Lượt xem của khách bị giới hạn

[Huyền huyễn] [Truyện Hoàn] Tam Sinh Tam Thế Chẩm Thượng Thư - Đường Thất Công Tử

Trạng thái
Không mở trả lời sau này.
[Huyền huyễn] [Truyện Hoàn] Tam Sinh Tam Thế Chẩm Thượng Thư - Đường Thất Công Tử
Tham gia
6/7/19
Bài viết
101
Điểm cảm xúc
41
Điểm
28
01.

Mức độ ảnh hưởng của lễ Tàng binh lần đó quả thực vô cùng lớn. Thành Ngọc Nguyên Quân – người có may mắn đến xem đại lễ sau khi trở về Cửu Trùng Thiên đã bày sạp hàng phía sau khóm hoa câu tô ma ở Tam Thập Tam Hỷ Thiện Thiên, kể suốt nửa tháng trời bình thư[1] về những chuyện hay ho xảy ra trong lễ Tàng binh, lần nào người nghe cũng đông nghịt, qua đó có thể thấy sức chấn động của nó lớn thế nào.

[1] Bình thư: Một loại hình nghệ thuật kể chuyện.

Đoạn được đám tiểu tiên yêu thích nhất chính là đoạn Đế Quân chỉ một chiêu đã chém đôi kiếm sắt của Huyền chi Ma quân Nhiếp Sơ Dần.

Nghe nói Nhiếp Sơ Dần cậy lớn hiếp nhỏ, bắt nạt tiểu Đế cơ Phượng Cửu của Thanh Khâu, Đế Quân đã lên đài bênh vực cho tiểu Đế cơ, không chịu được những câu nói lôi thôi dài dòng của Nhiếp Sơ Dần, sau khi nhường hắn ba chiêu đã rút kiếm ra khỏi bao, chỉ trong vòng một chiêu đã đánh rơi cây kiếm sắt khí thế ép người trong tay Nhiếp Sơ Dần, khoảnh khắc thanh kiếm sắt rơi xuống đất, Đế Quân cầm kiếm Thương Hà lao thẳng đến với tốc độ cực nhanh, chẻ đôi thanh kiếm sắt của Nhiếp Sơ Dần thành hai mảnh như chẻ măng chỉ trong nháy mắt, một chuôi kiếm đỡ lấy hai lưỡi kiếm xoay vòng trên không trung rồi rơi xuống đất, thanh kiếm Thương Hà của Đế Quân dừng ngay trước ngực Nhiếp Sơ Dần. Chỉ trong vòng một chiêu, lại thể hiện được kiếm pháp cao diệu bất luận chiêu thức hay sức mạnh đều biến ảo khôn lường như vậy, nghe nói chư vị tiên giả may mắn có mặt tại đó nhất thời đều ngây ra như phỗng, một mặt rạp mình trước phong tư cầm kiếm lạnh lùng của Đế Quân, một mặt tự ti rằng so với thần tiên thời thượng cổ, tiên thuật của bọn họ những năm gần đây rốt cuộc kém phát triển tới mức độ nào, may mà thuật pháp của Ma Tộc xem ra cũng phát triển không được tốt lắm, khiến chư vị thần tiên cảm thấy an ủi phần nào.

Nhiếp Sơ Dần thua tơi tả, vội vàng hốt hoảng rời khỏi Thanh Khâu, không còn mặt mũi nào để nhắc tới kiếm pháp của Thần tộc với kiếm pháp của Ma Tộc nữa, còn vị tiểu Đế cơ của Thanh Khâu đó cuối cùng cũng được cất kiếm, hoàn thành đại lễ một cách thuận lợi.

Bình thư của Hỷ Thiện Thiên diễn ra rất sôi nổi, Thành Ngọc Nguyên Quân dựa vào sự sùng bái của chúng tiên trên thiên đình đối với Đế Quân, bày ra sạp hàng này ngày ngày thu lợi, thu nhiều vô kể, tiểu thiên tôn Cục bột nhỏ giúp nàng ấy thu được mấy ngày tiền trà nước, được mấy nén vàng làm tiền thù lao. Thành Ngọc Nguyên Quân rất vui mừng, Cục bột nhỏ cắn nén vàng cũng cảm thấy rất vui mừng.

Nhưng có nhà vui mừng tất nhiên sẽ có nhà buồn rầu, rất nhiều người trái tim bị tổn thương một cách triệt để bởi lễ Tàng binh này, ví dụ như các thần nữ, tiên nga có phẩm vị cao ở trên thiên đình.

Trước đây đám tiểu tiên nga không có gan tơ tưởng tới Đế Quân, thực ra là bởi vì Đế Quân lão nhân gia quá thần thánh, quá truyền thuyết, chư vị tiên nga chưa từng nghĩ cảm thấy rằng sẽ có một ngày Đế Quân lại cưới một vị Đế Hậu, hoặc cảm thấy rằng cho dù Đế Quân muốn cưới một vị Đế Hậu, chắc cũng không đến lượt đám tiểu tiên nga thế hệ bọn họ, do đó rất ít người nảy sinh ý nghĩ viển vông với Đế Quân.

Nhưng thế sự khó lường, Đế Quân lại thực sự lấy một vị Đế Hậu, người mà ngài lấy lại là Phượng Cửu ở Thanh Khâu – người cùng trang lứa với rất nhiều người trong số họ, điều này khiến đám tiểu tiên nga vô cùng bị đả kích.

Sau lễ Tàng binh, công chúa Tri Hạc chạy tới cung Thái Thần như người mất hồn, Trọng Lâm tiên quan thấy bộ dạng tiều tụy của nàng ta cũng không tiện đuổi người, nghĩ rằng dù sao Đế Quân cũng không có ở trong cung, để nàng ta ở lại vài ngày coi như làm việc thiện, liền cho dọn một phòng khách cho nàng ta ở.

Công chúa Tri Hạc vừa khổ sở chờ đợi Đế Quân vừa khóc lóc mượn rượu giải sầu, gặp bất cứ người nào đều túm lại hỏi bản thân mình rốt cuộc thua kém điểm gì so với Phượng Cửu của Thanh Khâu, đến ngày thứ ba thì chộp được Trọng Lâm tiên quan vô tình đi ngang qua đó. Trọng Lâm tiên quan là người thật thà, nhìn đôi mắt đỏ sưng mọng vì khóc của công chúa Tri Hạc giây lát: “Đế Quân thích những mỹ nhân biết nấu nướng, giỏi binh đao lại biết đánh nhau, ba thứ này công chúa đều không giỏi lắm, hơn nữa”, Trọng Lâm tiên quan chân thành nói: “Mặc dù công chúa cũng được coi là mỹ nhân, nhưng so với điện hạ Phượng Cửu, công chúa vẫn bị coi là… xấu”. Nghe nói công chúa Tri Hạc đã nôn ra một ngụm máu tươi ngay tại chỗ, cười lớn ba tiếng, lao ngay vào cỗ xe ngựa mà Trọng Lâm dắt tới, rời khỏi Cửu Trùng Thiên, về tiên sơn nơi mình sống mà không hề quay đầu lại, cũng xứng với hai chữ “cương liệt”.

Trên Cửu Trùng Thiên náo nhiệt như Tết, vì bầu không khí buôn chuyện của Thanh Khâu trước nay không được nồng hậu như trên Cửu Trùng Thiên, nên ở Thanh Khâu lại rất yên bình, duy có sói xám đệ đệ - người bạn tốt cùng lớp của Phượng Cửu là có chút buồn phiền. Lớp học trong tộc vẫn mở đều đặn, Phượng Cửu đã bỏ rất nhiều bài, tất cả đều nhờ sói xám đệ đệ nghĩa khí giúp nàng chép bài, thấy nàng trở về Thanh Khâu để tiến hành lễ Tàng binh, sói xám đệ đệ vốn vui mừng vì cuối cùng cũng trút được gánh nặng, bèn tới động hồ ly thăm dò, nghe nói sau khi đại lễ kết thúc, vị Đông Hoa Đế Quân ở trên trời đó đã cùng Bạch Chỉ Đế Quân đứng trong động một lát, sau một tuần trà lại đưa Phượng Cửu đi rồi. Sói xám đệ đệ ôm một chồng vở định đưa cho Phượng Cửu, thở dài cam chịu, lại nghĩ số vở này thực ra có thể đem tặng Phượng Cửu làm quà mừng hôn lễ, như vậy chàng ta sẽ không phải tặng tiền mừng nữa, lập tức lại thấy vui trở lại.

Thượng thần Chiết Nhan từ sau khi xem trò vui lớn trong lễ Tàng binh liền ở lì tại Thanh Khâu suốt mấy ngày qua. Đông Hoa đã nói với Bạch Chỉ những gì, thượng thần Chiết Nhan quả thực rất hiếu kỳ, chốc chốc lại vòng vèo hỏi han hòng thăm dò đôi chút.


Hôm nay Bạch Chỉ Đế Quân gọi vợ chồng Bạch Dịch vào trong động hồ ly để nói chuyện, thượng thần Chiết Nhan biết bọn họ chắc chắn sẽ nói chuyện gia đình, mà chuyện gia đình này chắc chắn có chút liên quan tới Phượng Cửu, nếu đã có liên quan tới Phượng Cửu, tất nhiên sẽ có liên quan tới Đông Hoa, liền ngồi dính chặt như keo vào chiếc ghế bên cạnh Bạch Chỉ, không chịu nhúc nhích. Bạch Chỉ Đế Quân khâm phục nghị lực không hề lay chuyển của thượng thần Chiết Nhan trong mấy ngày qua, cuối cùng đã thỏa hiệp, để cho ngài ấy cùng nghe.

Theo cách nói của Bạch Chỉ, ngày hôm đó khi đứng trong góc khuất với Đông Hoa, quả là đã nói một chuyện rất quan trọng.

Đế Quân tuy vẫn chỉ đơn giản đứng đó cũng đứng một cách đầy uy thế như thường ngày, nhưng thái độ lại rất mềm mỏng, nói rằng đã trúng tiếng sét ái tình với cháu gái Phượng Cửu của ngài, muốn cưới Phượng Cửu làm Đế Hậu, quả thực vốn muốn tuân theo các trình tự từ cầu hôn, đính hôn rồi đến thành hôn, nhưng vì hai người dạo trước rơi vào dị giới, vì một số việc nên chuyện lấy nàng được tiến hành rất đơn giản, vô cùng không phải với nàng, cũng không phải với các vị trưởng bối của Thanh Khâu.

Đế Quân còn nói, ngài ấy luôn canh cánh chuyện này trong lòng, vốn định sau khi ra khỏi dị giới sẽ tới Thanh Khâu, nhưng nghe nói điều kiện kén rể của Thanh Khâu vô cùng nghiêm ngặt, cần phải là con cháu thế gia ba đời đồng thời nắm giữ quyền lực quan trọng. Điều kiện phải là con cháu thế gia ba đời này thì ngài ấy quả thực không thể thực hiện nổi, có điều, điều kiện nắm giữ quyền lớn, ngài ấy có thể bàn bạc một chút với Thiên Quân. Lại nói Tiểu Bạch vì sợ chàng rể này không phù hợp với yêu cầu của các bậc trưởng bối nên cứ thấp thỏm không yên, ngài ấy cũng không tiện mạo muội viếng thăm, nhưng sự việc đã đến nước này, cả tứ hải bát hoang đều biết ngài ấy là con rể của Thanh Khâu rồi, dù bản thân mình không phù hợp với yêu cầu của họ, cũng chỉ biết xin họ tạm chấp nhận vậy.

Cuối cùng, Đế Quân nói, Tiểu Bạch thực ra rất thích vui vẻ náo nhiệt, Thanh Khâu đã gả con gái, ngài ấy đã lập Đế Hậu, cũng cần để chúng tiên bát hoang được uống bù rượu mừng, làm phiền Thanh Khâu cùng cung Thái Thần tổ chức một bữa tiệc cưới, cung Thái Thần có Trọng Lâm đứng ra lo liệu, còn Thanh Khâu, ngài ấy cảm thấy mẫu thân của Tiểu Bạch rất ổn. Ngày tổ chức tiệc cưới có thể ấn định vào nửa tháng sau, địa điểm tổ chức là Bích Hải Thương Linh. Vì khi vừa ra khỏi dị giới ngài ấy đã tới chỗ Nữ Oa để đưa hôn sự của ngài ấy và Tiểu Bạch vào sổ hôn sự rồi, thủ tục bái lạy trời đất không cần phải thực hiện nữa. Việc tổ chức tiệc cưới nhờ mẫu thân của Tiểu Bạch nhọc công một chút, mấy ngày gần đây vì lễ Tàng binh mà Tiểu Bạch đã phải lao tâm lao lực, ngài ấy đưa Phượng Cửu tới Bích Hải Thương Linh nghỉ ngơi trước.

Bạch Chỉ Đế Quân sau khi nghe xong những lời ấy, suy nghĩ hồi lâu mới nghĩ ra người được gọi là Tiểu Bạch chính là cháu gái mình, vì nghĩ đứa cháu gái duy nhất đã bị Đông Hoa “cuỗm” đi như vậy, Bạch Chỉ Đế Quân cảm thấy rất không hài lòng, vốn định lên mặt một phen, nhưng Bạch Chỉ quen biết Đông Hoa mấy chục vạn năm, trong hàng vạn năm đó, những lời Đông Hoa nói với ngài cộng lại cũng không nhiều bằng những lời nói ngày hôm nay, điều này khiến Bạch Chỉ Đế Quân nhất thời có chút phân tâm, bỏ lỡ thời cơ lên mặt, đợi đến khi định thần lại, Đế Quân đã đưa Phượng Cửu rời khỏi Thanh Khâu từ lâu rồi.

Tâm tư của Phượng Cửu đối với Đông Hoa hồi còn nhỏ, thượng thần Chiết Nhan cũng biết được đôi chút, nghe nói hôn sự của Đông Hoa và Phượng Cửu đã được ghi chép trong sổ hôn sự của Nữ Oa nên cảm thấy rất yên lòng. Bởi vì xét theo thứ bậc, Phượng Cửu được coi là cháu gái ngài, như vậy Đông Hoa là cháu rể ngài, tuy ngài chưa từng thắng được Đông Hoa về thuật pháp, nhưng giờ đây xét về mặt thứ bậc, lại có thể đứng trên ngài ấy, thượng thần Chiết Nhan vô cùng vui mừng.

Mẫu thân của Phượng Cửu cũng vô cùng vui mừng, nhưng không phải vì hư danh thứ bậc. Mẫu thân của Phượng Cửu thực ra giống như Phượng Cửu, từ nhỏ đã được lớn lên trong những câu chuyện truyền thuyết về Đế Quân, trong lòng tràn ngập sự ngưỡng mộ và sùng bái chân thành, thật sự là có nghĩ một vạn lần cũng không nghĩ rằng một ngày nào đó mình lại có thể trở thành mẹ vợ của Đế Quân. Bỗng nghe công công nói Đế Quân lại đích thân khen mình có thể là một tay cự phách trong việc lo yến tiệc mừng hôn lễ, mẫu thân của Phượng Cửu – người chưa từng tổ chức tiệc cưới bao giờ nhất thời cảm thấy vô cùng phấn chấn, đồng thời hạ quyết tâm nhất định sẽ làm nên thành công trên con đường tổ chức tiệc cưới để không phụ sự tin tưởng của Đế Quân.

Riêng có Phục Mịch tiên mẫu – lão lão của Phượng Cửu ở cách xa ngàn dặm còn tỉnh táo một chút, nghe nói ngày hôm đó đã bị chấn động bởi kiếm pháp của Đế Quân, cả ngày ôm đầu than thở: “Con nói Cửu Nhi không tìm thì thôi, vừa tìm lại tìm một vị phu quân lợi hại như vậy, một vị phu quân như thế thì sau này nó làm sao có thể đánh lại nổi, dù phải chịu ấm ức chạy về nhà mẹ đẻ khóc lóc, lẽ nào nhà ngoại còn có thể làm chủ cho nó? Ta vốn dự định sẽ tìm cho nó con cháu thế gia môn đăng hộ đối hoặc có phần hơi kém hơn một chút để nếu phải chịu thiệt thòi ở nhà chồng, Cửu Nhi còn có gia gia của nó làm chỗ dựa, nhưng bây giờ kết hôn với Đông Hoa Đế Quân rồi, nếu bị ức hiếp thì biết dựa vào đâu chứ?”.

Con dâu cả của Phục Mịch tiên mẫu chăm sóc bà, an ủi bà một cách hiếu thuận: “Không nói tới chuyện Cửu nha đầu xinh đẹp như thế, chỉ nói đến cái miệng của nó, mở miệng ra là nói được bao nhiêu lời ngon ngọt, rất giỏi dỗ dành làm người khác vui lòng, mẫu thân chẳng phải cũng thường được nó nịnh cho đến nỗi mềm lòng hay sao. Phu thê đâu phải dùng tới nắm đấm để qua ngày, Cửu nha đầu tuổi còn nhỏ, gả qua đó Đế Quân chắc chắn sẽ càng yêu thương nó hơn. Hơn nữa, xét về đại cục, Cửu nha đầu còn nhỏ tuổi thế mà đã kế thừa ngôi vị quân vương của Đông Hoang, có Đế Quân giúp đỡ, gánh nặng cũng được giảm đi nhiều. Theo ý kiến của con, đây lại là một hôn sự vô cùng phù hợp, vô cùng có lợi”. Phục Mịch tiên mẫu nghe những lời khuyên giải của con dâu trưởng, bị thuyết phục bởi những lý lẽ trong đó, nỗi ưu phiền trong lòng cuối cùng cũng vơi đi một nửa.

Bạch Chỉ Đế Quân sau khi giao việc tổ chức hôn lễ cho vợ chồng Bạch Dịch một cách thỏa đáng, phóng khoáng dẫn theo Đế Hậu vân du đi mất, bỏ lại con trai và con dâu trấn thủ trong động hồ ly một cách không hề áy náy. May mà Trọng Lâm tiên quan ở cung Thái Thần là một vị tiên giả rất giỏi lo liệu mọi việc trong ngoài, ngay ngày hôm đó đã cử một loạt các tiên bá, tiên quan, tiên nga đến Thanh Khâu trợ giúp cho mẫu thân của Phượng Cửu.

Tiệc cưới dần dần được sắp xếp. Ngày thứ ba, thiếp mời dự tiệc được làm bằng ngọc đánh bóng lấy từ một núi ngọc đã được phát đi khắp tứ hải bát hoang. Nghe thấy cái vị tiên liêu thi thoảng bàn luận, nói rằng Đế Quân bày tiệc rượu quả nhiên không giống với người bình thường, ngay cả thiếp mời cũng dùng ngọc khắc chữ, Trọng Lâm tiên quan vô cùng hài lòng, thầm khâm phục ý tưởng sáng tạo của bản thân.

Song thân của Phượng Cửu mấy ngày gần đây bận đến nỗi thần hồn điên đảo, Phượng Cửu lại vô cùng thảnh thơi ở Bích Hải Thương Linh.

Khi Đế Quân thay nàng ra mặt trong buổi lễ Tàng binh hôm đó, phản ứng đầu tiên của nàng đó là mình đang đứng trên lễ đài trước mắt mọi người, mình đang mang trên mình thể diện của Thanh Khâu, nhất định phải giữ điềm tĩnh, thế là nàng giữ điềm tĩnh, nhưng trong đầu thực ra đã nổ tung, cứ như đã đốt một trăm quả pháo trong đó vậy. Các cô nương bình thường trong những lúc như thế hoặc là cảm động, hoặc là xấu hổ, ngượng ngùng, cả hai trạng thái cảm xúc đó, nàng đều không cảm thấy, chỉ nghĩ rằng hỏng rồi, hỏng rồi, việc nàng và Đế Quân kết thành phu thê đã bị bại lộ trước mặt song thân nàng rồi, nàng vốn dự định sẽ thông báo chuyện này tuần tự theo từng bước một với các bậc trưởng lão trong nhà, khi Nhiếp Sơ Dần phá rối một cách quá đáng, Đế Quân làm như vật tuy là vạn bất đắc dĩ, nhưng chưa biết chừng gia gia sẽ đuổi nàng ra khỏi Thanh Khâu mất.

Nàng thấp thỏm lo âu suốt cả một buổi sáng, cuối cùng đã chờ đợi được Đế Quân bước ra từ trong động hồ ly của gia gia nàng. Đế Quân chân thành nói với nàng, gia gia Bạch Chỉ của nàng không hề để bụng, vô cùng vui mừng với hôn sự này, hơn nữa còn chủ động đề nghị tổ chức một tiệc cưới bù cho họ, đồng thời vui vẻ đảm nhận trọng trách chuẩn bị yến tiệc, còn thông cảm cho nàng mấy ngày gần đây phải hao tâm tổn trí, đặc biệt dặn dò chàng tìm một nơi thật tốt để đưa nàng tới điều dưỡng nghỉ ngơi.

Hóa ra gia gia lại chu đáo đến như vậy, trái tim đang thấp thỏm treo trên không trung của Phượng Cửu liền cảm động rơi trở lại mặt đất, vô cùng yên lòng, vô cùng thoải mái.

Đợi đến khi tới Bích Hải Thương Linh – quê hương của Đông Hoa, tận mắt nhìn thấy cảnh sắc giữa non xanh nước biếc quỳnh hoa ngọc thụ đan xen nhau mọc um tùm ở nơi này, Phượng Cửu ôm cánh tay của Đế Quân hưng phấn đến nỗi hai mắt sáng bừng, tự cho rằng mình đến đây điều dưỡng theo ý chỉ của gia gia, tâm trạng vô cùng thoải mái, có cảm giác nhẹ nhõm như vừa trải qua một kỳ thi lớn, không hề nghĩ tới những việc khác, chỉ nghĩ tới duy nhất một chữ chơi mà thôi.

02.

Bích Hải Thương Linh nằm ở cuối trời, những dãy núi tiên liên miên bao quanh dòng suối thiêng Bích Hải, nói là suối thiêng nhưng nó cũng to bằng một nửa Bắc Hải, điểm thần diệu nhất ở đây là trên dòng suối thiêng rộng lớn đó lại mọc lên các loại hoa cỏ cây cối giống như trên đất liền, hơn nữa còn có chim chóc đến sống, nơi sâu nhất trong rừng cây sừng sững một cung điện bằng đá cao lớn hùng vĩ, đứng chính giữa dòng suối thiêng.

Cữu ma (mợ) của Phượng Cửu nhận xét nàng dẻo miệng, lời nhận xét đó không sai, khi Phượng Cửu vui vẻ, miệng lại càng dẻo hơn. Hôm nay tinh thần nàng thoải mái vui vẻ, hơn nữa lại có Đế Quân – người mà nàng thích nhất ở bên cạnh, nàng cảm thấy hài lòng mãn nguyện, dường như không còn điều gì phiền muộn nữa, trong lòng tràn ngập cảm giác ngọt ngào, tự cảm thấy trong lúc này, bất cứ lời ngọt ngào gì nàng cũng có thể nói ra được.

Mặc dù có thể cưỡi mây để đi vào cung điện bằng đá, nhưng như vậy sẽ mất đi sự thú vị, Đế Quân đưa nàng đi bằng một chiếc thuyền nhỏ, đi theo con đường do cây cỏ tạo thành tới cửa cung, Phượng Cửu vừa dùng tay khuấy nước vừa mừng vui hớn hở nói: “Sao chàng không nói sớm rằng quê của chàng lại đẹp như vậy, em cảm thấy Bích Hải Thương Linh đẹp hơn Cửu Trùng Thiên nhiều, sao chàng không sống ở đây?”.

Đế Quân kéo tay nàng đề phòng nàng bị ngã xuống suối, thấy nàng vui vẻ như vậy tâm trạng cũng rất tốt, khẽ trả lời nàng: “Ở đây quá rộng, sống một mình hơi trống trải”.

Phượng Cửu thuận thế nắm lấy tay chàng, phấn khởi nói: “Sau này chúng ta sẽ thường xuyên đến sống ở đây, có em ở bên chàng, chàng sẽ không cảm thấy trống trải nữa”. Lại chỉ chỉ trỏ trỏ hai bên mạn thuyền: “Mặt nước ở đây có phải bất cứ thứ gì cũng trồng được không?”. Nàng phấn khích đưa ra ý kiến của mình hệt như một nữ chủ nhân: “A, chi bằng chúng ta trồng một vài cây lê ở đây, chỗ này trồng một ít bưởi, chỗ kia trồng một ít nho”, dịu dàng dựa vào chàng, đặt tay phải lên tay Đế Quân: “Chàng đã từng ăn món chân giò heo hầm tuyết lê chưa, còn cả món tôm xào nho, còn cả cá song nấu bưởi nữa, đó điều là những món sở trường của em, chúng ta trồng thêm nhiều cây ăn quả một chút, sau này mỗi khi đến đây ở, em có thể ngày ngày nấu cho chàng ăn”.

Khi nàng dẻo miệng, quả thật có thể nói ngọt đến mức trái tim của người khác phải tan chảy, ánh mắt Đế Quân nhìn nàng sáng rực, miệng nở nụ cười: “Nói như vậy thì lê có rồi, nho có rồi, bưởi có rồi, tôm có rồi, cá song cũng có rồi, còn chân giò heo thì lấy ở đâu?”.

Nàng mím môi cười dịu dàng trả lời: “Thì cắt từ trên người chàng ra”.

Hai chú chim bay nhỏ bay qua đầu họ, Đế Quân nói: “Nàng nỡ lòng làm vậy sao?”.

Nàng nghiêm túc gật đầu: “Có chứ”.

Thấy Đế Quân không trả lời, chỉ nhướn nhướn mày, nàng ngây người trong giây lát, ngoảnh mặt sang một bên, mặt đầy vẻ kìm nén: “Chàng đừng nhướn mày, hễ chàng nhướn mày là em lại có chút, lại có chút…”.

Đế Quân tiếp tục nhướn mày một cách đầy hiếu kỳ: “Có chút gì cơ?”.

Hai má nàng ửng hồng, kìm nén hồi lâu mới nói ra: “Không, không kìm được muốn hôn chàng”.

Liền thấy Đế Quân sán lại gần, giọng nói trầm lắng: “Cho nàng hôn đấy”.

Nàng có chút ngượng nghịu: “Ban ngày ban mặt, ngại lắm…”.

Đế Quân khích lệ nàng: “Đừng lo, khắp Bích Hải Thương Linh này chỉ có hai chúng ta thôi”.

Nàng mím môi suy nghĩ, đoan đoan chính chính nâng khuôn mặt của Đế Quân lên hôn lên đó…

Sau khi thoái ẩn, Đế Quân rất ít khi sống ở Bích Hải Thương Linh, cung điện bằng đá bỏ trống rất lâu, tuy đợt trước đã sai Trọng Lâm tới đây thu dọn một chuyến, nhưng so với nơi ở lâu dài là cung Thái Thần, nơi này vẫn có phần trống trải.

Phượng Cửu lần đầu tiên tới đây, nhìn cái gì cũng đều thấy mới lạ, ngay cả sự trống trải của cung điện, với nàng, cũng mang một vẻ thú vị riêng, nàng níu tay áo của Đế Quân tung tăng chạy tới chạy lui, phấn khởi dự định sau này các cung các điện nên bài trí thêm cái gì.

Tẩm điện của Đế Quân có thể coi là đã được bố trí một cách hợp lý rồi, nàng nhìn vào cũng cảm thấy mát mẻ, hào hứng sắp xếp xem nên đặt bàn gương ở đâu, thêm hương kỷ ở chỗ nào. Đế Quân đưa nàng ra vườn hái quả tỳ bà, nàng suy xét thấy rằng hoa cỏ cây cối trong vườn mọc hơi rối rắm, chen chúc, Đế Quân ngồi trên ghế đá bóc quả tỳ bà cho nàng ăn, nàng liền lấy giấy bút ra suy nghĩ xem nên sắp xếp phong cảnh trong vườn như thế nào. Đế Quân bóc vỏ bỏ hạt quả tỳ bà, đút cho nàng, nàng vừa ăn vừa cầm bút lông chỉ vào trang giấy, hỏi Đế Quân: “Chàng thử nói xem, chúng ta đặt một hòn giả sơn ở đây thế nào, dựng một hành lang, sau đó đắp một ngọn đồi ở đây, trên đồi có thể trồng điểm xuyết một vài cây lá đỏ, trên đỉnh đồi để dành cho chàng trồng cây đàn hương non, rừng cây phía sau đồi chặt hết đi nhé, chàng thích hoa phật linh, chúng ta sẽ trồng một loại hoa phật linh ở đây, chỗ này sẽ làm cho chàng một lò gốm và một xưởng chế hương”, ánh mắt long lanh nhìn Đông Hoa: “Chàng còn muốn thêm gì nữa?”.

Đế Quân nhìn nàng hồi lâu: “Đều là những thứ dành cho ta? Vậy còn nàng thì sao?”.

Phượng Cửu vẽ vẽ bôi bôi một cách rất vui vẻ, dùng ngón tay chỉ vào một góc bức vẽ, mím môi nói: “Em muốn làm một hồ sen nhỏ ở đây, trên hồ dựng một đình hóng mát và ngắm sao, còn muốn làm một vườn rau ở chỗ này, trồng một ít củ cải trắng mà em thích ăn, trồng thêm ít rau đông quỳ, rau mồng tơi mà chàng thích ăn nữa”.

Ánh mắt của Đế Quân rất ấm áp, nghĩ một lát, nói: “Dạo trước cung Tẩy Ngô có sai người mang tới món mạn kinh tử trộn, nàng còn nhớ không, nói là do chính tay Dạ Hoa vào bếp làm, ăn rất ngon”.

Phượng Cửu tự đắc nói: “Tài nghệ của cô phụ cũng bình thường thôi, không bằng em, chàng thích ăn món đó à, vậy chúng ta hãy trồng thêm một ít mạn kinh tử là được rồi”. Nói xong liền lấy bút khoanh một chỗ trên bức vẽ.

Đế Quân bóc xong quả tỳ bà, sán lại gần cùng nàng nghiên cứu: “Có thể khoanh vòng to hơn một chút, đây là cái gì? Đài tập võ? Cái này không cần thiết, tất cả làm thành vườn rau hết, trồng loại rau nào vừa có thể ăn, vừa có thể ngắm, có loại rau như vậy chứ?”.

Phượng Cửu đáp ngay: “Có chứ, ớt ngũ sắc ăn vừa ngon lại vừa đẹp, nhưng chàng thích ăn thanh đạm, không thích ăn cay, để em nghĩ xem, vậy thì có thể trồng một chút đậu bắp, cải xoăn, cải trắng, bí ngô nhỏ…, đúng rồi, chúng ta còn có thể dựng một giàn hồ lô, món hồ lô thái lát xào rất ngon,” đang hứng khởi nói đến đó nàng đột nhiên im lặng.

Đế Quân ngẩng đầu lên nhìn nàng, huơ huơ tay trước mặt nàng: “Sao thế?”.

Khuôn mặt Phượng Cửu thoáng hiện lên vẻ mơ hồ, ấp úng nói: “À, chỉ là bỗng nhiên nhận ra, chàng đang bàn bạc với em xem trong nhà sau này sẽ trồng những loại rau gì, cứ như không phải là thật ấy…”. Đôi mắt của nàng mơ màng nhìn Đông Hoa, ánh măt Đế Quân lại có chút sâu lắng: “Trong nhà?”.

Phượng Cửu ngây người nói: “Đúng vậy”, lại quay nhìn bốn xung quanh, nói một cách không chắc chắn: “Đây quả thực là địa bàn của chàng ư?”. Đông Hoa gật đầu, Phượng Cửu thở phào một cái: “Vậy em đâu có nói sai, đây chính là nhà của chúng ta mà, cho dù mỗi năm chỉ ở một thời gian ngắn, cũng là nhà của chúng ta”.

Đông Hoa Đế Quân từ khi hóa thế tại Bích Hải Thương Linh mấy chục vạn năm trước, chưa từng có người nhà, cho dù sau đó được song thân của Tri Hạc nuôi dưỡng, nhưng vì Đông Hoa từ nhỏ đã có mái tóc trắng, song thân của Tri Hạc thực ra không thích chàng lắm, nhưng vì có lòng tốt, thấy chàng một mình đáng thương, đã cho chàng cái ăn cái mặc, còn về mặt tình cảm lại không chăm sóc nhiều lắm, cũng không được coi là người nhà của chàng. Chữ “nhà” là một chữ rất xa lạ với Đế Quân, bỗng nhiên nghe Phượng Cửu nhắc đến như vậy, tim chàng lại khẽ run lên.

Thấy Đế Quân yên lặng khá lâu, Phượng Cửu nhẩm lại trong đầu những lời vừa nói một lượt, ấm ức bĩu môi nói: “Chàng tỏ thái độ gì vậy, em cảm thấy em không nói sai điều gì mà”.

Đế Quân dùng ngón tay giúp nàng khép khóe môi lại như cũ, ánh mắt dịu dàng: “Ta thích nàng nói nhà của chúng ta”.

Phượng Cửu vẫn chưa hiểu rõ, nhưng thấy Đế Quân vui, nàng cũng cảm thấy vui, được thể lại nép vào lòng chàng nói: “Em cũng thích nhà của chúng ta, bây giờ đã rất đẹp rồi, sau này chúng ta trang hoàng thêm, sẽ đẹp ơi là đẹp, bạn bè thân thích của chúng ta tới đây uống trà vui chơi, chúng ta sẽ nở mày nở mặt biết bao!”.

Đế Quân rất tán đồng: “Không sai, vườn nhà người khác đều dùng để trồng hoa, vườn của nhà chúng ta đều đem ra trồng rau hết, thật nở mày nở mặt”.

Phượng Cửu nhận thấy vẻ trêu chọc trong giọng điệu của chàng, bĩu môi nói: “Ban nãy ai vui vẻ đề nghị bỏ bãi tập võ, biến thành vườn rau hết ấy nhỉ?”. Thấy Đế Quân khẽ cười không trả lời, càng nép sát vào chàng hơn, nói: “Chàng xem, chàng cũng cảm thấy làm thành vườn rau thực ra rất tốt đúng không, đợi mấy ngày nữa, sau tiệc cưới, chúng ta sẽ bắt đầu thu dọn khu vườn, tuy nhiên Thanh Khâu của em rất tiết kiệm, không có nhiều tiên bộc tiên tỳ, chỉ có thể điều một vài người ở cung Thái Thần tới”. Suy nghĩ một lát, nàng xịu mặt nói: “Mặc dù mang danh là nữ vương của Đông Hoang, mọi sự vụ hiện giờ của em đều do song thân làm giúp, không hề bận rộn, nhưng em vẫn phải tiếp tục đi học, không thể cứ ở đây mãi được”. Lại liếc nhìn Đế Quân một cái: “Mặc dù chàng rất nhàn rỗi, nhưng em không ở đây chàng sống ở đây cũng không có ý nghĩa gì, chúng ta cứ tìm mấy vị tiên quan trong cung Thái Thần xuống đây trông nom vườn rau của chúng ta là được”.

Đế Quân dường như cảm thấy nàng nói rất có lý, cũng đưa ra ý kiến giúp nàng: “Trong cung Thái Thần cũng không có việc gì lớn, để Trọng Lâm tới đây thay chúng ta trông nom là được rồi”.

Phượng Cửu ngạc nhiên: “Nhưng Trọng Lâm phải chăm sóc chàng mà”.

Đế Quân nhướn mày: “Ta cùng nàng sống ở Thanh Khâu, ông ta tới làm gì? Lẽ nào nàng không thể chăm sóc cho ta?”.

Phượng Cửu suy nghĩ một lát, đưa tay vuốt ve khuôn mặt của Đế Quân, làm ra vẻ một kẻ hiếu sắc, cười tít mắt nói: “Cũng đúng, Trọng Lâm dù gì cũng không thương chàng bằng em mà”. Nói xong câu nói đùa đó, bản thân cũng thấy buồn cười chết đi được, nhưng lại thấy đôi mắt đen sâu thẳm của Đế Quân bỗng sáng lấp lánh, kéo tay nàng đưa lên môi hôn, lại ôm nàng vào lòng, tựa đầu lên vai nàng, gần như thở dài nói: “Ừm, nàng thương ta nhất”.

Phượng Cửu nhớ lại, biểu đệ Cục bột nhỏ của nàng giỏi nói câu làm nũng này nhất, nếu phụ quân hay mẫu thân của nó làm việc gì khiến nó vui sướng, Cục bột nhỏ gần như chắc chắn sẽ ngước đôi mắt to long lanh nũng nịu nói một câu “phụ thân thương con nhất” hoặc “mẫu thân thương con nhất”, khiến người ta vừa thương vừa yêu. Lúc này Đế Quân nói ra câu này, giọng nói được hạ xuống thấp như thế, hơi thở quen thuộc của chàng bao trùm lấy nàng. Chàng có bao nhiêu dáng vẻ như vậy, dáng vẻ trầm tĩnh, dáng vẻ uy nghiêm, dáng vẻ lạnh lùng, dáng vẻ biếng nhác, dáng vẻ vô lại, còn cả dáng vẻ bất ngờ làm nũng nữa, tất cả đều khiến nàng yêu thích đến nỗi không biết phải làm như thế nào mới phải.

Vì ban nãy bọn họ đã bóc rất nhiều quả tỳ bà, nàng bỗng cảm thấy trong câu nói này phảng phất hương thơm thanh mát của quả tỳ bà, không kìm được ôm chặt chàng hơn, dịu dàng trả lời chàng: “Đương nhiên là em thương chàng nhất rồi”.

Hôm đó, sau lễ Tàng binh, Đông Hoa quyết định tổ chức tiệc cưới sau đó nửa tháng tại Bích Hải Thương Linh, Trọng Lâm tiên quan bấm ngón tay nhẩm tính, nửa tháng sau chính là ngày mùng bốn tháng ba.

Sau khi phát thiệp mời dự tiệc, Trọng Lâm tiên quan lập tức sai một con tiên hạc tới xin ý chỉ của Đế Quân, đại ý Đế Quân chọn Bích Hải Thương Linh quả là rất phải, trời có bát phương, đất có bát hoang, Bích Hải Thương Linh quê hương của Đế Quân là nơi linh trạch thâm hậu nhất, tiên sơn diệu cảnh ở đó chắc chắn sẽ khiến chư tiên tới dự tiệc ngắm cảnh mà quên cả thế tục, thưởng ngoạn mà quên cả u sầu. Tuy cung điện bằng đá trong linh tuyền có thể vì tiên khí quá mạnh mà lấn át cả hỷ khí, nhưng theo ngu kiến của Trọng Lâm, treo thêm chút đèn lồng và lụa đỏ bài trí cho vui tươi nhộn nhịp là được, ngoài ra, mẫu thân của Phượng Cửu đề nghị bày tiệc sớm hơn một chút, để chư tiên khi tới dự tiệc có thể dự một cách thoải mái vui vẻ, bọn họ đã bàn bạc xem có nên tới trước ba ngày để chuẩn bị hay không. Vừa hay thượng thần Bạch Thiển mấy ngày gần đây mới đưa ra mấy vở diễn mới trên Thừa Thiên Đài, đều là những vở diễn mà điện hạ Phượng Cửu thích xem, đến lúc đó Đế Quân có thể đưa điện hạ Phượng Cửu về trời nghỉ ngơi một chút, không biết ý Đế Quân thế nào.

Những lời nói này thật khiến người ta hài lòng, công việc cũng được sắp xếp một cách khiến người ta hài lòng, chư vị thần tiên trên thiên đình thường nghi hoặc tại sao Trọng Lâm tiên quan tuổi còn trẻ như vậy mà có thể nắm giữ chức tiên sứ quản lý mọi việc trong cung Thái Thần suốt mấy vạn năm, có thể thấy việc này không phải là không có lý do.

Kiến nghị của Trọng Lâm rất hợp với chủ ý của Đế Quân, khi nhận được phong thư này liền tính toán xem nếu theo kế hoạch của Trọng Lâm, bọn họ có thể ở Bích Hải Thương Linh mấy ngày. Tính ra tổng cộng chỉ có mười ngày.

Lúc đó Đế Quân đã cảm thấy mười ngày quá ngắn ngủi, nhưng khi sống qua mười ngày đó mới biết rằng mười ngày này dường như còn ngắn ngủi hơn mình nghĩ.

Mấy ngày đầu, vì nghĩ Phượng Cửu thời gian qua làm việc mệt nhọc, ban ngày Đế Quân thường đưa nàng đi du sơn ngắm cảnh một cách nhàn nhã, đêm xuống lại để nàng nghỉ sớm còn bản thân mình thì cầm quyển sách nằm bên cạnh đọc cho buồn ngủ. Dù gì Phượng Cửu vẫn còn là một thiếu nữ, được nghỉ ngơi như vậy có hai ngày, tinh thần đã tràn đầy sức sống, đêm hôm trước, trước khi ngủ, nghe Đế Quân nói ở ngọn núi tiên gần đó có chim loan ở, mới sáng sớm ngày hôm sau đã hào hứng kéo Đế Quân đi bắt chim loan con khắp núi, bắt được rồi thì mừng vui hớn hở chơi đùa suốt nửa ngày rồi mới thả chúng về tổ, lại cứ nhớ mãi chuyện nói trên chiếc thuyền nhỏ lúc mới đến đây rằng sẽ trồng cây ăn quả trong suối thiêng, bèn hái rất nhiều quả trên núi, bám lấy Đế Quân đòi chàng dạy nàng cách ươn mầm cây.

Đế Quan đưa nàng lặn xuống dưới đáy dòng suối thiêng để gieo mầm cây, sau khi lên bờ, ánh mắt xa xăm hỏi nàng một câu: “Nàng đã khỏe hẳn rồi chứ?”. Phượng Cửu chạy nhảy chơi đùa khắp nơi một cách vô cùng vui vẻ, nghĩ tới ngọn núi tiên ban sáng nàng tới có gió lớn, ngày mai có thể ra đó thả diều, vui vẻ nói: “Khỏe hẳn rồi”. Lại sợ Đế Quân không đồng ý đi thả diều, liền vội vàng bổ sung thêm một câu: “Khỏe đến nỗi không thể khỏe hơn được nữa rồi!”. Đế Quân vẫn nhìn xa xăm, khẽ “ừm” một tiếng.

Ngày hôm sau khi đến giờ thức dậy, Phượng Cửu đã không thể dậy nổi.

Mấy ngày sau của ngày hôm sau đó, sáng sớm khi đến giờ dậy, Phượng Cửu bất hạnh đều không thể dậy được.

May mà khả năng hồi phục của nàng tốt, trải qua sự dày vò lớn đến mấy đi nữa, chỉ cần ngủ một giấc là lại khỏe mạnh ngay, hơn nữa việc này không phải là nàng không thích, chỉ là tinh thần tìm tòi của Đế Quân mạnh mẽ quá khiến nàng hơi mệt, ngoài ra nàng không cảm thấy có vấn đề gì.

Phượng Cửu có tài nghệ vui chơi bẩm sinh, nghĩ đến việc sau tiệc cưới còn rất nhiều việc nghiêm túc cần phải lo liệu, những ngày tháng tiêu diêu không còn nhiều nữa rồi, dù ngày nào cũng ngủ tới khi mặt trời mọc mới dậy, thời gian còn lại trong ngày cũng phải nỗ lực nghĩ ra đủ trò mới mẻ để nghịch. Đế Quân nghịch cùng nàng, lại say mê chìm đắm vào việc đó, thành tựu lớn nhất chính là dưới sự cầm tay chỉ bảo của nàng, đã làm được đĩa cá sốt chua ngọt có thể ăn được đầu tiên trong đời.

03.

Mười ngày vùn vụt trôi qua, đêm trước khi quay về cung Thái Thần, Đế Quân đưa Phượng Cửu đi ngắm cảnh đêm ở Bích Hải Thương Linh. Thời điểm đẹp nhất ở Bích Hải Thương Linh không phải là khi trời nắng ấm áp mà lại là vào đêm cuối tháng tối đen như mực.

Mỗi khi đến ngày cuối cùng của tháng, sau khi mặt trời xuống núi vào cuối giờ Dậu, trời đất ở Bích Hải Thương Linh đều trở nên đen đặc như ngày tận thế, mãi cho tới đầu giờ Hợi, các vì sao mới lần lượt sáng lên trên tấm lụa đen bầu trời mà dẫn đầu là sao Hôm ở phía Tây, tiếp đó, từ phía tận cùng của biển, một vầng trăng bạc to lớn xuất hiện. Trăng mọc vào thời điểm cuối tháng vốn dĩ phải là trăng khuyết, ở Bích Hải Thương Linh lại có trăng tròn, còn có thể cùng tỏa sáng với các vì sao, có thể thấy rõ vẻ bao la hùng vĩ của cảnh sắc ban đêm.

Trên trời một mảnh trăng tương tư, dưới đất đương nhiên là cảnh sắc phong lưu. Khi ánh trăng vừa lan tỏa, từ dòng suối thiêng liền bốc lên lớp sương trắng mềm mại, phủ một lớp mỏng trên mặt nước biếc, cỏ cây hoa lá trên lớp sương trắng cũng phát ra ánh sáng mờ ảo, lác đác điểm xuyết, tựa như châm lên một biển đèn bình an với nhiều màu sắc khác nhau.

Gió cũng đung đưa, mây cũng đung đưa, nơi núi và nước giao nhau bỗng có tiếng chim loan xé rách không trung, cảnh sắc tĩnh lặng giữa trời và đất bỗng chốc trở nên sống động, vô vàn chú chim ríu rít bay ra từ trong núi tiên, những tiếng kêu chí chách lại tạo nên một khúc nhạc rất hay, lũ chim thiêng với những bộ lông cánh đẹp đẽ nhẹ nhàng nhảy múa theo tiếng nhạc tiên, tư thế linh động khiến người ta phải trầm trồ kinh ngạc. Phượng Cửu đứng trên đài ngắm cảnh, kích động đến nỗi lắp ba lắp bắp: “Những… những con chim thiêng này mỗi tháng vào thời điểm này đều tới đây nhảy múa ư?”.

Đông Hoa ngồi trên một tấm thảm dệt từ lông chim khâm nguyên, tựa lưng vào cột đá, nói: “Nàng nghĩ chúng nhàn rỗi như vậy sao?”.

Phượng Cửu lập tức hiểu rằng đây hóa ra là kiệt tác của Đế Quân, chạy lại ôm lấy cánh tay của chàng lấy lòng, ánh mắt vẫn sáng long lanh, lắp bắp nói: “Chàng… chàng bảo chúng bay lại gần hơn một chút đi, bay lại gần múa điệu Bách điểu triều phượng cho em xem…”.

Đế Quân hờ hững: “Ta không làm chuyện mua bán thua lỗ, nàng lấy gì để báo đáp ta?”.

Phượng Cửu lẩm bẩm: “Chàng làm gì mà nhỏ nhen vậy, rõ ràng là em còn dạy chàng nấu món cá chua ngọt rồi mà”, đôi mắt bỗng sáng lên, nói: “Vậy em cũng múa cho chàng xem”, hai tay từ cánh tay đặt lên vai chàng: “Đừng coi thường em, em múa cũng rất giỏi đấy, không hề thua kém nghĩa muội Tri Hạc của chàng đâu, chỉ là ngại không muốn múa cho người khác xem thôi”, nàng mím môi mỉm cười dịu dàng: “Em lớn bằng ngần này rồi mà vẫn chưa được xem điệu Bách điểu triều phượng thực sự do trăm chú chim biểu diễn đấy, chàng hãy bảo chúng múa cho em xem, em sẽ múa cho chàng xem mà…”.

Đế Quân nhìn đôi hàng mi chớp chớp của nàng, bỗng nhớ tới chuyện trước đây, khi Phượng Cửu còn là tiểu hồ ly ở bên cạnh mình, mỗi khi làm nũng cũng có điệu bộ như vậy, đương nhiên hồi ấy nàng không có chất giọng mềm mại dịu dàng như thế này, nhưng cũng đôi mắt long lanh này, mỗi khi vui vẻ lại thân mật nũng nịu cọ cọ đám lông trên đỉnh đầu vào tay chàng, khi muốn có được thứ gì ở chỗ chàng, còn thút thít giả vờ khóc. Hồi ấy chàng cũng có cách riêng để đối phó nàng, thấy nàng thút thít khóc như thật, chỉ cảm thấy buồn cười, những câu nói đại loại như “Ta thích nhất là trêu chọc cho người khác phát khóc, ngươi khóc to lên chút nữa” chàng mở miệng là tuôn được ra ngay. Nhưng giờ đây, nhìn thấy nàng ngoan ngoãn làm nũng với mình như vậy, trong lòng chợt có cảm giác không thể chống đỡ được, hoàn toàn bại trận trước nàng, trong chốc lát có chút thất thần.

Trước mặt người ngoài nàng luôn tỏ ra khách khí, thật thà, giả bộ đoan trang và già dặn, nhưng chàng biết, nàng thực ra rất thích làm nũng. Nàng đã từng giữ rất nhiều lễ tiết trước mặt chàng, ví dụ như trong Phạn Âm Cốc, ví dụ như trong giấc mộng của A Lan Nhược. So với những lúc nàng kìm nén bản thân trước chàng ấy, chàng lại thích vẻ ngây thơ và hay làm nũng của nàng bây giờ hơn, đó mới chính là con người nàng. Diểu Lạc hôm đó nói trong lòng chàng có một biển hoa phật linh, không biết ai là người được cất giấu sau biển hoa đó. Chàng biết thứ được cất giấu sau biển hoa là một con tiểu hồ ly lông đỏ, lúc đó mặc dù chưa nảy sinh tình cảm nam nữ, nhưng chàng luôn đối xử với nàng rất khác biệt.

Ánh trăng trên đài ngắm cảnh rất dịu dàng, Phượng Cửu thấy Đế Quân nhìn mình hồi lâu không nói gì, có chút sốt ruột, nói: “Đừng có không để ý tới người ta như thế mà, như vậy rất có lợi đấy…”.

Đông Hoa bừng tỉnh lại, tỏ ý tán đồng, nói: “Quả là rất có lợi,” mỉm cười: “Vậy nàng hãy múa cho ta xem trước”.

Phượng Cửu hơi chần chừ: “Không nên để lũ chim thiêng phải chờ đợi em, hãy bảo chúng nhảy múa trước đi, muộn như thế này rồi, chúng biểu diễn xong còn quay về nghỉ ngơi, chàng là tôn thần, cần phải biết cảm thông với kẻ dưới chứ”.

Ánh sao sáng lấp lánh trên bầu trời, Đông Hoa để yên cho nàng ôm vai mình lấy lòng, hơi nghiêng đầu, nói: “Ta chẳng qua chỉ đề phòng có người nuốt lời, chẳng phải nàng đã nói sẽ thành tâm thành ý báo đáp ta hay sao, mặc cả với ta như vậy, thành tâm ở đâu?”.

Phượng Cửu đành miễn cưỡng buông chàng ra, lùi lại đứng giữa đài ngắm cảnh, đứng ngay ngắn, ho một tiếng, nói: “Vì không có nhạc đệm, em múa một đoạn ngắn cho chàng xem thôi nhé…”.

Đông Hoa lại dường như sớm đã dự liệu được việc nàng sẽ lấy cớ thoái thác, khẽ phất tay áo một cái, trước mặt bỗng hiện lên một cây đàn không hầu, đưa tay gảy sợi dây đàn, như cười như không nhìn nàng: “Đã múa thì ít nhất cũng phải múa hết một đoạn, ta sẽ tấu nhạc cho nàng”.

Phượng Cửu ngạc nhiên bịt miệng, nói vẻ không thể tin nổi: “Chàng còn biết chơi đàn không hầu? Em… em chưa từng biết…”.

Đông Hoa ừm một tiếng: “Chơi không nhiều, nàng đương nhiên không biết”, ngẩng đầu lên ung dung nhìn nàng: “Có phải cảm thấy phu quân của nàng đa tài đa nghệ không?”.

Khuôn mặt của Phượng Cửu lập tức đỏ bừng: “Phu… phu quân, hai chữ này thốt ra từ miệng chàng nghe thật kỳ lạ, a a, phu… phu quân, hai chữ này vốn dĩ đã rất kỳ lạ, Đế Quân vẫn hay hơn…”.

Bàn tay đang thử dây đàn của Đế Quân dừng lại, vẫy vẫy nàng: “Lại đây”.

Phượng Cửu xấu hổ lại gần, ngồi thụp xuống, đang định nói “để làm gì”, khuôn mặt đã bị chàng nâng lên, bóp mạnh mấy cái. Đế Quân cúi nhìn nàng với thần sắc uy nghiêm: “Nghĩ cho kỹ, ta là gì của nàng?”.

Khuôn mặt nàng bị bóp méo xẹo, đành phải van xin: “Là… là phu quân, buông tay ra, buông tay ra!”.

Đông Hoa bấy giờ mới hài lòng buông nàng ra, lại vỗ vỗ vào đầu nàng: “Qua đó đi”. Nhìn theo phía sau lưng nàng, than thở: “Nàng tự nói là muốn múa cho ta xem, trì hoãn tới tận bây giờ vẫn không có động tĩnh gì, nàng không cảm thấy mình chậm chạp chết đi được sao?”.

Phượng Cửu xoa xoa má, ấm ức nói: “Rõ ràng là tại chàng cứ phá rối em”.

Trăng sao chiếu sáng trên màn trời đêm như dải lụa đen phía sau đài ngắm cảnh, ánh sáng mờ ảo trong Bích Hải khẽ lay động, lũ chim thiêng yên lặng đậu trên cành cây. Đàn không hầu phát ra những tiếng nhạc dịu dàng chậm rãi, thiếu nữ áo đỏ nhảy múa theo tiếng nhạc có thân hình mềm mại mỏng manh, dưới ánh trăng, mái tóc đen dài tựa như được dát thêm một lớp ánh sáng, mái tóc đen dài tựa như được dát thêm một lớp ánh sáng, hai tay áo đưa lên che mặt từ từ mở ra, để lộ một khuôn mặt vô cùng xinh đẹp, các ngón tay chụm lại thành hình hoa phù dung giơ lên, ống tay áo dài tụt xuống để lộ cách tay trắng ngần như tuyết, giữa những chuyển động nhẹ nhàng của điệu múa, mềm mại như sóng nước chầm chậm lên xuống trong đêm khuya tĩnh mịch, lại diễm lệ như một đóa hoa nở rộ trong sóng nước.

Ngón tay chơi đàn của Đông Hoa gảy nhầm một âm. Từ trước đến nay chàng luôn biết rằng nàng rất xinh đẹp, nhưng không thuộc kiểu mỹ nhân phong tình, khuôn mặt nàng hầu như luôn có vẻ đẹp trong sáng, cho đến tận bây giờ chàng mới phát hiện ra, khuôn mặt trong sáng xinh đẹp đó bây giờ lại có thể dùng một chữ “diễm” để diễn tả, khi muốn lấy lòng chàng, sóng mắt đầy vẻ khêu gợi một cách tự nhiên. Chàng đương nhiên biết rõ, ai đã biến nàng trở thành như thế này. Có thể chính bản thân nàng cũng không biết được sự quyến rũ trong sóng mắt dịu dàng ấm áp đó.

Tiếng đàn bỗng nhiên dừng lại, Phượng Cửu không hiểu ngước lên nhìn, đài ngắm cảnh nhất thời vô cùng tĩnh mịch, hồi lâu, lại thấy Đế Quân giơ tay ra, giọng nói khàn khàn, gọi nàng: “Lại đây”.

Điệu bộ ngồi ở đó, đưa tay về phía nàng, nói những lời như vậy của Đế Quân quả thực quá hấp dẫn, mặc dù có chút hồ nghi, Phượng Cửu vẫn chầm chậm bước lại, miệng không quên trách móc: “Lát lại gọi lại, chốc lại gọi đi, tại sao cứ gọi em thế, chàng không thể đến chỗ em hay sao, dù sao cũng không được bóp má em nữa”.

Đế Quan nhanh chóng tiếp thu: “Ta không bóp”.

“Thật không?”.

“Thật”.

Đế Quân quả thực không bóp má nàng nữa, chàng đặt thẳng nàng xuống tấm thảm, nàng kinh ngạc khẽ kêu lên một tiếng, ban đầu còn nghĩ đến chuyện bảo đám chim thiêng bên ngoài múa điệu Bách điểu triều phượng cho nàng xem, cố gắng giãy giụa, nhưng sức lực của nàng đâu thắng nổi Đế Quân. Sau đó Đế Quân nhướn mày, lại dùng giọng điệu trầm thấp mà nàng yêu thích nhất để dỗ dành, mê hoặc đến nỗi khiến đầu óc nàng trở nên u mê, liền để mặc chàng muốn làm gì thì làm. Nàng còn chủ động phối hợp với chàng một chút nữa.

Khi Phượng Cửu tỉnh dậy đã là sáng hôm sau, mặt trời đã rời khỏi ngọn núi, vầng trăng bạc đêm qua tất nhiên đã lui về nghỉ ngơi, đám chim thiêng cũng đã bay về núi rừng, muốn xem điệu múa Bách điểu triều phượng thì chỉ còn cách đợi đến cuối tháng sau thôi. Phượng Cửu cắn tay nằm gục trong đống chăn muốn khóc mà không có nước mắt, trong lòng vô cùng hối hận, Bạch Phượng Cửu, mi thật là ngốc nghếch, lời Đế Quân nói mà cũng nghe được sao? Sao mi lại tin những lời nói quỷ quái của chàng, mi thật là ngốc!

Khi đến ngày phải rời khỏi Bích Hải Thương Linh, Trọng Lâm và mẫu thân của Phượng Cửu vẫn chưa đến, vì đêm qua không được như ý nguyện, thần sắc của Phượng Cửu có chút mệt mỏi, ủ ê theo Đông Hoa quay về cung Thái Thần.

Khi về đến cung, thần sắc của Phượng Cửu vẫn ủ ê, ngay cả cô cô Bạch Thiển tới rủ nàng đi xem kịch, nàng cũng khéo léo từ chối, cho tới khi Đế Quân hứa rằng tháng sau sẽ đưa nàng về Bích Hải Thương Linh, cuối tháng sẽ lệnh cho tất cả đám chim thiêng của bảy ngọn núi thiêng ở Bích Hải Thương Linh tới nhảy múa cho nàng xem, nàng mới có chút tinh thần. Nhưng vẫn chưa hoàn toàn lấy lại tinh thần, trước đó là không thèm để ý đến người khác, bây giờ chẳng qua là thờ ơ lạnh nhạt mà thôi.

Đế Quân ngắm nghía nàng hồi lâu, chủ động lấy bút mực ra viết cho nàng một tờ giao kèo, trên đó giấy trắng mực đen viết rõ ràng nếu không thực hiện được lời hứa với nàng thì mình sẽ thế nào thế nào, lại còn điểm dấu vân tay lên đó, gấp gọn tờ giao kèo lại rồi đưa cho Phượng Cửu, lúc bấy giờ nàng mới hoàn toàn lấy lại tinh thần, lại có thể tươi cười hớn hở với chàng.

Hai ba ngày này ở Bích Hải Thương Linh nhất định sẽ rất náo nhiệt, hôm đó Trọng Lâm đề xuất hai người Đông Phượng về cung Thái Thần vài ngày vì Trọng Lâm biết rằng Đế Quân gần đây thích yên tĩnh, cung Thái Thần mặc dù không cách biệt với thế giới, nhưng bát hoang đều biết sắp tới chàng sẽ tổ chức đại tiệc, thông cảm cho sự bận rộn của chàng, sẽ không tới Nhất Thập Tam Thiên làm phiền chàng.

Về lý mà nói, Trọng Lâm suy xét rất đúng, nhưng thế gian luôn có một vài ngoại lệ hoặc việc ngoài ý muốn, tiềm ẩn ngay từ đầu một việc nào đó, bùng phát vào lúc sự việc đó đang tiến hành.

Nửa đêm ngày thứ hai lên trời, cung Thái Thần được đón một vị nhân huynh. Vị nhân huynh đó trèo tường vượt rào vào bên trong, xông thẳng vào phòng ngủ của Đông Hoa một cách thành thục, vén màn trướng ra, túm lấy một cánh tay đang đặt bên ngoài tấm chăn mây của Đông Hoa: “Mặt lạnh, hãy đi với mỗ một chuyến!”. Một câu nói hào sảng hùng hồn, đáng tiếc là vừa nói dứt câu, chủ nhân của câu nói đó đã bị hất ra xa một trượng.

Ánh nến trong phòng vụt sáng, Đông Hoa ngồi bên mép giường che kín Phượng Cửu ở bên trong, nhưng không làm gì được khi nàng chủ động quấn chăn thò đầu ra qua vai chàng, vô cùng kinh ngạc nhìn vị nhân huynh đang ngồi dưới đất: “Hả? Tiểu Yến? Sao nửa đêm huynh lại chạy tới chỗ của bọn ta, mộng du đi nhầm chỗ sao?”.

Thần sắc phờ phạc của Tiểu Yến tráng sĩ lộ vẻ đau khổ: “Mỗ được Cơ Hoành nhờ, tới tìm Mặt lạnh. Nàng”, Tiểu Yến nghẹn ngào nhìn Đông Hoa: “Nàng bây giờ tính mệnh như chỉ mành treo chuông, muốn gặp ngươi lần cuối”.

Phượng Cửu sững người lại, nhìn Đông Hoa, Đông Hoa nhíu mày nói: “Nàng ta sống trong Phạn Âm Cốc, tại sao tính mệnh lại như chỉ mành treo chuông được”.

Tiểu Yến buồn rầu nói: “Nàng xin mỗ đưa nàng ra khỏi Phạn Âm Cốc…”.

Đông Hoa đứng lên khoác áo choàng, rót một ly trà: “Dù ra khỏi Phạn Âm Cốc, cũng không đến mức tính mạng như chỉ mành treo chuông, nàng ta đã làm gì?”.

Yến Trì Ngộ nghiến răng, tháo một sợi dây trên cổ xuống, phía đầu dây có treo một miếng lưu ly trắng, trong miếng lưu ly có phong một vật nhỏ, nhìn hình dáng giống như móng vuốt của vật nào đó, một chiếc móng vuốt rất đẹp đẽ tinh xảo.

Yến Trì Ngộ nghẹn ngào nói: “Nàng bảo mỗ mang cái này đến cho ngươi, nói ngươi xem rồi sẽ hiểu ngay”.

Bàn tay đang nâng chén nước lên uống của Đế Quân khựng lại giữa không trung, đón lấy miếng lưu ly vuốt ve trong giây lát, bỗng ngước mắt nhìn Phượng Cửu, nói: “Ngày mai nàng hãy tới Bích Hải Thương Linh trước, ta tới thăm nàng ta một chút, sau đó sẽ đến sau”.

Yến Trì Ngộ có được câu trả lời của Đế Quân, chăm chú nhìn chàng một lát, nói: “Mỗ đợi ngươi ở ngoài”.

Đột ngột nghe tin Cơ Hoành sắp chết Phượng Cửu vô cùng kinh ngạc, mặc dù nàng không thích Cơ Hoành, nhưng cũng cảm thấy đáng tiếc, nghe Đế Quân nói muốn tới thăm nàng ta còn mình tới nơi tổ chức tiệc cưới trước, bèn ngoan ngoãn gật đầu, bước tới giúp chàng mặc áo khoác.

Ánh nến dù sao cũng yếu ớt, hình bóng của Đế Quân lúc rời đi nhìn có vẻ rất mơ hồ.

Hình bóng mơ hồ mà càng đi càng xa đó dường như đã dự báo điều gì, nhưng lúc đó Phượng Cửu không hề chú ý, chỉ là đêm đó, nàng không ngủ lại được nữa.
 
Tham gia
6/7/19
Bài viết
101
Điểm cảm xúc
41
Điểm
28
01.

Trong tiệc cưới Đông Hoa không xuất hiện.

Chín ngày sau tiệc cưới, Đông Hoa vẫn không xuất hiện.

Trong chín ngày đó, bản thân mình đã làm những gì, đã nói những gì, Phượng Cửu cảm thấy, lúc này nhớ lại, ấn tượng vẫn vô cùng mờ nhạt.

Chỉ còn nhớ rằng ngày mùng bốn tháng ba hôm đó quả là một ngày tốt, ánh nắng vô cùng ấm áp, làm cảnh sắc Bích Hải Thương Linh càng thêm đẹp đẽ, khiến chư vị tiên giả tới dự tiệc ai nấy đều hết lời khen ngợi.

Mặc dù là tiệc cưới làm bù nhưng Trọng Lâm và mẫu thân của nàng đều vô cùng coi trọng, những lễ tiết phức tạp cần thiết trong lễ thành hôn, trừ việc bái thiên địa ra, tất cả đều được sắp xếp đầy đủ. Sau khi nàng được trang điểm kỹ càng, khi mẫu thân của nàng chân thành nói với nàng những quy tắc lễ nghi đó, mặc dù cảm thấy có chút phiền phức nhưng trong lòng nàng thực ra vừa hiếu kỳ lại vừa chờ đợi.

Chư vị thần tiên trong bát hoang đều đến sớm dự tiệc, ngay cả Thiên Quân, người thường ngày hay thích ra vẻ cũng đến sát giờ, giờ lành đang từng khắc từng khắc đến gần, nhưng vẫn không thấy bóng dáng Đông Hoa đâu. Nàng cuối cùng có phần lo lắng, mới nhớ ra đêm qua, trước khi đi Đế Quân đã nói sẽ đến sau, chàng không nói cụ thể đến sau là đến vào lúc nào. Có thể chàng không về kịp lành rồi, nàng nghĩ, trong lòng bỗng có chút hụt hẫng. Nhưng suy nghĩ lại, lại cảm thấy liệu có phải bản thân mình hơi hẹp hòi không, mặc dù bữa tiệc thành hôn này vô cùng quan trọng, nhưng Tiểu Yến nói tính mạng Cơ Hoành như chỉ mành treo chuông, mặc dù Đế Quân đêm hôm đó đã nói chỉ đến thăm nàng ta một chút thôi, nhưng khi tới trước giường bệnh của nàng ta, chưa biết chừng cũng có chút thương cảm, lại muốn ở bên nàng ta thêm chút nữa, giúp nàng ta hoàn thành tâm nguyện cuối cùng trong đời. Dù sao thì người đã khuất nên được tôn trọng, nếu quả thực như vậy, Đế Quân không về kịp giờ lành thì thôi vậy, nàng còn tranh giành gì với một người sắp chết nữa.

Khi nàng vừa suy nghĩ thông suốt về chuyện này, lại gặp Trọng lâm vội vàng đi tới. Sắc mặt của vị tiên quan tháo vát nhất cung Thái Thần lúc này lại không được tốt lắm, Trọng Lâm cụp mắt xuống, nói với nàng: “Đến giờ vẫn chưa thấy bóng dáng Đế Quân đâu cả, chắc chắn đã có việc gì đó rất quan trọng, lượng thứ cho thần to gan, nếu Đế Quân hôm nay không thể xuất hiện, thần xin ý chỉ của điện hạ, có nên bỏ hết các lễ tiết của tiệc thành hôn đi, biến bữa tiệc này thành yến tiệc thông thường không?”.

Lời đề nghị này của Trọng Lâm hoàn toàn là vì thể diện của nàng, hôm trước khi phát thiệp mời đã nói rõ bữa tiệc này là tiệc cưới bù, tiệc cưới bù cần phải như thế nào, may mà chư vị thần tiên đều không hay biết, tổ chức thành một yến tiệc thông thường cũng coi như không có gì đường đột. Kiểu yến tiệc thông thường mượn cớ gì đó để chư vị tiên giả tới tụ họp uống rượu, Đế Quân không xuất hiện cũng không có vấn đề gì, các bậc tiên giả trưởng bối đều biết rằng Đế Quân xưa nay không thích các buổi yến tiệc, trước khi thoái ẩn, những bữa tiệc mừng công do chính ngài tổ chức nhưng ngài không xuất hiện cũng có nhiều rồi.

Nhưng nếu như theo mọi sự sắp đặt của Trọng Lâm và mẫu thân của nàng trước đó, bữa tiệc này là một bữa tiệc cưới chính thống, Đế Quân không xuất hiện, lại khiến vị Đế Hậu mới đăng cơ là nàng bị mất mặt trước chư vị thần tiên của bát hoang.

Trọng Lâm có thể nghĩ cho nàng chuyện đó, nàng rất cảm kích.

Trọng Lâm nhìn thần sắc của nàng, đắn đo hồi lâu, nói: “Đế Quân rất coi trọng bữa tiệc này, nếu hôm nay không về kịp, nhất định là đã gặp chuyện lớn, tuyệt đối không phải là Đế Quân không nghĩ tới điện hạ, thần bạo gan nói một câu, Đế Quân đã giao bữa tiệc này cho thần, tức là đã tin tưởng rằng dù có xảy ra biến cố gì, thần luôn có thể bảo vệ cho điện hạ”.

Nàng mỉm cười, khẽ nói: “Đúng vậy”.

Khi giờ lành trôi qua, trong lòng nàng giống như được giải thoát.

Nàng mặc dù dự đoán rằng chàng có thể sẽ không về kịp giờ lành, nhưng chung quy vẫn có một tia hy vọng. Đế Quân là do nàng đã mong mỏi chờ hơn hai nghìn năm, khó khăn lắm mới có được, có thể làm Đế Hậu của chàng, nàng đã vô cùng mãn nguyện rồi, nàng thực ra không coi trọng những lễ nghi đó như những tân nương khác, nhưng cả đời chỉ có duy nhất một lần xuất giá như vậy, vẫn không tránh khỏi việc mong ước nó hoàn hảo một chút. Còn chưa tới giờ lành, khát vọng thầm kín đó trong lòng nàng vẫn chưa thể tiêu tan. Lúc này mặc dù có chút thất vọng, nhưng cũng đã bình tĩnh hơn nhiều.

Bên trong đại điện cách đó một hành lang, tiếng cười nói trong yến tiệc loáng thoáng vọng tới, nàng dỏng tai lên chăm chú lắng nghe một lát, cảm thấy trong điện chắc chắn đang rất náo nhiệt. Náo nhiệt như vậy, không hiểu sao nàng lại cảm thấy có chút cô đơn. Nàng cầm chén lên, tự rót cho mình một ly trà đặc, nhấp từng ngụm từng ngụm nhỏ.

Buổi tiệc diễn ra được một nửa, mẫu thân và lão lão của nàng bỗng xuất hiện trước cửa phòng, Phục Mịch tiên mẫu – lão lão của nàng lo lắng ngồi trước mặt nàng: “Cửu Nhi, con hãy nói thật cho ta nghe, một ngày quan trọng như hôm nay sao Đế Quân lại không đến, có phải con và ngài ấy đã..”.

Nàng vẫn nhấp từng ngụm từng ngụm trà nhỏ, mỉm cười an ủi lão lão: “Đế Quân quả là có một việc vô cùng quan trọng, trước khi đi đã dặn con, nếu chàng không về kịp thì hãy giao mọi việc cho Trọng Lâm tiên quan, lão lão xem, Trọng Lâm tiên quan chẳng phải đã ứng phó rất thỏa đáng hay sao?”.

Đế Quân đương nhiên chưa từng nói với nàng như vậy, nhưng nếu nói thật với mẫu thân và lão lão, nàng biết bọn họ chắc chắn sẽ không đồng ý.

Lão lão và mẫu thân của nàng cuối cùng cũng yên tâm.

Buổi đại tiệc này, chư vị tiên giả đều được uống thỏa thích, những người đầu óc còn tỉnh táo đã cáo từ ra về ngay trong ngày, còn một vài vị tiên giả ham uống rượu vì uống quá say, đã nghỉ lại một ngày trong phòng khách của cung điện bằng đá, đến ngày hôm sau cũng lần lượt cáo từ. Bích Hải Thương Linh lại trở về với trạng thái tĩnh mịch. Người nhà họ Bạch ở lại hai ngày rồi cũng trở về Thanh Khâu, duy có Trọng Lâm và nàng ở lại nơi này.

Thực ra trong lòng nàng cũng có đôi chút ấm ức, trong hai ngày đầu, không tránh khỏi việc thi thoảng suy nghĩ xem tại sao Đế Quân lại lỡ hẹn lâu như vậy, cho dù là hoàn thành tâm nguyện của Cơ Hoành cũng không cần lâu như vậy, nếu thật sự thương xót Cơ Hoành, muốn ở lại bên nàng ta lâu hơn một chút, tại sao không sai người quay về thông báo một tiếng.

Nửa đêm ngày thứ ba, nàng bỗng nhiên giật mình tỉnh dậy khỏi một cơn ác mộng. Thực ra nàng hoàn toàn không nhớ nổi mình đã mơ thấy gì, chỉ bỗng nhiên nghĩ tới việc đã mấy ngày liền không có tin tức của Đế Quân, liệu có phải đã có chuyện gì xảy ra với chàng không? Sắc mặt nàng trở nên trắng nhợt, nửa đêm khuya khoắt gấp gáp cho gọi Trọng Lâm tới, lập cà lập cập nói rõ nghi hoặc của mình. Nhưng mặc dù nàng biết Đế Quân tới chỗ Cơ Hoành, đêm hôm đó nàng lại quên không hỏi Cơ Hoành ở đâu. Trong lòng nàng lại càng hoảng hốt, giục Trọng Lâm cùng nàng rời khỏi Bích Hải Thương Linh ngay trong đêm, một người đi về phía Tây Nam tìm Tiểu Yến, một người đi về phía Đông Nam tìm Hú Dương – ca ca của Cơ Hoành.

Ba ngày sau hai người gặp lại ở Bích Hải Thương Linh, vì liên tục đi gấp nhiều ngày, gương mặt ai nấy đều nhuốm gió sương.

Khi nàng tới địa bàn của Thanh chi Ma tộc, nói rõ lý do viếng thăm, một Ma sứ rất điềm tĩnh ở đó cau mày thở ngắn than dài với nàng, Ma quân của bọn họ đã gần một năm nay chưa từng về tộc, bọn họ cũng không biết phải tìm Ma quân ở đâu, nếu khi nào nàng nhìn thấy ngài ấy, cũng mong nàng chuyển lời tới Ma quân, bảo ngài ấy mau chóng quay về một chuyến, ơn chuyển lời nhắn nhủ của nàng, Thanh chi Ma tộc nhất định sẽ khắc ghi. Còn khi Trọng Lâm tới Xích chi Ma tộc, Hú Dương nói, ba trăm năm trước, khi muội muội của chàng ta bỏ trốn cùng tiểu thị vệ Mẫn Tô, Xích chi Ma tộc đã đuổi nàng ta đi, từ đó về sau Cơ Hoành không có mối liên hệ gì với Xích chi Ma tộc nữa, giờ nàng ấy ở đâu, bộ tộc bọn họ quả thực không thể biết được.

Đế Quân đang ở đâu, lúc này lại hoàn toàn không chút manh mối, nàng loạng choạng một bước tựa như muốn ngã, Trọng Lâm vội vàng đỡ lấy nàng. Trong lúc đầu óc quay cuồng lại thấy mấy đám mây lành bỗng nhiên xuất hiện, trên hai đám mây lành phía trước là gia gia, nãi nãi (bà nội) của nàng, trên hai đám mây phía sau là song thân của nàng.

Ánh mắt của Bạch Chỉ Đế Quân – gia gia của nàng cuộn trào nộ khí tột đỉnh, khi nhìn thấy nàng, vẻ tức giận đó đã mang thêm một chút thương xót, hồi lâu, gia gia của nàng nói: “Phu quân của con, rốt cuộc là đang ở đâu?”.

Nàng cố gắng tỏ ra điềm tĩnh, nói: “Chàng có một việc rất quan trọng…”.

Bạch Chỉ Đế Quân nổi giận cắt ngang lời nàng: “Cái gọi là chuyện quan trọng chính là bỏ rơi con trong tiệc thành hôn, rồi đi dây dưa lằng nhằng với Cơ Hoành của Xích chi Ma tộc ư?”.

Mấy ngày nay tâm tư của nàng quả thực rất hỗn loạn, nhưng nàng nghĩ họ đã là phu thê, nàng cần phải tin tưởng chàng, biện hộ cho chàng theo bản năng, nói: “Sao gia gia lại nói dây dưa lằng nhằng, việc này con cũng biết, tính mệnh của Cơ Hoành như chỉ mành treo chuông, Đế Quân chỉ là thương xót nàng ấy mà tới nhìn mặt nàng ấy lần cuối cùng, chúng ta là thần tiên, cũng cần có lòng thương xót với người sắp ra đi chứ ạ”.

Bạch Chỉ Đế Quân cười nhạt: “Nhìn mặt lần cuối cùng? Tại sao ta lại nghe nói rằng sáng sớm hôm nay hắn bế Cơ Hoành uy phong lẫm liệt xông vào cung Đan Linh của Xích chi Ma tộc, ra mặt cho Cơ Hoành trước mặt Hú Dương, lấy gương Diệu Hoa của Đệ Thất Thiên làm vật trao đổi, cưỡng ép Xích chi Ma tộc phải đón vị công chúa đã bị đuổi khỏi dòng tộc quay trở lại? Nghe nói lúc đó vị công chúa ấy yếu ớt nằm trong lòng của hắn, chẳng có vẻ gì là gặp nguy hiểm tới tính mạng cả!”

Đầu óc nàng bỗng nổ tung.

Bạch Chỉ Đế Quân lắc đầu thở dài, nói: “May mà Xích chi Ma tộc phong tỏa thông tin, rất ít người biết được chuyện này, nếu không, thông tin nếu được lan truyền vào tai chư tiên trong bát hoang, thể diện của nhà họ Bạch chúng ta biết để vào đâu?”. Nhìn nàng, lại nói: “Thực ra chuyện thể diện cũng không phải là vô cùng quan trọng, chỉ là Đông Hoa đã phụ con như vậy, gia gia phải nhẫn nhịn như thế nào đây?”.

Khuôn mặt nàng trở nên trắng bệch, không còn một chút sắc máu, hồi lâu mới nói: “Con muốn nghe xem Đế Quân nói thế nào”.

Bạch Chỉ Đế Quân còn muốn nói thêm, nhưng đã bị nãi nãi của nàng đưa tay ngăn lại, nãi nãi dịu giọng khuyên nhủ nàng: “Con hãy cùng chúng ta quay về Thanh Khâu nghỉ ngơi trước đã, nếu Đông Hoa có lòng, sẽ tự đến Thanh Khâu tìm con”.

Nàng bước đến bên cạnh nãi nãi như người mộng du, lại quay nhìn Trọng Lâm như người mộng du, giọng nói phiêu diêu: “Từ Bích Hải Thương Linh tới Xích chi Ma tộc cần mất một ngày, từ Xích chỉ Ma tộc tới Thanh Khâu mất một ngày, ngươi hãy nói với Đế Quân, ta đợi chàng hai ngày”.

Nhà họ Bạch từ trên xuống dưới đều đến để cướp người, Trọng Lâm tự biết không thể ngăn cản được, đành phải khẽ vâng một tiếng.

Hai ngày ở Thanh Khâu đó, nàng ở trong trạng thái mông mông lung lung, phần lớn thời gian ngồi ngây người trong phòng. Phụ thân của nàng thở ngắn than dài, thì thầm với mẫu thân của nàng rằng không thể chịu được khi nàng trở nên lặng lẽ như vậy, khi nàng hoạt bát chạy nhảy lung tung mặc dù khiến ngài tức đến nỗi nổ đom đóm mắt nhưng bây giờ ngài lại rất nhớ dáng vẻ của nàng trước đây. Mẫu thân của nàng lại đưa tay áo lên lau nước mắt.

Thực ra nàng không muốn làm song thân lo lắng, nàng chỉ là đang chờ đợi một kết quả, trước khi có kết quả, nàng nhìn bất cứ thứ gì cũng có phần uể oải.

Trong giấc mộng của A Lan Nhược, ở Bích Hải Thương Linh, nàng cảm thấy Đế Quân đối với nàng không phải là giả dối, nhưng tại sao chàng lại không tới tìm nàng, chàng không lo lắng cho nàng ư, nàng không thể hiểu được.

Nàng suy nghĩ nhiều, đôi khi lại cảm thấy đau đầu, tựa như có dùi nhọn xuyên thẳng vào đỉnh đầu vậy, từng cơn từng cơn đau đớn một cách đáng sợ. Mỗi lần cơn đau qua đi, lại có một vài đoạn ký ức khó hiểu hiện lên trong đầu.

Ví dụ như nàng vốn dĩ nhớ rằng khi nàng bị rơi vào trong giấc mộng của A Lan Nhược, Đế Quân lao tới cứu nàng, khi nàng tỉnh lại Đế Quân đã nói rất nhiều lời ngọt ngào để dỗ dành nàng, nói rằng năm xưa khi nàng còn là tiểu hồ ly, chàng không nhận ra nàng nên mới khiến nàng phải chịu nhiều ấm ức như vậy, đó là lỗi của chàng; nàng khóc hỏi chàng tại sao lại tráo đổi quả tần bà của nàng, chàng kiên trì lau nước mắt cho nàng, thẳng thắn thừa nhận vì nàng nói sẽ mang quả tần bà làm bánh cho Tiểu Yến nên chàng ghen với Tiểu Yến; khi nàng nhắc tới Cơ Hoành, chàng cau mày đáp: “Sao nàng lại nghĩ như vậy, nàng ấy và ta chẳng có quan hệ gì cả”. Nàng liền tin chàng, còn tha thứ cho chàng nữa.

Nhưng đoạn ký ức thi thoảng xuất hiện trong đầu, lại là rừng cây bạch lộ bên đầm Thủy Nguyệt, trên một chiếc giường rộng, nàng trần tình với Đế Quân rằng có thể họ không có duyên phận với nhau, vì vậy xa nhau chưa biết chừng sẽ tốt hơn, chàng lại nhìn nàng dường như đang suy nghĩ gì đó: “Không có vì vậy gì cả, thực ra chúng ta đã thành thân, bởi vì Tiểu Bạch nàng, chẳng phải rất thích ta sao?”.

Rõ ràng trong ấn tượng, trong giấc mộng của A Lan Nhược, nàng luôn biết Tức Trạch chính là Đế Quân, một vài mảnh ký ức thi thoảng hiện lên, lại có lời chỉ bảo của Tô Mạch Diệp đối với nàng: “Nếu ngươi quả thực thích ngài ấy, đừng cảm thấy áp lực, có thể ngươi vốn thích kiểu người như vậy, thật trùng hợp cả Đế Quân và ngài ấy đều là kiểu người đó”. “Ngài ấy” là ai? Nếu là Tức Trạch, chẳng phải từ trước tới nay nàng vẫn biết rằng bọn họ chính là một người hay sao?

Nàng không nhớ được Đế Quân đã nói với nàng những lời đó khi nào, cũng không nhớ nổi Tô Mạch Diệp đã đả thông tư tưởng cho nàng khi nào. Cố gắng suy nghĩ thêm, lại nghĩ đến mức đầu óc đau đớn đến nỗi muốn vỡ tung, chỉ có cách ôm đầu mới đỡ hơn đôi chút. Mẫu thân của nàng bắt gặp cảnh nàng đang cuộn tròn người lại cố gắng chịu đựng cơn đau, trong lúc thất kinh đã vội vàng mời thượng thần Chiết Nhan ở rừng đào mười dặm tới.

Mà hôm đó đã là sáng sớm của ngày thứ ba, sớm đã qua thời hạn hai ngày mà nàng đưa ra cho Đông Hoa. Nàng khổ sở chờ đợi suốt hai ngày, cuối cùng đã đợi được kết quả. Đông Hoa không đến, Trọng Lâm cũng không đến. Đầu nàng đau một cách dữ dội.

Bên ngoài trời nắng ấm áp, thượng thần Chiết Nhan giẫm lên ánh mặt trời, bước vào trong động hồ ly.

Chiết Nhan bắt mạch của nàng, lại đưa tay kiểm tra nguyên thần của nàng, khi thu tay lại ánh mắt hơi lay động, ho một tiếng rồi bảo mẫu thân của nàng ra ngoài chuẩn bị cho nàng chút kẹo sâm, đợi đến khi trong phòng chỉ còn lại hai người mới nói: “Trí nhớ của cháu đã bị người khác sửa lại, cháu có biết không?”.

Nàng nhất thời không hiểu nổi lời ngài ấy nói, hoang mang lắc đầu.

Chiết Nhan thở dài: “Có thể dùng linh đan để thay đổi trí nhớ của con người, cả bát hoang cũng chỉ có vài người làm được, tính ra cũng chỉ có Đông Hoa, Mặc Uyên, Phật Tổ ở Tây Phương và ta. Mặc Uyên và ta, thêm cả đức Phật Tổ ở Tây Phương nữa đều không có lý gì lại sửa đổi trí nhớ của cháu. Cho dù ta luôn hơi phóng túng một chút, nhưng việc phạm vào tiên đạo như thế này…”. Ngài ấy ngước mắt lên nhìn nàng, ánh mắt lại thoáng lộ vẻ thương xót giống như ánh mắt của gia gia nàng ba ngày trước tới Bích Hải Thương Linh đưa nàng đi.

Chiết Nhan lấy từ trong tay áo ra một viên tiên đan: “Cháu hãy nuốt cái này trước, ta sẽ lập tức mở lò luyện linh đan cho cháu, uống cái đó vào chắc sẽ có thể khôi phục lại trí nhớ”.

Nàng đờ đẫn cầm viên kim đan trước mặt, soi lên ánh nắng chiếu vào qua ô cửa sổ, khẽ nói: “Viên linh đan này không tìm lại được trí nhớ của cháu ư? Vậy cháu uống thứ này có tác dụng gì?”.

Một chân của Chiết Nhan đã bước qua bậc cửa, nghe vậy liền quay đầu lại, lại thở dài một tiếng: “Cháu và Đông Hoa, ta đã nghe tiểu thúc của cháu nói rồi, lúc này xảy ra việc này không biết đối với cháu là tốt hay xấu”, điệu bộ của ngài ấy dường như vô cùng giằng co, cuối cùng cũng lên tiếng: “Đó là thuốc bảo thai, cháu hoài thai rồi”.

Trong phòng nhất thời trở nên vô cùng yên lặng, viên thuốc bảo thai lấp lánh đó lăn lông lốc trên nền đất. Chiết Nhan nhặt viên linh đan lên, chậm rãi bước lại bên nàng, đặt viên linh đan vào trong tay nàng, hồi lâu, đưa tay vuốt tóc nàng.

Chín ngày qua nàng chưa từng rơi nước mắt, lúc này cuối cùng đã bật khóc, nước mắt trào ra khỏi khóe mắt, chỉ trong chốc lát đã thấm ướt hai gò má, nhưng không có âm thanh, cũng không có biểu hiện gì cả, chỉ là trong giọng nói có chút run rẩy, khẽ hỏi: “Tiểu thúc phụ, ngài nói xem, sao chàng lại có thể lừa dối cháu chứ?”. Thì thầm nhắc lại: “Sao chàng lại có thể lừa dối cháu chứ?”.

Mặc dù nàng không thích khóc nhưng mỗi lần khóc, đều lo rằng không thể khóc một cách thương tâm để khiến người ta thương người ta xót, lúc này sắc mặt lại hết sức bình tĩnh, chỉ có nước mắt tuôn rơi xối xả như dòng Thiên Hà bị vỡ đê, từng hàng nước mắt lăn dài theo gò má, từ cằm rớt xuống chiếc váy đỏ, vệt nước thấm ướt lại giống như một chuỗi hoa phật linh nở rộ.

Chín ngày này quả thực quá dài.

Ngày hôm sau, linh đan do Chiết Nhan mới luyện được đưa tới, khi ký ức thực sự được nạp lại vào đầu, tâm trạng của nàng lại không biến động một cách dữ dội như nàng tưởng, chắc là do nàng mệt mỏi quá rồi.

Nàng cuối cùng đã nhớ ra, Đế Quân thực sự chưa từng nói với nàng lý do vì sao lúc đó chàng tráo đổi quả tần bà của nàng, lúc đó Cơ Hoành xin quả quý, chàng liền đồng ý luôn. Chàng nói chàng và Cơ Hoành không có quan hệ gì, nhưng nàng lại thấy rất rõ thái độ của chàng đối với Cơ Hoành không bình thường. Giờ đây cuối cùng nàng đã có thời gian rảnh ngồi suy nghĩ lại những việc đó.

Chàng quả thực có tình cảm với mình, nhưng chàng chưa chắc đã vô tình với Cơ Hoành, vốn là một tôn thần không nhuốm hồng trần nhất trên trời dưới đất, cuối cùng là nàng hay Cơ Hoành đã kéo chàng vào cõi hồng trần vấn vương không dứt này? Khi nàng rơi vào trong giấc mộng của A Lan Nhược, tính mạng ở giữa sự sống và cái chết, chàng đã chọn nàng. Hôm nay Cơ Hoành gặp nguy hiểm tới tính mạng, chàng bèn chọn Cơ Hoành. Rốt cuộc là ai không nhìn rõ tấm lòng chân thật của mình?

Chắc chàng cũng hiểu rằng cuối cùng chàng lựa chọn Cơ Hoành có phần không phải với nàng nên mới không còn mặt mũi nào tới Thanh Khâu tìm nàng chăng.

Nàng nghĩ nàng và Đế Quân quả thực đã đi một đoạn đường rất dài, nửa đoạn trước, một mình nàng theo đuổi hình bóng của chàng một cách vô cùng khổ sở, may mà nửa đoạn sau, ông trời khai ân nên cuối cùng mới khiến nàng đuổi kịp chàng. Bởi vì ngay từ đầu là do nàng muốn có được chàng, nên dù theo đuổi có mệt đến mấy nàng cũng cảm thấy không có vấn đề gì.

Tình cảm này có được một cách không dễ dàng như vậy, nàng luôn nghĩ rằng cần phải trân trọng nó. Chàng bỏ lỡ tiệc thành hôn, nàng thực ra rất để tâm đến chuyện đó, nhưng nàng nghĩ nàng có thể giả bộ như mình không quan tâm. Khi gia gia nói chàng và Cơ Hoành có tình riêng, đầu óc nàng trong chốc lát trở nên trống rỗng, nhưng sau cảm giác trống rỗng, nàng vẫn muốn tin tưởng chàng, ít nhất cũng muốn nghe đích thân chàng nói chuyện này với mình.

Nàng đã rất cố gắng, nàng nghĩ nàng đã cho chàng đủ thời gian, chỉ cần chàng có thể tới đây, cho dù chàng nói gì nàng cũng tin. Nhưng người yêu trước luôn là người hèn mọn. Từ nay về sau, con đường này, nàng phải tự đi một mình rồi.

Nàng rất mệt, cũng không muốn có chàng nữa.

02.

Làm thần tiên, thực ra cũng rất không dễ dàng, tiên đồ dài dằng dặc lại rất cô đơn, để ngày tháng trôi qua không nhạt nhẽo vô vị, những thần tiên biết cách làm thần tiên phần lớn đều nuôi dưỡng một sở thích để gửi gắm tình cảm, ví dụ như Thái Thượng Lão Quân thích luyện linh đan, Nam Cực Tiên Ông thích chơi cờ, Bạch Thiển thượng thần thích đọc truyện, chính là vì đạo lý đó.

Đám tiểu tiên mới phi thăng còn chưa kịp nuôi dưỡng sở thích vì không có việc gì để làm, bàn tán tin đồn trong giới thần tiên tự nhiên trở thành việc quan trọng đầu tiên của họ sau khi trở thành thần tiên. Nhưng cho dù là người nghe tám chuyện hay là người tám chuyện, đều có một yêu cầu, nhân vật chính trong tin đồn phải là người mà đôi bên đều biết, câu chuyện bàn tán mới thú vị, nghe mới hứng thú. Vị tôn thần đầu tiên mà đám tiểu tiên sau khi bay lên trời biết tới đương nhiên là Đông Hoa Tứ Phủ Thiếu Dương Quân Đông Hoa Đế Quân của Nhất Thập Tam Thiên. Mà tình cờ là, tin đồn lớn nhất trong giới thần tiên của tứ hải bát hoang trong gần hai trăm năm trở lại đây chính là việc Đế Quân bị mất vợ.

Nghe đồn, người vợ này của Đế Quân mặc dù tuổi còn trẻ nhưng cũng là một nhân vật tầm cỡ, là cháu gái của thượng thần Bạch Thiển – thái tử phi trên Cửu Trùng Thiên, là cháu nội của Bạch Chỉ Đế Quân nước Thanh Khâu, hơn nữa bốn trăm năm trước đã kế thừa ngôi vị nữ vương của Đông Hoang ở Thanh Khâu. Trong lễ Tàng binh ở Thanh Khâu hai trăm năm trước, vị điện hạ này đã cất thanh kiếm Hợp Hư vào đỉnh núi Đường Đình, phong tư phá tan kiếm trận trăm người với dải lụa đỏ bịt mắt từng khiến chúng sinh khuynh đảo, trong bảng xếp hạng mỹ nhân của bát hoang, chỉ kém cô cô Bạch Thiển của nàng một bậc, nàng đứng thứ hai.

Đám tiểu tiên nghe lời đồn đại này, đều rất mong mỏi được nhìn thấy người vợ này của Đế Quân, lại càng hiếu kỳ vì sao Đế Quân lại bị mất vợ, nhưng ngấm ngầm bàn luận chuyện của Đế Quân thì còn được, không phải ai cũng gánh được tội bàn luận bừa bãi về tôn thần, chư vị đều không có gan tìm hiểu kỹ, chỉ loáng thoáng nghe nói rằng từ sau khi vị điện hạ đó mất tích, Thanh Khâu và cung Thái Thần ở Nhất Thập Tam Thiên có phần bất hòa. Mà Đế Quân mất vợ, hai trăm năm nay ngày đêm lật tung trời đất để tìm kiếm, còn nhà họ Bạch mất con gái, lại không hề có động tĩnh gì.

Thượng thần Bạch Thiển hòa nhã, dễ nói chuyện, khi Ti Mệnh Tinh Quân uống trà cùng Bạch Thiển đã từng hỏi thăm, thượng thần Bạch Thiển vuốt ve chiếc quạt làm ra vẻ nghi hoặc nói: “Mất tích? Chẳng qua chỉ là cô nương nhà họ Bạch chúng ta đến tuổi đều phải ra ngoài rèn luyện mà thôi, bản thượng thần chưa từng nghe thấy tin đồn này, tin này là do ai đồn đại vậy, đồn đại chẳng ra sao cả”.

Ti Mệnh Tinh Quân đắn đo một lát rồi cung kính hỏi lại: “Vậy điện hạ Phượng Cửu tới nơi nào rèn luyện, không biết thượng thần có thể chỉ giáo một chút không?”.

Thượng thần Bạch Thiển tươi cười xòe quạt: “Con cháu nhà họ Bạch đều được nuôi dưỡng kiểu tự do, nó muốn tới chỗ nào rèn luyện thì tới chỗ đó, trong nhà không quản lý việc này, ngươi xin bản thượng thần chỉ giáo, bản thượng thần thực ra cũng không biết rõ”.

Ti Mệnh Tinh Quân ngây người trong giây lát, mới nói: “Chỉ cần điện hạ bình an, tiểu tiên bèn yên lòng rồi”.

Phượng Cửu điện hạ, người mặc dù còn trẻ tuổi nhưng cũng là một nhân vật tầm cỡ trong lời đồn đại của bát hoang lúc này đang ngồi xổm trên ngọn núi nhỏ dưới phàm giới cầm dao gọt sơn dược.

Con trai của nàng Bạch Cổn Cổn mấy ngày gần đây ăn nhiều thịt quá nên có phần đầy bụng, lão tú tài mở y quán ở dưới núi mới kê một phương thuốc thực bổ[1] cho nàng, trên có viết lấy sơn dược nấu cháo gạo hoặc sơn tra xào đường đỏ cũng có thể chữa được bệnh đầy bụng cho trẻ nhỏ. Bạch Cổn Cổn không thích ăn đồ ngọt, Phượng Cửu xét rằng không cần làm món sơn tra xào đường đỏ, lát nữa lại xuống núi mua một ít muối, nấu thành món cháo mặn, Bạch Cổn Cổn thích ăn vị mặn.

[1] Bồi bổ bằng món ăn.

Về việc Phượng Cửu mất tích, thượng thần Bạch Thiển lại nói là đi rèn luyện, thực ra cũng không phải là lừa dối Ti Mệnh.

Còn nhớ thời đại hồng hoang, trong Học cung Thủy Chiều Trạch do Phụ thần mở cho các tộc Thần Ma Tiên Yêu cùng theo học, có một môn học đặc biệt quan trọng là tới phàm thể rèn luyện. Tam Thiên Đại Thiên Thế Giới tổng cộng có vài tỷ phàm thế, nếu ở mỗi phàm thế một năm cũng phải mất một tỷ năm. Nhưng may mà năm xưa Phụ thần còn có chút thần tính, chỉ chọn bừa mười vạn phàm thế để các cao đồ của ngài tới rèn luyện.

Tương truyền cao đồ có cơ duyên đi rèn luyện đó bao gồm: Đông Hoa Đế Quân – người sau này trở thành bá chủ của trời đất, thượng thần Mặc Uyên – chiến thần của Thiên tộc, nữ quân Thiển Quán – nữ thần thủy tổ của Ma tộc, thượng thần Chiết Nhan – con phượng hoàng đầu tiên của hồng hoang, còn có cả gia gia và nãi nãi của Phượng Cửu.

Có thể thấy những cao đồ đó sau khi tới phàm thế rèn luyện đều thành tài, hơn nữa còn thành đại tài.

Năm xưa khi Phượng Cửu kế thừa ngôi vị nữ vương Đông Hoang, phụ thân nàng Bạch Dịch thực ra đã có phần thiển cận làm liều, một lòng muốn tìm kiếm một chàng rể hiền để trợ giúp cho nàng, điểm này còn xa mới bắt kịp được tầm nhìn của gia gia nàng. Bạch Chỉ Đế Quân ban đầu thực ra đã sớm có dự định, đợi qua lễ Tàng binh sẽ đưa Phượng Cửu tới phàm thế rèn luyện, là nữ vương, dựa vào chàng rể có bản lĩnh thì còn ra thể thống gì, tự mình vẫn phải có chút bản lĩnh. Khi ngài nói dự định này của mình với cô cháu gái, không ngờ Phượng Cửu lại rất tán đồng khiến ngài vô cùng vui mừng.

Nhưng lại có một vài chuyện xảy ra sau lễ Tàng binh. Bạch Chỉ Đế Quân nhân đức, vốn dự định để cô cháu gái đang bị tổn thương tinh thần nghỉ ngơi thêm vài ba năm rồi mới gửi nàng tới phàm thế, không ngờ cô cháu gái chỉ nghỉ ngơi chưa đầy vài ba ngày đã tự chuẩn bị sẵn tay nải tới từ biệt. Thấy cháu gái nhỏ có chí tiến thủ như vậy, Bạch Chỉ Đế Quân đương nhiên đã đồng ý. Trước khi lên đường đã tặng cho nàng một chiếc phong bì và một tờ giấy viết thư, nói rằng tờ giấy và phong thư cùng bộ với chúng để ở chỗ cô cô nàng là thượng thần Bạch Thiển, một mình nàng ở bên ngoài, nếu có việc gì gấp cần thương lượng với gia đình, hãy lấy bút viết lên trang giấy này, cô cô của nàng tất sẽ đọc được trên tờ giấy viết thư mình cầm.

Trước khi tới phàm thế, Phượng Cửu còn tới minh giới, gặp Tạ Cô Châu, bạn nàng, lại lưu lại ở minh giới ba ngày, lấy quả tần bà tạo thân xác cho Diệp Thanh Đề, thuận lợi lấy hồn phách của chàng ta đặt vào trong tiên thể đó.

Về lý mà nói, ba tháng sau, Diệp Thanh Đề sẽ có thể sống lại, nàng lại không đợi được tới khi chàng ta sống lại, chỉ nhờ Tạ Cô Châu thay nàng chăm sóc cho chàng ta, đợi khi chàng ta tỉnh lại hãy dạy cho chàng ta một vài pháp môn tu hành để hóa giải yêu khí trong hồn phách, ba trăm năm sau, khi thời gian tu hành của chàng ta đã hết, sắp phi thăng thành tiên, nàng sẽ tới giúp chàng ta tới Dao Trì ở Cửu Thiên để gội rửa bụi trần, gia nhập vào tiên giới. Những người có thể phi thăng thành tiên nhờ kỳ duyên, lại phải tới Dao Trì để gột rửa bụi trần, lễ gột rửa bụi trần bắt buộc phải do người đã tạo tiên thể của người đó thực hiện, đây là quy định ghi trong tiên tịch.

Sắp xếp mọi chuyện ổn thỏa xong, nàng liền mang theo Bạch Cổn Cổn trong bụng tới phàm giới cắm lều dựng trại.

Trong phàm thế đầu tiên, Phượng Cửu sinh ra Bạch Cổn Cổn. Sau đó ba năm nàng lại thay đổi phàm thế một lần. Mặc dù ở phàm thế có pháp tắc nếu thực hiện pháp thuật sẽ dễ bị phản đòn, hạn chế nàng không thể động một chút là sử dụng pháp thuật được, nhưng may mà nàng vốn nhanh nhẹn, kiếm thuật lại cao siêu nên nàng sống ở phàm thế cũng rất ổn.

Trong hai trăm năm, nàng đã từng mở tửu lầu trong thành, mở hiệu sách trong trấn, mở tạp hóa trong chợ, bày hàng nước chốn hoang dã, lúc thì làm chủ, lúc lại làm người giúp việc, kiếm tiền son phấn của các cô gái lầu xanh bên cạnh Di Hồng Các, thu được tiền coi vận mệnh cho các bà các cô dưới miếu Thành Hoàng, luân chuyển hơn mười chỗ ở, thật sự giống như đang tu hành trong cõi hồng trần, tu mãi tu mãi, bèn tự cảm thấy đã nhìn thấu nhân tình thế thái.

Phượng Cửu sau khi đã nhìn thấu nhân tình thế thái, năm ngoái đã chuyển tới phàm thế này, không muốn tiếp tục lăn lộn trong chốn phù hoa nữa, dự định thay đổi khẩu vị bằng cách thử sống ẩn dật, vì thế nàng đã đưa con trai Bạch Cổn Cổn chạy tới khe núi này.

Khe núi nghèo này nhìn có vẻ nghèo, trên thực tế cũng rất nghèo, nhưng nó lại có một cái tên đầy bá khí, gọi là khe Tàng Long. Trong khe Tàng Long có thôn Tàng Long, thôn Tàng Long đương nhiên cũng rất nghèo, nhưng tốt ở chỗ đây là một thôn lớn có khoảng gần hai mươi hộ gia đình, nghèo thì nghèo, nhưng mỗi ngày hai mươi hộ mỗi hộ để dành một củ khoai lang, vẫn có thể nuôi được một ông thầy dạy chữ.

Thầy dạy chữ là một người tú tài đã thi bao nhiêu lần vẫn không đỗ, khi đã già rồi mới đốn ngộ ra rằng đời này mình không có số làm quan lão gia, năm sáu mươi tuổi về quê làm phu tử, coi như kiếm miếng cơm sống qua ngày. Lớp học rách nát của vị tiên sinh đó nằm ở rìa thôn, vừa hay đối diện với hai gian nhà cỏ được dựng lên trên triền núi của Phượng Cửu.

Ngày nào Bạch Cổn Cổn cũng ra khỏi nhà từ khi mặt trời mọc, đến khi mặt trời lặn mới về nhà, khoác theo chiếc túi vải nhỏ mà mẫu thân nó may cho, từ lều cỏ của nhà mình vượt qua nửa ngọn núi tới lều cỏ của phu tử để học chữ.

Bạch Cổn Cổn năm nay đã được một trăm chín mươi bảy tuổi, nhưng trông không khác gì những đứa trẻ người phàm hai, ba tuổi, vẫn còn bé như hạt đậu. Nếu nói có điểm gì khác biệt, chẳng qua chỉ là hạt đậu này mũm mĩm đáng yêu hơn một chút so với đám đậu nhỏ của người phàm, hơn nữa, nó có mái tóc trắng từ khi mới sinh ra, trông xuất chúng hơn đám đậu nhỏ của người phàm một chút. Nhưng sự xuất chúng về màu tóc lại không phải là việc gì tốt đẹp, do đó Bạch Cổn Cổn ngay từ nhỏ đã bắt đầu nhuộm tóc. Nó từng hỏi mẫu thân mình lý do tại sao, mẫu thân cười tít mắt nói với nó rằng, bởi vì bọn họ là thần tiên, nó là một tiểu tiên đồng, tất cả các tiểu tiên đồng đều có mái tóc trắng, lại mọc rất chậm. Bạch Cổn Cổn liền tin ngay, bởi vì nó chưa từng được gặp một vị thần tiên hay tiểu tiên đồng nào khác.

Nhưng sau đó Bạch Cổn Cổn phát hiện ra rằng, từ sau khi mẫu thân nó nói bọn họ là thần tiên, có rất nhiều việc, mẫu thân nó đều thích đem chuyện này ra để viện cớ.

Ví dụ như trong nhà làm bảy chiếc bánh hạt dẻ, mẫu thân nó lấy hai chiếc đĩa để chia bánh, chia cho mình bốn chiếc, chỉ chia cho nó ba chiếc, khi nó nghiêm mặt nói với mẫu thân rằng mẫu thân của các bạn học ở trong lớp đều không tranh ăn bánh với con mình như vậy, mẫu thân nó liền xoa xoa mũi ừ hữ rồi nói với nó rằng, bởi vì chúng ta là thần tiên, bọn họ là người phàm, trong việc này quy định của thần tiên và người phàm không giống nhau!

Lại ví dụ như mẫu thân nó khi ngủ hay đạp chăn, từ khi hiểu chuyện, hàng ngày cứ đến đêm nó lại trở dậy đắp chăn cho mẫu thân, nó luôn nghĩ rằng phận làm con đương nhiên nửa đêm phải dậy đắp chăn cho mẫu thân. Mãi cho tới một năm, khi nó trò chuyện với đám bạn nhỏ trong lớp, nó mới phát hiện ra rằng những nhà khác đều hoàn toàn trái ngược với nhà mình. Nó về nhà nghiêm túc bàn bạc với mẫu thân rằng sau này nhà mình cũng nên như vậy, mẫu thân nó vẫn xoa xoa mũi ừ hữ, trong giới thần tiên thực ra đều là con trai nửa đêm trở dậy đắp chăn cho mẫu thân, bọn họ là người phàm, bọn họ không hiểu giới thần tiên chúng ta!

À, còn một chuyện này nữa, chuyện này rất rất quan trọng. Bạch Cổn Cổn đã không còn nhớ rõ đó là vào khi nào, lần đầu tiên nó biết được rằng đám trẻ con ở phàm giới không chỉ có mẫu thân mà còn có phụ thân. Một đứa bạn thân của nó đã có lần hỏi rằng phụ thân của nó đâu, nó liền về nhà hỏi mẫu thân, mẫu thân nó lúc ấy đang phơi ngô trong sân, nghe hỏi vậy, một chùm bắp ngô đang cầm trên tay rơi thẳng xuống, đập ngay vào mu bàn chân. Mẫu thân nó cố gắng nén đau, miễn cưỡng mỉm cười: “Con là do một mình ta sinh ra, không có phụ thân”.

Nó nhấc đôi chân ngắn cũn lon ton chạy đến xoa chân cho mẫu thân, nghi hoặc nói: “Nhưng đám bạn cùng lớp con ai cũng đều có phụ thân cả”.


Giọng nói của mẫu thân nó nghe có phần xa xôi: “Bởi vì chúng ta là thần tiên mà, tiểu tiên đồng trong giới thần tiên có thể chỉ có mẫu thân, không có phụ thân”.

Bạch Cổn Cổn cảm thấy, sự việc có chút gì đó không ổn. Nhưng nó cũng không có cách nào để tìm sự thật, đành chỉ thầm nghi ngờ trong lòng. Nó thực lòng hy vọng người lớn trong giới thần tiên thực ra không tranh giành bánh ngọt với trẻ con, người lớn nửa đêm phải tỉnh dậy giúp trẻ con đắp chăn, hơn nữa các tiểu tiên đồng bắt buộc phải có phụ thân. Bởi vì như vậy, nó mới có thể có phụ thân. Nó từng nghĩ nếu nó cũng có phụ thân, phụ thân của nó sẽ như thế nào. Lấy song thân của đám bạn cùng học với nó ra so sánh, ngoài ngoại hình ra, tất cả các mặt khác đều là phụ thân mạnh hơn mẫu thân. Vì vậy nếu nó có phụ thân, tài nấu bếp của phụ thân nó nhất định phải cao hơn mẫu thân nó, kiếm thuật phải giỏi hơn mẫu thân nó, dậy đúng giờ, không bao giờ đạp chăn. Nhưng nó chỉ thầm suy nghĩ trong lòng, nó chưa bao giờ nói với mẫu thân suy tính nhỏ này.

Cuộc sống ẩn cư ở khe Tàng Long nhàn rỗi mà biếng nhác, nơi đây có chim đêm về tổ, có núi xanh biếc, có ánh trăng sáng, mặc dù không hoa mỹ như tiên cảnh ở bát hoang nhưng cũng có vẻ đẹp tĩnh mịch riêng, khi Phượng Cửu đang suy nghĩ xem có thể lưu lại khe núi này thêm mấy năm, bỗng nhiên cảm thấy ngực rất nóng.

Nàng liền lấy phong thư luôn mang theo bên mình mà gia gia đã tặng nàng ra, vừa mở phong thư, quả nhiên là Bạch Thiển lại viết thư cho nàng.

Trong hai trăm năm qua cô cô Bạch Thiển của nàng vẫn thường xuyên viết thư cho nàng, bức thư đầu tiên được gửi đến là tháng thứ hai sau khi nàng mới xuống phàm trần. Trong thư có nói bảy mươi ba ngày sau, Đông Hoa cuối cùng đã tới Thanh Khâu tìm nàng, chắc nghĩ rằng lúc đó nàng vẫn đang ở Thanh Khâu. Bạch Chỉ Đế Quân không thể ngăn cản được, đồng ý cho chàng vào trong cốc, nhưng đương nhiên không tìm thấy nàng.

Cô cô nói rằng sắc mặt của Đế Quân lúc đó rất khó coi, tuy nhiên Bạch Chỉ cũng không vừa, lạnh lùng nói với Đông Hoa: “Đế Quân tôn kính vô song, nhà họ Bạch vốn đã không với được tới hôn sự này, chỉ là do Cửu nha đầu bướng bỉnh, may mà lần này nó cuối cùng đã hiểu biết một chút, hiểu rằng nó không đủ tư cách để cùng chung phu quân với công chúa của Ma tộc, cam tâm tình nguyện rút lui, mong Đế Quân ban cho tờ giấy hưu thê (bỏ vợ)”.

Khuôn mặt của Đông Hoa mặc dù không còn chút sắc máu nhưng vẫn rất bình tĩnh: “Đây không phải là lời Tiểu Bạch nói ra”.

Vừa hay gặp thượng thần Chiết Nhan mang rượu hoa đào tới động hồ ly, thấy tình thế căng thẳng, bèn khách khí nói chen vào một câu: “Thôi, thôi, để ta nói một câu công bằng, Cửu nha đầu quả là không nói rút lui gì cả, tuy nhiên, nó đã hỏi ta một câu rằng tại sao Đế Quân ngài lại lừa dối nó hết lần này đến lần khác, có phải thấy nó ngốc nghếch dễ lừa, khi nào ngài muốn có nó thì muốn, không muốn nữa thì bỏ mặc nó không buồn để ý đến không, nó cảm thấy mệt mỏi, cũng không muốn có ngài nữa”.

Thượng thần Chiết Nhan xòe tay ra: “Tuy những câu này nghe có vẻ như những câu nói hờn dỗi của một đứa trẻ, nào ngờ ngày hôm sau nó quả nhiên đã thu dọn tay nải đi mất rồi, cho tới tận hôm nay, ngay cả ta cũng chưa gặp được nó”.

Khi Đế Quân nghe được những lời ấy, sắc mặt rất trống rỗng.

Khi nhận được bức thư ấy, Phượng Cửu đang nằm trên ghế phơi nắng.

Bảy mươi ba ngày, nàng im lặng trong giây lát, cầm bút hỏi cô cô xem gần đây có phải công chúa Cơ Hoành của Ma tộc đã khỏi bệnh, có phải gương Diệu Hoa của Đệ Thất Thiên trên Cửu Trùng Thiên hiện đang ở Xích chi Ma tộc hay không.

Hồi lâu, cô cô trả lời một chữ “Đúng”.

Nàng chăm chú nhìn chữ “Đúng” đó, ngây người ra hồi lâu, cảm thấy Đế Quân chàng quả thực rất chu đáo, chăm sóc cho Cơ Hoành thỏa đáng rồi mới tới tìm nàng, lẽ nào trước đây nàng đã bám chàng quá chặt nên mới khiến chàng tin chắc rằng nàng sẽ ở chỗ cũ để đợi chàng?

Sau khi ngồi ngây ra hồi lâu mới cảm thấy mình thật khó hiểu, đi thì cũng đã đi rồi, còn để ý tới những việc nhỏ nhặt đó làm gì nữa.

Từ đó về sau, nếu cô cô còn nhắc tới Đông Hoa trong thư, nàng đều không hồi âm.

May mà cô cô của nàng cũng không nhắc tới chàng nhiều. Sau đó chỉ có một lần, cô cô nói rằng Đông Hoa có thể đã biết nàng xuống phàm giới rồi.

Thượng thần Bạch Thiển tỏ ý rằng thực ra bản thân rất khâm phục thủ đoạn của Đế Quân, nói ngày hôm đó Đế Quân không tìm thấy nàng ở Thanh Khâu, đã lập tức quay trở về Cửu Trùng Thiên đến chỗ Thiên Quân cưỡng chế lấy đi hai bức văn điệp, lại kết hợp với ngọc phổ của cung Thái Thần, lệnh cho các vị tiên bá dưới trướng đưa tới Ma tộc và Quỷ tộc. Bảy vị quân vương của Ma tộc và Quỷ vương Ly Kính của Quỷ tộc nhận được tờ văn điệp đó, đã lập tức giúp tìm người trong địa bàn mỗi tộc, cũng không biết trong văn điệp rốt cuộc đã viết gì nữa.

Đế Quân làm vậy dường như hoàn toàn không hề để tâm đến việc khắp bát hoang biết việc chàng mất vợ, động tĩnh tìm nàng quả thực rất lớn, nhưng cũng quả thực có công hiệu, chỉ dùng một trăm tám mươi năm đã lật tung cả bát hoang lên.

Lật tung từng tấc đất của bát hoang lên cũng không tìm được thấy bóng dáng của nàng, Đế Quân đương nhiên sẽ nghĩ ra nàng ẩn mình ở đâu.

Trong thư thượng thần Bạch Thiển cười nói rằng dù Đế Quân đã biết nàng trốn xuống phàm giới, phàm giới có vài tỷ phàm thế, cho dù chỉ ngồi trước gương Diệu Hoa chăm chú quan sát hết phàm thế này tới phàm thế khác cũng chưa chắc đã có duyên tình cờ nhìn thấy được nơi nàng đang ở. Hơn nữa gương Diệu Hoa lúc này đã được chuyển tới Xích chi Ma tộc rồi, nghe nói vẫn chưa tìm được nơi thích hợp để lắp đặt. Gương Diệu Hoa gỡ xuống thì dễ nhưng lắp lên thì rất khó, cho dù đích thân Đông Hoa tới đó lắp, một thác nước rộng lớn hùng vĩ như vậy, muốn lắp đặt xong cũng phải mất mấy chục năm, tuy nhiên việc này là do chàng tự làm tự chịu.

Cuối thư thượng thần Bạch Thiển còn viết thêm một câu, gần đây cô cô vô tình gặp Đông Hoa một lần, thấy Đế Quân trông thiếu sức sống hơn trước kia, hơn nữa lại gầy đi một cách ghê gớm, sắc mặt giống như đang bị bệnh. Tuy nhiên, lại lập tức nói, gần đây khí hậu trên trời không tốt lắm, ngay cả cô cô cũng bị nhiễm chút phong hàn, có lẽ Đế Quân cũng bị phong hàn chăng.

Khi bức thư này tới tay Phượng Cửu, nàng đang đưa Bạch Cổn Cổn ngồi khoanh tròn trên một đỉnh núi khuất trong mây nghe tiếng sấm sét. Gió mạnh quất vào đá núi, giống như tiếng trống tế trời của người phàm, Bạch Cổn Cổn nghe một cách đầy kích động, dù mái tóc bị gió thổi rối tung nhưng khuôn mặt nhỏ đầy nghiêm nghị, lồng ngực nhỏ còn phập phồng phập phồng.

Phượng Cửu hoa mắt chóng mặt đọc hết phong thư này giữa cơn cuồng phong, so với trăm năm trước đây nàng suy nghĩ mọi việc đã có phần ung dung hơn rồi, mặc dù thấy Đông Hoa tìm nàng như vậy có chút kỳ lạ, nàng cũng không phải là đau lòng bỏ đi, như vậy có vẻ giống như nàng đang trốn tránh chàng, nàng lại không làm sai điều gì, chẳng việc gì phải trốn tránh. Năm xưa, khi nàng ra đi, cũng không hề cố tình giấu giếm nơi đến, chỉ là người nhà họ Bạch thấy chướng mắt, tìm cách gây khó khăn cho Đông Hoa mà thôi. Có điều nghĩ lại nàng và Đông Hoa quả thực cũng không còn gì để nói nữa, không gặp lại cũng có cái hay của không gặp lại.

Nàng liền hít một hơi thật dài trong cơn gió lớn, kết quả là lại khiến bản thân bị sặc.

Nàng không biết rằng, trong phong thư này, Bạch Thiển thực ra đã có điều giấu nàng.

Thượng thần Bạch Thiển quả thực đã gặp Đông Hoa Đế Quân, nhưng không phải là vô tình gặp, mà là do Đế Quân đích thân gửi thiệp mời nàng tới Dao Trì ngồi ngắm hoa sen mới nở trong ao. Về lý mà nói, mặc dù thượng thần Bạch Thiển là thượng thần tôn quý, nhưng so với Đế Quân thì vẫn là bậc tiểu bối, trưởng bối cho gọi tiểu bối tới cùng thưởng hoa, chỉ cần sai một người tới thông báo một tiếng là được, Đế Quân lại đích thân viết thiệp mời cho nàng, nét chữ trên tấm thiệp uốn lượn như móc bạc, rất có cốt cách.

Hương trà ngào ngạt trong tiểu đình bên cạnh Dao Trì, hai người ngồi yên lặng, trong hương trà ngào ngạt, Đế Quân hỏi thẳng: “Tiểu Bạch đã xuống phàm giới đúng không?”.

Bạch Thiển sững người lại, khách khí cười nói: “Ti Mệnh vì có chút tình bằng hữu với nha đầu Phượng Cửu, lúc đầu cũng tới hỏi ta, nhà họ Bạch chúng ta luôn không quá quan tâm tới việc tu hành của con cháu, chỉ biết rằng nó hiện giờ đang rèn luyện ở bên ngoài, rốt cuộc là đang rèn luyện ở đâu, lại quả thực không biết”.

Đế Quân nhìn thẳng vào nàng, ngữ điệu lạnh lùng: “Ngươi biết”.

Nụ cười trên khuôn mặt của thượng thần Bạch Thiển nhạt đi, nói: “Đế Quân có muốn nghe một câu chuyện không?”. Không đợi ngài trả lời đã nói luôi: “Nha đầu Phượng Cửu giỏi nấu ăn, bất cứ món ăn nào dưới gầm trời này nó đều biết làm, nhưng duy chỉ có một món nó không nấu, đó là Kỳ Lân Châu, Đế Quân có biết vì sao không?”.

Nàng tự rót cho mình một ly trà, nói: “Không phải là nó ghét khẩu vị của món Kỳ Lân Châu hoặc cơ thể bị dị ứng với món ăn này, chỉ là bởi vì loài Kỳ Lân Châu chỉ mọc ở Tây Phương Phạn giới, không thể sống ở vùng thổ nhưỡng khác. Hồi nhỏ nó vì thích ăn Kỳ Lân Châu, đã tốn rất nhiều công sức trông một cây Kỳ Lân Châu ở Thanh Khâu, đã tốn mất ba trăm năm, còn vì việc đó mà bỏ bê việc học, bị phụ thân nó đánh đòn đau vài lần, quả thực đã dốc hết tâm sức nhưng Kỳ Lân Châu vẫn không thể sống ở Thanh Khâu. Nó bị giày vò đến nỗi mệt nhoài, đã dứt khoát hoàn toàn từ bỏ loài cây ấy, từ đó về sau không bao giờ nói tới việc làm món ăn liên quan tới Kỳ Lân Châu, ngay cả ăn cũng không ăn món đó nữa”.

Nàng nhìn Đông Hoa, ánh mắt đầy hàm ý: “Nha đầu đó khi đã tuyệt tình thì tuyệt tình hơn tất cả, một người lạnh lùng như ta khi so sánh với nó, lại vẫn là một người có trái tim nồng nhiệt một cách hiếm thấy, hơn nữa, điều kỳ diệu là ở chỗ nha đầu đó luôn cho rằng mình là một người đa cảm lại đa tình, chưa từng ý thức được việc mình là một người tuyệt tình, cũng giống như cho tới giờ nó vẫn chưa ý thức được việc nó không ăn lại món Kỳ Lân Châu nữa”.

Đế Quân bỗng ho một tiếng, tiếp sau đó là một tràng ho liên tiếp, cơn ho này kéo dài rất lâu mới dừng lại, chàng nói với Bạch Thiển bằng một chất giọng có chút khàn đục: “Ngươi so sánh rất đúng, bản quân giờ đây chính là một cây Kỳ Lân Châu bị nàng vứt bỏ”. Nói xong lại ho thêm một tràng rồi mới nói: “Cây trước vì không có được sự yêu mến của nàng, bị vứt bỏ rồi cũng không có gì để nói, còn cây này của bản quân, lại muốn tìm nàng để thử một lần nữa xem”.

Một nét kinh ngạc thoáng hiện lên trên khuôn mặt của Bạch Thiển, nàng nói: “Vậy, trong bàn cược mấy tỷ phàm thế này, xin mời Đế Quân đánh cược, xem ngài và Phượng Cửu có duyên phận với nhau hay không”.

Thần sắc vốn rất ảm đạm trong mắt Đế Quân lại càng trở nên ảm đạm hơn sau lời nói này của Bạch Thiển, hồi lâu mới nói: “Chúng ta vô duyên ngươi bảo ta đặt cược duyên phận, có thể ta vĩnh viễn sẽ không tìm thấy được nàng”.

Trong đôi mắt vốn cũng được coi là ôn hòa của Bạch Thiển dần dần nhuốm chút lạnh lùng, nàng đùa nghịch nắp ly trà trong tay chậm rãi nói: “Nếu Đế Quân đã cảm thấy vốn không có duyên phận với Phượng Cửu, hà tất phải đi tìm nó, nếu thành tâm muốn tìm nó, rồi cũng sẽ có cách thôi”.

Sau khi chuyện đó xảy ra không lâu, Đông Hoa quả nhiên đã tìm ra được một cách khác, chính là lúc Phượng Cửu đang suy nghĩ cho tương lai ở khe Tàng Long thì nhận được bức thư này của Bạch Thiển.

Bức thư này quả thực khiến Phượng Cửu kinh ngạc. Trong thư viết, ngày mùng năm tháng năm năm đó, khi Đế Quân ban phẩm cấp cho các thần tiên mới phi thăng, sẽ mở Dao Trì Cửu Thiên lần cuối cùng, cho phép các tiên giả vì kỳ duyên mà được phi thăng được tới làm lễ gột rửa bụi trần, sau đó Dao Trì sẽ phong kín mãi mãi, thiên đình sẽ không cho phép các tiên giả vì kỳ duyên mà tu thành tiên quả được liệt vào tiên tịch nữa.

Cuối thư, Bạch Thiển đã muôn phần cảm khái, nói rằng không biết Đông Hoa đã điều tra được chuyện của Diệp Thanh Đề từ khi nào, hành động này rõ ràng là muốn đem Diệp Thanh Đề ra để ép buộc nàng, ngài quả là đã tìm ra được một cách hay để tìm nàng. Lại nói năm xưa Phụ thần đã đánh giá cửu trụ tâm của Đông Hoa đã đạt tới cảnh giới chuyên trụ nhất thù chi lưỡng thụ (nhất tâm bất loạn), phán rằng chàng niệm vi thần nhất niệm vi ma, cách làm này của chàng quả thực thiếu lòng từ bi, không biết có phải là đã đánh mất cửu trụ tam, thẳng tiến tới ma đạo không nữa?

Phượng Cửu cầm bức thư này, ngón tay không kìm được run rẩy.

Đã nhiều năm rồi, nàng chưa từng như vậy.
 
Tham gia
6/7/19
Bài viết
101
Điểm cảm xúc
41
Điểm
28
01.

Diệp Thanh Đề chưa từng nghĩ rằng một ngày nào đó mình sẽ tu tiên, hơn nữa chỉ đợi hôm nay làm lễ tẩy rửa bụi trần ở Dao Trì rồi tới điện Thanh Vân ở Đại La Thiên bái kiến Đế Quân, chàng sẽ trở thành tiên.

Diệp Thanh Đề còn nhớ, khi mình còn làm người đã là hơn bốn trăm năm trước.

Chàng sinh ra trong nhà họ Diệp của triều Tấn, là con trai trưởng của phủ Vĩnh Ninh Hầu. Phủ Vĩnh Ninh Hầu có truyền thống võ thuật, mỗi đời Vĩnh Ninh Hầu đều tử trận ở chiến trường, phụ thân chàng cũng tử trận nơi sa trường vào năm ba mươi lăm tuổi, khi kế thừa tước vị, chàng mới mười bảy tuổi.

Lúc đó triều Tấn đã đến hồi suy vong, con cháu nhà thế gia phần lớn đều là hạng chơi bời, con cháu của Diệp thị lại là những phần tử xuất sắc trong số những kẻ hủ bại đó, còn Diệp Thanh Đề lại là người xuất sắc nhất. Về lý mà nói Diệp Thanh Đề ngoại hình tuấn tú, tính cách tốt, môn đệ lại cao, sẽ là lựa chọn hàng đầu khi kén rể của các gia tộc danh giá trong kinh thành, nhưng từ khi triều Tấn được thiết lập, phủ Vĩnh Ninh Hầu đã nổi tiếng nhiều quả phụ, các đại tộc thế gia thật lòng thương con gái đều không muốn gả đích nữ của mình cho nhà họ Diệp, do đó đời nào Vĩnh Ninh Hầu cũng gặp khó khăn trong việc hôn phối, đành phải đặt hy vọng vào việc hoàng đế ban hôn.

Khi Diệp Thanh Đề kế thừa tước vị, chính vào lúc biên giới xảy ra chiến sự liên miên, Diệp Tiểu Hầu sau khi kế thừa tước vị, còn chưa kịp đợi hoàng đế ban hôn để cưới vợ đã phải ra chiến trường trấn giữ biên quan, trấn giữ suốt năm năm, đã hoàn toàn quét sạch được tộc Thát Thát quấy nhiễu vùng biên.

Diệp Thanh Đề lập được kỳ công, hoàng đế đương nhiên rất vui mừng, sau khi chàng về kinh, không chỉ ban thưởng hậu hĩnh cho phủ Vĩnh Ninh Hầu, còn ban hôn cho chàng với đại tiểu thư của phủ Tề Quốc Công, lại ban cho chàng một mỹ nhân làm thiếp. Trong số các hoàng đế đời trước của vương triều này, cũng có người thích ban tặng mỹ nhân cho thần tử, nhưng vị hoàng đế đã sống hơn bốn mươi năm và tại vị được hơn hai mươi năm này lại chưa từng ban tặng mỹ nhân cho thần tử, chàng mặc dù là võ tướng, không có tâm tư lươn lẹo như các quan văn trên quan trường, nhưng cũng cảm thấy việc này có phần kỳ lạ.

Sau một cuộc ngấm ngầm điều tra mới biết được, mỹ nhân được ban tặng cho chàng lại là một quý nhân họ Trần ở trong cung của hoàng đế, quý nhân này vốn dĩ không được sủng ái, chỉ vì bốn năm trước trong ngày sinh của Vi Đà Hộ Pháp đã cứu được hoàng thượng bị ngã xuống nước do bất cẩn, do đó nàng đã lọt vào mắt xanh của hoàng thượng. Nghe nói Trần quý nhân khi chưa được sủng ái ngưỡng mộ hoàng thượng đến chết đi sống lại, nhưng không biết tại sao, khi hoàng thượng có tình cảm sâu đậm với nàng, lại tỏ vẻ rất lạnh nhạt, liên tục chọc giận ngài. Còn có một chuyện bí mật hơn, nói rằng Trần quý nhân dù tỏ vẻ lạnh lùng, hoàng thượng cũng vô cùng sủng ái, sủng ái nàng suốt bốn năm, nhưng trong bốn năm đó, Trần quý nhân lại chưa đêm nào để hoàng thượng được đến gần nàng.

Lúc đó, Diệp Thanh Đề đang ngồi trên tường uống rượu ngắm trăng, nghe mật thám nói đến chỗ này, bình rượu trong tay rơi xoảng xuống đất, sững người hồi lâu mới nói: “Đúng là một bậc kỳ nữ, nàng ấy như vậy hoàng thượng cũng nhẫn nhịn được, nàng ấy còn có thể phạm phải sai lầm lớn như thế nào nữa mà hoàng thượng lại ban nàng ấy làm thiếp của ta”.

Mật thám đắn đo giây lát mới nói: “Nàng ấy đã… viết thư tình cho quý phi nương nương”.

Nạp thiếp không như cưới vợ, từ dẫn cưới tới đón dâu, tuần tự tuân theo sáu bước, tới khi đón nàng dâu mới vào cửa phải mất mấy tháng, muốn nạp thiếp về chẳng qua chỉ cần chọn một ngày rước vào bằng lối cửa sau là được. Diệp Thanh Đề từ nhỏ đã một lòng hướng về chiến trường, khó có cảm hứng gì với chuyện phong nguyệt, nhưng vị Trần quý nhân này lại khiến chàng có vài phần hiếu kỳ. Ngày Trần quý nhân vào cửa, mặc dù khi Diệp Thanh Đề rời thư phòng đã là lúc đêm khuya, chàng vẫn còn dự định tới Bích Vân viện gặp vị kỳ nữ này.

Vì không muốn bắt đám người hầu phải ra mở cửa viện, Diệp Hầu gia liền nhảy qua tường để vào Bích Vân viện, khi chân còn chưa chạm đất, đã nghe thấy một tiếng cười nhẹ như chuông bạc, đưa mắt nhìn về phía có tiếng cười, một đầm sen xanh biếc trải rộng trước mắt, trong đầm lá sen xanh ngút ngàn, cách đó vài trượng, có một nữ tử áo trắng, bước chân nhẹ tênh, đang đạp nước điểm sen đuổi bắt lũ đom đóm trong đầm.

Dưới ánh trăng bạc, nữ tử đó thi thoảng quay mặt lại, giữa hai đầu lông mày đen nhánh có một bông hoa, đôi mắt sáng như sao, nụ cười nở trên môi khiến khuôn mặt tuyệt sắc lại càng thêm phần kiều diễm. Đầu óc Diệp Hầu gia nổ tung một tiếng, hai câu văn đã đọc từ thời còn niên thiếu bỗng ùa về trong tim, “Phảng phất như mày che bóng nguyệt/ Phiêu diêu như gió bay làn tuyết”[1].

[1] Hai câu trích trong bài Lạc thần phủ của Tào Thực, bản dịch của Diệp Luyến Hoa trên trang thivien.net. Nguyên văn Hán Việt là: Phảng phất hề nhược khinh văn chi tế nguyệt/ Phiêu diêu hề nhược lưu phong chi hồi tuyết.

Khi chàng nhảy xuống đất từ trên bức tường, vừa hay nhảy xuống phía sau một gốc cây lê già, vô tình đã giẫm phải một cành cây khô dưới gốc cây, một tiếng gãy khô khốc vang lên trong đêm khuya lại rất chú ý. Quả nhiên trên khuôn mặt của nữ tử trong đầm sen xuất hiện vẻ kinh hoàng, một luồng ánh sáng trắng ấm áp bay thẳng về phía thủy đình trong đầm sen, sau luồng sáng trắng đó, không thấy bóng dáng của nữ tử đâu nữa.

Chàng vội vã chạy tới thủy đình, bên trong đình, một nữ tử áo xanh dụi dụi đôi mắt ngái ngủ đứng lên từ ghế đá, nữ tử áo xanh có khuôn mặt tròn trịa, dáng vẻ chỉ có thể coi là thanh tú, ngây người nhìn chàng hồi lâu, nói: “Diệp Hầu gia?”. Chàng lại chú ý tới bông hoa giữa trán của nữ tử. Không, đó không phải là bông hoa trang điểm, nhìn giống một vết chàm trên da hơn, một đóa hoa rực rỡ, tựa như lông phượng trải rộng, giống hệt với bông hoa trên trán nữ tử áo trắng ban nãy.

Chàng đã nhiều năm trấn giữ ở vùng biên cương, chẳng có chuyện kỳ lạ nào chưa từng gặp phải, nhìn nàng giả bộ không hay biết gì một cách đáng yêu lại thấy buồn cười, nheo mắt hỏi thẳng: “Ngươi là yêu tinh?”.

Chàng thực ra vốn nghĩ rằng nàng sẽ phủ nhận, giống như năm chàng hai mươi tuổi, đã gặp một con rắn tinh kết hôn với một người thợ săn ở một thôn nhỏ vùng biên giới, dù đã lộ cả đuôi ra ngoài vẫn ấm ức biện giải cho mình. Nhưng nàng lại chỉ sững người lại trong giây lát, nhăn nhó mặt mày hỏi chàng: “Ta như thế này, trông lại giống yêu tinh sao?”. Không đợi chàng trả lời lại thở dài một tiếng: “Giờ đây càng ngày càng không ra thể thống gì nữa rồi, trước đây chỉ vì bông hoa ở giữa trán bị phán là một đóa yêu hoa, giờ đây ngay cả chân thân cũng bị người ta tưởng là yêu tinh rồi”. Than thở xong lại dồn hỏi chàng: “Ta quả thật giống yêu tinh sao? Ta có chỗ nào giống yêu tinh? Ngươi đã gặp yêu tinh nào xinh đẹp như ta chưa?”.

Chính bởi vì nàng xinh đẹp không giống người phàm nên chàng mới chắc chắn rằng nàng là yêu tinh, nàng lại hỏi chàng đã từng gặp yêu tinh nào xinh đẹp như nàng chưa, lòng chàng chợt nghĩ ra một giả thiết khác, mặc dù cảm thấy suy đoán này có phần viễn vông, nhưng vẫn hỏi nàng với một nụ cười ẩn trong ánh mặt: “Lẽ nào ngươi là thần tiên ở trên trời?”.

Nàng mím môi: “Có phải người phàm các ngươi đều nghĩ rằng chỉ ở trên trời mới có thần tiên không? Ta không phải là thần tiên ở trên trời, ta là thần tiên của nước Thanh Khâu, ngươi đã từng nghe tới Đông Hoang chưa? Ta là thần nữ Phượng Cửu của Đông Hoang”.

Khi nàng nói những lời này, trong đôi mắt trong veo hấp háy chút bông đùa, mặc dù mang khuôn mặt tròn trịa của Trần quý nhân nhưng lại khiến người ta quên đi khuôn mặt đó mà chỉ nhìn thấy đôi mắt trong veo của nàng.

Trái tim trong lồng ngực chàng đập dồn dập.

Diệp Thanh Đề sống hai mươi ba năm, chưa từng biết tình là gì, lần đầu tiên nếm trải vị tình lại là khi đem lòng yêu một thần tiên. Vị thần tiên này thật xinh đẹp, tính cách sôi nổi hiền hòa, rất giỏi nấu ăn, thích múa thương đánh quyền, rất hợp với chàng, nghe nói lần xuống hạ giới này là để tạo tình kiếp cho hoàng thượng của bọn họ.

Nàng hỏi chàng: “Ngươi có hiểu thế nào là tạo kiếp nạn không? Thực ra ta không phải là người chuyên quản việc tạo kiếp nạn, nào ngờ lại xui xẻo như vậy, vốn xuống phàm giới để báo ân, kết quả lại gặp cô cô của ta tới thay đổi số mạng của con người, nhất thời bất cẩn đã bị cuốn vào trong đó”. Nàng trách móc hoàng đế với chàng: “Ti Mệnh nhất thiết bắt ta nước đến chân mới nhảy tới tạo tình kiếp cho ngài ấy. Ngươi có hiểu nỗi khó khăn vất vả của ta khi tạo kiếp nạn không, Ti Mệnh đưa cho ta một quyển truyện, ta đã dùng hết các cách mà các tiểu thư phụ bạc chà đạp tài tử trong đó dùng nhưng ngài ấy lại vẫn dành tình cảm sâu đậm cho ta”. Nàng rùng mình một cái: “Ta chẳng còn cách nào khác, đành phải đưa ra hạ sách, viết một bức thư tình cho quý phi của ngài ấy”. Nàng thở dài một tiếng: “Việc như vậy ta cũng đã làm rồi, ngươi thử nói xem lẽ nào không nên ban cho ta một dải lụa trắng hay một ly rượu độc sao, rốt cuộc ngài ấy nghĩ thế nào mà lại thưởng ta cho ngươi làm thiếp, làm ta lúc này đi cũng chẳng dám đi, còn sợ rằng nếu đi sẽ làm liên lụy đến ngươi nữa!”.

Nàng đã coi chàng là bằng hữu, thành thực trút bầu tâm sự với chàng, chàng cầm vò rượu trên tay, vừa uống từng ngụm vừa mỉm cười. Chàng không nhớ đã từng nghe câu nói thần tiên vốn vô tình ở đâu, làm thần tiên đã không có thất tình lại không có lục dục, chàng đem lòng yêu thần tiên, chắc chắn là không có kết quả gì. Đôi khi chàng hận rằng tại sao đêm hôm đó chàng lại rung động, lại hận rằng giây phút rung động đó sao lại có thể kéo dài suốt năm năm cắm sâu vào trong tâm can chàng, khiến chàng mốn loại trừ cũng không được. Chàng từng băn khoăn do dự, từng giằng xé, từng đi nghe quốc sư giảng đạo, cũng từng theo cao tăng ngồi thiền, nhưng cuối cùng vẫn muốn đến bên nàng, cho dù chỉ là nhìn ngắm nàng từ xa thôi cũng tốt. Nàng nói nàng tới đây để tạo tình kiếp cho hoàng đế, thực ra cũng chính là tới để tạo tình kiếp cho chàng.

Chàng thực ra không muốn mang lại cho nàng gánh nặng gì, vốn nghĩ tình cảm này chàng sẽ mang theo mình vào đất khi nhắm mắt xuôi tay, nhưng thật sự tới lúc sắp chết, chàng lại không thể khống chế được bản thân mình.

Từ sau khi Trần quý nhân làm tổn thương trái tim của hoàng đế, hoàng đế bắt đầu thích nghiên cứu Đạo pháp, vô cùng tin tưởng trọng dụng một vị đạo sĩ già, còn phong cho đạo sĩ đó là quốc sư, cho xây dựng một Hoàng gia đạo quán, cứ đến ngày mười lăm hàng tháng đều vào trong đạo quán cùng quốc sư ngồi luận đạo.

Cũng chính vào đêm hôm đó chàng mới biết đạo sĩ đó là một con yêu tinh độc ác, muốn chiếm đoạt hồn phách của hoàng đế để luyện đan, đã âm thầm mưu đồ suốt năm năm, dự định sẽ nhân đêm nay, một đêm thiên tượng chí âm hiếm thấy trong mười năm trở lại đây để cướp đoạt tính mệnh của hoàng đế, do đó khi hoàng đế vào đạo quán luận đạo như thường lệ hắn đương nhiên đã cầm cây yêu đạo Lam Vũ tấn công hoàng đế.

Chàng không ngờ rằng chiếc chuông bạc buộc ở cổ tay nàng quanh năm lại là một pháp khí có thể cảm nhận được hoàng đế gặp nguy hiểm, chàng cũng chưa từng nghĩ rằng thần tiên lại có thể có tình. Khi yêu đao Lam Vũ chém xuống người hoàng đế, sắc mặt của nàng trở nên trắng bệch một cách rõ ràng, khi lao tới đỡ lưỡi đao cho hoàng đế đã hét lên hai tiếng “Đông Hoa” một cách đau đớn xé lòng, hoàng đế không tên là Đông Hoa, đó là lần đầu tiên chàng nghe thấy cái tên này.

Nàng chắn ngay trước mặt hoàng đế một cách không hề do dự, còn chàng cũng không hề do dự chắn ngay trước mặt nàng.

Mũi đao Lam Vũ cắm sâu vào lồng ngực chàng, lưỡi đao lại bị chàng nắm chặt trong tay.

Chàng sợ mũi đao sẽ xuyên qua tim mình mà khiến người ở phía sau chàng là nàng bị thương.

Yêu đạo đã chết ngay dưới lưỡi kiếm của nàng, đám thị vệ bên ngoài đạo quán chậm chạp chạy tới vây tròn lại bảo vệ hoàng đế, còn chàng cuối cùng đã không thể gắng gượng được, gục ngã trong vòng tay nàng.

Khi nàng kể lể với chàng, chàng thường rất hay cười, khuôn mặt trắng bệch của chàng trước lúc ra đi cũng vẫn mang theo một nụ cười: “Bọn họ nói… thần tiên vô tình, ta đã… tin họ, thực ra… thần tiên cũng có thể có tình, đúng… không?”.

Chàng thấy nàng bật khóc, gật đầu, liền nảy sinh suy nghĩ viển vông: “Kiếp này… đã vô duyên, liệu có thể… hẹn ước với nàng… vào kiếp sau?”.

Nàng vẫn khóc, nước mắt rớt xuống khuôn mặt chàng, nhưng lại không cho chàng câu trở lời mà chàng mong muốn, nàng nghẹn ngào nói: “Thanh Đề, ta nợ ngươi một mạng, nhất định sẽ trả lại cho ngươi”.

“Thanh Đề, ta sẽ thủ tiết ba đời vì ngươi”.

“Thanh Đề, ngươi hãy yên nghỉ”.

Chàng yêu nàng sâu đậm, không tiếc tính mạng vì nàng. Nhưng trên thế gian vốn không có đạo lý từ bỏ một mạng sống sẽ đổi lại được một mối tình.

Chàng nghĩ, nàng rõ ràng đã nói rằng thần tiên có thể có tình, nhưng lại không muốn dành tình cảm đó cho chàng. Nàng đã khóc mà nói rằng sẽ trả lại cho chàng, mệnh có thể trả lại, tình cảm cũng có thể trả lại sao?

Hai trăm năm trước, khi chàng tỉnh dậy trong U Minh ty mới biết rằng thời gian đã trôi qua, thế sự đã khác nhiều, phàm giới cũng sớm đã thay đổi triều đại rồi. Bảy năm sau khi chàng qua đời, bộ tộc Biên Nhung Tây chinh, kinh thành bị chiếm đóng, triều Tấn diệt vong, thái tử dẫn theo tông thất đi về về phía Nam, xây dựng một triều đại mới, gọi là Nam Tấn, an phận một phương đã gần trăm năm.

Chàng vốn dĩ đã chết từ lâu rồi. Là nàng cho chàng một tiên thể, một nửa tu vi của nàng, một hồn phách vĩnh viễn không phải vào luân hồi, một tiên phẩm mà các bậc đế vương dưới phàm giới dù dốc hết tài sản đất nước cũng không thể có được. Nàng nói nàng sẽ trả lại cho chàng, nàng thực sự đã trả lại cho chàng.

Minh chủ Tạ Cô Châu cầm một bình rượu trên tay, lắc lắc: “Tình cảm của ngươi đối với Phượng Cửu, ta cũng đã được nghe nói qua một chút, nhưng đã tái sinh thành tiên, tình cảm trước đây giống như một giấc mộng, hãy quên đi thôi. Nàng ấy cho ngươi nhiều như vậy, cũng là vì muốn có thể trả hết tình cảm của ngươi đối với nàng. Ngươi đã từng cứu mạng nàng, Đông Hoa Đế Quân cũng đã từng cứu mạng nàng. Năm xưa để trả ơn cho Đế Quân, nàng đã cố gắng hết sức muốn dùng thân mình để báo đáp, còn với ngươi, lại liều mạng đi lấy trộm quả tần bà rồi độ cho ngươi một nửa tu vi của mình. Cách thức báo ân khác nhau như vậy, ngươi nói xem là vì sao?”.

Thấy chàng hồi lâu không trả lời, khẽ thở dài: “Không phải là vì Đế Quân là tôn thần còn ngươi lúc đó chỉ là người phàm, đó chẳng qua chỉ là vì một người là người nàng yêu, một người không phải là người nàng yêu mà thôi. Nàng và Đế Quân đã vương vấn với nhau suốt mấy nghìn năm, cũng đã nói không biết bao nhiêu lần từ bỏ rồi, nhưng chưa có lần nào thực sự từ bỏ được”. Lại rót rượu từ bình vào chén, cũng chẳng buồn để ý tới việc ban nãy mình lắc qua lắc lại chếc bình sẽ làm hỏng cả khẩu vị của rượu, uống từng ngụm cạn ly rượu, nói: “Nàng ái mộ Đế Quân, bao nhiêu năm như vậy đã trở thành bản năng. Ngươi quên được nàng đối với ngươi mới là tốt”.

Tạ Cô Châu chỉ chủ động nhắc tới chuyện đó một lần như vậy, sau này không lần nào nói với chàng về chuyện của Phượng Cửu và Đông Hoa nữa, chàng cũng không chủ động hỏi, chỉ thi thoảng nhớ tới câu nói giống như một tiếng thở dài đó của Tạ Cô Châu. Nàng ái mộ Đế Quân, bao nhiêu năm như vậy đã trở thành bản năng. Ngươi quên được nàng, đối với ngươi mới là tốt.

Hai trăm năm sau, khi chàng gặp lại Phượng Cửu bên bờ Dao Trì, cuối cùng đã hiểu được hàm ý trong câu nói của Tạ Cô Châu năm xưa.

Nàng còn xinh đẹp hơn hồi còn ở dưới phàm giới, khi chàng gặp nàng, sắc mặt thể hiện rõ vẻ kinh ngạc mừng rỡ, nàng cũng mỉm cười nhìn chàng, gọi chàng là Thanh Đề như năm xưa, nhưng trong nụ cười đã ẩn chứa chút xa cách.

Bên bờ Dao Trì, chỉ có nàng và chàng đứng nhìn nhau, mấy năm gần đây, những thần tiên vì kỳ duyên mà được phi thăng chỉ có một mình chàng.

Lễ tẩy trần rất đơn giản, khi nàng đọc lời chúc tụng lại có vẻ không chú tâm. Khi buổi lễ kết thúc, một tiểu tiên tử nâng váy tới mời nàng, chớp chớp mắt nói với nàng: “Đế Quân mời điện hạ tới Lưu Ly các bên cạnh điện Thanh Vân trước”.

Chàng nhận thấy tiểu tiên tử chỉ nhắc tới hai chữ Đế Quân đã khiến nàng thất thần trong giây lát.

Không phải là chàng chưa nghe nói chuyện những năm qua nàng luôn trốn tránh Đông Hoa, không phải là chưa từng nghĩ rằng Tạ Cô Châu có thể đã nhìn nhầm rồi, lần này nàng đã thật sự từ bỏ Đế Quân.

Nhưng, dù đã thật sự từ bỏ thì sao, khi nghe thấy tôn hiệu của ngài ấy, nàng vẫn thất thần. Nếu không phải là bản năng, thì là vẫn còn có tình cảm, nếu là bản năng, lại càng khiến người ta kinh ngạc.

Khi nàng định thần lại từ biệt chàng, nói sau này cùng là thần tiên, hãy quan tâm chăm sóc cho nhau.

Chàng nhìn nàng hồi lâu, chỉ đáp lại một câu “Được”.

Đưa mắt nhìn theo bóng dáng nàng từ từ xa dần, chàng cũng quay đi. Có thể duyên phận của họ vốn là như vậy, gặp gỡ dưới phàm giới, chia ly trên thiên đình, chàng nghĩ, thực ra như vậy cũng đủ rồi.

02.

Lưu Ly các là một lầu gác hai tầng, nằm ở Đại La Thiên Tam Thập Lục Thiên, ngay sát cạnh điện Thanh Vân. Đông Hoa Đế Quân mỗi năm chỉ thiết triều một lần, đó là vào mùng năm tháng năm, chư vị tiên giả được ngài định phẩm vị ở trong điện Thanh Vân.

Thông thường sau khi bái kiến Đế Quân, chúng tiên đôi khi sẽ tới Lưu Ly các chơi. Nhưng năm nay lại không hề có tiên giả lên Lưu Ly các, Phượng Cửu ngồi trên tầng hai uống trà, đoán rằng có thể là bởi vì có vị tiểu tiên nga hào sảng nào đứng trấn giữ dưới lầu.

Lời nói hành động của bị tiểu tiên nga này không quy phạm như được đúc ra từ một khuôn giống như các cung nga khác trên thượng giới, trên đường dẫn Phượng Cửu tới đây đã vô cùng hoạt bát vui vẻ, không xa lạ cũng không giữ lễ: “Điện hạ mặc dù không biết nô tỳ, nhưng nô tỳ đã nghe nói tới điện hạ từ lâu rồi, nô tỳ là một tiểu linh hồ trong Phạn Âm Cốc, hai trăm năm trước được Đế Quân cứu lên Cửu Trùng Thiên, nô tỳ nghe nói điện hạ cũng từng sống ở Phạn Âm Cốc, Phạn Âm Cốc của chúng ta rất đẹp, điện hạ nói xem có đúng không?”.

Trước đây Phượng Cửu thường chê các cung nga trên trời quá khuôn phép, tính cách của vị tiểu tiên nga này lại rất sôi nổi, rất hợp ý nàng, bèn nói đúng, rồi lại cười hỏi nàng ta về tình hình gần đây ở trên thiên đình.

Tiểu tiên nga thở dài: “Sau khi nô tỳ khỏe hẳn đã tới cung Nguyên Cực của tam điện hạ làm một thời gian, sau đó bên Ti Mệnh Tinh Quân cần người, nô tỳ lại tới làm ở phủ của Ti Mệnh Tinh Quân một thời gian, sau đó nữa vì lễ thành thân của điện hạ và Đế Quân có phần bận rộn, Trọng Lâm đại nhân liền cho gọi nô tỳ quay về. Nô tỳ làm việc ở ba chỗ này, xét về lý mà nói, tin tức phải nhanh nhạy nhất, nhưng tình hình gần đây lại chỉ có một, Ti Mệnh Tinh Quân thường nhắc tới điện hạ, Liên Tống quân thường nhắc tới điện hạ, Đế Quân ngài ấy…”.

Nói đến chỗ này lại cố ý úp mở, nhưng thấy Phượng Cửu không có ý hỏi tiếp, tiểu tiên nga cúi đầu có phần chán nản, nói: “Nô tỳ thường hầu hạ bên cạnh Trọng Lâm đại nhân, thực ra cũng không thường xuyên được gặp Đế Quân, nhưng nghe nói hai trăm năm nay Đế Quân không hay ở trong cung Thái Thần, phần lớn thời gian đều ở Bích Hải Thương Linh, Trọng Lâm đại nhân nói, đó mới là nhà của Đế Quân, có khoảng thời gian mà Đế Quân hoài niệm”.

Bước chân của Phượng Cửu khẽ dừng lại, nhưng cũng không dừng lại quá lâu, khi tiểu tiên nga vừa dứt lời, nàng đã đặt chân lên bậc thềm làm bằng kim thạch của Lưu Ly các.

Khi phía dưới lầu vang lên tiếng bước chân quen thuộc, Phượng Cửu đưa mắt nhìn những đóa hoa mạn đà la dập dờn lay động ngoài cửa sổ, lại cảm thấy trong lòng rất bình tĩnh. Nàng cầm trên tay một ly trà, nước trà màu xanh, khiến người ta dâng tràn thi hứng, nếu là một người giỏi viết văn làm thơ, lúc này nhất định sẽ ngâm nga được một câu thơ hay. Nhưng những câu thơ liên quan tới việc thưởng trà, Phượng Cửu chỉ nhớ được một câu, đó là câu đã vô tình nghe được từ chỗ Tô Mạch Diệp: Vừa tỉnh dậy sau giấc ngủ đêm xuân, cảm thấy sách vở thật vô vị, nhàn rỗi tựa lưng vào lan can uống ly trà đắng.

Phượng Cửu nhấp một ngụm trà, ly trà trong tay nàng lại không hề đắng.

Cố nhân trùng phùng, rất nhiều năm sau mới gặp lại, trong các vở kịch thường diễn như thế nào nhỉ? Đa số nên nói một câu “Đã nhiều năm không gặp, vẫn mạnh khỏe chứ” chăng.

Áo choàng tím lọt vào trong khóe mắt, đầu mũi ngửi thấy mùi hương thuốc, Phượng Cửu khẽ ngẩng đầu, đã hai trăm năm không gặp, quả đúng như lời cô cô nói trong thư, Đông Hoa gầy đi hơi nhiều, sắc mặt có phần trắng bệch của người mang bệnh, nhưng tinh thần xem ra vẫn tốt.

Chàng có phần không được khỏe, câu nói vẫn khỏe mạnh chứ lúc này xem ra không phù hợp. Phượng Cửu đưa tay lấy thêm một ly trà, hỏi chàng: “Uống trà không?”.

Đông Hoa bước tới bên nàng, ngồi xuống, nhất thời lại không có động tĩnh gì, trong mắt chàng chỉ có hình bóng của nàng, ánh nhìn chăm chú. Chàng đang nhìn nàng.

Phượng Cửu đẩy ly trà đã rót cho chàng, đắn đo hồi lâu, khẽ nói: “Thực ra chàng không cần phải tốn nhiều công sức để tìm kiếm ta như vậy, ta chẳng qua chỉ là ra khỏi nhà đi rèn luyện mà thôi, sớm muộn gì cũng sẽ có một ngày, chúng ta sẽ gặp nhau trên tiên giới, việc phong kín Dao Trì… quả thực không cần thiết”.

Ánh mắt của chàng tĩnh lặng, cất giọng nói nhẹ nhàng như nàng: “Nếu không làm như vậy, nàng liệu có xuất hiện không?”. Chàng khẽ thở dài: “Tiểu Bạch, ta chẳng qua chỉ muốn được gặp nàng một lần”.

Nàng yên lặng, những ngày tháng dưới phàm giới tự do tự tại, không bị ràng buộc, khi trở lại tiên giới, mặc dù không đến nỗi có quá nhiều phiền não, nhưng nàng luôn cảm thấy không thoải mái tự tại như dưới phàm giới, những năm gần đây nàng quả thực chưa từng nghĩ tới chuyện chủ động quay về. Nàng đùa nghịch nắp chén trong tay, nói: “Những năm qua ta ở dưới phàm giới, đã học được một câu nói của người phàm, đó là ‘ở bên nhau mà đau khổ chi bằng lãng quên nhau’, đây là một câu nói hay”. Nàng nghiêm túc nói: “Thực ra gặp hay không gặp cũng có gì quan trọng đâu, đã nhiều năm trôi qua rồi”, lại chậm rãi nói: “Chàng và nàng ta những năm qua vẫn tốt chứ?”.

Chàng nhíu mày nói: “Ai?”

Nàng liền mỉm cười, yên lặng, lại nâng ly trà lên nhấp một ngụm, đặt ly trà xuống bàn mới nói: “Trong thư gửi cho ta, cô cô có nói tới chuyện chàng đi tìm ta, nhưng lại không nhắc tới chuyện của chàng và nàng ta như thế nào, mặc dù ta chưa từng thích nàng ta, nhưng chàng đã chọn nàng ta, ta cũng chẳng có gì để nói, thời gian khó khăn nhất đã qua rồi, giờ đây ta sống rất tốt, cũng hy vọng chàng sống tốt”.

Chàng nhìn điệu bộ khách sáo xa lạ của nàng, ánh mắt lộ rõ vẻ mệt mỏi và bi thương: “Lúc đó ta không về kịp, đều là lỗi của ta”.

Nàng có phần ngạc nhiên, nghiêng đầu nhìn chàng.

Chàng nói: “Ta đưa Cơ Hoành trở về tộc của nàng ta, đã trọn nhân nghĩa với nàng ta rồi”.

Nàng lại càng kinh ngạc, suy nghĩ một lát, hỏi chàng: “Liệu có phải bởi vì ta ra đi mới khiến chàng cảm thấy so với nàng ta, ta lại trở nên quan trọng không? Không phải ta giận dỗi mà bỏ đi, chàng không cần…”.

Chàng lắc đầu: “Từ trước tới giờ không ai quan trọng hơn nàng cả”.

Nàng mơ hồ ngẩng đầu: “Gì cơ?”.

Chàng nắm lấy tay nàng, hồi lâu mới buông ra, nàng xòe bàn tay ra, trong lòng bàn tay là một chiếc nhẫn bằng lưu ly, mặt nhẫn là một đóa hoa phượng vũ nở rộ, giống như một đôi lông phượng sắp xòe ra.

Bàn tay phải của chàng dường như muốn vuốt ve má nàng, nhưng lại dừng lại bên tai nàng, chỉ giúp nàng vén lại tóc mai, chàng nhìn nàng, nhắc lại: “Từ trước tới giờ không có ai quan trọng hơn nàng cả, Tiểu Bạch”.

Nàng hơi sững người lại, cúi đầu nhìn chiếc nhẫn lưu ly đỏ thắm trong tay, hồi lâu mới nói: “Lúc đó, ta thật sự đã chờ đợi rất lâu”.

Nàng khẽ nói: “Chàng không về kịp buổi tiệc thành thân, ta lo rằng chàng gặp chuyện gì đó, vô cùng lo lắng. Sau đó gia gia nói chàng cùng…”. Nàng dừng lại, dường như không muốn nhắc tới cái tên đó: “Không phải ai nói thế nào ta đều tin thế đó, ta đã luôn chờ đợi chàng trở về giải thích với ta, chỉ cần là chàng nói, ta đều tin hết. Nếu lúc đó chàng có thể về kịp, nói với ta câu này, nói rằng từ trước tới giờ không có ai quan trọng hơn ta, có thể ta đã tin rồi. Nhưng giờ đây…”.

Chàng nhắm mắt lại: “Tiểu Bạch…”.

Nàng lại lắc đầu, mỉm cười, ngắt lời chàng: “Lúc đó ta ở Thanh Khâu đợi chàng, đôi khi ta đã nghĩ, chàng nói với ta nhiều điều như vậy, lời nào là thật lời nào là giả. Nhưng sau đó ta mới biết rằng, nghĩ tới những điều đó cũng có ý nghĩa gì, rốt cuộc, ngay cả ký ức trong đầu ta, cũng đều đã bị sửa đổi rồi”.

Nàng ngẩng đầu lên nhìn chàng: “Đế Quân, chúng ta hãy cứ như vậy đi. Hai trăm năm qua mỗi người chúng ta đều sống rất tốt, chàng nói xem có đúng không?”.

Chàng nhìn nàng, giọng khản đặc: “Ta sống không hề tốt”.

Bàn tay nàng khẽ run rẩy, nói một cách vô thức: “Chàng…”, lại nhớ ra điều gì đó: “Gia gia của ta gây phiền phức cho chàng ư? Ta nghe nói người từng yêu cầu chàng phải viết cho ta một tờ giấy hưu thê, gia gia nóng tính lên liền thích nói lung tung, cho dù chúng ta chia xa, cũng không nên là chàng viết giấy hưu thê cho ta, vì danh tiếng của cả hai, tốt nhất vẫn nên tới trước mặt Nữ Oa nương nương để hòa…”.

Sắc mặt của chàng rất điềm tĩnh, ánh mắt lại lạnh như băng: “Ta sẽ không hòa ly với nàng, Tiểu Bạch, cho tới khi ta chết, nàng vẫn là thê tử của ta”.

Nàng ngập ngừng: “Hôm nay chàng…”.

Chàng day Thái Dương, tiếp lời của nàng, nói: “Hôm nay ta có phần đáng sợ, đúng không? Nàng đừng sợ”.

Ánh mặt trời chiếu trên Tam Thập Lục Thiên đã có phần mờ nhạt, chàng ngây người trong giây lát, nói: “Ở Bích Hải Thương Linh, mái đình mà nàng muốn có đã được dựng xong rồi, vườn rau cũng đã khai khẩn xong. Đám chim thiêng trong núi tiên, ta đã sai chúng cuối tháng nào cũng tới trước đài ngắm cảnh nhảy múa, bất cứ lúc nào nàng muốn về xem cũng được”.

Nàng sững sờ nói: “Tạm thời ta…”.

Chàng ngắt lời nàng: “Ta đã tạo một hồ nước suối nóng ngay bên cạnh đài ngắm cảnh cho nàng. Có rất nhiều quặng sắt đen dưới núi Diểu Cảnh bên dòng suối thiêng, đó là một nguyên liệu tốt để luyện thần binh. Ta đã xây một tàng kiếm thất dưới chân núi Diểu Cảnh cho nàng, trong đó có những thanh kiếm ta đã thu thập được trong hai trăm năm qua, chắc đều là những thanh kiếm mà nàng thích”.

Nhìn vẻ mặt đầy khó hiểu của nàng, giọng nói cuối cùng trở nên dịu dàng: “Sau này uống ít nước lạnh thôi, nửa đêm đừng đạp chăn nữa”.

Nàng sững người lại một lát, mơ hồ nói: “Tại sao chàng lại nói với ta những điều đó?”. Đôi lông mày thanh tú nhíu lại, biểu hiện trên khuôn mặt có chút nghi hoặc. Hôm nay nàng đối với chàng rất điềm tĩnh khách khí, giống như người xa lạ, giờ đây cuối cùng đã có chút dáng vẻ ngây ngô khoảng thời gian mà họ thân mật nhất. Chàng nắm lấy tay nàng, đưa lên miệng, môi chàng in trên mu bàn tay nàng. Phản ứng của nàng chậm chạp, lại quên rút tay về. Trong mắt chàng lóe lên ý cười, cuối cùng bị che lấp bởi sự mệt mỏi, hồi lâu, buông tay của nàng ta, nói: “Nàng hãy đi đi”.

Nàng nhìn chàng giống như chưa từng quen biết, có phần mơ màng hỏi chàng: “Đế Quân, làm vậy là… muốn hai chúng ta không còn nợ nần gì nhau ư?”. Nàng cúi đầu trong giây lát, khi ngẩng đầu lên, trên khuôn mặt là một nụ cười càng xa lạ hơn, nàng đặt chiếc nhẫn hình hoa phượng vũ vào trong tay chàng: “Những thứ chàng cho ta đó… ta đều không cần, cái này ta cũng không cần, thực ra chàng không cần phải cho ta những thứ này, chúng ta cũng coi như không còn nợ nần gì nhau rồi”.

Chàng nhìn nàng ra đi nhưng không hề ngăn cản, chỉ đến khi hình bóng của nàng đã biến mất khỏi thiên môn của Tam Thập Lục Thiên mới ho dữ dội, vết máu màu vàng rực nhuốm lên mặt nhẫn của chiếc nhẫn lưu ly, Trọng Lâm nghe thấy tiếng ho liền chạy lên, chàng có phần mệt mỏi, đặt chiếc nhẫn vào trong một chiếc khăn gấm đưa cho Trọng Lâm, nói: “Nàng vô cùng bướng bỉnh, lúc này không chịu nhận, đợi sau khi ta vũ hóa, cho dù thế nào cũng phải đưa cho nàng thứ này. Ta đi rồi, cần phải để lại cho nàng một vài thứ”.

Trọng Lâm cau mày đáp vâng, khi nhận chiếc khăn gấm, vị thần quan trẻ tuổi không kìm được nước mắt, cúi đầu xuống, chỉ có một giọt rớt xuống chiếc khăn gấm, giống như hoa văn hình hoa mai.

Đêm hôm đó, Phượng Cửu đã mất ngủ.

Lần trở về này, Phượng Cửu không ở Thanh Khâu mà mượn một thiên điện ở minh giới của Tạ Cô Châu ở tạm.

Năm xưa khi xuống phàm giới, vì biết rõ nếu để gia gia biết rằng nàng đã mang thai Bạch Cổn Cổn, nàng đừng mong bước chân ra khỏi cửa lớn của Thanh Khâu, vì vậy Phượng Cửu đã xin Chiết Nhan giúp nàng giấu kín chuyện này. Thượng thần Chiết Nhan cứ nghĩ rằng nàng xin ngài giấu kín là bởi vì không muốn sinh ra Bạch Cổn Cổn, do đó đã giấu kín một cách tận tâm tận lực, ngay cả tiểu thúc của nàng cũng không được biết, còn ngấm ngầm đưa cho nàng rất nhiều thuốc phá thai không gây hại, cũng không biết đã có mối hận thù gì sâu xa với Đế Quân nữa.

Lần này Phượng Cửu dắt theo Bạch Cổn Cổn trở về, nàng cảm thấy, giải thích như thế nào với các bậc trưởng bối là một vấn đề lớn. Vì còn chưa tìm được cách giải quyết cho vấn đề lớn này, nên nàng tạm thời chưa trở về Thanh Khâu, ở tạm một thời gian ở chỗ của Tạ Cô Châu.

U Minh ty quanh năm không có ánh nắng mặt trời, sản vật không phong phú như ở Thanh Khâu, chỉ cần ra cửa là có thể nhổ được mấy cây cỏ an thần, nếu không may bị mất ngủ, chỉ có thể giương mắt chờ tới khi tới sáng.

Ngày thứ hai khi ở U Minh ty, Phượng Cửu đi tìm Tạ Cô Châu với đôi mắt thâm đen như gấu trúc, Tạ Cô Châu suy nghĩ hồi lâu, đưa vào trong phòng nàng hai vò rượu, nói rằng rượu là vua của các loại thuốc, trước khi ngủ uống một chút rượu, rất có tác dụng an thần.

Đêm hôm đó, ban đầu Phượng Cửu uống một chén nhỏ, sau đổi thành bát lớn, nhưng càng uống càng tỉnh táo, cứ uống một mạch tới tận khi gà gáy sáng, không những không buồn ngủ, mà thậm chí còn không thấy say, hơn nữa lại còn rất hưng phấn.

Tạ Cô Châu nhìn bộ dạng của nàng trong giây lát, phán đoán rằng tâm tư nàng quá nặng nề, uống chút rượu nhẹ cho dễ ngủ e rằng không có tác dụng, bèn mang tới phòng nàng hai vò rượu mạnh, nói với nàng rằng nếu muốn ngủ một giấc thật say, hãy uống hết hai vò rượu này vào bụng, uống say mềm là được, còn về Bạch Cổn Cổn, chàng ta sẽ trông coi giúp nàng vài ngày.

Phượng Cửu đã thức suốt hai ngày hai đêm nên có phần mệt mỏi, cảm thấy ý kiến của Tạ Cô Châu mặc dù xem ra là một ý kiến tồi, nhưng chung quy lại vẫn là một ý kiến, buổi chiều hôm đó đã uống hết cả hai vò rượu mạnh vào bụng, say đến mức đầu óc mơ màng, gục đầu xuống liền ngủ thiếp đi, quả là ngủ được một giấc ngủ ngon.

Bốn ngày sau đó nàng mới tỉnh ngủ tỉnh rượu, Phượng Cửu vừa mở mắt ra, lại nhìn thấy Tạ Cô Châu dẫn theo Diệp Thanh Đề thần sắc nghiêm nghị ngồi bên giường của nàng, Tạ Cô Châu ngồi yên như nhập định, trong tay còn bế Bạch Cổn Cổn đang say ngủ.

Phượng Cửu giật mình trước cảnh tượng này, nhanh chóng tỉnh ngủ, may mà hôm đó nàng mặc nguyên quần áo để ngủ, nếu không lúc này, việc đầu tiên là phải đuổi ngay hai người đang ngồi trước giường kia ra ngoài.

Tạm thời không nhắc tới Tạ Cô Châu, Phượng Cửu nhìn Diệp Thanh Đề có chút nghi hoặc: “Đáng lý ra dù đại tiệc đón chào chư vị tiên giả mới lên trời đã kết thúc, ngươi cũng không nên ở đây mới phải, lẽ nào Đông Hoa Đế Quân không ban phẩm vị cho ngươi? Hay là chàng phong ngươi làm trợ thủ của Cô Châu?”.

Bạch Cổn Cổn khẽ cựa mình, dường như sắp giật mình tỉnh dậy bởi giọng nói của mẫu thân nó, Tạ Cô Châu vỗ vỗ vào lưng Bạch Cổn Cổn, hạ thấp giọng nói với Phượng Cửu: “Ngươi có biết Đế Quân phong cho Thanh Đề tiên chức gì không?”.

Phượng Cửu nhìn về phía Diệp Thanh Đề vẻ không hiểu.

Diệp Thanh Đề cười khổ nói với nàng: “Trong buổi thiết triều ngày mùng năm tháng năm, Đế Quân không ban phẩm vị cho ta. Ta nhờ nàng mà được phi thăng, thực ra không được ban phẩm vị cũng không sao cả. Nhưng ngày hôm trước, sau khi buổi yến tiệc kết thúc, Đế Quân đã cho gọi riêng ta vào trong cung Thái Thần”, chàng dừng lại một lát: “Ban cho ta – một người mới trở thành thần tiên, chưa có kinh nghiệm gì làm Đế Quân kế nhiệm của cung Thái Thần, nói đợi sau khi ngài ấy ra đi, Trọng Lâm tiên giả sẽ trợ giúp ta cai quản danh tịch của tiên giả bát hoang”. Đế Quân còn lệnh cho chàng một ngày còn là thần tiên sẽ không được gặp lại Phượng Cửu, đoạn này chàng đã giấu đi, không nhắc tới.

Phượng Cửu sững người lại, vội hỏi chàng: “Ngươi nói cái gì?”.

Phượng Cửu lúc này có phần giống như đêm đó của bốn trăm năm về trước, vẻ sợ hãi lúng túng hiếm thấy trên khuôn mặt nàng khiến Diệp Thanh Đề hơi thất thần.

Đêm hôm đó, khi Phượng Cửu thất thanh gọi hai tiếng Đông Hoa, Diệp Thanh Đề đã luôn muốn biết Đông Hoa rốt cuộc là ai, sau khi tỉnh lại ở U Minh ty, nghe Tạ Cô Châu nhắc tới vài lần, lại càng cảm thấy hiếu kỳ. Sau đó chàng hiểu biết hơn một chút về chuyện trong tiên giới, mới biết đó chính là một tôn thần từ thời thượng cổ, là thiên thần chí tôn của Cửu Trùng Thiên. Có một lần Tạ Cô Châu còn hờ hững than rằng lúc đầu là do Phượng Cửu theo đuổi Đông Hoa Đế Quân trước, chuyện này những vị thần tiên bình thường đến nghĩ còn không dám nghĩ, nhưng Phượng Cửu nàng không chỉ đã nghĩ mà còn đã làm, sau đó lại đã thành công, thực ra khiến ngài ấy vô cùng khâm phục. Diệp Thanh Đề liền rất muốn được gặp vị Đông Hoa Đế Quân này.

Buổi triều hội ban phẩm cấp ở điện Thanh Vân quả thực là một thời cơ tốt, nhưng Diệp Thanh Đề đứng ở hàng dưới, không nhìn được rõ, chỉ loáng thoáng thấy đó là một vị thần tiên áo tím tóc trắng đầy uy nghiêm. Trong buổi triều, Đế Quân không nói nhiều, giọng cũng không cao, lại luôn đầy vẻ lạnh lùng. Trong buổi triều, vị tôn thần này không nhắc tới chàng một câu, Diệp Thanh Đề vốn cứ nghĩ rằng vì chuyện giữa chàng và Phượng Cửu nên ngài ấy cố ý lạnh nhạt với chàng, nhưng không ngờ mấy ngày sau, chỉ riêng một mình chàng được gọi vào trong cung Thái Thần.

Đó là lần đầu tiên Diệp Thanh Đề nhìn rõ Đông Hoa Đế Quân, rõ ràng nghe nói đó là một vị thần từ thời thượng cổ đã mấy chục vạn năm tuổi nhưng dung mạo lại vô cùng xuất chúng, hơn nữa dáng vẻ trẻ trung không khác gì chàng, duy chỉ khí thế quả thực giống như đã lắng đọng qua mấy chục vạn năm mà thành. Đế Quân ngồi dựa người trên ghế ngọc, cúi đầu nhìn chàng, thần sắc vô cùng lạnh nhạt: “Trong số các thần tiên đợt này duy chỉ một mình ngươi còn chưa được ban phẩm vị, ngươi không phải là người tu tiên một cách chính thống, chắc không làm được việc gì tốt cả, vậy hãy là Đế Quân kế nhiệm của cung Thái Thần đi, trong số các công việc này, việc quản lý danh tịch của tiên giả còn đơn giản một chút”.

Khi cảm thấy tay áo của mình bị ai đó kéo giật, Diệp Thanh Đề mới bừng tỉnh khỏi hồi ức, thấy Phượng Cửu mặc dù kéo tay áo của chàng, nhưng lại đang hỏi Tạ Cô Châu, giọng run rẩy: “Ban nãy… Thanh Đề đã nói gì? Ta nghe không rõ”.

Thần sắc của Tạ Cô Châu có chút buồn bã thương xót, đáp: “Không phải là ngươi không nghe rõ, chỉ là ngươi không tin mà thôi”.

Ánh mắt của Phượng Cửu trong chốc lát trở nên trống rỗng, người hơi loạng choạng: “Ta tới cung Thái Thần tìm chàng”. Một luồng sáng trắng lướt qua, đã không thấy bóng nàng đâu nữa.

Vì phẩm vị mà Đế Quân ban cho Diệp Thanh Đề quả thực quá siêu phàm, hơn nữa sau khi đưa ra lời đề nghị này, Đế Quân đã lệnh cho tiên bá dưới quyền canh giữ chàng thật nghiêm ngặt, không cho chàng ra khỏi cung Thái Thần, chàng cảm thấy chuyện này quả thực có chút kỳ lạ, bèn nhân cơ hội sáng sớm hôm nay trong cung có phần hỗn loạn, bỏ chạy ra ngoài.

Những người mà chàng quen biết trong tiên giới không nhiều, đành tới U Minh ty bàn bạc với Tạ Cô Châu, nhưng Tạ Cô Châu sau khi nghe chàng nói xong, lại dẫn thẳng chàng tới trước giường của Phượng Cửu.

Trong suy nghĩ của chàng, Phượng Cửu sau khi nghe chuyện này có thể sẽ cảm thấy kinh ngạc, nhưng chàng không hiểu tại sao nàng lại có phản ứng khác thường như vậy.

Trên đường cùng Tạ Cô Châu cưỡi mây đuổi theo nàng tới Cửu Trùng Thiên, mới được nghe Tạ Cô Châu giải thích: “Trong tiên giới, phàm là các bậc tiên giả từ thượng tiên trở lên, nếu có phong quan phẩm, người kế nhiệm đều do vị tiên giả đó tự chỉ định, thông thường đều chỉ định những tiên giả có tiên duyên với mình nhất. Đế Quân chỉ định ngươi làm người kế nhiệm của cung Thái Thần, đương nhiên là bởi vì toàn bộ tiên trạch trên người ngươi vốn là tu vi của Phượng Cửu, không phải là ngài ấy có tiên duyên với ngươi nhất, mà là có tiên duyên với Phượng Cửu nhất”.

Gió thổi vù vù bên tai, Tạ Cô Châu nói tiếp: “Việc chỉ định người kế vị này, thông thường thời khắc cuối cùng mới chỉ định, hay nói một cách khác, một vị tiên giả nếu chỉ định người kế nhiệm”, giọng nói của ngài có phần phiêu diêu: “Phần lớn chỉ có một lý do, đó là vị tiên giả đó sắp vũ hóa rồi”.

03.

Hồi nhỏ Phượng Cửu học hành dốt nát, những việc như đấu gà bắt cá, trèo tường leo cây đã làm không ít, vì thường xuyên đuổi bắt sói xám đệ đệ, việc tự ý xông vào nhà của người khác lại càng làm nhiều. Nhưng ngay cả bản thân nàng cũng chưa từng ngờ tới, có một ngày, nàng lại tự ý xông vào cung Thái Thần.

Tuy nhiên cung Thái Thần lại không dễ xông vào, vừa mới trèo tường vào bên trong đã có ngay mấy vị tiên bá không biết từ đâu xuất hiện, thấy người đột nhập vào cung là nàng, lại sững người lại, cung kính lễ phép mời nàng vào điện Ngọc Hợp dùng để tiếp khách, sai tiên quan đi thông báo, lại sai tiên nga mang hoa quả tươi và trà ngon tới bày trước mặt nàng. Trong cung, mọi việc xem ra vẫn rất quy củ, trái tim đập như trống dồn suốt dọc đường của Phượng Cửu hơi an định, chỉ có đôi tay vẫn không kìm được run rẩy, đầu óc mơ mơ màng màng.

Nàng đợi nửa tuần trà, nghe thấy tiếng bước chân vang lên ngoài cửa điện, vội vã đứng dậy, người bước vào lại là Tạ Cô Châu và Diệp Thanh Đề, hai người bọn họ đường hoàng đi vào bằng cửa chính, được tiên đồng coi cửa lần lượt thông báo mời vào, lại được các tiên nga dâng trà.

Ba người yên lặng ngồi chờ đợi, lại thêm nửa tuần trà nữa, Phượng Cửu càng chờ đợi trái tim càng thêm trĩu nặng, cho tới khi định đứng lên xông thẳng tới tẩm điện của Đông Hoa, lại thấy phía cửa điện cuối cùng cũng có một vạt áo trắng lướt qua.

Vị tiên quan cai quản trong cung là Trọng Lâm tiên giả từ tốn bước vào, đưa mắt lướt nhìn qua hai người Tạ, Diệp, hơi nhíu mày, trong giọng điệu lại có chút châm biến, nói với Phượng Cửu: “Điện hạ là người luôn có tấm lòng nhân từ, giờ nay xông vào trong cung Thái Thần, có phải bởi vì mấy ngày trước cung Thái Thần giam lỏng Thanh Đề tiên giả, điện hạ tới để bênh vực cho Thanh Đề tiên giả, điện hạ tới để bênh vực cho Thanh Đề tiên giả ư?”.

Ánh mắt của Phượng Cửu dừng lại trên khuôn mặt của Trọng Lâm, chỉ nói: “Đông Hoa đâu?”.

Trọng Lâm tiên giả hôm nay lại hoàn toàn không cung kính nghiêm cẩn như thường ngày, đôi lông mày nhíu chặt hơn, nói: “Đế Quân mấy ngày gần đây không được khỏe, đang nghỉ ngơi trong tẩm điện”.

Đưa mắt nhìn về phía Diệp Thanh Đề, lại quay đầu lại, nói: “Đế Quân ngài quả là đã ra lệnh cho Thanh Đề tiên giả phải thề rằng một ngày còn là tiên thì không được gặp lại điện hạ, tiểu tiên đoán điện hạ lần này tới Cung Thái Thần tìm Đế Quân cũng là vì việc này đúng không. Nhưng theo tiểu tiên thấy, Thanh Đề tiên giả không hề coi trọng lời hứa này, hai vị đã không coi lời hứa này là thật, cũng xin điện hạ đừng trách tội Đế Quân. Thực ra, năm xưa khi Thanh Đề tiên giả qua đời với tư cách một phàm nhân, điện hạ trọng tình, tự xưng là quả phụ của Thanh Đề tiên giả, để tang cho Thanh Đề tiên giả hơn hai trăm năm, đám tiểu tiên đều thấy, đương nhiên, Đế Quân cũng thấy rõ. Cửu Thiên đều nói Đế Quân là bậc tiên tôn vô cùng chính trực, nhưng Đế Quân rốt cuộc như thế nào, điện hạ không thể không biết. Ra lệnh cho Thanh Đề tiên giả thề như vậy, chẳng qua là vì Đế Quân ngài…”.

Nói tới đó, trên Cửu Thiên bỗng nhiên có tiếng sấm rền, Trọng Lâm đột nhiên im bặt, lao ra cửa điện, sắc mặt liền trở nên trắng bệch. Tiếng sấm nổ vang trời, hết đợt này tới đợt khác, giống như chiếc búa lớn giáng xuống, muốn đập vỡ cả Cửu Thiên, sắc trời vốn chan hòa ánh nắng ấm áp bên ngoài điện bỗng chốc trở nên tối đen, trong tiếng sấm vang rền, những vì sao sáng lấp lánh trên bầu trời bỗng lần lượt nhanh chóng rớt xuống.

Diệp Thanh Đề nói: “Đây… là điềm gì?”.

Tạ Cô Châu nhíu mày không đáp.

Phượng Cửu bỗng nhiên nói: “Ta muốn gặp Đông Hoa, ngươi hãy đưa ta tới gặp chàng”.

Trên khuôn mặt của Trọng Lâm hiện lên vẻ đau buồn, nhưng vẫn miễn cưỡng giữ thần sắc điềm tĩnh: “Đế Quân quả thực đang cần tĩnh dưỡng, sự việc ban nãy, tiểu tiên cũng đã giải thích hết với điện hạ rồi, nếu điện hạ còn lời oán trách nào khác, có thể nói với tiểu tiên, tiểu tiên nhất định sẽ không bỏ sót một câu nào, bẩm báo lại hết với Đế Quân”. Nghiến răng lại, lại nói: “Điện hạ yên tâm, chỉ cần đó là mong muốn của điện hạ, tiểu tiên nghĩ, Đế Quân nhất định sẽ không chối từ, cho dù phải dùng cả tính mạng…”, nói tới đây, đôi mắt Trọng Lâm bỗng đỏ hoe, dường như cuối cùng cũng không thể gắng gượng được nữa: “Điện hạ còn muốn Đế Quân làm thế nào nữa? Tiểu tiên bạo gan hỏi một câu, điện hạ còn muốn Đế Quân làm thế nào nữa?”.

Nước mắt rơi xuống trên khuôn mặt của Phượng Cửu: “Trọng Lâm, ngươi hãy nói thật với ta, chàng rốt cuộc sao rồi?”.

Sau giây lát im lặng, Trọng Lâm tiên giả ngẩng đầu lên: “Tiểu tiên kể cho điện hạ nghe một câu chuyện nhé. Tuy nhiên, câu chuyện này rất dài, điện hạ muốn nghe từ đoạn nào?”, lại tự hỏi tự trả lời: “Không sao, bắt đầu kể từ khi Thanh chi Ma quân Yến Trì Ngộ đưa Đế Quân đi gặp Cơ Hoành của Ma tộc đi”.

Đêm trước tiệc thành thân của bọn họ, Yến Trì Ngộ đã vì Cơ Hoành mà tới tìm Đế Quân, quả thật là bởi Cơ Hoành đang gặp nguy hiểm tới tính mạng.

Năm trăn năm trước ở núi Bạch Thủy, vì cứu Mẫn Tô mà Cơ Hoành bị trúng độc Thu Thủy, năm xưa Đế Quân giúp bọn họ chạy trốn tới Phạn Âm Cốc, cũng là bởi vì Phạn Âm Cốc không bị khí đục hồng trần làm ô nhiễm, có thể khắc chế độc Thu Thủy trên người Cơ Hoành.

Vì phụ thân của Cơ Hoành từng làm quan dưới quyền của Đế Quân, trước khi chết đã gửi gắm nàng ta cho Đế Quân, Đế Quân khó tránh khỏi việc quan tâm chăm sóc đến nàng ta nhiều hơn, nhưng chẳng qua chỉ là vì ân nghĩa với phụ thân của nàng ta. Dù Đế Quân không có tình cảm với Cơ Hoành, sau khi biết được tâm tư của nàng ta lại càng đối xử lạnh lùng hơn, nhưng chấp niệm của Cơ Hoành đối với Đế Quân lại rất sâu sắc.

Sau khi tin Đế Quân mở tiệc thành thân với Phượng Cửu ở Bích Hải Thương Linh được lan truyền khắp bát hoang, Cơ Hoành vô cùng đau lòng, cầu xin Yến Trì Ngộ người ở bên cạnh chăm sóc cho nàng ta khi ấy đưa nàng ta ra khỏi Phạn Âm Cốc.

Sau khi ra khỏi cốc Cơ Hoành lén chạy tới núi Bạch Thủy, cam tâm tình nguyện trở thành món mồi ngon cho đám độc vật ở núi Bạch Thủy. Khi Yến Trì Ngộ tìm thấy nàng ta, nàng ta đã như một ngọn đèn sắp cạn hết dầu, cầu xin Yến Trì Ngộ đưa Đế Quân tới gặp nàng ta lần cuối cùng, hơn nữa còn nói rằng muốn chết vào ngày thành hôn của Đế Quân, để ngài suốt đời không thể quên được nàng ta. Nhưng nàng ta cũng sợ Đế Quân lạnh lùng, dù nàng có cận kề cái chết, Đế Quân cũng chưa chắc đã động lòng từ bi để đi theo Yến Trì Ngộ tới đó. Do vậy, nàng ta đã giao chiếc móng vuốt của phụ thân mình cho Yến Trì Ngộ, nói với Yến Trì Ngộ, nếu Đế Quân không chịu tới, hãy đưa chiếc móng vuốt này cho ngài xem.

Mạnh Hạo thần quân phụ thân của Cơ Hoành có tình nghĩa rất sâu đậm với Đế Quân, là một dũng tướng dưới trướng của Đế Quân, khi còn kề vai sát cánh trên chiến trường cùng Đế Quân trong thuở hồng hoang, từng vì bảo vệ Đế Quân mà mất đi một cánh tay trái. Mạnh Hạo thần quân là một con giao long, cánh tay trái đó là một chiếc móng vuốt. Đó là trận chiến với Ma tộc, Ma tộc có được chiếc móng vuốt của Mạnh Hạo, muốn dùng mười đạo sấm sét để hủy nó nhằm sỉ nhục Thần tộc bất tài. Đế Quân cầm kiếm Thương Hà, một mình xông vào Ma tộc cướp lại chiếc móng vuốt, phong vào trong một miếng lưu ly màu trắng, giao lại cho Mạnh Hạo, đồng thời trịnh trọng hứa rằng, miếng lưu ly này chính là tình cảm mà ngài còn nợ Mạnh Hạo, nếu miếng lưu ly còn ở trong tay của Mạnh Hạo ngày nào, ông ta có bất kỳ yêu cầu nào, Đế Quân dù chết cũng không từ nan. Đây là một lời thề lớn.

Lời hứa chân thành chỉ dành cho quân tử chân thành, Mạnh Hạo thần quân là một quân tử chân chính, mặc dù trong tay có miếng lưu ly suốt mấy chục vạn năm, nhưng chưa từng cầu xin Đế Quân một lời, chỉ tới trước khi chết mới xin Đế Quân chăm sóc cho con gái của mình là Cơ Hoành. Mạnh Hạo thần quân cũng là một vị anh hùng thực sự, nhưng vị anh hùng này tới cuối đời lại sa cơ, trước khi chết mới được nhận Cơ Hoành, hơn nữa trên người lại chẳng còn vật gì khác, chỉ có một miếng lưu ly, liền dùng nó làm di vật để lại cho Cơ Hoành. Nhưng không rõ Cơ Hoành biết được từ đâu rằng miếng lưu ly này mang một lời thề lớn của Đế Quân.

Trước ngưỡng cửa sinh tử, Cơ Hoành khóc lóc thổ lộ tình cảm với Đế Quân, nói rằng nếu đã không được ở bên cạnh ngài, sống trên thế gian này cũng đâu có ý nghĩa gì, lại nói Phượng Cửu nhất định không thể yêu Đế Quân bằng nàng ta, nàng ta cam tâm tình nguyện chết vì Đế Quân, trên trời dưới đất mấy ai có thể làm được điều đó, cầu xin Đế Quân rủ lòng thương, dù nàng ta chết đi, chỉ cần Đế Quân đồng ý với nàng ta, để lại một góc nhỏ trong trái tim cho nàng ta, nàng ta cũng mãn nguyện rồi.

Cơ Hoành giãi bày tình cảm như vậy trước khi chết, tự cảm thấy rằng dù là gỗ đá cũng phải động lòng, nào ngờ Đế Quân bình sinh lại ghét nhất là những người cứ bám riết không chịu buông tha, lấy cái chết để uy hiếp, nàng ta làm như vậy lại càng khiến người ta ghét bỏ, do vậy, trước tình cảm chân thành lồ lộ của Cơ Hoành, Đế Quân chỉ nhíu mày yên lặng. Cơ Hoành cuối cùng đã suy sụp, nói rằng ngay cả một mong muốn nhỏ bé của nàng ta mà Đế Quân cũng không chịu chấp nhận, nàng ta đã bỏ cả tính mạng vì Đế Quân, nhưng Đế Quân lại phụ nàng ta như vậy. Phụ thân của nàng ta trước khi chết đã giao lại miếng lưu ly cho nàng ta, trên miếng lưu ly đó có lời thề của Đế Quân, hôm nay nàng ta muốn Đế Quân trả lại món nợ ân tình với phụ thân nàng ta cho nàng ta, thực hiện một lời hứa với nàng ta.

Cơ Hoành muốn Đế Quân hưu thê, hơn nữa phải thề rằng sẽ để trống ngôi vị Đế Hậu, mãi mãi không thành thân.

Đông Hoa cuối cùng đã nói: “Phụ thân của ngươi chắc chắn không ngờ rằng ngươi lại dùng miếng lưu ly bản quân tặng ông ấy để làm việc này”.

Nhìn khuôn mặt giàn giụa nước mắt của nàng ta, lại nói: “Trên miếng lưu ly mặc dù có lời thề lớn của bản quân, nhưng hứa điều gì lại do bản quân quyết định. Bản quân sẽ cứu mạng của ngươi, hóa giải chất độc trên người ngươi, rồi đưa ngươi quay về Xích chi Ma tộc sắp xếp cho ngươi được sống yên ổn, coi như bản quân đã trả hết ân tình năm xưa với phụ thân của ngươi. Ngươi trả lại miếng lưu ly cho bản quân, sau này ngươi sống hay chết không liên quan tới bản quân, bản quân không muốn nhìn thấy ngươi nữa”.

Cơ Hoành kinh ngạc hồi lâu, cuối cùng bật khóc nức nở.

Có hai cách để hóa giải độc thu thủy là hóa giải chậm và hóa giải nhanh, hóa giải chậm giống như cách hóa giải của năm trăm năm trước đây khi Cơ Hoành mới bị nhiễm độc Thu Thủy, dùng pháp thuật kết hợp với tiên đan giải độc hóa giải một phần chất độc trước, ổn định độc tính, sau đó đưa nàng ta tới Phạn Âm Cốc tĩnh dưỡng. Hóa giải nhanh là người giải độc sẽ độ hết chất độc trên người của nàng ta vào cơ thể của mình, rồi tự uống thuốc, uống linh đan, khổ tu để giải độc. Chất độc trên người Cơ Hoành lúc này chỉ có thể dùng cách thứ hai để hóa giải.

Vì không thể để chất độc trên người của Cơ Hoành quá lâu, giải độc cũng phải mất sáu, bảy ngày, lại đưa nàng ta về Xích chi Ma tộc cũng phải mất một ngày. Đế Quân đã tính toán kỹ lưỡng, vì phép Điệp Trụ không thể gấp được không gian của Bích Hải Thương Linh, liền cầm bút viết hai phong thư, lệnh cho Yến Trì Ngộ tới Bích Hải Thương Linh, một bức đưa cho Phượng Cửu, một bức đưa cho hai người chủ trì lễ thành thân là mẫu thân của Phượng Cửu và Trọng Lâm. Trong thư đã kể sơ qua đầu đuôi câu chuyện, bức thư gửi cho Trọng Lâm và mẫu thân của Phượng Cửu còn đưa ra một chủ ý chu toàn, nói rằng không cần báo với các vị tiên giả tới dự tiệc là trì hoãn tiệc thành thân, như vậy sẽ khiến bữa tiệc của họ thành trò đùa của trẻ con, cứ nói rằng quy định của Bích Hải Thương Linh là mời các vị tiên giả đến du ngoạn bảy, tám ngày, trong bảy, tám ngày đó bày biện yến tiệc trong cung điện bằng đá để các vị tiên giả có thiệp mời dự tiệc, sau đó lại mở tiệc ở lối vào của Bích Hải Thương Linh, ban tiệc cho các tiểu tiên không nhận được thiệp mời, đợi tám ngày sau, khi chàng trở về sẽ tổ chức yến tiệc linh đình.

Kế hoạch này, không thể nói là không tận tâm. Nhưng bức thư tận tâm đó, lại không thể được đưa tới Bích Hải Thương Linh kịp thời.

Trọng Lâm bỗng nhiên nói: “Nghe nói điện hạ đã biết việc Đế Quân sửa đổi ký ức của mình. Vậy thì, điện hạ có biết, tại sao Đế Quân phải sửa đổi ký ức của điện hạ không? Thứ lỗi cho tiểu tiên to gan dò đoán, khi biết việc Đế Quân sửa đổi ký ức của mình, điện hạ chắc chắn đã vô cùng tức giận, chắc đã nghĩ rằng Đế Quân thật quá lộng hành hoặc không tôn trọng điện hạ, cũng từng nghĩ rằng sẽ không bao giờ tha thứ cho Đế Quân, sẽ cắt đứt với Đế Quân, ai đi đường nấy? À không, điện hạ không chỉ suy nghĩ như vật, điện hạ đã làm như vậy rồi”. Thở dài một tiếng, nói: “Khi điện hạ còn là một con tiểu linh hồ ở cung Thái Thần, tiểu thần ở bên cạnh điện hạ, tiểu thần cũng coi như đã hiểu được năm phần tính cách của điện hạ. Nhưng, điện hạ đã từng nghĩ có thể Đế Quân có nỗi khổ riêng khó nói chưa?”.

Hồi lâu, ông ta mỉm cười đau khổ, nói: “Đế Quân đã từng hỏi thiên mệnh, thiên mệnh nói rằng Đế Quân và điện hạ, hai người thực ra không hề có duyên phận. Đế Quân biết, nếu không sửa đổi ký ức của điện hạ, e rằng sẽ không có khả năng tái hợp với điện hạ được nữa. Thiên mệnh đã phán định như vậy, Đế Quân chỉ là dùng cách của ngài để gìn giữ mối duyên này mà thôi, có thể ngài đã dùng không đúng cách, nhưng quả thực đã rất tận lực tận tâm, đúng không? Chỉ là, ai có thể tranh đấu được với thiên mệnh chứ?”.

Sắc mặt của Phượng Cửu trở nên trắng bệch, những giọt nước mắt mới lại phủ lên vệt nước mắt cũ, nàng cắn chặt môi.

Thiên mệnh nói hai người bọn họ duyên mỏng, quả nhiên là duyên mỏng.

Yến Trì Ngộ mang theo hai bức thư của Đông Hoa vội vã đi tới Bích Hải Thương Linh, không ngờ giữa đường lại gặp kẻ địch, sau một trận đấu ác liệt, Tiểu Yến cuối cùng đã bại trận, ngã vào trong núi Kim Ngã, được sơn thần của núi Kim Ngã mang về, hôn mê suốt mấy tháng trời.

Đông Hoa đưa Cơ Hoành về Xích chi Ma tộc, khi Trọng Lâm vâng lệnh của Phượng Cửu tới tìm chàng, mới biết rằng hai bức thư đó không được đưa tới nơi, vội vàng trở về Thanh Khâu, nhưng mới đặt chân tới biên giới của Xích chi Ma tộc, lại cảm thấy trời đất rung chuyển. Diệu Nghĩa Tuệ Minh Cảnh sau lần điều phục của ba trăm năm trước lại sắp sụp đổ rồi.

Chọn đúng vào lúc này để sụp đổ, quả đúng là thiên mệnh.

Trong điện chỉ có ánh sáng yếu ớt của vài viên minh châu, Trọng Lâm chậm rãi nói Diệu Nghĩa Tuệ Minh Cảnh là vật gì, lại nói: “Năm trăm năm trước Diệu Nghĩa Minh Tuệ Minh Cảnh đã từng có hiện tượng sụp đổ một lần, Đế Quân đã tốn một nửa tiên lực để điều phục nó, sau đó đã ngủ say suốt một trăm năm. Hồi đó, chẳng phải đã có tin đồn Đế Quân vì muốn nhìn thấu bát khổ của nhân sinh nên đã tự xin xuống hạ giới để lịch kiếp hay sao? Với tính cách của Đế Quân, sao có thể bỗng nhiên lại có suy nghĩ kỳ lạ muốn lĩnh ngộ nỗi khổ của người phàm gì chứ, cung Thái Thần tung ra tin đồn này, chẳng qua cũng vì muốn che giấu việc Đế Quân ngủ say mà thôi. Sau khi tỉnh dậy khỏi giấc ngủ kéo dài này, Đế Quân luôn chuẩn bị để hoàn toàn tịnh hóa Diệu Nghĩa Tuệ Minh Cảnh. Diệu Nghĩa Tuệ Minh Cảnh đã tích lũy khí đục tam độc suốt mấy chục vạn năm, dù là Đế Quân, cũng không thể tịnh hóa nó một cách dễ dàng được, cần phải tiêu tốn tiên lực suốt đời và ít nhất là một nửa tiên nguyên của ngài. Vốn dĩ một tôn thần như Đế Quân, chỉ cần lưu giữ được một chút tiên nguyên, ngủ say vài chục vạn năm, khi trời đất hoán đổi, vẫn có thể quay về tiên giới. Diệu Nghĩa Tuệ Minh Cảnh đã chọn đúng lúc này để sụp đổ, cách tốt nhất đối với Đế Quân là hoàn toàn tịnh hóa nó, chỉ để lại năm phần tiên nguyên, bước vào một giấc ngủ say suốt mấy chục vạn năm”.

Trong sự yên lặng đáng sợ, Trọng Lâm khẽ nói: “Nhưng Đế Quân lại sai thần đi gấp về Tam Thập Lục Thiên tới điện Thanh Vân lấy gương Liên Tâm. Gương Liên Tâm là thánh vật dùng để điều phục Diệu Nghĩa Tuệ Minh Cảnh, trước ngưỡng cửa tồn vong, quyết định của Đế Quân lại không phải là tịnh hóa Diệu Nghĩa Tuệ Minh Cảnh, mà là điều phục nó thêm một lần nữa. Điện hạ có biết, tại sao Đế Quân lại lựa chọn như vậy, Đế Quân lựa chọn con đường này, sẽ có hậu quả gì không?”.

Trong điện Ngọc Hợp vô cùng yên lặng, duy chỉ có tiếng than khẽ của Trọng Lâm: “Điều phục Diệu Nghĩa Tuệ Minh Cảnh cần tiêu tốn một nửa tiên lực của Đế Quân, vốn dĩ chỉ cần ngủ sâu một trăm năm là có thể hồi phục lại, nhưng Đế Quân lúc đó đã dẫn chất độc Thu Thủy trên người Cơ Hoành vào người mình, độc Thu Thủy sẽ lan tỏa trong tiên nguyên của thần tiên, tiên giả nào trúng độc Thu Thủy, nếu muốn tu lại tiên lực đã mất, thời gian phải tiêu tốn ít nhất cũng phải gấp năm lần bình thường, nhưng Diệu Nghĩa Tuệ Minh Cảnh được điều phục một lần, chẳng qua cũng chỉ có thể ổn định được hai, ba trăm năm, căn bản là không đủ thời gian để Đế Quân tu lại tiên lực đã mất, đợi đến khi Diệu Nghĩa Tuệ Minh Cảnh lại sụp đổ một lần nữa, ngài chỉ có thể dùng phần tiên lực còn lại và toàn bộ tiên nguyên để chống chọi, con đường đang chờ đợi Đế Quân…”. Trọng Lâm ngẩng đầu lên nhìn bầu trời, không thể nói nốt nửa câu sau, chuyển sang nói: “Không biết Đế Quân cao minh hơn tiểu thần bao nhiêu, sao có thể không biết hai con đường đó, đường nào là tốt, đường nào là xấu, lựa chọn con đường điều phục theo bản năng, chẳng qua là vì, chẳng qua là vì không thể chịu đựng được việc mấy chục vạn năm sau khi trời đất hoán đổi mới quay trở lại tiên giới, không được gặp điện hạ mà thôi, Đế Quân lo rằng nếu không có ngài bảo vệ, điện hạ sẽ không thể qua nổi kiếp số thăng lên làm thượng tiên thượng thần, căn bản sẽ không thể sống được tới lúc đó. So với việc đó, chỉ bằng ngài vũ hóa, còn có thể có vài trăm năm vui vẻ với điện hạ trước khi vũ hóa. Nhưng nào ngờ, nào ngờ…”, Trọng Lâm nghẹn ngào: “Nào ngờ điện hạ biến mất suốt hai trăm năm”.

Đôi môi đã bị cắn tới chảy máu, Phượng Cửu vẫn không hay biết.

Trọng Lâm lại liên tục công kích: “Điện hạ có biết, hai trăm năm qua, Đế Quân đã sống như thế nào không? Điện hạ chắc cuối cùng đã hiểu, tại sao Đế Quân lại thà dùng quyền hạn để mưu việc riêng, phong kín Dao Trì, cũng muốn ép điện hạ gặp mặt một lần rồi chứ, chẳng qua là vì, đó là lần gặp mặt cuối cùng trong đời. Nhưng bao nhiêu hiểu nhầm, giờ đây lại không được nói và cũng không thể nói, bởi vì Đế Quân sợ điện hạ dằn vặt. Đế Quân, ngài… ban đầu, ngay cả việc sau khi tịnh hóa Diệu Nghĩa Tuệ Minh Cảnh sẽ đưa điện hạ cùng chìm vào giấc ngủ cũng đã nghĩ tới rồi, giờ đây lại có thể nghĩ tới việc sau khi ngài vũ hóa, cuộc đời của điện hạ còn dài, không muốn để điện hạ phải suốt đời dằn vặt, điện hạ có biết, có biết làm như vậy khó khăn biết bao nhiêu không? Mà trong Lưu Ly các, khi Đế Quân nói với điện hạ rằng hai trăm năm qua ngài sống không được tốt, điện hạ người lại nói với ngài những gì?”.

Sao nàng lại có thể không nhớ nàng đã nói gì với chàng.

Những thứ mà chàng cho ta… ta đều không cần, thực ra chàng không cần phải cho ta những thứ này, chúng ta đã coi như đã không còn nợ nần gì nhau rồi.

Bàn tay vô thức đặt lên lồng ngực, nước mắt lại không thể rơi xuống được nữa.

Tạ Cô Châu nói: “Trọng Lâm đại nhân, đủ rồi”.

Trọng Lâm dường như đã mất hết cả sức lực, đờ đẫn rút từ trong tay áo ra một chiếc khăn gấm, đặt vào trong tay của Phượng Cửu, chiếc khăn được mở ra, là chiếc nhẫn lưu ly mà Đông Hoa tặng cho nàng, đóa hoa phượng vũ đỏ thắm trên mặt nhẫn lại mang thêm một vệt máu màu vàng rực, rực rỡ như ráng chiều.

Trọng Lâm hạ giọng nói: “Đế Quân vốn lệnh cho tiểu thần sau khi ngài vũ hóa mới đưa vật này cho điện hạ, nhưng”, ông ta cười khổ một tiếng, nói: “Những điều ngày hôm nay tiểu thần nói và làm, thực ra đều đã vi phạm mệnh lệnh của Đế Quân, cũng không để ý tới điều này nữa. Đế Quân nói lồng Thiên Cương mà trước đây ngài tặng cho điện hạ sẽ hóa thành tro bụi khi ngài vũ hóa, e rằng sẽ không thể bảo vệ cho điện hạ được nữa, nên đã để lại cho điện hạ chiếc nhẫn lưu ly này, Đế Quân đã lấy một nửa trái tim của mình để làm thành chiếc nhẫn này, dù ngài không còn nữa, nó cũng sẽ không biến mất, sẽ mãi mãi bảo vệ cho điện hạ”.

Một nửa trái tim. Hồi ức lại cuồn cuộn ập về như thủy triều. Nàng mang máng nhớ rằng đó là khi họ mới bị rơi vào trong giấc mộng của A Lan Nhược, khi trí nhớ của nàng còn đang rối loạn, chàng đã lừa nàng mà nói rằng nàng đã tha thứ cho tất cả những việc mà chàng làm sai trước đây, bởi vì chàng đã quỳ xuống trước mặt nàng. Nàng đã nói gì nhỉ?

“Đế Quân chàng chắc chắn không chỉ quỳ xuống trước mặt em đúng không? Mặc dù em không nhớ rõ lắm, nhưng chàng chắc còn làm những việc mất thể diện hơn nữa đúng không?”.

“Đừng vì em đã mất trí nhớ mà tùy tiện lừa em, chỉ quỳ một chút mà khiến em hồi tâm chuyển ý thì quả thực đã quá coi thường em rồi, em không tin”.

Chàng đã trả lời như thế nào?

“Nếu muốn nàng suy nghĩ thông suốt, phải làm như thế nào, Tiểu Bạch?”.

Nàng lại đã nói gì?

“Em nghe nói phẫu tâm vi chứng mới là cách chứng minh tình cảm của một người dành cho một người khác một cách tốt nhất… Bởi vì mở tim là sẽ chết, lấy cái chết để chứng minh cho tấm lòng của mình, tấm lòng này không thể không chân thành, mới không thể không tin tưởng”.

Cổ họng bỗng trào lên một vị ngòn ngọt tanh tanh, nàng cố gắng nuốt nó xuống, giọng nói đã lạc hẳn đi: “Chàng không thể vũ hóa như vậy, Trọng Lâm, ta vẫn còn rất nhiều điều muốn nói với chàng, ta phải gặp chàng, ta…”.

Thần sắc của Trọng Lâm vô cùng bi ai: “Không kịp nữa rồi. Lẽ nào điện hạ không nhìn thấy sao băng rớt xuống đầy bầu trời ư?”.

Các vì sao trên Cửu Thiên ngoài cửa điện quả nhiên đã rớt xuống quá nửa.

Nàng loạng choạng nửa bước, chưa kịp đợi Tạ Cô Châu đỡ đã tự mình đứng vững, đôi mắt đỏ hoe, rõ ràng nói một câu cũng rất tốn sức lực nhưng mỗi câu nói đều rất rõ ràng, gần như nghiến răng nghiến lợi: “Cái gì mà không kịp nữa, trời đất sụp đổ cũng chẳng liên quan gì tới ta? Chẳng phải ngươi đã nói lúc đầu chàng còn có kế hoạch đưa ta cùng ngủ mấy chục vạn năm với chàng sao? Giờ đây chàng muốn tìm tới cái chết, chẳng phải càng cần ta đi với chàng sao? Cái gì mà cuộc đời của ta còn dài, muốn ta sống tốt hơn, chàng còn lâu mới hy vọng ta sống tốt hơn, trong lòng chàng nhất định chỉ mong sao ta cùng chết với chàng”.

Nàng cuối cùng lại bật khóc, giống như một đứa trẻ dỗi hờn: “Nếu chàng không nghĩ như vậy, chàng không yên với ta đâu. Thiên mệnh nói chúng ta không có duyên ở bên nhau, nhưng chắc cũng có duyên cùng chết bên nhau chứ!”.

Tạ Cô Châu bước lại gần nói với Trọng Lâm trong tiếng khóc của Phượng Cửu: “Dù là tịnh hóa Diệu Nghĩa Tuệ Minh Cảnh, cũng cần phải có một nơi để tịnh hóa, Trọng Lâm đại nhân, Đế Quân lúc này rốt cuộc là đang ở đâu?”.

Trọng Lâm nhắm mắt nói: “Bích Hải Thương Linh có một Bích Hải, cũng có một Hoa Trạch, Bích Hải ở bên trong, Hoa Trạch ở bên ngoài. Đế Quân lúc này, chắc đang ở trong Hoa Trạch bên cạnh Bích Hải Thương Linh, lúc này nếu đi gấp, có thể sẽ được gặp mặt ngài lần cuối”.

04.

Thời gian mà Diệp Thanh Đề trở thành tiên còn ít ỏi, chiến trường của các vị thần tiên như thế nào, chàng thực ra không có khái niệm gì cả, do đó khi cùng với Phượng Cửu đi gấp tới Hoa Trạch phía ngoài Bích Hải Thương Linh, thấy cảnh tượng hiện ra trước mắt, Diệp Thanh Đề vô cùng chấn động.

Một tấm lá chắn trong suốt lóe ánh bạc đội đất ngoi lên ngay bên cạnh Hoa Trạch, không biết cao tới đâu, trên bầu trời tối đen như mực, các vì sao trên trời lần lượt rớt xuống như những bông hoa héo tàn, những ánh sao băng rơi xuống gắn vào tấm lá chắn bên cạnh Hoa Trạch, bỗng hòa vào tấm lá chắn thành một thể thống nhất, tấm lá chắn này dường như được kết thành bởi các vì sao. Còn ở bên trong tấm lá chắn, sóng biếc cuồn cuộn, từng đợt sóng dâng cao, trên đầu ngọn sóng, vị tôn thần áo tím đang cầm kiếm tranh đấu quyết liệt với nữ yêu dùng dải lãnh đỏ làm binh khí.

Yêu khí màu đen phía sau nữ yêu kết lại thành một con mãng xà ba đầu, giống như một con thú lớn có ý thức, liều mạng tìm cơ hội để tấn công vào tấm lá chắn bốn xung quanh, muốn phá vỡ tấm lá chắn đó để thoát ra ngoài. Luồng sáng bạc phía say lưng bị tôn thần áo tím khi hóa thành rồng khi hóa thành phượng rồi hóa thành kỳ lân thụy thú, quyết đấu sống mái với con mãng xà ba đầu kia.

Bên trong tấm lá chắn thảng hoặc vang lên tiếng gầm thét phẫn nộ của dị thú, tiếng gầm thét kinh thiên động địa, sóng nước bị khuấy tung tạo thành những cơn mưa lớn sầm sập đổ xuống, vẻ căm hận hiện lên trong ánh mắt của nữ yêu áo đỏ, sắc mặt của tôn thần áo tím trắng nhợt, biểu hiện trên khuôn mặt lại vô cùng điềm tĩnh, tốc độ của thanh kiếm Thương Hà chiêu sau nhanh hơn chiêu trước, sát khí của chiêu sau nặng hơn chiêu trước. Cùng lúc đó, thụy thú do luồng sáng bạc biến thành đã ngoạm được bảy tấc vào người con mãng xà, con mãng xà cố gắng liều chết giãy giụa để thoát ra, lôi theo cả thụy thú cùng đâm mạnh vào tâm lá chắn bên cạnh Hoa Trạch, trời đất núi non lập tức nghiêng ngả, nữ yêu và thần tôn đều cùng ộc máu tươi.

Lần này tới đây mục đích của Diệp Thanh Đề vốn là ngăn không cho Phượng Cửu làm điều gì dại dột, vừa mới đến nơi, nhân lúc Phượng Cửu còn đang chăm chú quan sát thế trận đã dùng tiên thuật trói cánh tay của hai người lại với nhau.

Chàng nghĩ, dù nàng có ý định xông vào trận chiến tìm tới cái chết cùng Đông Hoa, nhưng lúc này nàng đang bị buộc chặt cùng với chàng, nàng cũng sẽ không tùy tiện kéo chàng cùng xông vào chỗ chết đâu. Đương nhiên, chàng làm như vậy chưa biết chừng sẽ bị nàng căm hận suốt đời, nhưng so với việc cứu được tính mạng của nàng, việc này có là gì.

Chàng chờ đợi nàng khóc lóc yêu cầu chàng cởi trói, nhưng điều khiến chàng kinh ngạc là nàng lại chỉ nghi hoặc quay đầu nhìn chàng, lại đưa cánh tay bị trói chặt của hai người lên nhìn một lát, trên khuôn mặt vẫn còn vệt nước mắt, biểu hiện lại vô cùng trấn tĩnh. Khẽ hỏi chàng: “Ngươi có biết lá chắn quanh Hoa Trạch là kết giới do Đế Quân dùng Cửu Thiên tinh quang tạo thành không? Loại kết giới lớn mạnh như vậy, trừ phi người tạo ra nó chủ động cho người vào bên trong, nếu không người ngoài không thể vào được”, khéo léo dẫn dắt chàng: “Ngươi hãy thả ta ra, được không, cho dù ngươi không trói ta, ta cũng không thể vào bên trong kết giới đó được”.

Chàng nghĩ tốt quá, vẫn còn có thể dùng lý lẽ để lay chuyển người khác, nàng còn bình tĩnh hơn chàng nghĩ nhiều. Nhưng chuyện trong tiên giới, chàng đương nhiên không hiểu rõ bằng nàng, sao biết được là nàng không lừa chàng chứ.

Chàng lắc lắc đầu một cách kiên định.

Nàng lại không hề nổi giận, ngược lại càng nhẹ nhàng hơn: “Đế Quân lúc này đang tấn công thần tốc, chắc là muốn nhanh chóng kết thúc trận đấu, chém chết Diểu Lạc dưới thanh kiếm của mình, có thể chàng… cảm thấy bản thân mình đã kiệt sức, nếu còn tiếp tục tiêu tốn sức lực như vậy nữa, khi trừ khử được Diểu Lạc thì sức lực đã cạn kiệt rồi, sao có thể tịnh hóa khí đục tam độc trong kết giới nữa chứ?”.

Ngữ điệu của nàng nhẹ nhàng mềm mại, chỉ như đang bình luận về thế trận, khiến chàng nhất thời buông lỏng. Nhưng đúng vào lúc đó, nàng đã nắm chặt cánh tay trái của chàng đang buộc chặt với tay phải của nàng, vội vã lao vào kết giới.

Chàng còn chưa kịp phản ứng lại, cơ thể đã bị đập mạnh vào kết giới, nhưng không biết vì sao nàng đã ở bên trong kết giới, chỉ có cánh tay đang trói chặt với tay của chàng ở bên ngoài. Sắc mặt của nàng cực kỳ ung dung, tay trái lại biến ra thanh kiếm Đào Chú, nhuyễn kiếm được rút ra khỏi bao. Thấy nàng vung kiếm lên định chặt đứt cánh tay phải của mình, chàng giật nảy mình, vội vàng niệm chú, khi cánh tay của hai người vừa rời ra cũng là lúc thanh kiếm Đào Chú chặt đứt tay áo của nàng, suýt nữa thì chém vào thịt. Chàng toát mồ hôi lạnh, nàng lại mím môi mỉm cười với chàng, ngay sau đó liền phi thân vào trong trận chiến.

Vì sao nàng lại có thể vào trong kết giới? Chàng bỗng nhiên nhớ ra chiếc nhẫn lưu ly trên tay trái của nàng, đó là một nửa trái tim của Đông Hoa Đế Quân. Có một nửa trái tim của người tạo ra kết giới, nàng đương nhiên có thể dễ dàng đột nhập vào kết giới của chàng.

Nhìn bóng người màu trắng bay vào trong huyết vũ cuồng phong, cổ họng của Diệp Thanh Đề nhất thời nghẹn lại, loạng choạng vài bước, ngã bệt xuống đất.

Phượng Cửu ẩn mình trong một góc của kết giới, chỉ cảm thấy gió mạnh thổi ào ạt khiến người ta lắc lư muốn ngã. Trọng Lâm khi nói về Diệu Nghĩa Tuệ Minh Cảnh với bọn họ đã nói rõ vì tiên trạch của mỗi người không giống nhau, từ đầu tới cuối chỉ có thể dùng một loại tiên lực để hóa giải khí đục tam độc trong đó, nếu có tiên lực khác quấy nhiễu, ngược lại có thể gây ra tai họa. Phượng Cửu hiểu rõ rằng nàng không thể giúp được Đông Hoa tịnh hóa khí đục tam độc, nàng chỉ có thể giúp chàng khi chàng đối phó với yêu tôn Diểu Lạc.

Trong Phạn Âm Cốc, Phượng Cửu đã từng giao đấu một lần với hóa tướng của Diểu Lạc, thực ra đã biết rằng bản thân mình không phải là đối thủ của bản thể của Diểu Lạc.

Nàng quá là coi thường chuyện sống chết, nhưng đầu óc không hề trống rỗng hoàn toàn không có chút suy nghĩ nào, hiểu rõ rằng đôi khi ranh giới giữa việc giúp đỡ và gây thêm phiền phức chỉ trong gang tấc, nhưng nàng tuyệt đối không tới để gây thêm phiền phức cho Đông Hoa. Nàng chỉ có duy nhất một chiêu có thể tiếp cận với Diểu Lạc, đó chính là chiêu mà Đông Hoa đã dạy nàng khi còn ở trong Phạn Âm Cốc. Lúc đó Đông Hoa vòng tay ôm eo nàng, nắm bàn tay cầm kiếm của nàng, trầm giọng nhắc nhở bên tai nàng: “Nhìn cho kỹ”. Ban đầu nàng thực ra không nhìn rõ lắm, nhưng đã thầm nhớ lại không biết bao nhiêu lần, diễn luyện không biết bao nhiêu lần. Tại sao lại như vậy, nàng cũng không rõ, chỉ là điều chàng dạy nàng, thứ chàng cho nàng, bằng bản năng, nàng muốn tìm hiểu, muốn tinh thông.

Lúc này đầu óc nàng vô cùng tỉnh táo, vô cùng bình tĩnh, trên đầu ngọn sóng lớn, dưới sức ép của Đông Hoa, Diểu Lạc chỉ còn cách tấn công nhanh phòng thủ nhanh, mà con mãng xà ba đầu lại bị dẫn dụ đến bên cạnh Hoa Trạch tranh đấu với thụy thú của Đông Hoa, phía sau lưng Diểu Lạc để hở một khoảng trống lớn. Đây là thời cơ duy nhất.

Thanh kiếm Đào Chú lao đi với tốc độ cực nhanh, tập trung toàn bộ tiên lực của nàng, mang theo ngàn vạn luồng sáng, giống như những ngôi sao băng của ngày hôm nay, dường như nghe thấy cả tiếng xé rách không trung. Chiêu kiếm hồi đó Đông Hoa nắm lấy tay nàng, làm mẫu cho nàng xem, không yêu cầu phải tốc độ, điều quan trọng hơn là sự biến hóa của cơ thể, trong vài bước cơ thể phải biến ảo nhiều lần, khiến người ta không thể đoán được đòn tấn công rốt cuộc đến từ phương nào. Thanh kiếm Đào Chú lao thẳng về phía giữa lưng của Diểu Lạc, nhưng Phượng Cửu lại muốn đâm vào eo của Diểu Lạc.

Quả nhiên, dù nàng dồn hết toàn bộ tiên lực vào đường kiếm nhưng yêu tôn áo đỏ vẫn né tránh được trong gang tấc, chỉ là kiếm khí nhùn ngụt của thanh Đào Chú đã cắt mất một mảnh thịt lớn bên eo của Diểu Lạc, Diểu Lạc bị chọc giận, đánh vào ngực nàng một chưởng, nàng bị đánh bay đi, còn thanh kiếm Thương Hà đúng lúc đó đã đâm mạnh vào giữa lưng của Diểu Lạc đang bị nàng đánh lạc hướng. Một cảm giác lạnh buốt xuyên qua tim, lưỡi kiếm rạch một đường từ trái sáng phải, chém đứt đôi người của Diểu Lạc. Đòn tấn công này hiểm đến nỗi khiến máu của nữ yêu cuồn cuộn tuôn chảy, trận mưa lớn trong kết giới bị nhuộm đỏ. Mà trong làn mưa đỏ ấy, Phượng Cửu nhìn về phía Đông Hoa, thấy vẻ phẫn nộ và đau thương hiện lên trong mắt chàng, chàng vội vã lao tới bên nàng, dường như đang gọi tên nàng. Nàng liền gắng gượng nở một nụ cười với chàng.

Yêu tôn đã bị tiêu diệt, con mãng xà ba đầu cũng biến mất, biến lại thành yêu khí đen kịt một cách vô thức, con rồng lớn màu bạc ngẩng đầu gầm thét một tiếng, cũng hóa thành một chùm ánh sáng bạc. Thanh kiếm Thương Hà bay lơ lửng trong kết giới, trong chốc lát biến thành một thanh kiếm lớn, cao bằng kết giới, đồng thời hóa thành bảy mươi hai bóng kiếm giăng thành một hàng, phân đôi kết giới. Khí đục tam độc lan tràn bị chặn ngay bên kia bức từng bằng kiếm. Còn ở bên này, chỉ có hai người bọn họ.

Phượng Cửu cảm thấy trong thời khắc này, sức tưởng tượng của nàng quả thực phong phú chưa từng thấy.

Có lẽ tất cả những tưởng tượng tốt đẹp về bản thân trong cuộc đời này của nàng đều tập trung trong thời khắc này.

Nàng cảm thấy mình giống như một chú chim non mới mọc đủ lông cánh, lại giống như một đóa hoa sen sắp nở, giống một vầng trăng bạc tỏa ánh sáng dịu dàng như nước. Đó đều là những thứ đẹp đẽ nhất mà lúc này nàng có thể nghĩ tới, nàng cảm thấy bản thân mình cần nhẹ nhàng bay vào trong vòng tay của Đông Hoa một cách tuyệt mỹ như vậy. Chưa biết chừng đây là lần gặp gỡ cuối cùng trong đời của họ, sao nàng có thể không đẹp được chứ?

Nàng thuận thế ôm lấy cổ Đông Hoa, chàng đang ôm nàng thật chặt, bàn tay đặt lên vết thương trên ngực nàng, gấp gáp hỏi nàng có đau không? Nàng vùi mặt trong lòng chàng, cắn môi đến khi đôi môi có chút sắc hồng mới ngẩng lên nhìn chàng, lắc đầu nói không đau.

Thấy sắc mặt của nàng mặc dù trắng bệch, nhưng đôi môi vẫn đỏ hồng, chàng mới yên tâm, mệt mỏi hỏi nàng: “Tại sao lại tới đây? Có phải vì đã không chịu học hành chăm chỉ, không biết kết giới này nguy hiểm như thế nào, nàng có biết là nàng không thể ra khỏi đây không?”.

Nàng gật đầu trong vòng tay của chàng: “Em biết mà”. Nàng hiểu tại sao chàng phải dùng Cửu Thiên tinh quang để tạo ra kết giới này, kết giới bằng tinh quang thường được dùng để giam cầm tà vật, nếu vào trong kết giới tinh quang, trừ phi giết chết người tạo ra kết giới, nếu không, dù là ai cũng không thể thoát ra ngoài được. Còn người tạo ra kết giới, nếu muốn giải thoát cho bản thân mình, lại chỉ có một cách duy nhất là hủy diệt tất cả tà vật bị giam cầm. Chàng tạo ra kết giới tinh quang, vốn dĩ là muốn cùng hủy diệt với Diệu Nghĩa Tuệ Minh Cảnh, nàng mặc dù không phải là người thông minh tuyệt đỉnh, nhưng vào lúc này, nàng cũng hiểu được những điều đó.

Chàng nhìn nàng bằng sắc mặt mơ màng: “Nếu đã biết, tại sao còn đến đây”, thở dài hỏi nàng: “Nàng nói xem ta phải đưa nàng ra như thế nào bây giờ?”.

Nàng có chút ấm ức: “Tại sao phải đưa em ra ngoài, hôm đó em nói những lời ấy, có phải đã khiến chàng đau lòng không, có phải chàng không cần em nữa không, nhưng chàng cũng từng làm em đau lòng, chúng ta hòa nhé, được không, em tới để đi cùng chàng, có phải trong lòng chàng thực ra cũng rất muốn có em đi cùng không?”.

Chàng sững người lại hồi lâu, rồi mỉm cười: “Nàng nói rất đúng, ta quả thực muốn nàng đến, ta đi đâu cũng muốn mang nàng cùng đi, cho dù là vũ hóa ta cũng…”. Chàng nhắm mắt lại: “Nhưng không được, Tiểu Bạch, nàng còn nhỏ như vậy, vẫn còn cả quãng đời rất dài cần phải sống”.

Nàng nhìn chàng, đến nước này rồi mà chàng vẫn còn bướng bỉnh, lại khiến nàng có phần cảm tạ cú đánh vừa rồi của Diểu Lạc.

Nàng đưa tay vuốt ve khuôn mặt chàng, khẽ thở dài: “E rằng không được nữa rồi, mặc dù chàng không muốn đưa em đi cùng, nhưng em… chưa biết chừng lại ra đi trước chàng”, một cơn ho dữ dội ập đến, nàng đã kìm nén lâu như vậy, cuối cùng cũng không thể nhịn nổi, cú đánh vừa rồi của Diểu Lạc mặc dù không dùng nhiều lực, nhưng nàng lại bị đánh đúng vào lúc đang kiệt sức, khó tránh khỏi việc tổn thương tiên nguyên.

Sắc mặt của Đông Hoa bỗng trở nên trắng bệch, run rẩy bắt mạch cho nàng, nàng nắm lấy tay chàng đặt lên trái tim của mình: “Đông Hoa, em đau, hãy nói một câu ngọt ngào để dỗ dành em đi”. Nàng không hay gọi chàng là Đông Hoa, bởi vì luôn cảm thấy xấu hổ, lúc này gọi chàng như vậy, khuôn mặt lại có chút ửng hồng, khí sắc xem ra có vẻ tốt lên.

Chàng nhắm chặt mắt lại, giọng nói khàn đục, ôm lấy nàng khẽ thì thầm: “Nàng muốn nghe lời nói ngọt ngào gì?”.

Nàng cố gắng kìm nén vị tanh tanh ngòn ngọt dâng lên cổ họng: “Nói rằng chàng thích em”.

Chàng gục đầu lên vai nàng, nàng cảm thấy vai mình ươn ướt, nghe thấy tiếng thì thầm của chàng bên tai: “Ta yêu nàng”.

Cảm giác đau đớn trong lồng ngực dần dần tiêu tan, toàn thân trở nên nhẹ bẫng, nàng đặt tay lên mái tóc trắng của chàng, cũng khe khẽ trả lời: “Em cũng yêu chàng”. Giọng nói của nàng dần dần có chút mơ hồ, nhưng vẫn không quên dặn dò chàng: “Lát nữa khi tịnh hóa những yêu khí đó, chàng cũng phải nắm tay em, chúng ta đã thỏa thuận rồi, chàng đi đâu, em sẽ theo tới đó”, lại thì thầm nói thêm: “Em thương chàng nhất mà, phải luôn luôn ở bên cạnh chàng”.

Chàng đỡ lấy vai nàng, để nàng dựa vào ngực chàng, đặt một nụ hôn lên trán nàng, đồng ý nói: “Được”.

Nàng mơ mơ màng màng nhấn mạnh: “Nắm lấy tay em, phải luôn luôn nắm chặt tay em”.

Chàng liền trả lời: “Ừm, luôn luôn nắm chặt”.

Trong kết giới tinh quang lấp lánh, bóng kiếm cao ngút trời tách đôi kết giới, một bên sóng lớn cuồn cuộn dâng trao, yêu khí dày đặc lởn vởn bên trong đó, còn bên kia, sóng biếc kết thành chiếc giường ngọc, công tử áo tím ôm chặt thiếu nữ áo trắng, lặng lẽ ngồi trên đó. Giống như một bức tượng hai người đang ôm chặt lấy nhau.

Hồi lâu, vị công tử áo tím đưa tay lên tụ lại một chùm ánh sáng bạc.

Cánh hoa phật linh dập dờn tung bay trong kết giới, tĩnh lặng đến nỗi giống như trận tuyết rơi mãi không ngừng.

Đoạn kết

Bạch Cổn Cổn sau khi tỉnh dậy không nhìn thấy mẫu thân nó đâu cả.

Sắc mặt của thúc thúc Tạ Cô Châu rất u ám, thúc thúc bế nó lên, nói sẽ đưa nó đến một nơi. Mặc dù thúc thúc Tạ Cô Châu luôn có vẻ mặt u ám nhưng sắc mặt của thúc ấy lúc này còn u ám hơn bình thường năm phần. Bạch Cổn Cổn nhạy cảm cảm thấy rằng, chắc chắn đã có việc gì đó không hay xảy ra rồi.

Cưỡi mây lên trời, đi qua biển mây mênh mông, thúc thúc Tạ Cô Châu đưa nó tới một cung điện được mây lành vấn vít, vào trong một khu vườn trồng toàn cây lá đỏ, trong vườn có rất nhiều thúc thúc, thẩm thẩm, ca ca, tỷ tỷ.

Khi bọn họ bước qua nguyệt môn của khu vườn vừa hay nhìn thấy một thúc thúc đang cầm quạt nói với một tỷ tỷ có gương mặt như hoa như ngọc: “Thực ra ấy mà, những việc thiên địa đại đạo như tịnh hóa Diệu Nghĩa Tuệ Minh Cảnh này vốn là bổn phận của Thần tộc chúng ta, không có can hệ gì tới Ma tộc, ngươi nói là ngươi đi ngang qua thấy Dạ Hoa bọn họ phá kết giới tinh quang một cách vất vả, liền tiện tay giúp đỡ, nhưng Tiểu Yến, ta hỏi ngươi, sao ngươi lại đi ngang qua Bích Hải Thương Linh?”.

Khuôn mặt của tỷ tỷ có gương mặt như hoa như ngọc lập tức đỏ ửng: “Mỗ… mỗ đi lạc đường, được chưa?”.

Bạch Cổn Cổn nghe thấy thúc thúc Tạ Cô Châu nói “đồ ngốc”, ca ca, tỷ tỷ, thúc thúc, thẩm thẩm đứng trong sân đều quay lại nhìn, vị tỷ tỷ có gương mặt như hoa như ngọc vô cùng tức giận, trừng mắt nhìn thúc thúc Tạ Cô Châu: “Ngươi nói ai ngốc?”.

Những người khác đứng trong sân đều không để ý tới vị tỷ tỷ đang bực tức đó, tất cả đều kinh ngạc nhìn nó. Bạch Cổn Cổn vùi mặt vào cổ thúc thúc Tạ Cô Châu, chỉ hơi nghiêng mặt để lộ đôi mắt tròn xoe đen láy như hai quả nho.

Thúc thúc cầm quạt nhìn ngắm nó một lát, chỉ quạt về phía nó hỏi thúc thúc Tạ Cô Châu: “Con cái nhà ai vậy?”.

Thúc thúc Tạ Cô Châu lạnh nhạt đáp: “Nhìn là biết rồi chứ?”.

Thúc thúc cầm quạt tròn mắt há miệng ngạc nhiên: “Của Đông Hoa ư?”.

Bạch Cổn Cổn không biết Đông Hoa mà thúc thúc cầm quạt vừa nói là thứ gì, là một địa danh ư? Thúc thúc Tạ Cô Châu không để ý tới đám người trong sân nữa, bế nó đi thẳng, lại rẽ vào một nguyệt môn khác, phía sau nguyệt môn là một dãy sương phòng. Bạch Cổn Cổn có đôi tai thính, vẫn còn nghe thấy tiếng xì xào trò chuyện từ trong vườn vọng vào: “Nếu không phải là phu thê Bạch Thiển cùng Mặc Uyên kịp thời tới nơi, hợp sức phá vỡ kết giới tinh quang, lại lấy một nửa núi Côn Luân phong lại tạo thành một chiếc bình để đựng yêu khí, đứa trẻ này trong một lúc sẽ mất cả cha lẫn mẹ, quả là đáng thương”.

Lập tức có người tiếp lời: “Thượng thần Chiết Nhan nói rất đúng, tuy nhiên, lần này mặc dù nguy hiểm, nhưng cũng có thể thấy không thể hoàn toàn tin vào định số. Ví dụ như ai có thể ngờ rằng kết giới tinh quang lại có thể bị phá hủy, ai có thể ngờ rằng núi Côn Luân lại đặc biệt như vậy, có thể đựng được khí đục tam độc? Tuy nhiên núi Côn Luân có thể chứa được khí đục tam độc đến bao giờ, tiểu tiên lại có phần lo lắng, lần này tiên lực của Đế Quân muốn tu lại e rằng cũng phải mất nghìn năm, nếu trước khi tiên lực của Đế Quân tu lại được mà núi Côn Luân lại sụp đổ…”.

Liền có ngay một giọng nữ trong trẻo cất lên: “Ti Mệnh ngài thật khéo lo xa, coi việc trông giữ của thượng thần Mặc Uyên là trò đùa sao? So với núi Côn Luân và Đế Quân, tiểu tiên lại lo lắng cho Phượng Cửu hơn, điện hạ đã bị tổn thương tới tiên nguyên, giờ đây lại vẫn chưa tỉnh lại…”.

Bạch Cổn Cổn nghe tới đây, những lời họ nói trước đó, nó không hiểu chữ nào, những vị tỷ tỷ này lại nói lo lắng cho mẫu thân của nó, nói mẫu thân của nó bị tổn thương tiên nguyên mãi vẫn chưa tỉnh lại… bàn tay của Bạch Cổn Cổn nắm chặt lại. Thúc thúc Tạ Cô Châu an ủi vỗ vỗ vào lưng nó: “Cháu nghĩ Chiết Nhan là một thầy thuốc tồi hay sao? Mẫu thân của cháu quả là đã bị thương, nhưng tu dưỡng vài tháng là có thể tỉnh lại, mẫu thân cháu thường khen cháu còn nhỏ tuổi mà đã điềm tĩnh, có trách nhiệm, hãy để thúc thúc xem liệu cháu có thực sự có trách nghiệm không nhé”.

Bạch Cổn Cổn không biết Chiết Nhan mà thúc thúc Tạ Cô Châu nói là ai, nhưng nó biết thúc thúc Tạ Cô Châu không bao giờ nói dối, thúc ấy nói mẫu thân nó không sao thì nhất định sẽ không sao. Nhưng trái tim của nó vẫn nghẹn lại, mãi cho tới khi bọn họ bước vào một sương phòng trong số các sương phòng ở đó.

Trong phòng sực mùi thuốc. Mẫu thân nó đang nhắm mắt nằm trên một chiếc giường bằng gỗ tử đàn, trên đầu giường trạm trổ hình hoa mai và hoa lan, một thúc thúc đẹp trai, có mái tóc giống hệt như tóc nó đang ngồi bên giường, trên tay là một bát thuốc, đang dùng muỗng sứ trắng chậm rãi khuấy thuốc trong bát.

Thúc thúc Tạ Cô Châu thả nó xuống đất, nó không hề dè dặt, lon ton chạy tới bên giường của mẫu thân bằng đôi chân ngắn cũn. Còn may, mẫu thân nó mặc dù đang hôn mê nhưng sắc mặt vẫn hồng hào. Nó đang chuẩn bị yên tâm, thì nghe thấy một giọng nói vang lên phía trên đầu: “Cháu… ai?”.

Nó ngẩng đầu nhìn thúc thúc đẹp trai vừa hỏi nó, trả lời gãy gọn: “Cháu là Bạch Cổn Cổn”.

Thúc thúc đẹp trai khẽ cau mày: “Bạch Cổn Cổn?... Ai?”.

Bạch Cổn Cổn nghiêm túc chỉ vào mình, lại chỉ vào mẫu thân đang nằm trên giường: “Con trai của Cửu Cửu”.

Xoảng, bát thuốc trên tay thúc thúc đẹp trai rơi xuống đất.

Bạch Cổn Cổn cảm thấy có chút tổn thương, việc nó là con trai của mẫu thân nó lại khiến người ta khó chấp nhận như vậy sao, làm gì mà mọi người đều kinh ngạc như vậy. Mấy thúc thúc, thẩm thẩm, ca ca, tỷ tỷ ban nãy ở trong sân cũng vậy, lúc này thúc thúc đẹp trai túc trực bên cạnh giường của mẫu thân nó cũng thế, hơn nữa, thúc thúc này còn kinh ngạc đến nỗi đánh đổ cả bát thuốc.

Thúc thúc Tạ Cô Châu đưa mắt nhìn nó, ra hiệu cho nó cứ đứng yên tại chỗ, không được chạy lung tung rồi bước ra ngoài.

Trong phòng yên lặng như vậy khiến Bạch Cổn Cổn hơi căng thẳng, nó còn nhớ cuộc đối thoại ban nãy, nó nuốt một ngụm nước bọt, bạo gan hỏi thúc thúc đẹp trai: “Còn người, người là ai?”.

Hồi lâu, nó thấy thúc thúc đẹp trai đưa tay ra, vuốt đầu nó, giọng nói vang lên trên đầu có phần nhẹ hơn, nhưng lại khiến nó cảm thấy ấm áp. Thúc thúc đẹp trai nói: “Cổn Cổn, ta là phụ quân của con”.
 
Trạng thái
Không mở trả lời sau này.
Top