiểu tiên trong bát hoang. Lễ Tàng binh của thượng thần Bạch Thiển cách đây đã lâu, chư vị tiên giả của cõi hồng hoang được chứng kiến đại lễ đó phần lớn đều đã qua đời, lớp tiểu tiên mới đều chỉ được đọc vài điều ghi chép trong sử sách, vô cùng có hứng thú với nghi lễ cổ xưa này, đã nô nức kéo về chiếm chỗ ở núi Đường Đình từ ba ngày trước đó. Lúc đám tiểu thần tiên nhìn thấy sự hoành tráng khi lễ đài làm từ mây lành trong chốc lát tái xuất trên thế gian, đều mãn nguyện trầm trồ, cảm thấy đã không uổng công tới tranh chỗ. Thấy ba vị thần tiên tới khán đài từ sớm đều có dung mạo tuyệt thế, hơn nữa vẻ đẹp của mỗi người lại không giống nhau, lại trầm trồ một cách mãn nguyện, cảm thấy đã không uổng công tới tranh chỗ. Nghĩ tới việc đại lễ còn chưa bắt đầu đã đẹp như vậy rồi, không biết khi đại lễ bắt đầu còn đẹp thế nào nữa, lại trầm trồ kích động, cảm thấy đã không uổng công tới tranh chỗ.

Thời gian hành lễ vẫn còn sớm, các vị tiên giả ai nấy rôm rả chuyện trò. Ví dụ như dưới khán đài có một tiểu thần tiên bên ngoài cốc ngồi nói chuyện với một tiểu thần tiên là người ở Thanh Khâu ngay bên cạnh: “Xin hỏi huynh đài là tiên ở Thanh Khâu phải không? Huynh đài có biết trong ba vị thần tiên đến sớm nhất, vị thần tiên áo đen và vị thần tiên áo trắng là thần quân nào vậy?”.

Tiểu thần tiên của Thanh Khâu chớp chớp mắt tự hào nói: “Vị áo đen là con rể của Thanh Khâu chúng ta – thái tử điện hạ Dạ Hoa quân ở trên Cửu Trùng Thiên, vị áo trắng tay cầm quạt kia thì ta không biết. Có điều, huynh đài chỉ hỏi ta về nhị vị thần tiên này, lẽ nào huynh đài biết vị thần tiên áo tím tóc trắng kia là ai ư? Vị thần tiên đó thật tuấn mỹ, nhưng những thần tiên đến sau đều phải bái lạy ngài ấy, mặc dù nhìn còn rất trẻ, ta nghĩ chắc giữ một chức quan không nhỏ đâu nhỉ?”, lại vui vẻ nói: “Trên đời cũng có nhân vật như vậy, giống như điện hạ Phượng Cửu của chúng ta, điện hạ Phượng Cửu của chúng ta tuổi còn trẻ, nhưng cũng là một vị quan không nhỏ!”.

Tiểu thần tiên bên ngoài cốc nuốt nuốt nước miếng, nói: “Chức quan của vị tôn thần đó còn lớn hơn điện hạ Phượng Cửu của các ngươi nhiều, tuy ta chỉ mới bái kiến vị tôn thần đó một lần khi lên trời xin ban phẩm vị”, lại nuốt nuốt nước bọt, nói: “Nhưng vị đó chính là Đông Hoa Đế Quân, người từng là chủ nhân của trời đất, sau thoái ẩn về ở cung Thái Thần, Đế Quân thọ ngang trời đất, dung mạo rực rỡ sánh ngang với nhật nguyệt, điện hạ Phượng Cửu của các ngươi…”.

Còn chưa nói hết câu đã bị tiểu thần tiên ở Thanh Khâu tròn xoe mắt cắt ngang: “Là… là Đông Hoa Đế Quân sao? Đông Hoa Đế Quân bằng xương bằng thịt?”, kích động đến nổi nắm chặt tay lại: “Quả… quả nhiên hôm nay đã không uổng công tới chiếm chỗ!”.

Thanh Khâu làm lễ, từ trước đến nay đều không gửi thiệp mời, chư tiên giả trong bát hoang nếu muốn hoặc rảnh rỗi, đến xem đều là khách, nếu ai không muốn hoặc không rảnh rỗi cũng không miễn cưỡng, đây là phong cách hành xử của Thanh Khâu. Mặc dù vậy, quy cách như thế nào, trường hợp ra sao, cũng có thể đại thể đoán trước được những vị thần tiên có phẩm cấp cao nào ở trên trời dưới đất sẽ đến tham dự.

Nhưng hôm nay, trong đại lễ của Thanh Khâu bọn họ, tại sao Đông Hoa Đế Quân lại xuất hiện, Bạch Chỉ Đế Quân người đứng đầu Thanh Khâu cảm thấy mình không hiểu. Bạch Chỉ thỉnh giáo người bạn thân vốn nổi tiếng nắm tin đồn nhanh nhạy của mình là Chiết Nhan, thượng thần Chiết Nhan mơ màng nói rằng mình cũng không hiểu.

Liên Tống quân ngồi bên cạnh Dạ Hoa quân kìm nén một cách khó khăn, ấm ức nói với Dạ Hoa quân: “Ngươi nói xem tại sao bọn họ lại không tới hỏi ta chứ?”.

Dạ Hoa quân nâng ly trà lên, nhướng mày nói: “Cháu nghe Thiển Thiển nói, Thành Ngọc bình sinh ghét nhất là những kẻ hay đưa chuyện của người khác”.

Liên Tống quân lập tức ngồi ngay ngắn: “Ồ, bản quân chỉ có lòng muốn giúp đỡ người khác thôi, lúc này xem ra bọn họ cũng không quá cần tới sự tương trợ của bản quân”.

Thượng thần Bạch Thiển dẫn theo Cục bột nhỏ đến muộn, nghi hoặc nhìn hai người, nói: “Hai người đang nói chuyện gì vậy?”.

Liên Tống quân cười gượng, nói: “Dạ Hoa đang khổ sở hồi tưởng phong thái của ngươi năm xưa”.

Bạch Thiển thuận tay nâng ly trà lên nhuận họng, lần theo vô số ánh mắt rực lửa trên người Dạ Hoa quân, nhìn xuống đám tiểu tiên cơ phía dưới đài, chậm rãi nói: “Em năm xưa ấy à, thực ra nhỏ hơn chàng bây giờ một chút, tuy nhiên phong tư lại không gây chú ý như chàng bây giờ”.

Cục bột nhỏ lập tức làm ra vẻ già dặn, phụ họa theo: “Haizz, phụ quân quả thực quá gây chú ý, gây chú ý như vậy không tốt, không tốt”.

Liên Tống quân nhướng mày cười nói: “Hai người mười dặm hoa đào, mỗi người năm dặm, ta thấy rất tương xứng, thực ra không ai cần oán trách ai cả”.

Dạ Hoa quân thản nhiên nói: “Vậy mười dặm hoa đào của Thành Ngọc, tam thúc có từng chiếm được nửa dặm?”.

Liên Tống quân cười trừ, nói: “Hôm nay ta đã trêu ai chọc ai vậy, hễ mở miệng ra là chẳng gặp việc gì tốt đẹp…”.

Ánh mặt trời xuyên qua các tầng mây, khiến vạn vật trên núi Đường Đình đều được khoác lên mình một sắc vàng rực rỡ, càng làm nổi bật lên tiên khí nghi ngút của ngọn núi này. Mấy tiếng nhạc khe khẽ vang lên, trên lễ đài mây ngút ngàn bỗng xuất hiện một trận pháp, do mười vị tiên giả cầm kiếm kết thành, pháp trận này là để thử xem thứ binh khí cất giữ hôm nay có đủ tư cách được đặt trên núi thánh hay không.

Hay nói một cách khác, Phượng Cửu cần mang theo thanh kiếm Hợp Hư vừa mới đúc xong vượt qua pháp trận này, nếu qua được mới có thể bước lên các bậc thang kết bằng hoa cỏ rồi đặt kiếm trên thánh đỉnh, nếu không qua được chỉ có thể làm lại, đợi một trăm năm sau lại tiến hành lễ Tàng binh. Khoan chưa nói đến chuyện công sức luyện kiếm trong một trăm năm qua hoàn toàn phí công vô ích, lại còn bị mất mặt, do đó lúc đầu Liên Tống quân mới đoán rằng hôm nay Phượng Cửu nhất đình sẽ rất căng thẳng. Sở dĩ buổi lễ này long trọng như vậy, còn trang trọng hơn cả lễ thành thân của các vị tân quân cũng là bởi vì nó liên quan tới sự tôn nghiêm của tân quân.

Bạch Dịch, phụ thân của Phượng Cửu làm chủ tế trong buổi lễ ngày hôm nay. Phượng Cửu ẩn mình phía sau một đám mây trên không trung, nhìn phụ thân của mình lảm nhảm trên lễ đài, chỉ đợi phụ thân lảm nhảm xong nàng sẽ phi thân xuống dưới, vì nàng đứng ở trên cao, không phải nghe phụ thân lảm nhảm, nhưng bên cạnh lại còn một nô bộc trung nghĩa là Mê Cốc đang lảm nhảm nữa.

Mê Cốc ôm hộp kiếm của nàng, nhìn pháp trận mười người phía sau lưng Bạch Chỉ, trong lòng lo lắng, miệng liên tục nói: “Lát nữa điện hạ cứ bình tĩnh, thực ra nếu điện hạ không qua được pháp trận này cũng không có gì nghiêm trọng, Thanh Khâu chưa từng có người nào ở độ tuổi của điện hạ đã phải thực hiện nghi lễ này, mặc dù là thần tử mà nói ra những lời này có phần không thích hợp lắm, nhưng trong chuyện này Quân Thượng cũng quả thực đã ép điện hạ hơi quá…”.

Lời nói của Mê Cốc lọt vào lỗ tai bên trái của Phượng Cửu lại chui ra bằng lỗ tai bên phải. Thực ra ánh mắt của nàng đang nhìn về phía hai người là gia gia nàng và Đông Hoa Đế Quân trên khán đài, trong lòng bỗng lóe lên một tia linh quang. Nàng ngẫm thấy gia gia của nàng mới là người đứng đầu lớn nhất ở Thanh Khâu, hôn sự giữa nàng, còn cần gì phải lần lượt thuyết phục lão lão và song thân của nàng nữa, gia gia mới là người có thể quyết định ngay mà! Nhưng phải làm thế nào mới có thể thuyết phụ được gia gia đây?

Gia gia của nàng không thích khách sáo, có lẽ cần nói thẳng với người rằng, “Gia gia, con đã tìm được một phu quân chính là Đông Hoa Đế Quân người ngồi phía trên gia gia trong ngày hôm đó, xin gia gia ân chuẩn cho hôn sự của chúng con”. Nhưng nếu nói như vậy, liệu có quá cứng nhắc không nhỉ?

Trước đây cô cô dạy nàng cách thuyết phục người khác, cô cô đã nói như thế nào nhỉ? Ồ, đúng rồi, cô cô nói, muốn thuyết phục một người, trong cuộc chuyện trò tốt nhất là nên lôi kéo một chút quan hệ với người đó trước, nếu có thể gợi nhớ một vài ký ức của người đó càng tốt, điều quan trọng nhất là phải khiến người đó có cảm giác thân thiện, ngoài ra cuối cùng thể hiện một chút tình cảm chân thành với người đó thì càng tốt. Nàng nhớ tới lời dạy đó, cảm thấy được chỉ giáo, liền thầm sửa đổi lại một chút những lời nói có phần gượng ép cứng nhắc ban nãy, lại thầm nhắc lại: “Gia gia, con đã tìm được một phu quân, chính là Đông Hoa Đế Quân người ngồi trên gia gia trong buổi lễ ngày hôm nay đó, nghe nói trước đây khi còn đi học, gia gia và chàng là bạn cùng trường, gia gia còn từng đánh trận dưới trướng của chàng nữa!”. Tốt rồi, đã có mối liên hệ rồi, hồi ức và cảm giác thân thiện cũng có rồi, còn về tình cảm chân thành… “Con và chàng sau này nhất định sẽ hiếu thuận với gia gia, mong gia gia ân chuẩn cho hôn sự của chúng con!”. Ồ, tình cảm chân thành chắc cũng có rồi.

Nàng đang nghĩ tới chỗ quan trọng thì Mê Cốc bên cạnh kéo tay áo nàng: “Điện hạ, đến giờ rồi, đã đến lúc phải vào pháp trận rồi”.

Mê Cốc lại dặn dò nàng: “Không qua được thì chúng ta không qua nữa, cũng không sợ bị người khác chê cười, nhất thiết không được miễn cưỡng cố xông lên đâu nhé!”.

Phượng Cửu chỉ cần bên tai được yên tĩnh, ừm một tiếng. Nhưng nàng thực ra không hề tán đồng với kiến giải của Mê Cốc. Mặc dù nàng học không giỏi những môn Đạo điển, kinh Phật, Thơ từ, Văn chương, nhưng nếu luận về việc vác kiếm đánh lộn, năm nào nàng cũng là người đứng đầu trong số các thần tiên có độ tuổi xấp xỉ với nàng ở Thanh Khâu.

Sự lo lắng này của Mê Cốc thực ra hơi thừa.

Bạch Dịch vừa xuống lễ đài, trong không trung liền vang lên một tiếng nhạc diệu kỳ, pháp trận trên lễ đài lập tức thành hình, phía sau một đám mây trên không trung bỗng xuất hiện đường sáng màu bạc khi kiếm sắc rời khỏi vỏ, chém đôi tầng mây màu vàng, một thiếu nữ toàn thân áo đỏ cầm kiếm đạp gió mà tới, trong nháy mắt đã vào trong pháp trận.

Trên vị trí cao nhất của khán đài, Đế Quân – người nãy giờ buồn chán ngồi nghịch chiếc hộp đựng kẹo hồ ly đã thay đổi tư thế ngồi, hơi ngước đầu lên.

Trong pháp trận, sắc trắng sắc đỏ giao nhau, bóng kiếm ngút trời, trời đất tĩnh lặng, tiếng đao kiếm va vào nhau không ngừng vang lên. Trong vòng khoảng mười chiêu, bóng áo đỏ với thanh kiếm Hợp Hư đã tạo ra được ba thời cơ để vượt trận, nhưng đáng tiếc là mỗi khi tới thời khắc quan trọng, pháp trận vốn chỉ có mười người bỗng lại xuất hiện bóng một trăm người, tạo nên một bức tường chắn kiên cố như thành đồng vách sắt, chặn đứng người đang muốn vượt qua lại.

Đám tiểu thần tiên phía dưới lễ đài, đặc biệt là đám tiểu thần tiên của Thanh Khâu đều toát mồ hôi lo cho tiểu Đế cơ của bọn họ.

Pháp trận này chính là pháp thuật do Bạch Chỉ Đế Quân đích thân dùng một thành thần lực đặt trong núi Đường Đình từ thời đại hồng hoang khi lễ Tàng binh mới được lập ra, khi lễ đài bằng mây lành xuất hiện, pháp thuật này cũng tự động mở ra kết thành một pháp trận khiến người ta khó có thể dự liệu. Phượng Cửu cau mày, ban nãy nàng dùng những chiêu kiếm sắc bén, chiêu sau mạnh hơn chiêu trước, định tấn công nhanh, bởi vì ngay từ chiêu đầu tiên đã phát hiện ra mười vị tiên giả kết trận này thực ra dùng kiếm còn thua kém mình, muốn giải quyết “nhanh” để vượt qua pháp trận, nhưng không ngờ sự tinh diệu của pháp trận này lại không nằm ở chỗ người kết trận dùng kiếm thế nào, mà là mỗi khi tới thời khắc quan trọng, luôn có trăm bóng người bỗng nhiên xuất hiện ngăn cản nàng vượt trận.

Đúng là một thế trận ôn hòa.

Nếu cứ từ từ đánh để kéo dài thời gian thì không được, từ khi cô cô vượt trận trong đại lễ lần trước, mười vị tiên giả kết trận này đã ngủ suốt mười vạn năm chỉ để gây khó khăn cho nàng trong ngày hôm nay, tinh lực của họ đương nhiên mạnh hơn nàng nhiều, xem ra vẫn cần phải tìm ra một biện pháp rồi lấy hết sức tấn công thật mạnh. Pháp thuật mà gia gia tạo nên này, mặc dù mỗi lần sinh ra pháp trận đều không hoàn toàn giống nhau, nhưng trước sau vẫn luôn có mười vị tiên giả kết trận, không có lý gì tới lượt nàng lại bỗng nhiên gọi trăm người tới kết trận, mặc dù gia gia luôn một lòng mong nàng thành tài nhưng cũng không mong đợi đến mức đó, mí mắt nàng khẽ giật, nói như vậy… trăm bóng người đó chỉ có thể là ảo ảnh.

Không hiểu tại sao, nghĩ tới đây nàng lại bất giác phân tâm liếc nhìn về phía vị trí khách quý trên khán đài, vừa hay bắt gặp ánh mắt của chàng, Đế Quân đang ngồi trên vị trí cao nhất, khóe môi nở một nụ cười không rõ ý nghĩa, hai ngón tay chụm lại chỉ vào đuôi mắt. Nàng vừa lơ đễnh một cái, một loạt đường kiếm sắc của các vị tiên giả kết trận đồng lượt lao tới, nàng hít một hơi thật sâu rồi lùi lại vài trượng, trong đầu lập tức hiện lên trận địa cọc băng mà Đế Quân dựng lên cho nàng luyện kiếm trong Tật Phong viện ở Phạn Âm Cốc, lúc đó bên cạnh rừng băng có vài cây hạnh già mờ ảo trong sương khói, khi nàng bịt mắt luyện kiếm, Đế Quân thích nằm dưới gốc cây hạnh uống trà. Đúng rồi, đôi mắt.

Mẫu thân của Phượng Cửu đang ngồi cạnh lão lão của nàng, ánh mắt vô cùng lo lắng: “Cửu Nhi sao lại gặp phải pháp trận xui xẻo này, pháp trận này đến con cũng chưa chắc đã vượt qua được, Cửu Nhi mới bao nhiêu tuổi, có tu vi thâm sâu bao nhiêu chứ, mẫu thân, người xem phải làm thế nào đây, phải làm thế nào bây giờ?”.

Ánh mắt của lão lão Phượng Cửu lại sáng bừng, nói một cách đầy tính toán: “Không qua được mới tốt, ta luôn không đồng ý với kiến giải của công công (cha chồng) của con, con gái thì phải nuôi dưỡng như châu như ngọc, gả cho một phu quân tốt rồi làm một người vợ tốt, đang yên đang lành lại kế thừa quân vị tổ nghiệp gì đó, tất cả đều là bởi vì khi Cửu Nhi còn nhỏ các con đã bỏ nó cho công mỗ (cha mẹ chồng) nuôi dưỡng một thời gian, nếu năm xưa giao Cửu Nhi cho ta nuôi, chắc chắn sẽ không như vậy. Nam tử thời nay có ai thích một cô gái múa kiếm đánh quyền chứ, nói ngay như tiểu cô (em chồng) Bạch Thiển của con đó, chẳng phải mấy năm gần đây không còn đánh đấm gì nữa mới gả được cho một chỗ tốt hay sao? Hôm nay nếu Cửu Nhi qua được pháp trận này, đám thanh niên tuấn kiệt trong bát hoang này còn ai dám lấy nó nữa chứ?”.

Khóe mắt mẫu thân của Phượng Cửu bỗng chảy ra hai giọt nước mắt lo lắng, nói: “Nghe phu quân nói năm xưa công công lập nên pháp trận này, nguyên nhân quan trọng nhất chính là muốn khảo hạch tân quân, động viên họ sau khi kế vị phải nỗ lực phấn đấu, nếu hôm nay Phượng Cửu không qua được, công công nhất định sẽ cho rằng nó chưa đủ tiến bộ, bất luận thế nào cũng sẽ phải phạt nó, nhưng theo ý kiến của mẫu thân, nếu Phượng Cửu qua được pháp trận này lại không gã được cho một đám tốt, đây mới là tiến thoái lưỡng nan, phải làm như thế nào mới tốt đây, phải làm như thế nào mới tốt đây…”.

Lão lão của Phượng Cửu khoát tay, nói một cách dứt khoát: “Gia gia nó nếu muốn phạt nó, các con khuyên nhủ ông ấy là được rồi, việc đó lẽ nào còn quan trọng hơn cả việc Phượng Cửu được gả cho một đám tốt hay sao?”. Bà quay đầu lại nhìn về phía lễ đài bằng mây lành, giọng điệu có phần vui vẻ, nói: “May mà Cửu Nhi hôm nay cũng xuất sắc, đã thể hiện sự yếu đuối một cách không tồi, con xem mấy chiêu tránh né vừa rồi nó đã tránh né một cách khiến người ta thương mến làm sao, nhìn tình hình này, bại trận là…”, hai chữ chắc chắn còn đang nằm nguyên trong miệng của lão lão nàng, hồi lâu, lão lão lão nàng sững sờ chỉ tay vào lễ đài, toàn thân run rẩy như một chiếc lá khô trong gió mùa thu: “Nó… sao nó đã vượt qua rồi!”.

Phượng Cửu đã phá vỡ thế trận này như thế nào, lão lão của nàng vì còn bận dạy dỗ mẫu thân nàng nên đã không nhìn thấy, chư vị tiên giả trên khán đài và đám tiểu thần tiên bên dưới khán đài lại đều nhìn thấy rất rõ.

Vừa rồi thấy vị tiểu Đế cơ này bị dồn tới sát mép vân đài, trái tim của bọn họ đều đã nhẩy lên tận cổ họng, lại thấy nàng bỗng nhiên thu kiếm về chém đứt một bên tay áo, đưa tay ra đón lấy mảnh vải bịt mắt của mình lại. Khi đám đông còn đang nghi hoặc, nàng đã không chút do dự cầm kiếm lao vào trong pháp trận, khi chiến đấu thân thủ lại nhanh nhẹn khéo léo hơn cả khi chưa bịt mắt lại, chỉ trong vòng ba chiêu đã lại tạo được một thời cơ phá trận, đến khi trong trận bỗng nhiên lại xuất hiện hình bóng của một trăm người, nàng cầm kiếm hơi dịch chuyển về phía bên phải, đám đông còn chưa kịp phản ứng lại, nàng đã phá vỡ ảo ảnh, đứng ở phía bên kia của pháp trận, pháp trận đã bị phá.

Tiểu Đế cơ trẻ tuổi chống kiếm đứng thẳng, giật dải lụa đỏ che mắt xuống, ngẩng đầu nhìn về phía khán đài trên cao, khuôn mặt không son phấn ửng hồng vì vừa giao chiến, ánh mắt long lanh, rực sáng chớp mắt nhìn về một nơi nào đó rồi nhanh chóng thu về.

Ngày bình thường thấy nàng có vẻ không nghiêm túc, gặp phải pháp trận rắc rối như thế này, lại diễn ra trước mắt của chư vị thần tiên khắp bát hoang, nhưng nàng không hề tỏ vẻ lo sợ, tiến thoái ung dung, cử chỉ đĩnh đạc, trong sự yên lặng trên đài dưới đài, vững vàng trấn áp toàn bộ nơi đây, còn có thể điềm tĩnh thản nhiên thu kiếm vào trong bao, khe khẽ thở phào một hơi: “Cuối cùng có thể khoe hộp kiếm làm năm nay rồi”.

Trong lễ Tàng binh, đến phần cuối cùng khi bước lên cả trăm bậc thang được kết bằng hoa cỏ đi lên thánh đỉnh giấu kiếm mới dùng đến hộp đựng kiếm, nếu ngay cả pháp trận giữ kiếm cũng không qua được, hộp kiếm quả thực không có cơ hội xuất hiện nữa.

Phượng Cửu đưa tay lên khẽ vẫy một cái, một tia kim quang lập tức lóe lên trong không trung, dừng lại ngay trước mặt nàng, trong luồng kim quang đó thấp thoáng một hộp kiếm dài hẹp, kiếm Hợp Hư bỗng phát ra một tiếng kêu, hộp kiếm lập tức mở ra, chỉ trong nháy mắt đã thu gọn thanh kiếm dài ba tấc vào trong đó.

Chủ tế Bạch Dịch vái lạy thánh đỉnh: “Xin đem Hợp Hư, đặt ở Đường Đình, võ đức mãi mãi vững bền, bảo vệ Đông Hoang của chúng ta”.

Thánh đỉnh để giữ thanh kiếm trước lễ đài bỗng nhiên mở ra theo lời tụng, Đế cơ áo đỏ hai tay giơ cao, sắc mặt nghiêm trang, nâng cao hộp kiếm lên ngang trán, bước từng bước lên cầu thang cỏ. Chư tiên Đông Hoang đều đồng loạt quỳ xuống vái lạy, lời chúc tụng làm chấn động cả trời xanh: “Thiếu quân đại đức, tạo nên thần binh, xin đem Hợp Hư, đặt ở Đường Đình, võ đức mãi mãi vững bền, bảo trợ Đông Hoang của chúng ta”.

Lời tụng vang vọng khắp núi rừng, mãi không ngừng nghỉ.

03.

Lần này Liên Tống quân tới núi Đường Đình, một là đi cùng với Thành Ngọc Nguyên Quân – người tới đây để xem trò góp vui, hai là bản thân chàng cũng tới xem trò vui cho đỡ buồn.

Bởi vì có mục đích rõ ràng, hôm nay Liên Tống quân quả nhiên đã hóng được không ít thứ hay ho.

Ví dụ như ban nãy, khi chàng chuyển quạt sang tay kia, liền nhìn thấy một động tác nhỏ của Tiểu hồ ly và Đông Hoa trong khoảng cách núi cao sông dài xa vời vợi. Người khác đương nhiên không chú ý, nhưng Liên Tống quân là người vô cùng sáng mắt sáng lòng, đương nhiên đã nhìn thấy Phượng Cửu sau khi phá trận bèn đưa mắt nhìn lên khán đài, còn Đế Quân – người ngồi ở vị trí cao nhất trên khán đài lại chuyển tay trái lên chống má, điềm nhiên dùng khẩu hình nói với nàng, khẩu hình đó rõ ràng là “Đánh hay lắm”, khóe môi của Tiểu hồ ly liền nở một nụ cười đắc ý, lại tốn rất nhiều công sức để thu nụ cười đó lại, cẩn trọng thu ánh mắt lại nhìn cây kiếm Hợp Hư, đợi đến khi phụ thân của nàng ấy đọc lời chúc tụng, còn giả vờ như vô ý đưa mắt liếc nhìn bốn xung quanh xem có ai chú ý tới họ không.

Việc đầu mày cuối mắt với người mình yêu giữa chốn đông người, công tử hào hoa Liên Tống quân nghĩ lại, phát hiện bản thân mình lại chưa từng thực hiện, tức thì cảm thấy rõ ràng đã uổng phí cho danh hiệu thánh tình của mình, bất giác đưa mắt nhìn về phía các tiểu tiên trên thiên đình ở rìa khán đài, tìm hình bóng của Thành Ngọc Nguyên Quân trong số đó. Thành Ngọc Nguyên Quân từ khi ngồi yên trên chiếc ghế ở rìa khán đài đó, luôn bàn luận với Ti Mệnh Tinh Quân về việc rốt cuộc có bao nhiêu cách ăn quả hồ đào, thảo luận một cách vô cùng hứng thú, không hề quay đầu nhìn chàng dù chỉ một cái.

Liên Tống quân ngây người nhìn hình bóng đó một hồi lâu, có chút thương cảm, có chút rầu rĩ.

Liên Tống quân đang trong lúc rầu rĩ, ngẩng đầu liếc nhìn thấy một đám mây đen lớn chậm rãi trôi đến dưới ánh mặt trời. Đợi đến khi nhận ra ai là người nấp sau đám mây đen đó, chàng lập tức không còn cảm thấy rầu rĩ nữa. Trong đại lễ ngày hôm nay mà lại gặp người tới gây gổ, Liên Tống quân phe phẩy cây quạt ngồi tựa ghế, cảm thấy có chút thú vị.

Phượng Cửu lúc bấy giờ đang đưa cây kiếm Hợp Hư vào trong thánh đỉnh. Khi còn chưa buông tay, nhìn đám mây đen càng ngày càng tiến lại gần, động tác của nàng bất giác chậm lại. Chính vào lúc động tác chậm lại đó, liền nghe thấy một tiếng cười vọng ra từ phía sau đám mây đen: “Quả nhiên là một ngày hội lớn mà chư vị thần tiên cũng thưởng thức, tuy nhiên lễ Tàng binh này của Phượng Cửu điện hạ, theo ngu ý của Nhiếp mỗ, dường như vẫn còn thiếu một bước”. Mây mù tản ra, một trang nam tử khoác áo khoác lông chồn, trên tay cầm một chiếc lò sưởi, được một đoàn thị tùng vây quanh, mỉm cười lơ lửng trên đám mây.

Trên thế gian này chỉ có duy nhất một người khiến Phượng Cửu thoạt nhìn đã không kìm được mà cảm thấy nóng bức thay cho hắn ta, người đó chính là Huyền chi Ma quân Nhiếp Sơ Dần. Vào thời khắc này, xuất hiện tại nơi đây, nói những câu như vậy, Nhiếp Sơ Dần rõ ràng là tới để quấy rối. Có điều tất cả các bậc trưởng bối trong nhà họ Bạch đều có mặt tại đây, Phượng Cửu tự cảm thấy một tiểu bối như nàng không cần phải cố ra mặt vào lúc này, bèn thu hộp kiếm về ngước mắt lên nhìn phụ thân mình là Bạch Dịch.

Trong số các bậc trưởng bối ở Thanh Khâu, phụ thân nàng được coi là người biết nói năng khách sáo nhất, tiếng nhạc trên lễ đài dừng lại, khuôn mặt của Bạch Dịch ôn hòa như gió xuân: “Bản quân thường nghe nói Ma tộc luôn phóng khoáng, không câu nệ lễ giáo phép tắc, nhưng không ngờ Huyền chi Ma quân lại rất trọng lễ nghĩa, hôm nay Thanh Khâu chúng ta cử hành một nghi lễ cổ trên địa bàn của chúng ta, lại làm phiền Huyền chi Ma quân đại giá tới nhắc nhở, thật là hổ thẹn, hổ thẹn”.

Ánh mắt của Nhiếp Sơ Dần khẽ động, nụ cười vẫn hiện nguyên trên khuôn mặt, đáp: “Thượng thần Bạch Dịch nói sai rồi, hai chữ ‘nhắc nhở’ quả thực Nhiếp mỗ không dám nhận, có điều Nhiếp mỗ đã từng được chứng kiến hai đại lễ Tàng binh thời hồng hoang ở Thanh Khâu, trong lòng vô cùng ngưỡng mộ mà thôi. Còn nhớ trước đây, sau trận thử kiếm đều có một trận đấu kiếm, cho phép những người cùng thế hệ có thể thách đấu với tân quân, việc này rất khiến người ta mong đợi, nhưng tại sao hôm nay tới lượt điện hạ Phượng Cửu làm lễ Tàng binh, sau khi thử kiếm lại tiến hành tàng kiếm luôn như vậy chứ?”.

Nhiếp Sơ Dần rốt cuộc muốn gì, chư vị thần tiên đến xem đại lễ người không hay biết vẫn không hay biết, người hiểu rõ cũng đã hiểu rõ rồi.

Trước đây trong lễ Tàng binh ở Thanh Khâu quả thực có vòng đấu kiếm với tân quân, các tiên giả cùng thế hệ đều có thể thách đấu với tân quân, nếu người thách đấu bị thua, sẽ không có vấn đề gì, nhưng nếu thắng được tân quân sẽ có được một lời hứa từ tân quân. Tương truyền Bạch Chỉ Đế Quân lập ra hai vòng thử kiếm và đấu kiếm, vòng đầu tiên là để khích lệ chí tiến thủ của tân quân sau khi kế vị, vòng sau càng là vì khích lệ con cháu nhà họ Bạch từ nhỏ đã đứng đầu trong số chúng bạn cùng trang lứa. Bởi vì nếu không thể đứng đầu thì phải đưa ra một lời hứa với cương vị tân quân, cái giá phải trả là quá lớn, vì thế đám con cháu nhà họ Bạch mặc dù ai nấy đều được dạy dỗ theo kiểu tự do phát triển mà trưởng thành, nhưng cuối cùng đều lần lượt thành tài. Bốn người con trai của Bạch Dịch Đế Quân đều từng bị giày vò như vậy, khi tới lượt cô con gái út Bạch Thiển, lại bởi vì Đế Hậu không nỡ nhẫn tâm, thương nàng là phận nữ nhi, ngày nào cũng tới khóc lóc trước mặt Bạch Chỉ Đế Quân, khóc liền suốt hai tháng trời liền gợi được chút lòng trắc ẩn của Bạch Chỉ Đế Quân, ngài loại bỏ vòng đấu kiếm trong lễ Tàng binh, đồng thời mặc nhận rằng sau này nếu Thanh Khâu lại có nữ quân, lễ Tàng binh của nữ quân sẽ được bỏ vòng đấu kiếm so với lễ Tàng binh của nam tử.

Thượng thần Chiết Nhan hơi nghiêng người hỏi Bạch Chỉ Đế Quân ngồi ngay bên cạnh: “Lễ Tàng binh là đại lễ truyền thống của tân quân sau khi kế vị, nếu có thay đổi về mặt phép tắc, bắt buộc phải sửa đổi lại trong lễ sách của Thanh Khâu mới có thể được coi là chính thức trong bát hoang, không phải là ngài đã quên không sửa đấy chứ?”.

Bạch Chỉ Đế Quân ôm đầu nói: “Thanh Khâu không coi trọng lễ tiết lắm, ngài cũng biết mà, việc này quả thực là ta đã quên mất”.

Thượng thần Chiết Nhan lại nói: “Vậy… người cùng thế hệ có thể thách đấu với tân quân, ngài có phải cũng quên mất không hạn chế rằng chỉ có người trong thần tộc của Thanh Khâu mới được thách đấu đúng không?”.

Bạch Chỉ Đế Quân hàm hồ đáp: “Mấy buổi đại lễ trước đều diễn ra từ thời thượng cổ hồng hoang, lúc đó thế phong thuần phác, Ma tộc đâu có tâm kế tới lợi dụng ta như vậy, ta sơ ý ở điểm này cũng không có gì lạ”.

Thượng thần Chiết Nhan thở dài một tiếng, nói: “Vì chữ quên và chữ sơ ý này của ngài, chưa biết chừng hôm nay lại khiến Nhiếp Sơ Dần có được món lợi lớn, hơn nữa, về tình về lý thì ngài còn không nói gì được hắn ta”.

Bạch Chỉ Đế Quân cau mày nói: “Hắn ta lớn hơn Cửu nha đầu tới bảy, tám vạn tuổi, nếu xuống so tài với Cửu nha đầu chẳng phải sẽ gây trò cười là bắt nạt trẻ con hay sao, ta nghĩ hắn ta không mặt dày như vậy đâu. Trong số đám tùy tùng mà hắn mang theo, ta thấy chưa chắc đã có ai đánh thắng nổi Cửu nha đầu”.

Thượng thần Chiết Nhan không tiếp lời, hai người đều nâng ly trà lên nhuận họng, ánh mắt lại hướng về đám mây trên không trung, vừa hay nghe thấy Nhiếp Sơ Dần nói: “Nếu trong lễ sách của Thanh Khâu chưa từng có sự thay đổi về phép tắc của lễ Tàng binh, hôm nay sẽ phải có một trận đấu kiếm, Nhiếp mỗ đã sớm được nghe danh điện hạ Phượng Cửu kiếm thuật tinh thông điêu luyện, Nhiếp mỗ cũng là người say mê kiếm thuật, không biết có thể cọ xát học hỏi với điện hạ vài chiêu?”.

Khuôn mặt vừa rồi còn ôn hòa như gió xuân của Bạch Dịch trong chốc lát đã phủ đầy sương thu: “Cho dù cần có một trận đấu kiếm, Ma quân và tiểu nữ cũng không được coi là người cùng trang lứa, sao có thể nói tới chuyện học hỏi, Ma quân xin hãy tự trọng”.

Thấy Bạch Dịch có vẻ bị ép tới mức tức giận, Nhiếp Sơ Dần cười rất chân thành: “Điện hạ Phượng Cửu là thế hệ cháu của Thanh Khâu, Nhiếp mỗ cũng là ma quân đời thứ ba, xét từ điều này, Nhiếp mỗ và điện hạ Phượng Cửu thực ra đúng là người cùng thế hệ. Nhiếp mỗ chẳng qua chỉ say mê kiếm thuật mà thôi, thành tâm muốn được so tài với Phượng Cửu, mặc dù là tỷ thí, nhưng Nhiếp mỗ với tư cách là hậu duệ của Ma tộc, tuyệt đối không phải là người không thể nhận thua, lẽ nào điện hạ Phượng Cửu thân là hậu duệ của Thần tộc, lại là một người không thể chịu thua sao?”.

Tính từ đời Khánh Khương, Nhiếp Sơ Dần quả nhiên là Ma quân đời thứ ba, nhưng vương vị Ma quân từ trước đến nay đều dựa vào nắm đấm chứ không dựa vào huyết thống. Xét từ góc độ đó, nếu nói hắn ta và Phượng Cửu là người cùng thời quả thực là khiên cưỡng, nhưng cho dù là khiên cưỡng, nói rõ ra như vậy rốt cuộc cũng rơi vào thế yếu. Hơn nữa, vốn chỉ là một cuộc tỷ thí trong dòng tộc, hắn ta nói như vậy lại trở thành cuộc so tài giữa hậu duệ của hai tộc, hai tộc Ma, Thần mặc dù mấy năm gần đây chung sống hòa thuận, nhưng chung quy vẫn co hiềm khích từ xưa, Nhiếp Sơ Dần thách đấu như vậy, tứ hải bát hoang nhìn vào, Phượng Cửu đấu cũng phải đấu, không đấu cũng phải đấu.

Trong số chư vị thần tiên đến xem đại lễ, có người thật sự lo lắng, cũng có người muốn xem trò vui. Nhóm người thứ nhất do Thương Di thần quân – người vẫn thầm ngưỡng mộ Phượng Cửu cho tới tận hôm nay đứng đầu, nhóm thứ hai do Tri Hạc công chúa – nghĩa muội của Đông Hoa Đế Quân đứng đầu.

Thượng thần Chiết Nhan liếc mắt nhìn cục diện trước mặt, bất đắc dĩ liếc về phía Bạch Chỉ Đế Quân, nói: “Ngài xem, ngài lại đoán nhầm rồi, từ xưa đến nay, người làm nên nghiệp lớn đều không câu nệ đến thể diện, thể diện quả thực là thứ có thể có có thể không, Nhiếp Sơ Dần đã quyết tâm không cần thể diện, quyết chí ỷ mạnh hiếp yếu đánh một trận với Cửu nha đầu rồi, xem ra là muốn có một lời hứa của Thanh Khâu, để khi hắn ta thành đại sự sẽ dùng vào lúc quan trọng. Đáng tiếc ngài lại luôn là một người thích thể diện, cái thiệt này chỉ có thể nuốt trôi vào trong bụng, để Cửu nha đầu lên giao đấu hình thức với hắn ta vài ba chiêu vậy”.

Bạch Chỉ Đế Quân đặt ly trà lên bàn, nói: “Hãy để Cửu nha đầu giao đấu với hắn ta vài ba chiêu rồi nói”, vừa nói vừa gật đầu với Bạch Dịch.

Bạch Dịch hiểu được thái độ của phụ thân, sa sầm nét mặt gọi Phượng Cửu bước xuống từ đỉnh thang cỏ trong nụ cười càng lúc càng chân thành của Nhiếp Sơ Dần.

So với vẻ bi phẫn vì phải chịu nỗi ấm ức thầm lặng mà không thể thổ lộ của phụ thân, Phượng Cửu lại tỏ ra vô cùng ung dung. Dưới đài, ngoài một số tiểu thần tiên không hiểu chuyện đang nhìn nàng một cách đầy chờ đợi ra, những thần tiên hơi hiểu chuyện một chút đều biết nàng tuyệt đối không thể đánh lại được Nhiếp Sơ Dần, nàng không nghĩ nhất định phải đánh thắng hắn ta để Thần tộc được nở mày nở mặt, vì vậy trong lòng nàng rất điềm tĩnh.

Phượng Cửu điềm tĩnh mở hộp kiếm, điềm tĩnh lấy thanh kiếm Hợp Hư ra, điềm tĩnh chụm tay mời Nhiếp Sơ Dần người đang cầm chiếc lò sưởi và thanh kiếm trong cùng một tay, miệng nói: “Xin được thỉnh giáo”. Đối thủ như thế này không phải lúc nào cũng gặp được, mặc dù chắc chắn không thể đánh lại hắn ta, nổ lực quyết đấu một trận chắc chắn sẽ có thu hoạch.

Trên lễ đài nhất thời bóng kiếm bay lượn, đường kiếm dài di chuyển thanh thoát như bóng chim bay, uyển chuyển như rồng bay phượng múa, khi hai thanh kiếm chạm nhau thi thoảng còn phát ra hoa lửa. Sau mười chiêu, mũi kiếm sắt của Nhiếp Sơ Dần đã kề thẳng vào cổ họng của Phượng Cửu, một giọt mồ hôi lăn từ trên trán xuống gò má của Phượng Cửu. Chung quy là thực lực quá đỗi chêch lệch, Nhiếp Sơ Dần thu kiếm vào trong bao, ra vẻ tiếc nuối, nói: “Là do Nhiếp mỗ đã đánh giá quá cao kiếm thuật của điện hạ, kiếm của Thần tộc, chẳng qua cũng chỉ có vậy”.

Dưới lễ đài, đôi lông mày lưỡi mác của Bạch Dịch đã rướn cao, nghiến răng nói với Bạch Chỉ: “Để hắn ta lợi dụng rồi còn sỉ nhục Thanh Khâu của chúng ta như vậy sao?”.

Trên lễ đài, Phượng Cửu lại khiêm tốn nói: “Ma quân mặc dù lớn hơn Phượng Cửu tám chín vạn tuổi, tuổi gấp ba lần Phượng Cửu, nhưng dù sao cũng là người cùng thời, lại trong vòng mười chiêu đã thắng Phượng Cửu, Phượng Cửu thật sự tâm phục khẩu phục”.

Nụ cười nơi khóe mắt của Nhiếp Sơ Dần lạnh đi đôi chút: “Điện hạ ăn nói khéo lắm, nhưng Nhiếp mỗ đã thắng trận này, thắng làm vua, thua làm giặc, điện hạ là người giữ chữ tín, chắc sẽ không chối dành cho Nhiếp mỗ một lời…”, từ “hứa” còn chưa tiếp đất, từ trên khán đài bỗng vang lên một tiếng nói: “Đợi đã”.

Ánh mắt của đám đông hướng về nơi phát ra tiếng nói, người cất giọng nói là một vị tiên giả áo lam có một khuôn mặt đầy hòa khí, đó là Hàn Sơn Chân Nhân dưới trướng Nữ Oa.

Hàn Sơn Chân Nhân dưới trướng Nữ Oa nương nương mấy vạn năm, phẩm cấp mặc dù không được coi là cao, nhưng vì cai quản sổ sách hôn sự của Thần tộc, các vị tiên giả đồng liêu gặp ngài đều cung kính chắp tay chào, tránh hai chữ Hàn Sơn, khách khí gọi ngài là “Chân Nhân”. Khi Thần tộc thành hôn cùng bái lạy trời đất, tờ sớ cúng tế trong hôn lễ sẽ được đốt cho vị Chân Nhân này, phiền ngài ghi chép trong sổ sách mới được coi là đã chính thức thành hôn. Xét về lý mà nói, vị Chân Nhân này chẳng có liên quan gì tới buổi lễ Tàng binh ngày hôm nay, Hàn Sơn Chân Nhân không chút liên quan lúc này đang đứng trong góc khuất nhất ở rìa bên phải của khán đài, chắp tay về phía lễ đài, nói: “Tiểu tiên mặc dù hiểu biết nông cạn, nhưng cũng biết được vòng đấu kiếm trong lễ Tàng binh của Thanh Khâu là vòng phu thê tân quân cùng tiến thoái, Ma quân mặc dù đã đánh bại được tân quân Phượng Cửu điện hạ, nhưng vẫn còn chưa thắng vương phu của tân quân, muốn có một lời hứa của Thanh Khâu từ điện hạ Phượng Cửu, hình như là vẫn còn hơi sớm thì phải”.

Sau một khoảng yên lặng, phía dưới khán đài lại vang lên triếng rì rầm huyên náo. Bạch Chỉ Đế Quân đặt tay trên bàn trà, thượng thần Chiết Nhan vô cùng kinh ngạc, Phục Mịch tiên mẫu há hốc miệng, thượng thần Bạch Dịch suýt ngã nhào. Thượng thần Bạch Thiển hỏi Dạ Hoa trong vô thức: “Nó được gả rồi ư? Gả cho ai? Gả từ khi nào vậy?”. Dạ Hoa quân chu đáo nói: “Hàn Sơn Chân Nhân đã nói, chắc không sai”. Nói xong liền nghi hoặc nhìn sang phía Liên tam điện hạ ngồi ngay bên cạnh, Liên tam điện hạ giả bộ chính nhân quân tử, ừ hữ một tiếng: “Ta không phải là người hay đưa chuyện”.

Phượng Cửu nghển cổ nhìn về phía vị trí cao nhất trên lễ đài, chẳng thấy bóng dáng của vị thần quân áo tím tóc trắng đâu cả. Nhiếp Sơ Dần nhìn về phía Hàn Sơn Chân Nhân người vừa phá rối việc của mình, yên lặng trong giây lát, lạnh lùng cười, nói: “Nhiếp mỗ lại chưa từng nghe nói điện hạ Phượng Cửu còn có một vị vương phu, nếu đã có rồi, Nhiếp mỗ cũng chưa chắc đã không đánh thắng được ngài ấy, đó là vị nào, xin mời lên đài”. Phượng Cửu nhủ thầm, ta cảm thấy ngươi thật sự không thể đánh lại được chàng.

Chư vị thần tiên đồng loạt dán mắt nhìn vào không trung, chờ đợi vị vương phu của tân quân mà Hàn Sơn Chân Nhân nói từ trên trời rơi xuống, nhưng chính vào lúc đó, lại thấy một vị thần quân áo tím thong dong bước lên lễ đài từ phía bên phải, hờ hững chỉnh tay áo: “Có thể bắt đầu được rồi ư? Ta vừa ra ngoài mài kiếm”. Mái tóc dài màu trắng, dải đai trên trán màu lam tối, dung mạo tuấn mỹ đoan nghiêm, khi cầm kinh Phật thì mang vẻ đoan nghiêm tĩnh lặng vượt trên cõi hồng trần Tam Thanh, khi cầm kiếm lại sắc bén như một con gió xoáy mang sức hủy diệt to lớn. Đây chính là Đông Hoa Đế Quân người ngồi trên ngôi vị cao nhất trên khán đài ban nãy, người từng là bá chủ của trời đất.

Nhiếp Sơ Dần sững người lại, dưới khán đài trở nên vô cùng yên lặng, chỉ trong chốc lát chúng tiên đã nhất loạt quỳ xuống, chư vị chân hoàng thượng tiên có phẩm cấp cao ngồi trên khán đài đều nhất loạt đứng dậy, Đế Quân đang đứng, chư thần đâu dám ngồi. Phượng Cửu nhớ mang máng rằng ở trong Phạn Âm Cốc cũng từng có cảnh này, người này vừa xuất hiện trong lũng Thanh Mai, tất cả chư thần đều quỳ xuống. Phượng Cửu cuối cùng đã có phần hiểu ra tại sao Đế Quân không thích ra ngoài, đi đến đâu ở đó đều quỳ rạp, chỉ nhìn thôi cũng đã thấy mệt rồi.

Mao thiềm trường tảo tĩnh vô đài, hoa mộc thành huề thủ tự tài[1]. Đế Quân liếc nhìn các vị thần tiên đang quỳ nghiêm ngắn dưới lễ đài, có cảm giác như đang nhìn những cụm cây non mà chàng trồng ở Nhất Thập Tam Thiên, chàng khẽ đưa tay miễn lễ cho chư vị thần tiên, rồi quay sang an ủi Phượng Cửu ở bên cạnh: “Sớm đã biết rằng nàng sẽ thua, không cần phải cảm thấy mất mặt ta”, sau đó đưa cho nàng một chiếc khăn: “Chống đỡ được bao nhiêu chiêu?”.

[1] Hai câu thơ trích trong bài thơ Viết trên vách Hồ Dương tiên sinh của nhà thơ thời Tống Vương An Thạch, có nghĩa là: Sân vườn thường xuyên được quét dọn vô cùng sạch sẽ, đến một chút rêu cũng không có. Cây cối hoa cỏ sắp thành luống thành hàng, đều do chủ nhân tự tay vun trồng.

Phượng Cửu vừa cầm khăn lau mồ hôi vừa ngập ngừng nói: “Mười chiêu”.

Đông Hoa gật gật đầu: “Cũng tạm được”, lại nhìn về phía Nhiếp Sơ Dần, nói: “Ngươi cảm thấy có thể đỡ được bao nhiêu chiêu của bản quân?”.

Huyền chi Ma quân Nhiếp Sơ Dần là một người có ước mơ, từ sau khi Ma tôn Thiếu Quân tan thành tro bụi, Ma tộc được chia thành bảy phần, do bảy Ma quân cùng cai trị, Nhiếp Sơ Dần từ khi lên ngôi Huyền chi Ma quân, luôn một lòng muốn thống nhất Ma tộc, đứng trên các Ma quân khác rồi sau đó được xưng tụng thành Ma tôn. Muốn thực hiện được giấc mơ của mình, có một cách hay là liên hôn với Thần tộc, nhưng đáng hận là những thượng thần có thể làm lay chuyển cục diện của thiên hạ trong Thần tộc đều là nam tử, mà hắn lại là cô nhi, không có một muội muội ruột thịt giống như Hú Dương quân. Hắn từng lùi lại một bước để suy nghĩ, nếu trong số các thượng thần này có vị nào tình cờ là đoạn tụ, vì bá nghiệp hắn chịu thiệt một chút tự dâng hiến bản thân mình cũng có gì là không được chứ, kết quả vẫn không được. Hắn lại lùi lại một bước suy nghĩ, nếu đã không kết giao được với bọn họ, vậy tốt nhất cũng không nên đắc tội, nếu nhất định phải đắc tội, vậy nhất định phải kiếm chác được một món lợi lớn từ bọn họ.

Hôm nay hắn tới đây, thực ra đã suy tính rất kỹ lưỡng, hắn biết rõ hành động này chắc chắn sẽ đắc tội với nhà họ Bạch ở Thanh Khâu, nhưng chẳng phải là sẽ có một lới hứa từ bọn họ hay sao, cách đắc tội này, cũng được coi là đắc tội một cách rất xứng đáng. Nhưng hắn chưa từng muốn đắc tội với Đông Hoa Đế Quân. Nhưng việc tới nước này, cũng đành phải đắc tội rồi, nếu đã đắc tội với nhà họ Bạch lại đắc tội với Đế Quân, thì càng phải có được lời hứa đó của nhà họ Bạch.

Hắn chắc chắn không phải là đối thủ của Đế Quân, không thể giao chiến với Đế Quân được.

Nhiếp Sơ Dần nở một nụ cười, nụ cười này lại hết sức miễn cưỡng: “Đế Quân quá xem trọng Nhiếp mỗ rồi, vòng đấu kiếm này vốn dĩ chỉ là cuộc học hỏi cọ xát giữa những người cùng trang lứa, Nhiếp mỗ và điện hạ Phượng Cửu còn có thể coi là người cùng lứa, nhưng so với Đế Quân thì còn cách cả một thời hồng hoang, Nhiếp mỗ đâu thể là đối thủ của Đế Quân được. Vòng này mặc dù nói rằng thách đấu với Phượng Cửu điện hạ chính là thách đấu với Đế Quân, nhưng Đế Quân đức cao vọng trọng, dù gì cũng không cùng trang lứa với ta, nếu tỷ kiếm với Nhiếp mỗ, e rằng sẽ vi phạm quy tắc trong lễ sách”.

Thượng thần Bạch Thiển đã không còn vẻ kinh ngạc ban nãy, cau mày nói với Dạ Hoa và Liên Tống: “Tại sao hắn nên so kiếm với Phượng Cửu, là lý lẽ của hắn, tại sao Đông Hoa không nên so kiếm với hắn, cũng là lý lẽ của hắn, con người này miệng lưỡi quả thật lợi hại, lý lẽ đã bị hắn nắm gọn rồi. Lần này nếu Đông Hoa tùy tiện ra tay, quả thật có vẻ ức hiếp vãn bối”. Nói xong thở dài thườn thượt, thoáng có chút lo lắng.

Liên Tống quân gõ gõ cây quạt trong tay, uể oải cười nói: “Ta lại cảm thấy Nhiếp Sơ Dần đã đánh giá cao da mặt của Đông Hoa rồi”.

Mặc dù dưới lễ đài có nhiều lời bàn luận, trên lễ đài lúc này, Đế Quân lại rất ung dung, rất điềm tĩnh, trong vẻ ung dung điềm tĩnh đó lại toát lên vài phần khó hiểu, trầm ngâm tiếp lời Nhiếp Sơ Dần: “Ngươi nói… bản quân và ngươi không cùng trang lứa,” cau mày nói: “Tại sao bản quân và ngươi lại không cùng trang lứa?”.

Nhiếp Sơ Dần sững người lại. Chư vị thần tiên phía dưới cũng ngây người.

Đế Quân nhìn Nhiếp Sơ Dần một cái, lại nhìn Phượng Cửu đang đứng bên cạnh mình, chậm rãi nói: “Nàng là Đế Hậu của bản quân, đương nhiên là người cùng trang lứa với bản quân, ban nãy ngươi nói ngươi và nàng là người cùng trang lứa, vậy ngươi và bản quân đương nhiên là người cùng trang lứa rồi, bản quân đấu kiếm với ngươi, có thể thấy đó quả thực là cuộc học hỏi cọ xát giữa những người cùng trang lứa, việc này vi phạm vào quy tắc nào trong lễ sách Thanh Khâu chứ?”.

Thần sắc của Nhiếp Sơ Dần trở nên gượng gạo: “Việc này…”.

Đế Quân thong thả nhấc nhấc thanh kiếm trong tay nói: “Nghe nói ngươi say mê kiếm thuật, vừa hay bản quân cũng say mê kiếm thuật, có thể thấy chúng ta có duyên, bắt đầu đi”.

Chư vị thần tiên đều ngớ người, thượng thần Bạch Thiển phì cả ngụm trà xuống đất, Liên Tống quân vịn tay vào thành ghế ngồi cho vững một chút, chìa tay về phía Bạch Thiển, nói: “Thấy chưa, vừa rồi ta đã nói gì nhỉ, thứ lý lẽ vớ vẩn đó của Nhiếp Sơ Dần hoàn toàn không dùng được với Đông Hoa đâu, đối với Đế Quân, da mặt luôn là vật ngoài thân”.
 
Trạng thái
Không mở trả lời sau này.
Top