Lượt xem của khách bị giới hạn

[Ngôn tình] [Truyện Hoàn] Giờ đang nơi đâu - Duy Đao Bách Tích

Trạng thái
Không mở trả lời sau này.
[Ngôn tình] [Truyện Hoàn] Giờ đang nơi đâu - Duy Đao Bách Tích

MUALARUNG91

Tác giả
Sưu tầm
Tham gia
25/8/19
Bài viết
4,780
Điểm cảm xúc
577
Điểm
113
Chương 70: Người bệnh (14)
Trông Từ Thiếu Khiêm bây giờ không khác gì bình thường.

Ngày thứ hai vào tuần thứ hai sau khi nhận được điện báo, Từ Thiếu Khiêm thông báo với tất cả các thành viên: “Trước khi con thuyền Daant cập bến Hương Cảng, mọi người không được nhúng tay vào công việc ở viện nghiên cứu nữa.” Mà dường như cũng trong khoảnh khắc ấy, thống đốc Hương Cảng cũng nhận được điện báo, lập tức điều hai đội binh đến canh gác viện nghiên cứu, nghiêm khắc kiểm tra vật phẩm và tài liệu mọi người mang theo khi ra vào, tất cả thư từ của viện nghiên cứu gửi ra ngoài đều bị giữ lại.

Trước khi con tàu nước Anh đến Hương Cảng, viện nghiên cứu rơi vào tình trạng hỗn loạn nhất từng có.

“Vì sao không cho bọn tôi gửi thư về nhà?” Tiến sĩ người Đức là Carl và Hoffman không dưới một lần phẫn nộ chất vấn lính Anh, “Các người không có quyền làm thế!”

“Thế thì phải hỏi người của các anh.” Lính Anh cười ha hả, “Có người cho bọn này biết: Bất cứ ai từ chối điều tra thì có thể sẽ bị đưa thẳng đến tòa án quốc tế. Nếu không muốn ngồi ghế điện thì đừng có lộn xộn.”

Dù các thành viên căm phẫn hay khó hiểu thì Từ Thiếu Khiêm vẫn giữ thái độ hòa nhã vạn năm không đổi, mỉm cười khuyên nhủ: “Xin mọi người kiên nhẫn chờ thêm một tuần nữa.”

Nhưng Lương Chương lại không có được tu vi như anh. Người ngoài tra hỏi nhiều lần, anh ta còn có thể mặt đỏ tía tai lùi vào góc tường ngậm chặt miệng. Mãi cho đến Lise khó hiểu hỏi anh: “What are they protect? Protect us, or protect something from us?” (Rốt cuộc bọn họ đang bảo vệ gì thế? Bảo vệ chúng ta hay đang phòng bị chúng ta?)

Lương Chương vò đầu bứt tai, nhưng vẫn giữ kín miệng: “Tôi không biết thật! Đừng hỏi tôi!”

Người Anh ở vùng thuộc địa rất xem thường người da màu. Người Hoa và người Ấn ở Thượng Hải, Hương Cảng hay Singapore đều đã quen rồi, nhưng Carl và Hoffman thân là người da trắng lại chưa bao giờ bị đối xử như vậy, lúc này đang cực kỳ phẫn nộ trước sự ngạo mạn của lính Anh.

Hai tiến sĩ người Đức nhiều lần bày tỏ bất mãn với lính Anh bằng cách vung tay vung chân. Mấy hôm sau, hai gã hạ úy dắt một con chó lưng đen đến, gọi nó là “Prussia”*. Lúc tiến sĩ người Đức đi qua thì cười ha hả nói lớn: “Súc sinh không nghe hiểu tiếng Anh! Nhưng Prussia đừng sợ, người thân của mày đến rồi, chắc chắn là bọn chúng muốn nói mấy lời với mày.”

(*Prussia hay còn gọi là Phổ, là một vương quốc trong lịch sử cận đại nước Đức.)

Trong phòng nghiên cứu, mâu thuẫn giữa người da trắng và người da màu đã bùng nổ. Hoffman không chịu nổi sự giày vò ngày một chồng chất, cuối cùng cầm tài liệu nghiên cứu của mình đập mạnh xuống bàn của Từ Thiếu Khiêm, giận dữ gào lên: “Tôi không làm nữa! Tôi về Đức có được không hả?”

Đối mặt với gấu xám nước Đức đang xù lông, Từ Thiếu Khiêm vẫn bình tĩnh một cách lạ thường: “Kiên nhẫn chờ chút nữa đi.”

Nhìn Hoffman kêu gào trong văn phòng, Chandra an ủi: “Người Anh ở vùng thuộc địa đều vậy cả mà, các anh cũng phải quen rồi chứ.”

Mọi người ngầm thừa nhận Từ Thiếu Khiêm và Lương Chương đã biết chuyện, cũng vì thế mà xếp Sở Vọng vào phạm vi người biết chuyện. Tuy nhiên, xem ra cuộc sống của cô dễ chịu hơn Từ Thiếu Khiêm và Lương Chương nhiều, bởi vì thực chất khi khi mọi chuyện còn chưa bắt đầu thì trong phòng thí nghiệm đã rạn nứt, Sở Vọng cũng âm thầm toát mồ hôi thay.

May mà không lâu sau, con tàu Daant đã đến Hương Cảng.

Trước khi tàu đến, hai toán binh hạ cấp của quân đội Anh đã canh gác quanh viện nghiên cứu. Tất cả mọi người yên lặng chờ trong văn phòng, tim đập thình thịch.

Hoffman ngăn Từ Thiếu Khiêm lại, chỉ vào đám người Anh diễu võ giương oai bên dưới, cáu kỉnh hỏi: “Đình chỉ công tác đã nhiều ngày, lại còn cấm chúng tôi gửi thư, bây giờ thì cấm túc giam lỏng! Bọn tôi là nhà khoa học chứ không phải tù nhân!”

Từ Thiếu Khiêm chỉ cười không đáp, sau đó xoay người đi xuống lầu.

Hoffman như đấm vào bông, ngoái đầu tức giận hét lớn: “Tôi muốn từ chức!”

Thống đốc đích thân dẫn cấp dưới ra bến tàu đón người. Lúc Từ Thiếu Khiêm đi xuống nghênh đón thì Sở Vọng cũng đứng ngồi không yên, sốt ruột chạy ra ban công nhìn xuống.

Có hai chiếc xe chậm rãi chạy vào.

Sở Vọng nhìn chằm chặp chiếc xe đã dừng lại —— thống đốc mỉm cười mở cửa xe, một đôi ủng và quần bò chậm rãi xuất hiện từ ghế sau, một người vóc dáng cao to, đeo kính nhỏ, mặt mày nghiêm nghị nuôi râu dài, ông mặc một chiếc áo dài quá thắt lưng.

Trong khoảnh khắc khi Rutherford râu dài mặc áo khoác dài xuống xe, Sở Vọng như biến thành “fan não tàn”, kích động tới mức chỉ muốn quỳ rạp xuống đất.

Tiếng ồn ào xung quanh cũng dần lặng đi trong khoảnh khắc ông bước xuống xe. Một lúc sau, cô nghe thấy tiếng thán phục và tiếng hét lẫn lộn nhiều ngôn ngữ vang lên ——

“Rutherford? Ernest Rutherford! Ôi trời ơi!”

Còn chưa hồi phục từ kích thích mà Rutherford đem đến, thì ngay tiếp theo, bước xuống xe theo sau Rutherford là một người để ria mép hói đầu cùng một người Do Thái trẻ tuổi.

Lập tức bên tai Sở Vọng lại vang lên tiếng hét ầm ĩ ——

“Có có phải là Wilson trợ lý của Rutherford không?”

Người kia điên cuồng hét lớn: “Đúng! Chính là ông ấy! Thomson Wilson, người phát minh ra buồng sương đã giành giải thưởng Nobel cùng Compton năm ngoái!”



Trong bọn họ, chỉ có Sở Vọng thật sự nhìn kỹ người trẻ tuổi Do Thái đứng đằng sau hai người nọ.

—— Đấy có phải là Oppenheimer không?

Là Oppenheimer 24 tuổi rời khỏi Bonn, vừa bước chân ra đời đó sao?

Từ Thiếu Khiêm và Rutherford tiến tới thân mật chuyện trò, còn chàng thanh niên Do Thái lạnh lùng nhìn hai người chăm chú, trong mắt in hằn ghen tị.

Sở Vọng nghĩ bụng: Ồ, đúng là anh ta rồi —— bốn năm trước bị Rutherford từ chối ngoài cửa, ba năm sau Rutherford đi đến đâu anh ta cũng lẽo đẽo đi theo, ngoài Oppenheimer ra thì không còn ai khác nữa.

Rutherford ôm Từ Thiếu Khiêm, hàn huyên vài câu rồi đi thẳng vào chính đề, sóng vai cùng lên lầu. Đám đông đứng trên lầu nhìn nãy giờ nhanh chóng tản đi, quay về bàn làm việc của mình, ngoan ngoãn ngồi yên. Chỉ có Sở Vọng là đang đắm chìm trong sắc đẹp của Oppenheimer, đến khi sực tỉnh tính chuồn đi thì bị Từ Thiếu Khiêm bắt quả tang.

“Lại đây.” Từ Thiếu Khiêm mỉm cười, vẫy tay với cô.

Sở Vọng chạy đến. Đoàn người đi vào văn phòng kín, đóng cửa lại.

Từ Thiếu Khiêm giới thiệu cô với Rutherford, “Giáo sư Rutherford, thầy của tôi; Lâm Trí, học trò của em.”

Sở Vọng khéo léo nịnh nọt: “Chào giáo sư Rutherford, hội trưởng hội Hoàng gia Luân Đôn, em rất sùng bái thầy.”

Sùng bái quá ấy chứ! Mô hình Rutherford của ngài đã đi suốt quãng đời học sinh của tôi đấy!

Rutherford quan sát cô với ánh mắt tán thưởng hậu bối có triển vọng.

Cái nhìn đó suýt làm Sở Vọng ngất xỉu: Rutherford nhìn mình, đời này sống thế là đủ rồi!

Ngay sau đó, ông nói với Từ Thiếu Khiêm: “Được đấy. Mới đầu thầy không muốn để em rời khỏi Cambridge, bây giờ nhìn lại, có lẽ lựa chọn của em là chính xác. Chỉ mới bốn năm mà dưới tay em đã xuất hiện lớp lớp nhân tài.”

Sở Vọng nghĩ bụng: Nhưng người có học trò khắp thiên hạ chính là ngài! Không chỉ ngài, mà rất nhiều học trò của ngài cũng sắp có học trò khắp thiên hạ! Ví dụ như trợ lý Wilson đang đứng cạnh ngài lúc này đây, còn cả người học trò xấu tính đang đứng sau lưng ngài, người không được ngài tán thưởng nữa —— anh ta chính là nhân vật chủ chốt của dự án Manhattan, là cha đẻ của bom nguyên tử đấy!

Trong lúc cô đang suy nghĩ miên man, thì chàng thanh niên Oppenheimer xấu tính không ai tán thưởng đã khinh thường hừ một tiếng.

Lúc này Rutherford mới giới thiệu Từ Thiếu Khiêm với anh ta: “Robert Oppenheimer, năm cậu rời Cambridge đã gặp cậu ấy.”

Oppenheimer tự động bắt tay với Từ Thiếu Khiêm, lạnh lùng nói: “Từ, tôi đã gặp anh rồi. Năm anh rời trường, tôi muốn làm học trò của thầy nhưng bị thầy từ chối nhiều lần. Mọi người nói vì chuyện này mà tôi ghi hận, nên bất luận thầy ấy đi đâu, hễ tôi nghe được là nhất định sẽ bám theo. Ở phòng thí nghiệm châu Âu có một lời đồn thế này: Đời này Oppenheimer không có duyên làm học trò của Rutherford, cho nên rất ghét tất cả học trò của ông. Từ, anh phải cẩn thận đấy.”

Rutherford bật cười: “Thầy cũng không biết vì sao lại dẫn cậu ta đến nữa. Nhưng trước khi xuất phát, thầy có gửi điện báo cho cậu ta, mời cậu ta đi thuyền đến. Vậy mà ngày thứ ba sau khi gửi điện báo, cậu ta đã xuất hiện rồi. Từ lúc nào mà thuyền đi từ Hà Lan đến Anh lại chạy nhanh như vậy?”

Khi mọi người cười phá lên thì Sở Vọng lại gào thét trong lòng: Đúng là đại lão! Giác quan thứ sáu của ngài đúng là chính xác. Ngài không nhìn nhầm người này đâu —— anh ta quả thực khó lường!

Cười xong, Rutherford mới nghiêm mặt nói, “Chờ thêm mấy tuần nữa để tàu của đại sứ Anh đến Hương Cảng, đến lúc đó sau khi làm rõ thỏa thuận với chính phủ nước em, thầy sẽ gửi thư đến đại học Rome, Phòng thí nghiệm Leiden và Đại học Vật lý và Hóa học Paris để mời một vài người quan trọng, lấy danh nghĩa là vì bài phát biểu về “Ngôi sao đặc” của em.”

“Mời Enrico* và vợ chồng nhà Curie?” Từ Thiếu Khiêm hỏi.

(*Enrico Fermi là nhà vật lý lý thuyết và thực nghiệm người Ý.)

Rutherford gật đầu.

Một lúc sau, ông thở dài nói, “Thầy vẫn luôn tự hỏi, không biết em ở đây thì có tiền đồ thế nào? Sợ sẽ chôn vùi em. Nhưng không ngờ là em đã làm được rồi.”

Từ Thiếu Khiêm cười cười, “Nhưng vẫn cứ gây ra rắc rối thầy ạ. Là một chuyện trọng đại, mang tính toàn nhân loại.”

Rutherford nói, “Thầy chỉ sợ chuyện em xử lý khó mà giải quyết được. Vì thế nên khi vừa nhận được thư của em, thầy đã lập tức xin nữ hoàng một thân phận không chính thức trong chính phủ, liên lạc với các nhà vật lý và chính quyền Anh, cũng giám sát các đại sứ Anh xuất phát từ Anh. Ngoài ra, thầy còn thường xuyên nghe nói, chính quyền và binh lính Anh ở thuộc địa có tính khí rất xấu. Thế nên thầy lo em mà xử lý thì sẽ khó giải quyết —— vì vậy thầy mới đến đây nhanh nhất có thể.”

Từ Thiếu Khiêm gật đầu, “Mọi người đều đang ở phòng thí nghiệm bên cạnh —— bọn họ đã đợi rất nhiều ngày rồi.”

Rutherford gật đầu. Từ Thiếu Khiêm đẩy cửa ra, đoàn người sải bước đi trên hành lang.

Rutherford nhìn thoáng vào phòng thí nghiệm, Từ Thiếu Khiêm làm tư thế “mời”.

Rutherford bước vào phòng thí nghiệm. Tất cả mọi người có mặt ở đấy đều nhìn ông đi vào, im lặng chờ ông lên tiếng.

Sở Vọng cũng chạy nhanh về chỗ của mình, ngoan ngoãn ngồi xuống.

Dừng một lúc, ông đi thẳng vào chủ đề:

“Có lẽ các anh chị rất tò mò không biết vì sao tôi lại đến đây.

Tôi đến đây với một thân phận không chính thức, khẩn cầu các anh chị cùng tôi chung tay bảo vệ một bí mật trọng đại. Nhưng rất tiếc, tôi không có quyền nói cho các anh chị biết rốt cuộc bí mật đó là gì, vì sao chúng ta phải đấu tranh vì nó.

Nhưng tôi tin rằng, một nhóm người trong số chúng ta sẽ nhanh chóng đoán ra bí mật đó là gì. Cũng vì vậy mà chúng ta phải bỏ ra một cái giá tương đương vì nó;

Sau khi trao đổi ổn thỏa với chính quyền, kế hoạch này sẽ chính thức được khởi chạy. Và từ khắc đó trở đi, chúng ta sẽ mất đi một phần tự do cũng như một số quyền lợi về truyền tin và riêng tư: mỗi một phong thư gửi ra ngoài hay một cuộc điện thoại gọi đi đều có thể sẽ bị nghe lén giám sát, kiểm tra nghiêm ngặt thậm chí là thu hồi; hay thậm chí mọi nhất cử nhất động của chúng ta đều bị theo dõi giám sát; mỗi một quyết định sai lầm của chúng ta đều có thể bị đưa ra xét xử tại tòa án quốc tế.

Khoa học không có biên giới. Khoa học là tài sản thuộc về nhân loại. Nhưng tôi cho rằng, khi nó đẩy tính mạng con người đến bờ vực nguy hiểm, thì các nhà khoa học nên là những người đứng đầu sóng gió, dốc hết sức mình vì nó.

Nếu trong số các anh các chị cảm thấy khó chịu vì gò bó hay sợ hãi, vậy thì hãy rời đi ngay lúc này, trở về nơi mình muốn về. Như thế, các anh chị sẽ không còn liên quan đến bí mật này nữa.”

Nói xong một tràng dài, ông đưa mắt nhìn sáu mươi người trong phòng thí nghiệm.

Căn phòng vẫn lặng như tờ. Không ít người đưa mắt nhìn nhau, mà điều khiến tất cả kinh ngạc gấp bội đó là:

Không một ai rời đi.

Ông hỏi lại: “Giờ rời đi vẫn kịp.”

Một giây, hai giây… Thời gian chậm rãi trôi qua.

Tất cả vẫn ngồi yên tại chỗ, không ai nhúc nhích.

Đúng lúc này, Chandra đột nhiên nghiêng đầu hỏi: “Hoffman! Không phải trước đó anh nói muốn từ chức à!”

“Gì! Tôi nói thế bao giờ?”

Rutherford hỏi: “Vậy bây giờ anh có ý gì?”

Hoffman đỏ mặt gãi đầu, đứng dậy, xấu hổ hỏi, “Thưa giáo sư Rutherford, tôi chỉ có một câu hỏi.”

“Mời anh.”

“Thư tôi viết gửi về vợ đang Đức cũng sẽ bị kiểm tra ư?”

“Nếu như là nội dung khiến người ngoài phải đỏ mặt thì tôi thành khẩn đề nghị anh, nội trong tuần này nên viết nhiều nhiều rồi gửi đi một lần… Nếu như để muộn hơn thì có lẽ chúng tôi sẽ đón vợ anh đến Trung Quốc.”

Trong tiếng cười của đám đông, Sở Vọng lại vô hình rung động.

Khi khoa học dần tiến bộ, gây nguy hiểm cho an nguy của nhân loại, thì những nhà khoa học đã xông pha lên đầu, cống hiến hết mình vì nó.

Thế nên mới không một ai rời đi.

Tốt quá rồi.

***

Trước khi tự do bị hạn chế hoàn toàn, thì buổi lễ đính hôn của Di Nhã đã cho cô một cơ hội tốt để ra ngoài hóng gió.

Một tuần sau, ở trấn Nguyên Lãng.

Đó là một ngày đẹp trời, giữa những cơn mưa phùn của mùa đông, thì thật hiếm khi có một ngày trời nắng chan hòa như thế.

Tuy nói biệt thự có vườn hoa nằm ở trấn Nguyên Lãng, nhưng thực chất là nằm trên núi sát biên giới trấn. Rất nhiều nhân vật quan trọng không muốn đi bộ nên lái thẳng xe đi lên từ sau núi. Những người đến đây lần đầu thì muốn ngắm phong cảnh trước khi đến nơi, nhưng xe chỉ có thể đi đến giữa sườn núi.


Trấn Nguyên Lãng khá là lạc hậu, từ chỗ này lên núi thì có thể ngồi kiệu tre hoặc đi bộ. Vốn là vùng núi vắng bóng người, thế mà khi bước xuống xe,, đột nhiên có một đám phu kiệu hét lớn đi đến xúm quanh các bà các cô, dọa mọi người giật mình. Những cô gái da trắng hay từ nước ngoài về đều cảm thấy mới mẻ, thế là chọn ngồi kiệu.

Từ đằng xa, Sở Vọng trông thấy Tiết Chân Chân đi sau bà Kiều, cô ấy mặc một chiếc váy truyền thống màu vàng nhạt, hai mắt sáng rực nhìn chằm chằm cỗ kiệu, nom có vẻ chộn rộn.

Bà Kiều nhận ra tâm tư cô nàng, nhưng có lẽ cảm thấy tại buổi lễ đính hôn của nhà “suýt là thông gia”, nếu trong nhà có con gái muốn ngồi kiệu thì sẽ mất thể diện, thế là bà trợn mắt, để cô nàng bỏ đi suy nghĩ đó.

Bà Cát đi cùng Sở Vọng, thấy cô cứ nhìn về phía bà Kiều thì cũng nhìn sang. Nhìn một lúc lại thấy buồn cười, hai ba bước đi lên khoác vai Chân Chân, cười nói với bà Kiều, “Chị Kiều à, Di Nhã nhớ con bé này lắm rồi, chúng ta là khách cũng đừng để chủ đợi lâu quá; ngồi kiệu sẽ nhanh hơn đi bộ, mà ngài Tạ cũng không phải chờ lâu, thế nào?”

“Cô Cát đây đã đích thân mời thì sao có thể không đi được? Chân Chân, phải học tập thái độ của dì Cát đấy.” Bà Kiều mỉm cười tươi tắn, nhưng có lẽ lúc này đang âm thầm nghiến răng nghiến lợi. Sở Vọng cười nhìn bà Kiều, bà Kiều liếc nhìn cô, lại bổ sung, “Nhìn Sở Vọng đi, phóng khoáng nhanh nhẹn, càng ngày càng xuất sắc.”

Sở Vọng chẳng có lý gì phải nịnh bà cả. Lễ phép chào hỏi xong thì cùng Tuệ Tế và Mật Thu đi cuối hàng. Dân cư thưa thớt, ẩn trong những bụi cây cao thấp mọc san sát nhau là những chùm phượng vĩ, dưới ánh nắng mặt trời, những hạt bụi li ti bay trong không khí trở nên ngào ngạt. Nhìn xuống khe núi, thỉnh thoảng lại có tiếng sột soạt truyền tới, không biết là con thú hay con chim nào, hay là tiều phu trong núi đi ngang qua.

Đi thêm một đoạn nữa thì có một căn nhà gỗ màu đen đập vào mắt, biển số nhà rơi xuống, bên ngoài lưới sắt là là mấy người Ấn đội khăn che đầu. Sở Vọng tò mò nhìn sang, đột nhiên bên cạnh xuất hiện một người, người đó lên tiếng giải thích, “Đó là đồn cảnh sát.”

Sở Vọng nghiêng người ngẩng đầu nhìn, bất chợt cười, “Ồ, là người cùng nghề với anh Tạ sao?”

“Ừ, cùng ngành. Có điều lính tuần bên này là người Ấn.”

Sở Vọng gật đầu, nghĩ bụng; dù gì cũng là các chú cảnh sát đầy kính trọng. Chậm rãi đi về phía trước, Sở Vọng lại hỏi, “Sao anh không cùng người nhà đi từ sau núi lên?”

Tạ Trạch Ích không đổi sắc đáp, “Vì tôi biết cô ba muốn đi lên từ phía trước núi.”

Sở Vọng cố không trợn trừng mắt, lại cười đùa, “Chẳng nhẽ ngài Tạ vẫn đang dỗi anh à?”

Tạ Trạch Ích lại cười, “Ừ. Trong nhà mời khách mà không hề có lấy một người thông báo với tôi, muốn tôi không mời mà tới đây mà.” Chợt anh dừng bước, cho cô nhìn cổ áo âu phục màu xám, “Đến bộ đồ này cũng muốn tự tôi phải đi nhờ người ta may, em xem có thảm không?”

Sở Vọng vui vẻ ghé đầu tới nhìn bộ âu phục kia, thấy phía dưới cổ áo có đường thêu quen thuộc, đột nhiên ơ lên, “Anh biết ngài Saumur hả?”

“Saumur?” Tạ Trạch Ích nhìn thẳng vào cô, suy nghĩ rồi đáp, “Không, nhưng tôi nghe nói là Frank Luca.”

Nghe thấy cái tên này, Sở Vọng chợt mở to mắt. Dừng một lúc, cô hỏi, “Ngài Luca này…”

“Là một thiếu tá lục quân người Anh đầy tôn kính, mười năm trước bất hạnh qua đời.”

“Tử trận?”

“Không hề. Thậm chí vẫn còn sống sau trận Verdun*.”

(*Trận Verdun là một trận lớn chính của mặt trận phía Tây trong Chiến tranh thế giới thứ nhất. Đây là trận chiến kéo dài nhất trong Chiến tranh thế giới thứ nhất, và là trận đẫm máu thứ hai sau Trận Somme (1916). Chiến dịch kinh hoàng này cũng được xem là trận đánh lâu dài nhất trong lịch sử, với thời gian kéo dài đến 10 tháng.)

Vẫn còn sống sau cỗ máy xay thịt Verdun á?!

“Vậy sau đó thì sao?”

“Không kịp hưởng thụ vui sướng thắng lợi, càng không được phong thưởng vì chiến công hiển hách. Lúc đang điều trị ở bệnh viện lục quân, vì ông bị tố cáo một tội danh mà mang theo cơ thể đầy mảnh vỡ lựu đạn rời đi, cuối cùng chết trên đường bị trục xuất.”

Nghe Tạ Trạch Ích bình tĩnh kể xong, Sở Vọng lâm vào im lặng.

Tạ Trạch Ích cũng im lặng đi cạnh cô, không nói nhiều lời.

Qua một lúc sau, cô hỏi, “Là tội danh gì mà lại đối xử tàn nhẫn với một công thần như vậy?”

Tạ Trạch Ích hồi tưởng, sau đó nói, “Tuy hai mươi năm trước người Anh đều biết chuyện này. Nhưng, nếu như em thật sự muốn biết thì có lẽ nên đi hỏi… Ừm, người thợ may nước Pháp kia. Xem ông ta có chịu nói cho em biết không.”

Từ năm 186x trở đi, ở Anh đã bãi bỏ luật treo cổ người đồng tính, đổi thành thiến và trục xuất.

Thật ra dù Tạ Trạch Ích không nói, Sở Vọng cũng đoán được đại khái. Nhưng bởi vì đoán được, rồi lại liên hệ với bức ảnh của ngài Saumur, trong lòng cô càng cảm thấy thê lương, bao phen cảm xúc hòa lẫn vào nhau.

Lại đi lên một đoạn, những nhành cây ngoằn ngoèo ở trên cao vươn ra ngoài đường, suýt thì đâm trúng trán Tạ Trạch Ích —— có lẽ công nhân sửa đường cũng không biết sẽ có người cao như Tạ Trạch Ích leo núi. Càng đi lên thì càng xuất hiện nhiều biệt thự. Người ngồi kiệu đã đi lên trước, còn Tuệ Tế và Mật Thu đi bộ đằng sau cố ý đi chậm vì không muốn làm phiền hai người nói chuyện. Sở Vọng nghĩ bụng, đúng là làm khó người tay chân dài như anh ta phải đi chậm theo cô.

Đang tính khen đôi câu trước hành động lịch thiệp của anh, thì bất chợt trong một biệt thự gần đó có một con chó đen nhỏ mập mạp lao ra, nhe răng sủa gâu gâu với Sở Vọng. Cô cười vẫy tay với con chó kia nhưng lại khiến nó sủa dữ hơn, có vẻ muốn xông lên. Từ trước đến nay, nếu bạn không sợ chó thì chó sẽ sợ bạn, tuyệt đối đừng dữ với nó.

Cô đang ngạc nhiên thì con chó kia lại nghiêng đầu —— Tạ Trạch Ích vừa nãy còn đứng cạnh cô, không biết từ lúc nào đã đi nhanh lên trước ba bốn mét. Ngoài mặt vẫn bình tĩnh, nhưng đã có khuynh hướng nhấc chân bỏ chạy.

Lúc này, một bà tu nữ tóc bạc, tròng mắt màu xanh bật cười chạy ra, nói: “Cậu Tạ đấy à, tôi còn đang hỏi ngài Tạ về cậu đấy, sao nghe nói cậu nhận hàm ở Anh về rồi mà không thấy cậu đâu… Louis XVIII, đi ra! Đi ra! Đừng dọa ngài trung úy của chúng ta.” Rồi bà cười nói với Tạ Trạch Ích, “Cậu Tạ đừng sợ, nó không cắn đâu.”

Tạ Trạch Ích: “…”

Tạ Trạch Ích: “Tôi không sợ chó.”

Bà ta vừa đuổi chó vừa cười nói, “Trước kia khi lính tuần Ấn chưa đến, chúng tôi sợ trên núi bất ổn nên nhà nào cũng nuôi chó. Hồi trước khi ngài huân tước dẫn cậu lên núi, cậu chẳng khóc từ dưới chân núi lên đến đỉnh núi còn gì. Cậu bé xinh xắn như thế lại khóc thảm đến vậy, nữ tu chúng tôi cũng đau lòng lắm. Chậc chậc, đúng là đứa trẻ đáng thương.”

Tạ Trạch Ích: “… Nhờ phúc của sơ nên giờ không sợ nữa.”

Sở Vọng đi đằng sau bật cười, tu nữ kia nói tiếp, “Đi lên trên nữa, nhà Leeds và Cát Mỹ đều nuôi mấy con chó, người nhà đều đến tiệc đính hôn cả rồi, không ai trông nhà đâu. Nếu cậu mời tôi đi cùng thi tôi sẽ dẫn cậu đi đường vòng.”

Sở Vọng cười hỏi, “Thế nào đây anh Tạ? Còn muốn lên núi với tôi nữa không?”

Tạ Trạch Ích nở nụ cười lúng túng, ho khẽ hai tiếng, “Vậy tôi đành bồi tội với em sau vậy.”

Nay hương Cảng cũng là một vùng lớn, từ thống đốc đếm xuống thì đếm đầu tiên là ngài huân tước Tạ, sau đó mới là các tu nữ có danh tiếng. Trên núi toàn là người quen, vì vậy chỉ cần yêu đương một hai hôm là toàn Hương Cảng sẽ biết tin liền. Nếu cô là Tạ Trạch Ích thì có lẽ sẽ không dễ dàng dẫn bạn gái về, nếu không, chỉ một chút sơ sẩy là sẽ thành tin tức lớn.

Đưa mắt nhìn Tạ Trạch Ích và tu nữ đi xa, Sở Vọng chậm rãi đi dạo lên núi. Leo lên đỉnh núi rồi nhìn về phía sau, trong những lùm cây rậm rạp xum xuê, mơ hồ trông thấy bóng dáng của trấn Nguyên Lãng; lại tiến tới trước rồi nhìn xuống, đường chân trời xanh thẳm nối liền với biển xanh, ôm trọn cả tòa thành Hương Cảng màu xám.

Tuệ Tế và bà Cát đã đến nơi trước, Mật Thu đứng lại chờ cô, ngạc nhiên hỏi, “Cô ba, sao không thấy cậu Tạ đâu?”

Sở Vọng còn chưa kịp cười giễu Tạ Trạch Ích thì Chân Chân từ đằng sau bụi đu đủ đã nhảy ra, ôm eo cô ép hỏi, “Nói! Em qua lại với cậu Tạ từ bao giờ thế hả?”

“Qua lại cái gì chứ? Cũng không phải là người ở Trường Ba Đường Tử*.”

(*Trường Ba Đường Tử là một dãy các thanh lâu cao cấp ở Thượng Hải trong thời kỳ vãn thanh, các cô gái ở trong này có trình độ văn hóa cao và biết cầm kỳ thi họa.)

Chân Chân cười, “Ấy, Sở Vọng của chúng ta giờ lợi hại rồi, còn biết cả Trường Ba Đường Tử nữa kìa.”

Mật Thu thấy hai người cười đùa thì thức thời tránh đi.

Đợi Mật Thu đi rồi, Sở Vọng mới ôm mặt cô nàng, nghiêm nghị hỏi, “Em phải hỏi chị đấy, rốt cuộc chị với Diệp Văn Dữ là sao thế hả?”

“Dì Cát mới mắng chị xong, giờ đến lượt em hả!” Chân Chân gào khóc, “Em buông tay ra đi đã!”

Sở Vọng lại véo hai cái rồi mới miễn cưỡng buông tay, “Thẳng thắn sẽ được khoan hồng, nếu kháng cự sẽ bị trị nghiêm khắc.”

“Cũng chẳng có gì cả.” Chân Chân xoa mặt, kéo cô ra sau bụi cây đu đủ, nói, “Hồi xưa ấy, cục phó Thẩm của cục vận chuyển hàng hải Thượng Hải cũng chỉ là một vị quan ở Phụng Thiên huyện Khang Bình. Năm ngoái Đông Bắc đầu hàng Nam Kinh, cục phó Thẩm nịnh nọt khắp mới lên được cái chức kia, tự dưng cả họ được nhờ. Cô con gái rượu Thẩm Nguyệt Anh đến Thượng Hải, vào trường nữ sinh tư thục Trung Tây, cũng coi như có tiếng trong đám thiên kim tiểu thư. Chẳng qua ngươi ta nể mặt cha nó nên mới gọi nó là danh môn khuê tú. Thế mà nó tưởng thật, đắc chí lắm, còn tự cho là mình hơn người. Chẳng qua là một con nhỏ nhà quê, ai thèm để mắt đến nó?”

Sở Vọng im lặng một lúc rồi mới nói, “Người nhà Diệp Văn Dữ để mắt rồi đấy, muốn để anh ta cưới cô ấy, không biết anh ta có tính toán gì không nữa.”

“Anh ấy không chịu kết hôn, người nhà anh ấy dám làm gì được chứ! Chẳng lẽ còn chạy tới Hương Cảng trói anh ấy về bắt ký tên?”

“Nếu tới thật thì sao?”

“Nếu tới thật…” Chân Chân tức giận, “Ghê gớm lắm là nói ra thôi!”

“Nếu nhà anh ta không chịu?”

“Vì sao lại không chịu? Nhà anh ấy nghĩ mình là ai hả! Cũng chẳng phải hoàng thân quốc thích.”

Sở Vọng thở dài. Tuy không phải hoàng thân quốc thích nhưng dù gì cũng có khu vực của mình, cũng cần khai cương thác thổ.

Thế là lại hỏi: “Cô út nói sao rồi?”

“Hôm nay ngài Tưởng mời Diệp Văn Dữ đến, dì ấy nói, lát nữa dì ấy sẽ gọi Diệp Văn Dữ tới hỏi. Nếu cảm thấy anh ấy đáng tin thì bảo chị không cần làm gì cả, dì ấy sẽ nghĩ cách.”

Dĩ nhiên lời bà Cát nói còn nửa vế sau: nếu không đáng tin, thì cháu nên buông tay sớm đi.

Nhưng cô nhìn vào mắt Chân Chân, có lẽ Chân Chân đã lược bỏ luôn vế sau rồi.

Chân Chân hừ hai tiếng, “Dù gì tốt nghiệp xong cũng về Thượng Hải, nếu không được nữa thì đi du học với anh ấy thôi. Anh, Mỹ, Bỉ, chân trời góc biển xa như thế, không lẽ người nhà anh ấy sẽ bắt được à?”

Sở Vọng nhìn cô nàng chăm chú. Lời đến khóe môi chỉ biết hóa thành tiếng cười.

Sau đó quay sang nói, “Đã đến buổi lễ bên kia chưa?”

Chân Chân cũng là người không tim không phổi, vừa rồi còn tức giận là thế, vậy mà chớp mắt sau bao phẫn nộ đã bị ném ra sau đầu. Cô nàng cười nói, “Vừa rồi Di Nhã mới nói với chị, đến tiệc đính hôn lần này đều là mấy người có vai vế bậc cha chú, phải cúi đầu chào hỏi liên tục, chán muốn chết rồi. Nó bảo chúng ta đừng tới, kêu chị dẫn em đến vườn trái cây chờ nó —— em đừng nhìn mấy thứ cây quả xấu xí này nữa.”

Sở Vọng còn đang nhìn cây đu đủ chưa chín trước mặt thì Chân Chân đã kéo cô chạy đi. Lướt qua những bức tường xanh cùng những căn nhà Tây màu trắng, đi đến một chiếc cầu thang đá cao cao nhiều bậc. Bước lên cầu thang, hóa ra là một vườn trái cây tươi tốt, cây mọc xanh um từng hàng chỉnh tề, ở giữa có một lối đi nhỏ, dẫn thẳng đến một căn nhà màu đen trông khá đồ sộ. Căn nhà đó làm bằng gỗ, phủ đầy dây leo xanh.

Bên ngoài căn nhà trồng những khóm hoa xanh đỏ, một người làm vườn vóc dáng khá lùn, da ngăm đen mặc quần lụa, đang cầm bình đồng tưới nước cho hoa. Ba người giáp mặt, Chân Chân hỏi: “Là bác A Kim đấy à? Di Nhã bảo bọn tôi đợi cô ấy ở đây.”

A Kim cười một tiếng với hai người, để lộ hàm răng sứt mẻ, vàng khè vì khói thuốc, cầm bình tưới mở cửa cho hai người.

Trong nhà tối đen như mực, A Kim vặn sáng một ngọn đèn, cả hai ngạc nhiên hô lên —— Bốn bức tường trong phòng, từ mặt đất cho đến đỉnh đều chất đầy sách, và ngay dưới ngọn đèn là một sân khấu đơn giản.

Chân Chân *ấy* một tiếng, đi hai bước trong phòng, nói, “Ban nãy còn nói Đường Ba Trường Tử, sao chưa gì Di Nhã đã dẫn chúng ta đến một nơi như dành cho Thư Ngụ* thế này?”

(*Trước giải phóng, kỹ nữ cao cấp ở Bến Thượng Hải được gọi là Thư Ngụ, cũng là cách gọi chỉ kỹ nữ bậc nhất Trung Quốc xưa.)

A Kim lắc đầu nhìn cô ấy, để hai người lại trong phòng, còn mình xoay người đi ra ngoài.

Trong phòng chỉ có duy nhất một chiếc bàn đặt bên cạnh kệ sách, bên trên là mấy quân bài nằm lộn xộn. Hai người lại gần, đưa mắt nhìn nhau.

“Em biết không?”

“Sao em biết được?”

Chân Chân bĩu môi, đang định sờ vào mấy quân bài kia thì bác A Kim cầm bình đựng trái cây đi vào, đặt lên bàn cho hai người ăn, bên trong chứa đầy trái cây nhiệt đới mùa đông: đu đủ, ổi xá lị, chuối tiêu…

Nhưng Chân Chân không chú ý đến trái cây mà chỉ hỏi: “Bác A Kim, trò này chơi thế nào?”

Bác A Kim lột một trái chuối đưa cho Sở Vọng, sau đó cúi đầu xào bài, xếp bài thành một dãy dài rồi đẩy ngã, làm động tác tay ra hiệu cho Chân Chân cũng làm thế. Chân Chân thấy vui, thế là cũng xếp thành một hàng dài như bác ấy làm. Sau đó, bác A Kim nhắm mắt, chắp hai tay lại, Chân Chân cũng làm theo.

Ông gộp hai chồng bài lại thành một, châm một nén hương, rút một quân bài ra, trên đó viết: Trung hạ.

Hai người lặp lại ba lần. Kết quả của ba lần là: Trung hạ, thượng thượng, hạ hạ.

Chân Chân lập tức giở sách giải quẻ ra dò, bên trên viết: Thu hoạch được không gì không lợi, nhưng chớ mừng, chỉ là lâu đài cát.

Sở Vọng nghiêng đầu nhìn, hỏi, “Nghĩa là ý gì?”

Chân Chân không đáp. Chỉ nghiêng đầu quẳng cuốn sách đi.

Bác A Kim vỗ vào Sở Vọng, ra hiệu cô thử xem. Cô cười khoát tay, “Tôi không tin trò này.”

Bác A Kim cứ nài nỉ mãi, cô suy nghĩ, muốn cầu tiền đồ quốc gia thì dĩ nhiên phải tin vào khoa học, không thể mê tín; vậy không bằng cầu duyên chơi vậy.

Nghĩ đến đây, cô dựa theo những gì bác A Kim đã làm, lại rút ba quân bài.

Hạ hạ, trung hạ, hạ hạ.

Trừ lần thứ hai được trung hạ ra, cả hai lần kia đều là hạ hạ.

Bác A Kim lắc đầu, xáo bộ bài lại. Sở Vọng cười giở sách ra, bên trên viết: Quẻ thủy. Phụ thả thừa, trí khấu chí*.

(*Quẻ 40 trong Kinh Dịch. Giảng: Hào này âm nhu, bất chính, bất trung mà ở trên cùng nội quái, tức như kẻ tiểu nhân ở ngôi cao, không khác kẻ vừa mang đội (người nghèo) mà lại ngất ngưởng ngồi xe (như một người sang trọng), chỉ tổ xui cướp tới cướp đồ của mình thôi.)


Cô hỏi Chân Chân: “Có nghĩa là gì?”

Chân Chân liếc nhìn, “Những hai hạ hạ mà em còn tra làm gì. Nói chung cũng chẳng phải ý tốt.”

Chân Chân bị quẻ bói làm cho nản chí, dịch sang bên cạnh lật sách chơi. Sở Vọng nghĩ ngợi: cái quẻ này, kể ra thì cũng không biết nên coi là của ai.

Vậy là cô chỉ cười cười, cầm đu đủ ăn. Đu đủ ruột đỏ ngọt bất ngờ.

Vừa ăn xong một quả đu đủ thì từ đằng xa, cô nghe thấy tiếng cười của Di Nhã —— “Bác A Kim, các cậu ấy đã đến chưa?”

Ngay sau đó, Di Nhã bước vào nhà: cô nàng trang điểm đậm đeo trang sức tinh xảo, khoác áo lông chồn bên ngoài váy lụa màu hồng nhạt, bên dưới là đôi tất trắng và giày cao gót trắng.

Sở Vọng cười nói, “Sao cô dâu sắp cưới không ở buổi lễ tiếp đãi khách khứa thế?”

Di Nhã trợn mắt, “Nói là tiệc đính hôn của mình, thế mà tới đây toàn người xã giao, tóm lại cũng chẳng phải là chuyện của mình. Mình ở đó cũng chẳng khác gì bình hoa, trái lại còn làm người ta ghét. Cứ để ngài Tưởng xã giao với mấy bà tám miệng rộng đó là được rồi, mình không có tâm trạng. Đói bụng lắm rồi, vì mặc chiếc váy này mà cả sáng nay mình không được ăn tí gì, gặp ai cũng phải cười, Sở Vọng, lột giùm mình quả chuối với.”

Ăn chuối xong, cuối cùng cô nàng cũng thở ra một hơi, nghiêng đầu nhìn đống bài lộn xộn trên bàn, nói, “Bác A Kim bói bài cho hai người à? Hồi nhỏ mình cũng bói một lần, nói mình nhất định phải tìm một người lớn hơn mình 20 tuổi —— ngài Tưởng đúng 37, không ngờ bác ấy bói đúng rồi.”

Nghe xong câu đó, sắc mặt Chân Chân càng đen thêm, ngồi yên một chỗ cầm sách đọc, không nói năng gì.

Sở Vọng cười cười nhìn cô ấy, Di Nhã lập tức hiểu ý, cười nói, “Ngày trước người ở đây là di lão tiền triều, bác A Kim là quản gia của ông ấy —— là một người câm điếc. Sau này di lão qua đời, Bác ấy vẫn giữ khu vườn, trồng đủ loại hoa quả. Ở Hương Cảng nhiều năm như thế rồi, nhưng mình chưa bao giờ thấy hoa quả nơi nào ngon bằng ở đây cả.”

Thấy Chân Chân vẫn đen mặt, cô nàng nói tiếp, “Trong nhà có mấy bà mẹ rất mê tín. Thứ này à, không Trung không Tây, chẳng qua là để thỏa mãn tinh thần thôi chứ không tin mấy. Hai người biết không, lúc trước bác A Kim có bói cho anh mình, quẻ kia còn nói: anh ấy có mệnh cô độc suốt đời —— giờ ảnh lớn thế rồi, không biết đã thay bao nhiêu cô bạn gái, thế mà nói cô độc suốt đời, ai mà tin nổi?”

Chân Chân ngồi trong góc cười phì thành tiếng, cuối cùng cũng vui trở lại. Bác A Kim cầm đến một bình thủy tinh đựng rượu vang trắng, Chân Chân nhấp thử một hớp, khen, “Ngọt quá.”

Di Nhã lại nói, “Nếu mùa hè đến đây, nho ở trong vườn cũng ngon lắm; nhưng bây giờ tới thì chỉ có thể uống nước nho thôi… Loại rượu này được ủ theo kiểu của Đức, gọi là rượu Federweisser. Hồi hè mới ủ nên vị khá ngọt, không quá say. Ủ thêm mấy tháng, đến giờ mới có thể gọi là rượu.”

Hôm nay là ngày vui của Di Nhã, nên Sở Vọng cũng uống với cô ấy mấy ly. Tuy hiện tại độ cồn không quá cao, nhưng do tâm trạng Di Nhã đang rất vui nên chưa gì “rượu không say người mà người tự say”, chỉ chốc lát sau hai má đã hây hây. Cô thở dài, “Nhanh thật đấy, cũng sắp tốt nghiệp rồi.” Rồi cô ấy đi tới vỗ vai Chân Chân, “Nào, hát một bài với mình nào.”

Không đợi Chân Chân kịp phản ứng, cô nàng đã leo lên bậc thang sân khấu, dưới ánh đèn tù mù, chiếc váy lụa màu hồng làm nổi bật lên gò má hồng hào của cô, đôi mắt lấp lánh sáng bừng.

Không biết từ lúc nào, bác A Kim đã ôm một chiếc đàn xếp đi ra, ngồi trên bậc thang, chỉ chờ Di Nhã cất giọng.

“Hát gì bây giờ?” Cô nàng đứng tại chỗ, cười cười nghĩ ngợi, “ —— Chỉ có tên chàng là kẻ thù của em; chàng vẫn là chàng, đâu phải người trong họ Montague.”*

(*Trích Thiên tình sử Romeo và Juliet, Phạm Trọng Lệ sưu khảo và dịch.)

Tiếng đàn xếp từ từ vang lên, Sở Vọng vỗ tay theo nhịp.

Chân Chân cười nói, “Vị Romeo Tưởng đang ở ngoài kia tiếp khách thay cậu đấy, có cần tôi mời người ta đến hát kịch với cậu không?”

“Không cần. Chân Chân, tôi biết cậu biết hát, cậu hát cùng tôi đi.”

“Tôi chỉ biết hát kinh kịch Quảng Đông, không biết hát kịch của Shakespeare.”

“Nếu đổi tên khác cho Romeo, liệu có phải là Lương Sơn Bá không?” Di Nhã chớp mắt.

Chân Chân lập tức hiểu ý, cô nàng bật cười, chậm rãi đi lên sân khấu, “Tiểu huynh họ Chúc tên Anh Đài, người thôn Chúc gia ở Thượng Ngu, xin hỏi tiểu thư là…”

Di Nhã hát bằng tiếng Anh: “Em là Juliet nhà Capulet ở Verona. Hãy nói cho em biết, làm sao chàng vào đây được, và sao lại làm vậy? Tường quanh vườn cây vừa cao vừa khó trèo. Chàng là người họ Montague như vậy, ngộ họ hàng em mà biết chàng ở đây thì chàng chỉ có chết.”*

(*Phạm Trọng Lệ sưu khảo và dịch.)



Hai người hát kịch bằng tiếng Anh xen lẫn tiếng Quảng, đổi hết lời kịch gốc hát chèn lung tung, ấy thế mà vẫn rất hợp, làm người nghe duy nhất là Sở Vọng vừa ôm bụng cười lăn lộn vừa tấm tắc khen, không để ý có người đi vào nhà, cũng không biết đã đứng sau lưng cô bao lâu, thấp giọng cười nói, “Ồ? Là “Juliet và…”?”

“… Và Chúc Anh Đài”.” Sở Vọng ngẩng đầu nhìn anh, cười nói, “Chào anh Tạ.”

“Chào cô ba.” Tạ Trạch Ích cúi đầu nhìn cuốn sách đặt trên bàn, bất chợt bật cười, “Hạ hạ, trung hạ, hạ hạ. Của ai mà thảm thế?”

“Chính là của kẻ kém cỏi này.” Sở Vọng cười đáp.

“Xin lỗi em vì lời vừa rồi, có điều quẻ đó vẫn tốt hơn so với quẻ của tôi ngày trước.” Tạ Trạch Ích cảm thán, “Không biết nói như vậy có an ủi được em không?”

“Tôi không để bụng đâu. Cơ mà… nghe nói quẻ của anh Tạ cũng khiến người ta cảm thán thở dài.”

“Tôi không tin vào trò này. Dù có cô độc suốt đời thì cũng không phải là chuyện xấu.” Tạ Trạch Ích cầm ổi lên cắn một miếng, nói với vẻ chẳng mấy bận tâm.

Tiếng đàn xếp dừng lại, Di Nhã nhấc váy, mỉm cười chạy xuống, ôm tay Tạ Trạch Ích, “Anh, sao anh lại đến đây!”

“Hát hay lắm.” Anh nói, “Cố ý đến tìm cô ba.”

“Ha?” Di Nhã tò mò.

Tạ Trạch Ích nheo mắt, tay sờ túi áo, lấy ra một chiếc bật lửa kiểu cũ. Quẹt mấy lần nhưng không có lửa.

Anh quay sang nói với Sở Vọng, “Chiếc này đã bị hỏng rồi… Tôi muốn tìm người làm một chiếc mới, đột nhiên nhớ ngày trước ở trên thuyền tới đảo xa, tôi có thấy chiếc bật lửa máy của bạn trai em một lần, thực tình rất muốn có nó. Quý ngài người Pháp kia nói với tôi là em có cách. Vì vậy tôi nghĩ, có thể tôi nên đến hỏi em xem đặt làm nó ở đâu thì được.”

“À, cái đó… Không có nữa đâu.” Sở Vọng nở nụ cười ái ngại, “Nhưng nếu anh muốn, tôi có thể cho anh địa chỉ liên lạc với ngài Dupont, có thể sẽ có những chiếc khác mà anh thích.”

“Vậy làm phiền cô ba rồi.” Tạ Trạch Ích cúi người với Sở Vọng, lại ăn một lát đu đủ, bình phẩm, “Ổi xí muội năm nay hơi đắng, nhưng đu đủ thì không tệ.”

“Rượu Federweisser năm nay ngọt lắm!” Di Nhã cười bảo, “Lát nữa anh ăn cơm ở chỗ bác A Kim hay vẫn là về chỗ tu nữ?”

“Tám giờ rưỡi tối nay anh phải lên thuyền về Thượng Hải. Đến đây thăm mấy đứa rồi phải xuống núi ngay, có lẽ sẽ không ở lại ăn cơm. Chơi vui vẻ nhé.”

Vừa dứt lời, Tạ Trạch Ích xoay người rời đi như một cơn gió. Chỉ trong chớp mắt, trong vườn đã không còn bóng dáng ai.

Sở Vọng âm thầm ghi nhớ: ra về cũng phóng khoáng thật. Tự mình xuống núi, không sợ bị chó rượt khắp núi à?
 

MUALARUNG91

Tác giả
Sưu tầm
Tham gia
25/8/19
Bài viết
4,780
Điểm cảm xúc
577
Điểm
113
Chương 71: Người bệnh (15)
Tạ Trạch Ích vừa rời đi không lâu thì Tuệ Tế và bà Cát đã đến. Tuệ Tế đi vào nhà, đầu tiên là chào Di Nhã và Sở Vọng, sau đó nói với Chân Chân, “Dưới hầm rượu có chuyện thú vị, bà Cát bảo tôi dẫn cô xuống đấy chơi với bà.”

Chân Chân đi theo Tuệ Tế xuống dưới, sau đó bà Cát mới chậm rãi từ trong vườn cây đi vào nhà cũ.

Vừa thấy bà, Sở Vọng cười nói, “Không ngờ chuyện thú vị bên dưới hầm rượu là cậu Diệp.”

Bà Cát nghe vậy thì cười khẽ, “Đôi chim cu kia muốn tình thời gian địa điểm để gặp riêng nhau cũng không dễ gì.”

Di Nhã lấy làm lạ, “Dì Cát, Diệp Văn Dữ có đáng tin thật không ạ?”

“Lúc nhìn Chân Chân, thằng bé không hề che giấu tình cảm trong mắt. Đứng trước mặt ta thề thốt nếu mình còn ngày nào thì quyết sẽ không để con bé chịu tổn thương. Thái độ cũng khẩn khoản lắm. Hai đứa nói xem thế nào?”

Di Nhã cười lắc đầu, “Cháu không nói được.”

“Chuyện đó không liên quan đến việc có thật lòng hay không,” Sở Vọng nghĩ ngợi, “Còn người nhà thì giải quyết thế nào đây?”

“Nên ta mới hỏi cậu ta, ‘cậu định ăn nói với người nhà thế nào?’ thì cậu ta sầm mặt, trả lời là đi bước nào hay bước ấy, bảo nếu cậu ta không chịu, có lẽ người nhà cũng không đến nỗi ép cậu ta quá đáng.” Bà Cát cười nói, “Ai ngờ gia đình người Hoa ở Singapore còn bảo thủ cố chấp hơn cả gia tộc cũ trong nước. Còn trẻ nên nặng tình, có đầy nhiệt huyết muốn bảo vệ người yêu —— rất đáng yêu nhưng không đáng tin, vẫn chỉ là một cậu ấm ngây thơ, chưa thể làm chủ.”

Di Nhã cười nói, “Đáng để yêu, nhưng không đáng để gửi gắm.”

Bà Cát nói, “Hai đứa nó nhiệt tình như lửa, khó bỏ khó phân, chẳng lẽ ta lại đi chia rẽ uyên ương? Nên ta mới bảo: Nếu hai đứa muốn vui vẻ thì làm ngay đi. Sống cả đời, ồn ào náo nhiệt một chút cũng không có gì xấu.”

Sở Vọng chau mày, “Thế sau này thì tính sao?”

“Phải xem lúc bao thì cậu Diệp kia có thể đội trời đạp đất. Đến lúc ấy, có lẽ chuyện giữa hai đứa nó vừa mới bắt đầu, mà cũng có khi sẽ kết thúc.”

Đang nói đến chuyện của Chân Chân và Diệp Văn Dữ, nhưng tâm trí của bà Cát đã bay xa. Nói thật, nếu hai đứa nhỏ mà thành thì chưa chắc hai nhà Diệp – Tiết đã nhớ đến ơn làm mai của bà; nhưng nếu không thành, thể nào cũng trách cái biệt thự nhà bà làm lỡ chuyện đời con cháu.

Thế thì việc gì bà phải giúp đây?

Chỉ là dạo này bà hay nghĩ đến ba cô bé này: nếu có một ngày gọi tất cả tiểu thư nhà giàu toàn Hương Cảng lại đây: bất luận là học ở trường Tây hay đi du học về. Luận phong thái giáo dưỡng, luận đối đãi khách khứa, luận sắc đẹp khí chất, thì không mấy ai có thể hơn được ba đứa nó —— đến lúc ấy cả ba đứa cùng xuất hiện, nhất định sẽ là hạc trong bầy gà.

Di Nhã chỉ bị ảnh hưởng bởi xuất thân của mẹ mình, còn những mặt khách thì vẫn rất xuất chúng, không cần bàn nhiều; trong ba đứa nó, xuất thân của Chân Chân là cao nhất, nhưng tính cách còn hơi trẻ con, là đại tiểu thư ngây thơ được nuông chiều —— về mặt nào đó mà nói thì giống bà đến bảy tám phần khi được người kia nuôi, trước khi lấy chồng.

Mà đứa còn lại… Vừa rồi còn nghe thống đốc Cảng nói: vì một bài luận văn mà làm kinh động đến cả hội trưởng hội Hoàng gia Luân Đôn, khiến người ta dẫn theo trợ lý và học trò từ Anh đến để giúp viện nghiên cứu phát triển —— một ngôi trường ở vùng thực dân lại khiến cả trong và ngoài nước chấn động.

Trước đó thì giáo sư Từ kia đã viết tên con bé vào phần tên tác giả; lúc hội trưởng hội Hoàng gia đến, anh ta cũng cố ý gọi cháu bà tới để giới thiệu. Nên coi như nó cũng có tiếng tăm trong lĩnh vực của mình.

Bà Cát không khỏi buồn cười —— bà vốn định dốc toàn bộ tâm huyết để bồi dưỡng Sở Vọng thành cô gái số một danh chấn Hương Cảng. Không ngờ đến khi lớn lên lại lệch đường. Một cô gái từ biệt thự họ Cát của bà đi ra lại thành một nhà khoa học có tiền đồ triển vọng.

Nay Hương Cảng nhân tài đông đúc, nhiều người hay qua lại nhà bà, cũng không biết có bao nhiêu người muốn làm thông gia với bà. Nếu có cơ hội, nhất định bà cũng sẽ chọn ra một mối tốt nhất trong tay mình cho cháu gái, chưa chắc đã thua nhà họ Tư.

Nhà họ Tư có tốt không?

Ai ai cũng nói cuộc hôn nhân này quá tốt, nói con bé ba được hời nhờ loạn thế thay đổi tiền triều. Nhưng nhìn thời thế bây giờ, bà cảm thấy chưa chắc đã vậy. Hai năm qua cậu Tư ngày một nổi tiếng ở châu Âu, tên tuổi in khắp trên mọi tờ báo lớn nhỏ, khiến cha cậu ta thêm nở mày nở mặt. Còn Tư Ưng, tuy đã thành lập một ngôi trường, gia đình giờ cũng đầy đủ sung túc, nhưng từ lâu đã có lời đồn nói ông ta là Du Nhật phái, hình như mấy năm trước đã bày mưu tính kế cho vị kia ở Đông Bắc thì phải?

Mới qua đời năm ngoái, khoan nói đến việc Đông Bắc đã sa cơ lỡ vận, sau khi lên nắm chức, cậu con trai có thể khiến người của cha mình tin tưởng được bao nhiêu đây?*

(*Vị kia ở Đông Bắc mà tác giả nhắc đến là Trương Tắc Lâm, con trai là Trương Học Lương.)

Nghĩ đến chuyện này, bà Cát lại đau đầu.

Day huyệt thái dương, bà đưa mắt nhìn cô cháu gái nhà mình —— Sở Vọng vẫn không biết chuyện gì, hồn nhiên chọn đu đủ, bóc chuối tiêu, miệng lẩm bẩm: “Quả thật trong số này chỉ có đu đủ ngọt nhất. Lát nữa chọn ít đu đủ, lại lấy thêm hai chai rượu Federweisser rồi để Diệp Văn Dữ đem đến cho cô Từ. Không biết cô đã khỏe hơn chưa nhỉ?”

***

Từ sau khi Rutherford đến, tuy phòng nghiên cứu vẫn là phòng nghiên cứu, song mọi người đã âm thầm đổi tên, gọi là “Dự án Trẻ sơ sinh”. Không biết là ai đã đặt cái tên này, nhưng đúng là rất thích hợp.

Mấy ngày mới đến, Rutherford còn vô cùng hăng hái. Thế nhưng chỉ mấy tuần sau, sắc mặt ông ngày một kém đi, nghe nói nhân viên ngoại giao của Anh đàm phán không suôn sẻ —— tuy ông đã thuyết phục được nước Anh, nhưng lại hiểu biết quá ít về tình hình chính trị Trung Quốc.

Không dưới một lần ông đã nói với Từ Thiếu Khiêm: “Thầy thực sự rất thất vọng về chính phủ của các em.” Lại còn bảo, “Một quốc gia đã đổ vỡ, còn vét sạch quốc khố rót vào quân bị thì nói gì về tiền đồ được nữa?”

Không thương thảo được chuyện ngoại giao thì dự án khó mà tiến hành được.

Mọi người trong phòng nghiên cứu cũng ngơ ngác: từ sau khi đại lão đến, công việc về nguyên tử hạt nhân vẫn không chút tiến triển. Mọi việc vẫn tập trung vào các ngôi sao quy mô lớn.

Meitner lấy làm khó hiểu: “Việc gì cũng có chuyên môn. Chúng tôi không hứng thú và cũng không có nhiều hiểu biết về sao lạnh. Rốt cuộc phải chờ tới khi nào nữa đây?”

Meitner có thể xem là người kiên nhẫn nhất rồi. Thế mà ngay tới bà cũng đứng ngồi không yên, vậy có thể tưởng tượng được những người khác như thế nào.

Hiện giờ, một ngày bình thường trong phòng nghiên cứu sẽ là: một đám lính Anh ăn không ngồi rồi suốt ngày cùng các nhà khoa học cũng ăn không ngồi rồi mắt to trừng mắt nhỏ.

Nếu bọn họ lịch thiệp tốt tính, đẹp trai hài hước thì thôi không nói. Nhưng đằng này cả ngày phải nhìn bọn họ diễu võ dương oai, đến Sở Vọng cũng bực mình.

Thế là có một hôm, cô cũng đi hỏi Từ Thiếu Khiêm: “Có chuyện này em không rõ lắm, rốt cuộc nước Anh có tác dụng nhiều ít thế nào?”

Từ Thiếu Khiêm khép cửa văn phòng lại, cười nói: “Chính phủ chúng ta không có tiền, cũng không có nhiều nhà khoa học vật lý. Nước Anh đem theo tiền, nhà khoa học và thành ý đến đây, nếu sau này bàn bạc thảo luận xong xuôi, thì càng có thể đem binh lực đến, bảo vệ một sách lược vẹn toàn.”

“Sách lược vẹn toàn?”

“Kế sách toàn vẹn nhất, chẳng lẽ không phải là bí mật tạo ra nó trước khi có quốc gia nào đấy phát hiện ra phản ứng dây chuyền ư? Không xem nó là vũ khí, mà chỉ coi là phòng ngự. Không chờ địch đến đánh ta, mà phải tập trung vào việc sắp sẵn kế sách đối phó; không đợi địch tấn công ta, mà phải trông vào thành lũy của ta vững chắc, địch không thể hạ được. Nếu như rơi vào tay một người quyết định bất kỳ, thì nhất định phải trở thành vế trước. Còn nếu hai người có quan hệ lợi hại đốc thúc lẫn nhau, thì ấy sẽ là vế sau —— Là tướng súy giỏi thì phải biết cân nhắc thiệt hơn.”

Sở Vọng gãi đầu.

“Là chương Cửu Địa*.” Anh cười, “Xem ra mấy đứa không học Tôn Tử.”

(*Đây là một chương trong Tôn Tử Binh Pháp.)

Sở Vọng lè lưỡi, “Nhưng bọn em học vật lý.”

“Thầy cũng nghĩ vậy.”

Có lẽ biết được địa vị thần thánh của Rutherford trong lòng cô học trò đến từ tương lai, nên hễ mỗi lần đi gặp Rutherford là Từ Thiếu Khiêm lại dẫn Sở Vọng theo cùng.

“Đây là cô học trò xuất sắc nhất của em, là người chủ chốt trong bài viết “Sự tồn tại của Nơtron”, tin chắc giáo sư cũng biết.” Anh đã khen Sở Vọng với Rutherford như thế.

Rồi anh trêu cô: “Tôi nghĩ chắc chắn em cũng muốn gặp thầy ấy thường xuyên.”

Vì được Từ Thiếu Khiêm giới thiệu nhiều lần, Sở Vọng may mắn có được cơ hội lên tiếng trước mặt đại lão: “Em hy vọng sau này khi làm các thí nghiệm hạt nhân, chúng ta nên chuẩn bị một bộ đồ bảo hộ cho các nhà khoa học. Vì nói cho cùng thì tia X cũng đã được sử dụng để điều trị bức xạ trong thế chiến mà, đúng không?”

Sau lần tranh luận kịch liệt với Từ Thiếu Khiêm đợt trước, cô nghiêm túc nghĩ lại những chỗ sơ hở của mình về cách dùng từ, là “thế chiến” chứ không phải là “thế chiến lần thứ nhất”, không thể phạm phải sai lầm trí mạng này thêm lần nào nữa.

Rutherford nghiêm túc lắm nghe, sau đó bình tĩnh nói: “Thầy nghĩ đề nghị của em rất hợp lý. Và đương nhiên, thầy hy vọng lúc bắt đầu dự án này, chính phủ các em có thể cung cấp một phần vốn cho đồ bảo hộ.”

Sở Vọng cũng rất bình tĩnh đón nhận câu trả lời ấy, cũng rất hy vọng có thể mau chóng được chính phủ nước mình tiếp viện. Nhưng với tình hình trước mắt thì thật sự khá khó khăn, thậm chí khó hơn cả với chính quyền nhà Thanh trong Chiến tranh nha phiến.

Vì điểm này mà cô càng thêm khâm phục Rutherford. Là hội trưởng Hội hoàng gia được đế quốc bổ nhiệm, trong tay có rất nhiều quyền hành. Nhưng khi nắm giữ cả một kho báu, ông lại không hề nghĩ đến chuyện phải thỏa mãn ham muốn cá nhân của đế quốc, tiến hành mở rộng lãnh thổ; trái lại, ông chỉ mưu cầu phúc lợi cho nhân loại. Tướng quân giết người hay thầy thuốc cứu mạng, mỗi công việc có sứ mệnh riêng. Ngày trước người ta thường nói: văn nhân bàn chuyện quân sự thì sẽ mất nước. Nhưng giờ cô lại cảm thấy, những lời đó không phải như vậy: chuyện gì trên thế gian này cũng đều có thể là cái đẹp, duy chỉ có chiến tranh là không; nhưng nếu chiến tranh rơi vào trong tay nhà quân sự thì ấy lại là mỹ học. Mà bọn họ lại là người lãnh đạo và người quyết định của một quốc gia —— “nhất tướng công thành vạn cốt khô”, nếu nghĩ kỹ, có lẽ đây thật sự là một chuyện đáng sợ. Chuyện mà ai ai cũng sợ lại là cái đẹp trong mắt họ. Về mặt nào đó thì có bị gọi là biến thái không?

Điều gì sẽ xảy ra nếu thay thế người quyết định bởi một một nhà khoa học có tấm lòng khoan hậu, cả đời mưu cầu hòa bình?

Vậy thì chắc chắn người đó sẽ dốc toàn bộ tài sản và học thức của bản thân ra, để người quyết định phải cân nhắc lúc dụng binh; để khi những người quyết định đối mặt với thứ vũ khí mạnh mẽ thì phải cẩn thận cẩn trọng.

Nghĩ tới đây, cô rất vui vì mình quen Từ Thiếu Khiêm, cũng rất vui khi trở thành học trò của anh.

Rồi sau đó là tin tưởng Từ Thiếu Khiêm, cũng thúc đẩy anh hoàn thành luận văn “Sự tồn tại của nơtron”.

Và càng may mắn hơn là, phản ứng phân hạch do anh nghĩ ra đầu tiên.

Một nhà khoa học thông minh lại suy nghĩ chu toàn, vì sao không gọi người ấy là “nhà thông thái”?

Mới đầu khi cô nghĩ đến chuyện này, cô cũng hy vọng có một “nhà thông thái” như vậy, có thể trao đổi ý kiến với mình, biết về vật lý, hiểu được thời đại, chu toàn đại cục —— như vậy thì cũng có đường sống để trao đổi.

Cô thực sự đã không nhìn lầm người.

***

Từ sau khi đến biệt thự họ Cát, bà Cát thường xuyên chuẩn bị cho cô rất nhiều bộ quần áo hợp mốt, cộng thêm ngài Saumur lấy được mấy bộ trang phục nổi nhất từng mùa ở Paris từ chỗ ngài Dupont, khiến trong một thời gian dài, phong cách ăn mặc của Sở Vọng đều được các nữ sinh trong trường bắt chước. Ví dụ như kính gọng tròn thịnh hành vào đầu năm 1927 đã trở thành phụ kiện điển hình của học sinh một thời gian dài; về sau là áo sơ mi sẫm màu, quần đùi trắng và bít tất cao tận đầu gối… Rồi sau đó nữa, những bộ quần áo bà Cát mua cho cô càng trở thành tài liệu nghiên cứu. Nhưng vì giá không rẻ nên số người bắt chước dần vơi đi.

Suy cho cùng, giữa thiểu số và đa số luôn khó mà lý giải cho nhau được. Trong phòng thí nghiệm, phần lớn các nhà khoa học đứng đầu ngành vật lý ở thời đại này đều thừa nhận trình độ học thuật của Sở Vọng; nhưng ở ngoài phòng thí nghiệm, ngày lại có nhiều người bắt đầu nảy sinh nghi ngờ về cô.

“Cô ta mới mười mấy tuổi. Chưa tốt nghiệp đại học và cũng không đi du học. Rốt cuộc là đã làm gì mà khiến giáo sư vật lý đại học thêm tên của cô ta dưới tiêu đề luận văn nổi tiếng thế giới như vậy? Thiên tài? Không đến mức ấy chứ.”

Nói đến đây, có hai sinh viên bày tỏ khinh bỉ: “Dùng tiền mua luận văn, đúng là làm bẩn danh tiếng đại học Hương Cảng!”

Cũng có người có suy đoán khác. Hương Cảng không thể so với đại lục, đa số học sinh đều không biết rõ chuyện cô đã đính hôn từ bé. Một thời gian dài có không ít các nam sinh từng theo đuổi cô, nhưng rồi cuối cùng đều bị mấy câu học thuật lời ít ý nhiều của cô đẩy lùi

Lúc này có người chợt nhớ: “Lần trước, cái cậu bên khoa Pháp đại học Cīna-sthāna đến trao đổi học tập ấy, không phải mời con bé lên núi Thái Bình nhưng bị nó từ chối à? Kết quả tối hôm đó tôi lại thấy nó ở trên núi đấy, cậu đoán thử xem là đi với ai?”

Mà Sở Vọng bị mọi người ác ý suy đoán lại ngây ngô vùi đầu trong phòng thí nghiệm, không hay biết gì. Có lúc giúp Chandra tính toán lực hấp dẫn, có lúc lại an ủi đồng bào người Đức không thể viết thư cho người nhà. Và nhiều hơn hết là vì Từ Thiếu Khiêm “muốn để cô gặp thần tượng nhiều hơn”, nên hễ chuyện gì có mặt Rutherford thì anh đều cố gắng dẫn cô đi.

Hai người thường xuyên cùng ra cùng vào nên bị mọi người để ý.

Có lúc những chuyện này lọt vào tai Diệp Văn Dữ, rồi bay đến tai chị Từ. Con trai vốn tính thô lỗ. Nhưng khi Diệp Văn Dữ thuật lại chuyện đó, anh ta cũng chỉ nói với tâm trạng trêu chọc “vì Sở Vọng đẹp nên bị các bạn nữ trong trường ghen tị”. Bởi vì đại đa số người trong ngành vật lý đều đã lĩnh giáo được bản lĩnh của Sở Vọng.

Từ sau khi cai thuốc, chị Từ chỉ có thể ăn được thức ăn lỏng. Tuy tinh thần đã khá hơn nhưng người lại gầy sọp hẳn đi. Nhưng chị lại muốn ăn cho bằng được mấy quả đu đủ được Sở Vọng nhờ Diệp Văn Dữ đưa đến, thế là để dì Văn ép nước để uống.

Nghe Diệp Văn Dữ nói thế, chị không những không buồn mà trái lại, tinh thần càng thêm dồi dào.

Sau khi Diệp Văn Dữ rời đi, chị bất tri bất giác uống hết nửa phần nước ép ép từ một quả đu đủ, sau đó mới gọi dì Văn đến: “Đu đủ này rất ngọt, cắt một ít đem lên cho Văn Quân đi… Còn phần này, Từ Thiếu Khiêm đã về chưa? Dì rửa sạch đu đủ, để lại cho anh ấy một quả.”

Vì hôm nay nhận được thư tuyển dụng của “Sự tồn tại của sao đặc” nên tâm trạng Từ Thiếu Khiêm rất tốt, vì vậy cũng về nhà sớm hơn. Vừa vào cửa thì thấy vợ đang ngồi dưới hiên hóng gió, xem ra hôm nay tâm trạng rất tốt nên mới bảo dì Văn đẩy ghế ra đây. Anh vội đi lên, rút thảm lông treo ở móc áo cạnh cửa, khoác thêm cho chị. Suốt cả quá trình, chị Từ chỉ lo nhìn anh cười.

Tâm trạng Từ Thiếu Khiêm đang rất vui, thấy vợ vui, anh cũng không kìm được cười nói, “Có chuyện gì mà em vui thế?”

Chị Từ không đáp, chỉ đưa mắt nhìn lên trên bàn, “Đu đủ, ăn thử xem có ngọt không.”

Nhìn thấy mất lát đu đủ nằm trên bàn, Từ Thiếu Khiêm mỉm cười đi tới, vừa vì chuyện thư tuyển dụng, vừa cảm thấy vợ sắp bình phục nên trong lòng rất vui. Anh ăn hai miếng, nhưng không cảm nhận được vị gì.

“Có ngọt không?” Chị Từ thò đầu đến cười hỏi.

“Ngọt.” Anh thuận miệng đáp.

“Con bé Sở Vọng mua mà lại, đương nhiên phải ngọt rồi.” Chị Từ nói tiếp.

“Ồ.” Anh vẫn thuận miệng đáp, không để tâm lắm.

Chị Từ nhìn Từ Thiếu Khiêm chăm chú, sau đó cười nói:

“Đu đủ ngọt, người cũng đẹp, phải không?”

“Cái gì đẹp cơ?” Từ Thiếu Khiêm nghĩ ngợi một hồi mới sực tỉnh, “… Ừ, hình như cũng cao lên rồi. Anh không để ý lắm.”
 

MUALARUNG91

Tác giả
Sưu tầm
Tham gia
25/8/19
Bài viết
4,780
Điểm cảm xúc
577
Điểm
113
Chương 72: Người bệnh (16)
Trong lòng chị Từ tính toán đủ đường, song ngoài mặt vẫn dịu hiền nhìn anh mỉm cười, chính vì vậy mà Từ Thiếu Khiêm không phát hiện được gì. Anh cũng cười, nhưng là cười chuyện khác làm mình vui vẻ.

Từ Thiếu Khiêm nói, “Thời tiết mấy tuần nay không tệ.” Anh mở miệng nói, đầu óc còn xoay chuyển nhanh hơn cả ý nghĩ. Anh chợt nghĩ ra được một cách làm vợ vui, thế là bất giác mỉm cười.

Dì Văn cũng cảm thấy lạ, “Có chuyện gì mà cậu chủ vui thế?”

Từ Thiếu Khiêm muốn làm vợ ngạc nhiên nên chỉ lắc đầu, hưng phấn đẩy cửa đi ra ngoài.

Dì Văn nhìn chị Từ.

Chị Từ cũng không hỏi rốt cuộc anh vui chuyện gì, mà kể ra cũng đã lâu lắm rồi chị không hỏi chuyện của anh. Nhiều năm qua, chỉ cần đứng trước mặt chị, Từ Thiếu Khiêm luôn cười như thế, dù là chuyện trọng đại cũng không để chị lo lắng.

Nhưng chị lại có cảm nhận khác. Điều anh nói chưa chắc chị đã hiểu, lại còn trưng ra vẻ mặt ngơ ngác làm anh mất hứng; thậm chí dù lòng anh có dậy sóng thì vẫn bịa chuyện để làm chị vui. Không biết có phải khi anh đang cười là lúc tim đang đau không, còn chị vẫn chẳng biết anh đang vui hay buồn. Có những lúc, chỉ một chuyện nhỏ như vậy càng khiến chị cảm thấy mình không phải là một người vợ tốt —— không phải là người có thể lắng nghe, có thể giải sầu, trái lại còn làm anh tốn công dỗ chị vui vẻ, thêm mệt mỏi vì chị.

Thực ra trước kia không hề như vậy.

Năm ba tuổi, cả nhà trốn khỏi Bắc Kinh, mười mấy cỗ xe ngựa chỉ chở sách vở của cha anh. Một thời gian rất dài ở Quảng Châu, vì các anh trong nhà đều đã đến trường đi học, nên bầu bạn cùng chị chỉ có những cuốn sách kia. Chị không thích đọc sách thánh hiền, chỉ thích nhất một cuốn “Trung Liệt Hiệp Nghĩa truyện”. Chị là cô con gái duy nhất trong nhà, lại còn là con út nên từ nhỏ đến lớn rất được nuông chiều, không ai bắt ép gò bó chị.

Ngày trước, người dân ở thành Bắc Kinh rất hận người phương Tây, kính trọng Nghĩa Hòa Đoàn, và chị cũng thế. Về sau ở Quảng Châu nghe nói Nghĩa Hòa Đoàn bị tiêu diệt, chị đau lòng suốt một thời gian dài, làm chuyện gì cũng không có hứng thú. Về sau nữa, dân quốc thành lập, đàn ông cạo đuôi sam, từ phố lớn đến hẻm nhỏ ngập tràn là những thứ mới mẻ, chị cũng lại vui vẻ một hồi. Nhưng dân quốc không phải là dân quốc như chị muốn, triều đại cũ như gỗ mục đã sang trang mới, ấy vậy mà vẫn năm bè bảy mảng rối ren như trước.

Sau đó người nhà tìm hôn sự cho chị, đối phương cũng môn đăng hộ đối, là một chàng trai tuấn tú nho nhã. Nói là “người thông minh tài năng hiếm có, suy nghĩ sắc sảo nhạy bén”, cha anh từng gọi người đó đến nhà một lần, kiểm tra anh về Bách Gia Chư Tử và Cửu Nghệ, thậm chí anh trai còn lấy chữ Tây kiểm tra thiên văn địa lý lý hóa lịch sử của anh, nhưng không câu nào có thể làm khó được anh. Mới đầu cha bảo chị nấp sau rèm nghe, ý là để tự con gái lựa chọn, cuối cùng lại tự quyết định cho chị ngay giữa đại sảnh.

Vốn ban đầu chị không thích cuộc hôn nhân này lắm. Ý trung nhân của chị phải là một Bạch Ngọc Đường văn võ song toàn, cái thế hơn người; mà người trước mặt đây chỉ là một chàng trai lần đầu rời nhà, được mỗi gương mặt tuấn tú. Tối hôm thành thân, anh chỉ nói một câu với chị —— “Em đừng lo. Sau ngày hôm nay, anh sẽ gánh vác thay em bảy phần khó khăn đau khổ trong tương lai. Nếu chuyện củi gạo dầu muối không được như ý, thì là do sai lầm của anh.”

Lúc ấy chị thầm giễu cợt: cậu mới mấy tuổi hả, có thể gánh vác được gì cho tôi chứ?

Nhưng anh nói được làm được.

Mọi khó khăn đau khổ trên thế gian này, thậm chí cả sinh ly tử biệt, anh đều đã gặp và cũng gánh vác cả —— tuy chưa đến mức hoàn mỹ, nhưng anh cũng đã nói được làm được.

Anh không giống những người đàn ông ngoại tình sau lưng vợ, thậm chí còn kết hôn lần hai kia. Nhưng chính vì không giống nên càng khiến chị tự ti mặc cảm.

Anh càng thận trọng yêu thương chị, chị càng cảm thấy mình không xứng với anh. Không phải là không yêu, cũng không phải tự ái. Mà chị quá nhỏ bé, ngay đến thích cũng phải cố hết sức.

Anh thử rất nhiều cách làm chị vui vẻ.

Anh chưa bao giờ chê bai chị. Lúc ra ngoài thường hay bị người ta nhận lầm là mẹ con, nhưng lần nào anh cũng mỉm cười giải thích, “Đây là vợ tôi.” Chưa bao giờ anh cảm thấy chị khiến mình xấu hổ.

Không sinh con cũng không sao. Anh vắt hết óc nghĩ cách đón cháu đến để chị nuôi. Nhưng chị thì sao? Gần đây khó khăn lắm Văn Quân mới gần gũi với chị, thế mà từ sau hôm lên cơn nghiện, tuy ngoài miệng không nói, nhưng mỗi lần gặp chị, chị có thể cảm nhận được sự sợ hãi và căm ghét từ cậu.

Kể từ đó chị mới biết, chị không xứng với anh.

Sao chị có thể biến mình ra nông nỗi này?

Không chỉ biến mình thành bộ dạng đó, chị còn chính tay phá hỏng mái ấm tốt đẹp mà mình đã cố gắng duy trì.

Có lúc chị hy vọng anh có thể bỉ ổi tàn nhẫn, như thế chị sẽ dễ chịu hơn. Trong mấy năm anh chưa tốt nghiệp, chị mơ hồ hy vọng anh có thể tìm được một người bạn gái ở Anh đểu bầu bạn, nhưng vừa mong ngóng lại vừa ghen tị. Trong mấy năm chia cách hai nơi, chị dính vào nha phiến —— lúc ấy các phu nhân nhà giàu xung quanh đều hút, chị lại có tiền, không phải không hút được —— thứ này đúng là làm chị sung sướng.

Không phải chị hận mình khiếm khuyết và thấp kém, mà là hận anh nói được làm được. Anh nói “anh sẽ gánh vác thay em bảy phần khó khăn đau khổ trong tương lai”, trong bảy phần ấy có ba phần bụi đất mưa mù, hai phần nắng gắt gió mạnh, hai phần đau khổ cô đơn; ba phần còn lại chính là nắng xuân ấm áp trăng sáng chiếu rọi, làm chị thêm xấu hổ tự ti.

Cô bé kia tốt biết mấy. Từ lần đầu tiên gặp Sở Vọng, chị đã có cảm giác chói mắt như nhìn một vầng thái dương nhỏ. Lúc ấy không thể nói là đẹp, nhưng lại có sự thông suốt mà người đồng trang lứa không có. Giống như cái năm lần đầu chị gặp Từ Thiếu Khiêm vậy: tài học xuất chúng, tâm tính bình thản, lúc nhìn người thì mênh mông vô bờ như cách một hoang mạc, thực chất trong lòng lại có một ngọn đèn soi sáng.

Tuy Sở Vọng không hơn Văn Quân bao nhiêu, cũng chỉ là cô gái mới lớn. Nhưng lúc chị lên cơn nghiện dọa cậu sợ, người thứ nhất cậu cầu cứu chính là cô bé ấy.

Vì em ấy là người thông suốt nên cũng dễ dàng sưởi ấm người khác hơn —— em ấy giống Từ Thiếu Khiêm thời còn trẻ quá.

Đương nhiên, cũng chỉ có danh sĩ Nhan Tra Tán mới xứng kết bạn với anh hùng Bạch Ngọc Đường.

Dì Văn biết chị đang nghĩ gì, bà thở dài bảo, “Cô chủ à, cô đừng nghĩ lung tung nữa. Thân thể cô vẫn khỏe mà, với cả cậu chủ cũng không có tâm tư với người khác. Đã nhiều năm thế rồi mà bên cạnh cậu đâu có tiểu thư xuất sắc nào, dù đẹp tới mấy cũng chưa bao giờ lọt vào mắt cậu. Tính cách cậu chủ ra sao, cô còn không biết ư? Huống hồ, cô bé ấy… cũng có hôn ước mà đúng không?”

“Cơ thể tôi thế nào tôi hiểu rõ nhất.” Chị Từ trả lời, không biết dòng suy nghĩ đã bay đến tận đâu, miệng lẩm nhẩm “hôn ước” hai lần, rồi chị chợt sực tỉnh, vội gọi dì Văn đến, “Có phải cái cậu nhà kia họ Tư không?!”

Dì Văn đáp phải, lại bổ sung thêm, “Nghe nói cậu nhà kia cũng rất xuất sắc, giờ đang đi học ở Luân Đôn. Tiểu thuyết cậu ấy viết ai ai cũng biết, danh chấn trong và ngoài nước, gần đây tên tuổi còn nổi hơn cả cha mình.”

“Tiểu thuyết gì? Nhà mình có không?”

“Cậu Văn Quân có nhắc đến. Chắc là… cậu ấy có, để tôi đi xin cậu ấy hai cuốn cho cô.”

***

Bên ngoài là sắc xuân rực rỡ, mặt trời trên cao tỏa nắng ấm áp, Từ Thiếu Khiêm hào hứng ra ngoài mua xe. Hồi trước anh đã học lái ở Anh rồi, cũng vì vợ không thích gặp người nên mới lén học lái, tính học xong sẽ dẫn vợ đi chơi hội đạp thanh tiết Thanh Minh. Lúc ấy đã định mua xe nhưng chưa mua được, bởi vì chị đã nhờ người mua vé đi thuyền về nước.

Lần này Từ Thiếu Khiêm đột nhiên muốn mua xe, không hẳn là vì mỗi vợ. Nhân viên ngoại giao nước Anh gặp vấn đề với chính phủ Nam Kinh nên mọi chuyện vẫn đang giậm chân tại chỗ, người ở viện nghiên cứu rảnh đến nỗi không có gì làm, nhất là các nhà nghiên cứu từ châu Âu đến. Lương Chương dùng hết cách mà vẫn không khiến Lise vui vẻ nổi, mà chính Từ Thiếu Khiêm lại không phát hiện ra, Sở Vọng thấy thế mới lén nói cho anh. Anh chợt nghĩ đến chuyện mua xe, thứ nhất là có thể chở vợ đến bờ biển chơi, thứ hai nếu có rảnh thì cho Lương Chương mượn để đưa các quý cô ra ngoài giải sầu. Dẫu gì anh ta cũng đã ba mươi mấy tuổi rồi, trong nhà thúc giục liên tục, làm Từ Thiếu Khiêm cũng gặp họa lây. Mỗi lần mẹ anh ta ở quê viết thư gửi đến Hương Cảng thì luôn có một phần của anh. Vui thì gửi cho anh ít bí đao dưa hấu ở quê, buồn thì viết thư mắng anh xối xả —— mắng anh làm cấp trên không biết quan tâm cấp dưới, suốt ngày chèn ép anh ta, không chịu cho anh ta ra ngoài quen bạn gái.

Lần đầu lái xe đến trường, Sở Vọng vui vẻ đùa: “Hay cho em mượn lái chơi đi?”

Đợi tới lúc đưa xe cho cô lái chơi thật, Từ Thiếu Khiêm lại không yên tâm: không phải anh lo cô không biết lái xe, mà là lo người ngoài thấy cô đang lái xe. Đúng lúc trong viện nghiên cứu cũng có người đang bị trầm cảm suốt ngày ăn không ngồi rồi, thế là anh sai Oppenheimer đi giám sát Sở Vọng. Hai người lái xe ra ngoài chơi một ngày rồi mới trở lại, không hiểu sao lúc về thì trên xe lại có thêm một chiếc ra-đi-ô.

Chàng trai Do Thái im lặng rời đi, Sở Vọng vỗ vai anh, nở nụ cười giảo hoạt, thấp giọng nói: “Lái xe lên sườn núi vắng người ở Vịnh Nước Cạn, hóng gió ngắm trăng rồi nghe nhạc, phong hoa tuyết nguyệt như thế, chắc chắn cô sẽ thích thôi, đúng không thầy?”

Sau đó lại nói, “Em vụng về nên không làm được thứ này, ra-đi-ô là do Robert lắp đấy.”

Không đợi Từ Thiếu Khiêm hoàn hồn, cô đã chạy vụt đi như một làn gió.

Nhưng mua xe rồi, anh lại chẳng có mấy cơ hội cùng vợ ra ngoài chơi. Gần đây trông tinh thần chị rất tốt, còn có hứng thú đọc tiểu thuyết. Anh hỏi thì chị cười, “Cuốn tiểu thuyết này do vị hôn phu của con bé Sở Vọng viết. Những người trong sách giống hệt đám bạn của anh ở Anh, càng đọc càng thấy thú vị. Nghe nói cậu Tư kia còn dịch rất nhiều tác phẩm, đúng là thiếu niên anh tuấn. Có được hôn nhân như thế, chắc con bé Sở Vọng cũng biết làm văn tứ lục nhỉ?”

Từ Thiếu Khiêm cầm tạp chí lên, đọc câu chuyện được đăng tải nhiều kỳ kia. Đọc một lúc rồi khen, “Có thể kể về một du học sinh bỏ vợ với lối nói hài hước thế này, chắc hẳn cũng là nhân tài hiếm thấy.” Nghĩ một lúc rồi anh cười, “Về môn Văn học, con bé miễn cưỡng lắm mới có thể đạt yêu cầu, xếp hạng bét trong số sinh viên đại lục… Nếu bảo trao đổi thư từ với cậu ta thì e là làm khó con bé rồi.”

Chị Từ cầm tạp chí trong tay, chống cằm nhìn anh cười. Tiếng Trung của Sở Vọng kém, chị đã nghe Diệp Văn Dữ kể rất nhiều lần nên đương nhiên biết rõ chuyện ấy. Có điều lần này nghe chồng mình nói thế thì chị lại càng thêm yên tâm. Chị hỏi lại, “Anh có cảm thấy hai đứa nó xứng đôi không?”

“Anh từng xem ảnh một lần, bàn về tướng mạo thì cũng khá xứng. Tuy người giỏi Văn kẻ kém Văn, nhưng dẫu gì cũng có sở trường riêng, sau này nhân nhượng nhau, có lẽ cũng có thể cầm sắt cùng vang.” Từ Thiếu Khiêm thoáng nhớ lại rồi cười nói, “Sao bỗng để tâm đến chuyện này thế? Xem ra tinh thần tốt thật.”

Dù chị Từ đã khá hơn trước nhiều, nhưng chị vẫn không chịu ra ngoài chơi với anh. Cả chiếc xe mới cùng với ra-đi-ô mới đều được Lương Chương chiếm dụng. Lái xe chở mỹ nhân đi hóng gió nghe âm nhạc, ngắm trọn cảnh phong hoa tuyết nguyệt trên đảo, mấy ngày gần đây luôn thấy mặt mũi Lương Chương hồng hào —— có vẻ đã thành công ôm mỹ nhân về rồi.

Mọi người trong phòng thí nghiệm thường xuyên lấy chuyện này trêu ghẹo Lương Chương, dần dà mọi người cũng vui vẻ hòa thuận.

Phòng thí nghiệm càng hài hòa thì đám lính Anh bên ngoài càng mặt mũi khó ưa, thậm chí đến con chó lưng đen kia cũng người ghét quỷ chê, suốt ngày thấy người ta là lại nhe răng sủa inh ỏi. Thú vui lớn nhất của lính Anh chính là dắt chó đi ngang qua nhân viên phòng thí nghiệm, chó thì sủa còn người thì nói, “Prussia, đừng sủa nữa, đó là người nhà mày đấy. Ồ! Tao quên Prussia không hiểu tiếng Anh, trừ tiếng Anh giọng Ấn.”

Rất nhiều chuyện ở Nam Kinh không được tiến hành thuận lợi. Sở Vọng đoán có lẽ chính phủ kiểm tra lai lịch người Anh nhiều lần, muốn biết rõ tình hình hơn, hoặc là đòi nhiều tài nguyên hơn, hoặc dứt khoát nói rõ: “Chúng tôi không thể chi nhiều binh lực và vốn liếng như các người nói được.” —— Mỗi lần nghe thấy tin này, Sở Vọng không khỏi sợ hãi, rất sợ chỉ một bước sơ sẩy sẽ đẩy hai nước vào tình trạng trở mặt, chiến tranh bùng nổ.

Trong ngoài viện nghiên cứu không hòa thuận, và người gặp họa nhất chính là Từ Thiếu Khiêm. Rutherford sốt ruột, thường xuyên phát tiết với anh.

“Sao người Anh ở thực dân lại xấc xược như thế hả! Thầy ở Anh chưa bao giờ thấy cảnh đấy, cũng chưa nghe nói như vậy bao giờ!”

“Một ngày ta còn ở đây không làm gì, thì ngày đó nhân viên của chúng ta sẽ bị lính Anh ăn hiếp. Nhưng chính phủ nước em lại quá ngu xuẩn vô năng! Thầy không thấy bất cứ hy vọng nào cả!”

“Vì sao ngày trước em lại quay về? Em ở lại Anh, tiền đồ rộng mở! Còn đất nước của em tiền đồ xám xịt, khiến người khác vô vọng!”

Từ Thiếu Khiêm trầm ngâm một lúc lâu, sau đó đột nhiên hỏi, “Nếu để phe thứ ba tham gia vào thì sao? Chia nửa binh lực và giảm nửa tiền vốn thì có được không?”

Rutherford nói, “Chúng ta cần phải nhanh chóng tiến hành dự án này một cách ổn thỏa, hơn nữa phải tiến hành trong bí mật và giữ an toàn. Nếu thêm một nước tham gia thì sẽ thêm một nhân tố không an toàn và không xác định. Thầy nghĩ không thích hợp.”

Từ Thiếu Khiêm cười khổ, “Cũng đúng.”

Sở Vọng nghe thế, đột nhiên nảy lên một ý nghĩ.

Cô lặng lẽ đi vào văn phòng của Từ Thiếu Khiêm, khép cửa lại, nhỏ giọng nói: “Em cảm thấy, phe thứ ba ấy, có lẽ không cần phải là quốc gia nào đó.”

“Vậy thì là gì?”

“Liệu có thể là… một chính đảng khác ở nước ta không?”

Từ Thiếu Khiêm giật mình, nhướn mày hỏi, “Chính đảng nào?”

Sở Vọng thấp giọng đáp: “Giang Tây.”
 

MUALARUNG91

Tác giả
Sưu tầm
Tham gia
25/8/19
Bài viết
4,780
Điểm cảm xúc
577
Điểm
113
Chương 73: Người bệnh (17)
Vừa dứt lời, Từ Thiếu Khiêm giật mình khiếp hãi, còn Sở Vọng cũng bị chính mình dọa không nhẹ.

Lúc bấy giờ Nam Kinh đang thân với Nhật, vây quét Lưỡng Hồ*; còn Giang Tây liên Nga** nổ ra cách mạng công nông tại Lưỡng Hồ, đánh cường hào, chia ruộng đất. Đương khi nội chiến liên miên, muốn để hai phe hợp tác thì chỉ khi bên ngoài đánh vào nước ta. Với tình hình hiện tại, cô nói muốn phe Giang Tây gia nhập thì đúng là mơ giữa ban ngày.

(*Chỉ Hồ Bắc và Hồ Nam, Trung Quốc.)

(*Cách mạng Tháng Mười Nga đã có ảnh hưởng lớn đến thế giới quan của Tôn Trung Sơn, từ đó ông đã đề ra ba chính sách lớn: liên Nga, liên Cộng, phù trợ công nông. Thừa nhận quyền tự quyết của các dân tộc ở nước này, kêu gọi thiết lập những quan hệ thân thiện giữa Trung Quốc với nước Nga Xô viết.)


Cũng không biết nghĩ thế nào nữa.

Nam Kinh ngoài mặt nói mình không có tiền, nhưng còn khoản bồi thường Canh Tý thì sao?

“Để tôi suy nghĩ đã.”

Từ Thiếu Khiêm khoát tay.

Sở Vọng dọn dẹp đồ đạc rời đi, vừa ra tới cửa thì điện thoại trên bàn đổ chuông. Từ Thiếu Khiêm ngồi xa nên cô chỉ vào điện thoại, Từ Thiếu Khiêm gật đầu đồng ý, cô bèn nghe máy hộ anh.

Vừa alo một tiếng thì đầu dây dừng lại, Văn Quân lạnh lùng nói: “Vì sao lại là chị.”

Sở Vọng cười, “Đang chuẩn bị về đây. Để chị chuyển điện thoại cho…”

“Không cần, phiền hà quá. Nhờ chị chuyển lời tới chú là thím bảo trên đường về nhớ ghé vào bưu cục một chuyến.”

Sở Vọng gật đầu, “Chị sẽ chuyển lời.”



Từ Thiếu Khiêm đang định đứng dậy đi đến nghe máy, nghe thấy vậy thì cười cười ngồi xuống.

Đầu dây mơ hồ vang lên tiếng chị Từ và dì Văn nói chuyện, có vẻ đang hỏi là ai trả lời điện thoại. Từ Văn Quân che ống nghe đáp: “Không ai cả, chú Lương nghe máy, thím đừng nghĩ nhiều.”

Một lúc sau, Từ Văn Quân mới thấp giọng nói: “Em khuyên chị sau này tốt nhất nên tránh xa chú em ra, càng xa càng tốt.”

Sở Vọng sửng sốt, “Ha?”

Đang ngờ vực khó hiểu thì Từ Văn Quân đã cúp máy.

Chuyển lời đến Từ Thiếu Khiêm xong, anh nhận ra sự khác thường của cô, hỏi, “Sao vậy?”

Sở Vọng lắc đầu, những lời Từ Văn Quân nói ban nãy cứ vang vọng trong đầu. Cuối cùng, trước khi ra về cô lại bổ sung một câu: “Nếu gần đây bận quá thì thầy có thể san bớt việc cho em và Lương Chương. Nếu cô đã khỏe thì nên ra ngoài đi lui đi tới, trò chuyện với người khác nhiều hơn.”

Từ Thiếu Khiêm cười, “Tôi thay cô ấy cám ơn em đã quan tâm.”

Dừng một lúc, Sở Vọng xoa đầu, bảo: “Dạo này Lương Chương đi chơi nhiều thật đấy, chiều hôm nay cũng không thấy anh ấy đến.”

Cũng hiếm có dịp Từ Thiếu Khiêm không thấy anh ta ở trong phòng thí nghiệm, bèn lắc đầu cười, “Cái anh chàng này, để xem mai tôi trị anh ta.”

***

Nhưng ngày hôm sau Lương Chương vẫn không xuất hiện.

Thứ sáu hôm ấy, ngoài Lương Chương ra, đến Meitner cũng nghỉ làm. Hai tiến sĩ người Đức ở văn phòng mù tịt không biết gì, cuối cùng đưa ra kết luận: vì bọn họ ngồi không quá lâu, nên ngay tới cấp trên cũng muốn đình công thị uy.

Chandra nghe thế thì suy ngẫm: “Hình như không phải như thế. Hôm qua Lương và cô Lise ra ngoài hóng gió, có lẽ thuận tiện cùng đi ăn bữa cơm, cùng trải qua một đêm tuyệt vời. Vì đêm đẹp quá nên đã ngủ quên.”

Anh ta vừa dứt lời, cả viện nghiên cứu cười ầm lên.

Không ít người ồn ào muốn đợi Lương Chương đến để đòi anh ta mời khách, cũng nói mấy lời xằng bậy trêu ghẹo hai người. Nhưng bọn họ cũng xuất phát từ ý tốt, thật tâm chúc phúc cho hai người họ.

Sở Vọng ồn ào: “Người đầu tiên nhất định phải cám ơn là Prof. Tsu đã cung cấp đạo cụ —— một chiếc xe hơi! Thứ hai là phải cám ơn Robert của chúng ta đã tốt bụng lắp ráp ra-đi-ô!”

Mọi người cười hì hì phụ họa: “Cám ơn Prof. Tsu, cám ơn thành tựu nghiên cứu của Robert đã tác thành cho đôi tình nhân này!”

Từ Thiếu Khiêm đi ngang qua, nghe thấy vậy thì cười bảo, “Chỉ mới có ít manh mối thôi mà nhao nhao thế. Đợi thêm đi đã, đừng dọa hai người họ.”

Oppenheimer không hề tham gia vào cuộc vui. Anh ta đứng ngoài hút thuốc, ngồi xếp bằng trên bệ cửa trong bóng tối, song trên mặt nở nụ cười hiếm thấy.

Đến buổi chiều, hai người kia vẫn chưa xuất hiện.

Chiều thứ Sáu, Từ Thiếu Khiêm theo lệ phải về nhà sớm với vợ. Rutherford và Wilson đã theo sứ giả đến đại lục, Từ Thiếu Khiêm và Meitner không có ở đây, viện nghiên cứu như bầy rồng không đầu, rơi vào tình trạng hỗn loạn.

Một vài người sử dụng đèn cồn để nướng thịt từ phần còn sót lại từ buổi trưa, bắt chước giọng Rutherford thuyết giảng… Vừa diễn thuyết xong, bên dưới có người bổ sung: “Chúng tôi sẽ không bao giờ từ bỏ vật lý cổ điển! Bởi vì Thứ Hai, Thứ Tư và Thứ Sáu sử dụng lý thuyết lượng tử mới, Thứ Ba, Thứ Năm và Thứ Bảy sử dụng lý thuyết cổ điển! Còn Chủ nhật! Chúng tôi tin vào Chúa!”

Một người khác cũng hưng phấn, giả giọng Rutherford nói to: “Hãy ghi nhớ điều đấy! Sự nghiệp của chúng ta, ngoài hôm nay còn có ngày mai!”



Sở Vọng cười cười chen ra khỏi đám đông. Hôm nay là thứ Sáu, cô cần phải về sớm để đến biệt thự bà Kiều.

Lúc đeo cặp sách đi xuống lầu, bất chợt nghe thấy bên ngoài xôn xao —— tiếng Anh Anh xen lẫn tiếng Anh Đức. Đi xuống mấy bước, cô thấy đám lính Anh đang chặn một quý bà sắc mặt nhợt nhạt ở cửa. Người ấy khẩn khoản nói: “Xin… xin dẫn tôi đi gặp cấp trên của các anh, thư là của tôi, thư thật sự là của tôi!”

Lính Anh cười khẩy: “Thư gì? Chúng tôi chỉ phụ trách canh gác người ở đây, không phụ trách kiểm tra thư từ. À… Vừa rồi hình như đồng nghiệp của tôi có nói, một gã người Trung bị bắt ngay trên giường của tình nhân người Đức, ném vào đồn cảnh sát tra hỏi, thì ra là nhân tình của cô?”

Một người khác cảm thấy phiền: “Thư của hắn ta thì hắn ta chết, thư của cô thì cô chết. Cô muốn chết thay hắn hả ả người Đức kia?”

Người kia nói xong thì lần sờ bên hông.

Sở Vọng nhận ra giọng của quý bà người Đức kia, cũng nhìn thấy anh ta sờ thứ gì bên hông, nhất thời trong đầu nổ ầm. Trong tiếng cười của đám lính Anh, cô sải bước xông lên chắn ngang trước mặt Meitner, không hề khách khí hét lên bằng tiếng Anh: “Đấy là cách các anh đối xử với phái nữ đấy hả? Người Anh chết tiệt!”

Lính Anh càng cười phá lên. Người trước mặt xoay mặt sang, câng câng cười nói, “Mày nói ai là người Anh chết tiệt?”

Sở Vọng chưa kịp mở miệng thì một thứ lạnh lẽo đã kê lên huyệt thái dương của cô. Biết đó là súng lục, trong chớp mắt ấy cô càng thêm bình tĩnh, mỉm cười nhìn thẳng người kia: “Tôi nói anh đấy, đồ người Anh chết tiệt.”

Meitner kéo cô ra, dùng tiếng Đức nói nhỏ: “Linzy, không liên quan đến em, em đừng xía vào.”

Sở Vọng hất tay bà ra, tiếp tục nói bằng tiếng Anh: “Từ khoảnh khắc các người đến đây giam lỏng chúng tôi, chúng tôi đã bị luật pháp của các người ngăn cấm, nhưng đồng thời cũng được quy định tư pháp của các người bảo vệ. Trong điều kiện tôi không làm sai bất cứ điều gì, nếu anh nổ súng thì chắc chắn sẽ bị bồi thẩm đoàn xét xử.”

“Biết không ít đấy nhỉ.” Lính Anh híp mắt, nụ cười càng thêm càn rỡ: “Tiếng Anh cũng sành sõi lắm.”

Gã ta chỉ họng súng ra sau lưng Sở Vọng: “Mày không làm sai, nhưng không có nghĩa đồng bọn của mày không sai. Mày nên khuyên quý cô này đi, bảo ả ta bớt can thiệp vào chuyện của nhân tình mình —— đây là lời khuyên chân thành cuối cùng của tao.”

Gã ta lau súng rồi xoay người rời đi, đám lính Anh tụ tập phía sau cũng giải tán.

Đợi người đi hết rồi, Sở Vọng mới nghiêng đầu, dùng tiếng Đức hỏi: “Cô để Lương gửi thư thay mình?!”

Môi Meitner trắng bệch, bà gật đầu, lời nói lộn xộn, “Mấy giờ trước cậu ta bị đưa đi. Tôi nói là thư của tôi, nhưng bọn họ không tin ——”

Sở Vọng nhìn bà, sau đó xoay người chạy thẳng lên lầu.

Meitner sửng sốt, đuổi theo sau bất lực giải thích: “Không biết vì sao… Mọi phong thư tôi viết đều không thể gửi về Đức được. Vì sao cứ phải là thư của tôi? Thậm chí tôi muốn chuyển tiền cho cha cũng không được. Nên tối qua tôi đã nhờ Lương đến bưu điện gửi hộ tôi… Tôi cũng không biết nữa…”

Bà càng nói, Sở Vọng càng thấy choáng váng. Lên lầu mò lấy điện thoại, dạ dày quặn thắt, suýt thì nôn hết ra. Đợi đến khi gọi tới nhà họ Từ, giọng cô đã run run: “Tôi tìm thầy Từ.”

Ở đầu dây, dì Văn sửng sốt: “Cậu chủ vẫn chưa về.”

Sở Vọng suýt thì khóc nấc lên, “… Vậy bao giờ thầy ấy về, nhờ dì nói thầy ấy gọi điện cho tôi.”

“Được.”

Cúp máy xong, cô lập tức lao vào phòng tắm nôn mửa —— lần đầu tiên bị người ta chĩa súng vào đầu, tuy biết rõ người đó sẽ không nổ súng; sợ hãi trước những gì Lương Chương sắp gặp phải, và nhiều hơn hết là áy náy và tức giận khi chính cô đã gán ghép Meitner và Lương Chương.

Vì sao lại là Đức, bởi vì cô đã nhắc đến “nước thua cuộc”; vì sao lại là Meitner, cũng bởi vì cô từng nói: “Cần, nhưng tạm thời vẫn nghi ngờ, có được không?”

Dựa vào đâu cô lại chắc chắn đến thế?

Cô cúi gằm mặt vào chậu rửa mặt bằng đồng, nôn tới mức tái mặt tái mũi, đến khi sờ mặt thì lại thấy nước mắt nhạt nhòa. Cô lau mặt, quay về phòng ngồi đối diện Meitner, chẳng mấy chốc, điện thoại đã đổ chuông.

Vừa nhấc máy, không đợi cô mở miệng thì Từ Thiếu Khiêm đã nói: “Tôi đã biết chuyện rồi. Tôi vừa đến phòng tuần bộ một chuyến… Không sao đâu. Tra hỏi mấy ngày, nếm khổ ít bữa rồi sẽ thả ra. Yên tâm, nam tử hán đại trượng phu có thể chịu đựng được.”

Ở đầu dây, giọng của Từ Thiếu Khiêm điềm tĩnh lạ thường, ít nhất là vào lúc này, nó đã mang lại cho cô một cảm giác an toàn khác lạ. Cũng chính là cảm giác ấy khiến sự chua xót leo lên chân mày. Cô cau mày, giọng cũng biến dạng, quên luôn đổi ngôn ngữ, nghẹn ngào dùng tiếng Anh hỏi: “Bọn họ sẽ làm gì anh ấy… Có bị ngồi ghế điện không?”

Meitner ở gần đấy nghe thấy thế thì hốc mắt đỏ bừng: “Xương sống và đầu gối cậu ấy không tốt. Nếu ngồi lâu quá sẽ không chịu được.”

“… Chỉ người Mỹ mới cho ngồi ghế điện.” Từ Thiếu Khiêm đáp.

“Vậy thì sẽ làm gì? Ghế hùm*, nước tiêu, hay là kẹp tay?”

(*Ghế hùm: hình phạt tra tấn thời xưa, người ngồi trên chiếc ghế dài, duỗi thẳng chân ra, trói chặt đầu gối với ghế, rồi đệm dần gạch dưới gót chân, đệm càng cao thì càng đau.)

“Đấy là thứ của thời phong kiến, xã hội hiện đại không dùng.”

Sở Vọng nhéo mũi, ép mình bình tĩnh lại. Qua một lúc sau, cô thấp giọng nói bằng tiếng Trung, “Chuyện này, có liên quan gì đến… những lời em từng nói không?”

Đầu dây điện thoại chìm vào im lặng.

“Tôi hỏi em. Nếu sớm biết có chuyện như ngày hôm nay, thì hôm đó ở trong văn phòng, em sẽ không nói cho tôi biết kế hoạch của mình đúng không?”

“Em vẫn sẽ nói.”

“Nếu vẫn phải làm thế, thì như vậy, đi bước nào hay bước ấy thôi. Em nên biết: chúng ta chỉ là những con kiến. Hôm nay có thể là cậu ta, ngày mai có lẽ chính là tôi với em. Vẫn chưa chuẩn bị ư?”

“Mọi việc đều có cái giá của nó, em biết chứ.” Sở Vọng nghĩ ngợi, nhưng vẫn không qua được cửa ải trong lòng, bèn hỏi: “Lương Chương sẽ không sao thật chứ ạ?”

“Chuyện của anh ta so với kế hoạch của chúng ta, bên nào quan trọng hơn?”

Cô biết đây không phải lúc để mình phát tác bệnh thánh mẫu. Nhưng một người tràn trề năng lượng như Lương Chương, một người độc thân trẻ con như Lương Chương… Anh ấy bị thấp khớp, hông cũng không được khỏe. Ở quê nhà Phúc Châu, anh còn có một mẹ già đơn độc chỉ cao một mét rưỡi, tuy lưng còng, nhưng có thể mắng hai người đàn ông cao một mét tám đến long trời lở đất.

Nhưng lúc như thế lại rất dễ nhớ đến những chuyện vụn vặt, nhưng lại là chuyện khiến mắt ta cay cay.

“Nếu hôm nay người bị đưa vào phòng tuần bộ là em, tôi cũng sẽ nói những lời như vậy với Lương Chương. Nếu như người ấy là tôi, tôi hy vọng em có thể giữ được lý trí. Hiện tại chúng ta còn rất nhiều chuyện chưa giải quyết xong, bên nào nhẹ bên nào nặng, tôi nghĩ ắt em hiểu rõ. Dù gì vẫn phải nhìn về phía trước, có đúng không?”

***

Từ Thiếu Khiêm vừa bước chân vào nhà, nghe dì Văn chuyển lời thì lập tức gọi điện đến văn phòng. Vừa cúp máy không được bao lâu, anh vẫn lo lắng cho Lương Chương, nên chưa ăn tối đã lại vội vã lái xe đến đồn cảnh sát nghe ngóng tin tức.

Dì Văn thấy thế, lúc bới cơm lại oán trách: “Mấy tháng nay chẳng ở nhà ăn được mấy bữa cơm. Mỗi lần có điện thoại là lại lật đật đi ngay. Cũng không biết là có chuyện gì nữa.”

Chị Từ nói, “Là ai gọi thế?”

“Còn có thể là ai nữa?” Dì bổ sung, “Cuộc gọi đầu tiên gọi đến, nghe giống như đang khóc.”

Chị Từ nhướn mày: “Khóc? Vì sao?”

“Ai mà biết được? Ban nãy cậu chủ gọi điện thoại đi, vừa dỗ vừa khuyên, sau đó ra ngoài ngay…” Dì Văn càng nói càng quá trớn, biết mình đã lỡ lời, lập tức im lặng, “Cô cũng không khuyên gì cậu.”

Từ Văn Quân thấy thế, cười lạnh nói, “Người ta có việc của người ta, bà tưởng ai cũng rảnh như bà à?”

Dì Văn bĩu môi, “Tôi có nói gì đâu.”

“Vậy bà làm gì hả? Đột nhiên thím thích đọc sách, hai ba hôm đọc một cuốn, nhưng vì sao cứ phải là mấy tờ báo của tôi?” Từ Văn Quân liếc xéo dì Văn khiến bà chột dạ, rồi cậu nhìn thẳng vào chị Từ, cười lạnh nói, “Chú đã nói cả rồi, người ta là trai tài gái sắc, hôn sự chỉ là chuyện sớm muộn. Thím vẫn nên bồi bổ cơ thể cho khỏe đi, đừng nghĩ nhiều nữa.”

Dứt lời, Văn Quân đặt bát cơm xuống đi thẳng lên lầu.

Chị Từ biết cậu trưởng thành sớm, tâm tư kín đáo. Dù bị cậu nói huỵt toẹt ra thì chị cũng không giận. Mà nửa câu sau lọt vào tai, chị nghe lại có ý khác. Nghe xong cả câu, đột nhiên chị nảy ra một kế.

Thoáng trầm ngâm, chị gọi dì Văn đến, hỏi lại một lần: “Con bé gọi điện tới khóc thật hả?”

Dì Văn chà xát hai tay, “Thật đấy cô. Lúc gọi điện đến, giọng run lên nghe tức tưởi lắm, chắc chắn là đang khóc rồi.”

Chị Từ suy nghĩ rồi lại hỏi: “Trước kia bà Kiều có gọi điện đến nhà mình. Số điện thoại trong nhà bà ấy, chắc vẫn ghi trong danh bạ đúng không?”

Dì Văn lật sổ ra, đáp lại, “Có đây ạ.”

Chị bảo dì Văn đẩy ghế đến cạnh điện thoại. Sua khi nối máy với biệt thự họ Kiều, chị Từ cầm ống nghe, cười nói: “Là biệt thự bà Kiều đúng không? Tôi muốn tìm bà Kiều… Tôi họ Từ… Ngày trước chị từng gọi điện cho tôi. Đúng thế. Tôi gọi điện tới là muốn nói về chuyện của cô ba Lâm… cùng với anh nhà tôi.”
 

MUALARUNG91

Tác giả
Sưu tầm
Tham gia
25/8/19
Bài viết
4,780
Điểm cảm xúc
577
Điểm
113
Chương 74: Người bệnh (18)
Đây là thời đại không có máy tính, cho nên những công thức lớn đều dựa cả vào sức người. Trong thời gian đợi bàn bạc ổn thỏa với trong nước, trước khi các nhiệm vụ chính được giao, thì tất cả nhân viên trong phòng thí nghiệm vật lý hạt nhân đều là nhân viên tính toán.

Sở Vọng ôm một xấp tài liệu tính toán vi phân từ nhà cô út đi sang nhà bác cả, trong đầu toàn là chuyện của Lương Chương. Đứng dưới bậc thềm, còn chưa thấy bóng dáng biệt thự bà Kiều thì Tiết Chân Chân từ sau rặng hoa màu vàng đã bước ra. Trong đêm đông lạnh lẽo, cô ấy chỉ khoác mỗi áo khoác bên ngoài trang phục ăn tối, đi guốc gỗ, để trần bắp chân, đầu ngón chân lạnh tới nỗi đỏ bừng. Chân Chân run rẩy hà hơi, vừa thấy cô tới thì lốc cốc chạy đến, ngăn cô lại.

“Chị sao thế?” Vừa thấy là cô, Sở Vọng vui vẻ hỏi.

“Em… Em đừng đến. Chị hỏi em trước,” Chân Chân chạy về phía cô, cả người run lên, “Rốt cuộc em và Từ Thiếu Khiêm kia có chuyện gì vậy?”

“Em với thầy ấy?” Sở Vọng chỉ vào mình, phá lên cười, “Đang yên đang lành, em có chồng chưa cưới, thầy ấy có vợ rồi. Đại bác bắn cũng không tới, còn có thể thế nào được?”

“Chị cũng nghĩ thế.” Chân Chân miễn cưỡng lấy lại bình tĩnh, “Nhưng vấn đề là ở vợ thầy ấy, vừa rồi còn gọi điện đến cho mợ. Mợ nghe điện thoại xong thì biến sắc, ngồi trong nhà mắng em và dì Cát ầm lên.”

Sở Vọng thôi cười, “Cô Từ? Cô ấy nói gì?”

“Còn có thể nói gì nữa? Nói em đã có hôn ước mà còn mập mờ với chồng chị ta, truyền khắp trường ai ai cũng biết. Lại nói gì mà nhìn thấy hai người yêu nhau thật lòng, nên mới gọi điện cho mợ, nói mợ viết điện báo hỏi ý của cha em thế nào. Nếu cha em chịu thì chị ta chịu lùi một bước, nghĩ cách tác thành người có tình với nhau.”

Chân Chân nói rất uyển chuyển, Sở Vọng cẩn thận lắng nghe, nhận ra một hai điều. Cúi đầu nhìn phiến đá trên đất, cô cười nói, “Biết rõ danh tiếng của nhà họ Lâm lớn, con gái nhà họ Lâm không dám làm mất mặt, nên mới nói em và thầy Từ lén lút với nhau, làm hỏng danh tiếng. Nói em yêu thầy ấy sâu đậm, nhưng lập gia đình cũng có trước sau. Em đến muộn nên phải làm lẽ cho thầy ấy. Nếu em bằng lòng, cha em sẽ hủy bỏ tờ giấy hôn ước kia, rồi cô Từ dàn xếp ổn thỏa tha thứ cho em và thầy Từ; còn nếu em không chịu thì đừng trách cô ấy không khách khí, lúc này cha em sẽ vì danh tiếng của gia tộc, không thể không đăng báo từ mặt em —— trong tình cảnh ấy, em rơi vào đường cùng, cũng phải làm lẽ cho thầy ấy thôi đúng không?”

Chân Chân gật đầu, giận tới mức cắn răng nghiến lợi, “Cô Từ này bị gì thế? Trước giờ chỉ có vợ chính xua đuổi phụ nữ bên chồng mình, chẳng có ai chạy đến làm mai cả.”

“Cô ấy…” Sở Vọng trầm ngâm, nhìn trời cười nói, “Cô ấy yêu giáo sư Từ quá đấy mà.”

“Vào lúc này rồi mà em còn cười à?” Chân Chân sốt ruột, “Hôm nay em đừng đến biệt thự nữa. Vừa rồi mợ còn sai người gửi điện báo cho cha em đấy, chị không cản được. Em mau về nhà bên kia tìm dì Cát đi.”


“Vâng, chị không cần lo quá đâu, trời lạnh thế này, chị về nhà trước đi. Nếu để bác Kiều phát hiện thì sẽ bị mắng đấy.”

Đôi ba câu khuyên Chân Chân về biệt thự họ Kiều, rồi Sở Vọng chạy về nhà cô út.

Trong biệt thự vang lên tiếng nhạc nhẹ, tiếng nam nữ cười nói ở bên kia vang vọng, vô cùng náo nhiệt. Tuệ Tế cầm chai rượu vang đi ra khỏi hầm rượu, vừa vào vườn hoa thì bắt gặp cô, ngạc nhiên hỏi, “Sao hôm nay cô ba lại về đây?”

“Tôi tìm cô út, cô ấy có ở trong nhà không?”

“Vừa nãy có người mời nên bà đã ra ngoài rồi. Có chuyện gấp lắm sao?”

Hai người đứng trong vườn hoa, Sở Vọng vốn định chờ bà Cát, nhưng đột nhiên đổi chủ ý, “Tuệ Tế, em đang có chuyện rất gấp, bây giờ phải ra ngoài ngay.”

Tuệ Tế gật đầu, “Vậy để tôi đi tìm ngài Henry, bảo chú ấy điều tài xế đến cho cô.”

Lúc đứng dưới hiên chờ xe, nhìn những vì sao sáng điểm trên bầu trời, trong đầu cô yên tĩnh đến lạ thường. Quá rộng lượng cũng được, quá tức giận cũng được, có lẽ hôm nay cô đã chịu quá nhiều kích thích rồi, nên chút chuyện này cô không hề bận tâm… Cô cũng không biết là như thế nào nữa. Rõ ràng trời rất lạnh, nhưng khi gió thổi đến cô lại chẳng cảm nhận được gì.

Tới lúc lên xe, quay cửa kính lên, bên trong bỗng ấm áp hẳn, làm cô mơ màng chợp mắt một lúc. Xe dừng lại ở đường Liên Hoa, tài xế cầm ô, định đưa cô đi vào nhưng bị Sở Vọng từ chối. Nhận lấy chiếc ô đen to tướng nặng nề, nhấn chuông cửa nhà họ Từ, vẫn là dì Văn chạy ra. Vừa thấy cô thì sầm mặt nói, “Sao cô lại đến đây?”

Giọng chị Từ ở đằng xa truyền đến: “Cậu chủ đã về chưa?”

Dì Văn đứng đằng xa đáp: “Là cô ba… nhà họ Lâm.”

Chị Từ: “Ồ, vậy mau mời em ấy vào đi.”

Không đợi dì Văn dẫn đường, Sở Vọng sải bước từ trong sân đi vào nhà. Cửa không khóa, chị Từ đang ngồi giữa phòng khách đọc sách, trước mặt là một chiếc lò sưởi ấm. Nghe tiếng bước chân, chị ngẩng đầu lên, “Sao giờ này em lại đến đây?”

Sở Vọng cười, “Nhờ phúc của cô Từ, nên có lẽ cha em đang cùng bác em bàn bạc làm sao để đuổi em ra khỏi nhà. Em rất muốn biết, rốt cuộc cô Từ có ý gì đây?”

Chị Từ nhìn cô, cầm tờ Diệc Báo trong tay chỉ vào ghế, “Em ngồi đi đã.” Thấy Sở Vọng không có ý định ngồi, chị thở dài, “Em thật sự muốn kết hôn với cậu Tư kia sao?” Chị lại mở tờ Diệc Báo ra, trang đang mở chính là trang nhận xét về tiểu thuyết của Tư Ngôn Tang. Chị hỏi: “Gần đây cậu Tư này đang rất nổi trong nước. Vẫn chưa về nước và vẫn chưa tham gia trường phái nào, nhưng các trường phái lớn đã bắt đầu phân tích cậu ta, cũng không biết vì sao. Tiểu thuyết của cậu Tư thuộc trường phái gì nhỉ, phái trăng non, phái Ngữ Ti, hay phái Uyên Ương Hồ Điệp?”*

(*Phái Trăng Non là trường phái thơ mới hiện đại (đại diện có Từ Chí Ma); phái Ngữ Ti là phái văn học hiện thực hiện đại (đại diện có Tôn Trung Sơn); phái Uyên Ương Hồ Điệp là trường phái tiểu thuyết lãng mạn cận đại.)

Sở Vọng lạnh lùng nói, “Thì có liên quan gì đến cô Từ?”

Chị Từ đặt tờ Diệc Báo xuống, thở dài than, “Giờ còn ương bướng gì nữa? Em không hiểu được cậu ta, cũng như tôi không hiểu chồng mình —— sống cả đời với nhau nhưng lại không hề hiểu nhau, đấy là chuyện cô độc đến nhường nào. Còn em, tôi biết em xứng đôi với anh ấy, không như người khác. Một người như anh ấy, nhân phẩm thế nào, những năm qua cả em và tôi đều biết rõ. Nếu không phải gánh nặng là tôi, thì với tướng mạo học vấn và xuất thân của anh ấy, kết hôn với ai mà chẳng được? Em không gả cho anh ấy, chưa chắc trên đời này đã có người tốt với em bằng một nửa anh ấy.”

“Em có kết hôn với chồng chưa cưới hay không cũng là chuyện nhà em, không phiền cô Từ phải nhúng tay vào. Em có hiểu thầy ấy hay không, có muốn ở bên thầy ấy hay không cũng là chuyện do em quyết định. Nhưng cô Từ à, hiểu lầm của cô về thầy Từ đúng là hết thuốc chữa rồi. Dù cô thất bại thì cũng đừng gửi gắm hy vọng gì ở em cả. Đàn ông ưu tú trên đời này không chỉ có một, cô Từ chỉ có một thầy Từ, nhưng vì sao cô có thể chắc chắn ngoài chồng cô ra, em không có được tấm chồng tốt?”

Chị Từ sốt ruột, “Tuy tôi nói với bác của em như thế, nhưng đâu bảo em làm lẽ của anh ấy thật? Tôi sắp chết rồi, cũng không biết còn sống được mấy hôm. Đến lúc đó em gả cho anh ấy, không phải vẫn là vợ cả cưới hỏi đàng hoàng sao? Sau khi tôi chết, không chỉ anh ấy, toàn bộ gia sản của nhà họ Từ, thậm chí là hồi môn của tôi cũng đều thuộc về em hết —— trên đời này làm gì có chuyện tốt nào như vậy nữa? Huống hồ, ngoài cô út của em ra, những người khác trong nhà đối xử với em như vậy, ở lại nhà đó cũng có ích gì?”

“Cô Từ suy nghĩ thấu đáo thật đấy, tâm tư kín đáo vô cùng, còn cân nhắc lợi ích mọi mặt nữa, đúng là thập toàn thập mỹ. Thậm chí còn biết nên gọi điện cho bác cả của em chứ không phải là cô út, đúng là cũng rất hiểu em.” Sở Vọng cười nhạt, “Vậy thì cô Từ à. Nếu em hỏi cô: bây giờ cô bảo thầy ấy lập tức bỏ mình, để thầy ấy cưới em làm vợ cả nhà họ Từ, cô có sẵn lòng không?”

“Tôi…” Chị Từ giận dữ nhìn cô, giận quá hóa cười, “Tôi đã gần đất xa trời rồi, em lại còn muốn tranh giành với tôi làm gì?”

“Cô không muốn đúng không?” Sở Vọng cười lạnh, “Cô không muốn, còn không phải là sợ nếu mình xuống huyệt, sẽ không thể có tên trong gia phả nhà họ Từ sao? Cái danh tiếng mà cô muốn tốt cho em đấy thực chất là phá hủy danh dự của em. Cô Từ, đúng là cô suy nghĩ rất thấu đáo, nhưng chưa hề nghĩ cho em lần nào.”

Chị Từ bị cô nói đúng tim đen, há miệng ra song lại không nói được gì.

“Không cần phải ghen. Nếu cô đã khăng khăng muốn em gả đến, vậy thì cô nghĩ cách đi, đầu tiên là buộc giáo sư Từ phải bỏ cô, sau đó buộc thầy ấy chịu gật đầu cưới em vào cửa. Nếu không, trên đời này làm gì có chuyện tốt như thế.”

Nói xong những lời trên, Sở Vọng chẳng thèm nhìn chị lấy một lần, cứ thế đẩy cửa lao ra ngoài. Chị Từ ở sau gọi cô mấy tiếng, muốn đuổi theo nhưng chân không có sức, ngã khuỵu xuống đất. Dì Văn định ngăn Sở Vọng lại, nhưng thấy chị Từ ngã thì vội chạy về đỡ chị dậy, đau lòng hô to: “Cô chủ của tôi ơi, tội gì cô phải tự làm khổ mình như vậy? Cậu ấy đối tốt với cô như thế, cô ba họ Lâm này lòng dạ quá độc…”

Chị Từ không muốn để bà đỡ, đẩy bà ra, gọi với ra ngoài nhà: “Đúng là trước đó em có rất nhiều lựa chọn, nhưng sau ngày hôm nay, ngoài anh ấy ra, chỉ sợ không ai dám cưới em nữa. Sở Vọng, sao em có thể cứng đầu như thế hả? Mau trở lại đi ——” Gọi mất tiếng liền nhưng không ai đáp, chị đẩy dì Văn ra: “Dì đỡ tôi làm gì? Mau đi ngăn cô ba lại, đừng để con bé làm chuyện điên rồ.”

***

Dì Văn sốt ruột thay chủ, dù bị chị Từ mắng nhưng cũng không dám bỏ chị lại mà đuổi theo.

Tuy Sở Vọng nói lời độc địa, nhưng cô cũng biết những lời ấy tuyệt đối không thể thành sự thực, chẳng qua là phát tiết cơn giận trong lồng ngực mà thôi. Phát tiết rồi, bước chân cũng nhanh nhẹn hơn. Đi ra giữa sân, đang định băng qua sân tennis thì chợt thấy có bóng người đứng thẳng bên ngoài bụi cây phượng vĩ. Trông có vẻ đã đứng chờ từ lâu, thấy cô đi ra thì đi về phía cô.

Không thấy rõ là ai, nhưng cô nhận ra giọng của Từ Văn Quân: “Không phải em đã cảnh cáo chị, bảo chị tránh xa chú em ra rồi sao? Chiều nay chị gọi điện đến tìm chú làm gì? Chị không nghe em khuyên, chuyện xảy ra như thế cũng là do chị tự chuốc lấy.”

Sở Vọng cười khổ: “Đúng là em đã nói rồi, chị rất cảm kích. Nhưng chị không thể không tìm thầy ấy.”

Dừng một lúc, Từ Văn Quân lại hỏi: “Vậy chị thích chú em à?”

“Chị thích thầy ấy làm gì?”

“Không thích mà suốt ngày ở với thầy ấy? Chị cũng không phải là đứa con nít dốt nát. Chị ở chỗ chú em cũng không đến mức quan trọng, vì sao chuyện gì cũng phải nói riêng với chú ấy vậy?”

“Đối với chị, chú của em cũng như những thành viên khác trong viện nghiên cứu. Lương Chương, Robert, Chandra… Nếu như chị cũng là đàn ông giống bọn họ, thì em có nói những lời này với chị không?”

“Nhưng chị đâu phải đàn ông.”

“Đúng thế, chị không phải. Nhưng vì chị không phải nên em mới có hiểu lầm ấy sao? Trên đời này, ràng buộc giữa người và người có rất nhiều loại. Vì sao chỉ dựa vào suy đoán lung tung đã độc đoán quy nó thành suy nghĩ chủ quan đại chúng?”

“Chẳng lẽ còn có quan hệ khác?”

Sở Vọng suy ngẫm, ngẩng đầu nhìn trời. Dạo này thời tiết rất đẹp, hiếm khi có một đêm trời lạnh lại thấy được đầy sao như lúc này. Thế là cô hỏi, “Em xem, ngôi sao đó là gì?”

“Là sao sáng. Một ngôi sao rất sáng.”

“Đúng thế. Đấy là câu trả lời của phần lớn mọi người. Nhưng cũng có một bộ phận sẽ trả lời rằng, đó là sao Thiên Lang, chỉ có thể thấy vào mùa đông và đầu xuân. Nó nằm ở hướng Đông Nam của chòm sao Lạp Hộ, là ngôi sao sáng nhất trên trời.” Sở Vọng nheo mắt nói, “Còn nếu như em đến viện nghiên cứu hỏi một người bất kỳ, bọn họ cũng sẽ trả lời em rằng: đây là sao α của chòm Đại Khuyển, là một ngôi sao có sao đồng hành. Nó có trạng thái cuối cùng, được hỗ trợ bởi lực đẩy giữa nơtron và proton, được gọi là sao nơtron. Sau khi đạt đến trạng thái cuối cùng này, nó sẽ ngừng co lại và trở thành sao lùn trắng, giống như sao đồng hành của sao Thiên Lang.”

“Chị nói những lời này là có ý gì?”

Từ Văn Quân ngơ ngác, còn Sở Vọng càng nói càng hào hứng, “Nếu em hỏi chị, chị sẽ nói với em: nó cũng như mỗi một vì sao trong dải ngân hà, cũng có quang phổ của mình. Nếu nó đến gần chúng ta, quang phổ của nó sẽ xê dịch về phổ xanh; còn nếu nó nằm cách xa chúng ta, quang phổ sẽ dịch về phổ đỏ. Mà kết quả này sẽ chứng minh một chuyện…”

“Em không hiểu gì cả.”

“Không hiểu là đúng, em của bây giờ không thể hiểu được những lời chị nói. Đợi chú em về, em hỏi chú em những câu vừa rồi, để xem thầy ấy sẽ trả lời thế nào.”

Sở Vọng nói rồi, lập tức quay đầu bước đi. Vì bước chân vội vã, nên lúc đi lướt qua một người khác cũng không phát hiện.

Từ Thiếu Khiêm dừng bước, đang định hỏi cô vì sao muộn như thế mà còn đến. Nhưng Sở Vọng lại không thấy anh, chỉ trong chớp mắt đã chạy ra khỏi sân rồi lên xe rời đi. Anh lắc đầu cười, “Sao lại gấp gáp thế chứ.”

Anh đi vào sân, chưa kịp nói chuyện với Văn Quân thì dì Văn đã đi ra, nghẹn ngào nói: “Cậu chủ, cậu đã về rồi đấy à.”

Thấy sắc mặt bà khác thường, anh vội hỏi, “Cô ấy làm sao hả?” Không đợi bà trả lời, anh đã vội đi nhanh vào phòng. Thấy chị Từ vẫn nằm trên giường, anh thở phào một hơi, ngồi xuống cạnh chị, đưa tay hơ trên lò lửa.

Chị Từ vừa thấy anh thì vội hỏi, “Có thấy Sở Vọng không?”

“Anh có thấy em ấy, nhưng em ấy không thấy anh. Sao tối muộn rồi mà em ấy còn đến đây, có chuyện gì sao?”

“Anh cũng biết tối muộn mà đến là có nguyên nhân, thì vì sao không ngăn con bé lại?” Chị Từ tức giận, dứt khoát nghiêng người không để ý đến anh.

Từ Thiếu Khiêm đã quen chuyện vợ hay tranh cãi vô lý rồi, nên anh cũng không nổi giận, chỉ đi hỏi dì Văn. Dì Văn không quyết định được, hoảng hốt nhìn trái nhìn phải, ngón tay vặn xoắn tạp dề, cuối cùng thở dài, “Cô ba họ Lâm kia đúng là độc địa!”

Từ Thiếu Khiêm cau mày, “Dì nói đi.”

Dì Văn chưa kịp trả lời, chị Từ đã dứt khoát nói thẳng: “Thấy hai người tình đầu ý hợp nên em tự chủ trương, đợi ngày em xuống huyệt thì để anh quang minh chính đại cưới con bé vào cửa!”

Từ Thiếu Khiêm nghe thế thì cúi đầu suy nghĩ, hỏi, “Em tự chủ trương như thế nào?”

“Còn thiếu gì cách để con bé chỉ có thể gả cho anh.”

Từ Thiếu Khiêm mỉm cười.

Chị Từ lườm anh, “Vừa rồi con bé mới xả giận lên em. Em lo nó còn trẻ, thà làm ngọc vỡ còn hơn ngói lành, sợ làm mấy chuyện điên rồ. Anh không máu lái xe ngăn con bé lại mà khuyên nhủ đi, còn đứng đấy cười làm gì?”

“Em thật sự muốn anh lái xe đưa em ấy về?”

Từ Thiếu Khiêm vẫn cúi đầu, bóng mờ bao trùm nên không nhìn rõ vẻ mặt, “Em sống khỏe mạnh trên đời này chính là đã tác thành cho đôi ta vẹn toàn rồi. Việc gì phải kéo thêm người khác vào, vừa làm tổn thương mình lại làm tổn thương người khác? Xưa nay anh luôn nhân nhượng em, nhưng lần này, em thật sự… đã sai rồi.”

Chị Từ nghiêng đầu không đáp, Từ Thiếu Khiêm cũng không nói chuyện với chị nữa, đẩy cửa đi ra ngoài, nhưng không phải là lái xe đuổi theo. Văn Quân cứ tưởng trong nhà sẽ cãi nhau nên vẫn đứng ngoài sân, không muốn đi vào thêm phiền. Nào ngờ bên trong gió êm sóng lặng, quả thực khiến cậu thấy lạ, nhưng vẫn giả vờ nhìn trời như trước.

Anh đi ra, hai chú cháu cùng ngẩng đầu nhìn lên trời. Nhìn theo hướng của Văn Quân, Từ Thiếu Khiêm dùng tay rạch một đường, “Chòm Đại Khuyển. Đây là sao Thủy, sao Procyon, sao Rigel. Còn đó là sao Thiên Lang. Cũng được gọi là sao α của chòm Đại Khuyển.”

Từ Văn Quân nghiêng đầu nhìn Từ Thiếu Khiêm.

“Em ấy còn nói gì với cháu không?” Từ Thiếu Khiêm hỏi.

“Chị ấy nói: nó cũng như mỗi một vì sao trong dải ngân hà, cũng có quang phổ của mình. Nếu nó đến gần chúng ta, quang phổ của nó sẽ xê dịch về phổ xanh; còn nếu nó cách xa chúng ta, quang phổ sẽ dịch về phổ đỏ. Mà kết quả này sẽ chứng minh một chuyện…”

“Dịch chuyển đỏ. Em thấy chúng giống nhau nên nhận định là chúng nằm gần nhau, nhưng thực chất chúng đã nằm cách xa nhau từ lúc hình thành.”*

(*Nhìn bằng mắt thường từ Trái Đất, những ngôi sao mà Từ Thiếu Khiêm kể tên đều có màu xanh.)

Lúc ngẩng đầu nhìn bầu trời đầy sao, trong mắt Từ Thiếu Khiêm như có ngôi sao lấp lánh, khiến gương mặt trở nên bừng sáng, giống hệt gương mặt Sở Vọng lúc nãy. Từ Văn Quân ngạc nhiên, “Chú, hai người nói nhiều như vậy, nhưng cháu vẫn không hiểu gì.”

“Không hiểu cũng không sao. Vốn chú còn bận lòng, bây giờ xem ra,” Từ Thiếu Khiêm cười nói, “Thím của cháu sẽ không được như ý đâu.”

***

Còn chưa xuống xe, Sở Vọng trông thấy bà Cát và Tuệ Tế đang chờ trên bậc thang ngoài hàng rào ở biệt thự. Vừa thấy xe đến, bà Cát vội đi lên trước hai bước, khăn lụa trên cổ bị gió thổi bay cũng không để ý. Tuệ Tế đi sau luống cuống nhặt khăn lên, nóng lòng đuổi theo, xe còn chưa kịp dừng thì bà Cát đã hậm hực mở cửa xe ra, nhưng khi thấy Sở Vọng thì bao cơn giận lập tức tiêu tan, dịu dàng nói, “Cô nghe kể lại rồi. Đừng sợ, có cô đây rồi. Có cô ở đây, để xem người bên cạnh với Lâm Du dám làm gì cháu.”

“Cháu không sợ.” Sở Vọng cười với bà.

Thấy cô cười toe toét, bà Cát cũng biết không có việc gì, giơ tay đâm vào trán cô, “Cháu cười như thế, nếu để người khác thấy thì lại nói nhà họ Cát ta không có quy củ.”

Sở Vọng lè lưỡi, “Cháu biết rồi ạ.”

“Vừa đi đâu về đấy?”

Sở Vọng chắp tay đứng trên bậc thềm, nghĩ ngợi rồi đáp, “Oan có đầu nợ có chủ. Tự dưng bị chọc giận nên đi lấy lại công bằng.”

Bà Cát nhìn cô, “Có điều có mấy lời cô vẫn phải hỏi cháu. Vừa rồi có điện thoại gọi cô đến bưu cục lấy thư, đúng lúc ấy chị ta cũng đã gửi điện báo tới Paris. Cháu không muốn tác thành cho cô Từ kia thì cô ta cũng không làm được gì cháu. Chỉ là, cháu thật sự không muốn làm khuê nữ nhà họ Lâm?”

“Mấy cái danh phận đó cũng không có gì hay ho, được thoát sớm, cháu còn vui vẻ tự do hơn.”

“Nhưng cháu phải biết, nếu không có thân phận này thì cũng không giữ được hôn sự với cậu Tư.”

Không đợi cô trả lời, bà Cát đưa tay rút một phong thư ở trong túi áo ra —— một phong thư nhăn nhúm, bên trên in rất nhiều dấu bưu điện. Bà Cát vừa quan sát vẻ mặt cô vừa nói, “Thư của tháng một năm ngoái*. Cũng không biết vì sao từ Anh đến mà lại mất những một năm. Nếu không phải cô nhờ người để ý ở chỗ cảnh sát nhập cảnh, thì e bức thư này sẽ còn bị trì hoãn lâu hơn nữa.”

(*Dòng thời gian hiện tại là tháng 2 năm 1929.)
 

MUALARUNG91

Tác giả
Sưu tầm
Tham gia
25/8/19
Bài viết
4,780
Điểm cảm xúc
577
Điểm
113
Chương 75: Phong thư từ Anh đến
Thân gửi Sở Vọng,

Thư đến tay, thấy chữ như thấy người.

Mong em thứ lỗi cho anh vì đã lâu không viết thưgửi về. Từ tháng 6 khi tạm biệt ở Thượng Hải, anh vẫn luôn nghĩ về câu nói cuối cùng em nói với anh —— “anh phải suy nghĩ, bản thân mình muốn trở thành người như thế nào.” Mới nghe qua, lời này thật sự khiến người ta tức giận. Chỉ vì anh cảm thấy, nếu không có hôn ước trước đó, có lẽ với em anh cũng chỉ hơn một người xa lạ, em cũng chỉ đối xử khách khí. Cũng như những người họ hàng không hay lui tới lại cố ra vẻ thân mật xoa đầu hỏi “sau này lớn lên cháu muốn làm gì”; cũng giống như khách khứa nịnh nọt cha anh “sau này cậu nhà tất sẽ thành công”.

Xin em đừng tức giận. Anh muốn nói cho em vài chuyện em không biết —— nếu anh không nói với em, có lẽ em sẽ mãi mãi hiểu nhầm anh.

Trên đoạn đường từ viễn Đông đến châu Âu lần này, thuyền đi qua Việt Nam và Singapore ở Đông Nam Á, đi qua Ấn Độ và Sri Lanka ở Nam Á, đi qua bến tàu ở bờ đông châu Phi, qua biển Đỏ, Địa Trung Hải, cuối cùng mới đến bến tàu Marseilles ở Pháp, cuối cùng đổi đường thủy hoặc đường bộ để đến các nước châu Âu. Một quãng đường dài đằng đẵng, mỗi một lần dừng thuyền là một phong cảnh đơn điệu như nhau. Chuyến này đi, tuy có chú nhà và chị em đi cùng, những gì trên đường đi là mới mẻ với họ, nhưng với anh là thứ cực kỳ nhàm chán, không khác gì ngày thường. Nhưng không ngờ, điều này đã khiến anh có cách hiểu khác về em —— ví dụ như, lần này chú Lâm đến Pháp, một vài nguyên nhân là vì muốn gặp lại người mình yêu; có lẽ chính vì nguyên nhân này nên chú Lâm mới thương cô con gái do mình và người kia sinh ra hơn, thậm chí còn hao tâm tốn sức tạo cơ hội cho con gái đi chơi riêng với anh. Một người suốt ngày chơi bời, không ôm chí lớn như anh quả thực ngạc nhiên, không biết rốt cuộc mình đã có tài đức gì.

Anh nghĩ hẳn em phải chịu thiệt nhiều lắm; nếu sau này có một ngày anh châm chọc hành động lời nói của chú và chị gái em, em sẽ không trách anh chứ?

Năm mười lăm tuổi cùng cha đi đến Thiệu Hưng, ông ấy từng nói với anh rằng: “Tuy hôn ước của con và em ba là do cha và chú Lâm hứa hôn, nhưng chú Lâm từng nói, ‘từ nhỏ vì thân thể yếu đuối nên con bé thường cần người khác chăm sóc, chỉ sợ sau này không thể trở thành một cô vợ tốt; tôi muốn giữ con bé lại nuôi thêm ít năm, như vậy thì sẽ yên tâm hơn. Trong nhà có con hai lớn hơn con ba hai tuổi, từ nhỏ đã thông minh biết tự lập, tôi thấy, có lẽ nó xứng đôi với cậu nhà hơn con ba. Có điều tôi nói thế thôi, mọi sự vẫn dựa vào ý của cậu nhà.’ Nhà họ Tư không thể phản bội nhà họ Lâm. Đợi gặp em hai và em ba rồi, con nhớ phải suy nghĩ rõ ràng.” Giờ nhớ lại những lời này, anh chỉ thấy rùng mình sợ hãi: nếu ngày hôm đó anh không gặp em, lại ngơ ngác nghe theo ý của chú Lâm, vậy thì em sẽ ở đâu, sẽ sống như thế nào?

Anh chưa bao giờ nghe em nói những chuyện này, nhưng chỉ dựa vào suy đoán, cũng có thể đoán được những vất vả em phải chịu trong nhiều năm qua. Anh chưa từng nghiêm túc hiểu em, chỉ toàn dùng suy nghĩ của mình ép buộc em; anh chỉ từng nghĩ “sẽ không làm liên lụy đến em”, nhưng chưa bao giờ nghĩ “em muốn làm gì”. Dùng đạo đức của mình để trói buộc em, lại đưa em vào cảnh lưỡng nan.

Nay quyền tự do bình đẳng trong nước ngày càng phát triển, rất nhiều nam sinh được giáo dục sẽ bị điều đó tác động, muốn thoát khỏi ràng buộc, thoát khỏi hôn ước cũ của mình; mà nữ sinh cũng thế. Ở nước ngoài anh nghe tin tức nhưvậy rất nhiều, thường cảm thấy rất bất ngờ với giáo dục thâm căn cố đế của cha, vô hình trung đã sống như một di lão ở thời xã hội phong kiến. Anh cũng muốn hỏi em một câu, rốt cuộc em có suy nghĩ gì về hôn ước này. Đạo đức đã trói buộc anh nhiều năm, muốn anh trở thành người trong miệng kẻ khác, nhưng chưa bao giờ thật sự nghĩ xem mình muốn làm gì. Mới đầu giận em ích kỷ, về sau mới hiểu ra, người ích kỷ thực chất là anh —— người chưa từng hiểu rõ mình nhưng lại muốn để người ngoài phải hiểu mình trước, đúng là nực cười.


“Anh phải suy nghĩ xem anh muốn trở thành người như thế nào”, lời tâm huyết cuối cùng là như vậy. Cha theo Nhật phái, sau khi về nước thì theo việc chính trị, nhưng chưa bao giờ ủng hộ anh làm chuyện liên quan tới chính trị. Cẩn thận suy nghĩ, anh đã quyết định vì cá nhân mình mà làm một vài chuyện trái với đạo hiếu ——đầu tiên phải trở thành một người tự do độc lập, thì mới có thể yêu cầu người khác hiểu và tôn trọng. Lúc này Trung Quốc vẫn chưa yên, mà trên đại lục châu Âu cũng thế. Hơn hai năm sau cuộc đảo chính quán bia*, một chính đảng vô nhân đạo đã khơi đống tro tàn. Sau khi sửa lại công pháp quốc tế, anh và bạn cùng trường rất căm phẫn về các cương lĩnh của bọn họ, thường xuyên biểu tình để phản đối chính đảng đó. Tuy biết rõ hành động này sẽ tạo trở ngại cho việc thư từ giữa hai ta, nhưng anh vẫn quyết định làm như thế —— hy vọng sau khi em biết có thể tha thứ cho sự ích kỷ của anh.

(*Đảo chính quán bia hay Đảo chính Hitler-Ludendorff là cụm từ mà sử gia gọi biến cố xảy ra ngày 8 tháng 11 năm 1923 do Adolf Hitler điều động Đảng Đức Quốc xã gây ra, nhằm lật đổ chính quyền bang Bayern, từ đó dự định tiếp tục lật đổ chính phủ Cộng hòa Weimar.)

Cũng bởi vì các lý do trên nên anh đã gửi riêng bản dịch tiếng Anh và lá thư này, chỉ mong có thể đúng lúc đến Hương Cảng, có thể giúp ích nhiều cho em.

Chúc em những điều tốt lành


Ngôn Tang kính bút

1928, 29 tháng 1.


Đúng là đã gửi được một năm.

Sở Vọng tựa lưng ra ghế sofa, mỉm cười đọc hết thư rồi cầm bút viết mấy chữ:

“Anh Ngôn Tang, lúc viết bức thư này, có lẽ em đã mất đi lý do duy nhất để gửi thư cho anh; nhưng trước đó, xin anh tha thứ cho sự mạo muội của em mà viết lá thư này cho anh. Đồng thời, cũng xin anh nhất định phải đọc hết bức thư. Nếu em nói với anh thì có lẽ anh sẽ không tin lắm: nhưng có rất nhiều chuyện của anh, quả thật em đã biết rồi. Ví dụ như những lời cha anh nói với anh trước khi đến Thiệu Hưng, hay ví dụ như anh và bạn bè biểu tình chống đối chính đảng ở châu Âu…”

Cô suy nghĩ một hồi, lại cảm thấy không thỏa đáng lắm, thế là vo tròn tờ giấy ném đi, ôm chú gấu bông vùi đầu ngủ.

***

Hôm sau tỉnh dậy, cô nghe thấy bà Cát đang cảnh cáo người hầu ở dưới nhà, nói là —— “Tối hôm nay trước khi ta về nhà, cất hết báo đi không được cho cô ba thấy”, rồi còn nói, “cũng không được để con bé nghe điện thoại”, trước khi ra cửa lại dặn thêm, “Đợi nó dậy thì nói với nó: trong trường gọi điện cho nó ở nhà nghỉ mấy ngày. Mấy ngày nay đừng để nó đi ra ngoài —— nhất là trước khi ta về.”

Đối với những chuyện này, Sở Vọng chỉ nghiêng đầu cười: “Có phải mọi người nghĩ mình yếu đuối lắm không?”

Dùng chân nghĩ cũng biết, có lẽ người cha “hờ” kia đã noi theo người cha của cô vợ lẽ của người ở Đông Bắc kia*, đăng báo gạch tên cô ra khỏi gia phả. Cô chẳng có chút cảm nhận gì về chuyện này cả, khó khăn lắm muốn đọc thơ văn hoa mỹ của người cha “hờ”, chỉ tiếc báo đã bị giấu nhẹm đi mất rồi.

(*Tác giả muốn nói đến chuyện Triệu Nhất Địch vì bỏ nhà theo Trương Học Lương mà khiến cha tức giận, công khai đăng báo đoạn tuyệt quan hệ cha con.)

Ở nhà rảnh rỗi đâm nhàm chán, chỉ có điện thoại ở Du Ma Địa gọi đến mời cô ra nhà.

Hai người ở cửa tiệm may mặc vẫn như trước, không có gì thay đổi, chỉ là trong tiệm thiếu đi vào thứ đồ, khiến nhìn vào trông như lầu không nhà trống.

“Tôi sắp về lại Pháp rồi, dùng tên ‘Luca’ đăng ký công ty phục sức ở Paris. Nếu như mọi chuyện thuận lợi, sau này tôi muốn cháu ủng hộ nước hoa và đồ trang điểm của nhãn hiệu Luca, mong cháu đừng từ chối.” Ngài Saumur nói.

“Đương nhiên là sẽ ủng hộ hết mình ạ.”

Ngài Saumur phải về Pháp, hợp đồng của bà Nguyễn với ông cũng đã đến kỳ, cũng phải theo chồng về Việt Nam một thời gian. Bà ấy biết ít tiếng Trung, có lẽ vì đọc báo hai hôm nay nên mới báo lại cho ngài Saumur. Sau khi nói lời tạm biệt, ông như muốn trấn an Sở Vọng, dịu dàng nói, “Nếu cháu cảm thấy ở Trung Quốc mệt quá, thì tôi và ngài Dupont hoan nghênh cháu đến Paris bất cứ lúc nào. Tôi nghĩ, với khả năng kinh tế của hai người chúng tôi, có thể đủ để một cô gái thục nữ phương Đông sống an nhàn ở Paris.”

Bà Nguyễn cũng cười nói, “Dì và chồng cũng hoan nghênh cháu đến Sài Gòn bất cứ lúc nào.”

Sở Vọng lần lượt ôm hai người, “Nhất định sẽ đến ạ.”

Họ đều là những người rất tốt. Nếu như xảy ra chiến tranh thật, ở Paris không hẳn là xấu.

Nhưng tốt nhất là chiến tranh đừng xảy ra.

Xuống xe trước biệt thự họ Cát, cầm lấy tờ báo ở thùng thư trước cổng, cô vừa đi vừa đọc.

Nhưng còn chưa tìm được tin tức liên quan tới mình thì đã đến dưới bậc thềm trong nhà. Có một chiếc xe đang đậu ở đấy. Bước lên bậc thềm, đi mấy bước vào vườn hoa, chợt thấy một bóng người cao ráo đứng dựa vào cột cẩm thạch, đang nói chuyện với Tuệ Tế.

Tuệ Tế nhìn thấy cô, “Anh Từ mới đến, tôi muốn mời anh ấy vào nhưng anh ấy lại nói sẽ ở đây chờ cô.”

Sở Vọng kéo cửa ra, đứng ở cửa nói, “Mời thầy vào nhà nói chuyện.”

“Chỉ mấy câu thôi, nhưng gọi điện thì không tiện lắm. Không lâu đâu, không cần vào.”

“Vâng ạ.”

Sau khi cho phép, Tuệ Tế cũng đáp lời rồi đi ra ngoài.

Đợi Tuệ Tế đi rồi, hai người im lặng không nói gì, bầu không khí chưa bao giờ lúng túng như lúc này.

“Lương Chương…”

“Đi đứng không tiện lắm,” Rồi anh bổ sung thêm, “Dù gì cũng là chuyện sớm muộn. Sớm hơn thì có Lise chăm sóc, em không cần lo lắng.”

“Thế thì tốt rồi.”

“Có muốn nghe tin tốt không?”

“Là gì ạ?”

Từ Thiếu Khiêm cười nói, “Bọn họ đã nhượng bộ rời. Mới chúng ta cử một nhóm người đến tô giới công cộng. Dù gì Hương Cảng cũng là nơi của người Anh, nếu đến nơi tay có thể vươn tới thì dĩ nhiên cũng sẽ yên tâm hơn.”

Cô gật đầu, “Đúng là một bước tiến lớn.”

“Ừ. Nên tôi đến đây là muốn hỏi em, có muốn đi Thượng Hải không?”

“Em…”

“Trước đây tôi vẫn cho rằng, chỉ cần che chắn em sau lưng thì nhất định sẽ không có chuyện gì. Nhưng mấy ngày qua tôi vẫn nghĩ, rốt cuộc làm như vậy có đúng không, tôi giấu đi tài năng của em, không ngờ vẫn khiến em gặp chuyện bất công ấy. Suy cho cùng vẫn là tôi sai. Em còn mạnh mẽ kiên cường hơn tôi nghĩ nhiều.” Từ Thiếu Khiêm mỉm cười, ngẩng đầu nhìn cô, “Có đi Thượng Hải không? Đi xa một chút, sớm ngày để tôi thấy được ánh sáng của em.”

“Thầy không sai… Em nghĩ em cũng không sai. Là do em đắc ý quá, quên đây là năm nào, quên đây là thời đại nào.”

“Nên sau này, em nhớ phải cẩn thận.” Suy nghĩ một lúc, lại cảm thấy vẫn không yên tâm, “Nhất định phải thận trọng.”

“Em biết rồi ạ.”

“Bài phát biểu về sao đặc, rất nhiều người em muốn gặp đều gửi lời mời đến Thượng Hải,” Từ Thiếu Khiêm nghĩ ngợi rồi nói tiếp, “Có điều ở đó không có Lương Chương, cũng không có tôi, nhưng đổi lại em sẽ có nhiều tự do hơn ở đây.”

“Thầy…” Sở Vọng ngẩng đầu lên, “Không đi Thượng Hải sao?”


“Ở Hương Cảng vẫn còn rất nhiều chuyện cần giải quyết. Bạn của Lương Chương đã liên lạc với phía Giang Tây rồi —— tuy khả năng không lớn nhưng nếu cần thiết, thân là nhân viên duy nhất trong dự án giỏi tiếng Trung, xuất phát từ thành ý, tôi cũng đành phải đi một chuyến.”

“Giang Tây sau này…” Sở Vọng suy nghĩ rồi nuốt lời vào bụng, nhắm mắt nói lạc đề, “Đến Giang Tây thì nên ăn mặc giản dị thôi, cũng đừng nói trong nhà làm gì. Người ta đang đấu nhau với địa chủ, dù gì cũng nên thể hiện thành ý.”

Tuy biết cô đang nói đùa, nhưng anh vẫn gật đầu cười, “Được.”

Nghĩ một lúc, cô lại gãi đầu hỏi, “Em đã qua kỳ thi rồi chứ ạ?”

Từ Thiếu Khiêm cười, “Sẽ gửi cho em sớm thôi, không cần phải lo.”

“Vâng ạ.”

Những gì cần dặn gì cũng dặn rồi, cần đùa cũng đùa rồi, giờ đột nhiên im lặng, bầu không khí trở nên lúng túng dị thường.

Từ Thiếu Khiêm nói khẽ, “Tôi thay mặt vợ mình xin lỗi em.”

“Không sao, em cũng không giận lắm.”

“Ừm.” Suy nghĩ một lúc, không biết vì sao lời nói lại dần ngắt quãng, “Nếu như, giả sử… Tôi nói là, nếu như, em không có lựa chọn tốt hơn, thì ở chỗ tôi, chắc chắn em sẽ được sống ổn.”

“Hả?”

“Không có gì, sẽ không có chuyện như vậy đâu.” Từ Thiếu Khiêm cười giễu, “Em có thể sống tốt hơn so với tôi nghĩ nhiều.”

Không đợi Sở Vọng hoàn hồn, anh đã nhẹ nhàng khép cửa lại. Cách một cánh cửa, Sở Vọng chỉ nghe thấy giọng của Từ Thiếu Khiêm: “Yên tâm đến Thượng Hải đi. Em không cần lo những chuyện khác ngoài Thượng Hải, mọi sự đã có tôi rồi.”

Và một câu nữa, “Tạm biệt.”
 

MUALARUNG91

Tác giả
Sưu tầm
Tham gia
25/8/19
Bài viết
4,780
Điểm cảm xúc
577
Điểm
113
Chương 76: Quyết định
“Cô con gái thứ ba trong nhà là Sở Vọng bị thói xấu phương Tây ảnh hưởng, dù đã có hôn ước nhưng vẫn không biết kiểm điểm tính nết hành động, tất cả là vì không được dạy bảo đến nơi đến chốn. Không có cách dạy con nên người, tự lấy làm xấu hổ, có thẹn với Tư tiên sinh, trước giải trừ hôn ước; nhưng vì còn cố chấp nghĩ mình không sai, nay đăng báo công khai đoạn tuyệt quan hệ cha con. Chấm hết.”

Vì tường trắng luôn có bụi rơi xuống nên bà Cát đã dùng dán giấy dán tường, đủ loại đủ kiểu, có loại chống thấm, in chìm hoa nhỏ, ánh sáng lấp lánh. Có điều thời tiết Hương Cảng quá ẩm ướt, mới dán giấy không bao lâu đã lại phồng lên. Thế là giấy dán tường chưa tới một quý đã có hoa văn mới.

Sở Vọng dựa vào tường đọc báo, không kìm được bật cười: “Không gả cũng không gạch tên? Nói như vậy, gả cho thầy Từ cũng không tệ.”

Bà Cát đứng cạnh nghe thế, hừ một tiếng, “Còn nói nữa à, cháu làm như có thật.” Rồi lại hỏi: “Người khác cô không quan tâm, cô chỉ muốn hỏi cháu: rốt cuộc chuyện này cháu nghĩ như thế nào?”

Sở Vọng biết bà Cát muốn lấy lại công bằng cho cô, nên mới hỏi cô có thật sự muốn giữ hôn ước với nhà họ Tư không, để bà áng xem nên làm thế nào. Cô cười nói, “Chuyện này theo lẽ cháu cũng không nói được, bởi đâu phải cháu làm chủ?”

Nghe cô nói thế, bà Cát không nhịn được nhìn cô: bộ sườn xám lụa xanh lá trên người vẫn chưa thay ra, phía sau là giấy dán tường in hoa hồng khảm vàng nạm xanh, đứng gần chỉ có thể nhìn thấy được những sợi tơ, không nhìn ra bóng dáng hoa; bên cạnh chỗ con bé đứng là máy điện thoại bằng đồng treo tường. Trời ngả bóng hoàng hôn, nắng chiều vàng ở bên ngoài hành lang xuyên qua cành lá chiếu vào, trong dải sáng hắt bóng lên tường, Sở Vọng mỉm cười tựa lưng vào tường.

Không biết vì sao, bà Cát lại chợt nhớ đến căn nhà cũ mờ nhạt của nhiều năm trước. Trong nhà cao cửa rộng, người chồng suốt ngày ở bên ngoài phòng ngoài, một năm không về nhà mấy lần, dù có về cũng không muốn gặp người ấy mà luôn đi thăm mẹ trước, sau đó mới lấy lý do gặp con trai, nhưng cũng chỉ ngồi trong phòng người ấy một khắc rồi đi ngay. Không lâu sau bà cụ ra đi, thậm chí vì không muốn gặp người ấy mà đến con trai ông ta cũng không gặp. Về sau nữa, ông ta dẫn phòng ngoài bụng đã lớn quỳ xuống cạnh người ấy, muốn người ấy nhận nuôi đứa con trong bụng.

Bà chỉ hỏi người ấy một câu: “Vì sao lại gả cho người này?” Lúc đó người ấy cũng nói: “Chuyện này, chị vốn không làm chủ được.” Lúc mỉm cười, trông người ấy hiền từ yếu ớt hơn bất cứ ai. Nhưng đến hôm sau, ngay tới bà cả của phó bí thư nghị viện Nam Kinh cũng biết chuyện. Mời người có tiếng tăm ở Giang Nam đến nhà làm chứng, khoét cục thịt trong lòng Lâm Du đi, làm xong những chuyện đó, người ấy ngồi trên giường mỉm cười đoan trang rạng rỡ —— người ấy có chỗ khôn khéo lợi hại của mình, có lẽ cũng vì thế nên mới khiến Lâm Du hận sâu như vậy.

Lâm Du là người của tiền triều, năm ấy thi đậu tiến sĩ, đúng lúc chiến tranh Thanh – Nhật vừa kết thúc nên chi tiền đến Nhật du học, năm thứ hai học hành trở về thì lại đúng lúc thời thế biến chuyển*. Nếu không phải như thế thì chắc chắn sẽ bị người ta mắng là kẻ phản bội. Rồi nhờ phúc của con bé trước mặt, cùng Tư Ưng cộng sự mười hai năm, sau trận thảm sát Nam Kinh lại kịp thời đi châu Âu lánh nạn. Tư Ưng không thoát được, nhưng ông ta thì có thể.

(*Muốn nói đến việc Trung Quốc phong kiến chuyển sang Trung hoa Dân quốc.)



Đúng là quân tử phúc mỏng, tiểu nhân sống dai.

Cuộc sống của ông ta những năm qua vô cùng thoải mái. Trước đó còn nể mặt con bé Sở Vọng nên mà bà mới không làm bẩn danh tiếng của nhà họ Lâm bọn họ.

Nhưng hôm nay, cũng đã đến lúc để ông ta té ngã rồi.

Bà Cát nhíu mày.

Trước đó cũng có lời đồn về chuyện với vị họ Từ kia, bà cũng tìm người nghe ngóng: cơ thể cô Từ không sống nổi mấy năm, còn họ Từ kia lại rất tốt; hai năm qua đi, đàn ông hai mươi bảy tuổi góa vợ luôn có sự phong độ trưởng thành, còn thu hút cả những người chưa thành thân. Cũng vì thế nên bà Cát cũng như những người ngoài kia, tưởng cháu mình thật sự tình đầu ý hợp với anh ta, vì vậy mà mới nhắm một mắt mở một mắt không vạch trần. Không ngờ tính khí con bé lại rắn rỏi như thế, thế nên bà cũng yên tâm vui vẻ.

Còn cậu Tư kia thì sao? Nếu cậu ta thật lòng muốn cưới thì dù không có hôn ước cũng không sao; và cũng như thế, nếu con bé thật lòng thì chắc chắn sẽ cố gắng.

Chỉ là với tình hình hôm nay, bà Cát đã nhìn rõ rồi, nên cũng biết rõ điều đó là không thể.

Nghĩ ngợi một hồi, bà gọi chú Henry đến, dùng tiếng Anh dặn dò: “Gửi điện báo đến chỗ luật sư Thẩm ở Thượng Hải, nói với ông ta, tôi có một bản di chúc muốn mời ông ta đứng ra đại diện trao đổi.”

Bà Cát vừa dứt lời thì điện thoại đổ chuông, tiếng chuông ở bên tai cô như gọi hồn vậy. Cô nhấc máy, đầu dây rất ồn ào, Chân Chân nói bằng giọng mũi, sốt ruột hỏi: “Rốt cuộc là thế nào rồi?”

Sở Vọng biết cô ấy bị bà Kiều giám sát không được tự do, nên mới mượn điện thoại trong tiệm tạp hóa ở bên ngoài gọi điện. Cô cười nói: “Em sẽ đi Thượng Hải.”

“Hả? Cha em làm ra chuyện như vậy ở trên báo, nói không chừng mấy tháng nữa đến du học sinh châu Âu châu Mỹ cũng sẽ biết, em dù em có chạy đến Java cũng vô ích thôi.” Rồi cô nàng hạ thấp giọng, “Dì Cát không làm gì à?”

Sở Vọng bật cười, nói, “Em còn sợ ông ấy làm ồn chưa đủ đây này. Cô út ấy à… có lẽ cũng muốn như vậy.”

Một chuyến xe điện ở đối diện ầm ầm chạy qua, Chân Chân nghe không rõ, “Gì cơ?”

“Không có gì. Em có chuyện thật, phải đến Thượng Hải.”

“Bao giờ đi?”

“Mấy hôm nữa thôi.”

“Thượng Hải cũng tốt. Cái đất Hương Cảng nhỏ bé này, vừa không có gì hay ho cũng chẳng có chuyện mới mẻ.” Dừng một lúc rồi cô ấy nói tiếp, “Ngày mai chị thi rồi. Đợi hai tuần nữa thi xong, chị nhất định sẽ về tìm em chơi.”

“Thi cho tốt vào, em đợi chị đến.”

Chân Chân bị cảm nên sụt sịt liên tục, ở đầu dây truyền đến tiếng cười kìm nén của Diệp Văn Dữ, ngay lập tức có hai tiếng *bùm bụp* truyền đến, có vẻ Chân Chân đánh anh ta mấy cái, người bên kia la oai oái. Chân Chân vừa đánh vừa nói: “Được rồi, hai bọn chị ra ngoài ăn đồ Quảng Đông, trên người chỉ còn lại ít đồng, thôi không nói chuyện với em nữa. Hẹn gặp lại ở Thượng Hải.”

Cúp máy, Sở Vọng nhớ đến hai người đáng yêu kia thì lại vui vẻ. Cô mỉm cười, không hề phát hiện bà Cát đã dặn dò xong quay về, đứng trong bóng tối nhìn cô chăm chú: “Định đi Thượng Hải à?”

“Vâng. Cháu đang định nói thì cô đi ra ngoài mất tiêu.”

“Cháu trách cô hả?” Bà Cát trừng mắt nhìn cô. Hai cô cháu đứng song song dựa vào tường, mỗi người một tư thế một khí thế, chẳng biết từ lúc nào mà dần giống nhau đến ba phần.

Chỉ có điều, cả hai đều không nhận ra.

Trầm ngâm một hồi, cuối cùng bà Cát cũng thỏa hiệp, “Ừ. Thượng Hải đất lớn, quen biết nhiều người cũng tốt.”

Ngày hôm sau, vé thuyền và thư mời được gửi đến cùng nhau. Theo lý thì hạng mục của bọn họ vẫn thiếu tiền, tuyệt đối không thể cho cô ưu đãi được. Nhưng tấm vé trong tay đây vẫn là khoang hạng nhất.

Bà Cát chẳng nói gì nhiều, chỉ chủ động thu dọn đồ đạc cho cô.

Di Nhã cũng giống Chân Chân sắp thi, vốn định đến một chuyến nhưng bị ngài Tưởng ngăn cản, đích thân ông đến biệt thự viếng thăm thay. Nhưng nói chuyện chưa được mấy câu thì lại có điện thoại gọi đến tìm Sở Vọng.

Là Từ Văn Quân.

“Em gọi điện thoại đến chào tạm biệt chị. Chú ấy định gửi em cho một người bạn ở Anh để học trung học… Cho nên bảo thím đừng vọng tưởng muốn nhận em làm con thừa tự.” Cậu thấp giọng nói, “Mấy hôm trước chú tức giận trở về, hai hôm nay định đưa em đi, thím đòi tuyệt thực nhưng chú vẫn làm như không thấy. Còn nói với thím, ‘nếu muốn chết thì không bằng chết sạch sẽ vào, xuống hoàng tuyền làm cô hồn dã quỷ không ràng buộc, không phải còn vui vẻ hơn sao?’, thật sự dọa bọn em sợ hết hồn.”

Cô không đọc Tôn Tử, nhưng vẫn có nghe một câu thế này:

“Tham sống sợ chết có thể bị bắt.”

Cô cười đáp.

***

Sở Vọng đứng bên này nghe điện thoại, còn ở bên kia bà Cát và ngài Tưởng trò chuyện chờ cô.

Tuệ Tế và Mật Thu chỉ huy người hầu dọn dẹp hành lý cho cô, chạy tới chạy lui rầm rầm ở ngoài hành lang, bận tới nỗi quay mòng mòng. Cuối cùng thu dọn được bốn năm chiếc vali đặt ở trên tầng hai, ngài Tưởng đứng ở cửa thấy thế, hỏi: “Chị Cát không đi cùng à?”

“Con bé đi để trải nghiệm những điều mới, trưởng bối như tôi đi theo thì gò bó nó lắm.”

“Chị yên tâm sao?”

Bà Cát suy nghĩ, cau mày không nói.

“Đã chuẩn bị ổn thỏa cho con bé ở Thượng Hải chưa?” Ngài Tưởng thấy thế thì cười bảo, “Đợi Tiểu Ngũ thi xong, tôi và cô ấy sẽ về Macao một chuyến, mấy tháng sau mới đến Thượng Hải được. Nếu chị Cát bằng lòng, tôi có thể nhờ người chăm sóc cô ba. Hay chị đã có sắp xếp khác rồi?”

Ngài Tưởng nhắc như vậy, bà rất lo mấy năm nay cháu mình được chiều quen rồi, ăn mặc chi tiêu không tiết kiệm, nên gần như muốn điều toàn bộ người hầu đầu bếp cấp cao trong nhà đến Thượng Hải; rồi lại gọi điện đến mấy người bạn làm cảnh sát ở tô giới Pháp, nhờ người để mắt giùm. Thế nhưng vẫn chưa yên tâm. Mấy lần bà gọi Mật Thu đến, nha đầu này được một tay bà dạy dỗ, biết lễ biết điều lại hiểu quy củ, bà rất muốn bảo Mật Thu đi theo Sở Vọng đến Thượng Hải.

Ngài Tưởng vừa nói như vậy, bà lại có ý định đó. Lại gọi Mật Thu tới, ngài Tưởng và Mật Thu cùng mỉm cười.

“Bà Cát đúng là hao tâm tổn phí.”

Mật Thu nói: “Bà cứ để em đi theo cô ba đi. Cô ba xưa nay tự do quen rồi, nếu không đồng ý cho những người rảnh rỗi như bọn em tới lui xung quanh thì em sẽ làm nhiều ít nói.”

Bà Cát cúi đầu nghĩ ngợi, bất chợt nghĩ đến điều gì đấy. Bà nghiêng đầu, nhìn ngài Tưởng bằng ánh mắt trách móc.

Ngài Tưởng cũng đã nghĩ đến điều đó, chỉ là chuyện này không liên quan tới ông nên khó mà nói được. Vì Bà Cát quá lo lắng nên suy nghĩ rối loạn, ông cũng chỉ chỉ điểm một hai mà thôi.

Bà Cát nhìn ngài Tưởng mỉm cười, chỉ chốc lát đã sáng tỏ.

Mật Thu xoay người toan đi chuẩn bị, thì bà Cát đã vội gọi cô lại:

“Đợi đã… Mật Thu, em không cần đến Thượng Hải nữa.”

Mật Thu do dự, nhưng rồi vẫn đáp: “Vâng, thưa bà.”

Bà Cát còn nói, “Em bảo Henry gửi điện báo đến cục cảnh sát ở hội đồng thành phố tô giới công cộng, tìm cậu Tạ.”

Mật Thu thưa vâng, im lặng chờ tiếp.

“Trên điện báo viết: thứ Sáu tuần sau cô ba sẽ đến Thượng Hải, bảo cậu ta chăm sóc tốt cho tôi, nếu thiếu một cọng tóc thì cứ liệu đợi tôi hỏi tội.”

Ngài Tưởng ngồi cạnh nghe thế, cười nịnh nọt, “Cậu Tạ chuyên ăn nhậu chơi bời, giờ lại có chức vụ tuần tra. Yêu ma quỷ quái ở Thượng Hải, bất luận là Trung hay Tây thì nhất định cũng không dám làm gì cô ba. Đến Thượng Hải tìm cậu ấy, dù có chuyện cũng hóa thành không. Vẫn là chị Cát thông thái.”

***

Ngày tháng Hai lạnh lẽo ở Thượng Hải, một cuộc điện thoại đã đưa Tạ Trạch Ích từ sân huấn luyện về cục cảnh sát ấm áp. Anh hứng gió cả ngày trời, nay vừa được ấm áp là cả người run lên. Cúi chào nhận điện báo từ cảnh sát trưởng, còn chưa kịp đọc thì một đám thanh tra chỉ huy giám sát trong cục đã nhìn anh chằm chằm.

Anh bật cười: “Điện báo gì quan trọng lắm à?”

Lại cúi đầu đọc, bên trên viết: bé ba thứ Sáu đi thuyền đến Thượng Hải, mời cậu để mắt đến. Nếu gặp chuyện gì thì cứ cẩn thận da cậu.

Tạ Trạch Ích kiểm tra điện báo, mấy cái đầu to đầu nhỏ trong phòng vẫn nhìn anh chăm chú. Điện báo đến cục không phân biệt công hay tư, mà ở đây lại có không ít người biết tiếng Trung, thế là tờ điện báo này đã truyền khắp tay mọi người.

Anh ho khan, “Trong nhà sai đi làm chuyện không đâu ấy mà.”

“Sai làm chuyện gì?” Trưởng trinh thám cười tới mức râu quai nón run lên, vỗ vào vai anh, “Có phải việc gì vất vả không?”

“Này…” Tạ Trạch Ích nghĩ ngợi. Có lẽ vì gió rét bên ngoài đã khiến đầu óc đóng băng, nhất thời không tìm được từ để định nghĩa chuyện không đâu này.

Anh lắc đầu đi ra ngoài, không biết là ai trắng trợn đã dán giấy quảng cáo xà phòng ở cửa, bên trên vẽ một chiếc lồng chim nhốt một cô gái thục nữ phương Đông.

Tạ Trạch Ích không nhịn được bật cười, thầm nghĩ: … Hoàng yến sổ lồng ư?
 

MUALARUNG91

Tác giả
Sưu tầm
Tham gia
25/8/19
Bài viết
4,780
Điểm cảm xúc
577
Điểm
113
Chương 77: Khói bếp (1)
Ngài Tưởng và bà Cát đưa tiễn cô đến bến tàu Queen, đội ngũ đưa tiễn vô cùng rầm rộ. Nhưng đến khi thuyền rời bến mà cả buồng hạng nhất chỉ có mỗi một mình cô, ngay tới mấy cô gái Nhật Bản hàng xóm cũng rất ngạc nhiên.

Không có nhiều lời từ biệt, cũng không có đau buồn chia ly. Sở Vọng cho rằng vì ngài Tưởng và bà Cát thường đến Thượng Hải nên mới như vậy, nhưng không ngờ là hai người ấy đã có thu xếp khác ổn thỏa hơn.

Hai người bọn họ chỉ nói: “Sẽ có người đón cháu ở Thượng hải.” Nhưng không nói rốt cuộc là ai đón.

Lần này đi là thuyền của Nhật, dịch tên ra khá văn vẻ, gọi là Tuyết Thương Hoàn. Lần đầu tiên đến Hương Cảng cũng là thuyền Nhật, có điều lúc ấy ở trong phòng lớn nên không cảm thấy gì; bây giờ ở phòng đơn, thứ gì cũng be bé: trong nhà vệ sinh be bé có bồn cầu màu trắng cùng chậu rửa mặt màu đồng bạc, sau chiếc ghế sofa nhỏ sơn đen là một bức tường, kéo ra sẽ là một chiếc giường. Đồ dùng làm bằng gỗ với màu chủ đạo là hai màu đen trắng, khăn trải giường trắng tinh tươm, một đầu que gỗ được đập dập làm thành bàn chải đánh răng, guốc gỗ, quần áo ngủ cũng được chuẩn bị đâu vào đấy; tuy nhỏ nhưng rất biết lợi dụng không gian, bởi vậy mà trông không hề chật hẹp chút nào. Nhỏ nhưng thoải mái, cùng với âm điệu tiếng Nhật nhỏ nhẹ của cô gái phòng bên đã dễ dàng ru ta vào giấc ngủ.

Thuyền vừa xuất phát lúc chiều tối, dừng ở Hương Cảng, có rất nhiều người phương Tây lên thuyền. Lúc nhân viên Đông Dương đến mời cô đi ăn cơm, cô nghe thấy người châu Âu tuấn tú phòng bên dùng tiếng Anh nói chuyện với cô gái người Nhật, còn cô gái kia thì trả lời lại bằng tiếng Nhật. Cô cảm thấy lạ, tới khi cẩn thận nghe kỹ thì mới nhận ra, té ra đó là tiếng Anh kiểu Nhật, chứ không cô còn nghĩ từ khi nào mà tiếng Anh và tiếng Nhật có thể trao đổi hiểu nhau như vậy.

Trên đường đi ăn về lại đụng người kia, anh ta phô trương đứng trước cửa nói chuyện, tay giơ lên, nhìn là biết người Ý giỏi tán tỉnh. Nghe thấy hành lang có tiếng động, anh ta quay người lại, quan sát cô một lượt từ đầu tới chân, tưởng cô cũng là bạn của mấy người trong phòng kia nên ra vẻ thân thiện chào “konichiwa”. Sở Vọng vờ như không hiểu, anh ta lại đổi thành “chào cô” bằng tiếng Quảng. Nhưng cô còn chưa trả lời, thì cánh cửa bên cạnh lập tức đóng lại cái rầm, suýt nữa đã làm gãy mũi anh ta. Sở Vọng cảm thấy vui vui, cười khoát tay: “Notte!”* Rồi cũng đóng của lại, rửa mặt chải đầu đi ngủ.

(*Notte trong tiếng Ý nghĩa là màn đêm, có lẽ tác giả muốn nói là “buona notte” nghĩa là chúc ngủ ngon.)

Thuyền chòng chành làm cô mơ màng thiếp ngủ, vừa ngủ một giấc đã đến Thượng Hải. Cô choàng tỉnh, mặc kệ đồ đạc đi ăn cơm trước. Trước đó ngài Tưởng đã nhờ người ở trên thuyền, nên khi thuyền còn chưa cập bờ, các nhân viên phục vụ quan tâm chăm sóc cô rất chu đáo nhiệt tình, còn ưu tiên chuyển hành lý cô xuống. Lúc đứng trên boong lại gặp người Ý kia —— thời gian hai ngày đủ để anh ta “thua keo này bày keo khác”, lại ôm ấp một mỹ nhân phương Đông khác, cũng xem như không uổng công chuyến này. Đằng sau vang lên âm thanh quen thuộc, Sở Vọng ngoái đầu, mấy cô gái Nhật Bản nọ cũng nhìn thấy người Ý kia, bỏ qua hiềm khích trước, hai người họ nhìn nhau cười đầy hiểu ý. Trong tay cô gái ấy cầm một tấm bản đồ, ái ngại hỏi: “Anh có rành Thượng Hải không?”


“Đi Hồng Khẩu à?”

Trái lại cũng khá rành, “Mùa đông ở Kobe lạnh quá, Singapore ấm áp hơn. Mới được nghỉ nên đi thuyền đến Thượng Hải chơi, cả cha và anh đều đang ở Hồng Khẩu.”

Thì ra là học sinh thời đại mới được nghỉ đông, kết bạn ra ngoài du ngoạn, mọi thứ đều mới mẻ.

Cô gái người Nhật lại hỏi: “Người nhà cô cũng ở Thượng Hải hả, hay là từ Hương Cảng đến Thượng Hải chơi?”

Cô ngạc nhiên, quay đầu cười nói, “Đi công tác.”

Các cô gái kia kinh ngạc: “Nhìn cô nhỏ thế này mà!”

Có vài quân nhân Nhật Bản thuộc đội thủy quân lục chiến chưa thay quân phục, đứng cách đó không xa gọi tên con gái và em gái. Cô gái kia chào tạm biệt cô, chen qua đám đông, chạy đến ôm chầm lấy người thân đã lâu không gặp.

Mọi người kẻ đón người đưa tựa như một chiếc đèn kéo quân, như người trong kịch; chỉ mình cô là khách đứng xem. Nhân viên xách vali cho cô không biết ngoại ngữ nên dọc đường đi chỉ toàn im lặng, trưng ra gương mặt lạnh băng. Thượng Hải lạnh hơn Hương Cảng nhiều, cô hối hận vì chỉ mặc mỗi áo khoác dài bên ngoài sườn xám. Gió lạnh thổi qua bắp chân khiến cơ thể lạnh cóng, côc siết chặt quần áo, hà hơi thổi sương mù, đi theo mặt lạnh nhấc bước về trước đầy vô định, cũng không biết có phải như được đám lính quân bài dẫn đến xứ sở diệu kỳ đầy tàn khốc của Alice không.

Suy nghĩ rời rạc, đầu óc bị đóng băng tới mức không nghĩ được gì, không hề phát hiện mấy chiếc vali đã được đặt xuống đất, các nhân viên cũng đã rời đi. Cô nhìn mấy chiếc vali trên đất, ngẩn người ngơ ngác, nhất thời quên mất mình đang ở đâu.

Mỗi lần một mình đi tới một nơi mới, làm bạn với cô chỉ có hai chiếc vali to tướng rộng 28 tấc. Xuống máy bay, đẩy hành lý ra cửa quốc tế, những người đồng hành đều có bạn, chỉ một mình cô vẫn lẻ loi —— những lúc như ấy cũng thường thường ngẩn ngơ như vậy.

Thậm chí Sở Vọng còn không phát hiện ra có người đã đứng cạnh đợi cô một lúc lâu. Lúc này, người ấy đi tới vỗ nhẹ vào tay cô, cười hỏi: “Đứng đực ra đấy làm gì?”

Nói rồi cũng không đợi cô hoàn hồn, rất tự nhiên xách mấy chiếc vali lên xe.

Tận khi ngồi vào xe thì cô mới hoàn hồn, nhìn chằm chằm người bên ghế lái với vẻ khó tin: “Anh Tạ?”

Tạ Trạch Ích chỉ nhìn đường chứ không nhìn người, nhưng cũng biết cô đang nghĩ gì, trong chớp mắt như biến thành người bạn quen biết nhiều năm, thuận miệng hỏi: “Thượng Hải có lạnh không?”

“Lạnh hơn Hương Cảng.” Cô cúi đầu ngẫm nghĩ, “Sao anh Tạ lại tới đây?”

“Không thể không mời mà tới được hả?” Vẫn là phong cách như trước.

Sở Vọng nhớ lại vẻ mặt của hai người khi ở bến tàu Queen, lúc này mới bừng tỉnh, cười bảo, “Sao dám làm phiền anh Tạ chứ.”

“Tôi luôn sẵn lòng cống hiến sức lực vì các quý cô.” Anh từ từ lái xe, “Ăn đồ Quảng không?”

“Ăn ở trên thuyền rồi, giờ tôi không đói.”

“Từ Hương Cảng đến Thượng Hải lại đi ăn đồ Quảng, đúng là ngớ ngẩn.” Rồi anh lại hỏi, “Bình thường cô ba thích ăn gì?”

Sở Vọng đáp, “Không đói thật mà.”

“Đi đường vất vả, không ngon miệng cũng là chuyện thường. Tôi biết một đầu bếp có thể làm được món Bắc Kinh Quảng Đông Thượng Hải, ăn cũng không tệ. Trước cứ quay về nghỉ ngơi cho lại sức đã, tôi mời anh ta đến, mỗi loại làm mấy phần, đợi em dậy thì ăn.”

Sở Vọng bất lực cười, “Thôi thì đặc sản đi vậy.”

Thấy cô buồn ngủ, Tạ Trạch Ích không nói gì thêm. Từ Bến Thượng Hải lái xe vào tô giới Pháp, xe chạy êm ru trong im ắng, bên trong xe chỉ có tiếng hô hấp cực nhẹ.

Đợi tới lúc tỉnh dậy, hành lý đã được Tạ Trạch Ích xách lên lầu. Cũng không biết cô đã ngủ bao lâu, lúc này trời đất tối sầm, chỉ còn lại những ngọn đèn hai bên con đường chật chội mờ nhạt.

Anh đứng ngoài gõ cửa xe, cười nói, “Xuống ăn gì đi.”

Đẩy cửa xe đi ra, Sở Vọng theo Tạ Trạch Ích bước vào cổng nhà trọ. Cô đưa tay sờ bụng, lúc này đã đói thật rồi. Đi đến bên ngoài cánh cửa rào màu cam trước bức tường xanh, nhấn chuông gọi thang máy, nhưng đợi mãi vẫn không thấy thang máy xuống. Sở Vọng không hiểu nổi cấu tạo thang máy thời dân quốc, hai người cứ thế đứng đợi dưới ngọn đèn sợi đốt u ám một lúc lâu, đợi mãi làm Tạ Trạch Ích bật cười.

“Đợi thang máy thì đủ chợp mắt làm một giấc luôn rồi.” Đưa ra đúc kết xong, anh xoay người đi ra ngoài, quay đầu lại mời cô đi trước, “Đành phải đi cầu thang bộ vậy.”

Một đường từ sảnh đến cầu thang là những bức tường sơn màu xanh lá cây, thảm vàng đỏ, giống như khách sạn cũ vẫn còn tồn tại trên đồi Montmartre. Mọi thứ đều mới mẻ… Từ cầu thang đi lên, trước mỗi cánh cửa màu nâu vàng đều được dát một tấm kính màu xanh nhạt, mơ hồ hắt ra ánh sáng.

Có tiếng trẻ con khóc ầm ĩ vọng đến từ cánh cửa bên này.

“Là một gia đình người Xô Viết. Một cụ bà cùng một cặp vợ chồng và ba cậu bé tóc đỏ.” Chỉ hai câu đã tóm tắt gia đình người ta, cùng với đặc thù trong tòa nhà này —— là sinh quyển của một đám đông tiểu tư sản, có khả năng kinh tế cao trong thành phố này.

“Đến ba đứa bé người Xô Viết, chắc hai vợ chồng phải chịu đựng nhiều lắm.” Sở Vọng thở dài.

Đi lên tầng nữa thì lại nghe thấy tiếng ra-đi-ô, khúc hát kịch như ẩn như hiện truyền tới —— “Thiếp đây có một mối tình, gảy đàn cất tiếng mời người cùng nghe.”

“Ừm. Ở đây đúng là Thượng Hải rồi.”

“Nếu đây không phải là Thượng Hải, thì cô ba nghĩ tôi lừa em đến đâu?”

Lúc này là ở thời kỳ người châu Âu sửa nhà xây nhà, giữa tầng và tầng rất cao, bình thường phải trên bốn mét, hoặc thậm chí là năm mét. Nên cầu thang giữa hai tầng kề nhau rất cao. Lại lên một tầng nữa, đột nhiên ánh sáng tối hẳn, mỗi một bậc cấp đều chật hẹp, cô đi giày cao gót suýt nữa đạp hụt.

Tạ Trạch Ích đi đằng sau đỡ lấy khuỷu tay cô, đợi cô đứng vững thì im lặng đi lên trước. Sở Vọng nhìn không thấy gì, phải lần sờ từng bậc từng bậc một để đi lên, cầu thang vốn quá dài nay lại như đường lót gạch trải giữa không trung.

Thi thoảng lại nghe thấy tiếng của Tạ Trạch Ích từ xa truyền đến, đi đôi với tiếng kim loại rất nhỏ vang lên: “Đèn ở tầng này hay bật không lên, ngày mai tôi sẽ đi mua bóng đèn mới thay cho em.” Rồi chợt anh mở một cánh cửa ra, bật sáng đèn trong phòng lên để cô đi lên thuận lợi. Tạ Trạch Ích cười nói, “Có phải thấy cầu thang dài lắm không?”

“Phòng ở tầng này đều thế cả à?”

“Ừ.” Anh gật đầu, “Người Pháp xây nhà toàn tùy tâm, chắc hôm đó tâm trạng tốt nên mới xây tầng này cao như vậy.”

“Cao thì tốt ở đâu?”

“Cũng chẳng có gì. Chỉ là nếu về muộn quá thì đành phải leo cầu thang. Rồi đèn bị hư, lúc đi lên sẽ có cảm giác dài đằng đẵng…”

“Thì những lời tâm sự nói ra sẽ thật lòng hơn à?” Sở Vọng đột nhiên nhớ đến “Tâm Kinh”.


“Tự mình tâm sự với mình? Như thế thì lạ quá.” Tạ Trạch Ích cười cười, “Chẳng qua là có nhiều chuyện muốn nói hơn thôi.”

Sở Vọng cũng cười, “Tôi tưởng anh Tạ nói chuyện như thế là do bẩm sinh mà ra.”

“Thì ra hình tượng của tôi trong lòng cô ba là thế ư?”

Biết người này hay nói những câu chặn họng người khác nên cô chỉ cười cười, xoay người đi vào phòng.

Lần đầu tiên Sở Vọng kiểm tra nhà mình, có một sức sống mới mẻ. Tạ Trạch Ích đứng ngoài ngã rẽ hành lang, không đi tới mà bật đèn hành lang cho cô lên rồi quay người đi vào bếp.

Ngôi nhà đã được trang hoàng đâu vào đấy. Bởi vì được sửa vào mùa hè nên tông màu ngọc lam trông lạnh hơn hẳn vào mùa đông lúc này. Đi qua. đồ gia dụng bằng gỗ đào khiến cô rất bất ngờ, mang lại hơi ấm xa xưa; dây điện và dây đồng đều được sửa sang lại theo ý cô. Bước vào cửa là một căn phòng khách nho nhỏ, đi vào trong là phòng bếp; ở bên kia hành lang dài có ba cánh cửa: một phòng tắm có bồn tắm, đi vào trong là hai căn phòng ngủ.

Tạ Trạch Ích đã ở đây trước cô một thời gian, vậy mà vật dụng trong nhà đều mới toanh, không dính một hạt bụi, nhưng không phải là kiểu sạch sẽ lạnh lẽo của nhà mới không có hơi người, mà là sự sạch sẽ tinh tươm có khói lửa ấm áp.

Đến lúc đi ra, trên bàn được dọn đầy mấy món thức ăn đã hâm sẵn: thịt kho, thịt viên, sủi cảo hấp và rau xanh.

Tạ Trạch Ích đứng ở cửa, đối diện với ánh mắt cô, lập tức cười hỏi, “Nhìn tôi như thế làm gì?”

“Không thể cảm động được sao?”

“Cũng không phải do tôi nấu, không cần cám ơn tôi làm gì. Còn tôi lại không biết đây là chỗ của ba, nên phải là tôi cám ơn em mới đúng.” Nói đoạn, anh dặn dò, “Nghỉ ngơi cho khỏe đi.”

Thấy anh sắp đi, cô hỏi, “Vậy còn anh Tạ nghỉ ở đâu?”

“Tạm thời ở ký túc xá trong cục đã. Đợi tìm được nhà trọ, tôi sẽ nhanh chóng chuyển đồ đi.” Nghĩ ngợi một lúc, trước khi đi anh bổ sung thêm một câu, “Gần đây nơi này rất an toàn, em không cần phải lo lắng.”
 

MUALARUNG91

Tác giả
Sưu tầm
Tham gia
25/8/19
Bài viết
4,780
Điểm cảm xúc
577
Điểm
113
Chương 78: Khói bếp (2)
Cô nhìn hành lang dài và cầu thang chìm trong bóng tối sau lưng Tạ Trạch Ích, không nói năng gì.

Tạ Trạch Ích ngoái đầu nhìn lại theo ánh mắt của cô, “Ban ngày tôi sẽ ở đây.” Nghĩ ngợi một lúc, anh lại nói tiếp, “Chưa dùng bồn tắm.” Trước khi đi lại bổ sung thêm một câu nữa: “Cũng không có phái nữ ghé đến.”

Bữa tối cô ăn rất ngon, đang định khen anh ta mấy lời thì đột nhiên lại nghe thấy ba câu này, cứ như thể cô là bạn gái mới quen chuyên môn ghen tuông vậy. Cô múc một thìa cháo đút vào miệng, quả thực bị nghẹn nuốt không trôi. Nhưng thực sự đồ ăn trên bàn rất ngon khiến cô ăn không dứt miệng, thế là cứ trơ mắt nhìn Tạ Trạch Ích rời đi mà chẳng nói được gì.

Tắm nước nóng gột rửa khó chịu quanh thân, ngủ một giấc đến tận lúc trời hửng sáng.

Bỗng dưng không còn ai phục vụ ăn mặc, cô vẫn chưa quen lắm. Mơ màng đi vào phòng ăn, trên bàn có một đĩa lạp xưởng gan ngỗng và một ly trà. Lại gần mới ngửi thấy, thì ra là trà hoa lài ngọt ngào, vẫn còn vương hơi ấm. Còn đang thắc mắc thì bất chợt nghe thấy trong phòng bếp có tiếng nước nhỏ tí tách. Ngoái đầu nhìn lại, không có bóng dáng một ai, chỉ có một chiếc máy pha cà phê tự động đang pha cà phê.

Bên ngoài có giọng nữ đang nói chuyện:

“… Chắc chắn là cha ổng muốn ổng sống đàn ông hơn. Tôi mà nổi giận với ổng ấy hả, là ổng lại khuyên tôi đừng nổi giận, còn đưa trà tới nữa, kiểu này thì giận gì được…”

Tiếp theo sau là giọng nam trung nói tiếng Quảng quen thuộc: “Cô Trịnh tốt tính quá.”

Cô cầm ly trà hoa lài, kéo lê đôi dép đi ra cửa, đập vào mắt đầu tiên là Tạ Trạch Ích toàn thân màu đen. Anh đang đứng trên một chiếc ghế nhỏ cẩn thận thay bóng đèn, thấy cô đi ra thì cũng chẳng ngạc nhiên, chỉ hỏi: “Ngủ ngon không?”

“Cũng không tệ.”

Đứng dưới cầu thang là một quý cô trông khá trẻ tuổi, mặc áo ngủ tơ lụa hoa hồng, tuy có thắt đai lưng nhưng trông khá lỏng lẻo. Mái tóc uốn xoăn xõa tung, vừa cầm lược chải đầu vừa trò chuyện câu được câu với Tạ Trạch Ích, không có chút nào gọi là giữ ý. Đúng là một người phụ nữ xinh đẹp.

Sở Vọng mỉm cười thân thiện với người ta, cô gái kia lập tức đổi sang gương mặt tươi cười xán lạn: “Ái chà, tôi còn thắc mắc sao cậu Tạ lại dậy sớm thế. Thì ra là bạn gái đến Thượng Hải, đàn ông con trai cứ đi chơi với bạn gái đi, đèn không sáng thì cứ bảo anh Trịnh sửa là được.”

Sở Vọng cười nói: “Không phải…”

Tạ Trạch Ích cười đáp: “Cám ơn cô Trịnh quan tâm. Đợi lát nữa sửa xong, tôi sẽ dẫn cô ấy đi chơi.”

Cô Trịnh thân thiết hỏi: “Em đến Thượng Hải bao lâu rồi?”

“Mới tối hôm qua.”

Cô Trịnh thấy cô mặc áo lông màu tím với quần lụa màu xám nhạt thì nói: “Em phối đồ hợp lắm, vừa trang nhã lại vừa đẹp. Trai tài gái sắc, trước đây tôi còn muốn giới thiệu bạn gái giúp cậu ấy nữa chứ. Ái chà, nguy hiểm quá nguy hiểm quá.”

Sở Vọng sờ trán, cười khổ gật đầu phụ họa: “Là anh Tạ mới đúng chứ, vừa trang nhã lại vừa đẹp.”

Thường thì khi người ngoài khen các cặp tình lữ, người trong cuộc sẽ tỏ vẻ rất khiêm tốn. Nhưng nghe cô trả lời như vậy thì cô Trịnh thoáng sửng sốt, tưởng cô khác người. Nhưng cẩn thận ngẫm lại thì mới nhận ra có lẽ mình đã hiểu nhầm quan hệ của hai người, vậy là tự an ủi: chắc là là nam nữ đang trong giai đoạn mập mờ, nên mới xấu hổ khi người ngoài nói mình đây mà.

Lúc này Tạ Trạch Ích lại mở miệng phá đám: “Có tài năng có dung mạo là cô Lâm mới đúng. Tôi không đáng một đồng, còn kém xa lắm.”

Câu kia của cô là phủi sạch quan hệ, nhưng câu này của anh lại biến hai người trở thành cặp đôi sáng sớm trêu nhau. Sở Vọng quay sang trợn mắt nhìn anh, nghiến răng nói: “Anh Tạ khách khí quá rồi.”

Tóc cô Trịnh rất rối, chải một lúc mà rụng một đống. Lúc này ở dưới cầu thang toàn là tóc xoăn, trông y hệt lông dê mới cạo.

Cô ấy cau mày gọi: “Trịnh Tông Di, mẹ đâu rồi?”

Bên trong có giọng nam trầm vọng ra: “Ở quê có người đến, mời đi ăn rồi.”

“Người Quảng Đông có nhiều họ hàng thật đấy.” Cô ấy bĩu môi, “Trịnh Tông Di, ra hốt rác đi.”

Một người đàn ông vóc dáng vạm vỡ cầm chổi và hốt rác đi ra, thành thạo quét sạch tóc rụng, suốt cả quá trình cứ cúi gằm đầu mà không hề ngẩng mặt nhìn lên.

Sở Vọng bất đắc dĩ cười, nghĩ bụng: là căn hộ phát bài “Vô Tích cảnh” ở tầng dưới đây mà, tuy người đàn ông này không phải là người Thượng Hải, nhưng trình độ ngoan ngoãn thật sự rất đạt tiêu chuẩn của quý cô Thượng Hải, đúng là thú vị.

Đợi cô Trịnh và anh Trịnh vào nhà, người đằng sau mới nói nhỏ một câu, nghe có vẻ như đã chịu tổn thương: “Quê tôi cũng là Quảng Đông.”

Lúc này Sở Vọng mới sực nhớ ra, một câu vô tình của cô Trịnh đã mắng luôn cả anh. Cô thuận miệng hỏi: “Vậy rốt cuộc nhà anh Tạ có bao nhiêu họ hàng?”

Tạ Trạch Ích nghĩ ngợi, sau đó trả lời đầy chắc nịch: “Nhiều cực kỳ.”

Chợt nhớ tới đám vợ bé trang điểm lộng lẫy của cha anh, không biết vì sao lại khiến cô cảm thấy buồn cười. Sở Vọng không nén cười nổi, suýt nữa đã làm rơi luôn cả ly trà.

“Có lẽ cà phê đã pha xong rồi đấy. Trong tủ có hộp bơ Devonshire, muốn thử không?” Tạ Trạch Ích bật thử công tắc, đèn đã sáng, cuối cùng cũng soi rõ gương mặt tuấn tú trong hành lang tối đen.

Vụng về làm đổ hai ly cà phê, khiến cà phê rơi vãi khắp bệ bếp. Do kệ làm từ gỗ nên khi bị dính nước thì có lau mãi cũng chẳng sạch. Tạ Trạch Ích đứng ngoài nhìn, chỉ cười chứ không có ý định giúp.

“Lau không được đâu.” Đợi cô nhọc công cả buổi, lúc này anh mới nói ra kinh nghiệm nhiều năm của mình.

“Sao không nói sớm?”

“‘Đi một ngày đàng học một sàng khôn’?”

“Ồ… Mấy năm qua tiếng Trung của anh tiến bộ nhiều đấy.”

“Vì để cống hiến hết mình cho các quý cô Trung Quốc, sao có thể không học tiếng Trung được?” Tạ Trạch Ích vô cùng khiêm tốn.

Cô cười nói: “Hèn gì anh Tạ lại thành thạo nhiều ngôn ngữ đến vậy.”

“Những thứ tiếng khác là vì kế mưu sinh, chỉ riêng tiếng Trung là nguyện vọng của cá nhân tôi.” Anh nghiêm túc suy nghĩ, sau đó nói, “Tôi thường nghe nói con gái phương Đông hấp dẫn nhất là khi ở phòng chính và phòng bếp. Phòng chính thì chứng kiến rồi, còn phòng bếp thì… Hôm nay mới là lần đầu đấy, cũng muốn được thấy nhiều hơn hơn.”

Cô lại không thể tiếp lời nổi, hơn nữa còn suýt ném chiếc khăn dính đầy cà phê vào bản mặt tươi cười của anh. Nhưng tới khi cẩn thận nghĩ lại, nếu đổi thành một tay gà con mới bước vào tình trường, thì nhất định ngay từ đâu sẽ đi tới giành lấy chiếc khăn trong tay đối phương, thể hiện phong độ lịch lãm “cống hiến hết mình vì các quý cô”, nhưng nếu làm như vậy thì sẽ không có chủ đề để nói chuyện tiếp.

Hai người đứng dưới bếp uống hết cà phê, lần này Tạ Trạch Ích lại ra tay rửa sạch bát đĩa, dùng vải bông trắng tinh lau nước đọng rồi xếp vào trong ngăn tủ.

Làm xong xuôi mọi chuyện, anh ngoái đầu hỏi cô, “Lát nữa có muốn đi đâu không?”

“Đến chỗ làm việc xem thế nào, tiện đường thì ghé vào cửa hàng, mua vài thứ đồ dùng hằng ngày.”

“Ừ. Địa chỉ ở đâu? Tôi đưa em đi, vừa hay dẫn em đi làm quen với bên này.”

“Vậy thì phiền lắm. Thứ Bảy ở cục cũng được nghỉ à?”

“Không.”

“…”

Sở Vọng không hề biết rằng: khi bà Cát vừa gửi điện báo đến cục cảnh sát, anh còn chưa mở miệng thì cấp trên đã ra tay trước, rất chu đáo phê duyệt cho anh được phép nghỉ hai ngày.

Anh không nói nên Sở Vọng tưởng anh cố ý xin nghỉ, thế là lại áy náy.

Tạ Trạch Ích vẫn bình tĩnh bảo: “Nếu cô ba chê tôi chướng mắt thì cứ xem tôi như vật trang trí là được, coi tôi như tài xế khi em đến Thượng Hải. Đọc địa chỉ, xuống xe rời đi là xong.”

Hai người đi xuống thang máy, đêm trước không thấy gì, nay trời sáng thì mới thấy rõ: thì ra dưới lầu có một chiếc bàn liền ghế, có một người đàn ông trung niên ngồi canh cửa. Người nọ chỉ thấy Tạ Trạch Ích, vui vẻ gọi: “Cậu Tạ đấy à ——” Rồi chợt nhìn sang bên cạnh anh, miệng há to nhưng không biết xưng hô thế nào.

“Đây là cô Lâm, chủ nhà cho thuê.” Tạ Trạch Ích nói.

“Ồ —— Chào cô Lâm buổi sáng!” Người nọ chào rõ to.

Chỉ một buổi sáng đã bị hai người liên tiếp hiểu lầm là cặp đôi, cô cũng chẳng biết giải thích thế nào, chỉ có thể cùng Tạ Trạch Ích lên xe.

Tạ Trạch Ích lại rất có kiên nhẫn giải thích với cô: “Ở con hẻm này buổi tối chỉ có hai ngọn đèn, có điều vẫn thường xuyên có cảnh sát hai nước tuần tra, cho nên em không cần lo lắng.”

Bây giờ đang là ban ngày, hai tòa nhà này rất cao, khiến cho con hẻm nằm giữa hai tòa kiến trúc trở nên âm u. Quanh năm không thấy ánh sáng nên rất dễ ẩm thấp, trên vách tường cả hai tòa nhà mọc đầy địa y màu xanh. Nếu chỉ có hai ngọn đèn thì không biết buổi tối còn âm u thế nào nữa đây.

Cảnh sát hai nước? Cô cười thầm. Cảnh sát nước ngoài coi mạng người như cỏ rác, ai chẳng biết có “Quy định phạt binh lính ở Trung Quốc”? Lính Anh hay lính Mỹ phạm tội tại Trung Quốc thì do tòa án nước mình xử. Còn nếu cô xảy ra chuyện, chỉ sợ chính phủ sẽ bán quách cô đi, giúp chính phủ Anh Mỹ kiếm tiền.

Thế là Tạ Trạch Ích nói tiếp: “Nếu như về trễ thì gọi điện cho tôi, tôi đưa em về.”

Sở Vọng nhìn thẳng vào anh: “Cô út thật sự bảo anh phải chăm sóc tôi à?”

“Yểu điệu thục nữ quân tử hảo cầu.” Tạ Trạch Ích nói dối đến mức mặt không đổi sắc. Như thể biết cô không tiếp lời được, anh nghiêm túc nói: “Thứ Bảy chắc không có chuyện gì làm, làm quen đường đi chỗ ở rồi thì giữa trưa có muốn ăn gì không?”

Sở Vọng cảm thấy buồn cười: “… Mới ăn sáng xong mà.”

“Ở tuyến đường vượt giới* có một quán ăn Thiên Tân mới mở, đồ cũng được. Canh củ cải lưỡi vịt, có muốn ăn không?”

(*Đây là những tuyến đường xây dựng thêm bên ngoài khu tô giới công cộng Thượng Hải, chính phủ thực dân có quyền lực cảnh sát và quyền đánh thuế các dịch vụ trên các con đường này, nhưng quyền hành chính vẫn thuộc về chính phủ Trung Quốc.)

Quả thực cô không muốn ra vào nơi công cộng với anh cho lắm, thế là bảo: “Về nhà ăn đi.”

“Có hài lòng với tay nghề của đầu bếp tối qua không?”

“Lạp xưởng gan ngỗng sáng nay cũng do anh ta làm hả?”

“Ừ.”

Sở Vọng lấy làm ngạc nhiên, “Tôi cứ tưởng anh Tạ sống ở Thượng Hải phải vất vả lắm chứ.”

Tạ Trạch Ích cười bảo, “Có phải em rất ngạc nhiên không, vì hiện tại tôi nghèo rớt mồng tơi mà vẫn sống xa hoa lãng phí?”

Cô im lặng một lúc, “Anh Tạ à, tôi không…”

“Không muốn thuê đầu bếp phải không.”

“Có lẽ cô tôi đã dặn dò anh rồi, nhưng tôi thực sự không yếu đuối đến thế. Đầu bếp, giúp việc, quản gia, không cần phải thuê ai cả. Chỗ này cũng không lớn, ăn uống sinh hoạt đều do mình thì vẫn thoải mái hơn.”

“Được rồi.” Tạ Trạch Ích đáp đầy sảng khoái, nhưng trong nụ cười đó lại che giấu sự không tin tưởng.

Xe bất tri bất giác từ đường Ferguson đi đến đường vượt giới. Từ số 63 đến số 67 là tòa kiến trúc sáu tầng không quá khí thế, nhưng bên ngoài lại có cảnh sát canh giữ nghiêm ngặt, Tạ Trạch Ích đành phải đậu xe cách đó một trăm mét.

Vì là thứ Bảy nên tòa nhà làm việc không mở cửa, tầng nào cũng khóa cửa sắt, canh phòng nghiêm ngặt. Ở bên ngoài đặt mấy chiếc bàn, có hai người lớn tuổi ngoại quốc ngồi ở đó chờ các nhân viên nghiên cứu từ khắp nơi trên thế giới đến báo cáo.

Thư mời của cô bị cảnh sát kiểm tra nhiều lần, cuối cùng mới đưa cô vào bên trong cửa sắt, đứng trước mặt hai người lớn tuổi kia.

Một người già trong đó có cặp mắt xếch, con ngươi màu xanh nhạt, trong suốt tới mức tưởng chừng ông ta bị đục thủy tinh thể, chóp mũi lại cao đến tận trời xanh, có dáng dấp giống người Do Thái; nếu Pinocchio mà già đi thì có lẽ sẽ trông giống ông ta.

Cách cặp kính nhỏ, ông ta nghiêm túc xem thư mời của cô, sau đó nói: “Cô ở tổ I. Chín giờ rưỡi sáng thứ Hai tuần sau, đừng đến trễ.”

Cô nghe vậy thì thầm nhủ: Xem ra phân công cũng rất rõ ràng. Nhưng rốt cuộc tổ I là làm gì?

Muốn để cô tự suy đoán ý nghĩa à?

Cô cúi đầu thấp giọng hỏi: “I… Ignite… đúng không?”

“Vẫn chưa quen với chương trình bảo mật hả?” Ông ta liếc nhìn cô, đóng dấu lên thư mời rồi xé làm đôi, vứt xuống lò lửa dưới chân tiêu hủy.

Cô thật sự vô cùng tò mò.

Sở Vọng nhìn chiếc lò kia, chậc lưỡi nghĩ: cứ tưởng người nước ngoài không thích mấy thứ cũ kĩ như lò sưởi của phương Nam Trung Quốc; nào ngờ cùng một thứ hai công hiệu, còn có thể dùng để tiêu hủy tài liệu.

Báo cáo xong, đến khi quay ra thì cô thấy Tạ Trạch Ích đã xuống xe, đang đứng trò chuyện với mấy người cảnh sát. Trong khoảnh khắc ấy, bầu không khí như thoát khỏi lớp vỏ khách khí lạnh lùng, sĩ quan người Anh tháo vũ trang xuống, đang trò chuyện về người nhà và bạn gái với anh.

Sở Vọng thấy thế thì lắc đầu nguầy nguậy. Tạ Trạch Ích không chỉ là cao thủ tình trường trời sinh, mà còn là cao thủ giao tiếp bẩm sinh nữa. Nếu còn nói tiếp, e là ngay đến chương trình bảo mật mà mấy người lính Anh này đang canh giữ sẽ phải bỏ đi toàn bộ.

Thấy cô đi ra, Tạ Trạch Ích sải bước tới gần. Mấy người lính Anh ở phía sau thực sự hiểu lầm, đứng đằng xa huýt sáo.

Không biết đây đã là lần thứ bao nhiêu trong ngày rồi.

Bên cạnh có cửa hàng bách hóa. Ngoài bàn chải xà bông khăn lau ra, còn có mấy thứ vật dụng của con gái mà chỉ cửa hàng nhập khẩu mới bán. Lúc này anh cũng không sốt sắng tỏ vẻ nhiệt tình lịch thiệp, chỉ kiên nhẫn đứng ngoài cửa chờ cô thong thả mua đồ. Vừa thấy cô đi ra, Tạ Trạch Ích lập tức nhận lấy túi đồ trong tay xách lên xe.

Lần nữa khởi động xe, Tạ Trạch Ích nói: nếu không muốn anh đưa đón thì từ nơi này có thể ngồi xe điện đến đường Lemaire, tầm 15 phút, rồi đi bộ khoảng 10 phút là về đường Ferguson. Hoặc là xuống xe ở đường Winling, đúng đoạn cuối đường Ferguson.

Xe dừng lại ở dưới lầu, Tạ Trạch Ích dẫn cô từ cổng nhà xuyên hẻm cũ, rẽ trái rẽ phải đến trạm xe điện rồi vòng về, rồi anh hỏi: “Đã nhớ chưa?”

Ở Hương Cảng đi đâu cũng có xe điện xe buýt đi thẳng tới nơi. Còn thành phố cổ thế này lại quy hoạch rất bất hợp lý, Lâm Trí quen với việc dựa vào Google Maps tìm đường bèn lắc đầu: “…”

Tạ Trạch Ích tốt bụng trả lời: “Không sao, đi lại lần nữa là được.”

Đi lần hai xong thì đã quá trưa.

“Đã nhớ chưa?”

“Cũng tàm tạm.”

“Tạm là bao nhiêu?”

“Ba mươi phần trăm.”

“Không sao, đi nhiều lần tự khắc nhớ. Đã đói bụng chưa?”

Cả một buổi sáng bị ép phải hoạt động gân cốt – đi đi lại lại trong tô giới cũ, lúc này cô sờ bụng, thừa nhận, “Đói rồi.”

“Ăn đồ Thiên Tân không?”

“…”

Nước canh màu trắng thơm lừng, lưỡi vịt béo béo mềm mềm, ngậm vào trong miệng rồi rút xương đi, phần thịt lập tức tan ra. Phải thừa nhận một điều là canh củ cải lưỡi vịt quá ngon. Không thừa nhận cũng không được, nhìn bề ngoài Tạ Trạch Ích có vẻ “bạn thế nào cũng được, tôi không thành vấn đề”, nhưng thực chất trong đầu đã sắp đặt vô số phương án từ lâu, phương án nào cũng khiến bạn phải tâm phục khẩu phục. Mà một khi đã trúng bẫy của anh rồi, bạn không thể không khen anh một câu: Anh Tạ đúng là cân nhắc chu đáo.

Ở bên cạnh tiệm thức ăn Thiên Tân là một quán cà phê Kiessling do người Thiên Tân mở, lúc đi ngang qua cửa kính, Sở Vọng ngạc nhiên phát hiện: không ngờ ở đây còn có bán loại bánh tam giác hay ăn ở Hương Cảng.

Hai người cùng bước vào tiệm, Tạ Trạch Ích cũng khá kinh ngạc, “Bánh Scone?”

Chủ tiệm cũng lấy làm kinh ngạc: “Đây là lần đầu hai người tới tiệm tôi đúng không, thì ra ở chỗ khác Thượng Hải cũng có bán Scone sao?”

Tạ Trạch Ích cười nói, “Không có, chỉ là hồi trước từng ăn ở bến tàu Thiên Tinh Hương Cảng.”

“Tiệm cà phê Chim Xanh à?” Sở Vọng hỏi.

Tiệm cà phê Chim Xanh tại bến tàu Thiên Tinh là hồi ức của những người trẻ tuổi về Hương Cảng.

Anh nheo mắt: “Đã lâu lắm rồi chưa đến đó.”

Trong khoảnh khắc ấy, cô cũng không biết Tạ Trạch Ích nhớ lại hồi ức gì ở Hương Cảng. Nhưng với cô, trong thời gian năm năm ngắn ngủi, năm chữ cái “scone” đủ gợi lên rất nhiều hứng thú.

Không rõ tình cảm này là gì.

Hương Cảng chưa bao giờ là cố hương của cô, cả nơi này cũng thế. Tuy là lãnh thổ Trung Quốc, song lại như một thế giới xa lạ mọc trên mảnh đất. Năm 1929 đối với cô quá đỗi lạ lẫm. Cô có cảm tình với nơi này, nhưng nhiều hơn thế là sợ hãi.

Đây có phải quê hương của mình không? Có rất nhiều lúc, sự xa lạ mịt mù này đã đẩy cô vào sợ hãi, làm cô có cảm giác mình như kẻ tha hương. Tại đất khách quê người, cô không có tri kỷ, cũng không có người hiểu cô.

Bên ngoài đường Ferguson có một khu chợ bán đồ ăn. Tạ Trạch Ích đậu xe dưới lầu để cô đi về nghỉ ngơi, còn mình thì đi bộ đến chợ.

Cô hỏi bảo vệ thì mới biết dưới lầu còn có hòm thư. Lúc Sở Vọng kiểm tra hòm thư, Tạ Trạch Ích đã xách đồ đạc lên lầu cho cô.

Bên ngoài mỗi hòm thư đều được đánh dấu bằng họ người ở.

Cô lại mượn bảo vệ giấy bút, viết một chữ “Lâm” bên cạnh chữ “Tạ”.

Cầm chìa khóa mở hòm thư, một đống thư từ xổ ra rơi xuống. Đưa mắt nhìn qua, tất cả đều là thiệp mời: tiệc cốc-tai, tiệc ăn mừng, hôn lễ Trung Tây, chiếu phim dạ vũ… Cần gì cũng có, từ năm ngoái cho tới tận năm nay, bức thư nào vẫn còn nguyên xi.

Xem ra, tuy anh ta ở đây đã lâu nhưng không biết ở dưới lầu còn có hòm thư —— cũng không biết đã khiến bao nhiêu người mong chờ rồi thất vọng đây.

Có lẽ chức vụ của anh cũng không quá quan trọng, cô thấy anh ta đi xã giao còn nhiều hơn bất cứ ai. Cũng không biết có phải là do thân với bà Cát từ sớm không, hay là do bản tính khéo léo mẫn tiệp bẩm sinh của anh. Người Anh không quen đưa đẩy như thế, nhưng đây là địa phận Trung Quốc, điều người nước ngoài nói không được, đến lượt anh chắc chắn sẽ thành: Trình độ tiếng Trung đột nhiên tăng vọt, nói đủ ngôn ngữ ngưu xà quỷ thần nhưng lại chẳng nhận biết được bao nhiêu chữ Trung, nay xem ra cũng không cần thiết.

Còn một lý do khác nữa đó là: anh có một gương mặt không cách gì khiến người khác ghét bỏ được. Có rất nhiều cô gái trẻ dễ dàng si mê một người đàn ông anh tuấn, thêm việc người này cũng khéo léo đưa đẩy, không hề khiến người ta nói ra nói vào. Nhìn như thế, có ai mà không thích?

Đúng là là tấm vé thông hành tự do hành tẩu ở tình trường và tình người.

Ngay đến đám trẻ Xô Viết dưới lầu cũng không thoát khỏi bàn tay ma quỷ của anh.

Vừa cầm thư đi vào tháng máy, còn chưa kịp mở cửa thì cô đã thấy một cậu bé tóc đã đứng trước cửa nhìn quanh. Thấy gương mặt xa lạ là cô, cậu bé lẩm bẩm gì đó bằng tiếng Nga, cô chỉ nghe hiểu được một câu là “chị Tạ”; dùng tiếng Anh giải thích thì lại sợ con nít nghe không hiểu, đúng là nhức đầu.

Lời đùa dùng với bạn gái người Mỹ của anh trên đảo xa hai năm trước giờ như báo ứng rơi xuống người cô. Cô thở dài, đột nhiên nhớ ra mấy miếng bánh Scone ở trong túi giấy, thế là lấy ra cho cậu bé đó, lúc này cậu mới chịu đi.

Mỗi một tầng lại có máy giặt công cộng, sáng sớm trước khi ra ngoài cô đã cầm khăn trải giường và vỏ gối đi giặt, lúc này đi lấy đem về nhà phơi nắng, trong chớp mắt đẩy cửa ban công ngoài phòng tắm ra, một mùi thơm ngát bay vào mũi.

Bên ngoài có mấy ly sứ xương* màu xám nhạt, dùng để trồng mấy đóa hoa lan trắng đang được nước nhỏ tí tách tưới ướt, mỗi ly chừng năm sáu bông, cả thảy có sáu ly, vị chi tổng cộng có hơn ba mươi đóa hoa.

(*Sứ xương là một loại đồ sứ được chế tác chủ yếu từ tro xương động vật trộn với một loại khoáng chất tên là fensfat (hay còn gọi là tràng thạch) và đất sét trắng.)

Cô thực sự bị chấn động ngạc nhiên, không ngờ người có được sự hứng thú nhàn nhã này lại chính là Tạ Trạch Ích.

Phơi chăn xong, có người đẩy cửa đi vào. Từ phòng tắm đi ra, cô thấy Tạ Trạch Ích đang xách một con cừu nhỏ đã được làm thịt đi vào cửa.

Bộ quần áo được là thẳng trông đầy khí chất phóng khoáng, nhưng lại trái ngược hẳn một trời một vực với thứ anh đang cầm trong tay.

Cô đi ra ngoài hành lang, “Không phải đã nói là không mời đầu bếp sao?”

“Nghe theo lời dặn của cô ba, dĩ nhiên không mời.”

“Tức là anh Tạ sẽ xuống bếp?”

Tạ Trạch Ích cười nói, “Cô ba đã nếm thử tay nghề của tôi rồi còn gì.”

Cô ngạc nhiên: “Đầu bếp có thể làm được món Bắc Kinh Quảng Đông Thượng Hải chưa từng xuất hiện chính là anh ư?”

“Có hợp khẩu vị không?”

“Rất… ngon.” Đột nhiên nhớ ra, cô được hưởng lòng tốt của người ta, không những không đội ơn mà còn chỉ trích anh “xa hoa lãng phí vô độ”. Giờ bị mất mặt, thực sự không dám đối diện. Cô xấu hổ hỏi, “Do ăn ngon quá… nên thật sự không nghĩ tới.”

“Cầu kỳ về thức ăn quen rồi, thì dù là ai cũng sẽ dần trở thành nửa đầu bếp thôi.”

Cô nhìn con cừu trong tay anh, không hiểu sao lại nhớ đến một món ăn nổi tiếng đầy buồn cười của Scotland: “Haggis?”*

(*Haggis là món ăn làm từ nội tạng loài cừu, băm nhỏ với hành tây, bột yến mạch, mỡ ở thận cừu, gia vị, muối, trộn với nhau và theo truyền thống, nhồi trong dạ dày của cừu và luộc trong khoảng ba tiếng đồng hồ.Ảnh.)

c78


Người châu Âu rất có thành kiến về nội tạng. Các cơ quan nội tạng động vật, bất kể là gà vịt, ngỗng, cừu hay bò thì đều moi sạch nội tạng, phần xương làm thành đồ đựng, hoặc hầm hoặc nướng cùng với bột yến mạch trái cây. Vào những dịp ăn tiệc hay năm mới, chủ khách quây quần bên bàn cùng luyện dao nĩa với thịt cừu, vô cùng náo nhiệt vui vẻ.

Tạ Trạch Ích cười nói, “Hình như em có thành kiến gì về quốc tịch của tôi à?”

Rồi anh giơ túi lòng cừu trong tay phải lên: “Trong này là thứ người Trung Quốc tham ăn thích.”

Sở Vọng cười thầm. Người tham ăn chưa chắc là người Trung Quốc, nhưng nấu đồ ngon thì chắc chắn không phải là người Anh.

Súp lòng được hầm lên, thì là hẹ xanh hấp chung với thịt dê, hương thơm ngất ngây bay đầy nhà, dù cho không đói thì thực sự vẫn có thể “thơm chết người”.

Ăn uống xong xuôi, Tạ Trạch Ích dựa vào cửa nhìn cô đem mấy tấm thiệp mời cũ kỹ ra, không chút do dự ném vào giỏ tre.

Cô tựa vào vách tường ngoài hành lang, gọi hỏi: “Anh Tạ?”

“Ừ?”

“Tìm được nhà trọ mới chưa?”

Tạ Trạch Ích vờ như chán nản, “Tôi khiến cô ba ghét đến thế sao?”

“Anh biết tôi không có ý này mà.”

Tạ Trạch Ích mỉm cười, “Dì Cát cố ý gán ghép tôi với em.”

“Tôi biết.”

Hai người rơi vào một khoảng im lặng. Một lúc sau, Sở Vọng lên tiếng, “Cô út thì tôi biết rồi. Nhưng còn ngài Tưởng, vì lý do gì?”

“Tôi nghĩ chắc là em gái tôi nhờ ông ấy làm phiền dì Cát.”

Cô thực sự không hiểu.

Tạ Trạch Ích nghĩ ngợi rồi nói, “Tôi và cha bất hòa đã lâu. Ông ấy muốn tôi về Anh sống yên ổn qua ngày, còn tôi không thích làm theo ý ông ấy, nên ông ấy cũng không muốn tôi được như ý. Tôi là con trai duy nhất của ông, người trong nhà còn sốt ruột hơn cả tôi với cha. Nếu như dì Cát có thể khuyên bảo tôi thành công chuyện đó, thì chắc đấy sẽ là cách duy nhất trên đời này có thể khiến quan hệ cha con dịu lại.” Anh quay đầu nhìn vào mắt cô, “Cô ba không biết ư, em chính là quân át của dì Cát.”

Nghe anh nói xong, cô lập tức hiểu rõ ý đồ của ngài Tưởng. Có điều về phần Tạ Trạch Ích, cô vẫn khó hiểu như cũ, vì theo như quốc tịch và lịch sử… Cô cẩn thận hỏi: “Nếu tôi nhớ không nhầm, nếu sinh ra trong bệnh viện công ở Anh thì nhất định sẽ có thân phận công dân Anh, đúng không?”

Tạ Trạch Ích biết cô muốn hỏi gì, cười nói: “Vì sao lại muốn đến Thượng Hải, đúng không?”

Không đợi cô trả lời, anh đã nói tiếp: “Chỉ đôi ba câu thì khó mà khiến người ta tin được, thậm chí đến bản thân tôi còn không tin mà. Nếu có cơ hội, tôi sẽ từ từ kể cho em biết vì sao.”

Cô gật đầu.

Anh không nói chuyện, cô lại chìm vào im lặng, sự im lặng tới từ lịch sử mà cô biết.

Nếu anh về Hương Cảng thì hơn 10 năm sau, chắc chắn sẽ bị quân Nhật bắt làm tù binh cùng với một trăm ngàn lính Anh khác; Nếu ở lại Thượng Hải, thế thì 8 năm sau sẽ bị quân Nhật đưa vào trại tập trung; Còn nếu về Anh, thì thứ đợi anh chính là chiến trường Pháp hoặc Bắc Phi. Cơ hội sống tiếp của Tạ Trạch Ích chưa đến tuổi 30 là rất thấp. Dù có đứt tay cụt chân thì cũng đã là may mắn lắm rồi. Nghĩ đến đây, cô chợt nhớ tới quẻ quẻ bói nói anh cô độc suốt đời ở trấn Nguyên Lãng hôm đó, xem chừng cũng có vẻ đáng tin.

Cô biết bà Cát muốn kết hợp cô với Tạ Trạch Ích, cũng biết bà xuất quân cờ này thực sự lợi hại. Nếu người khác không biết, thì sẽ cho rằng trung tâm tài chính số một Viễn Đông sầm uất thái bình vô cùng. Nhưng không phải cô chưa từng xem vở kịch “Trà quán” hay đọc bộ truyện “Lạc đà Tường Tử”(1), cũng không phải chưa từng nghe về Thẩm Sùng Minh và sự kiện lầu Cảnh Minh(2). Giao toàn bộ tính mạng của mình cho cảnh sát tô giới luôn coi thường luật pháp Trung Hoa ư? Trừ khi cô là kẻ điên.

Nhưng bây giờ, cô lại là kẻ tứ cố vô thân không nơi nương tựa, mà Tạ Trạch Ích đây lại đáp ứng toàn bộ yêu cầu của cô: ăn uống sinh hoạt lẫn sự an toàn đều có anh chăm lo, vô cùng đáng tin.

Vì vậy, dù cô không muốn cũng không sao; Tạ Trạch Ích biết kết quả của việc một cô gái trẻ tuổi độc thân ra vào hẻm tối là như thế nào, nên anh sẽ không để mặc cô.

Cô phải thừa nhận một điều, vào lúc này, cô thực sự rất cần Tạ Trạch Ích.

Cô thích kiểu người như Tạ Trạch Ích, giống như cô thích bà Cát vậy, không hề liên quan tới tình yêu. Nghĩa là bỏ đi thân phận khác phái, tình cảm tán thưởng xuất phát từ nội tâm. Khi người khác phái nhìn khác phái thì thường dùng đôi mắt mang chữ “sắc” để nhìn.

Đúng như con người Tạ Trạch Ích. Anh có điểm ưu tú của mình, nên thái độ của cánh phụ nữ nhìn anh luôn là hai mặt mang chữ “sắc”: hoặc là mê như điếu đổ, hoặc là cực kỳ ghét anh miệng lưỡi trơn tru. Thế nhưng liệu có ai từng để tâm đến mặt tốt khác của anh không? Thực ra kiểu người như anh, cũng có lúc rảnh rỗi nuôi trồng hơn ba mươi đóa lan trắng ở ngoài ban công.

Anh đúng là thú vị, còn cô thật vô vị. Giống như rất nhiều người châu Âu khác, tiêu chuẩn chọn bạn đời không nằm ở chỗ xấu đẹp mà là người ấy có thú vị hay không.

Cô thích người này, mà hiện tại cũng cần anh. Danh tiếng ư? Có thì cũng bị người cha “hờ” kia hủy hoại cả rồi. Mà dù chưa bị hủy, thì hai ngày qua hàng xóm láng giềng cũng đã hiểu lầm hết rồi còn gì. Những việc khác, dù thành hay không thành thì chắc chắn bà Cát cũng sẽ xử lý cho cô.

Cô cần gì phải kiểu cách bắt người ta dọn đi, rồi sau đó một ngày ba chuyến đến hầu hạ cô?

“Vậy tức là tôi có khả năng làm lành với cha sao?” Tạ Trạch Ích vô tình trêu cô.

Tuy biết rõ anh đang nói chuyện cười, nhưng cô vẫn nghiêng đầu nhìn Tạ Trạch Ích, trầm ngâm một lúc rồi nói: “Tôi không hiểu gì về tình yêu, cũng không định tìm hiểu xem nam nữ yêu nhau nghĩ gì.”

“Ừ. Điều này thì tôi rất hiểu.”

“Nhưng anh Tạ, với sự hiểu biết của tôi về anh —— anh là một cao thủ tình trường bẩm sinh, có lẽ anh cần một người bạn gái xinh đẹp hiểu phong tình hơn, có thể không nhất định phải là phụ nữ người Anh làm huân tước Tạ hài lòng, đồng thời bằng lòng ở lại Thượng Hải, vậy thì khó tìm quá. Nhưng tôi nghĩ, như thế lại không phù hợp với anh.”

Tạ Trạch Ích cẩn thận lắng nghe, bất chợt hỏi: “Giả sử hai ta đính hôn thì sao?”

Cô lắc đầu, cười hỏi, “Thế thì anh được lợi gì?”

Tạ Trạch Ích vẫn nói, “Lợi ích mặt khác?”

“Anh cần tình yêu.” Cô quay đầu, nhìn anh nghiêm túc hỏi, “Mà anh cũng nghĩ như vậy, đúng không?”

Tạ Trạch Ích thấy cô nhìn mình như thế thì bật cười, “Chưa từng có ai nghiêm túc hỏi tôi câu như vậy cả. Sau hôm nay thì tôi mới biết, thì ra câu hỏi như thế còn có thể khiến người ta phải suy nghĩ kỹ càng.”

Sở Vọng nghiêm túc suy nghĩ, nghiêm túc trả lời: “Tôi nghĩ có lẽ chúng ta sẽ không yêu nhau đâu. Nên là, dù anh Tạ cảm thấy chúng ta có hợp hay không, tôi vẫn hoan nghênh anh tiếp tục ở lại nhà trọ đường Ferguson. Dù không biết cô tôi cân nhắc thế nào mà trói chân anh bằng sự an toàn của tôi, thì tôi nghĩ, có lẽ bà ấy cũng sẽ không làm hại tôi. Nhưng đó là tôi đề nghị thôi, còn việc rốt cuộc có muốn ở lại hay không thì vẫn theo ý của anh Tạ.”

Tạ Trạch Ích cười thầm: chơi lớn như thế, thì ra là do sau khi cân nhắc kỹ càng, cho rằng anh không chuyển nhà thì sẽ có lợi cho mình nên mới khuyên anh ở lại.

Nói là mời ở lại, thực ra giữa vài ba câu đã vạch rõ giới hạn rồi. Em quá lý trí, còn tôi cần tình yêu. Hai chúng ta vốn không chung đường, nên tốt nhất là tôi đừng có suy nghĩ không an phận gì với em —— hơn nữa em cũng cho rằng tôi sẽ không có suy nghĩ không an phận.

Sau khi nhận rõ điểm này, em thừa nhận em vẫn cần tôi.

Cái đầu lý trí đến đâu mới có thể đưa ra kết luận này?

Đột nhiên dưới lầu có người bấm chuông, bảo vệ đến nói là có người ở đường vượt giới mời cô Lâm.

Bảo vệ vừa dứt lời, cô lập tức cầm áo khoác đẩy cửa đi ra, vừa đi vừa mặc áo, cổ áo cao ráo che khuất cần cổ trắng nõn.

Hai nốt ruồi đỏ kia đã biến mất.

Anh còn định uyển chuyển từ chối ý tốt của cô như thường, nói mấy câu êm tai ví dụ như: “tôi ở tạm cục cũng được, tìm được nhà trọ mới rồi sẽ chuyển đi. Dù chuyện có bận tới mấy thì với tôi, chuyện của cô ba vẫn là chuyện quan trọng nhất.” Hoặc là, “Không vì lý do gì cả, chỉ vì giáo dục đàn ông từ nhỏ đã nói với tôi là phải luôn ân cần phái với nữ, thế đã được chưa?”

Nhưng đột nhiên anh đổi ý.

Trước kia không có cảm giác gì, nhưng sau khoảnh khắc trên, đột nhiên anh có một suy nghĩ mà trước đó không hề có —— anh muốn xem xem, nếu có một ngày cô thật sự biết yêu thì sẽ như thế nào.

___

Chú thích:

(1): Trà quánLạc đà Tường Tử là tác phẩm của Lão Xá. Nội dung chính của kịch nói “Trà quán” là thông qua quán trà của nhân vật Dụ Thái, phô bày ra mặt u ám thối nát cùng xã hội rối ren của xã hội nửa thuộc địa, nửa phong kiến Trung Hoa trong giai đoạn cải cách năm Mậu Tuất, quân phiệt hỗn chiến.

Còn “Lạc đà Tường Tử” là truyện dài kể về một người nông dân tên Tường Tử mồ côi cha mẹ lên Bắc Kinh kiếm sống. Y chỉ ấp ủ độc một mơ ước “lớn lao” là chắt chiu đủ tiền để mua một cái xe kéo, trở thành một phu kéo xe “cao cấp”. Nhưng mua xe lần đầu thì bị lính cướp, mua xe lần hai thì phải bán trả nợ. Cuối cùng vì thất vọng, Tường Tử trở nên bê tha và chết trên con đường phủ đầy tuyết. Thông điệp của truyện là, trong một xã hội đã thối nát thì mọi nỗ lực cá nhân để cải thiện đời sống chỉ như dã tràng xe cát mà thôi!

(2) Sự kiện lầu Cảnh Minh: vào năm 1948, hơn 20 lính không quân Mỹ đã cưỡng hiếp tập thể các cô gái quý tộc Trung Quốc. Sau khi xảy ra sự kiện đó, chính phủ dân quốc lập tức hạ lệnh phong tỏa tin tức, không hề ra lệnh bắt giữ tội phạm, trái lại còn lấy lý do xử lý hoạt động dâm ô mà thẩm vấn phụ nữ Trung Quốc, tất cả là vì sợ “ảnh hưởng đến bang giao hai nước Mỹ – Trung”.

Về Thẩm Sùng Minh: Tiểu nữ bất tài, không tìm được thông tin sự kiện có liên quan.
 

MUALARUNG91

Tác giả
Sưu tầm
Tham gia
25/8/19
Bài viết
4,780
Điểm cảm xúc
577
Điểm
113
Chương 79: Khói bếp (3)
Trời mùa đông thường hay tối sớm. Chỉ mới đến giờ ăn cơm thôi, đứng đầu con ngõ đã không thấy gì ngoài phạm vi năm mét. May mà còn có hai ngọn đèn đường “có còn hơn không”, đủ để cô nhìn thấy người thanh niên Do Thái đang đứng hút thuốc trong bóng đêm.

Thấy cô đi ra đứng trước cổng, anh ta chậm rãi dập thuốc, cầm hai bức thư đi về phía cô.

Trong chớp mắt, Sở Vọng lập tức vui vẻ, cười nói: “Robert, ai mời anh đến thế?”

Anh ta đưa cho cô một bức thư.

Mở bức thư giấy da bò ra, trong đó là một bản hợp đồng của phòng nghiên cứu Thượng Hải. Bên trên ghi rõ: tiền lương 220 đồng.

Cô nhớ mang máng, hình như tiền lương của Hồ Thích – con rùa biển nổi danh kiêm giáo sư đại học Bắc Kinh lúc bấy giờ cũng chỉ mới 240.

Có khoản tiền lương này thì tức là quý tộc không mũ miện rồi. Cô vội cất thư đi, cười hỏi: “Ai trả lương cho chúng ta vậy?”

“Có đại lão đầu ngành ở đâu, chẳng lẽ còn không xin được quỹ nghiên cứu Cavendish? George đệ ngũ hoặc Baldwin, ai mà biết? Chung quy cũng không phải là chính phủ của các cô.”

“Tiêu bảng Anh ở Trung Quốc thì không thấy xót đúng không?”

“Chúng tôi vẫn chờ áo bảo hộ từ các cô đấy.”

Cô thở dài.

Cô đứng trước cổng tòa nhà, xoay lưng về phía bảo vệ nói chuyện cùng Oppenheimer, đột nhiên Oppenheimer giơ ngón tay kẹp thuốc lá lên, chỉ về phía sau lưng cô, nói: “Tôi e là mình đã trở thành đối tượng tin đồn tiếp theo của cô.”

Bảo vệ đang thò đầu nghe trộm hai người nói chuyện. Vừa thấy cô ngoái đầu thì lập tức xoay đi chỗ khác, giả vờ như không có chuyện gì cầm báo đọc.

“Định ra ngoài hả?”

“Ống nước nóng bị đông nên tôi đang tính đi mua ống tưới nước.” Cô nói.

“Lúc đến đây, tôi thấy ở cạnh trạm xe điện có tiệm tạp hóa.”

Cô nhét hai tay đỏ bừng vì lạnh vào túi áo, hai người cùng băng qua con hẻm tối đen.

Oppenheimer mỉm cười, lấy ra bức thư thứ hai ở trong áo khoác đưa cô.

Bức thư này vừa dày vừa nặng, chưa mở cũng biết là mấy tờ tiền mệnh giá năm đồng.

“Tổng cộng là 1160, Từ bảo tôi đưa cho cô, nghe nói đây là tiền lương một năm qua của cô.” Oppenheimer chậm rãi cười nói, “Hình như còn cao hơn cả tiền lương của tôi?”

Đúng là rất cao. Theo như cô biết được, tiền lương mỗi tháng của Lương Chương cũng mới một trăm đồng.

Có hai lính người Pháp đang đi tuần đi lướt qua hai người.

Oppenheimer nhìn hai người kia, nói, “Từ bảo tôi cũng đến Thượng Hải đi. Tôi hỏi anh ta vì sao? Anh ta nói bởi vì tôi và cô có quen biết, bảo tôi làm việc nhớ để ý đến cô. Sao nào, đến Thượng Hải thì sẽ gặp chuyện gì nguy hiểm hả?”

Chính cô cũng không rõ nữa. Tô giới không thân thiện với người Trung, nhất là con gái Trung Quốc sống một mình. Điều may mắn duy nhất là cô có một căn nhà nhỏ, mỗi tháng còn có 220 đồng, không đến nỗi phải lưu lạc sống tạm trong “căn nhà” dựng từ thùng dầu hỏa.

“Nghe nói cô bị cuốn vào bất hòa hôn nhân của Từ, sao thế, anh ta muốn cưới cô làm vợ hai hả?” Đột nhiên anh ta cười hỏi.

“Anh có tin không?”

“Không tin. Nếu Lương là nữ, nói không chừng bọn họ sẽ nghĩ anh ta sẽ lấy Lương. Còn nếu tôi cũng là nữ, sợ là cũng phải trải qua những chuyện cô đã gặp. Nhưng gia đình Do Thái chúng tôi rất căm ghét hôn nhân ngoại tộc, nên xin lỗi, tôi rất vui khi mình không phải là nữ, nếu không thì e còn bất hạnh hơn cả cô.”

“Cám ơn anh không phải là nữ.”

Đi ra khỏi con hẻm là tới tiệm tạp hóa nằm sau lưng trạm xe điện. Trên cửa gỗ ngoài tiệm tạp hóa dán chi chít những tấm thẻ nhỏ, bên trên dùng bút lông viết chữ. Trên thẻ viết tên vật phẩm mà trong tiệm bán, ví dụ như cờ tướng, cặp thước, rồi đồ dùng cổ như bút lông, mực, nghiên mực, cũng có khăn lông, dầu ngựa, sáp chải tóc và dép, thậm chí còn có cả kem bôi mặt Bách Tước Linh.

Cô chọn mua khăn lông để lau chùi kệ bếp, bồn tắm và chậu rửa mà lúc sáng mua thiếu, cùng với một đôi dép và ống tưới nước.

Oppenheimer chỉ vào đèn cầy đang thắp trong tiệm, dùng tiếng Trung trúc trắc hỏi chủ tiệm: “Tô giới có cung cấp điện, có đèn điện, anh, không bật?”

Ông chủ nói: “Một lần dùng điện là tốn ba hào năm xu, một tháng mất năm sáu đồng, ngoài người phương Tây và người giàu ra thì ai mà dùng cho nổi?”

Oppenheimer nghe hiểu được đại ý, bĩu môi xem thường.

Cô nghĩ bụng: May mà bây giờ không có mấy thứ công suất điện lớn như lò nướng lò vi sóng máy điều hòa tủ lạnh, nếu không một tháng chắc phải trả đến ba mươi năm mươi đồng.

Rồi sau đó cô lại nghĩ, nếu không có chiến tranh, vậy thì thành quả nghiên cứu của bọn họ càng có thể chuyển sang khống chế lò phản ứng chậm. Đến lúc đấy, có lẽ việc nhà nhà dùng điện ở Trung Quốc sẽ xảy ra sớm 50 năm.

Cô ôm một bầu nhiệt huyết mong chờ vào tương lai, xách mấy thứ mới mua tiễn Oppenheimer đến trạm xe điện, đúng lúc này lại nghe thấy chủ tiệm vừa rồi còn xun xoe hừ lạnh: “Nửa đêm canh ba ăn mặc đẹp đẽ như thế, trắng trợn ra ngoài với thằng Tây kia, chắc chắn là gái tiếp rượu do chính phủ phái hầu hạ bọn Tây lông. Hầu thằng Tây ngủ đã quá nhỉ, được chu cấp cho ở nhà trọ có điện có hệ thống nước, nó tưởng mình hơn người chắc? Hừ!”

Ông chủ không nói giọng Thượng Hải, không biết là phương ngữ vùng nào. Nhưng cô vẫn hiểu được đại khái.

Cô ngoái đầu nhìn chủ tiệm. Có lẽ ông ta cũng không ngờ cô làm như thế, thậm chí trên mặt còn có vẻ thương hại bi ai. Cái nhìn của cô khiến ông ta kinh hãi giật mình. Oppenheimer thấy cô quay đầu thì cũng ngoái đầu theo ánh mắt cô, nhìn ông chủ tiệm đang nơm nớp lo sợ ở phía sau. Ánh mắt anh ta vốn âm trầm, nên lần này đã dọa ông ta sợ hãi trốn vào nhà.

“Ông ta làm gì à?” Oppenheimer hỏi.

“Không có gì, chỉ là kẻ đáng thương thôi.”

Cô không biết chủ tiệm và gái tiếp rượu từng có va chạm gì, nhưng nghe những lời kia vẫn khiến cô xót xa. Không phải vì mình, mà là vì những cô gái tiếp rượu bị Thượng Hải phái đi hầu người phương Tây tìm vui mới bị chửi kia. Cùng là người đáng thương, có người lại vất vả cực khổ, nhưng có người lại một bước lên mây. Tới mảnh đất đô thị Thượng Hải mưu cầu kế sinh nhai, chẳng ai sống dễ dàng cả. Chính phủ và người phương Tây mới là kẻ có tội, nhưng vì sao người bị mắng chửi lại là các cô?

Trạm xe điện cách nhà trọ con hẻm tối tăm khoảng năm phút đi bộ. Oppenheimer không bao giờ nghĩ tại mảnh đất sầm uất này, một cô gái đi bộ về nhà chỉ mất năm phút thì sẽ gặp chuyện gì; mà với lộ trình năm phút đi bộ, dĩ nhiên cô cũng sẽ không bắt anh đưa tiễn.

Từ trạm xe điện đến đầu hẻm chỉ cách hơn mười mét, nhưng đột nhiên có người bám đuôi.

Càng đi về phía trước thì ánh sáng càng tối, cô càng rảo bước nhanh hơn, nhưng bước chân phía sau cũng ngày một nhanh lên. Chợt đối diện có hai lính tuần người Pháp đi tới, vừa lúc đi ngang qua cột đèn đường, thấy sắc mặt hoảng hốt của cô thì quát to: “Mày đi theo quý cô đây làm gì hả?!”

Một người trong đó túm tay cô kéo ra sau lưng, nương theo ánh đèn, cô thấy rõ người kia là một người đeo kính tròn, không quá cao.

Người kia dùng tiếng Anh bập bẹ nói: “Tôi là nhân sự của công ty quảng cáo. Vừa rồi tình cờ trông thấy ở trạm xe điện, cảm thấy quý cô đấy rất hợp làm người mẫu cho quảng cáo thuốc lá của công ty chúng tôi…”

Nhìn cách ăn mặc của người nọ thì có vẻ là săn đầu người thật. Chỉ tiếc người Pháp không nghe người ta nói tiếng Anh, lập tức tát một phát trời giáng, tiếng *bốp* vọng thấu mây xanh rồi dội về lại trong ngõ nhỏ tối đen, tạng người nhỏ bé như vậy thì chịu sao nổi?

Đầu bị tát lệch hẳn sang một bên, lúc anh ta quay lại, hai lỗ mũi đang chảy máu ròng ròng. Anh ta lật đật rút danh thiếp trong túi áo ra, cúi người đưa đến: “Các anh xem! Thuốc lá Hatamen, tôi họ Lục! Tôi thật sự đang tìm người mẫu cho công ty thuốc lá này…”

Sở Vọng còn chưa kịp trả lời thì người Pháp kia lại giơ tay tát cái *bốp*, cái tát này còn nặng hơn trước đó, khiến anh ta ngớ người, quỳ sụp xuống đất.

Lính Pháp nói: “Nửa đêm nửa hôm đi theo con gái trẻ tuổi, còn dám tự xưng là chụp quảng cáo? Hai cái tát này là để mày nhớ cho kỹ, cút xéo!”

Sở Vọng vội dịch lại cho người kia: “Tôi tưởng anh là côn đồ, thực sự rất xin lỗi. Tôi không chụp quảng cáo gì cả, anh cũng đi nhanh đi, bọn họ không nghe anh nói tiếng Anh đâu.”

Người nọ thoát chết từ đường tơ kẽ tóc, co cẳng chạy như điên, không còn nghĩ gì về nghiệp vụ của mình nữa.

Hai người lính Pháp khá tuấn tú, lại còn cao hơn cô một cái đầu. Dưới áp lực chiều cao, cô lùi về sau hai bước, thấp giọng dùng tiếng Pháp nói: “Chân thành cám ơn các anh.”

Nói rồi, cô không chút do dự xoay người sải bước đi về nhà, lúc đến gần ngọn đèn thứ hai thì bóng đen cao to phía sau gần như bao trùm cả người cô. Tiếp đó, một cánh tay nặng nề khoác lên vai Sở Vọng, gần như đè cô vỡ nát.

Hô hấp nặng nề gần bên tai, từng chút từng chút phả vào tai cô. Gã lính dùng tiếng Pháp mờ ám nói với cô: “Đêm hôm ở tô giới rất loạn, quý cô xinh đẹp như em ban đêm ra ngoài một mình, sao có thể thiếu người bảo vệ được?”

Cô dùng sức gạt cánh tay trên vai ra, nhưng gạt mấy lần cũng không được. Tránh chọc giận gã ta, cô cười từ chối: “Nhà tôi ở ngay đằng trước rồi, tôi ra ngoài tản bộ thôi không cần người bảo vệ.”

“Ồ? Ở gần đây hả? Vậy liệu có thể nể mặt cho phép tôi mời em một ly không? Không xa đâu, ở quán rượu ngay trên đường Ferguson đây thôi.” Lính Pháp cười cợt, “Chỉ một yêu cầu nho nhỏ, tôi nghĩ em sẽ không từ chối đâu nhỉ?”

Dù trong thế giới hòa bình ở thế kỷ 21, người lạ lần đầu gặp mặt mà mời bạn uống rượu hay cà phê thì rõ ràng là ám hiệu tình dục. Không từ chối? Có quỷ mới tin!

Cô nhanh chóng suy nghĩ phương án đối phó.

Cô đứng đây gọi to tên Tạ Trạch Ích, thì sau khi chọc giận cảnh sát Pháp, thì trước khi anh chạy xuống lầu, tỷ lệ sống sót của cô là bao nhiêu đây?

Hoặc đi ngang qua cổng nhà trọ cầu cứu bảo vệ, vậy tỷ lệ anh ta đến giúp đỡ, hơn nữa còn không bị lính Pháp bắn chết là bao nhiêu?

Vắt óc nghĩ hết các cách, cô chưa bao giờ cảm thấy quãng đường 5 phút lại dài dẵng như thế. Cân nhắc ba lần, cô lại hỏi bằng tiếng Pháp: “Trước khi đến Trung Quốc, các anh có biết mình phải tuân thủ “quy định trừng phạt quân nhân Pháp phạm tội ở Trung Quốc” không?”

Hai người kia sững sờ, sau đó đảo mắt, “Ồ. Thì sao?”

Thấy bọn họ trả lời như thế, trong lòng cô càng thêm chắc chắn. Bình thường lúc ký hợp đồng, sẽ có một dòng “đã đọc và tuân thủ luật pháp và quy định liên quan”.

Nhưng chẳng mấy ai đọc nó cả, thậm chí có rất nhiều người còn không biết được tên của quy định điều luật, càng đừng nói gì đến việc cẩn thận ghi nhớ.

Cô nhắm mắt, cố gắng vắt óc thêu dệt nên mấy quy định. Nhưng đúng lúc này, bất chợt ở phía sau vang lên giọng nam quen thuộc nói tiếng Pháp ——

“Lính Pháp phạm tội ở trung Quốc sẽ do tòa án quân sự nước Pháp xử phạt. Nhưng nếu đối tượng các anh xâm hại được luật pháp Anh bảo vệ, thì thử đoán xem các anh sẽ gặp chuyện gì?”

Anh vừa dứt lời, chủ nhân của cánh tay khoác trên vai cô cứng đờ. Lính Pháp thấy người đến có gương mặt phương Đông thì lại quay sang hỏi ngược: “Vậy nói tôi biết, luật pháp Anh sẽ khiến chúng tôi gặp chuyện gì đây?”

“Tôi cũng không biết.” Sắc mặt hai gã lính Pháp trở nên lúng túng, còn Tạ Trạch Ích vẫn cười rất tươi, giọng nói nhẹ nhàng, so ra rất đối lập: “Tuy tôi cũng rất muốn biết, nhưng coi như là đồng nghiệp khác quốc tịch, tôi vẫn muốn khuyên các anh một câu chân thành: đừng có đụng vào quý cô đây.”

Đột nhiên tay cô bị người ta nắm lấy kéo mạnh, kéo đến cạnh Tạ Trạch Ích.

“Au revoir.” (Tiếng Pháp: tạm biệt.)

Tạ Trạch Ích ngông nghênh vẫy tay tạm biệt với hai gã nọ, rồi kéo cô đi vào nhà trọ.

Tới trước cổng nhà, Tạ Trạch Ích buông cô ra. Bảo vệ nhìn bọn họ với vẻ mặt không chê lớn chuyện, hai người không nói không rằng, một trước một sau đi vào thang máy.

Tạ Trạch Ích lên tiếng phá vỡ im lặng trước: “Bảo vệ gọi điện nói, anh ta có một mật báo liên quan đến cô Lâm. Tôi cho anh ta vài thứ tốt nên anh ta nói cho tôi biết chuyện.”

“…”

“Cũng coi như trong họa có phúc. Nếu không nhờ anh ta thì tôi đã không xuống nhà, cũng sẽ không thấy em bị hai gã người Pháp bắt cóc trắng trợn. Cũng nhờ em thuận miệng thêu dệt quy định lính Pháp ở Trung Hoa gì gì đó mà ngay cả tôi cũng không biết, nếu không, tôi cũng không biết sẽ có bao nhiêu phần thắng, bảo vệ em chu toàn khi đối mặt với hai gã lính Pháp.”

“Cám ơn anh.”

“Cám ơn là được rồi, nhưng sao trông sắc mặt khó coi thế?”

“Tôi không biết nữa. Bây giờ chỉ mới sáu giờ tối, rời khỏi nhà cũng chỉ năm phút. Tôi biết đến Thượng Hải có thể sẽ gặp một vài nguy hiểm không lường được, nhưng không chẳng rằng, mới một mình ra khỏi nhà lần đầu đã gặp… Là tôi sơ suất.”

“Coi như bài học, lần sau chú ý là được rồi.”

Ra khỏi thang máy, cô dừng bước, đột nhiên nghĩ đến luật pháp ba nước. Cô còn có Tạ Trạch Ích, có điều luật của viện nghiên cứu Anh bảo vệ. Vậy những người Trung khác thì sao? Bất luận là các quý ông quý bà giàu có trong tô giới, hay những người nông dân sống trong túp lều đơn sơ bên ngoài tô giới, nếu hôm nay người gặp chuyện này không phải cô mà là bọn họ thì sẽ ra sao?

Tạ Trạch Ích dừng bước, thấy vẻ mặt ảo não của cô thì cười bảo, “Đây chính là Thượng Hải. Ban đêm xã hội đen đấu súng bắn nhau, ban ngày người phương Tây diễu võ giương oai, lính ngoại quốc đánh chết người cũng không phải chuyện hệ trọng. Tiền lương của dân nơi khác tuyệt không quá 20 đồng một tháng; mà ở tô giới tấc đất tấc vàng, dù là trong một hành lang chật hẹp, mỗi tháng cũng phải trả 15 đồng tiền thuê phòng. Mà bên ngoài tô giới là Thượng Hải còn rộng lớn hơn thế, ở đó không có điện cũng không có nước, mấy trăm người trong lều lán dùng chung một vòi nước, mỗi tháng cầm được 8 đồng ít ỏi, nếu vào tô giới công cộng không may đắc tội với lính Tây, nhẹ thì bị đánh đập, nặng thì sao? Chỉ sợ sẽ đi tong cái mạng, ném xuống sông Tô Châu sông Hoàng Phổ. Ở đó mới là Trung Quốc hiện nay. Sự phồn thịnh này chỉ tồn tại ở ở rất ít các thành phố có cảng thương mại mở, là một hòn đảo biệt lập phồn thịnh trong hoang tàn.” Anh dừng lại, sau đó hỏi, “Em đã hiểu chưa?”

Cô gật đầu rồi lại lắc đầu.

Thời đại này lẫn thành phố này vừa xa lạ lại vừa quen thuộc. Cô đã đọc tiểu thuyết dân quốc, nam nữ chính đều là thiếu gia tiểu thư nhà giàu, ai ai cũng có xe hơi đưa đón ra vào những nơi phố xá sầm uất, không ai là không ở tô giới công cộng Nhưng những bộ tiểu thuyết ấy chưa bao giờ nói cho cô biết: bên ngoài thế giới bình yên phồn hoa này lại là một thế giới thảm thương đến vậy. Cô đã phòng bị trước, song vẫn không đủ. Và hậu quả của việc không phòng bị kỹ chính là: mới ra ngoài một chuyến, chỉ là quãng đường năm phút đi bộ thôi mà thời đại trước mắt đã đánh phủ đầu cô rồi.

Đẩy cửa phòng ra, Tạ Trạch Ích nhận lấy ống tưới nước trong tay cô, đổ nước nóng vừa đun vào đó, nước chảy vào đường ống dẫn nước, băng lập tức tan ra, nước chảy róc rách.

Cô dựa vào cửa phòng tắm, cảm khái gọi, “Anh Tạ.”

“Ừ?”

“Sau này… làm phiền anh vậy.” Ở đời sau, dù cô có gặp chuyện gì cũng chưa bao giờ lệ thuộc vào người ngoài. Cô cho rằng, thừa nhận với người ngoài “tôi cần anh” chứng tỏ năng lực của mình không đủ, là chuyện vô cùng xấu hổ. Nhưng ở thế đạo này, cô rất cần có một người như Tạ Trạch Ích ở bên. Viện nghiên cứu cần cô, cô đang ôm trong mình cả một bảo tàng, không muốn cứ thế biến mất một cách không rõ ràng.

Còn có gì đáng giá hơn hơn so với việc sống tốt, tận mắt chứng kiến đất nước Viễn Đông từ nơi tan hoang trở nên hùng mạnh, nhà nhà yên vui?

Tựa hồ như đang lựa lời, một lúc sau, Tạ Trạch Ích mới nói: “Lúc dì Cát giao em cho tôi, về mặt nào đó mà nói thì coi như em đã lâm nạn rồi. Tuy được bề trên ngầm cho phép, tôi cũng rất mong có thể có tương lai với một cô gái trẻ trung xinh đẹp. Nhưng nếu em đã từ chối tôi, vậy thì tôi sẽ chỉ phụ trách sự an toàn chứ không có quyền can thiệp vào tương lai của em. Cho nên, tôi sẽ không lợi dụng lúc em gặp khó khăn.”

Đường ống nước nóng đã thông, anh vặn vòi nước, cho nước nóng chảy vào bồn tắm sạch sẽ. Khép cửa phòng tắm rồi lui ra, lại dặn dò thêm một câu, “Tắm nước nóng đi, trong phòng bếp có canh nóng đấy. Mãi mà em không về nên tôi đành phải ăn trước. Nhớ khóa trái cửa sổ, ở đây rất an toàn, không cần phải lo. Nghỉ ngơi cho khỏe, sáng mai tôi… Sáng sớm mỗi ngày tôi đều sẽ đến đây.”
 
Trạng thái
Không mở trả lời sau này.
Top