Lượt xem của khách bị giới hạn

[Ngôn tình] [Truyện Hoàn] Giờ đang nơi đâu - Duy Đao Bách Tích

Trạng thái
Không mở trả lời sau này.
[Ngôn tình] [Truyện Hoàn] Giờ đang nơi đâu - Duy Đao Bách Tích

MUALARUNG91

Tác giả
Sưu tầm
Tham gia
25/8/19
Bài viết
4,780
Điểm cảm xúc
577
Điểm
113
Chương 50: Tôn giới công cộng (5)
Bà Cát chỉ đến một chuyến mà đã giăng đầy chướng khí trong biệt thự. Còn bản thân thì phủi mông vui vẻ rời đi. Bà Kiều mơ màng xuống lầu, mấy người phụ nữ vội giữ bà lại: “Rốt cuộc cô ta đến làm gì thế?”

Bị người ta hỏi như vậy, bà càng nghĩ càng nổi nóng, vỗ bàn mạt chược ngồi xuống, tức giận bật cười: “Tôi còn nói vì sao con bé ba không đi châu Âu, thì ra là có người xúi giục nó.”

“Cô ta thì xúi giục gì được?” Các bà cô bật cười, “Đừng có tự dưng dạy hư cháu ba.”

“Nhưng cô ta muốn thế đấy.” Bà Kiều liếc mắt ra ngoài, vẫy tay gọi Doãn Yên đến ngồi cạnh mình, “Cũng may mấy ngày nữa cháu sẽ ra nước ngoài với cha, đỡ thanh danh bị nó làm liên lụy. Cháu đừng có giống nó.”

Từ sau khi gả đi, danh tiếng của bà Cát thực sự rất vang dội. Vì sao vẫn không bị nhà họ Lâm gạch tên trong gia phả? Họ hàng đoán rằng – lúc trước khi mẹ Sở Vọng gả vào đã đem theo một số tiền lớn, sau này số tiền đó vào tay ai, mọi người không biết. Khả năng lớn nhất là đã vào tay bà Cát. Nên dù nhà họ Lâm hận bà làm bẩn danh tiếng nhà mình, nhưng cũng không dám vạch rõ quan hệ với bà. Việc xấu trong nhà không truyền ra ngoài, tuy các bà cô đều rất khinh thường bà ấy, nhưng khi có người ngoài hỏi thì lại phớt lờ đánh trổng lảng, sợ bị người ta nói ra nói vào, khiến người ta thấy quan hệ giữa họ với bà Cát cũng chẳng mấy thân thuộc.

Tiễn bà Cát đi, Sở Vọng biết lúc này trong nhà như thế nào nên cũng không vội vào làm gì, đỡ phải nhìn sắc mặt người ta. Nên khi Lâm Tử Đồng quay về, thấy cô vẫn đang đứng bên ngoài thì hỏi: “Ở ngoài này làm gì vậy?”

Sở Vọng cười lắc đầu, anh ta cũng không hỏi nhiều.

Lâm Tử Đồng vào biệt thự đi một vòng, bị các bà bác hỏi lui hỏi tới, một lúc sau lại đi ra, hỏi Sở Vọng: “Ngôn Tang đâu?”

“Tức giận bỏ đi rồi.” Sở Vọng nhìn qua nhà bên cạnh, “Về nhà rồi.”

“Sao lại giận?”

“Mới nói với anh ấy là em không đi châu Âu. Em cũng tò mò, sao hai ngày nay không có ai nói với anh ấy?”‘

Lâm Tử Đồng mỉm cười, “Gần đây hai nhà đều bận rộn, cha cũng không có dịp sang bên đó. Vừa có thời gian rảnh gặp em, vậy mà em lại nói tin dữ này với cậu ta. Không đi an ủi à?”

Sở Vọng nhìn mặt đất chăm chú, “Anh ấy giận vì em không đi châu Âu, không có nguyên nhân nào cả. Người không muốn em đi châu Âu, dĩ nhiên em nói gì bọn họ cũng tin, thậm chí còn có thể lý giải hộ em nữa. Nhưng anh ấy muốn em đi cùng, nên dù em nói gì thì anh ấy cũng sẽ tìm được lý do bác bỏ thôi. Dù em có mặt dày đến nhà họ nhấn chuông cửa, chỉ e anh ấy cũng không chịu gặp em.”

Trước khi tới Thượng Hải, Sở Vọng cũng đã nghĩ đến, người khác đưa ra đủ lý do không nên đi châu Âu, gì mà văn hóa bất đồng, cách thức điều trị cũng khác, bị bệnh không ai chăm sóc, vân vân… Tự bản thân cô còn có thể nghĩ ra rất nhiều biện pháp giải quyết chứ đừng nói đến Ngôn Tang.

Còn về phần bà Chu thị kia, chỉ cần sau khi cô rời thuyền ở bến Marseille rồi cầm theo thư của giáo sư Từ, cùng Ngôn Tang đến nước Anh là có thể tách ra với nhà bọn họ.

Những lý do này còn không thuyết phục được bản thân cô, thì sao có thể thuyết phục được Ngôn Tang luôn muốn cô đi châu Âu đây?

Điều khiến cô thật sự hạ quyết tâm không đi châu Âu là phong thư của Từ Thiếu Khiêm. Nói trắng ra, những nơi nên đi cô đều đã đi, những gì cần học cô cũng đã học, ngoài việc tự dưng phải chậm trễ hai năm để bắt đầu lại từ đầu, thì thật sự không có bất cứ ý nghĩa nào cả.

“Tuy hỗn chiến quân phiệt sẽ kết thúc trong năm nay, sau này tổ quốc sẽ bắt đầu thời kỳ loạn trong giặc ngoài kéo dài đến gần hai mươi năm.”

“Em muốn ở lại để thử xem bản thân có thể làm được gì”.


Nói với anh như vậy, liệu anh có tin không? Đến chính Sở Vọng còn không tin nữa là, thậm chí còn cảm thấy nực cười.

“Không chịu gặp em, nhưng cũng không thể không gặp anh được.” Lâm Tử Đồng nghe thế thì cười, đi lên phía trước mấy bước rồi ngoái đầu nói, “Đi thôi.”

Lâm Tử Đồng sải bước băng qua bãi cỏ, Sở Vọng chạy chậm theo sau. Hai anh em đến ngoài biệt thự nhà họ Tư, nhấn chuông cửa, để giúp việc đi mời cậu Tư đến, nói là có cậu Lâm nhà bên mời cậu Tư xuống nói chuyện đôi câu.

Tư Ngôn Tang đi ra mở cửa, nhìn thấy hai người nhưng không nhìn Sở Vọng, chỉ hỏi thẳng Lâm Tử Đồng: “Rốt cuộc vì sao em ấy không đi châu Âu?”

Lâm Tử Đồng cười nói: “Thế sao cậu không hỏi vì sao tôi không đi châu Âu?”

“Em không phải là cô tư Hứa, quan tâm anh có đi châu Âu hay không làm gì? Anh đứng sang bên giùm, Sở Vọng, em lại đây.” Tư Ngôn Tang kéo Lâm Tử Đồng qua một bên, hỏi, “Không đi châu Âu thật?”

“Không đi.” Sở Vọng gật đầu, “Em đưa ra lý do ở lại gì thì sẽ làm anh vui hơn đây?”

“Dù em có nói tổ quốc đang lâm nguy, công cuộc cứu quốc cần có em, thì anh cũng không vui nổi.”

“Em nên làm gì đây?”

Ba người im lặng một hồi, rồi anh như thỏa hiệp, hỏi, “Vậy anh cũng không đi, được chưa?”

Sở Vọng lắc đầu.

Tư Ngôn Tang cười gượng, bình tĩnh phản bác, “Anh nên làm gì đây?”

Lâm Tử Đồng cũng bất đắc dĩ, “Không ai quan tâm vì sao anh không đi châu Âu à?”

Hai người kia đồng thanh đáp: “Không.”

Trầm ngâm một lúc, rồi Sở Vọng nói: “Ngôn Tang, em biết hiện giờ châu Âu có rất nhiều điều tốt: khoa học, giáo dục, công nghiệp… hơn hẳn trong nước rất nhiều, cũng vì thế nên rất nhiều du học sinh cứ đâm đầu đi cho bằng được. Với em, châu Âu vẫn nên có anh, anh nên ngồi du thuyền ăn kem trên sông Spree, Chủ nhật đi xe đến ngoại ô Véc-xây… Không phải em không nghiêm túc suy nghĩ, mà kết quả của việc suy nghĩ là: Du học châu Âu với em rất khó khăn, không gặt hái được nhiều điều; còn ở Hương Cảng mưa thuận gió hòa, gặt hái được nhiều hơn. Nên là, Hương Cảng tốt hơn châu Âu. Còn với anh thì ngược lại: Em có thể chắc chắn nói rằng, anh phải hoàn thành việc học ở châu Âu. Dù hôn ước có buộc tương lai của hai chúng ta vào với nhau thì cũng chỉ là điều vô nghĩa, nếu vì mê muội mà đưa ra lựa chọn thì sẽ không sáng suốt. Em không nên thay đổi tiền đồ đã định vì anh, và anh cũng không nên như vậy.”

Thấy anh không lên tiếng, Sở Vọng lại nói tiếp: “Anh muốn nói em quá lý trí cũng được, quá lạnh lùng cũng được. Nếu anh cho em một lý do để thuyết phục em đi châu Âu với anh thì càng tốt. Nhưng em biết, bản thân anh cũng biết rõ đúng không – không có lý do nào cả. Ví dụ như anh muốn làm một người theo chủ nghĩa lãng mạn, vậy thì em đành phải làm kẻ tỉnh táo. Ngoài hai năm tạm thời không thể ở bên nhau ra thì còn thiếu sót gì nữa sao? Chỉ hai năm thôi mà, em vẫn ở Hương Cảng chờ anh quay về.”

Tư Ngôn Tang cụp mắt, gần như không nhìn rõ con ngươi. Một lúc sau, anh chỉ đáp: “Anh biết rồi.”

Cánh cổng lớn ở biệt thự nhà họ Tư khép lại, chỉ còn hai anh em đứng ngoài cửa.

Sở Vọng cười khổ, “Anh ấy vẫn còn tức giận.”

“Đúng thế.” Lâm Tử Đồng gật đầu, “Có thể lần này là giận bản thân.”

“Vậy vì sao anh không đi châu Âu?” Sở Vọng hỏi ngược lại, “Cha nói vốn ban đầu cũng muốn dẫn anh đi cùng.”

“Với nghiệp học mấy năm qua của anh, đi châu Âu không bằng ở lại Trung Quốc.” Lâm Tử Đồng cười nói, “Sau Ngũ Tứ, có một hôm anh đến thư viện Thiệu Hưng đọc sách, biết bộ máy chính phủ vừa già nua lại vừa tham ô, còn nhân dân vẫn cứ nghèo đói ốm đau; trên bãi cỏ ở bến Thượng Hải viết “cấm người Trung Quốc và chó”, cảnh sát ngoại quốc đánh đập tàn nhẫn phu kéo xe ngay tại tô giới. Chính trị Trung Quốc là một căn bệnh trầm trọng kéo dài, ai ai cũng muốn ‘ra nước ngoài’.

Trong rất nhiều giấc mơ cứu quốc, có công thương nghiệp cứu quốc, khoa học cứu quốc, giáo dục cứu quốc, cũng có chính phủ cứu quốc, công nghiệp quân sự cứu quốc… Nếu một quốc gia cứ thiếu hụt mãi thì rất khó để để biết rốt cuộc là cách mạng hay cứu quốc. Bạn học của anh ai cũng muốn ra nước ngoài, sau khi học thành sẽ ‘cải tạo quốc gia’, ‘phục hưng dân tộc’. Vậy thì anh sẽ làm người ở lại, nếu cách mạnh thất bại thì chết trên chiến trường vì quốc gia cũng đáng.”

Sở Vọng gật đầu bày tỏ mình đã hiểu.

Có thể nói lịch sử du học ở Trung Quốc cận đại chiếm nửa bộ phận lịch sử cận đại Trung Quốc, và nửa bộ phận còn lại thì ở lại nước tham chính nhập ngũ.

“Nên mới có bài thơ hồi Tết ba năm trước ạ?”

“Nghĩ gì ngàn dặm xá, đèn sáng ngắm non sông?” Lâm Tử Đồng nói, “Những lời em nói ra hôm nay, chắc chắn Doãn Yên không nói được, thậm chí đến anh cũng rất bội phục. Em ba có suy nghĩ cách nhìn rất lý trí thâm sâu, anh cả rất vui. Đang tính khuyên em đừng để bụng chuyện linh tinh trong nhà, nhưng giờ xem ra, không cần anh nói thì em cũng quyết định không để bụng, vậy thì anh cũng yên tâm rồi.”

Sở Vọng híp mắt cười nói, “Anh cả khen nhầm rồi.”
 

MUALARUNG91

Tác giả
Sưu tầm
Tham gia
25/8/19
Bài viết
4,780
Điểm cảm xúc
577
Điểm
113
Chương 51: Tôn giới công cộng (6)
Tư Ngôn Tang tức giận thật, nhưng không biết có phải như Lâm Tử Đồng nói không, tóm lại không cho Sở Vọng cơ hội gặp anh.

Ngay từ đầu Sở Vọng cho rằng anh chỉ giận cô, cho nên mới xuất hiện vào những lúc không có cô. Về sau mới phát hiện, không chỉ cô, mà toàn bộ biệt thự nhà họ Lâm, hay thậm chí bà Tư cũng đã mấy ngày rồi không gặp Ngôn Tang. Lúc này Sở Vọng mới ý thức được, anh thật sự “giận bản thân mình”.

Ngày Tiết Chân Chân đến nhà họ Lâm chơi, Lâm Doãn Yên đang dẫn nhóm người khiêng rương lớn rương nhỏ của mình vào phòng khách, kiểm tra xem còn thiếu đồ gì không. Tiết Chân Chân vừa lại gần vừa cười nói, “Lâm nhị tiểu thư muốn chuyển cả nhà đến Pháp à? Vậy thì đem luôn mấy thứ nồi niêu xoong chảo này đi luôn đi… Vì nghe nói người nước ngoài không ăn đồ nấu chín đâu.”

Bà Kiều với Kiều Mã Linh và hai phu nhân khác đang ngồi đánh bài, thấy cô đến thì nói, “Chân Chân, đừng đùa nghịch nữa. Cháu có nhiều cách, con bé lo lắng mấy hôm rồi, nhanh tới xem hộ nó có thiếu gì không.”

Kiều Mã Linh nói, “Thuốc vitamin Đức, thuốc say sóng, có thể phải đến cửa hiệu Tây mua một ít.”

Tiết Chân Chân mỉm cười, “Thế thì đem theo một bộ mạt chược đi – trên thuyền tẻ nhạt, vừa hay để cậu ta học đánh bài, sau này cũng có thể xã giao thay cậu Trịnh.”


Kiều Mã Linh cốc đầu cô nàng, nói, “Đừng có nói em ấy. Lần này về, cha em không nói gì về nhà chồng tương lai với em à?”

“Nó?” Bà Kiều nói, “Cha con bé cưng nó như cưng trứng, bà mối đến cửa làm mai cho nó còn bị cha nó mắng một trận, nói con bé mới có mấy tuổi? Gia đình kiểu mới như họ, con gái chí ít cũng phải sau hai mươi tuổi mới kết hôn. Đợi năm năm nữa, cha nó sẽ cha nó lại muốn đổi lời, ‘25 tái giá!’ cũng có khi.”

Các bà các cô cười to giễu cợt Chân Chân. Cô nàng chỉ đứng đằng kia cười hì hì lắng nghe, rồi đi lên lầu tìm Sở Vọng chơi.

Tuy mấy ngày trước đó bà Cát vì chuyện của Sở Vọng mà đến gây ầm ĩ một trận, chẳng mấy ai vui vẻ. Nhưng Lâm Du nhớ lại lần này đi là đi hai năm, nên cũng không trách mắng gì Sở Vọng, chỉ gọi cô tới căn dặn những câu như “hai năm tới đừng mải mê chơi bời quá” “cha không mong con có tiền đồ lớn, chỉ cần không học thói xấu là được”.

Sở Vọng cười vâng dạ, xoay người ra khỏi thư phòng thì đối mặt với Tiết Chân Chân mặt mày ủ rũ.

“Ai khiến Tiết đại tiểu thư của chúng ta biến thành bánh bao 18 nếp gấp thế này?” Sở Vọng cười hỏi.

Tiết Chân Chân cau mày, “Em nói xem bây giờ đã là thời đại nào rồi mà vẫn còn cha mẹ đặt đâu còn ngồi đấy? Giờ người Hương Cảng được tự do yêu đương rồi.”

“Hả? Mai mối cho cậu ấm nhà nào thế?”

“Chị kể khổ với em đấy! Em còn đùa chị hả?” Tiết Chân Chân xì một tiếng, “Cũng may cha chị thương chị nên đuổi mấy chú bác kia đi hết.” Nói đến đây, cô đột nhiên nhớ ra Sở Vọng đã được đính hôn từ bé, không muốn làm nổi bật cha không thương mẹ không yêu, thế là vội nói, “Nếu có người tuấn tú được như cậu Tư thì chắc cha chị cũng đồng ý đấy.”

Sở Vọng mỉm cười, hỏi, “Vậy làm mối cậu Diệp cho chị nhé?”

“Thế thì không được…” Tiết Chân Chân nghiêm túc suy nghĩ, “Cha chị là nhà nghiên cứu học vấn, là học giả truyền thống. Nhà họ, sợ anh ta là người duy nhất viết được tiếng Trung. Chắc chắn không hợp với nhà chị. Và chắc chắn sau này anh ta cũng sẽ cưới con gái nhà kiểu nước ngoài, hoặc kết hôn với người nước ngoài luôn.”

Nghe cô nói thế, Sở Vọng thật sự khá bất ngờ.

“Ngay từ đầu chị đã nghĩ như thế, hay chỉ mới nghĩ thông gần đây thôi?”


“Hồi đầu chẳng nghĩ gì cả, người tự do yêu đương sao có thể nghĩ nhiều được vậy? Chỉ cảm thấy anh ta đáng yêu, là hình mẫu lý tưởng của nữ sinh giáo dục kiểu mới muốn yêu đương tự do. Chỉ là gần đây mới ý thức được một chuyện, yêu đương là một chuyện, thành gia lập thất lại là chuyện khác. Ầy, khó nói lắm.” Tiết Chân Chân liếc cô, “Sau này em đến nhà bên ở thật à?”

“Bác cả vốn không thích em, chị cũng biết mà.” Sở Vọng cười bất đắc dĩ, “Nếu không phải cô út đồng ý để em ở lại, khéo em phải ở ký túc xá đấy.”

“Mợ chỉ thích một mình Doãn Yên, hồi đầu nhìn là chị biết rồi. Tuy ba người chúng ta được dạy chung, nhưng đối nhân xử thế thế nào, ăn nói đi đứng ra sao, mợ chỉ bày vẽ cho mỗi nó. Hiện tại lời nói cử chỉ của Doãn Yên không phải như đúc từ khuôn của mợ ra à? Mợ tổng kết chỗ thành công và thất bại trong việc dạy dỗ chị Mã Linh, rồi áp dụng lên người Doãn Yên cả. Hiện tại đi du học hai năm về, đến lúc đó tầm mắt của Lâm nhị tiểu thư ở tít trên trời, sợ là không ai lọt vào được mắt xanh của nó cả, không tin em cứ chờ xem.”

Ăn uống xong xuôi, hai người định đến Đại Thế Giới chơi, kết quả là người hầu nhà họ Tư đến mời, nói bà Tư mời thợ chụp ảnh đến nhà chụp ảnh gia đình, vì nhà mình sắp đi nên mời nhà họ Lâm đến chụp chung cho vui nhà vui cửa. Người hầu nhà họ Tư vừa dứt lời, Doãn Yên đã đặt đồ trong tay xuống, cầm ba năm bộ sườn xám lên hỏi bà Kiều bộ nào đẹp. Kiều Mã Linh cười nói: “Em gái vất vả thật đấy, dù là màu tím, màu hồng mân côi hay trắng ngà, thì khi chụp ảnh cũng ra màu xám thôi, không khác nhau mấy đâu.” Bà Kiều đang định trả lời, nhưng nghe Kiều Mã Linh nói thế thì cũng không nâng mí mắt lên, chỉ nói, “Trắng ngà đi, sẽ sáng hơn.”

Chân Chân và Sở Vọng đang đứng ở cửa xỏ giày, vừa nghe bà Kiều nói thế thì cúi đầu nhìn, Sở Vọng đang mặc áo lụa màu trắng ngà thêu hình cá chép. Hai người nhìn nhau cười không nói gì. Chuông cửa vang lên, mở cửa ra, đứng ngoài cửa là Lâm Tử Đồng mặc quân trang giày bó, hàm răng trắng đều tít tắp: “Vừa hay cô Tiết đến chơi, có thể đi chụp ảnh chung không?”

“Thôi cho em xin, đỡ sau này người ta chỉ vào ảnh gia đình rồi hỏi: ‘Cô gái này xinh đẹp quá, không biết là con dâu nhà họ Lâm hay là con dâu nhà họ Tư?’ thì các anh định trả lời thế nào?” Tiết Chân Chân khoát tay đang định đi, thì Sở Vọng đã kéo về lại, ‘Cậu Lâm đã mời chị, sao mặt mũi chị lớn thế?”

Tiết Chân Chân nhìn quân hàm của anh, lúc này mới vô cùng miễn cưỡng đồng ý, “Vậy là chị nể mặt của Lâm thiếu úy chứ không phải nể mặt cậu Lâm.”

Ba người cười cười nói nói đi đến ngoài cửa nhà họ Tư, giá đỡ máy ảnh cũng đã được dựng, thợ chụp ảnh được mời là người Mỹ, nhưng máy ảnh lại là kiểu Đức. Đợi tới khi người đến đông đủ mà máy ảnh vẫn chưa hoạt động được. Tư Ưng và Lâm Du ngồi trước dàn dây mây lúc thì hàn huyên lúc thì ngoái đầu nhìn lại, nhưng không nhìn Tư Ngôn Tang. Bà Tư quan sát sắc mặt, ôm Ngôn Bách tiện bảo giúp việc đi mời cậu chủ tới, chỉ nói là “máy ảnh Leica không được”.

Qua một lúc sau, Tư Ngôn Tang không tình nguyện đi đến, mặc áo sơ mi khoác thêm áo khoác, mí mặt cụp xuống nhìn mặt cỏ. Người Mỹ mỉm cười nhường chỗ cho anh, anh lập tức chui vào trong vải trùm. Điều chỉnh một lúc rồi nhô đầu ra, “Cười lên nào.”

Tách tách chụp liền mấy tấm, bà Tư sốt ruột nói: “Gọi cậu ấy nhanh nhanh đến chụp chung đi.”

Tư Ngôn Tang lại chẳng để ý đến ai, anh gỡ máy ảnh ra, không biết chĩa ống kính về phía nào, tách tách vài tấm rồi mới cảm thấy mỹ mãn, miễn cưỡng mỉm cười đi đến gần người Mỹ nói vào vai câu gì đó, lúc này mới đi tới đám đông, bị cha mắng một hồi.

Hai người đứng một trái một phải trong đám đông nhìn nhau từ xa, cách đám đông ngăn cách anh lườm Sở Vọng rồi xoay đầu đi.

Chụp ảnh xong, Tư Ưng cười nói, “Mấy tấm ảnh này cần phải rửa đã, chỉ có thể gửi thư đường biển cho ông và cháu hai, và cả thằng nhóc Ngôn Tang nữa. Nhanh nhất cũng mất một tháng.”

Người Mỹ cất máy ảnh và giá lên xe, rồi dùng tiếng Anh hỏi, “Còn mấy tấm ảnh gửi đi đâu đây?”

Tư Ngôn Tang nhìn lướt qua người Mỹ, nói: “Gửi đến địa chỉ tôi mới nói với anh.”

“Còn có ảnh gì khác à?” Tư Ưng hỏi.

Ngôn Tang cười cười cho qua, không trả lời cha.

***

Trước một ngày rời Thượng Hải, Lâm Tử Đồng đưa vé thuyền hạng hai đi châu Âu tới. Anh đang giải thích lý do mua vé thuyền hạng hai: “Tuy nhà ta không phải mua không được vé hạng nhất, có điều người Trung Quốc đi nước ngoài toàn mua vé hạng ba. Ở trên thuyền gần một tháng, không thể thiếu hỗ trợ lẫn nhau. Khoang cao cấp dễ làm người ta ghét. Cha lần đầu chăm sóc em xuất ngoại nên mới mua vé thuyền hạng hai, chứ không cũng…”

Hoàng Mark cười nói: “Khoang hạng nhất và hạng hai cũng không khác nhau là bao, chỉ là đồ đạc đơn giản hơn mà thôi, vẫn có người hầu đến đưa đồ ăn sáng tối.”

Kiều Mã Linh lại hỏi Hoàng Mark, “Các anh đi du học châu Âu về cũng ngồi khoang hạng hai à?”

Hoàng Mark gật đầu, “Khoang hạng hai dễ tiếp xúc với bạn học cùng về ở khoang hạng ba hơn, mà lại còn tốt hơn khoang hạng ba.”

Bà Kiều bèn hỏi, “Thế cậu Tư cũng đi hạng ba?”

Lâm Tử Đồng nói, “Đúng thế.”

Một lát sau bà Cát sai người đến, nói sáng mai sẽ cho người lái xe tới chở Sở Vọng ra bến cảng. Bà đã mua vé thuyền rồi, đến lúc đó Sở Vọng sẽ cùng bà về Hương Cảng. Bà Kiều cười nói “Biết tôi gần đi mới mua vé, tiết kiệm cho tôi một khoản. Cô ta nghĩ cũng chu đáo đấy.”

Đưa đến chung là tấm vé thuyền hạng nhất, là thuyền Singapore. Vé đi qua tay Kiều Mã Linh, chị nhìn lướt qua rồi cười nói, “Ớ, mẹ xem, không phải cùng con thuyền với chúng ta sao?”

Bà Kiều chẳng thèm nhướng mày, “Ồ, thế à? Đi Hương Cảng vào ngày này có đến bốn năm chuyến, cô ta mua vé cũng khéo thật.”

Cuối cùng vé thuyền cũng vào tay Sở Vọng, một tờ giấy mỏng tanh in rất nhiều con dấu. Trên vé ngoài hai chữ Hongkong và Shanghai ra, bắt mắt nhất chính là tên tiếng Anh của Sở Vọng. Đằng sau khi hai hàng chữ phồn thể to tướng: Để làm thủ tục cần mang theo đầy đủ, nếu thiếu tấm vé này sẽ không có hiệu lực.

Chỉ là một tờ vé mỏng ơi là mỏng, nhưng Sở Vọng cầm trên tay lại thấy nặng trĩu, như thể số mệnh của mình lần đầu tiên đi qua tay bà Cát, rồi trịnh trọng được đặt vào tay cô.
 

MUALARUNG91

Tác giả
Sưu tầm
Tham gia
25/8/19
Bài viết
4,780
Điểm cảm xúc
577
Điểm
113
Chương 52: Anh Tạ và anh Hoàng (1)
Ngày hôm sau Hoàng Mark dậy từ khi còn sớm, một mình lái xe đưa đón đến ngoài biệt thự nhà họ Lâm, quả thực là hình mẫu người con rể Trung Hoa đầy lý tưởng. Sở Vọng cũng chẳng có đồ đạc gì để dọn dẹp, đi ngủ sớm nên cũng dậy rất sớm. Lúc mọi người đang ăn canh vằn thắn thì chuông cửa vang lên. Giúp việc đến thưa: “Hai người đến ạ.”

“Hai người nào?” Lâm Du hỏi.

“Một người tự xưng là tài xế đến đón cô ba, một người khác là người hầu nhà họ Tư do cậu Tư sai đến, ôm một chú gấu rất to, bảo là tặng cô ba.”

Dưới ánh mắt của mọi người trong nhà, chú gấu teddy cao quá nửa thân hình được người ta ôm lấy, từ bậc cửa có vẻ hơi hẹp ở nhà họ Lâm đi vào trong phòng.

Mọi người trong nhà giữ nguyên tư thế cầm bát, không biết nên dùng biểu cảm gì để tiếp đón vị khách không mời này: “…”

Sở Vọng cũng chỉ biết gãi đầu gãi tai nhìn trời.

Lâm Du ho khan hai tiếng: “Không phải thuyền của con bé ba xuất phát trễ mười lăm phút à, sao bên kia đến đón sớm vậy?”

Giúp việc đáp: “Bên kia nói là cậu Tạ tiện đường nên đến đón hộ bà Cát, vì dậy sớm nên đến sớm. Cậu ấy bảo cô ba cứ ăn từ từ, không vội, cậu ấy có thể chờ.”

Lâm Tử Đồng hỏi: “Cậu Tạ nào? Tạ Trạch Ích hả?”

Giúp việc thưa: “Đúng là cậu ấy ạ.”

Bà Kiều nhìn Kiều Mã Linh, hai mẹ con cúi đầu ăn cơm không nói năng gì.

Hoàng Mark mừng rỡ: “Là Tạ Trạch Ích, một trong số những du học sinh Mỹ xuất sắc nhất được hội Phi Beta Kappa* tôn vinh ư?”

(*Hội Phi Beta Kappa là tổ chức tôn vinh sinh viên xuất sắc nhất nước Mỹ, được thành lập từ năm 1776, được xem là hội sinh viên đầu tiên của nước Mỹ. Thành viên của hội sẽ có một chiếc chìa khóa vàng khắc ba chữ cái “Φ BK”.)

“Sinh viên xuất sắc là người Trung Quốc? Cũng hiếm đấy.” Lâm Du ngạc nhiên hỏi, “Là con nhà ai thế?”

Lâm Tử Đồng nghĩ ngợi rồi nói với bà Kiều, “Cha cậu ta là Tạ huân tước, hình như kinh doanh tất chân xà phòng ở Thượng Hải ăn nên làm ra, duy trì nền công nghiệp điện ảnh mấy năm, sau đó chuyển tới Hương Cảng. Nghe nói ở Hương Cảng cũng như cá gặp nước, có chân ở cả trong giới người Hoa lẫn người Anh.”

Lâm Du nhìn bà Kiều: “Chị có biết Tạ huân tước không?”

Bà Kiều hừ cười, “Thì cũng quen sơ sơ.”

“Sao con trai ông ta lại đến đón người thay nó?”

Kiều Mã Linh mỉm cười nói: “Tạ huân tước rất nể dì út…”

Bà Kiều trừng mắt với cô, “Nể cái gì mà nể? Chẳng qua ngày trước khi Tạ huân tước chưa là ai, ông ta hay đến cái nơi cũng không ra gì của cô ta, thường xuyên qua lại nên quen biết thôi. Hiện tại nhớ ân tình cũ nên xem cô ta như người tin cậy.”

“Vậy Tạ huân tước cũng không phải là người đứng đắn sao?”

Lâm Tử Đồng cười nói, “Cha nói sai rồi. Người nổi tiếng bây giờ ấy à, bên cạnh lúc nào cũng có năm ba cô như hoa như ngọc để có tiếng hơn. Chẳng qua cha toàn kết bạn với các lão giả bảo thủ mà thôi.”

Lâm Du thở dài, “Có điều hai nhà Lâm Tư vẫn còn đứng đắn chán. Chứ mấy người khác, bên ngoài đâu thiếu vài ba kỹ nữ.” Lúc này mới nhìn Sở Vọng: “Đừng để người ta đợi lâu.”

Lâm Tử Đồng đứng dậy, vừa đi vừa cười nói: “Em ba cứ từ từ mà ăn, anh ra ngoài nói chuyện với cậu ấy một lát.”

Hoàng Mark cũng đứng dậy đi cùng Lâm Tử Đồng ra ngoài, để gặp tận mặt thành viên vinh dự của hội Phi Beta Kappa.

Ba chàng trai đứng ngoài nhà không biết nói chuyện gì. Còn ở trong nhà, hai mẹ con bà Kiều đưa mắt nhìn nhau, bốn con mắt như nối thành chuỗi đưa qua đưa lại như kịch đèn chiếu, trông rất buồn cười.

Một lúc sau, cuối cùng Kiều Mã Linh cũng ngồi đứng ngồi không yên, ngồi bên cạnh Sở Vọng cười bảo: “Em ba à, một buổi sáng đón người tiễn khách bận rộn lắm, em xem, anh trai và anh rể em cũng chưa ăn được bao nhiêu. Hơn nữa cũng không thể để cậu Tạ đợi lâu được đúng không?”

“Vì cha và chị sắp đi nên em định ở lại với hai người một lúc.” Sở Vọng thở dài, giả vờ lưu luyến chia tay, “Vậy cha, chị hai, con ra bến cảng trước đã ạ.”

Cô đeo cặp sách lên rồi ôm lấy chú gấu to tướng, vừa ra đến cửa đã nhìn lướt qua: bốn người trong phòng, có người ngoài cười nhưng trong không cười, có người cảm kích, có người giả vờ khóc lóc, cũng có người thở phào. Trong căn biệt thự nhà họ Lâm nho nhỏ lại có đủ trò đủ loại, gì cũng có.

Sở Vọng cảm thấy nực cười, vừa bước ra khỏi cửa là thấy thoải mái hẳn.

***

Vừa ra khỏi cửa đã thấy Hoàng Mark và Lâm Tử Đồng đứng dưới mái hiên trò chuyện vui vẻ với một người đàn ông cao ráo. Anh Hoàng cười tươi như làn gió mát, còn anh Tạ vui vẻ tự đắc, không hề ngửi thấy mùi khói súng khi tình địch gặp nhau.

Hoàng Mark trông thấy cô trước, vẫy tay với cô, “Em ba, cậu Tạ chờ em lâu lắm rồi đấy.”

Sở Vọng nhìn Tạ Trạch Ích, lễ phép cười nói: “Nếu biết anh Tạ đến sớm thế này thì nhất định em sẽ dậy sớm hơn.”

“Dì Cát định tới đón em, có điều tối qua đi dự tiệc khuya quá. Tôi muốn dì ấy nghỉ ngơi thêm nên xung phong đến đón.”

Sở Vọng cười nói: “Thế thì gọi tài xế đến đón là được mà, cần gì phiền anh Tạ đích thân đến đón?”

“Còn phải xem đón ai đã.” Tạ Trạch Ích nghiêm túc lắc đầu, “Nếu là người khác thì tôi cũng không bảo tài xế đến đón làm gì. Nhưng cháu gái trong nòng dì Cát, tôi nào dám thất lễ?”

Sở Vọng ngẩng đầu nhìn vào mắt anh rể và anh trai – chỉ thấy hai người họ vẫn cười rất tươi, không phát hiện ra phát âm buồn cười của Tạ Trạch Ích. Lâm Tử Đồng vỗ đầu cô, dặn dò, “Được rồi, lên xe đi, gặp lại ở Hương Cảng. Anh Tạ, sau này có dịp hãy đến Thượng Hải chơi.”

Tạ Trạch Ích đi hai ba bước vòng qua xe, định xách hành lý giúp Sở Vọng. Nhưng lại thấy cô chỉ đeo một chiếc cặp sách Cambridge, vất vả ôm một chú gấu bông to tướng trong tay, di chuyển từng bước một mở cửa xe rồi ngồi lên ghế. Bàn tay Tạ Trạch Ích đặt trên đầu con gấu khựng lại, sau đó nhanh chóng rụt về, xoay người mở cửa bên ghế lái ra.

Xe chậm rãi rời đi, Tạ Trạch Ích hạ cửa kính xuống, mỉm cười nói với hai người bên ngoài biệt thự nhà họ Lâm: “Gặp lại sau.”

Xe chạy đi được một đoạn thì Sở Vọng cũng vật lộn với con gấu xong, để nó ngồi song song với mình ở phía sau, sau đó đưa mắt nhìn ra cao ốc ở bên đường ngoài cửa kính.

“Không nỡ rời Thượng Hải à?” Tạ Trạch Ích nhìn ra sau qua gương chiếu hậu, nhưng chỉ thấy mỗi con gấu to lớn kia.

“Không hề.”

“Thế nhìn kỹ như vậy làm gì?”

Sở Vọng bật cười, “Nhìn xem rốt cuộc nó hoang đường tới đâu.”

“Hoang đường? Đây là trung tâm tài chính lớn nhất Viễn Đông đấy.”

“Bên ngoài tô giới người người đổ máu, còn trong tô giới lại là cảnh ca múa thái bình. Có câu thơ là ‘đào hát biết chăng sầu mất nước’*, đúng là tả thực Thượng Hải bây giờ – một kiểu sầm uất quái dị.”

(*Câu thơ trong bài Bạc Tần Hoài của Đỗ Mục, Túc Mỡ dịch.)

“Ừ. Nói như thế, tôi cũng hiểu vì sao em không đi du học rồi đấy. Vì sao em lại muốn đến Hương Cảng? Hương Cảng là đất của người Anh mà.”

“Chỉ là cho họ mượn Hương Cảng thôi, sớm muộn gì cũng phải trả lại.”

Tạ Trạch Ích mỉm cười, kiên trì hỏi lại, “Vậy vì sao không đi du học?”

Sở Vọng nhìn anh ta, im lặng một lúc rồi hỏi, “Anh Tạ biết rõ chị Mã Linh đã kết hôn mà lại còn nói chuyện với anh Hoàng, khiến người khác thêm rắc rối, vì sao?”

“Ồ? Thì ra là anh Hoàng đó hả?” Tạ Trạch Ích nghĩ ngợi, sau đó trả lời, “Chuyện giữa tôi và Mã Linh, là cô ấy lựa chọn bỏ tôi sau khi đã cân nhắc, nên tôi cũng không cần phải áy náy, và cả cô ấy cũng vậy. Vì sao lại có rắc rối?”

“Thế anh cho rằng vì sao tôi không đi du học?”

“‘Học sở trường của phương Tây để đánh phương Tây’.”

“Không đi du học cũng là lựa chọn sau khi tôi cân nhắc. Bản thân tôi cũng không hối hận về chuyện này. Việc gì anh Tạ phải than tiếc thay tôi?”

Tạ Trạch Ích cười khẽ, “Tán gẫu thôi mà.”

“Tán gẫu nhân tiện luyện tập tiếng Trung?”

“Tiếng Trung của tôi sai lắm à?”

Sở Vọng nhạy bén, “Anh nói tôi là gì của cô út?”

“Là người trong nòng.” Anh không đổi sắc lặp lại một lần.

Sở Vọng bật cười.

Tạ Trạch Ích thở dài, “Từ này khó học quá.”

Sở Vọng nhìn ra ngoài cửa sổ, “Trẻ em là nòng cốt quốc gia.”

“Ừm, nòng.”

“Công ty Hoa Thắng ở Bạng Phụ, làm ăn thật lòng.”

“Ừm, lòng.”

“Người trong lòng.”

“Người trong nòng lòng.”

“…”

Xe từ đường số 2 chạy vào bến Thượng Hải. Ở bến có tàu đánh cá cũng có thuyền du lịch, trên bến có xe kéo cũng có xe hơi màu đen, có người nước ngoài đi giày Tây, cao to cường tráng bước đi vội vã, cũng có phu xe áo tả tơi bẩn thỉu, thấp bé gù lưng. Hai binh sĩ hạ cấp nước Mỹ ngồi trên xe kéo chụp ảnh, vừa cười vừa lôi kéo phu xe xanh xao gầy gò đến chụp cùng mình – với tư thái của khách và chủ, hầu hạ và được hầu hạ.

Ở phố đi bộ bên trái bờ sông có rất nhiều biển quảng cáo mọc lên san sát. Xe lao vụt đi quá nhanh, Sở Vọng chỉ kịp nhìn thấy tấm biển cuối cùng, kèm với tiếng Tạ Trạch Ích lẩm nhẩm đọc tên biển quảng cáo rèn tiếng Trung.

“Miệng thơm tho… Nặn cái gì?”

“Nặn kem.”

“Sữa cái gì, già trẻ cái gì?”

“Sữa hiệu con ó, già trẻ đều uống.”

“Mấy chữ này tôi biết. Tiệm chụp ảnh Loli… Ủa? Người vừa đi ra đó không phải là bạn trai em sao?”

Tạ Trạch Ích phanh gấp lại, Sở Vọng lập tức đẩy cửa ra bước xuống xe. Nhưng anh đã đi được một đoạn, lại còn cách cả một con đường. Sở Vọng chạy theo song vẫn không bắt kịp.

Tạ Trạch Ích thoáng trầm ngâm, chậm rãi đi cạnh cô, nói, “Em lên xe đi.”

Lái xe đi một đoạn, Tạ Trạch Ích giải thích: “Thuyền đi Anh Quốc ở phía sau, đằng trước là bãi đậu của thuyền đi Hương Cảng.”

“Tôi biết… Thuyền của anh ấy sớm mười lăm phút, đợi anh ấy đến bến tàu bên kia rồi vòng về lại thì sẽ lỡ giờ lên thuyền mất…” Sở Vọng kiệt sức lấy hơi, mắt nhìn chằm chằm phía trước, “… Anh ấy muốn đi tìm tôi.”

Xe vẫn chậm rãi đi theo Sở Vọng, Tạ Trạch Ích đỡ vô lăng, nhưng nửa người như nằm nhoài lên đó, trong mắt thấp thoáng ý cười. Nếu đôi mắt ấy biết nói thì kiểu gì cũng sẽ nói là: đầu óc cô bé này đúng là có vấn đề.

Sở Vọng nhìn đôi mắt ấy thoáng đăm chiêu, lúc này mới ý thức được một điều: đây là dân quốc. Cả Thượng Hải cũng chỉ có hai mươi nghìn chiếc xe hơi, thậm chí còn không có quy tắc giao thông, xe ở ngoài bến Thượng Hải muốn đổi đường là đổi đường, muốn vượt xe hay quay đầu đều được.

Cô đập vào gáy, lập tức chui lên xe. Tạ Trạch Ích bật cười, ngồi dậy đạp lút cần ga.

Hai người đuổi theo sau bóp còi hai lần, Tư Ngôn Tang ngoái đầu lại, cách lớp cửa kính trông thấy chú gấu Teddy to lớn ở băng ghế sau.

Sở Vọng vừa xuống xe, Tư Ngôn Tang đã cúi người đưa cho cô chiến lợi phẩm mình thức cả đêm làm: năm tấm ảnh, lấy Sở Vọng làm tiêu điểm.

“Tối qua anh không ngủ hả?”


Anh gật đầu: “Muốn đưa ảnh cho em trước khi đi, coi như kịp nói lời từ biệt.”

“Nhưng nếu em không gặp anh ở đây, anh mà đi về thì không kịp còn gì.”

“Thế sao?” Anh cười gượng, “Không phải đã gặp được rồi đấy à?”

Thật ra vừa nãy Sở Vọng có hơi tức giận, nhưng vừa thấy nụ cười của anh thì lửa giận bốc lên lập tức biến mất, chỉ biết cúi đầu im lặng.

“Giận anh à? Thế anh đi đây.”

“Ừ.”

“Anh đi thật nhé?” Anh nghiêng người đi, nhưng vẫn ngoái đầu nhìn Sở Vọng.

“…”

Ảnh được bỏ vào trong bì thư, rồi bì thư lành lạnh lại được nhét vào tay Sở Vọng. Tư Ngôn Tang mở cửa xe cho cô, “Để lưu lại ấn tượng lịch thiệp cuối cùng cho em, anh sẽ nhìn em rời đi.”

Sở Vọng ngồi vào xe, anh lại khép cửa cho cô, sau đó xoa đầu rồi thu tay về, đứng bên đường mỉm cười.

Cô gác cằm lên cửa xe, cau mày nghĩ ngợi rồi nói, “Em nhớ anh đã nói, anh muốn làm một người giống Cố Duy Quân.”

Tư Ngôn Tang sững sờ, sau đó gật đầu, “Em vẫn nhớ nhỉ.”

“Anh đừng quên đấy.”

Cô dặn dò xong thì quay sang nói với Tạ Trạch Ích, “Anh Tạ, làm phiền anh lái xe đi.”

Cửa xe nâng lên, Sở Vọng nghiêng đầu đi, không nhìn bên đường nữa. Cho tới khi xe chạy được một quãng thì cô mới ngoái đầu lại, anh vẫn còn đứng đó, không biết là vì thấy được Sở Vọng quay đầu, hay nhớ ra còn điều chưa nói, hay gặp phải người quen nào đó – mà chấm trắng ấy tiến lên trước hai bước.

Xe rẽ ngoặt, không còn thấy bóng anh đâu nữa.

___

*Qin: Một vài fanart của Lâm Trí, mình không up ảnh Zoe hay Tư đâu vì vẽ không hợp nhãn mình okay.:))

006imn98ly1g3bfiva9nbj30ti0zkwim


006Imn98gy1fu03eoju3gj30s71dqwj2


Thực ra tấm này mình định để sau sẽ đăng, nhưng thôi đăng trước đến đoạn này sẽ đăng lại nếu nhớ.:))
 

MUALARUNG91

Tác giả
Sưu tầm
Tham gia
25/8/19
Bài viết
4,780
Điểm cảm xúc
577
Điểm
113
Chương 53: Anh Tạ và anh Hoàng (2)
Đến bến cảng Jardine Matheson, Sở Vọng ôm gấu Teddy chậm rãi bước xuống xe, đưa mắt nhìn ra khắp cả bến cảng —— những con thuyền bằng sắt sơn màu trắng đỏ đang đậu trên bến, trên thân thuyền sơn ba chữ “K.P.M” thể hiện tên đường biển. Có vẻ là thuyền từ Yokohama đến, chỉ dừng lại ở bến cảng Thượng Hải mấy tiếng. Tiểu thương không muốn rời thuyền thì ngồi trên boong ở tầng hai cò kè bán cam với người trên bến, còn những người rời thuyền thì đều ngồi xe kéo – nét đặc trưng của Thượng Hải – đi ra ngoài Bến du ngoạn.

Có tòa soạn nào đó đang thực hiện phỏng vấn ở bến cảng, giơ máy ảnh chụp vài ba cô gái Nhật Bản trang điểm đậm, mặc kimono đi guốc gỗ. Vì anh chàng ở tòa soạn không biết tiếng Nhật nên chỉ nói đi nói lại được mấy câu như “kawaii” hay “sumimasen”*, làm cô gái người Nhật bật cười vui vẻ.

(*“Dễ thương” và “xin lỗi đã làm phiền”.)

Xe đã dừng lại, Tạ Trạch Ích đứng cạnh cô cũng đang nhìn tòa soạn phỏng vấn cô gái người Nhật kia, mãi đến khi hai người họ đỏ bừng mặt vì bị anh nhìn chằm chằm mới thôi. Nhưng có vẻ Tạ Trạch Ích lại không hề phát hiện ra, còn quay sang hỏi cô: “Lên thuyền trước hay muốn đợi dì Cát đến rồi lên sau?”

Đang nói chuyện thì có bốn năm chiếc xe Dodge rầm rộ chạy vào bến, sau đó đồng loạt dừng xe. Hai ba người đàn ông mặc giày Tây bước xuống xe, vội vàng mở cửa chiếc xe thứ hai ra. Ngay sau đó, một đôi chân dài đi giày cao gót màu đen xuất hiện, rồi mọi người phát hiện, chủ nhân của đôi chân đẹp đó đúng là một mỹ nhân – mỹ nhân mặc đồ đen từ đầu tới chân, làm bật lên nước da nõn nà pha chút xanh; tuy đã ở tuổi xế chiều nhưng lại có có sự phong độ đỉnh cao của độ tuổi này, càng có sự rành đời quyến rũ mà con gái trẻ tuổi không có, không phải là bà Cát thì còn ai nữa.

Bà Cát bước xuống xe, cười lạnh khoát tay như muốn xua mấy người đàn ông rất nhiệt tình kia rời đi. Nhưng chẳng ai chịu đi hết, ba năm người áo mũ chỉnh tề xách rương hòm của bà đi theo sau. Bà nhướn mày vờ tức giận, tiện thể nhận lấy chiếc cặp làm từ dây mây trong tay người đàn ông tròn vo bên cạnh, sải bước dài hùng hổ đi thẳng đến bến cảng. Đi được hai bước thì liếc thấy Tạ Trạch Ích cao ráo, lúc này bà mới dừng lại, bật cười một tiếng, Tạ Trạch Ích dẫn Sở Vọng đến cạnh bà Cát. Mấy người đàn ông kia vô cùng tinh mắt, nhanh tay nhận lấy luôn con gấu to tướng Sở Vọng đang ôm.

Sở Vọng trơ mắt nhìn chú gấu của mình bị cướp đi: “…”

Tạ Trạch Ích cũng đưa mắt nhìn con gấu đồ chơi mà Sở Vọng không cho anh đụng, sau đó vui vẻ mỉm cười, quay sang nói với bà Cát: “Dì Cát có ngủ ngon không?”

Bà Cát liếc anh: “Đồ láu cá nhà cậu, ai bảo cậu đến nhà họ Lâm làm gì?”

“Tối qua cả khách sạn đều biết nhân vật nổi tiếng số một số hai đến Bến Thượng Hải, dì Cát phải đi đón tiếp, sợ dì mệt, nên vãn bối làm chút chuyện nhỏ giúp dì thôi mà.”

“Tiểu tử nhà cậu,” Bà Cát hừ một tiếng, miễn cưỡng tha cho anh tự ý làm việc, “Một mình xử lý chuyện này cũng không tệ.” Rồi vẫy tay với Sở Vọng, gọi cô đến bên cạnh mình.

Tạ Trạch Ích cười vâng dạ liên tục, rồi mọi người theo lối đi riêng tiến vào khoang hạng nhất. Nhóm người hầu vú già được bà Cát dẫn theo để chuẩn bị hành lý giờ lại thành hai tay trống trơn đi theo phía sau, làm như không thấy tình cảnh trước mắt, bình thản lên thuyền như đã quá quen.

Sở Vọng và bà Cát cùng hai cô gái người hầu là Mật Thu và Lật Thích, thêm hai vú già ở cùng một phòng, Tạ Trạch Ích ở phòng bên cạnh. Đợi thu dọn hành lý xong xuôi, bà Cát đi ra ngoài nói chuyện với vài thương nhân buôn thuốc lá Thượng Hải một lát, sau đó mới xua hết người đi. Quay về trong phòng, bà cởi giày cao gót nằm nghiêng trên ghế sofa, Mật Thu và Lật Thích hỏi: “Thưa bà, tối nay có tham gia yến tiệc trên thuyền không ạ?”

Bà Cát mệt mỏi tới mức không nhấc nổi mí mắt, “Không đi không đi, mệt chết đi được.”

Mật Thu đánh mắt ra hiệu cho Lật Thích: “Vậy để em đem bữa tối lên cho bà.”

“Đem làm gì? Thay áo ngủ cho tôi, ngủ thẳng đến Hương Cảng luôn.”

Tuy nói thế nhưng bà lại đưa mắt nhìn Sở Vọng. Thấy bà Cát nhìn mình, Sở Vọng vội ngồi xuống trước mặt bà, “Cô út không cần lo cho cháu đâu. Cô cứ ngủ đi, cháu không đi lạc đâu.”

Bà Cát cười, “Làm sao có thể mặc kệ cháu được?” Rồi bà hất cằm chỉ vào Mật Thu, “Lát nữa muốn ăn gì chơi gì thì cứ bảo Mật Thu.”

Nói rồi bà nghiêng đầu, tầm nhìn vượt qua Mật Thu, nhướn mày hỏi, “Lật Thích, em thập thò cái gì đấy?”

Mật Thu không vui, chặn Lập Thích ở phía sau. Lập Thích càng không vui, bĩu môi, nhưng vẫn trả lời: “Vừa nãy lên thuyền có nhà sưu tầm tranh họ Tôn ở Thượng Hải đưa danh thiếp đến, nói muốn mời bà đi xem tranh của ông ấy.”

“Rốt cuộc họ Tôn kia có quan hệ họ hàng với cô hay là hoàng thân quốc thích thế hả, mà việc gì lại vội vã nhờ cô làm trung gian như thế? Đã mấy hôm bà chưa được ngủ, cô không biết giữ im lặng cho bà hả?” Mật Thu cười lạnh mắng, khiến Lật Thích mắt hoen đỏ không dám ngẩng đầu lên.

“Người nên giữ im lặng chính là hai đứa đấy.” Bà Cát xoa trán, không còn dư sức để dạy dỗ kẻ dưới nữa, “Lát nữa các em sang bên cạnh mời cậu Tạ hộ tôi, nếu cậu ta rảnh thì bảo cậu ta đi thay tôi.”

Hai người cúi đầu thưa vâng.

Lật Thích mở cửa ra, đi sang bên cạnh mời Tạ Trạch Ích. Nhưng cửa vừa mở thì khoang ở đối diện cũng mở cửa, đồ đạc va nhau inh ỏi một trận làm bà Cát đau cả đầu. Đang định đóng cửa thì bà Cát ngăn lại, hỏi, “Bọn họ là ai thế?”

Mật Thu ló đầu ra nhìn, sau đó cười nói, “Hàng xóm cũ ở đường Bá Tước ạ.”

Bà Cát cười lạnh, nhắm mắt mấy phút rồi trợn mắt nhìn Sở Vọng, nói, “Lát nữa Tạ Trạch Ích đi xem tranh, nếu cháu muốn thì cứ đi với cậu ta, mở mang thêm kiến thức cũng tốt.”


Sở Vọng đáp vâng, lúc này bà Cát mới vùi mình trong ghế sofa, sự sắc bén kiêu ngạo của ngày thường cũng biến mất.

Lập Thích quay về khép cửa lại, một lúc sau thuyền bắt đầu chòng chành. Sở Vọng ngồi trên sofa cạnh bà Cát đọc sách giáo khoa môn phiên dịch, Mật Thu thấy vậy thì bật đèn bàn lên cho cô, rồi đem nước ấm đến. Vì bà Cát đang say giấc nên người trong phòng rất khẽ khàng, rón rén bước đi không dám quấy nhiễu bà, cũng vì vậy mà âm thanh ở ngoài cửa được phóng đại lên.

Một giọng nam trầm vô cùng bình tĩnh, là anh rể Hoàng Mark: “—— Đã chuẩn bị thuốc say sóng cho mẹ rồi, để dì Triệu cầm theo.”

Giọng nữ trung trầm thấp, là bà Kiều: “Lát nữa hai đứa định đi đâu chơi?”

Giọng nữ nhỏ nhẹ êm tai: “Ăn cơm xong, hai tụi con sẽ đi khiêu vũ, cũng không có gì để giết thời gian nữa.”

Bà Kiều nói: “Đừng chơi quá trớn là được.”

“Không có đâu mẹ. Có cần dẫn Chân Chân theo không? Chỉ có một mình sợ em ấy chán.”

“Dẫn nó theo làm gì? Không được dạy dư con gái.”

Kiều Mã Linh đang định thêm song cũng biết không lay chuyển được bà Kiều, nên cũng không xin xỏ thêm giúp Chân Chân nữa. Bên ngoài im lặng một lúc rồi tiếng cười nói của Kiều Mã Linh và anh Hoàng lại vang lên, còn Tiết Chân Chân xưa nay hoạt bát lại không nghe thấy có động tĩnh gì. Sở Vọng miễn cưỡng dịch nửa tác phẩm Trần Tình Biểu thành văn xuôi, sau đó khép sách giáo khoa lại, đi gõ cửa phòng đối diện. Dì Triệu đi ra mở cửa, cô cười nói: “Cháu muốn mời Chân Chân đi ăn tối chung.”

Bà Kiều thấy thế thì nói: “Đúng lúc lắm, cháu dẫn nó đi chơi đi.” Tiết Chân Chân đang ủ rũ trên ghế, vừa nghe thấy giọng của Sở Vọng thì lập tức khôi phục lại ba phần sức sống, đứng dậy đi ra ngoài.

Cửa khoang phòng nhà bác cả vừa khép lại, Tiết Chân Chân lập tức ôm tay Sở Vọng nói: “Chị thật sự không muốn ngủ cùng phòng với mợ đâu.” Rồi cô nàng gục đầu xuống, “Chị ở trước mặt mợ cả ngày làm gì chứ? Để cho bị mắng à.”

Sở Vọng mỉm cười, cũng vòng tay ôm tay cô ấy rồi đi nhấn chuông cửa phòng bên cạnh phòng bà Cát. Tạ Trạch Ích mặc áo sơ mi khoác thêm áo khoác đi ra mở cửa, cụp mắt *hửm* một tiếng, nhường đường một cách vừa lễ độ vừa cợt nhả, “Mời hai quý cô vào.”

“Chúng ta đến đây làm gì…” Tiết Chân Chân kéo tay cô, đuôi mắt liếc nhìn Tạ Trạch Ích, nhỏ giọng nói.

“Cô Cát đang ngủ, mượn chỗ của anh Tạ nói chuyện để tránh làm phiền cô ấy.” Sở Vọng kéo Chân Chân ngồi xuống hai chiếc ghế mây cạnh cửa sổ, “Dù gì lát nữa cũng phải đi ăn tối với anh Tạ, giờ đến sớm, chắc anh Tạ không để ý đâu nhỉ?”

Tạ Trạch Ích cười nói, “Vinh hạnh vinh hạnh, cứ thoải mái trò chuyện đi, coi như không có tôi là được.”

Trong phòng của Tạ Trạch Ích có thêm một phòng trà nhỏ. Anh nói rồi đi thẳng vào phòng trà, cũng rất biết ý tứ khép cửa lại.

“Ồ…” Tiết Chân Chân thán phục, “Cậu công tử này có quan hệ gì với cô út của em thế?”

“Em cũng không rõ lắm.” Sở Vọng đáp đúng sự thực.

Hai người than tiếc một hồi, rồi đột nhiên Tiết Chân Chân ghé vào tai Sở Vọng, “Theo chị quan sát được, sau khi kết hôn chị Mã Linh cũng không hạnh phúc đâu, hai người họ giả vờ thân mật trước mặt mợ, chẳng qua là vì thể diện của hai bên thôi.”

Sở Vọng nhớ lại dáng vẻ Hoàng Mark ở Thượng Hải mấy ngày qua, làm tùy tùng cho nhà họ Kiều, lúc mọi người nói chuyện thì im lặng không xen vào, nom rất thành thật. Sở Vọng khó hiểu, “Sao chị lại nói thế?”

“Ban nãy lúc lên thuyền, chị im lặng đi cuối cùng, vô tình nghe thấy chị Mã Linh kéo anh Hoàng đi cuối, thấp giọng năn nỉ: ‘Trước khi đến Hương Cảng, chí ít ở trước mặt mẹ tôi thì anh giả vờ cho giống chút. Nếu để mẹ tôi biết được anh làm những chuyện gì ở bên ngoài…’”

“Sau đó?”

“Sau đó chị ấy nói nhỏ quá, chị nghe không rõ.” Nhìn sắc mặt Sở Vọng, Tiết Chân Chân bổ sung thêm, “Chị cũng không thể đứng lại nghe lén được, nên phải rời đi.”

“…”

Đang nói chuyện thì chuông cửa vang lên. Tạ Trạch Ích nâng tách trà đi ra mở cửa, bên ngoài là một quý bà mặt mũi hiền từ. Tạ Trạch Ích mỉm cười, “Chào bà Tôn, mời bà chờ chút, tôi sẽ đến phòng ăn ngay.”


Nói rồi anh khép cửa lại, thắt cà-vạt, cho quần Tây vào trong giày – hiện tại người phương Tây đang thịnh hành phong cách như thế.

Thiếu nữ Chân Chân mặc âu phục tay áo cánh sen thêu ren hoa, cùng với thiếu nữ Sở Vọng mặc váy đầm chiết eo màu xanh xám đi theo Tạ Trạch Ích Tây trang giày da rất ra gì cùng ra cửa. Đến lúc phòng ăn, tổ hợp kỳ quái này đã thu hút ánh mắt của các quý ngài quý cô trong phòng.

Mọi người đi thẳng đến buồng treo rèm trúc do ông Tôn đã chuẩn bị trước, Tạ Trạch Ích mỉm cười giới thiệu: “Đây là hai em gái nhà tôi.”

Bà Tôn cười nói: “Nghe bảo ở Hương Cảng, Tạ huân tước có vai vế rất cao, ngay đến cậu Tạ cũng không cần phải nể nang các chú thím tuổi trên năm mươi. Không biết vì sao cậu lại gọi hai cô gái này là em gái?”

Tạ Trạch Ích nói, “Dì Cát gả cao, nên dĩ nhiên cháu gái dì ấy cũng có địa vị cao hơn.”

Bà Tôn lập tức chú ý đến Sở Vọng và Chân Chân, sau đó dẫn hai người vào ngồi.

The như lời của Tạ Trạch Ích, lúc này hai cô gái mới ý thức được một điều: thì ra anh nhỏ thua bà Cát một lứa. Thế nên Tạ huân tước ngang hàng với bà Cát mới là lam nhan tri kỷ của bà.

Tạ Trạch Ích hỏi: “Sao không thấy ông Tôn đâu?”

Bà Tôn ái ngại nói: “Lúc nãy đi mời bà Cát, người hầu bà ấy nói bà nhà bị bệnh nên không đến được. Ông nhà tôi nghe thế thì sốt sắng, lại nghe nói bà Kiều và con gái cũng ở trên thuyền, nên trước khi cậu Tạ đến đã đi mời bà Kiều rồi, lát nữa con gái và con rể của bà Kiều cũng sẽ đến, không biết có mạo phạm cậu Tạ không?”

Tạ Trạch Ích nghe thế thì trầm ngâm. Một lúc sau, trên mặt nở nụ cười thâm sâu: “Sao có thể chứ? Vừa hay tôi và con gái bà Kiều cũng được coi là cùng một thầy dạy xem tranh.”

__

Tác giả giải thích: Trước đó không muốn nhắc đến vì để sau này sẽ dẫn dắt. Nhưng sợ có người đọc không hiểu nên nói trước: mẹ của Sở Vọng là tài nữ, nên bà đã mời họa sĩ Ngô Xương Thạc dạy bà Cát hội họa mấy năm, cũng là học trò duy nhất của ông, cho nên bà Cát khá có danh tiếng trong giới.

Kiều Mã Linh ngưỡng mộ phong thái của bà Cát, từ năm 14 tuổi đã bắt đầu đến biệt thự nhà họ Cát học hội họa. Tạ Trách Ích thường xuyên lui tới biệt thự, vì theo đuổi Kiều Mã Linh nên cũng học hội họa cùng cô ấy. Những điều này chính văn không viết rõ, mọi người cần tự suy ra, sau này có chi tiết cũng nhắc đến, coi như bổ sung.
 

MUALARUNG91

Tác giả
Sưu tầm
Tham gia
25/8/19
Bài viết
4,780
Điểm cảm xúc
577
Điểm
113
Chương 54: Anh Tạ và anh Hoàng (3)
Ông Tôn dẫn đôi vợ chồng trẻ tới, mọi người bình thản hàn huyên một hồi. Lúc sau nhân viên trên thuyền đến hỏi có muốn uống gì không, ông Tôn nhớ hai người Hoàng, Tạ đều là Hoa kiều, và vì đang ở trên thuyền Singapore của Anh nên gọi một chai Whisky. Ông Tôn lại hỏi Tạ Trạch Ích là hai cô gái này uống gì, Tạ Trạch Ích quay sang hỏi rồi gọi cho mỗi người một ly sữa dâu.

Có vẻ ông Tôn muốn di cư đến Mỹ, cho nên gần đây đang muốn bán bớt đồ cũ trong nhà đi. Vì vẫn không biết làm thế nào với mấy bức tranh treo tường của thầy Thạch, nên mới cố tình đem đến để xin ý kiến của bà Cát.

Mấy bức tranh gắn trục cuốn được cuộn tròn lại, đựng trong ống đựng tinh xảo. Nên khi mở ra, nhất định phải có người nắm lấy bốn gốc thì mới xem được. Anh Hoàng và Kiều Mã Linh cầm một bức, ông Tôn và bà Tôn cầm một bức, còn Chân Chân và Sở Vọng cũng giúp Tạ Trạch Ích nắm lấy một góc của bức tranh còn lại.

Kiều Mã Linh cẩn thận nhìn kỹ, “Tranh của thầy Thạch vốn rất đáng tin, lại còn có thể bán được với giá tốt.” Cô nghiêng đầu, thấy Tạ Trạch Ích vẫn nhíu mày nhìn hết tranh này sang tranh khác, làm cô cũng không quá chắc chắn, “Có điều hiện tại, ở bên ngoài có rất nhiều tranh treo phòng của thầy Thạch…” Rồi chị cười cáo lỗi: “Học nghệ không tinh, không thể giúp ông Tôn bà Tôn được.”

Bà Tôn cười nói: “Không sao.” Nhân tiện nhìn sang Tạ Trạch Ích, “Cậu Tạ thế nào?”

Anh cười nói: “Có chút thiển ý.”

Ông Tôn bảo: “Mời cậu cứ nói, đừng ngại.”

“Bức tranh hoa hạnh bốn thước và bức tranh thạch lựu khổ to này có thể bán được với giá tốt, còn bức tranh mẫu đơn ba thước tốt nhất vẫn nên giữ lại.”

“Vì sao cậu lại nói thế?”



“Hiện giờ quân phiệt hỗn chiến đã nhiều năm, ai ai cũng chạy ra nước ngoài, đồ cũ khó bán được với giá tốt. Tiếng tăm của thầy Thạch vang xa, càng không cần nói đến tranh treo tường khổ lớn, chỉ có bức mẫu đơn này… Nếu chờ thêm nhiều năm nữa, có thể ông Tôn sẽ không nỡ bán cho người khác đâu.”

Tạ Trạch Ích nói rất uyển chuyển, ông Tôn giật mình sáng tỏ, lẩm bẩm: “Duy chỉ mẫu đơn là quốc sắc! Quốc sắc thiên hương! Khoan thai lại lộng lẫy, rất tự nhiên.”

Ông Tôn vừa dứt lời, đến Sở Vọng cũng hiểu được đôi phần: có câu thịnh thế thì bảo thủ, loạn thế thì hoàng kim. Quốc gia còn chưa ổn định, những người có thể chạy ra nước ngoài như ông Tôn đều chạy đi hết, đương nhiên không phải là lúc bán được đồ cũ với giá cao. Nhưng nếu ông Tôn nhất định phải bán thì vẫn phải giữ bức mẫu đơn này lại, bởi vì từ xưa đến nay “duy chỉ mẫu đơn là quốc sắc”, đợi tới khi Trung Quốc ổn định, giá của bức tranh mẫu đơn ba thước ắt sẽ tăng cao.

“Chúng tôi cũng có ý đó, nhưng có được lời này của cậu Tạ, tôi cũng yên tâm hơn hẳn.” Bà Tôn nghe thế thì rất vui, không khỏi nhìn Tạ Trạch Ích bằng đôi mắt khác, đánh giá anh mãi: “Nghe nói cậu Tạ từ nhỏ lớn lên ở Anh, ấy vậy mà lại hiểu biết thấu đáo về những thứ cổ xưa thế này. Đúng là phương Tây kiểu cũ dễ dàng học tập, thật sự là nhân tài hiếm có.”

Lời của bà Tôn đã nâng anh lên tận trời cao. Nhớ lại chuyện ngay đến mấy chữ trên biển quảng cáo mà anh còn không biết, Sở Vọng suýt nữa phì cười phun ra hết sữa dâu trong miệng. Nếu không phải trước đó đã được bà Cát cho phép, nếu lúc này có người nói với cô “Tạ Trạch Ích chính là một tên lừa đảo” thì khéo cô cũng tin mất. Tạ Trạch Ích liếc nhìn cô, bình tĩnh cười nói, “Bây giờ tôi vẫn đang cố gắng học tập những điều Trung Quốc cổ xưa đó, chưa thể nói là hiểu biết thấu đáo được. Có điều mẹ tôi đúng là được sinh ra trong gia đình kiểu cũ thuần túy.”

Kiều Mã Linh cũng phì cười, “Mấy thứ khác anh ta không biết đâu, chẳng qua ngày trước ở trước mặt bà Cát học sơ sơ về hội họa thôi.”

Chị vừa dứt lời, bà Tôn cười hỏi: “Có phải vì bà Cát nên cô Hoàng và cậu Tạ quen biết nhau từ sớm không?”

Bà Tôn chỉ thuận miệng hỏi thế thôi, nhưng vì trong lòng chị có ma theo bản năng phủ nhận, Tạ Trạch Ích thì đáp: “Cũng coi như bạn cũ.”

Câu trả lời của hai người khác xa nhau, một người sốt ruột thất thố, người kia lại thản nhiên thong thả. Vợ chồng ông Tôn nhìn nhau, Hoàng Mark ngoài mặt càng không dễ chịu.

Tạ Trạch Ích cười đùa: “Hồi trước đúng là có qua lại thân thiết, chỉ vì tôi đi học mà bỏ lỡ hôn lễ của anh Hoàng và cô Hoàng, cũng vì chuyện này mà bà Cát giận tôi rất nhiều năm, lần này về cũng không đến biệt thự họ Kiều chào một tiếng, quả thật là lỗi của tôi, cô Hoàng giận tôi cũng phải.”

Chỉ một câu nói của anh đã che đi được sự lỡ lời trong câu nói của Kiều Mã Linh, mọi người cũng tin vào cách giải thích của anh, bừng tỉnh hiểu ra, việc này coi như xong.

Trên bàn ăn, bà Tôn khen Tạ Trạch Ích không ngớt lời, tuy rằng chỉ là xuất phát từ sự tán thưởng của trưởng bối. Đương nhiên bà Tôn cũng khích lệ Hoàng Mark, nhưng với một người đã kết hôn thì câu khích lệ này thật sự chẳng thích hợp chút nào. Huống hồ anh ta lại đi cùng Kiều Mã Linh đến, đối với chuyện hội họa anh ta chỉ là người thường, còn vợ mình và Tạ Trạch Ích lại là người trong nghề, nên anh ta càng khó mở lời nói chuyện. Vì dăm ba câu vừa rồi mà sắc mặt Hoàng Mark ngày một đen đi, sự tôn nghiêm của đàn ông lại vô hình bị ép xuống, đứng trước mặt tình địch giả tưởng Tạ Trạch Ích bỗng như thấp đi một cái đầu.

Bà Tôn cười ha hả: “Thanh niên như cậu Tạ, tri thức cũ mới đều biết, vừa lịch thiệp lại vừa tuấn tú, đúng là hiếm gặp. Không biết giờ đang nhậm chức ở đâu?”

“Tôi vẫn chưa nhậm chức, chỉ mới trở về làm quen thôi. Có điều cũng đã xin rồi, chỉ chờ chính thức tốt nghiệp thì sẽ làm tuần cảnh ở tô giới Anh Mỹ.”

Sở Vọng nhấp ngụm sữa, trong lòng nghĩ: Ồ ~ thì ra anh Tạ là cảnh sát.

“Thì ra là sĩ quan tuần tra. Không biết cậu đã có bạn gái chưa?”

“Bạn gái mới chia tay tôi về Mỹ rồi, chuyện đau lòng xin đừng nhắc đến.”

“À… Cô gái kia đi học ở Mỹ hả? Nhà nào thế, họ gì?”

“Là người Mỹ, cha là thương nhân ở Bờ Đông.”

“Ồ… người như cậu Tạ, sợ không hợp với con gái Trung Quốc truyền thống đúng không?”

“Không hẳn thế. Chỉ là có lẽ người nhà đứng đắn cảm thấy tôi có tiếng xấu, nên không cho phép con gái nhà mình qua lại với tôi.”

“Có người đàn ông trẻ tuổi nào mà không đa tình? Sau này thành gia lập thất thì hồi tâm là được.”

Bà Tôn rõ là đang làm mối cho Tạ Trạch Ích, như thể chỉ hận dưới gối mình không có con gái để gả đi. Sở Vọng vui vẻ lắng nghe, vì để che giấu nên nhìn ra ngoài cửa sổ, vừa hay thấy một con thuyền nhỏ chạy qua, trên thuyền có năm sáu người đàn ông da đen da vàng, có lẽ là cư dân vùng Malaysia. Thuyền nhỏ chạy xung quanh con thuyền du lịch này một khoảng, khách khứa ở phòng khác trên thuyền cũng chạy ra ban công xem náo nhiệt. Vì để dời đi sự chú ý của anh Hoàng đang trong thế gượng gạo, Sở Vọng bèn *ồ* lên một tiếng. Hoàng Mark không yên lòng, lập tức bị âm thanh của cô thu hút.

Hoàng Mark thấy vậy thì bật cười, lấy ra một đồng bạc trị giá 20 ném ra ngoài cửa sổ, một chàng trai mười sáu mười bảy tuổi ở trên thuyền nhìn chòng chọc đồng bạc kia, khi tiền vừa rơi xuống nước thì cậu ta cũng nhảy tõm xuống, khiến mọi người kinh hãi hét lên. Chỉ một chốc sau, chàng trai ướt sũng nhô lên khỏi mặt nước, trong miệng ngậm đồng tiền mà Hoàng Mark vừa ném đi.

Trên thuyền có không ít người mở cửa sổ ra xem, sau hành động của Hoàng Mark, mọi người cũng ồn ào học theo ném tiền xuống nước. Có xu Nhật, có tiền đồng, cũng có đồng một xu, người trên con thuyền nhỏ kia đều chọn nhặt những đồng có giá trị lớn. Cũng có người ném xì gà và thuốc lá, chỉ một chốc lát sau, trên thuyền nhỏ đã thu hoạch được một khoản khá xa xỉ.

Hoàng Mark cười giải thích: “Đến Hương Cảng gặp ít đấy, chứ nếu là tàu viễn dương đến Đông Nam Á thì sẽ thấy nhiều hơn, vì đại bộ phận đều là Anh thuộc và Pháp thuộc. Mới đầu chỉ có con nít nhảy xuống nước xin tiền, về sau người lớn cũng bắt chước.”

Khó lắm mới gặp được chuyện mình biết rõ, nên anh ta mới sốt sắng muốn phô trương trước mặt mọi người. Nào biết chỉ có Chân Chân và Sở Vọng nịnh nọt anh ta, còn bà Tôn và ông Tôn chỉ nhìn ra ngoài cửa sổ rồi nói, “Ném tiền ở khu nước cạn thì được, chứ ở đây vùng biển quá sâu, nghĩ thôi đã sợ.”

Kiều Mã Linh nghe thế, cũng đồng ý với bà Tôn, “Đúng là đáng thương.”

Anh Hoàng càng thêm khó chịu.

Ông Tôn tiếp lời ban nãy: “Bà Tôn muốn làm mai cho cậu đấy.”

Tạ Trạch Ích cũng vui vẻ, “Thật thế sao bà Tôn?”

“Nếu có cô gái nào hợp mắt duyên, nhất định tôi sẽ giới thiệu cho cậu trước.”

“Vậy tôi cám ơn bà Tôn.”

Hoàng Mark tức giận, vừa nghe vậy thì chống hông đứng cạnh cửa, nói thẳng không hề nể nang, “Đã quen với phụ nữ da trắng bụng dạ thẳng thắn, thì đến khi gặp phụ nữ Trung Quốc tính nết vòng vo, khéo chắc không quen đâu nhỉ, anh nói xem có đúng không anh Tạ?”

Lời của anh ta nghe rất kỳ quái, Tạ Trạch Ích nghe xong thì chỉ giương mắt nhìn Kiều Mã Linh. Kiều Mã Linh cười gượng, dùng tiếng Pháp nói: “Hoàng Mark, không lẽ anh thấy nhiều biết rộng lắm hả? Ha ha.”

Kiều Mã Linh nói rồi đứng dậy, cầm lấy áo khoác trên móc treo, tức giận đùng đùng rời khỏi phòng ăn.

Cũng không biết là Tạ Trạch Ích không giỏi tiếng Pháp hay giả vờ nghe không hiểu, nhướn mày hỏi: “Cô Hoàng nói gì thế?”

Chí ít là Sở Vọng nghe hiểu, không khỏi tặc lưỡi thở dài – xem ra mâu thuẫn giữa đôi vợ chồng trẻ đã bùng nổ rồi.

Hoàng Mark xấu hổ cười cười, quay đầu đi không nói gì. Vùng biển ngoài kia bắt đầu sôi nổi, Tạ Trạch Ích chỉ nhìn thoáng qua rồi nói, “Mấy năm trước Đức thua chiến, khi chiến hạm Anh Quốc đến cảng Hamburd thì đã ném tàn thuốc và đồng penny xuống biển, cũng có không ít người giành giật nhau. Những chuyện như thế này, đúng là dễ khiến người ta cảm thấy đau lòng vì quốc gia suy yếu.”

Hoàng Mark nói: “Anh Tạ là người Anh, không biết hiểu được câu đau lòng vì quốc gia suy yếu từ đâu?”

Tạ Trạch Ích cười nhạt như thể không muốn so đo với anh ta, chỉ hất cằm ra bên ngoài, hỏi, “Còn không đuổi theo à?”

Hoàng Mark ho khẽ một tiếng, nói xin lỗi với ông bà Tôn rồi cầm áo khoác lên, vội chạy ra khỏi phòng ăn đuổi theo Kiều Mã Linh.

***

Bữa ăn hôm đó ra về trong không vui. Vốn cô út dặn cô đi theo Tạ Trạch Ích để mở mang kiến thức, nào biết kiến thức chẳng mở mang được gì, mà chỉ nhìn thấy màn kịch gia đình cãi nhau.

Chỉ là Sở Vọng khó hiểu: Tạ Trạch Ích xưa nay rất lịch thiệp, nhưng đêm nay có vẻ không định nể mặt Hoàng Mark, phải khiến anh ta mất hứng mới được.

Không lẽ anh vẫn chưa dứt tình với chị Mã Linh, nên khi tình địch gặp nhau thì mới tức giận đến thế?

Quay về phòng, bà Cát vẫn đang ngủ say. Mật Thu bảo nhân viên đem trái cây đã cắt nhỏ đến cho cô, bày ra cả một bàn, khéo muốn đút cô ăn thành con vịt béo mất. Cô có lòng muốn chia sẻ bớt cho Chân Chân, nhưng đoán lúc này bà Kiều đã bắt cô ấy đi ngủ rồi. Một lúc sau khi Mật Thu dẫn cô đi rửa mặt thì có người gõ cửa rầm rầm. Lật Thích nhìn ra cửa, Tiết Chân Chân đứng cạnh cửa, thấp giọng nói: “Sở Vọng ra ngoài đi, chị có chuyện rất rất rất quan trọng muốn tìm em.”

“Chuyện gì thế?”

“Chị Mã Linh và anh Hoàng vẫn chưa về, mợ sốt ruột lắm rồi.” Tiết Chân Chân thấp giọng, “Chỉ có chị biết hôm nay hai người họ cãi nhau, em nói xem cả con thuyền này to như thế, bọn họ sẽ đi đâu đây?”

Cô mặc quần áo vào, đang định ra ngoài với Chân Chân thì nghe thấy bà Cát ở phía sau cười lạnh: “Cái gì mà chỉ có cháu biết mà bà Kiều không biết? Sợ là chị ta không tiện ra mặt nên mới sai cháu đấy. Ngoài mặt bảo cháu tìm Sở Vọng, hai đứa con nít các cháu thì có thể làm được gì? Còn không phải là đến xin tôi giúp à?”

Chân Chân xấu hổ lè lưỡi, “Đúng là không có chuyện gì có thể giấu được dì Cát.”

“Bà chị vô dụng kia của tôi không bao giờ biết cách xử lý việc nhà, chuyện gì cũng đến tìm tôi đưa ra quyết định thay. Tự chị ta còn không xong, đến lượt con gái chị ta cũng thế thôi. Giải quyết hộ cũng không được tí lợi ích gì.” Bà Cát lười biếng giương mắt, sai Mật Thu, “Em dẫn hai đứa nó đi xem trò vui cũng được, xem hiện tại đôi chim cu đó cãi nhau thế nào. Có đánh nhau cũng đừng xen vào, chỉ cần ngăn cản là đủ, không đến mức chết người là được.”

Mật Thu cười nói: “Vâng ạ, sao có thể để bà nhà em việc gì cũng giải quyết thay bà ấy được.”

Dừng một lúc, bà lại bảo Mật Thu ở lại: “Thôi em đừng đi nữa. Họ Hoàng kia ra bên ngoài buôn bán nên rất nóng tính, nếu cô cháu gái kia của tôi thật sự muốn liều mạng thì mấy người cũng không cản được. Em sang bên cạnh gõ cửa phòng cậu Tạ đi, cậu ta là người có chính kiến, để cậu ta dẫn hai đứa nó đi xem trò hay là được.”

Bà Cát lười biếng nói ra câu “xem trò hay thì xem, đừng gây ra chết người là được” làm Chân Chân trợn mắt há mồm, còn Sở Vọng coi như không thấy gì, cảm thấy tuy bà Cát nói vậy, nhưng đến lúc ấy người có thể giúp được cũng chỉ có bà mà thôi.

Mật Thu vội đi gõ cửa phòng bên, chỉ hai ba câu đã nói rõ tình hình, Tạ Trạch Ích cũng đáp lại một câu nhẹ bẫng “đã biết”.

Khoang thuyền tối om om, gió lớn đang gào thét. Tạ Trạch Ích khoác áo gió phong phanh, hai ba bước đi ra khỏi cửa. Gió lùa qua thổi áo khoác bay phấp phới, như thể chiếc áo ấy đang treo trên đầu vai rộng lớn của anh, còn cơ thể bên dưới lại trống không.

Anh đứng ở cửa vẫy tay với hai cô gái, dùng khẩu âm vùng Đông Bắc chẳng biết học được từ đâu mà nói, “Lại đây.”
 

MUALARUNG91

Tác giả
Sưu tầm
Tham gia
25/8/19
Bài viết
4,780
Điểm cảm xúc
577
Điểm
113
Chương 55: Anh Tạ và anh Hoàng (4)
Mọi người tìm thấy anh Hoàng và Kiều Mã Linh ở căn phòng sát ban công quán cà phê trên sân thượng.

Xem ra anh Hoàng cũng chỉ mới tìm thấy Kiều Mã Linh, vì khi ba người bước vào thì nghe thấy anh Hoàng gầm lớn:

“—— Gã Tạ Trạch Ích kia có gì hay ho hả? Suốt ngày tò tò đi theo dì cô làm người hầu, hai người họ kém nhau chỉ mười lăm tuổi, cô nói bọn họ không có quan hệ gì ư, cô tưởng Mark Hoàng tôi không biết chuyện xấu giữa nam nữ hả?”

Chân Chân và Sở Vọng toát mồ hôi thay Tạ Trạch Ích.

Sở Vọng ngẩng đầu nhìn Tạ Trạch Ích, “Có vẻ chúng ta đến không đúng lúc cho lắm?”

“Hử? Không, đúng lúc lắm.”

Tạ Trạch Ích thản nhiên dẫn hai người lặng lẽ ngồi vào trong góc, như thể người Hoàng Mark mắng không phải là anh vậy. Chân Chân rút lấy một tờ báo trong đống tạp chí bên cạnh, mở ra che cho mình và Sở Vọng, “Chị xem phim rồi, ngụy trang như thế này đúng không?”

Tạ Trạch Ích bình thản rút tờ báo đi, hai cô gái ở sau tờ báo trơ mắt nhìn anh gấp báo lại, đặt vào chỗ cũ.

Kiều Mã Linh ở đằng xa cười nói: “Anh thì hay lắm, có giỏi thì đến trước mặt anh ấy mà kiếm chuyện đi? Quát mắng trước mặt tôi làm gì. Ngày trước khi cha của Tạ Trạch Ích còn nghèo, dì tôi ra tay giúp đỡ, bây giờ cha anh ấy đã đứng vững ở Hương Cảng, dĩ nhiên không quên ân tình xưa của dì tôi. Tính dì tôi biết lạnh hiểu nóng, làm việc thức thời lại còn khéo léo, hễ Tạ huân tước có tiệc xã giao là lại đưa người đến biệt thự họ Cát, cho dì ấy mặt mũi. Giao tình nhiều năm như thế, ngay cả con cả Tạ Trạch Ích cũng tự do chơi bời ở biệt thự nhà dì tôi. Ở đất Cảng có ai không biết dì Cát và Tạ huân tước là từ bạn bè trở thành người tình? Hiện tại Tạ Trạch Ích đã học xong, nên dì Cát mới dẫn dắt con trai ông ấy.”

Hoàng Mark mỉm cười rất lâu, cười đến mức hai cô bạn nhỏ ở trong góc run lên.

Kiều Mã Linh nói: “Anh nổi điên cái gì thế hả?”

Hoàng Mark thôi cười, thay vào đó giọng càng u ám: “Có vẻ cô rất biết cách biện bạch cho hắn nhỉ?”

“Anh còn mặt mũi mà nói tôi hả? Sao không nói chuyện anh nuôi gái đi?”

“Mẹ kiếp tôi nuôi gái cái gì?!”

Có lẽ Kiều Mã Linh đã kìm nén nhiều năm rồi, vậy mà lúc nổi giận lại cực kỳ bình tĩnh. Chị chỉ cười lạnh: “Nuôi con ả người Pháp kia ở Việt Nam, tưởng tôi có mắt như mù ư?”

Hoàng Mark tự cho rằng mình đã che giấu rất tốt, đến khi bị vạch trần thì như quả khí cầu phình quá to rồi nổ tung, bao kiêu ngạo biến mất. Anh ta cãi chày cãi cối, “Mẹ cô ấy bị bệnh. Dốc hết gia sản đưa cô ấy đi học, cả nhà chỉ trông cậy vào một mình cô ấy. Chỉ vì nghe nói chuyện của tôi và cô ấy mà cha kéo người đến đánh đập, giờ đến ra cửa gặp người ta cũng không được. Cô ấy làm gì sai hả? Nếu tôi không chăm sóc cô ấy, thì mẹ con họ sẽ hết đường sống!”

“Chăm sóc? Hoàng Mark, anh chăm sóc ả ta kiểu gì mà cứ hễ về Việt Nam là lại sốt ruột như muốn về nhà vậy hả, ba ngày hai bữa chạy đến chỗ của con ả kia làm gì?”

“Cô nhìn cô đi. Ngày trước khi gả cho tôi, bà mối nói cô là người hiền lương thục đức nhất Hương Cảng. Ha? Giờ xem cô có chút gì hiền lương thục đức không?!”

“Anh đừng có nói tôi.” Dù đã trở mặt nhưng Kiều Mã Linh vẫn cười, “Nếu anh không tằng tịu với con ả kia, thì cha anh có gấp gáp tìm hôn sự cho anh không? Bà mẹ dơ dáy của ả ta cứ hai ba hôm lại lang chạ với đàn ông đến mức phải tiêm 606*. Có trời mới biết con gái bà ta có bị lậu không! Anh cứ ngủ với nó đi để rồi không sinh được con, anh với đồ đê tiện đó bẩn không khác gì nhau ——”

(*606 là tên loại thuốc trị bệnh Giang Mai.)

“ —— Chát!”

Một cái tát kêu vang của Hoàng Mark khiến cả thế giới chìm trong im lặng.

Sở Vọng lật đật đứng bật dậy, nhưng chỉ thấy Kiều Mã Linh nhào đến anh Hoàng như muốn liều mạng với anh ta. Chị níu chặt vạt áo anh ta, khi mọi người tưởng chị sẽ tát lại thì trong một tích tắc, Kiều Mã Linh đã buông Hoàng Mark ra. Nhưng đồng thời khi buông tay, chị cũng rút luôn khẩu Browning của Trung được giấu trong túi áo khoác của Hoàng Mark —— chứng tỏ chị biết rõ vị trí giấu súng. Sắc mặt chị trắng bệch, lớp ngụy trang nhiều năm cộng thêm chịu nhục đã đến đỉnh điểm, khiến giờ đây chị chĩa thẳng họng súng vào đầu Hoàng Mark, khiến anh ta sợ tới mức giơ hai tay lên.

Chân Chân suýt nữa đã hét lên, nhưng đã bị Sở Vọng bịt miệng kịp thời.


Ở bên kia, không biết Tạ Trạch Ích đã đẩy cửa phòng ra từ lúc nào, cách tấm kính thủy tinh, anh như thể từ trên trời hạ xuống, một tay chụp lấy họng súng trong tay Kiều Mã Linh.

Vô cùng nhẹ nhàng, anh chuyển khẩu súng vào tay mình. Kiều Mã Linh kiệt quệ ngã phịch xuống đất, nước mắt tuôn rơi nức nở òa khóc, tiếng khóc đứt quãng xen lẫn tiếng mưa gió, nghe sao đỗi thê lương.

Tạ Trạch Ích nhìn sang Sở Vọng, cô lập tức hiểu ý, cùng Chân Chân đi tới đỡ chị ngồi lên ghế. Sở Vọng nhìn Kiều Mã Linh suy sụp, đột nhiên trong đầu lại nhớ đến buổi hôn lễ, cha xứ đã hỏi: “Mark Hoàng, con có đồng ý lấy người phụ nữ này làm vợ không? Ký kết hôn ước cùng cô ấy, dù là trong lúc ốm đau hay mạnh khỏe, dù là vì bất cứ lý do gì, con sẽ ở bên cạnh cô ấy, chăm sóc và yêu thương cô ấy, cũng như tôn trọng và chấp nhận cô ấy, một lòng chung thủy với cô ấy đến cuối sinh mệnh không?”

Lúc ấy vì căng thẳng mà Hoàng Mark đã lỡ miệng, mặt đỏ bừng khẳng khái đáp, “Oui, le veux.”

Tạ Trạch Ích cầm súng trong tay, mỉm cười nhìn Hoàng Mark, nói ra một câu rất hợp cảnh: “Hồi đó ở trước mặt cha xứ thề một lòng chung thủy đến chết không đổi, sao chưa gì đã bội ước nhanh vậy?”

Hoàng Mark cười lạnh, “Ha, anh Tạ bênh vực cho tình nhân cũ cũng nhanh nhỉ?”

“Ồ… Không phải.” Tạ Trạch Ích chỉ vào Chân Chân và Sở Vọng ở gần đó, đáp trả, “Tôi vô tình dẫn hai đứa nhỏ đi ngang qua thôi.”

Hoàng Mark như tự thấy nhục nhã, đưa tay vò tóc rồi nhíu mày tức giận hỏi, “Nếu không phải đến giúp người yêu cũ thì anh xen vào làm quái gì?!”

“Ai mà chẳng có mối tình đầu, đúng không anh Hoàng?” Tạ Trạch Ích cười nói, “Tôi và cô ấy có duyên nhưng không có phận, cả anh và cô gái ở Việt Nam cũng vậy – xin lỗi, vừa nãy nghe lỏm được mấy câu, thực sự không cố ý. Nhưng cô Hoàng mới là người đi cùng anh, chuyện giữa cô ấy và tôi cũng kết thúc tại đây. Bây giờ tôi đứng trước mặt anh nói chuyện là với tư cách một người qua đường không quen biết, tuy không biết rõ nhưng không thể không nói lý. Cô ấy là phụ nữ mà còn có thể dứt khoát như thế, vậy vì sao anh Hoàng không làm được?”

Hoàng Mark trợn mắt với anh, cười gượng hai tiếng, “Anh kết hôn rồi chắc. Anh thì biết cái sá gì?”

“Tôi chưa kết hôn.” Anh cười giễu rồi nói tiếp, “Nhưng anh Hoàng à, gia đình hai ta cũng gần như nhau, từ nhỏ đã tiếp thu kiến thức văn hóa nước ngoài. Đến khi lớn lên, về chuyện hôn nhân gia đình thì phải tuân thủ nghiêm ngặt theo truyền thống Trung Quốc. Cho đến nay tôi vẫn rất ghét hôn nhân kiểu Trung Quốc, tôi nhớ anh cũng thế —— dùng danh nghĩa hôn nhân để trói buộc cả của đời của hai người xa lạ với nhau, ngoài mặt thì bảo là ‘lương duyên trời ban’, kỳ thực chỉ là cuộc hôn nhân không tình yêu. Nếu hai người nhìn nhau không vừa mắt, dần dà sẽ càng căm hận nhau hơn cả kẻ thù.”

Hoàng Mark mặc áo sơ mi và tây trang, ắt sẽ hiểu được lời anh nói. Nhưng xuất phát từ tâm lý là tình địch cũ, nên anh ta chỉ khịt mũi khinh thường.

Tạ Trạch Ích không hề nổi nóng, tiếp tục nói đến đạo lý không biết anh ta cân nhắc từ đâu, “Nếu tiếp thu thì phải tuân theo tới cùng – bởi vì anh đã thỏa hiệp với cả Trung Quốc rồi. Lấy vốn từ tiếng Trung tôi mới học được gần đây mà nói thì là, ‘anh hèn nhát’, còn cái gì mà ‘quân tử nhất ngôn khoái mã nhất tiên’.”

Nghe Tạ Trạch Ích vò đầu bứt tai nói ra những câu rất bài bản, bầu không khí vốn đang nghiêm túc lại trở nên buồn cười, cứ như thể đang xem tập phim cẩu huyết lúc 8 giờ tối thì đột nhiên chiếu quảng cáo vui nhộn hài hước, khiến Sở Vọng cảm thấy tức cười.

Tạ Trạch Ích vốn mặt dày quen rồi, còn nghiêm túc nói, “Suy bụng ta ra bụng người, có ai không muốn được toàn tâm đối xử? Bởi vì bất công với đối phương cũng không có lợi gì cho mình, quả thực là chuyện hại người hại mình. Dĩ nhiên đấy là điều tôi nghiền ngẫm nhiều năm tự chiêm nghiệm ra, có đạo lý hay không thì tôi không biết, nhưng tôi nghĩ anh cũng có thể nghiền ngẫm thử. Tôi nghĩ cô Hoàng cũng không phải là người không hiểu chuyện. Thương lượng với cô ấy mọi việc, hẳn cô ấy cũng sẽ nghĩ cho anh.”

Nói xong đạo lý đao to búa lớn, Tạ Trạch Ích ném súng trả lại Hoàng Mark, nói, “Tuy bảo đem theo thứ này trong người là để phòng thân, nhưng thật sự chẳng mấy khi có dịp phải dùng đến súng. Trái lại còn dễ vô tình cướp cò hơn, thế thì bất tiện lắm.”

Nói đoạn, anh cũng chẳng nhìn Hoàng Mark thêm lần nào nữa, rời đi để lại người này sắc mặt nhợt nhạt đứng sau cửa kính.

Tạ Trạch Ích đi vào trong, dừng lại trước mặt Kiều Mã Linh, chỉ nói một câu “anh Hoàng đang đợi cô” rồi vẫy tay với hai cô gái kia.

Sở Vọng và Chân Chân cũng rất biết quan sát sắc mặt, hậu tri hậu giác đi bước nhỏ xuống lầu. Trên đường đi gặp phải hai cảnh sát biển trên thuyền, hình như nghe thấy động tĩnh nên hỏi: “Trên lầu có chuyện gì vậy?”

Tạ Trạch Ích lịch sự đáp: “Không có gì, vợ chồng cãi nhau thôi.”

Cảnh sát giật mình à một tiếng rồi rời đi.

Từ nãy đến giờ đã quan sát được bản lĩnh khuyên can của người từng trải, Chân Chân đã sùng bái Tạ Trạch Ích đến mức không còn ngôn từ để diễn tả, chỉ hỏi: “Anh Tạ, cái từ ‘súng’ anh nói cuối đó, là ẩn dụ cho việc lòng phòng bị của anh Hoàng bị chị Mã Linh kích thích đúng không?”

Tạ Trạch Ích à một tiếng, “Ẩn dụ có nghĩa gì?”


“… Coi như tôi chưa hỏi vậy.”

Tạ Trạch Ích tiện đà khiêm tốn học hỏi, siêng năng truy vấn, “Gần đây chăm học tiếng Trung, xin được chỉ điểm nhiều hơn, được không cô Tiết?” Thấy Chân Chân không để ý thì lại nhìn sang Sở Vọng, “Cô Lâm?”

“Ấy…” Sở Vọng đau cả đầu, nhớ lại Tạ Trạch Ích có nhiều phẩm chất riêng vô cùng thần kỳ, thế là bèn hỏi: “Anh Tạ có biết câu ‘tẩm ngẩm tầm ngầm mà đánh chết voi’ có nghĩa gì không? Đây là điển cố ẩn dụ rất đúng cho tình cảnh này.”

Tạ Trạch Ích bị vạch trần, híp mắt nhếch môi, nửa cười nửa không nhìn ra xa, “Em cũng biết mà, tiếng Trung của tôi không được tốt.”

Từ xưa đến nay, để làm quen tiếp xúc với người khác thì cách bắt chuyện dễ dàng nhất đầu tiên là mượn sách, tiếp đó là “có câu này tôi không hiểu, bạn có thể giải thích cho tôi được không?”. Nếu người nào đó muốn kết bạn thì lời đầu tiên sẽ hạ thấp thân phận, hạ trình độ học vấn của mình xuống, đây là chiêu hữu hiệu nhất. Bản lĩnh không có chuyện thì tìm chuyện của anh ta, Sở Vọng đã được chứng kiện trên đường đưa cô đến bến cảng Jardine Matheson hôm trước rồi. Dĩ nhiên Tạ Trạch Ích không có tâm tư gì khác với một đứa con nít chưa lớn như cô, chỉ cảm thấy đùa vui nên chỉ tìm chuyện tán gẫu mà thôi. Cái khác không nói, chứ bản lĩnh bắt chuyện thì đúng là số một. Nếu dùng bản lĩnh ấy để đùa cợt một đứa trẻ, lại còn ra vẻ vô hại thì chỉ e Tạ Trạch Ích sẽ là người đầu tiên từ khi khai hoang lập địa đến giờ.

Có điều ngẫm lại, có lẽ cô đã hiểu được lý do vì sao ở trên bàn ăn hôm nay, Tạ Trạch Ích lại không có vẻ nho nhã như thường mà gây khó dễ cho Hoàng Mark. Không phải thật sự nhớ nhung gì cô Hoàng, chẳng qua xuất phát từ sự lễ độ anh học được từ nhỏ, cho rằng anh Hoàng có thái độ không tốt với vợ, không phải là nam tử hán đại trượng phu, cho nên mới lạnh lùng chế nhạo.

***

Sở Vọng không biết tối đó còn xảy ra chuyện gì nữa, tuy sáng hôm sau Kiều Mã Linh vẫn còn tức giận, bộ dạng khó chịu, nhưng không lâu sau lại ngọt ngào cùng ra cùng vào với Hoàng Mark.

Dường như vợ chồng họ không đến nước một đêm trở thành thù.

Có điều thái độ của bà Kiều với bà Cát lại rất đáng lưu ý. Theo như tin tức mà Tiết Chân Chân nói: bà Kiều thấy con gái và con rể vẫn hòa thuận, gia đình mỹ mãn thì rất vui, còn nói xấu bà Cát sau lưng ——

“Chuyện của cháu gái cô ta, sao cô ta không lo lắng hả? Rõ ràng ngày trước chính cô ta lo liệu cuộc hôn nhân này cho Mã Linh.”

Chân Chân diễn lại dáng vẻ cay nghiệt của bà Kiều lúc đó sinh động như thật, phối với gương mặt xinh xắn của Chân Chân khiến người hầu vú già ở phòng bên cười đau cả bụng. Còn bà Cát làm như không thấy gì, chỉ chuyên tâm sửa móng tay, mỉm cười nói, “Chị ta nghĩ mình hưởng được lợi từ chỗ cô chắc, có lẽ cảm thấy cô là quả hồng mềm dễ bóp đây mà. Chị ta tưởng mình được lợi thật ư? Một thương nhân giỏi thì làm việc gì cũng chỉ làm bảy phần, để mình có tiếng thơm là đủ rồi. Bà cô đây mà mà mất hứng thì cả thế giới này đừng ai mơ được lợi từ chỗ cô. Dù cô có không ra gì thì vẫn được cái tiếng độ lượng thông cảm. Muốn làm việc tốt đâu có dễ – cô sẽ từ từ chờ xem.”
 

MUALARUNG91

Tác giả
Sưu tầm
Tham gia
25/8/19
Bài viết
4,780
Điểm cảm xúc
577
Điểm
113
Chương 56: Biệt thự nhà họ Cát
Ở trên thuyền mấy ngày, hễ có thời gian rảnh là Sở Vọng lại lôi sách vở ra học môn phiên dịch, dịch liền một cách các tác phẩm văn cổ mà các giáo viên ngày trước từng dạy thành văn xuôi hiện đại, rồi lại từ văn xuôi hiện đại dịch sang tiếng Trung. Cô ngồi trong phòng làm việc trên, Mật Thu và Lật Thích thấy điều mới mẻ thì xúm lại tôi một câu cô một câu. Bỗng dưng có bầu không khí sinh hoạt náo nhiệt chưa từng có khi ở chỗ bà Kiều.

“Cô chủ đang làm gì vậy?”

“Người hầu chúng ta biết chuyện của cô chủ làm gì? Cẩn thận, đừng làm ồn cô chủ.”

“Chỉ có cô Tạ là năng lui tới nhà ta, mà cô ấy có để ý chúng ta đâu. Còn cháu của bà trời sinh dịu dàng, tuy ít nói nhưng khiến người ta gần gũi hơn.”

Thỉnh thoảng nói chuyện với hai người bọn họ, cô mới biết một điều, thì ra trước kia tên của Mật Thu và Lật Thích là tên tiếng Anh, Mật Thu là Michael còn Lật Thích là Lizzy, để người Hoa kiều và người ngoại quốc thường xuyên đến biệt thự dễ gọi. Về sau dịch sang tiếng Trung cũng để tiện cho khách Thượng Hải từ trong nước đến.

Tuy bà Cát không cho phép Sở Vọng đến buổi khiêu vũ chơi, nhưng khi trên thuyền có kinh kịch và hát côn khúc thì bà vẫn dẫn Sở Vọng đi xem, đồng thời cũng gọi Chân Chân đi cùng. Sở Vọng đâu nghe hiểu kinh kịch, lúc mở màn thì nhìn các đào kép ca hát đi tới đi lui, áo xanh phủ ngoài áo đỏ, hai màu xanh hồng sặc sỡ đan xen, đợi tới khi mọi người hò reo cổ vũ thì cô cũng vỗ tay theo đám đông. Trên thuyền có không ít người nước ngoài, không biết có xem hiểu không hay chỉ tới góp vui, vỗ tay gào thét còn to hơn ai hết, thậm chí vỗ tay xong rồi, bọn họ còn châu đầu vào nhau cười nói ầm ĩ.

Chân Chân tập trung xem hết kinh kịch rồi chuyển sang côn khúc, cuối cùng cắn hạt dưa bình luận một câu: “Người ta nhả châu nhả ngọc, còn bọn họ như bị mắc cổ, yết hầu hỏng rồi.” Ngày trước khi ở nhà, Chân Chân từng theo vai đào nổi tiếng trong và ngoài nước học hát mấy năm, nên lời nhận xét cô đưa ra rất đúng trọng tâm. Bà Cát nghe thế thì chỉ liếc nhìn, rồi cười cười xem kịch tiếp.

Mà người nổi bật nhất trên thuyền chính là cậu Tạ ở bên cạnh. Sau tranh chấp với anh Hoàng đêm đó, Sở Vọng không thấy anh ta đâu nữa. Theo lời bà Cát nói thì là: “Đây là lúc cậu ta buông thả nhất.”

Sở Vọng học xong thì theo bà Cát đi chơi khắp thuyền cả ba ngày, thuyền cũng tiến dần từ duyên hải chạy vào bến cảng. Mọi người gào thét và vỗ tay ầm ầm khi sắp cập bến, nhưng lần này Sở Vọng không có tâm tình kích động như trước. Trong tiếng hoan hô của du khách khi lần đầu đến Hương Cảng, Hoàng Mark dựa vào cửa huýt sáo, nói: “Quãng đường này đúng là gió êm sóng lặng. Thuyền viễn dương của bọn họ chắc cũng sắp đến Ấn Độ Dương rồi nhỉ?”

Tạ Trạch Ích nghe thế thì lại lên tiếng, “Ấn Độ Dương, đúng là khiến người ta hoài niệm.”

Kiều Mã Linh hỏi: “Ấn Độ Dương thế nào?”

Anh Hoàng giải thích: “Du học sinh đi châu Âu mà nhắc đến Ấn Độ Dương thì đều ngầm hiểu: gió lớn liên miên, mấy ngày ở trên thuyền là mấy ngày không được ăn uống ra hồn, ra khỏi Ấn Độ Dương sẽ vào biển Đỏ, biển Đỏ thì yên ổn hơn, sau đó là đến bến cảng. Vì vậy mà Ấn Độ Dương được gọi là ký ức nôn mửa.”

Kiều Mã Linh ồ một tiếng, “Chỉ sợ cậu và em hai phải chịu đựng, nhất là em hai –”

Phòng đối diện lỉnh kỉnh di chuyển đồ đạc, còn bên này lại cực kỳ thong thả. Chân Chân và bà Kiều mệt đến mức đổ mồ hôi, còn Sở Vọng đi theo bà lại rất nhàn hạ ăn xoài khô.

Vừa xuống thuyền, rất nhiều lái xe nhao nhao ùa lên tìm khách. Chợt trong đám đông vang lên giọng nữ quen thuộc, đứng từ xa hét lớn: “– Anh ơi, ở đây!”

Sở Vọng và Chân Chân nghe rất quen tai, bèn nhìn theo tiếng gọi. Tạ Di Nhã mặc áo phông trắng, tóc đuôi ngựa màu hạt dẻ cong cong được ánh nắng rực rỡ hắt lên, đứng giữa đám đông vô cùng nổi bật, khiến không ít các chàng trai phải đưa mắt ghé nhìn. Chân Chân hừ một tiếng nghiêng đầu đi, Sở Vọng bật cười, chia nửa quả xoài khô của mình cho cô ấy, miễn cưỡng đè lại lửa giận của Tiết đại tiểu thư.

Có điều Tạ Di Nhã ở bên kia đúng là chói mắt thật.

Tạ Trạch Ích hỏi: “Cha đâu?”

Tạ Di Nhã cười nói: “Cha bận việc làm ăn nên gần đây đã đi Mã Lai rồi. Có điều mẹ tư mẹ năm mẹ bảy đều đến, mặt mũi anh hơi bị lớn đấy.”

Cô nàng chỉ vào một nơi ở cách đó không xa: bốn năm chiếc xe Dodge đang đậu trên sân bãi ở bến cảng, ba bốn người phụ nữ da trắng trung niên yêu kiều quyến rũ bước xuống xe.

Hiếm khi thấy Tạ Trạch Ích đen mặt như lần này, miễn cưỡng trấn định đi đến chào hỏi, “… Đã lâu không gặp, các mẹ càng lúc càng trang điểm đẹp.”
Q

Sở Vọng xoay đầu đi cười phì một tiếng. Ở bên này, nhà họ Kiều và nhà họ Cát cũng chậm rãi đi đến. Bà Kiều miễn cưỡng khách sáo với bà Cát một hồi, sau lại hỏi: “Hay là để Sở Vọng nó đi cùng tôi về nhà đi, nó còn nhiều đồ đạc ở bên kia lắm.”

Bà Cát khoác tay Sở Vọng cười bảo, “Mấy thứ đó cứ để lại chỗ chị đi, để con bé đến chỗ chị thì còn có đồ dùng. Đến chỗ tôi mà còn cần mấy thứ đồ cũ đấy à?”

Bà Kiều bật cười: “Nói cũng đúng. Một mình Chân Chân ở chỗ bác cũng ngột ngạt buồn lắm, Sở Vọng cháu nhớ đến chơi thường xuyên nhé.”

Lên xe nhà họ Cát, băng qua cảnh huyên náo chạy lên núi. Lần này khác với lần trước – lần trước chăm sóc mọi người suốt dọc đường, đến khi xuống thuyền lại vừa sợ hãi với thế giới lạ lẫm vừa cảnh giác về tương lai, nên bắt buộc phải gắng gượng. Còn bây giờ chơi vui vẻ suốt dọc đường, bây giờ đã mệt mỏi, cô vừa lên xe đã ngủ say, giữa chừng lại ngáy khò khò như một chú mèo nhỏ, làm bà Cát bật cười.

Xe dừng lại trước cửa biệt thự họ Cát, người hầu đi ra đón, gọi “thưa bà” “thưa bà” liên tục. Bà Cát buồn bực, dặn bọn họ thấp giọng lại, “Cô ba vẫn đang ngủ trên xe. Các em chuyển đồ vào phòng đi, đợi con bé ngủ thêm lát nữa rồi hẵng gọi dậy.”

Tuệ Tế đáp vâng, vui vẻ nói, “Cô ba cũng đến rồi sao? Em cứ tưởng phải đợi thêm mấy hôm nữa.”

Hai người đang nói chuyện thì Sở Vọng đã mơ màng lẩm bẩm, “Đến nơi rồi ạ?”

Bà Cát nói, “Nếu dậy rồi thì mau về phòng ngủ đi, không bị cảm lạnh đấy.”

Sở Vọng đi theo sau bà Cát và Tuệ Tế, lúc vào cửa thì đưa mắt nhìn cột trụ màu trắng lát đá cẩm thạch. Cánh cửa màu đỏ tía được đẩy ra, cầu thang trắng theo kiểu châu Âu dần xuất hiện trong tầm mắt. Bà Cát đang định dặn người chuẩn bị bữa tối, nhưng đi được hai bước lại như nhớ ra gì đó, quay sang nói với Lật Thích: “Nếu cô ba đã đến đây thì em đổi tên đi, đừng để đụng tên tiếng Anh với con bé.”

Sở Vọng rất ít khi nói tên tiếng Anh của mình với bà Cát, thế mà bà vẫn nhớ. Lật Thích cười nói: “Vừa hay em cũng muốn đổi tên. Cô ba đặt tên cho tôi có được không?”

Dựa theo chuyện đã xảy ra trên con tàu Titanic ở cùng thời đại, cô đang định nói là “Rose”, nhưng khi thốt ra miệng thì lại thành: “La Sa* thì sao?”

(*Phiên âm tiếng Trung của tên Rosa.)

La Sa cười nói: “Màn thanh la váy lục sa, hay lắm ạ.”

Sở Vọng thầm buồn cười: người hầu của cô út đúng là tài giỏi, còn lý giải được thay cho mình nữa.

Bà Cát suy nghĩ rồi nói: “Cô đã chuẩn bị vài bộ đồ cho cháu rồi, đủ phong cách cho đủ tình huống, lát nữa Tuệ Tế sẽ dẫn cháu lên phòng, có thể mặc thử xem có vừa không. Không vừa cũng không sao, ngày mai thợ may sẽ đến. Trước khi hoàn thành đồ mới, có bộ gì thì cứ mặc tạm đi đã.”

Bà Cát dặn dò xong thì Tuệ Tế dẫn cô đến phòng của mình. Sở Vọng đi theo sau cô ấy đi xuyên qua phòng khách lớn từng thấy ngày trước, đi qua một hành lang. Cửa sổ trên hành lang dài được chạm trổ, lờ mờ thoáng thấy bóng tùng trúc mai ở bên ngoài, cứ như đang diễn Tây Sương Ký vậy. Băng qua hành lang, đẩy cánh cửa đầu tiên ra, Tuệ Tế dừng bước ở cửa đợi cô vào trước, “Đây là phòng của cô ạ.”

Còn chưa bước vào mà Sở Vọng đã ngạc nhiên cảm thán: Đây là căn phòng có giường lớn có thể ngắm cảnh vô cùng sang trọng trong truyền thuyết đây mà.

Tuệ Tế kéo tấm rèm ở cửa kính sát đất ra – gốc mai phía sau cánh cửa dần xuất hiện, tầm nhìn đối diện thẳng với bãi cỏ nhà bác cả.

Phòng tiếp khách loại nhỏ, có mấy chiếc ghế sofa nhỏ màu xanh biếc, ngoài ra có thêm hai ghế mây cùng bàn trà – tất cả đều rất tinh xảo. Tuệ Tế nói: “Nếu cô ba mời bạn bè đến chơi thì có thể ở đây trò chuyện.”

Hai cánh cửa nhỏ, một gian là thư phòng, một gian là phòng thay quần áo. “Bà chê tủ quần áo chật không đủ to. Giờ con gái nhà giàu đều có một phòng riêng làm phòng thay đồ, nên bà cũng bố trí một phòng như thế cho cô.” Tuệ Tế vừa nói vừa kéo ba cánh cửa tủ ở trong phòng thay đồ ra – cả ba ngăn tủ đều có đầy quần áo màu sắc sặc sỡ. Tuệ Tế lại nói: “Trước khi đi Thượng Hải, bà đã dựa theo số đo của cô bảo thợ may may gấp. Bên cạnh là phòng ngủ và buồng vệ sinh – cô có thể thử đồ xem có vừa không, tôi ra bên ngoài trước, nếu cảm thấy thiếu gì thì cứ nói với tôi.”

Sở Vọng “ừ” một tiếng, Tuệ Tế đi ra ngoài, nhân tiện khép cửa phòng lại giúp cô.

Cô nhìn chằm chằm mấy bộ quần áo treo đầy tủ: Vải cotton, vải sa, vải lụa, vải gấm, vải lanh; áo ngủ mặc ở nhà, áo len lông cừu, dạ phục, áo tắm; chơi thể thao thì có đồng phục chơi golf, cầu lông và váy tennis; khiêu vũ thì có váy nhảy tango màu đen và màu champagne đính vảy kim tuyến, váy nhảy rumba lấp lánh, váy ba-lê màu trắng tinh; áo sơ mi rộng rãi, váy đầm, Jumpsuit, áo váy; rồi còn có đồ mặc ăn tối, dạ phục, váy cocktail mặc khi gặp khách ở nhà; khi đi ra ngoài thì có áo lửng, áo khoác dài, áo vét da; đi kèm những bộ đồ này là những đôi giày và túi xách kín cả một tủ…. Cái gì cần có cũng có cả, ngoại trừ sườn xám ôm người ra, Sở Vọng không thấy thiếu thứ gì.

Đây chính là “mặc tạm đi đã” mà cô út nói đây hả?

Nhìn tủ quần áo chật ních đồ trước mặt, lúc này cô mới hiểu vì sao Chân Chân chỉ mới đến biệt thự nhà họ Cát một lần mà lúc quay về đã chê này chê nọ. So với cuộc sống ở đây, cuộc sống ở biệt thự nhà họ Kiều đúng là kém xa.

Tủ quần áo kia như có ma lực, khiến Sở Vọng không kìm nén được lập tức chọn một bộ váy gấm không tay màu lam mặc thử. Vừa cầm vào tay, cô đã giật mình sực tỉnh, lập tức nhoẻn miệng cười: quả nhiên quần áo có ma lực lớn với phụ nữ, chẳng trách trước khi Cát Vi Long đến chỗ của bà Lương thì là một kiểu, nhưng sau khi thấy tủ quần áo kia thì biến thành một kiểu khác.

Nghĩ đến đây, cô kìm nén sự kích động của bản thân, treo váy vào phòng thay đồ, chỉ chọn áo mặc trong tối nay để thay – rất vừa người. Còn những bộ đồ khác, sau này có cơ hội sẽ từ từ mực thử – vào những lúc những nơi thích hợp nhất.

Thay đồ xong thì cô lại thấy mệt, thế là kéo bức rèm màu đỏ tía vào, mặc nguyên đồ thả mình lên giường – giường nệm lông ngỗng, vừa đổ nhào xuống đã mềm mại khiến ta có cảm giác thoải mái, ngủ rất ngon giấc.

Cô út đúng là người tốt, dĩ nhiên bà ấy không phải là bà Lương rồi.*

(*Trong “Lư Hương Thứ Nhất” của Trương Ái Linh, Cát Vi Long là một cô gái thuần khiết, nhưng đã bị bà Lương là bác gái đẩy vào con đường sa đọa không lối về.)

Sở Vọng nghĩ bụng, tiện nhắm mắt lại, định chợp mắt nghỉ một lúc trước khi ăn tối, “Mình còn có chuyện quan trọng ngày mai phải làm, sao có thể mơ màng vào lúc này được?”
 

MUALARUNG91

Tác giả
Sưu tầm
Tham gia
25/8/19
Bài viết
4,780
Điểm cảm xúc
577
Điểm
113
Chương 57: Người bệnh (1)
Sở Vọng ngủ một mạch đến tận sáng sớm ngày hôm sau. Mới ngày đầu đến biệt thự nhà họ Cát đã cảm nhận được sự mệt mỏi buông thả vì thả lỏng toàn thân toàn sức. Cô cởi bộ đồ mặc buổi tối hôm qua ra, tắm rửa một hồi, sau đó lấy từ trong tủ áo sơ mi đỏ sậm và quần đùi trắng từng mặc, vuốt tóc ra sau đầu rồi đi xuống lầu.

Hình như cô dậy muộn thì phải, vì người hầu trong biệt thự vừa cầm báo sáng đi vào nhà ăn. Có vẻ tối qua bà Cát đã thông báo nên rất nhiều người hầu lạ mặt vừa thấy cô đã mỉm cười: “Cô chủ đã dậy rồi đấy à? Chúc cô buổi sáng tốt lành.”

Đi theo người hầu đưa báo vào nhà ăn, đúng lúc chú Henry đã dọn dẹp dao nĩa bát đũa của bà Cát. Vừa thấy cô, bà Cát cầm tách trà lên hỏi: “Ngủ đẫy giấc lắm đúng không? Đến ăn sáng đi.”

Sở Vọng ngồi xuống, nhấp hai ngụm trà Khẩu Hồng, “Hôm nay có tin gì không ạ?”

“Thuyền Nhật vào bến không kéo còi, làm chìm bốn chiếc phà, đúng là xằng bậy. Cháu đoán xem chính phủ đáp lại thế nào? Cố gắng nói tốt cho tụi Nhật, nói bọn chúng chỉ vô tình không cố ý, đền tiền là được rồi.”

Sở Vọng cười nói, “Không biết miếng thịt ‘tiền bồi thường’ béo bở này sẽ chia như thế nào đây, có lẽ sẽ bỏ túi riêng hoặc sung quân thôi.”

“Báo chí Hương Cảng đánh đúng trọng tâm hơn báo ở lục địa, đúng là làm bậy.” Bà Cát thở dài.

Chú Henry giao mấy bức điện báo vào tay bà Cát, bà Cát cau mày lật xem nhanh, “Vừa đến Cảng đã tới tìm tôi? Mấy ngày tới sẽ không gặp ai ——”

Sở Vọng vội nói bằng tiếng Anh: “Nếu có tiệc xã giao thì cô út cứ sắp xếp như bình thường đi ạ.”

Bà Cát lắc đầu, “Cô đã nói gì thì sẽ không lật lọng.” Sau đó lại hỏi, “Lát nữa định làm gì?”

“Đi thăm thầy cô ạ, với cả ngài Saumur và dì Nguyễn ở Du Ma Địa nữa.”

“Hôm nay Chủ Nhật mà, việc gì cấp bách thế.” Bà Cát nói, “Mật Thu có mua ít đồ ăn, có bánh dẻo gì gì đó, lát cháu ra ngoài nhớ đem theo.”

Sở Vọng cười đáp vâng, “Suýt thì quên cấp bậc lễ nghĩa rồi, vẫn là cô út suy nghĩ thấu đáo.”

“Miệng ngọt quá nhỉ?” Bà Cát cốc đầu cô, sau đó nói, “Khẩu âm tiếng Anh của cháu, cô nghe lạ lắm đấy. Mấy chuyện khác cô không quản, nhưng rảnh rỗi thì bảo ngài Henry sửa lại cho cháu.”

Sở Vọng cười bất đắc dĩ: “Đủ để nghe hiểu không được ạ?”

Bà Cát trợn mắt với cô rồi gọi Mật Thu đến, nói, “Em tới đây nói hai câu tiếng Anh cho cô chủ em nghe đi.” Mật Thu cười nói vài câu, bà Cát nhìn Sở Vọng: “Mật Thu có khẩu âm gì, cháu nghe không hả? Cho dù cháu không đến từ Anh thì cũng không thể kém người hầu trong nhà được.”

Sở Vọng cười le lưỡi, “Vâng vâng, cháu sẽ sửa lại ạ.”

Sở Vọng đang khuấy bát thì bị chú Henry bưng đồ ăn đi vào nhìn thấy, ông lập tức nhíu mày, cũng đúng lúc ánh mắt giao nhau với bà Cát. Bà Cát cười bất đắc dĩ, bày tỏ hôm nay chưa nói chuyện này với cô.

Ăn trứng chiên nấm và bánh mì nướng phết mỡ bò xong, cô ở ngoài hành lang gọi điện đến nhà họ Từ. Xác nhận chị Từ và Từ Thiếu Khiêm đều có ở nhà, Mật Thu dựa theo bà Cát dặn dò gói ghém bánh trái lại, đưa cho Sở Vọng đặt vào cặp sách.

Lúc cô đứng ở cửa thay giày, trông bà Cát có vẻ lo lắng, tựa vào sofa quan sát Sở Vọng một phen.

Bấy giờ đang thịnh hành phong cách quần đùi trắng ngắn trên đầu gối, để lộ bắp chân thon dài, da thịt trắng bóc, chỉ có điều hơi gầy – trông như gậy gỗ trong tủ kính vậy.

Có hơi lùn nhưng cũng không sao, hiện tại đang là tuổi phát triển, uống sữa bò và canh hầm xương nhiều là được; người thì khẳng khiu mà mặt lại bụ bẫm, thiếu đi nét con gái trưởng thành. Điều này cũng không thành vấn đề – chảy dòng máu của người kia, từ nay về sau lại sống ở biệt thự nhà mình, nhất định con bé sẽ trở thành người trên đỉnh tháp ngà…

Khi bà Cát còn đang đắm chìm trong suy nghĩ thì Sở Vọng đã thay giày xong, nheo mắt cười tạm biệt bà.

Bà Cát nói thêm, “Mặc quần đùi ngắn như vậy, phải mặc thêm tất chân lên trên bắp đùi mới đẹp.”

“Lần sau cháu sẽ bắt đầu mặc như vậy.”

***

Đã lâu lắm rồi mới về lại Hương Cảng, thời tiết trong xanh hơn ở Thượng Hải nhiều. Nếu ở Thượng Hải là một nàng thơ mặc sườn xám không tay, nước da trắng nõn thân hình đầy đã ôm ấp tỳ bà che nửa mặt, thì ở Hương Cảng sẽ là thiếu nữ bận áo lanh trắng phau và váy hoa hồng điểm xuyết màu xanh nõn chuối, thẳng thắn năng động.

Xe buýt công cộng không đông, một đường lên núi rồi xuống núi làm cả người cô ướt đẫm mồ hôi. Lúc nãy gọi điện chỉ hỏi có thầy cô ở nhà không mà quên hỏi cẩn thận, làm cô vất vả đến đường Liên Hoa một chuyến.

Xuống xe ở đường Liên Hoa, từ đằng xa cô đã thấy chị Từ nằm ngủ dưới mái hiên, còn Từ Thiếu Khiêm đứng cạnh cầm quạt nhẹ nhàng quạt mát cho chị – khung cảnh ấy như thể quay ngược về một trăm năm trước, người dưới mái hiên không phải là chị Từ, mà là phu nhân cao quý của chi trưởng trong nhà cao cửa rộng; Từ Thiếu Khiêm cũng không phải giáo sư Vật lý, mà là thế gia công tử đang tuổi còn son, thúc ngựa đi qua Trường An, tiền đồ rộng mở thỏa thuê mãn nguyện.

Sở Vọng không nỡ làm phiền nên nhẹ nhàng rón rén đi đến, bất chợt có một chiếc bóng nhảy ra khỏi lùm cây trong góc, ngay sau lại có người rượt đuổi chạy tới, dọa cô sợ đến mức hét ầm lên. Đến khi bình tĩnh thì mới phát hiện là Từ Văn Quân đang đuổi theo con mèo vằn chơi đùa. Tới lúc nhìn kỹ lại thì một người một mèo đã chạy biến đi mất rồi.

Anh Từ và chị Từ cũng giật mình. Sở Vọng xấu hổ cười cười, đứng từ xa nói, “Thiếu gia Văn Quân đã chịu đến đây rồi à? Có vẻ vui lắm.”

“Con nít mà, có đứa nào không thích chơi bời. Không ai chơi với thằng bé, một mình buồn chán nên muốn tìm chuyện vui và bạn chơi cùng. Không phải giáo sư Từ của em cũng thế à?” Chị Từ ngước mắt nhìn Từ Thiếu Khiêm, “Tưởng em muốn đi châu Âu, đến ngày sắp chia tay thì viết thư xong rồi trốn biệt tăm biệt tích, sợ là cũng khóc đấy.” Rồi chị mỉm cười vẫy tay với Sở Vọng, “Đến đây tôi xem nào, mấy ngày không gặp, có vẻ gầy đi nhiều rồi.”

Từ Thiếu Khiêm cười: “Thế à? Có thể là thầy đã khóc thật.”

“Không phải em đã về rồi đấy sao?” Sở Vọng cười nói, “Xem ra tinh thần của cô rất tốt.”

“Bớt nói ngon nói ngọt đi. Mấy ngày trước tôi mới đổ bệnh, hôm qua vừa xuất viện thì hôm nay em gọi điện đến, đùng là trùng hợp.”

“Ủa? Sao cô lại đau thế ạ?”

“Bệnh cũ ấy mà, không cần nhắc đến làm gì.” Từ Thiếu Khiêm tiếp lời thay chị Từ, “Châu Âu không được à? Ai ai cũng muốn đi châu Âu, cũng có không ít người chỉ vì du học mà bán hết của cải gia sản, lấy làm chi phí học bảy tám năm. Cơ hội tốt như thế, vì sao em không đi?”

Sở Vọng cúi đầu ngẫm nghĩ, trả lời, “Thời gian qua, em vẫn nghĩ mãi về lá thư thầy viết cho em. ‘Một nhà khoa học nên dốc sức vì quốc gia như thế nào?’. Em đã suy nghĩ rất lâu, cũng muốn hỏi thầy xem thầy nghĩ như thế nào. Trước mắt khoa học có thể cứu quốc được không?”


Từ Thiếu Khiêm mỉm cười, “Người bị béo phì thì rất khó xoay người, mà không hoạt động thì bệnh lại nặng thêm. Phương thuốc gì cũng đã kê, nhưng không thấy có hiệu quả lớn.”

Anh ngẩng đầu đăm chiêu, sau đó nói tiếp, “Nội chiến, đại quan, dân chúng lầm than. Trước khi về nước có du học sinh nào không muốn dùng khoa học, công thương nghiệp để cứu quốc? Nhưng đứng trên lầu cao sao có thể thấy được con kiến dưới bờ cát.”

Nghĩ ngợi một hồi, Sở Vọng nói: “Xét cho cùng cũng do quốc gia không coi trọng giáo dục, nên không đủ tiền.”

Từ Thiếu Khiêm cười nói, “Có thể nói thế.”

Sở Vọng thở dài một hơi.

“Giáo sư Từ?”

“Ừ?”

“Em có một yêu cầu quá đáng.”

“Quá đáng thế nào?”

“Gần đây em đang nghĩ đến chuyện lựa chọn chuyên ngành tương lai, nên em định đến thư viện sưu tầm tác phẩm của thầy, coi như tư liệu học tập… Tiếc là sách vở quản lý không tốt, em tìm không ra, nên đành tìm đến chính chủ cầu xin, không biết thầy có thể giúp em được không?”

Từ Thiếu Khiêm rất vui. Chị Từ ở bên cạnh phụ họa, “Được chứ? Sao có thể không được? Tôi đồng ý thay anh ấy.”

Từ Thiếu Khiêm nghiêm mặt hỏi: “Sau này muốn học gì, ứng dụng vật lý hay lý thuyết vật lý…”

“Lý thuyết vật lý.” Sở Vọng đáp không chút do dự, “… Của vật lý hạt nhân.”

“Chuyện này thì dễ thôi. Hình như trong nhà có một bản, tôi có thể đưa cho em trước. Phần còn lại, đợi hai ngày nữa đến trường sẽ đưa cho em.”

***

Cô cầm tập tài liệu tạm biệt nhà họ Từ, ngồi trên xe buýt căng thẳng lật giở từng tờ một. Ngồi cạnh cửa sổ, Sở Vọng như biến thành một chiếc máy đọc tốc độ cao, mấy dòng chữ tiếng Anh lướt qua mắt cô cực nhanh, những từ như “uranium”, “U”, “nhiệt phân”, “chuỗi phân rã”, “thời kỳ bán rã” được phóng lớn vô tận…

Vào những năm 30 của thế kỷ 20, tuyệt đại đa số các nhà vật lý hạt nhân đều biết đến lý thuyết hàn lâm về các nguyên tử siêu Uranium và các nguyên tố phóng xạ. Và chỉ thiếu một cơ hội cực kỳ ngẫu nhiên là bọn họ sẽ phát hiện ra hiện tượng phân hạch hạt nhân – Từ Thiếu Khiêm cũng là một trong số họ.

Cuối cùng cũng xác nhận được điều này, con tim cô đập mạnh liên hồi.

Phải dốc sức vì quốc gia thế nào? Cô đã suy nghĩ rất nhiều ngày.

Vì không biết quá nhiều về lịch sử cận đại, nên ngay từ đầu suy nghĩ này chỉ là một nguyên mẫu bé nhỏ. Tuy nhỏ và mơ hồ, nhưng lại có một âm thanh kiên định đang nói: không thể đi châu Âu.

Trong lịch sử cận đại, có rất nhiều du học sinh ôm mộng khoa học cứu quốc, công thương nghiệp cứu quốc, cuối cùng lại trở thành trò cười.

Không thể dùng khoa học để cứu quốc được. Đấy là kết quả đúc kết của vô số người thử nghiệm thất bại, chỉ đơn giản vì xã hội bấp bênh, quốc gia thiếu hụt, quốc khố trống không, làm gì có tiền để duy trì giáo dục. Như Từ Thiếu Khiêm nói đấy: đứng trên lầu cao sao có thể thấy được con kiến dưới bờ cát? —— Chính vì vậy Gia Cát của đời sau đã ‘tuỳ bệnh hốt thuốc’, tổng kết tuyên bố: Trung Quốc cận đại chỉ có thể và cũng chỉ có khả năng cứu quốc từ góc độ chính trị.

Từ năm 1840 trở đi, Trung Quốc chiến bại liên tục, tài chính quốc gia được dùng để bồi thường cho các quốc gia khác. Khoản tiền bù được trả lại năm Canh Tý* là một miếng thịt béo bở – vô số tham quan ghé mắt cắt xén. Số tiền còn lại, phần lớn dùng để làm chi phí chung cho quỹ du học Thanh Hoa. Còn tiền bạc quốc khố gần như đã dùng để đặt mua vũ khí và mở rộng quân đội.

(*Điều ước Tân Sửu quy định Trung Quốc phải trả tiền bồi thường cho liên quân tám nước sau phong trào Nghĩa Hòa Đoàn, một con số khổng lồ. Song về sau khi điều tra lại thì nhận thấy số tiền bồi thường không đến, 8 nước phương Tây đã trả lại Trung Quốc phần dôi ra, cuối cùng Trung Quốc chỉ phải trả 58% tổng số tiền quy định và có cơ hội đưa nhiều người sang Âu Mỹ du học.)

Đây cũng là điều mà Từ Thiếu Khiêm nhắc đến trong phong thư: Quốc gia đại sự ngày càng tệ hại, chiến loạn liên miên, giáo dục không được phát triển.

Nên là, một nhà vật lý sẽ dốc sức vì đất nước như thế nào? Dĩ nhiên không thể đi châu Âu được.

Trung Quốc không có tiền để duy trì giáo dục, càng không có tiền để thành lập phòng thí nghiệm vật lý hạt nhân. Vậy thì, Anh quốc có không?

Ban đầu khi thành lập trường đại học Hương Cảng, tức cũng là lúc phương Tây tranh nhau thành lập trường đại học ở địa phận Trung Quốc, thống đốc Lugard* đã đề nghị nước Anh thế này: Anh Quốc cũng nên thành lập một trường đại học ở Hương Cảng, vừa để cạnh tranh với các cường quốc khác, vừa để người Trung – nhất là người Hương Cảng thống nhất giá trị quan với nước Anh. Lời đề nghị vừa được đưa ra, tổng đốc Quảng Đông Quảng Tây cùng với công thương giới tỉnh cảng cũng hiểu được một điều: thành lập trường đại học sẽ giúp người Trung học tập khoa học kỹ thuật của phương Tây, sẽ khiến Trung Quốc tự cố gắng, thế là bọn họ đã bỏ tiền ra duy trì ủng hộ.

(*Sir Fredrick Lugard là thống đốc thứ 14 ở Hồng Kông, là người thay mặt Hoàng đế và chính phủ Vương quốc Liên hiệp Anh và Bắc Ireland thực thi quyền lực tại Hồng Kông.)

Nên kinh phí duy trì giáo dục đại học Hương Cảng đều đến từ chính phủ Anh và tập đoàn đầu tư tài chính Luân Đôn như ngân hàng HSBC*.

(*HSBC là viết tắt của Hongkong and Shanghai Bank Corporation, được các thương nhân người Anh tổ chức và thành lập vào năm 1865, sau khi Hương Cảng trở thành thuộc địa của Anh.)

Nếu tài chính như thế còn không đủ, vậy thì, liệu có thể khiến những tay cầm đầu khoa học đem theo ngân sách kếch xù đến Trung Quốc không?

Nếu, nếu Trung Quốc cũng xuất hiện một nhà khoa học thanh danh hiển hách, có đầy đủ tư cách lai lịch và thiên phú thành lập một nhóm nghiên cứu khoa học hoàn toàn mới, thế thì chắc hẳn họ sẽ mang theo ngân sách dự án của mình đến Trung Quốc cho xem.

Dự án Manhattan* từ lúc bắt đầu cho đến khi chính thức thành công, tiêu hao khoảng 2 tỷ đô la.

(*Dự án Manhattan là một dự án nghiên cứu và phát triển chế tạo ra những quả bom nguyên tử đầu tiên trong Thế chiến II, chủ yếu do Hoa Kỳ thực hiện với sự giúp đỡ của Anh và Canada.)

Cộng tất cả những số tiền có được, trong thời gian mười năm, liệu có đủ cho kinh phí nghiên cứu đi từ lý thuyết đến thực tiễn không?

Từ năm 1940 trở đi, bao gồm cả Đức Quốc Xã, ai ai cũng mơ ước đến “hạt nhân”. “Kế hoạch hạt nhân” và “dự án Manhattan” cùng nhau chạy đua, lúc ấy cả thế giới đều biết các mỏ Uranium lớn nằm ở Cộng hòa Séc, Canada và Congo. Còn mỏ Uranium mười nghìn tấn của Trung Quốc được khai quật lần đầu tiên vào năm 2014 lại đang nằm ở bồn địa Ili Tân Cương.


Chính vì vậy mà Sở Vọng muốn thử suy diễn xem: nếu mỏ mười nghìn tấn Uranium này được khai quật trước, thì liệu có khiến chính phủ Trung Quốc cũng ghé mắt đến miếng bánh béo bở mang tên “chuỗi phản ứng hạt nhân” không, liệu có khiến bọn họ cam tâm chia một phần số tiền vốn dùng cho mục đích quân sự để hỗ trợ dự án này không?

“Vì sao các người không đi học trong nước, mà phải vượt dương xa xôi đến đây học đại học, rốt cuộc là nền giáo dục của các người bị gì vậy?”

Nếu chúng tôi có lý thuyết trước cả các người, thì việc gì chúng tôi cần phải đến đó nữa? Vì sao không phải là các người đến đây?

Ở đời sau khi học về phản ứng phân hạch, có một câu này trong sách giáo khoa Sở Vọng vẫn nhớ rõ: “Trong những năm 30 của thế kỷ 20, không một ai có thể giải thích được vì sao thí nghiệm Uranium luôn thất bại.”

Bây giờ là năm 1927, có lẽ lúc này Otto Hahn* ở châu Âu xa xôi đang diễn thuyết luận văn tiến sĩ về cơ học lượng tử tại đại học Göttingen.

(*Otto Hahn là người nhận giải Nobel Hóa học vào năm 1944, trước đó ông cùng nhóm của mình đã nhiều lần thử nghiệm thí nghiệm phân hạch nhưng đều thất bại, bởi vậy mới có câu nói trong sách giáo khoa của Sở Vọng.)

Rất nhiều nhà khoa học ở thời đại này chỉ cách 1% để chạm đến phản ứng dây chuyền hạt nhân, nhưng phải mất hơn mười năm sau thì mới có thể thành công.

Nếu lý luận cơ sở của hiện tượng phân hạch ra đời sớm 12 năm*, thì vụ thử hạt nhân đầu tiên sẽ không xảy ra vào năm 1945 nữa.

(*12 năm tính từ năm 1927 cho đến năm 1939 – thí nghiệm phân hạch urani thành công lần đầu tiên trên thế giới, cũng là năm bắt đầu dự án Manhattan.)

Nếu như trước năm 1937, “kế hoạch Uranium” đã sớm thành công tại đại lục Viễn Đông, vậy thì cơn ác mộng năm 1937* có xảy ra nữa không?

(*Tác giả nhắc đến sự kiện Lư Câu Kiều xảy ra vào ngày 7/7/1937, được xem là sự kiện mở đầu Chiến tranh Trung-Nhật.)

Là một sinh viên khoa học từng được xuất bản rất nhiều bài viết trong tương lai, xuất phát từ quan niệm đạo đức của bản thân mình, Sở vọng không làm nổi chuyện ăn cắp bản quyền những ấn phẩm từng được đăng tải.

Nhưng liệu cô có thể dựa vào tri thức của chính bản thân, trở thành một yếu tố “ngẫu nhiên” trên con đường lý thuyết từ “nguyên tử siêu Uranium” cho đến “hiện tượng phân hạch” chưa được thực hiện của Từ Thiếu Khiêm không?

Liệu cô có thể dùng kiến thức mà bất cứ sinh viên chuyên ngành Vật lý nào ở thế kỷ 21 cũng biết, đứng một bên chỉ điểm cho nhà khoa học Viễn Đông ở đầu thế kỷ 20, người biết quá rõ về lý thuyết phân rã phóng xạ của Uranium, đã nắm được 80% cơ sở lý luận về phân hạch, nhiệt hạch và “phản ứng dây chuyền”, chỉ thiếu 20% còn lại để chạm đến đích? Để thúc đẩy lý thuyết này, nhằm khiến nó ra đời ở Trung Quốc sớm 12 năm?

Vậy thì dự án Manhattan sẽ không còn là dự án Manhattan nữa, có lẽ phòng thí nghiệm chạy đua với Đức Quốc xã sẽ có mặt ở Hương Cảng; và có lẽ hiện trường thí nghiệm sẽ nằm tại Ili ở đại lục.

Và nếu như giả thuyết của cô thành công, thì chiến tranh thế giới lần thứ hai sẽ không xảy ra.

___

*Qin: tl;dr: Con đường cứu quốc bằng khoa học mà Sở Vọng nói ở đây chính là phát triển khoa học mà cụ thể là vật lý hạt nhân, thu hút thế giới đầu tư vào khoa học giáo dục Trung Quốc, từ đó khiến Trung Quốc phát triển hơn, có thể đủ sức để chống lại sự xâm lược của Phát xít Nhật.

Chương này hơi khó tiêu nếu đọc lướt, các bạn đọc thật kỹ và xâu chuỗi lại sẽ thấy các tình tiết tác giả đưa ra đều liên quan với nhau chứ không hề thừa thãi.
 

MUALARUNG91

Tác giả
Sưu tầm
Tham gia
25/8/19
Bài viết
4,780
Điểm cảm xúc
577
Điểm
113
Chương 58: Người bệnh (2)
Sở Vọng cũng biết những điều đó chỉ là giả thuyết, là hypothesis. Trong quá khứ, đi qua khắp đại lục châu Âu và Bắc Mỹ, biết bao con người cùng những năm tháng ròng rã, mãi đến tận năm 1942 mới thực hiện được lò phản ứng chậm đầu tiên – từ lý thuyết cho đến thực tiễn tròn mười bốn năm.

Rồi lại bắt đầu từ năm 1942 cho đến khi đề xuất hai kỹ thuật kích nổ, từ sáu nhà vật lý đầu tiên cho đến hơn một nghìn các nhà khoa học, hơn hai nghìn nhân viên tính toán, hơn ba nghìn quân sĩ cùng sự nỗ lực của mấy chục nghìn người vào cuối năm 1945. Mất thời gian ba năm, cuối cùng hai quả bom nguyên tử “Thin man” và “Little boy” cũng đã ra đời.

Nhưng chỉ cần nghĩ đến việc đó thôi là nội tâm lại vô cùng kích động.

Nên khi tới Du Ma Địa thăm ngài Saumur và bà Nguyễn, tâm tư của cô còn đang phiêu du ở một nơi xa, không biết ngài Saumur và bà nói gì. Chỉ loáng thoáng nhớ hình như ông ấy nói: “Tháng sau ngài Dupont sẽ đến để gặp cháu.”

Bà Nguyễn và ngài Saumur không để bụng chuyện cô phân tâm. Nhìn cô lên xe điện, bà Nguyễn cười nói: “Hình như tôi chưa thấy con bé vui vẻ như thế lần nào, không biết là vì chuyện gì nhỉ?”

“Con người thường rất chú ý đến thứ mình yêu tha thiết.”

“Vậy chắc hẳn con bé đã gặp được chân mệnh thiên tử của mình rồi.” Bà Nguyễn cười nói.

Sở Vọng xuống xe điện, chạy bước nhỏ quay về biệt thự nhà họ Cát.

Có hai người hầu đang ở trong vườn chăm sóc hoa, một người trong đó không nhìn thấy Sở Vọng, nhiều chuyện tán gẫu: “Bà cũng quyết tuyệt thật đấy, nói không tổ chức tiệc là không tổ chức thật, cả cái nhà to như thế mà chỉ mời vài ba người đến đánh mạt chược. Vừa vắng vẻ vừa buồn chán —— cũng không biết cháu gái bà tính ở đây bao lâu nhỉ?”

Một người khác thấy Sở Vọng đi vào, lập tức huých khuỷu tay vào người bên cạnh.

Hai người nhủ thầm “chết chắc rồi”, chắc chắn cô đã nghe thấy những lời này rồi. Bà chủ chiều chuộng cô như thế, ngay đến chị Lật Thích cũng phải đổi tên thay họ chỉ vì cô đến. Nếu cô đi mách với bà chủ, không biết bà sẽ trừng phạt hai người thế nào đây.

Nghĩ đến đây, hai cô gái run run đứng thẳng lên, ấp úng gọi: “Chào cô ạ!”

Nhưng cô chủ chẳng hề nhìn hai người lấy một lần, chỉ chạy ùa vào cửa. Hai người đứng bên ngoài tôi nhìn cô cô nhìn tôi, nghĩ bụng: “Cô chủ không thèm nhìn mình nữa, nhất định là mình đã chọc tức cô rồi. Lát nữa cô đến chỗ bà khóc lóc, nói không chừng bà sẽ bán chúng ta làm vợ lão què nào đó ở quê quá…”

Hai người bị trí tưởng tượng của chính mình dọa sợ, trố mắt nhìn nhau, buồn bã đau lòng không biết gỡ từ đâu, suýt nữa đã òa khóc.


***

Lúc này trong đầu Sở Vọng chỉ có các nơtron nhanh chậm cùng tia gamma, còn những chuyện không liên quan đều bị cô tự động bỏ ngoài tai. Dù bây giờ Kim Thành Vũ có ở trần nửa thân trên đứng trước mặt, chưa chắc cô đã chịu liếc nhìn. Thế nên hai người hầu kia nói gì làm gì, cô cũng không hề chú ý. Ngoài hai người hầu đó ra, rất nhiều người quan trọng đang chơi mạt chược trong nhà cũng bị cô xem nhẹ.

Tạ Trạch Ích chơi mạt chược cả đêm, cuối cùng cũng ù được một ván, vô tình đưa mắt nhìn ra cửa, đúng lúc trông thấy Sở Vọng đạp cởi giày da, chân chỉ mặc tất không xỏ thêm dép, cẩn thận ôm một xấp tài liệu đựng trong túi da bò, nét mặt rất trịnh trọng lại vui vẻ chạy rầm rầm lên lầu.

“…” Tạ Trạch Ích trải bốn quân Lục Văn lên mặt bàn vải trắng, cười nói, “Dì Cát này, tôi còn tưởng cháu gái dì tính nết lạnh lùng, sẽ không bao giờ kích động, xem ra tôi nghĩ sai rồi.”

Bà Cát đang cần quân Lục Văn, thấy bốn quân Lục Văn trong tay anh thì vừa tức vừa cười: “Thấy Sở Vọng về?”

“Về rồi. Trên mặt có…” Tạ Trạch Ích cân nhắc lựa lời, muốn nói đến từ ‘thiếu nữ hoài xuân’, nhưng dường như lại cảm thấy không thích hợp lắm. Khổ một nỗi thiếu vốn từ vựng nên sau một hồi lâu nghĩ ngợi, anh mới chậm rãi thốt ra: “Có nụ cười ‘mới biết yêu’.”

Bà Cát gắt anh, “Con bé có bạn trai rồi, là chồng chưa cưới của nó, không phải cậu đã gặp rồi sao? Cái gì mà mới biết yêu?” Nhưng rồi nghĩ lại, bà Cát chợt nhớ tới những lúc Sở Vọng ở bên chàng trai kia, trông con bé có vẻ rất lý trí, dù quan tâm vẫn rất bình tĩnh. Còn tình cảm của chàng trai kia thì rất nhiệt tình thẳng thắn, chữ tình toát lên qua từng cử chỉ và chân mày khóe mắt, ấy nhưng bà lại không thấy điều đó ở cháu gái bà, có nhìn thế nào cũng chỉ thấy nó có thái độ nghiêm túc đầy miễn cưỡng với tờ giấy hôn ước kia. Nghĩ đến điều này, bà Cát hỏi Tạ Trạch Ích: “Con bé mới cười thật à? Cười thế nào, cậu làm thử tôi xem.”

Tạ Trạch Ích mỉm cười: “Dì bảo tôi học thế nào đây?”

Hai bà khác trên bàn mạt chược bị anh chọc cười.

Tò mò với tình trạng đang yêu của cháu gái, bà Cát không còn tâm trạng chơi mạt chược nữa. Bà đứng dậy gọi Mật Thu đến, dặn cô lên lầu xem Sở Vọng thế nào. Một lúc sau, Mật Thu đi xuống thưa: “Cô chủ vừa về phòng là ngồi vào bàn, viết vẽ gì đấy rất hăng hái. Em bảo phòng bếp hấp ít bánh ngọt và sữa nóng, lúc bưng lên đặt xuống cạnh cô, cô cũng không để ý đến em… Vô cùng tập trung, em nghĩ có lẽ đã gặp phải người hay chuyện nào đó quan trọng rồi.”

Bà Cát gật đầu. Chuyện quan trọng à, chỉ cần không phải giết người phóng hỏa thì bà đều có thể giải quyết cho cô; mà cho dù có giết người phóng hỏa, bà cũng có thể nghĩ cách bảo vệ cô.

Người quan trọng ư… Về vấn đề này, bà Cát rất tò mò —— ra cửa một chuyến đã gặp được người quan trọng, là ai trên hòn đảo Hương Cảng này đây?

Đọc đến bài viết của Từ Thiếu Khiêm nói về hạt alpha bắn phá nguyên tố nhẹ, cuối cùng Sở Vọng cũng thở phào nhẹ nhõm —— tuy khoa Vật lý của đại học Hương Cảng chỉ mới được thành lập, nhưng nước Anh đã vung tay dựng lên phòng thí nghiệm khá tân tiến —— chí ít là vẫn có buồng sương Wilson*.

(*Buồng sương Wilson là thiết bị chứa hơi nước mà trong đó, hạt tích điện và tia X lẫn tia gamma được nhận dạng nhờ giọt hơi nước ngưng đọng.)

Có một tiền đề cực kỳ quan trọng đối với phản ứng phân hạch: Đó chính là nơtron nhanh. Tuy sự tồn tại của hạt nơtron đã được tìm thấy vào năm 1920, nhưng sau hơn 7 năm nó vẫn chỉ là giả thuyết, nhiều nhà khoa học – bao gồm cả phòng thí nghiệm Cavendish* – vẫn hiện đang cố gắng xác nhận sự tồn tại của nó. Bothe và Becker (những người nghiên cứu ra vụ bắn các hạt alpha vào tấm Beryllium), cùng với con gái và con rể của Marie Curie (theo dõi “bức xạ trung tính”) đều lỡ mất dịp phát hiện ra nơtron vào năm 1930, chắp tay “nhường” giải Nobel cho học trò của Rutherford là Chadwick.

(*Đây là một trong những phòng thí nghiệm nghiên cứu phát triển mạnh ở Vương quốc Anh về các lĩnh vực công nghệ cao.)

Từ Thiếu Khiêm cách sự phát hiện này cả một bước xa.

Vì thế chỉ cần thử nghiệm buồng sương bắn hạt alpha nhiều lần, khiến Từ Thiếu Khiêm ý thức được “bức xạ trung tính” có nguồn gốc từ thứ không có điện tích, có khối lượng tương đương hạt nhân, thứ mà bảy năm trước Rutherford đã nêu ra – chính là “nơtron”.

Vậy là có thể chứng thực được nó rồi!

Sở Vọng viết rất nhiều công thức chiếu xạ lên giấy nháp, cũng dựa vào luận văn của Từ Thiếu Khiêm mà thử đặt câu hỏi ngây thơ cho bản thân —— Vì sao lại tồn tại bức xạ trung tính còn mạnh hơn cả tia gamma, có phải là do không bảo toàn được số khối nguyên tử không?

Lúc liệt kê các công thức và đặt ra câu hỏi này, Sở Vọng không ý thức được rằng cô và công thức toán học của mình đã trở thành “quan hệ tình yêu” trong mắt bà Cát.
 

MUALARUNG91

Tác giả
Sưu tầm
Tham gia
25/8/19
Bài viết
4,780
Điểm cảm xúc
577
Điểm
113
Chương 59: Người bệnh (3)
Cô viết ra giấy rất nhiều câu hỏi, rồi ngay trong hôm đó vội vã gửi hết đống giấy nháp vào hòm thư của Từ Thiếu Khiêm. Đến cuối tuần khi làm xong tất cả những việc trên, dưới phương pháp lạt mềm buộc chặt của bà Cát, cô được chú Henry dạy một lớp hướng dẫn phát âm tiếng Anh vào buổi trưa, và lớp học đã kết thúc khi từ “con gái” được chú Henry nói bằng giọng Anh quyến rũ lại bị Sở Vọng phát âm thành giọng Mỹ. Trong tiếng cười của mọi người ở biệt thự nhà họ Cát, buổi luyện tập phát âm vào cuối tuần coi như tạm thời chấm dứt.

Sáng ngày Chủ nhật, vì Sở Vọng đã về nên Leon không thể không tiếp tục lớp tiếng Anh của mình. Vì vậy từ sáng sớm, vú già ở biệt thự họ Kiều dẫn Leon xuất hiện trước cửa biệt thự nhà họ Cát, và còn có cả Chân Chân đi theo. Đưa mắt nhìn Sở Vọng dẫn Leon đi xe buýt vào nội thành, quý cô Tiết Chân Chân thành công đạt được đặc quyền xin ăn sáng ở biệt thự nhà họ Cát.

Sau kỳ nghỉ Hè là Leon và Văn Quân sắp vào học ở trường Queen’s*, cho nên cũng phải bắt đầu dạy tiếng Latinh. Vì trước đó Sở Vọng đã tuyên bố tiếng Latinh của mình là do “giáo sư Từ dạy”, nên ngày đầu tiên đứng lớp đã bị bạn học Từ Văn Quân xem thường.

(*Qin: Đính chính đây là trường trung học Queen’s College chứ không phải trường đại học Queen’s. Rất xin lỗi vì sự nhầm lẫn này, mình sẽ sửa lại sau.)

Cậu nói: “Nếu cô giáo Lâm học tiếng Latinh từ chú em trong nửa năm qua, vậy vì sao không để chú ấy dạy bọn em luôn, mà phải để học trò của chú ấy dạy lại?”

Sở Vọng cười nói: “Nếu trong vòng nửa năm em có thể học được trình độ ngang chị từ chỗ chú ấy, vậy thì em cũng không cần chị dạy nữa.”

Leon cười to, còn Văn Quân im lặng cúi đầu trong tiếng cười của cậu, bắt đầu tập trung học từ vựng.

So với những ngày trong biệt thự họ Kiều lúc mới đến Hương Cảng, thì tuần đầu tiên ở nhà họ Cát vừa bận rộn lại dồi dào năng lượng, không cần lo lắng về quan hệ cá nhân phức tạp, mọi chuyện vặt vãnh trong nhà đều có người giúp việc thu xếp thỏa đáng thay cô.

Có thể yên tâm làm chuyện của mình, dù ở kiếp trước, cô cũng chưa từng được sống thoải mái như thế.

***

Ngày thứ hai đến rất nhanh.

Ở lớp học buổi chiều của Từ Thiếu Khiêm. Từ khi cô vào học ở đại học Hương Cảng thì đây là lần đầu tiên anh vắng mặt, nhưng chính trợ giảng được anh nhờ dạy cũng không hiểu rõ về bài học ngày hôm đó lắm. Tới gần khi tan tiết, trợ giảng chỉ biết dặn dò sinh viên: “Nội dung hôm nay tôi nói chỉ dùng để tham khảo! Cứ học theo những gì giáo sư Từ đã dạy là được, mọi chuyện cứ lấy bài của thầy ấy làm chuẩn!”

Sở Vọng không ngờ kết thúc giờ học Vật lý mà cũng xuất hiện những lời như “câu chuyện bên trên không có thật, chỉ mang tính chất minh họa”, nghe đúng là vô cùng thân thiết.

Đúng lúc này, trợ giảng lại hỏi một câu: “Linzy là ai?”

Sở Vọng giơ tay lên.

Trợ giảng gật đầu với cô rồi nói, “Giáo sư Từ bảo tôi học xong dẫn em đến phòng thí nghiệm Vật lý.”

Sở Vọng gật đầu, dưới ánh mắt của mọi người, cô đi xuyên qua phòng học rộng lớn.

Lúc đi theo sau trợ giảng ra ngoài, có sinh viên nói mát: “Tôi nói rồi còn gì, quả nhiên là học trò cưng của thầy Từ, được đặc cách học thí nghiệm riêng nữa.”

Cô thở dài. Ngày trước học đại học, môn thực hành thí nghiệm là môn khá lỏng lẻo, bình thường nếu cúp tiết được là cô toàn cúp hết. Chỉ là thí nghiệm thôi mà, có gì hay ho để ghen tị đâu?

Nhưng khi đến cửa phòng thí nghiệm thì cô mới ý thức được một điều, trong thời đại vật lý hạt nhân vẫn đang còn phủ bụi, cho sinh viên lớp lý thuyết được thực hành quả là một điều xa xỉ.

Tòa nhà thực hành xây theo kiến trúc Bauhaus, có thể xem là kẻ dẫn đầu thời đại trong phong cách. Kiến trúc hai tầng, ở cửa viết bảy chữ to “PHÒNG NGHIÊN CỨU VẬT LÝ HẠT NHÂN”.

Lúc thấy bảy chữ này, Sở Vọng còn giật mình —— thì ra ngành Vật lý ở đại học Hương Cảng được ông trùm chủ nghĩa tư bản ủng hộ, tuy giáo viên ít ỏi, nhưng dường như có rất nhiều nghiên cứu viên đang âm thầm ra sức đóng góp vĩ đại cho sự tiến bộ của vật lý hạt nhân?

Người trợ giảng dẫn cô đến căn phòng nằm cuối hành lang, bên ngoài phòng lắp cửa sắt chống trộm. Cách lớp cửa sắt, anh ta gõ vào cửa gỗ. Nghe thấy bên trong có tiếng động, trợ giảng lập tức xoay người rời đi, để lại một mình Sở Vọng ngơ ngác đứng trước cửa.

Một lúc lâu sau, cánh cửa bên trong mở ra cái “két ——”, một người đàn ông mặt trẻ con màu tím bầm, đeo kính tròn lim dim bước ra mở cửa.

Sở Vọng nhìn anh ta hai lần.

Cái nhìn đầu tiên là vì giật mình do tưởng anh ta là zombie.

Nhìn đến lần thứ hai mới nhận ra, thì ra người này chính là người đeo kính mắt cổ hủ cổ quái ở nhà xuất bản đại học Hương Cảng ngày trước.

Cô run run chào “hi” một tiếng với anh ta, còn anh ta chỉ bình tĩnh ngoái đầu hỏi, “Thiếu Khiêm, đây là người cậu mời đến đấy à?”

Trong phòng sột soạt tiếng lật giấy, Từ Thiếu Khiêm “ừ” một tiếng, bước ra từ trong góc. Vừa trông thấy Sở Vọng, anh cởi kính xuống đi vào nhà, giới thiệu đơn giản hai người với nhau: “Linzy, Lương Chương, hai người đã gặp nhau rồi.”

Lương Chương “à” một tiếng rồi về lại chỗ ngồi, chúi đầu vào chồng giấy cao hơn nửa người, không ngẩng đầu lên nữa.

Từ Thiếu Khiêm mỉm cười như đã quá quen với việc trước mắt, giải thích, “Ngày trước khi mới đến Hương Cảng, bọn thầy có xin trường lập một viện nghiên cứu như thế này. Gần như có đầy đủ dụng cụ, nhưng vì trường chưa có tiếng tăm, nên đến nay trong phòng nghiên cứu vẫn chỉ có hai người là thầy và cậu ta.”


Lương Chương ngẩng đầu lên, bất mãn nói: “Kiểu gì chúng ta cũng sẽ có nhiều người hơn thôi. Trong quá trình tính toán lý thuyết lần này, chúng ta phải bỏ đi rất nhiều lý thuyết thông thường của vật lý cổ điển, chính vì thế mà số lượng tính toán và thí nghiệm sẽ nhiều hơn, nếu chỉ dựa vào sức hai người chúng ta, tôi sợ phải mất từ tám tháng tới một năm mới xong.”

“Đúng là sẽ có người, nhưng chỉ là sau khi lý thuyết đó được chứng thật ở nơi này.”

Lương Chương há miệng, có lẽ muốn phản bác nhưng rồi phải khép miệng lại vì thực tế.

“Cuối tuần trước nhận được thư của em, từ trình độ nào đó đã xác nhận phỏng đoán của thầy và cậu ta bấy lâu nay: bức xạ trung tính đến từ nơtron – một suy nghĩ rất hay. Tôi và Lương Chương ở phòng thí nghiệm từ tối thứ Bảy đến tận bây giờ, vẫn chưa được nghỉ ngơi. Lúc này cậu ta đã rơi vào trạng thái căng thẳng tinh thần quá độ, nên mong em bỏ qua cho cậu ta.”

Qua vài lời ngắn gọn của họ, Sở Vọng cũng đoán được hai người đã vùi mình trong phòng thí nghiệm suốt hai hôm, không ngủ nghỉ mà làm gì đó. Trao đổi với người thông minh đúng là tốt, chỉ cần để ý một chút là nhận ra ngay, không cần phải nói nhiều. Thế là Sở Vọng gật đầu, bày tỏ mình rất thông cảm cho trạng thái lúc này của anh ta, sau đó thấp giọng hỏi: “Vậy em có thể làm gì ạ?”

Lương Chương ngẩng đầu lên từ sau trang sách, có vẻ vẫn bất mãn với đề nghị của Từ Thiếu Khiêm. Anh ta nghi ngờ nhìn Sở Vọng, trong mắt viết rõ hoài nghi: em có thể đảm nhiệm được thật sao?

Dừng một lúc, Từ Thiếu Khiêm nói: “Rồi cậu sẽ sớm hối hận vì đánh giá thấp em ấy đấy.”

Sau đó anh lại nói: “Tuy hiện tại viện nghiên cứu chỉ mới có hai thành viên, nhưng vì lý do công bằng, thầy vẫn cần trưng cầu ý kiến của đồng nghiệp duy nhất hiện nay.”

Cô ngẩng đầu nhìn Lương Chương, cười bảo: “Nếu anh có nghi ngờ gì về em thì xin cứ nói.”

Lương Chương hỏi: “Nói sơ sơ về biến đổi hạt nhân xem nào.”

Sở Vọng nói tóm gọn trong hai ba câu, sau đó nheo mắt: “Nhất định phải dùng danh từ ‘biến đổi’ mà không phải là ‘phản ứng hạt nhân’ sao? Em nhớ, biến đổi là thuật ngữ của các nhà giả kim thời cổ đại, nếu ở đại lục châu Âu mà nói như thế thì sẽ bị chém đầu.”

Từ Thiếu Khiêm cũng cười nói: “Không sao. Cả viện nghiên cứu cũng chỉ có ba người chúng ta. Hơn nữa, đây là Hương Cảng chứ không phải châu Âu.”

Lương Chương ho khan hai tiếng, vùi đầu lục tìm một hồi rồi lấy ra ba tờ giấy nháp của bài luận văn, đưa cho Sở Vọng hỏi: “Đã đọc bài luận văn này chưa? Nếu chưa thì tôi cho em mười lăm phút để đọc, sau đó giải thích đơn giản về chỗ mâu thuẫn trong bài này đi.”

Sở Vọng cúi đầu nhìn: là thuyết lượng tử của Rutherford.

Sở Vọng không cần mười lăm phút để đọc vì cô đã thuộc nằm lòng bài luận văn này rồi, thế là ngẩng đầu lên nói, “Mô hình hạt nhân được đưa ra bởi thí nghiệm hạt alpha cũng giống như mối quan hệ giữa mặt trăng và trái đất vậy – các hành tinh xoay quanh mặt trời như các electron xoay quanh hạt nhân. Nhưng khác với các hằng tinh và hành tinh ở chỗ, lực tương tác điện giữa các electron và hạt nhân là rất lớn. Cho nên học thuyết này không thể giải thích được vì sao electron không bị rơi vào trong hạt nhân*. Giả thuyết này có rất nhiều lỗ hổng, thậm chí có thể rất khác với câu trả lời chính xác, nhưng…”

(*Hạt nhân mang điện dương và electron mang điện âm nên nếu có thì các electron sẽ dính chặt vào hạt nhân chứ không chuyển động thành quỹ đạo xung quanh hạt nhân, vì vậy mô hình nguyên tử của Rutherford chưa đủ để giải thích. Còn lý do là vì electron có vận tốc cực kì lớn, cân bằng với lực tương tác điện giữa electron và hạt nhân, không thể làm electron văng ra hay bị hút vào.)

“Nhưng,” Đôi mắt Lương Chương sau cặp kính không còn lim dim nữa, ánh mắt của anh lúc này như bó đuốc rực sáng nhìn cô chòng chọc.

Từ Thiếu Khiêm ngồi trên bệ cửa, mỉm cười nhìn Sở Vọng.

Sở Vọng lật đến trang cuối của bài luận văn, chỉ vào hàng cuối cùng. Cô giơ ra trước mặt Lương Chương, đọc thành tiếng hàng Anh kia: “Đến hôm nay giả thuyết này vẫn chưa hoàn hảo, vẫn còn nhiều thiếu sót. Nhưng, sự nghiệp khoa học của chúng ta không chỉ có ngày hôm nay mà còn có cả ngày mai.”

“Ngày mai nằm trong tầm tay.” Lương Chương đỡ mắt kính, “Vậy xin hỏi: em có muốn công việc này không —— chứng thực một ngày mai nằm trong tầm tay.”

Sở Vọng nghĩ ngợi rồi đáp: “‘Em có muốn công việc này hay không không quan trọng, điều quan trọng là các anh có muốn để em tham gia cùng hay không’.”*

(*Tác giả chú thích: Đây là câu nói trong phim “Dự Án Mahattan” nên mới có dấu ngoặc đơn trong dấu ngoặc kép.)

Từ Thiếu Khiêm cười cười, vỗ vai Lương Chương, “Không phải tôi nói rồi sao. Lần này thông qua rồi chứ gì.”

Lương Chương gật đầu, miễn cưỡng đồng ý.

Sở Vọng cười ngẩng đầu lên: “Vậy là em đã trở thành thành viên thứ ba của viện nghiên cứu rồi đúng không?”

Từ Thiếu Khiêm trịnh trọng gật đầu.

“Vậy sự tham gia của em có khiến tám tháng đến một năm rút ngắn xuống còn sáu tháng đến mười tháng không?”

“Chắc chắn rồi.”

“Thế thì tốt quá.” Sở Vọng nheo mắt, không khỏi siết chặt nắm đấm.

***

Có điều, dù Sở Vọng có tích cực đến đâu thì vẫn không thay đổi được sự thực cô là một đứa phế thí nghiệm. Ở kiếp trước, vì sự vụng về của mình trong những lần làm thí nghiệm nên giờ thực hành luôn không đạt yêu cầu. Tuy nghiệp học đã lên cao, song các bạn học vẫn cứ truyền tai nhau, đặt cho cô mỹ danh là “Ooh! Linzy is coming with bang!” (Lâm Trí đi đâu là vụ nổ đi theo!)

Vào lần thứ ba sau khi làm hỏng máy phát hạt của buồng sương Wilson, rốt cuộc Lương Chương cũng phải hét lên: “Linzy! Sau này em tránh xa máy phát hạt giùm tôi! Về sau thí nghiệm do tôi làm, Linzy phụ trách ghi chép!”

Nhưng sự thực đau đớn đã chứng minh một điều, Lương Chương thật sự không phải người giỏi làm thí nghiệm. Vì lý do công bằng, nên lần thứ ba sau khi anh ta sắp làm hỏng buồng sương, Sở Vọng rất thành khẩn đề nghị Từ Thiếu Khiêm: “Vậy thì để em tính toán, anh ấy ghi chép, còn thí nghiệm do thầy Từ làm.”

Hễ có thời gian rảnh là ba người lại tập trung vào phòng thí nghiệm. Cho tới một hôm nào đó, khi Diệp Văn Dữ được chị Từ nhờ đưa cơm nước đến phòng nghiên cứu, anh ta nghe thấy cuối hành lang có tiếng thủy tinh vỡ đi kèm với tiếng gào khóc của Lương Chương: “—— Tôi nghĩ chúng ta thích hợp chế tạo lựu đạn hơn đấy!”

Sở Vọng cẩn thận né tránh những mảnh thủy tinh trên mặt đất, oán thầm: anh nói đúng, hay là thử tạo lựu đạn có uy lực mạnh nhất thử xem?

Từ Thiếu Khiêm lại rất bình thản quét mảnh vỡ trên đất.

Ba hôm sau, trong nhà họ Từ ở đường Liên Hoa.

Sở Vọng đang dạy Leon và Từ Văn Quân tiếng Latinh, còn Diệp Văn Dữ đứng bên cạnh báo cáo với chị Từ những gì mình nghe thấy lúc đưa cơm đến phòng thí nghiệm trong mấy ngày qua.

“Trước đó cháu có nghe những giáo sư khác trong trường nói: chỉ cần có chú thì dụng cụ thí nghiệm sẽ bị hỏng; dụng cụ càng tinh vi thì tỉ lệ có vấn đề càng lớn. Cháu còn không tin. Nhưng lần đầu đến phòng thí nghiệm, cháu đã được mở mắt rồi. Chỉ nghe thấy bùm một tiếng, cháu còn tưởng bom nổ nữa chứ.”

Chị Từ nghe thế thì rất vui, vội truy hỏi: “Còn con bé Sở Vọng thì sao?”

“Em ấy ấy hả,” Diệp Văn Dữ vui vẻ nói, “Nghe bảo em ấy còn không bằng chú. Đến phòng thí nghiệm một chuyến mà làm vỡ dụng cụ ba lần, mới tuần thứ ba đã bị cách chức, phải lùi về tuyến sau. Nếu không gã quái nhân khoa học của vật lý học ứng dụng kia làm sao chịu gật đầu cho chú làm thí nghiệm?”

Từ Thiếu Khiêm bóc hạt sen cho chị Từ, cười nói, “Điều này vừa hay chứng minh một chuyện.”

Chị Từ hỏi: “Chứng minh chuyện gì?”

“‘Người học vật lý, khả năng làm thí nghiệm luôn rất tệ’,” Sở Vọng đang cứu chuộc lại hình tượng của mình trước mặt học trò, nên cũng đứng ở đằng xa phản bác, “Mọi người ai cũng nói thế cả, nói chung đây là điều ai cũng biết, không thể trách em với các thầy được!”

“Em cũng biết cách biện hộ lắm nhỉ”, Diệp Văn Dữ cười lớn, “Anh nhớ ngày trước em thường đến nhà thờ mà. Vậy xin hỏi cô Lâm, từ thứ Hai đến thứ Bảy em tin Newton, còn Chủ nhật thì tin thượng đế à?”

Từng hạt sen tựa viên ngọc sạch sẽ, từ bàn tay trắng bệch khớp xương rõ ràng của Từ Thiếu Khiêm rơi xuống đẩu tre.

Anh nhìn vào những hạt sen kia, cười nói, “Cho nên lễ giáng sinh của bọn chú được gọi là: Merry Newtonmas.”
 
Trạng thái
Không mở trả lời sau này.
Top