Lượt xem của khách bị giới hạn

[Ngôn tình] [Truyện Hoàn] Giờ đang nơi đâu - Duy Đao Bách Tích

Trạng thái
Không mở trả lời sau này.
[Ngôn tình] [Truyện Hoàn] Giờ đang nơi đâu - Duy Đao Bách Tích

MUALARUNG91

Tác giả
Sưu tầm
Tham gia
25/8/19
Bài viết
4,780
Điểm cảm xúc
577
Điểm
113
Chương 60: Người bệnh (4)
Tuy bên này luôn gặp trắc trở trong thí nghiệm bắn phá hạt nhân, song cũng miễn cưỡng xem như tiến hành có thứ tự; Sở Vọng và Từ Thiếu Khiêm bị mọi người ở nhà họ Từ trêu chọc suốt một thời gian, đến khi Leon và Từ Văn Quân nhận được thư mời nhập học của trường Queen’s thì mới thôi.

Học xong tuần đầu tiên, Từ Văn Quân ủ rũ quay về nhà. Chị Từ quan tâm hỏi han nhưng Từ Văn Quân chỉ đóng cửa cái *sầm* rồi nhốt mình trong phòng.

Tiết Chân Chân lấy lý do dẫn Leon đi tìm Sở Vọng, trong một tuần có được ba ngày ở lì biệt thự họ Cát không chịu về.

Bà Cát cười trêu: “Cháu đến chỗ ta làm gì hả, không sợ lúc về bà Kiều sẽ mách lẻo với cha cháu à: ‘cháu toàn tâm toàn ý muốn đến trường dạy gái hồng lâu ở chỗ ta’?”

Chân Chân bĩu môi: “Vậy nếu cháu muốn đến, dì có chịu nhận cháu làm học trò không?”

Bà Cát quan sát cô một lượt từ trên xuống dưới, cười nói: “Đại tiểu thư được nuông chiều từ nhỏ như cháu là người luôn ngẩng cao đầu; đàn ông cũng phải cung phụng cháu như bồ tát, ‘chỉ được ngắm từ xa mà không được bỡn đùa’, vậy xin hỏi ta lấy gì giữ cháu lại đây?”

Tiết Chân Chân đã thua một vố vì Diệp Văn Dữ, nên đương nhiên cô biết bà Cát có ý gì. Bị mấy lời của bà đâm trúng tim đen, Tiết Chân Chân nghiến răng nghiến lợi bảo: “Sao dì Cát biết không giữ được?”

Sở Vọng và Tạ Di Nhã ngồi trên sofa ở phía bên kia, cũng đưa mắt nhìn sang.

Tiết Chân Chân quét mắt nhìn mọi người trong nhà, hắng giọng rồi tiến lên hai bước phô tư thế, bất chợt cất giọng hát bài “Thu Hải Đường” đang thịnh hành nhất ở Thượng Hải gần đây.

Đến khi cô hát xong rồi mà Sở Vọng vẫn còn ngẩn ngơ, cuối cùng cũng biết cụm “nhả châu nhả ngọc” mà cô ấy nói khi ở trên thuyền từ Thượng Hải về là ý gì, lập tức vỗ tay hoan hô cùng Tạ Di Nhã.

Tiết Chân Chân lấy lại bình tĩnh, vô cùng mong đợi hỏi bà Cát: “Sao ạ?”

Bà Cát nghe thấy cũng lọt tai nhưng vẫn uống trà, hừ một tiếng, “Tạm được.”

Kể từ ngày hôm đó, ngoài việc học tiếng Anh với chú Henry, Sở Vọng còn bị bà Cát cầm roi bắt học khiêu vũ chung với Tạ Di Nhã và Chân Chân, từ tango cho đến rumba, nhảy đến mức làm Sở Vọng kêu khổ liên hồi.

Ngoài hai cái khổ đó ra, bắt đầu từ sáng sớm mỗi ngày khi cầm tách trà lên, mọi hành vi hay lời ăn tiếng nói của cô đều phải vào khuôn khổ của bà Cát. Ví dụ như: tư thế cầm tách lúc uống trà, động tác, phương hướng và số lần khuấy tách đều có quy định cả. Nếu làm quá thì sẽ bị coi là không khéo léo.

Rồi lại ví dụ như: lúc cười với người khác thì không được để lộ răng —— từ xưa đến nay chỉ có nô bộc lấy lòng chủ nhân mới cười hở răng, đó là nụ cười nịnh nọt hạ đẳng. Nụ cười cao quý phải là nụ cười không hở một chiếc răng nào.

Cười không lộ răng, đồng thời còn phải cười thật tự nhiên, phải cười cho đẹp mắt, điều này đúng là khó khăn.

Từ đó trở đi, bà Cát lại đưa ra thêm một quy định mới, gọi là: khống chế và điều khiển biểu cảm.

Đối với rất nhiều quy định trong biệt thự họ Cát, vì từ nhỏ Tạ Di Nhã đã tiếp xúc nhiều nên đương nhiên có thể hiểu được. Còn Sở Vọng lại chẳng nhớ được gì, chỉ biết lấy giấy bút ra, bà Cát viết cái nào thì cô mới nhớ được cái đó, cũng tiện cho sau này từ từ học thuộc. Bà Cát vô cùng kiên nhẫn, có lúc còn nhắc nhở những khi cô viết sai: sức yếu phải lo trước, cần cù chịu học là chuyện tốt.

Quần áo mới vừa được đưa tới mấy hôm, bà Cát lại gọi thợ may đến nhà, bảo là muốn may đồ mùa Đông cho cô. Sở Vọng phải nói lý khuyên bà Cát: “Dù một ngày cháu có thay năm bộ đồ thì đến hai tháng vẫn không trùng lặp bộ nào. Đợi cháu mặc hết đồ trong tủ đã rồi may thêm cũng được mà.”

“Thế thì sao hả? Cũng không phải giúp việc trong nhà ta không giặt nổi.” Bà Cát hận nỗi cô không biết tranh giành cho mình, nói, “Cháu nên học tập hai đứa kia đi: có đứa nào không chạy đến chỗ cô xin chỉ điểm một hai hả? Cô chỉ muốn dùng hết tâm huyết bồi dưỡng cháu, có nhiều cơ hội tốt mà cháu lại không biết quý trọng. Danh môn khuê tú bây giờ có ai không có một kỹ năng: Chân Chân biết hát kinh kịch, Di Nhã biết hát nhạc kịch, còn cháu thì sao, cháu biết cái gì?”

“Cháu biết đàn dương cầm mà.”

“Ai mà không biết đàn dương cầm hả? Đến những dịp lớn cũng không cần một đứa như cháu biểu diễn làm người khác tán phục, chỉ cần đàn mấy khúc trợ hứng là đủ rồi.” Bà Cát nói, “Sau này đến những nơi bắt buộc phải xã giao, người khác hỏi cháu biết gì, cháu nói: ‘tôi biết làm thí nghiệm khoa học’. Không phải làm người ta cười ngất hả?”

Sở Vọng lè lưỡi, chạy ào về phòng như một làn khói. Bà Cát đứng đằng sau nhìn theo, chỉ cười với vẻ bất đắc dĩ, thôi thì tùy con bé, nó vui là được rồi.

Tuy bà rất muốn cô học thêm thứ gì đó, nhưng bà vẫn để Sở Vọng làm điều mình thích. Song, chỉ có ba thứ là tiếng Anh, phong thái và khiêu vũ là phải học thật tốt, mà Sở Vọng cũng không hề qua loa.

Còn với hai cô bé kia, trường học của bà Cát đã tiến hành đến trình độ khá kỳ quái.

Một ngày nào đó Sở Vọng đang định đến Du Ma Địa, vừa xuống lầu đi qua phòng khách thì vô tình nghe được đoạn đối thoại như sau:

Bà Cát: “… Bắt chuyện là điều mà xưa nay hai đứa luôn cho rằng đàn ông là người cần chủ động, nên vì vậy mà hai đứa không cố gắng làm gì hết, chỉ chờ có người đến cạnh mình? Hay hai đứa tưởng mình quá nổi bật rồi, khiến đàn ông tranh nhau giành giật, tốt nhất là vì hai đứa mà đánh nhau một trận sứt đầu mẻ trán, ai thắng thì có được hai đứa? Chắc chắn không phải là đạo lý này rồi. Đã gọi là xã giao thì phải bắt chuyện tiếp lời với tất cả mọi người. Dù là buổi xã giao tự do thì trong lòng vẫn phải có và cũng chỉ có một mục tiêu. Phải làm gì khiến đối phương chú ý đến mình, thả lỏng cảnh giác đến trước mặt mình, và cũng chỉ khiến một mình đối phương – chứ không phải là ai khác đến cạnh mình. Đây cũng là một môn học.”

Tiết Chân Chân nghe bà nói xong, bất chợt nửa thật nửa giả ngã vào lòng Tạ Di Nhã, ái ối một tiếng,âo giọng tinh nghịch nói: “Ôi chao! Xin lỗi! Tôi làm bẩn áo đuôi tôm của anh mất rồi! Anh cởi ra đi, để tôi giặt cho anh…”

Tạ Di Nhã kéo cô nàng vào lòng, cười to đầy vui vẻ.

Chân Chân nửa nằm trong lòng cô ấy, hỏi: “Giống thế này ạ?”

Bà Cát lạnh lùng nói: “Thì ra cháu đang cười nhạo ư, sao ta không thấy có gì đáng để cười hả?”

Bà Cát không hề mỉm cười, đi thẳng ra ngoài. Hai cô nàng cũng biết điều thôi cười, im lặng lắng nghe.

Bà Cát đi đến cạnh chậu đỗ quyên. Hoa đỗ quyên đang nở rộ thắm đỏ, nhưng rồi thời khắc đẹp nhất cũng qua đi, chỉ còn lại bông hoa khô héo. Bà Cát mặc sườn xám lụa mềm màu đen, bên trên đính rất nhiều cánh hoa hải đường màu tím. Bà liếc nhìn Chân Chân, chậm rãi cúi mặt xuống, nụ cười dần phai. Đến mức khiến hai cô gái ở phía sau hoài nghi không biết nụ cười vừa nãy có thật sự tồn tại không. Khi nhìn kỹ lần nữa thì bà Cát đã xoay lưng lại ngửi hoa – điều này khiến người ta không khỏi mất mát, cũng muốn đến xem hoa kia có thật sự đẹp như vậy không, rốt cuộc thơm như thế nào. “Hoa xinh phải bẻ liền tay, chớ để lâu ngày lại bẻ cành khô.”* Người xưa đúng là không gạt ta bao giờ.

(*Hai câu trích trong bài Kim Lũ Y của Đỗ Thu Nương, bản dịch khuyết danh.)

Đợi khi hai người ngơ ngác vô thức bước lên, bà Cát mới ngoái đầu lại hỏi: “Đã nhìn rõ chưa? Phải cho đối phương cảm thấy cháu là một thoáng tình cờ gặp gỡ diễm lệ, như thế sẽ nhớ kỹ trong lòng, muốn để sự tình cờ ấy trở thành thật. Nhìn vật chứ không phải nhìn người. Điều này gọi là —— ý không ở trong lời.”

Sở Vọng đứng ở cửa mặc giày, thu hết mọi sự vào mắt. Kiếp trước độc thân hơn hai mươi lăm năm có thừa, cô giật mình biến sắc: thì ra thả thính là một kỹ năng vô cùng siêu phàm như vậy!

Nhưng diễn đến mức xuất sắc giống như bà Cát, thì lại là một bộ môn nghệ thuật; cô mà đem gương mặt của quái nhân khoa học thiếu thốn biểu cảm lên sàn diễn, kiểu gì một phút sau cũng sẽ trở thành hiện trường tai nạn giao thông mất thôi.

Cô chặc lưỡi nghĩ bụng: hình ảnh đẹp mắt này nên để người khác diễn thì hơn. Cô chỉ thích hợp nghiên cứu công thức tán xạ Rutherford thôi.

***

Không ngờ ba tuần sau, bài học này đã có cơ hội được thực hành.

Mọi bữa tiệc xã giao ở biệt thự họ Cát đều được dồn vào cuối tuần, nên cuối tuần sẽ là lúc cô đến biệt thự họ Kiều. Có lẽ vì ở nhà cô út quá thoải mái nên một hôm vào ngày thứ Bảy khi dạy tiếng Latinh ở nhà họ Từ xong, cô lại bất tri bất giác xuống xe buýt ở cửa nhà họ Cát. Hôm đó cô mặc áo dài cổ đứng màu xanh xám, vài giọt mưa rơi lên áo khoác trắng biến thành dấu hoa mai tối màu. Cổng ở biệt thự nhà họ Cát mở rộng, sắc màu rực rỡ, từ phòng khiêu vũ đến trên bãi cỏ đông đúc các quý ngài quý cô, muôn hình muôn vẻ.

Cô thận trọng né tránh mọi người đi đến gần cầu thang, đang định thở phào thì vô tình nhìn thấy một người trung niên chừng ngoài bốn mươi, mặt vuông da ngăm đen, khóe mắt xệ xuống, đỉnh đầu trụi lủi thành hình nhọn hoắt, áo mũ chỉnh tề, cầm ly rượu đế cao đi tới cạnh cô, cười hỏi: “Ướt rồi đúng không, có muốn làm vài hớp Cabernet không? Đề phòng cảm lạnh… hửm?”

Chữ “hửm” không rõ ý ở cuối câu kết hợp cùng nụ cười mập mờ trên mặt ông ta khiến cô suýt nữa đã rùng mình. Cô vẫn có thể thốt ra vanh vách những câu phá tình cảnh, nhưng đây là khách do bà Cát mời đến, sợ sau này cô út còn phải xã giao tiền tài gì đó với ông ta nên không dám từ chối trực tiếp. Đang ảo não thì Tạ Di Nhã như thiên thần hạ phàm xuất hiện ở sau lưng cô, rất tự nhiên khoác tay quý ông kia, nở nụ cười tinh nghịch xen lẫn ngây thơ kéo ông ta rời đi, miệng nói rôm rả: “Tìm ngài lâu lắm rồi đấy, sao ngài lại ở đây?” Cô vừa nói vừa ngoái đầu nháy mắt với Sở Vọng, ra hiệu cô nhân cơ hội mau chóng chuồn lên lầu đi.

Sở Vọng đi lên mấy bậc thang, lại nghe thấy Tạ Di Nhã ở đằng xa cố ra vẻ ngạc nhiên cười nói: “Ôi trời! Thì ra là ngài Triệu sao! Tôi lại nhầm ngài với ngài Tưởng nữa chứ, xin lỗi xin lỗi! Ngài Tưởng không cao to lại phong độ như ngài ư? Chỉ là do tôi ngưỡng mộ ngài Triệu thôi, lần này thất lễ như vậy, nhất định ngài Triệu sẽ không kể lại với ngài Tưởng đâu đúng không?”

Tạ Di Nhã phải mất một lúc mới dỗ được ngài Triệu kia vui vẻ. Vì tất cả mọi người đều biết, dạ vũ tối nay, bà Cát mời đủ số người để bắt cặp. Tạ Di Nhã có ngài Tưởng, nên theo lẽ ngài Triệu cũng sẽ giữ khoảng cách lịch sự với cô.

Vất vả lắm mới tách được người đi, Tạ Di Nhã chạy một mạch lên tầng hai, kéo Sở Vọng nhanh như chớp vào phòng khách tầng hai, ngồi xuống ghế ở đối diện cửa sổ sát đất.

“Tối nay cậu và Chân Chân nên cám ơn mình đi nhé!” Tạ Di Nhã chỉ vào mình, mỉm cười tranh công.

“Cám ơn cậu lắm luôn!” Sở Vọng cười nói, “Còn Chân Chân thì sao?”

Tạ Di Nhã bĩu môi nhìn ra ngoài: “Kịch hay sắp bắt đầu rồi.”

“Kịch hay gì?”

“Tối nay cậu Diệp kia cũng cùng người bạn nào đó đến đây, Chân Chân ở trên lầu chờ cậu, vô tình đụng mặt. Dì Cát không thích bắt cặp cho đám thanh niên kia nên lẻ người lắm. Trong số các cô gái có một cô tiểu thư họ Lư, chơi đàn cổ rất giỏi, tối nay cô ta là người nổi trội nhất. Bạn của cậu Diệp cũng bị cô ta thu hút, ai ai cũng xúm lại nghe cô ta đánh đàn. Mình mới đẩy Chân Chân, giật dây nó nói: ‘Mấy hôm trước dì vừa dạy gì, sao không đi thử một lần đi?’ Cậu ta nói: ‘Sau ngày chơi quần vợt hôm đó, coi như tôi nhìn rõ bản tính ngu ngốc cả Diệp Văn Dữ rồi, không còn hứng thú với anh ta nữa.’ Mình mới nói: ‘Dù anh ta có ngu ngốc đi nữa, thì trong đời này cậu cũng từng thất bại một lần ở chỗ anh ta, sau này nhìn anh ta sẽ mãi cảm thấy thua anh ta, không lấy lại được tự tin, cả đời này khó mà thoát thân.’ Thế là cậu ta dao động. Mình mới tiếp tục nói, ‘Thỉnh thoảng đi chơi một lần đi, cha cậu cũng không biết đâu; hơn nữa, ở đây ngoài Diệp Văn Dữ ra, có ai biết họ tên cậu là gì đâu?’ Thế là cậu ta đi, cũng chỉ mới đây thôi. Ấy ấy, đến rồi kìa ——”

Tiếng đàn “Phù Sinh Lục Ký” vừa cất lên, các chàng trai xúm quanh cô gái chơi đàn bên kia đột nhiên rối rít tránh ra —— Chân Chân xuất hiện. Cô mặc sườn xám dài màu vàng sẫm trông rất hoạt bát, vạt áo sườn xám không dài quá mắt cá chân, bên trên thêu những phiến lá ngân hạnh màu trắng bạc; tóc vén lên thành búi tóc nho nhỏ, càng khiến gương mặt trông nhỏ nhắn xinh đẹp. Cô hòa mình vào cùng tiếng đàn, cất tiếng hát buồn thương: “… Đã gặp gỡ thì dễ kết bạn, vậy gặp chi bằng không gặp; Gặp như không gặp, sao phải bi thương sao phải oán hận….”

Tiết Chân Chân vẫn hát, nhưng giọng ca lạnh lùng chẳng nhìn một ai. Lúc bước đi, giày cao gót bé nhỏ qua lại hai bước, vạt sườn xám như có như không lướt qua giày da của Diệp Văn Dữ. Rốt cuộc sườn xám của mỹ nhân là lụa mềm hay gấm thêu, cách đôi giày da chân anh ta không thể cảm nhận được; nhưng chủ nhân đôi chân đã xao động. Đến người đứng nhìn từ xa như Sở Vọng và Tạ Di Nhã cũng có thể cảm nhận: lúc này ánh mắt sáng bừng của Diệp Văn Dữ cứ di chuyển theo Chân Chân, có vẻ rất xúc động, có cảm giác mới phát hiện ra một thứ tuyệt vời, mang theo sự sùng bái không nỡ làm phiền, và cả chút cầu xin mong đợi cô có thể ngoái đầu nhìn mình.

Tạ Di Nhã mỉm cười ăn dưa ngọt, cũng nhét một miếng vào miệng Sở Vọng.

Sở Vọng nheo mắt, thở dài cười nói: “Thứ cô út dạy đúng là dễ xài.”

***


Bà Cát không cho phép Sở Vọng tham dự hoạt động xã giao trong nhà. Đồng thời bà cũng không cho Chân Chân cuối tuần đến nhà mình ở lại. Nhưng từ khi Tiết Chân Chân được đích thân bà Cát dạy dỗ, thành công “dụ dỗ” Diệp Văn Dữ cắn câu, kể từ hôm đó trở đi, Diệp văn Dữ tìm đủ mọi cách để có thể đến biệt thự của bà Cát. Bà Cát cũng loáng thoáng nghe về chuyện này, ngẫm nghĩ một lúc rồi gọi Sở Vọng và Di Nhã đến, hỏi: “Hai đứa nói xem, cậu ta nhìn trúng ai ở chỗ ta thế?”

Sở Vọng cươi to. Nhưng vẫn che giấu chuyện Chân Chân lén tham dự yến tiệc của cô út, nên cô quyết định ngậm miệng không trả lời.

Về sau Chân Chân không xuất hiện ở bữa tiệc nào ở biệt thự họ Cát nữa, nên Diệp Văn Dữ nhiều lần chưng hửng, lúc đến thì rất mong chờ nhưng lại phải ra về trong cụt hứng. Tạ Di Nhã nhìn thấy cả, và lần nào cũng tường trình lại chính xác với Chân Chân. Cuối cùng còn bổ sung một câu: “Tôi đoán nếu anh ta không tìm được cậu lần nữa thì chắc không kìm nén nổi nữa, kiểu gì cũng tan học chặn đường cậu tỏ tình cho xem.”

Chân Chân nghiêm túc suy nghĩ, sau đó nói: “Nếu anh ta đến thật thì tôi sẽ đồng ý.”

Di Nhã và Sở Vọng giật mình. Di Nhã mím môi cười hỏi: “Cậu không chê anh ta từng bị Lâm nhị tiểu thư mà chúng ta ghét nhất vứt bỏ à?”

Chân Chân bật cười, nghiêm mặt nói: “Tuy dì Cát có bảo ‘để đối phương cảm thấy đây là thoáng tình cờ diễm lệ’, nhưng chúng ta cũng biết rõ —— đấy là dụ dỗ trần truồng. Dù là dụ dỗ cao tay tới mấy thì vẫn là dụ dỗ. Trước đó tôi dụ dỗ anh ta cũng bởi vì tôi vẫn còn có hảo cảm với anh ta, tôi không chối bỏ điều này. Bản thân mình không muốn thì đừng áp đặt cho người khác. Nên hôm qua lúc cậu bảo tôi xuất đầu lộ diện, tôi cũng có suy nghĩ đến vấn đề này: ‘rốt cuộc mình còn thích anh ta không?’ Sau khi suy nghĩ rõ ràng, tôi lại tự nói với mình: nếu thành công, vậy thì cứ ở bên anh ta thôi. Nếu thất bại, cùng lắm cũng chỉ mất một người nữa thôi. Tôi đạt được mục đích rồi đá văng anh ta đi chỉ vì để thỏa mãn lòng hư vinh cao quý của mình —— vậy thì tôi có khác gì Lâm Doãn Yên đâu?”

Sau đó, Chân Chân nói tiếp: “Còn cậu đấy. Đang còn trẻ mà cậu định thật lòng yêu đương với ngài Tưởng hả? Điều kiện của cậu tốt hơn tôi, chọn người con trai xuất sắc nào mà không được?”

Tạ Di Nhã mỉm cười không đáp, chỉ qua loa vài câu cho qua đề tài này.

Rồi một dịp nào đó khi không có mặt Chân Chân, rốt cuộc Tạ Di Nhã cũng chịu moi tim móc phổi tâm sự về vấn đề này với Sở Vọng.

“Không muốn thảo luận chuyện này với cậu ta, chỉ vì mình ghen tị cậu ta.” Cô cười nói.

“Mình ghen với cậu ta, ghen đến mức phát điên lên, bởi vì nếu so với cậu ta, mình cảm thấy bản thân đúng là đứa bỉ ổi. Mình đang ở tuổi hoa, đương nhiên cũng giống cậu ta, muốn có một mối tình tự do nồng cháy với một chàng trai trẻ tuổi hào hoa. Xông ngang đánh thẳng, bể đầu chảy máu cũng được, rất tiếc là mình lại không có vốn liếng và sức lực đó. Đu cha mình có tiền thì cũng không địch lại chị em đông đảo trong nhà. Cha thương yêu mình, chắc chắn sau này cũng sẽ cho mình nhiều của hồi môn – có lẽ với người ngoài là nhiều, nhưng với mình thì có mấy cũng không đủ. Thậm chí mình có thể đoán trước được rằng, nếu mình không ra sức tranh thủ cho mình thì cuộc sống hôn nhân sau này sẽ còn tệ hơn chị gái gả trước đó.

Mình là người theo chủ nghĩa tôn thờ đồng tiền, nên dù có rất nhiều chàng trai tốt theo đuổi mình, thì ngoài việc nhìn gương mặt trẻ tuổi anh tuấn và hành động lịch thiệp khéo léo của họ ra, mình còn phải thăm dò rất cẩn thận – liệu bọn họ có cưới mình không. Nếu gia thế kém thì mình sẽ loại bỏ. Còn gia thế lớn, sợ là trong nhà sẽ không cho anh ta cưới một cô gái lai làm vợ cả. Nên phạm vi lựa chọn của mình nhỏ đi rất nhiều… Mình thích cuộc sống do tiền mang đến, mình cũng biết rõ bản thân phải trả giá rất đắt vì điều đó.”

“Huống hồ ngài Tưởng có gì không tốt? Có tiền có thế, trưởng thành chững chạc, biết tình biết thú, còn biết nuông chiều cho tính tình của mình. Dì Cát hiểu rõ mình đấy, trong mắt dì ấy, ngài Tưởng là bến đỗ khá ổn cho mình, không phải tốt hơn Diệp Văn Dữ ngây thơ kia nhiều sao?” Cô nàng vừa nói vừa nghịch ngợm chậu thu hải đường bà Cát đặt trên bàn, vẫn mỉm cười, nhưng nụ cười kia lại không có vẻ chắc chắn. Một lúc sau, cô lại hỏi Sở Vọng: “Vậy còn cậu thì sao? Nghe Chân Chân nói chàng trai kia ôm một con gấu Teddy to đùng vượt biển đến tìm cậu chỉ vì làm cậu vui, có vẻ là hôn nhân tốt nhỉ? Thế cậu có thích anh ta không?”

“Có lẽ là đối tượng kết hôn rất thích hợp, nhưng… Tình yêu ư, mình không chắc lắm, vì mình không hiểu.” Sở Vọng cẩn thận suy nghĩ, sau đó cười đáp. Cô nói thật: đời trước chỉ toàn ru rú trong phòng, có thời gian rảnh là lại làm bạn với tiểu thuyết, nên cô không có cơ hội để yêu đương, cũng không có tư cách gì thảo luận đến chuyện này với cô ấy.

“Mình cảm thấy cậu là người rất có lý trí, tuy ít nói nhưng làm gì cũng có mục đích,” Di Nhã nói, “Nhưng thông thường quá lý tính lại không liên quan đến tình yêu. Kết hôn là chuyện khiến một người phụ nữ đầu óc mê muội, không phải là chuyện nhất thời vui vẻ không màng hậu quả sao? Vì vậy mình biết, đối với ngài Tưởng, mục đích của mình quá rõ ràng, tuyệt đối không phải là tình yêu. Còn cậu thì sao?”

Đối với câu hỏi này, Sở Vọng chưa bao giờ nghĩ đến. Dù là đời trước hay đời này – cô có quá nhiều chuyện phải làm, không có cách nào phân tâm để yêu. Quá bận nên không rảnh để yêu.

Cô là một người giỏi quan sát, thường thích nấp sau lưng mọi người, lấy góc nhìn của thượng đế để nhìn mọi sắc thái thế gian, thỉnh thoảng trong lòng sẽ cảm thán hoặc giễu cợt. Cô gần như không muốn tham gia vào bất cứ chuyện gì, chỉ ngoài một chuyện – kiến thức chuyên ngành của cô. Cô nghiêm túc học tập, nghiêm túc suy tính một vấn đề, những lúc như vậy cô cần một môi trường phải cực kỳ đơn giản nhưng có trình độ cao để cô toàn tâm toàn ý tập trung, như vậy kết quả mới có thể khiến cô hài lòng một trăm phần trăm.

Vì sao con gái nhất định phải có tình yêu?

Bắt đầu từ khi học đại học, nhìn các cô gái xung quanh hết mình vì tình yêu, không đụng tường Nam không quay đầu, cuối cùng đụng đến khi sứt đầu chảy máu, cô đã nghĩ về câu hỏi ấy rất nhiều lần.

Vì sao nam nữ không thể mệnh ai nấy làm, hết mình trong lĩnh vực của mỗi người, rồi trực tiếp bước vào thánh đường hôn nhân luôn?

Tình yêu chỉ là tác dụng chính trong tiến hóa, có tác dụng kích thích hormone. Hormone đưa đến một hiệu quả tốt: truyền lại gen cho đời sau. Tác dụng phụ của hormone là: khiến người ta bất chấp điên cuồng không màng hậu quả.

Vậy vì sao không thể lược bớt phản ứng phụ của hormone, trực tiếp đạt đến hiệu quả trước?

Dĩ nhiên cô không thể nói ra những suy nghĩ này với Tạ Di Nhã được. Cô có rất nhiều suy nghĩ mà người ngoài không hiểu, nên hầu như lúc nào cô cũng lựa chọn im lặng.

***

Người có phiền não, ngoài các cô gái ở biệt thự họ Cát ra, còn có cả tụi nhỏ ở nhà họ Từ.

Lần nào Chân Chân đến biệt thự của bà Cát cũng là vào lúc Sở Vọng dẫn Leon đến nhà họ Từ học tiếng Latinh. Một ngày nào đó, Chân Chân để Leon ngồi dưới phòng khách, âm thầm lên lầu tìm Sở Vọng nói chuyện: “Gần đây Leon có vẻ khá… kỳ lạ. Em ấy không chịu nói với ai hết, chị sợ em ấy gặp chuyện gì đó rồi, em có biết không?”

Mới đầu Sở Vọng cũng không nhận ra vấn đề của Leon, nhưng lại thấy Từ Văn Quân kỳ lạ trước. Một hôm nào đó khi cô đang dạy tiếng Latinh ở nhà họ Từ, lúc học xong, cô đột nhiên nghe thấy Từ Văn Quân nói với dì Văn thế này: “Du hexe!” (Đồ ả đàn bà chua ngoa.)

Đây là câu chửi tục tiếng Đức. Sở Vọng kéo Từ Văn Quân đến, nghiêm túc hỏi: “Ai dạy em cũng câu này?”

Dù dì Văn là người hầu nhưng tốt xấu gì cũng là trưởng bối, mà tôn trọng chính là đạo lý làm ngươi cơ bản mà một đứa trẻ trong gia đình có giáo dưỡng phải biết. Các cậu bé mới lớn lần đầu tiếp xúc với từ ngữ thô tục thường không ý thức được vấn đề nghiêm trọng. Cậu ấp úng một hồi rồi nói: “Là Leon dạy em.”

Sở Vọng rất khó hiểu: Trong nhà bác cả chỉ có thể học được tiếng Bồ Đào Nha, tiếng Anh và tiếng Nhật, thằng bé học tiếng Đức từ đâu vậy.

Không bao lâu sau, cô đã bắt quả tang kẻ đầu sỏ này tại biệt thự nhà họ Cát.

Bình thường Chân Chân vẫn cứ dẫn Leon đến nhà bà Cát vào buổi chiều thứ Tư không có lớp, sau đó cùng Di Nhã lên lầu uống trà. Sở Vọng về đến nhà là lên lầu thay áo, nên Leon có khoảng nửa tiếng một mình ở dưới phòng khách.

Hôm đó cô bất chợt nhớ ra mình để quên cặp sách ở phòng khách. Lúc đi xuống thì thấy Tạ Trạch Ích trắng bệch và Leon dưới phòng khách, hai người một lớn một nhỏ ngồi trên ghế nói chuyện bằng tiếng Anh.

Tạ Trạch Ích đang nói: “… Hôm nay học câu này: Das geht sie gar nicht an! Du Kleiner sheisser!” (Đó không phải là chuyện của mày, đồ cứt chó.)

Leon lặp lại.

Tạ Trạch Ích nói: “Nếu bọn chúng hỏi: ‘câu đó có nghĩa gì’ thì em cứ nói: ‘về nhà hỏi mẹ mày đi!’”

Leon khôn khéo lặp lại: “Về nhà hỏi mẹ mày đi! Đồ đống cứt chó! Ha ha ha ha ha…”

Sở Vọng: “…”

Được lắm, để tôi bắt quả tang rồi nhé.

Cô sải bước đi vào phòng khách, Leon sợ hãi run rẩy đứng dậy, bất an nhìn Tạ Trạch Ích. Tạ Trạch Ích cũng chậm rãi đứng thẳng, vỗ vào Leon bảo cậu rời khỏi hiện trường phạm tội trước.

Tạ Trạch Ích nhướn mày cười, “Chết rồi! Bị phát hiện rồi.”

Sở Vọng cười nói: “Anh Tạ cảm thấy chơi như vậy thú vị lắm hả?”

“Cũng bình thường.” Tiếp tục mặt dày đáp qua loa.

“Tôi còn tưởng anh Tạ là người đứng đắn, thì ra bản lĩnh lưu manh vẫn như xưa. Nay còn mở cả lớp học nữa cơ đấy, định đào tạo đời sau, phá cuộc đời của hậu bối?”

“Giận hả?” Tạ Trạch Ích nhìn cô, vừa dịu dàng lại nghiêm túc nói: “Tôi đùa hơi quá rồi, xin lỗi em.”

“Anh Tạ có bản lĩnh lớn, biết dùng tà thuyết, dùng ngôn ngữ người khác nghe không hiểu để trêu đùa con gái, hoặc là trêu đùa người khác. Không cho người ta lấy một giây bình yên, đây là bản lĩnh của anh Tạ, là thứ người khác không có, tôi vô cùng bội phục. Mấy lời như Schatz, ich liebe dich* làm người ta nghe không hiểu, thường khiến anh có vẻ rất khí thế khi bản thân có học vấn đúng không?” Sở Vọng bình tĩnh cười nói.

(*Tiếng Đức, nghĩa là “bảo bối, anh yêu em”.)

Tạ Trạch Ích nghiêng đầu lắng nghe, sau đó cười bảo, “Lời ở ngoài cửa sổ ngày đó bị em nghe thấy rồi.” Dừng lại một lúc, anh thành khẩn nói: “Tôi xin lỗi, những chuyện như thế này chắc chắn sẽ không xảy ra nữa, em cứ yên tâm.”

Nói rồi anh rảo bước đi ra cửa, mặc thêm áo khoác rồi đi thẳng ra ngoài.

***

Cũng vào một tuần sau, cô phát hiện ra mình đã làm sai chuyện.

Ngài Dupont đi Nam Dương về, vốn ông ấy định về thẳng Pháp nhưng sau đó đã đổi ý, cập bến Hương Cảng nhờ ngài Saumur tìm Sở Vọng. Ngài Dupont về Pháp chuyến này là muốn xây dựng một công ty bật lửa quy mô nhỏ, bổ sung thêm nghiệp vụ chế tạo bật lửa. Ông ấy rất coi trọng thiết kế của Sở Vọng, vì muốn thấy được nhiều thiết kế tinh tế của cô hơn nên đã cố ý mời cô đến, hỏi xem có muốn hỗ trợ về mặt kỹ thuật cho ông ấy không.

Sở Vọng rất lấy làm xấu hổ về chuyện này – bởi vì bản thiết kế đó vốn do công ty của ngài Dupont làm ra trong tương lai. Cô luôn miệng cám ơn ngài Dupont, bày tỏ chẳng qua đó chỉ là hứng nhất thời của mình thôi chứ không có thiên phú về mặt này, chưa chắc trong tương lai đã có thể làm ra tác phẩm khiến ông hài lòng.

Ngài Dupont thất vọng rời đi, còn ngài Saumur lại uyển chuyển đề nghị: “Tôi cho rằng cháu rất có thiên phú đấy. Dù bản vẽ trước chỉ là tình cờ, nhưng cháu có nhớ những bản cắt đồ họa của mình không. Chế tạo bật lửa là xu hướng thời trang của đàn ông mới thịnh hành gần đây, tương lai cũng khá khả quan. Xét về mặt nào đó thì các bản cắt đồ họa không phù hợp với thẩm mỹ thời trang nữ giới, nhưng lại rất phù hợp với thiết kế bật lửa của nam giới. Đối với lượng lớn sản xuất trong tương lai, phương thức phác họa này cũng rất thích hợp.”

Sở Vọng cẩn thận suy ngẫm, nghĩ lại: thị trường bật lửa vẫn chưa phát triển, dù cô có tốn công thế nào đi nữa thì hình như đã tồn tại như sư tổ rồi. Vạn sự khởi đầu nan, tiền không kiếm đúng là lãng phí. Thế là cô thay đổi ý định, ngài Saumur cũng rất vui vẻ báo tin vui cho ngài Dupont trước khi ông ấy rời khỏi Hương Cảng.

Vì Sở Vọng còn nhỏ tuổi, nên chữ ký và tài khoản ngân hàng trên hợp đồng, cô quyết định toàn quyền giao cả cho bà Cát. Sau khi bàn bạc thỏa đáng với ngài Dupont, cô chỉ nêu ra một yêu cầu: hiện tại khoan sản xuất số lượng lớn với bản vẽ bật lửa lần trước. Cô hy vọng nó sẽ là thứ độc nhất trên đời này.

Dĩ nhiên ngài Dupont cũng rất vui vẻ tiếp nhận đề nghị này.

Trên đường đi xe buýt về, qua cửa kính xe, cô thấy có sáu bảy cậu bé đang tụ tập ven đường, hình như đang có tranh chấp. Các cu cậu mặc đồng phục màu xanh đen, đeo túi Cambridge, có lẽ là học sinh của trường Queen’s vừa tan trường.

Vì xe buýt đang dừng ở trạm nên cô để ý nhìn kỹ. Năm đứa bé cao lớn vây hai cậu bé khác vào giữa đánh chửi, tên cầm đầu nói bằng tiếng Quảng: “Mẹ của Leon là nô lệ Bồ Đào Nha, làm kẻ hầu cho người Anh… Đột nhiên leo lên giường ngài Kiều, một người được thế cả họ được nhờ, nhưng trong xương vẫn chỉ là hạng thấp kém, khác quái gì bọn gái điếm Bồ Đào Nha ở Macao!”

Một tên khác nói, “Bọn mày không biết hả? Mẹ thằng Quân là ả đàn bà kỳ lạ bó chân đấy, còn là Phù Dung tiên tử nghiện thuốc phiện! Nên hai đứa này mới chơi cùng nhau…”

Bốn đứa còn lại phá lên cười.

Đầu Sở Vọng nổ ầm, hỏa khí bốc lên đỉnh đầu, gạt mọi người ra xông xuống xe. Trước kia cô cũng là giảng viên, trần đời này ghét nhất bạo lực học đường sỉ nhục cha mẹ người khác, nên lúc này trong đầu chỉ nghĩ: “Một đám nhãi con lông tóc còn chưa mọc đủ mà đã biết sỉ vả người khác, để tôi dạy xem mấy đứa là thứ gì.”

Nhưng vừa xuống xe cô đã bình tĩnh lại: hình như con trai ở tuổi này rất ghét bị mất mặt trước người khác phái. Dù là cùng lứa hay là người lớn tuổi hơn có thể xưng là trưởng bối.

Thất bại trong trận vật lộn với người cùng phái chỉ là chuyện nhỏ, còn mất mặt trước người khác phái thì khó mà ngóc đầu lên được.

Cô đang do dự thì chợt nghe thấy Từ Văn Quân dùng sức hét lớn: “Hau ab! Du bloede Kuh!” (Cút đi! Lũ súc sinh!)

Không khỏi thừa nhận, dùng tiếng Đức để mắng người đúng là rất có khí thế. Huống hồ lại còn nói ngoại ngữ người khác nghe không hiểu, thế là câu nhục mạ đó đã khiến bốn đứa trẻ cao to kia ngẩn người.

Một trong số họ lúng túng cười mắng lại, nói: “Mày sủa cái gì đấy hả thằng chó!”

Leon mỉm cười: “Không hiểu đúng không! Không hiểu thì về mà hỏi mẹ tụi mày đi, hỏi bà ấy có biết Bloede Kuh nghĩa là gì không.”

Sở Vọng ngẩn ra.

Thì ra chửi tục cũng có thể dùng làm vũ khí.

Bốn cậu bé kia bất chợt lép vế về mặt khí thế, trố mắt nhìn nhau. Khí thế lời nói không đủ mạnh, vậy ắt sẽ động tay động chân. Bốn quyền khó địch mười tay, nên Sở Vọng rất kịp lúc xông đến, hét lên bằng tiếng Anh: “Cảnh sát Anh đến bắt học sinh Trung Quốc gây chuyện, còn dùng súng bắn chết người, không mau chạy đi ——”

Phản ứng của bốn đứa bé kia rất nhanh, ắt bình thường làm chuyện xấu quen rồi, lại còn được cha mẹ dạy dỗ, nên khi nghe nhắc đến cảnh sát Anh thì lập tức bỏ chạy tứ phía. Từ Văn Quân thấy thế thì mắng với theo: “Kommen sie mir nicht!” (Đừng xuất hiện làm bẩn mắt tao nữa!)

Leon nhận ra giọng của Sở Vọng, đứng ở xa nói: “Cám ơn chị.”

Sở Vọng mỉm cười lắc đầu với cậu.

Leon nghĩ ngợi rồi bảo: “Sau khi nhập học, em với Văn Quân hay bị mọi người ức hiếp, chỉ kể chuyện này với anh Tạ. Anh ấy là người tốt, chị đừng trách anh ấy.”

Sở Vọng gật đầu. Cô trầm ngâm một lúc, sau đó nói: “Mắng chửi có thể dùng làm vũ khí, nhưng đừng chĩa nó vào người thân của mình, vì như vậy sẽ làm họ đau lòng lắm.”

Hẳn Từ Văn Quân cũng nghe thấy. Nhưng cậu kiêu căng thành thói, giả vờ như không nghe thấy gì, tự đắc quay đầu đi, không buồn để ý đến Sở Vọng.

Có điều cô biết, chắc chắn cậu nghe lọt.

***

Sở Vọng mang lòng áy náy với Tạ Trạch Ích, vẫn muốn tìm cơ hội nói xin lỗi anh nhưng lại không gặp anh ở biệt thự họ Cát nữa.

Có một hôm cô hỏi bà Cát, bà Cát nói: “À, cậu ta chính thức tốt nghiệp về Anh để nhận quân hàm rồi. Hai mươi mấy năm trước, huân tước Tạ tự dưng nhận người thân ở Anh, cũng vì thế mà ông ta và con trai có quốc tịch Anh. Vận may của cậu ta cũng tốt đấy, con trai duy nhất của người họ hàng này đã chết, luật pháp Anh kiểm tra một hồi, rốt cuộc phát hiện ra, Tạ Trạch Ích được tập tước*. Cháu nói xem có tức cười không? Nam tước người da vàng – cho dù da cậu ta rất trắng. Về lý thì không thể tập tước cho cậu ta được, nhưng cậu ta đi học ở nước Mỹ, sắp tốt nghiệp thế nào cũng nhận được hàm trung úy. Bởi vì có quan hệ đó nên là lôi ra kiểm tra từng tầng một, kết quả kiểm tra là: chắc chắn không thể tập tước, song có thể có được đặc quyền của nam tước. Dù không có nhiều đất lắm nhưng cũng có thể xem là quý tộc.”

(*Tập tước: Con trai được thừa kế tước vị của cha ông.)

Sở Vọng ồ lên, hỏi, “Vậy bao giờ thì anh ta về?”

“Về Hương Cảng hả?” Bà Cát suy nghĩ, “Cậu ta phải đến Thượng Hải làm cảnh sát tuần tra ở tô giới. Sau khi nhận hàm có lẽ cũng ở đây chừng ba bốn tháng. Sau đó chắc sẽ đến Thượng Hải luôn, có lẽ không gặp ở Hương Cảng nữa.” Dứt lời, bà Cát nhìn nét mặt Sở Vọng, cười nói: “Con người cậu ta rất thú vị, không có cậu ta, trong nhà cũng không náo nhiệt. Có đúng không?”
 

MUALARUNG91

Tác giả
Sưu tầm
Tham gia
25/8/19
Bài viết
4,780
Điểm cảm xúc
577
Điểm
113
Chương 61: Người bệnh (5)
Đối với Sở Vọng, Từ Thiếu Khiêm là một người bạn nhã nhặn tốt bụng, còn với từ Văn Quân, anh lại là một trưởng bối trị gia rất nghiêm. Chính vì nguyên nhân này nên anh khó có thể hiểu được cháu trai của mình từ góc độ bạn bè.

Về mặt khác, bộ phận tính toán trong phòng thí nghiệm vật lý hạt nhân đã đến giai đoạn lửa sém lông mày rồi, bắt buộc phải mời thêm ba nhân viên tính toán đến giúp đỡ. Cũng vì vậy mà trong mấy tháng qua, anh không có thời gian rảnh để quan tâm đến Từ Văn Quân. Nên dù Văn Quân đã bị bắt nạt ở trường một thời gian dài, Từ Thiếu Khiêm vẫn không hề hay biết.

Sở Vọng và Lương Chương cũng là cùng một kiểu người: hễ đã say mê với thứ gì đó thì sẽ trở nên rất tập trung. Có rất nhiều khi người ta đang nói chuyện với mình, thì vì trong đầu đang tăng tốc tính toán và suy nghĩ nên sẽ tự động xem nhẹ bọn họ. Thông thường khi người đối diện thao thao bất tuyệt nói xong hết rồi, cô mới đột ngột hoàn hồn, đáp một câu rất không liên quan: “Hở?”

Mà chị Từ lại chính là ngoại lệ với Từ Thiếu Khiêm. Cho dù có tăng ca trễ đến mấy thì cứ đến tối thứ Sáu, anh sẽ ra về đúng giờ —— “Xin lỗi, tối thứ Sáu tôi phải ở với vợ, đây là thói quen nhiều năm rồi.”

Lương Chương đã quá quen với thói quen này của anh.

Sở Vọng cũng phần nào hiểu được anh, vì vậy mà cảm thấy anh rất đáng khâm phục.

Cộng thêm gần đây hai người có nghe nói bệnh cũ của chị Từ tái phát, do hút thuốc phiện nên hệ miễn dịch đã suy giảm, mấy hôm trước lại vào cấp cứu một lần. Có lẽ đây là tâm bệnh của Từ Thiếu Khiêm, tuy anh không nhắc đến và hai người cũng vờ như không biết, nhưng bọn họ vẫn hiểu cho sự vắng mặt của anh vào tối thứ Sáu.

Suốt một mùa Đông dài, Sở Vọng đến nhà họ Từ cũng chỉ gặp chị Từ hai lần. Lần thứ nhất, nom chị Từ gầy hơn trước rất nhiều, cơ thể bé nhỏ cuộn tròn nằm trên ghế càng khiến chị trông già nua hơn. Từ Thiếu Khiêm đút chị ăn hết bát chè hạt sen, chị mới miễn cưỡng cười với Sở Vọng, nhưng không nói gì.

Từ Thiếu Khiêm lắc đầu, thở dài: “Phải cai thuốc thôi.”

Chị Từ ngoảnh mặt đi, không để ý đến anh.

Lần thứ hai gặp, hình như lần đó Từ Thiếu Khiêm đang tính toán trong phòng thí nghiệm. Lúc đến thăm nhà họ Từ, trông tinh thần chị khá hơn lần trước, đã có thể nói chuyện. Chị kéo tay Sở Vọng, nói: “Anh ấy có sự nghiệp của mình như thế rất tốt. Lần đầu tiên gặp anh nhà, tôi đã tin chắc chắn tiền đồ của anh ấy sau này sẽ xán lạn rộng mở, nhất định sẽ nổi danh. Tôi vẫn hay nghĩ, liệu có phải mình làm liên lụy đến anh ấy không. Người tốt như anh ấy thì nên cưới một người tốt hơn mới phải. Một cô gái tân thời có thể hiểu được ký hiệu biểu thức của anh ấy, đồng điệu với anh ấy, có thể không khiến anh ấy cảm thấy cô đơn, còn có thể giúp anh ấy rất nhiều trong sự nghiệp… Chứ không phải là một người bán thân bất toại phiền phức như tôi. Tôi chỉ mong sau này Văn Quân cũng xuất sắc được như anh ấy, như vậy mới không phụ thiên phú của nhà họ Từ.”

Sở Vọng há miệng, không biết phải an ủi chị Từ thế nào. Chưa bao giờ cô hy vọng có thể nhanh chóng làm xong luận văn về sự tồn tại của nơtron như bây giờ, để nhanh chóng viết thành bài phát biểu. Chữ ký của tác giả đầu tiên chắc chắn là Từ Thiếu Khiêm, và trong trang bìa của luận văn cũng sẽ viết: “Thân tặng bài viết này đến cô Từ, một người phụ nữ Trung Hoa truyền thống, đã âm thầm cống hiến rất nhiều cho chồng và gia đình”; Cô cũng hy vọng chị Từ sớm ngày cai thuốc để sống lâu hơn, để tương lai còn có thể mỉm cười Từ Thiếu Khiêm phát biểu khi nhận giải thưởng Nobel, có thể chính tai nghe anh đọc diễn văn: “Tôi rất muốn cám ơn vợ tôi.”

Sở Vọng đáp lời chị: “Chắc chắn rồi ạ.”

***

Theo như thường lệ, sau kỳ nghỉ Giáng Sinh sẽ là kỳ thi kết thúc học phần. Suốt cả học kỳ vừa qua, Sở Vọng tập trung vùi đầu trong phòng thí nghiệm hạt nhân nguyên tử, không mấy khi lên lớp nghe giảng. Chương trình học các môn khác còn tạm, chỉ mỗi môn phiên dịch tiếng Anh là làm cô phải vò đầu bứt tai. Thế là vào ba tuần trước lễ Giáng Sinh, Lương Chương và Từ Thiếu Khiêm cấm tiệt cô bước vào phòng thí nghiệm nửa bước, ra lệnh cho cô: “Muốn khoa học tiến bộ thì quý cô Lâm Trí phải hoàn thành sự học trước đã, trở thành ‘sinh viên ưu tú điểm tối đa’ mới được.”

Thí nghiệm nơtron đã sắp sửa hoàn thành, về sau chỉ cần xử lý số liệu và viết luận là được. Mà công việc thứ hai lại là điều Sở Vọng am hiểu nhất.

Nhưng vì giới hạn tuổi tác và nghiệp học nên cô chỉ biết thở dài, im lặng đeo cặp sách nghiêm túc làm học sinh giỏi.

Vào đầu mùa Đông, hợp đồng từ Pháp được gửi đến biệt thự họ Cát. Trên hợp đồng, yêu cầu của ngài Dupont với Sở Vọng không nhiều —— một tháng làm ra hai bản vẽ, lại còn cho cô 9% cổ phần và lương tháng sẽ được trả theo đồng phờ-răng khá cao.

Nhưng bà Cát còn muốn lấy nhiều cổ phần cho cô hơn nữa, đang định viết thư hồi âm thì bị Sở Vọng ngăn lại. Sau một hồi năn nỉ ỉ ôi, cuối cùng bà Cát mới từ bỏ ý định, tức tối ký tên.

Xin học sinh xuất sắc cùng lớp từ đại lục đến một bản dịch của môn phiên dịch, cô nhìn đi nhìn lại mấy lần, vẫn cảm thấy không khá hơn bài dịch của mình là bao. Ngoài việc học máy móc để tránh không qua môn, cô dành thời gian vẽ hai bản vẽ: một bản là bật lửa nhôm nằm trong đồng hồ quả quýt, một bản khác là bật lửa màu hồng kim và màu hồng phấn thiết kế đơn giản dành cho phái nữ, bên dưới góc phải vẽ thêm một bông hoa đào – cảm hứng đến từ một vài màu điện thoại được phụ nữ và người đồng tính yêu thích ở đời sau.



Sau khi thấy hai bản vẽ đó, bà Nguyễn cười nói: “Cái này khó đấy. Làm gì có mấy người phụ nữ mua bật lửa để hút thuốc?”

Ngài Saumur cũng nói: “Không phải thuốc của các quý cô đều do các quý ông châm sao?”

Sở Vọng trầm ngâm một lúc, rồi sau đó viết thêm một dòng trong thư gửi đi Paris: sau khi làm ra thành phẩm, có thể gửi cho tôi một chiếc được không? Sẽ trừ vào tiền lương.

Ngài Saumur thấy thế thì cũng viết thêm một câu vào cuối thư: cùng với một bộ váy Chanel mới nhất của phụ nữ ở Paris trong quý này, thêm đồ trang sức nữa. Kích cỡ: (số đo của Sở Vọng).

Sở Vọng oán thầm: đây là nhân viên ỷ có quan hệ tốt với bạn của ông chủ, nên mới cùng nha cấu kết chèn ép ông chủ đây mà!

Nhưng ai oán thì ai oán thế, cô vẫn vui vẻ tiếp nhận.

Gửi thư đi Pháp xong, cô nghĩ một lúc rồi rút ra một tờ giấy khác, đặt bút viết:

Anh Ngôn Tang,

Đến tận hôm nay vẫn chưa có dịp nói với anh: cám ơn món quà và ảnh của anh.

Mong anh thứ lỗi cho em vì đã lâu như thế mà không viết thư cho anh. Nhưng em đã kiểm tra hòm thư ngoài cửa nhà bác cả và cô út rất nhiều lần, cũng như hòm thư ở Du Ma Địa mà anh thường gửi thư đến, cuối cùng xác nhận: anh cũng không viết thư cho em.

Thế nên em đã tự an ủi mình: có lẽ đường xá xa xôi nên thư vận chuyển lâu ngày, vận chuyển một hồi rồi bị lạc mất?

Từ biệt ở bến Thượng Hải, sau khi về Hương Cảng em thực sự rất bận, không biết đang làm gì mà mới đó đã đến mùa Đông rồi. Sau Giáng Sinh sẽ thi một môn, em đang chăm chỉ học tiếng Anh, cũng muốn biên dịch “Xuất Sư Biểu”, “Trần Tình Biểu” và “Hạng Tích Hiên Chí”. Nói cho hay là “muốn truyền bá quốc túy với người da trắng”. Mất rất nhiều công sức mới dịch xong, nhưng nội dung lại khiến học sinh trung học cười đến rụng răng, chứ đừng nói gì tới việc xứng danh quốc học. Em có xin bạn học xuất sắc trong lớp một bản về nghiên cứu, nhưng vẫn có cảm giác chưa thoát ý. Thậm chí có vài chỗ ở bản gốc rất tinh túy, đến khi dịch ra lại quá thô, không chỉ mất đi cái chất vốn có mà càng khiến người ta thấy buồn cười. Quốc học chính là quốc học, đương nhiên trước đó phải thành thạo tiếng phổ thông, phải đọc đi đọc lại nhiều lần thì mới hiểu đượcẩn ý xuất sắc trong đó.

Ở trang sau em có trích mấy câu kinh điển hóm hỉnh, vừa uyên bác vừa buồn cười.

Đành vội dừng bút ở đây,

Chúc anh bình an

Ngày 6 tháng 12 năm dân quốc thứ mười sáu

Sở Vọng


***

Lễ Giáng Sinh cuối năm 1927 trôi qua một cách êm ả bình dị. Có điều vì cứ đến ngày lễ là nhà họ Cát lại có rất nhiều party xã giao, nên Sở Vọng bị nhốt ở trong biệt thự nhà họ Kiều cùng với Chân Chân. Điều bất ngờ là Chân Chân không về Thượng Hải trong kỳ nghỉ này, tất cả bởi vì một người đàn ông quan trọng đầu tiên trong đời ngoài cha mình.

Một ngày trước ngày nghỉ Giáng Sinh, Diệp Văn Dữ dẫn các thành viên trong đội tennis đến bên ngoài trường nữ sinh tư thục Hương Cảng, tiến hành nghi thức theo đuổi rất điên cuồng. Bảy tám chàng trai cao to đầy khí thế, một người cầm hoa hồng đứng trên đường, Diệp Văn Dữ cùng một thành viên chính khác không biết lấy từ đâu ra một đống pháo. Vì pháo đã bỏ không rất nhiều ngày, thời tiết lại còn ẩm ướt, sợ chờ đến lúc Chân Chân đi ra thì sẽ không đốt được, như vậy sẽ giảm khí thế. Vậy là có người đề nghị: “Hay thử trước vài cái đi?”


Tuy pháo đã ướt nhưng công năng vẫn còn đó, tiếng nổ rất vang. Không đợi các nữ sinh tan học, các chàng trai ôm hoa hồng đã thu hút ánh nhìn của rất nhiều người qua đường. Đốt pháo xong thì lại rước lấy phiền toái từ cảnh sát Anh Quốc. Bọn họ tưởng người Nam Dương nổ súng bắn nhau ở đây, thế là đồng loạt bắt cả đám đến đồn cảnh sát. Một người trong số họ vì lì lợm mà còn bị cảnh sát đấm một phát. Bị vặn hỏi lục soát liên tục, không tìm thấy súng hay lựu đạn đâu, lại nghe nói là đến để tỏ tình, thế là cảnh sát phái mấy người đến trường nữ sinh Hương Cảng, mời Chân Chân đang trong giờ tiếng Pháp đến đồn.

Chân Chân còn chưa chứng kiến màn tỏ tình dành riêng cho mình thì đã lơ mơ bị cảnh sát đưa đến đồn chuộc người. Đạp cửa đồn cảnh sát đi vào, thấy bảy tám chàng trai nước da rám nắng bị còng tay ngồi trên băng ghế, một trong số đó còn bị đánh sưng mặt. Các chàng trai cao to là thế, vậy mà vừa thấy Chân Chân đi vào là lại như thấy nữ thần giáng thế, hoan hô hò reo.

Tình cảnh lúc đó có thể nói rất buồn cười. Lại được Chân Chân miêu tả sinh động, thành công làm Di Nhã và Sở Vọng cười ngất suốt cả lễ Giáng Sinh.

Không hưởng thụ được màn theo đuổi long trọng, Chân Chân vô cùng bất mãn với lần này. Nhưng màn tỏ tình lại chuyển đến đồn cảnh sát, dù buồn cười thật song cũng được xem là khá rầm rộ.

Thế là Chân Chân và Diệp Văn Dữ yêu nhau.

Ngoài việc có hơi ngốc nghếch và trong đời có vết bẩn là từng thích Lâm Doãn Yên ra, thì nhìn chung Diệp Văn Dữ vẫn là một đối tượng tốt. Dù gì trong cuộc đời, có ai mà không có một vài lịch sử đen tối?

Chỉ có điều, Diệp Văn Dữ trong miệng Tiết Chân Chân dù có ngốc nghếch thì vẫn đẹp trai hào hoa, độc nhất vô nhị.

Con gái rơi vào lưới tình thì thường hy vọng cả thế giới cũng ngập tràn bong bóng màu hồng. Nên không chỉ dưới một lần cô ấy nói với Sở Vọng rằng: “Chị rất hy vọng Di Nhã có thể có một mối tình bình thường.”

Đối với lời cảm khái này của cô nàng, Sở Vọng thay Di Nhã ngầm hiểu chứ không nói với cô ấy.

Có điều đồng thời cô cũng đoán xem Chân Chân có nói những lời tương tự như thế với Di Nhã không, ví dụ như: Tôi hy vọng em ấy không có cái hôn ước đáng chết kia, như vậy thì có thể hưởng thụ được điều tốt đẹp của tình yêu tự do. Hoặc là: Sao em ấy không đi châu Âu, danh ngôn chính thuận hẹn hò yêu nhau? Tay nắm tay đến nước Anh, dạo chơi cả nước Pháp, đi khắp muôn sông nghìn núi, tương lai viết thành tiểu sử để đời sau ngợi ca, lãng mạn biết mấy!
 

MUALARUNG91

Tác giả
Sưu tầm
Tham gia
25/8/19
Bài viết
4,780
Điểm cảm xúc
577
Điểm
113
Chương 62: Người bệnh (6)
Ngày cô nhận được thư hồi âm là ngày thi xong môn phiên dịch.

Hình thức thi của môn này là thi dịch miệng. Giáo viên đọc nguyên văn một câu trong tác phẩm cổ, sinh viên ngồi tại chỗ dịch lại câu này kèm theo ngữ cảnh. Sở Vọng nhiều lần trả lời rất buồn cười, làm các bạn học cười no bụng. Có điều cô cũng chỉ là một trong rất nhiều người tạo ra tiếng cười ở phòng thi, nên không đến mức khiến người ta chú ý.

Kết thúc môn thi dở khóc dở cười, cô mới đọc thư Ngôn Tang gửi đến. Hai bản dịch khá rõ ràng, một lần nữa không phụ hình tượng văn nhân dân quốc hùng vĩ trong lòng Sở Vọng.

Thư hồi âm của Ngôn Tang rất đơn giản: chữ viết mực đen bút máy phóng khoáng nối nhau, kín hai mặt giấy, dịch ra tiếng Anh cực kỳ chói mắt: The First Memorial to the Throne on his Expedition (Xuất Sư Biểu); A Letter to the Majesty (Trần Tình Biểu).

Sở Vọng đọc hai bản dịch thô lần thứ nhất, cảm thấy từng câu từng chữ như đơm châu nạm ngọc; đọc đến lần thứ hai, thấm thía cảm khái đây đúng là tác phẩm siêu xuất sắc tổng hợp rất nhiều ưu điểm của bài viết IELTS 9.0 cùng với luận văn thi vào đại học. Cộng thêm chữ anh rất đẹp, Sở Vọng hận một nỗi không thể dán bồi giấy, coi như bảo bối mà giấu nó đi.

Có điều, ngoài hai bản dịch này ra thì chỉ có đôi câu vài lời. Không có thư hồi âm và cũng không có thơ.

Xác nhận xong, Sở Vọng không biết nên hồi âm như thế nào nữa. Kể cho anh nghe về chuyện cười ở phòng thi à?

Có lẽ đợi thi xong hết rồi báo cho anh thì sẽ hay hơn.

Sau khi thi xong tất cả các môn, Sở Vọng lập tức chạy thẳng đến phòng thí nghiệm. Rất nhiều nhân viên tính toán đã làm xong công việc của cô, cầm đủ tiền lương rồi rời đi. Sau kỳ thi học kỳ, gần như sinh viên đều chọn du lịch gần Hương Cảng, nên phòng thí nghiệm cũng quay về với vẻ quạnh quẽ của ngày trước.

Từ Thiếu Khiêm toàn quyền giao nhiệm vụ phác thảo luận văn cho Lương Chương. Lúc Sở Vọng ôm cặp sách chạy đến phòng thí nghiệm ở cuối hành lang, Lương Chương đang rất khí thế khoe khoang thành quả anh ta khổ chiến suốt kỳ nghỉ Giáng Sinh cộng thêm một tháng năm mới với Từ Thiếu Khiêm.

Bài luận tiếng Anh dài ba mươi trang, không tính mục lục trích dẫn và lời cám ơn.

Sở Vọng gãi đầu.

Nhưng hình như nội dung lại chưa được một trang của “Sự tồn tại của nơtron” của James Chadwick viết ngày trước nữa thì phải?

Vậy Lương Chương đã viết cái gì trong 29 trang còn lại thế?

Từ Thiếu Khiêm đọc lướt rất nhanh, lông mày chau lại. Sau đó anh lôi bút máy ra, thấy câu nào không hài lòng là quả quyết gạch bỏ.

Từ Thiếu Khiêm gạch đường nào là Lương Chương lại run bắn lên, còn Từ Thiếu Khiêm chẳng hề nhúc nhích. Thỉnh thoảng có rất nhiều câu anh không hài lòng, cả mấy trang giấy bị gạch hết, chỉ chừa một câu nửa câu có vẻ hữu dụng.

Lương Chương ngồi ngay ngắn cạnh Từ Thiếu Khiêm, dùng vẻ mặt bị tráng như lâm đại địch mà chất vấn anh: “Cậu nghiêm túc đấy hả Thiếu Khiêm? Tôi đứt ruột đứt gan suốt thời gian qua, từng con chữ một đều quý báu như ngọc trai. Mỗi một từ trong này đều là do tôi dứt ruột đẻ ra! Hai ta tình cảm nhiều năm là vậy, thế mà cậu lại nhẫn tâm bóp chết con! Lại còn một lần bóp chết nhiều như thế! Nhiều-đến-thế! Gạch hết chỉ còn chưa tới ba trang! Ôi trời ơi!”

Từ Thiếu Khiêm giơ ngón trỏ xoa huyệt Thái Dương, không buồn ngẩng đầu lên, “Phần còn lại phải xóa hết.”

“!!”

Từ Thiếu Khiêm cau mày: “Viết dài dòng quá. Sao không dành sức lực đó để tìm vợ đi?”

“Dài dòng chỗ nào? Không hề!”

Từ Thiếu Khiêm đưa ba mươi trang bản thảo cho Sở Vọng, nói, “Em lại xem đi, có thấy dài dòng không?”

Sở Vọng nhanh chóng lật từng trang một, kết thúc ba phút chiến đấu, cuối cùng tổng kết: “Có ạ.”


Từ Thiếu Khiêm vỗ tay, cười nói, “Cậu thấy chưa, tôi rất nghiêm túc.”

Sở Vọng nhận lấy bút máy Từ Thiếu Khiêm đặt bên cạnh, lại xóa đi mấy phó từ thừa thãi rồi trả lại cho anh. Từ Thiếu Khiêm xem xong bèn gật đầu, “Thuận mắt hơn rồi.”

Lương Chương phát điên, mười ngón tay vò tóc càng trông rất nghệ thuật: “Hai người đang phạm tội đấy nhé! Phạm tội!”

Sở Vọng đột nhiên nghĩ đến một chuyện, hỏi: “Anh vẫn chưa cưới vợ sao, người nhà không lo à?”

Từ Thiếu Khiêm cười bảo: “Người nhà cậu ta đã tuyệt vọng vì cậu con trai này lắm rồi, nhất trí cho rằng cậu ta không có hứng thú với phái nữ.”

Là một hủ nữ thâm niên, Sở Vọng bừng tỉnh hiểu ra. Ồ ~ thì ra là vậy.

Thế là cô lại nghĩ sâu xa hơn, cẩn thận thăm dò “thuộc tính” của Lương Chương. Shinpachi* – thụ chính hiệu. Cô tổng kết.

(*Shinpachi là nhân vật trong bộ truyện tranh Gintama nổi tiếng. Vì Shinpachi cũng đeo kính nên tác giả đã liên hệ anh với Lương Chương. Ở trong truyện, Shinpachi không thích đàn ông, nhưng anh có dáng vẻ khá thư sinh nên hay được các hủ nữ gọi là thụ.)

Về sau cô mới phát hiện là mình đã hiểu nhầm ý của Từ Thiếu Khiêm. Lương Chương say đắm học thuật, bạn gái tên là Vật Lý, vì thế nên mới không có thời gian rảnh để về Phúc Kiến kết hôn. Người nhà ép cưới nhiều năm, thậm chí còn bị mẹ già mấy lần treo cổ nhảy sông uy hiếp, nhưng cuối cùng vẫn đành thỏa hiệp từ bỏ.

“Có lẽ sau này sẽ có, vào một ngày khi giới khoa học mở rộng cánh cửa với các nhà vật lý nữ, nhất định cậu ta sẽ có một người yêu sẵn sàng cùng cậu ta vùi đầu trong phòng thí nghiệm cả ngày.” Từ Thiếu Khiêm nửa đùa nửa nghiêm túc nói, “Tôi rất mong đến ngày ấy.”

***

Tạm gác Lương Chương sang một bên, Sở Vọng vô tình biết được bí mật không thể bật mí từ một người khác.

Lúc nhắc đến ngài Saumur, bà Cát từng rất tò mò hỏi Sở Vọng: “Vì sao lại gọi là ngài Saumur? Saumur không phải tên à? Ông ấy họ gì?”

Ngày trước Sở Vọng không thường xuyên tự giác phân biệt tên họ tiếng Anh, nên chưa bao giờ thắc mắc về vấn đề đó. Chỉ có điều sau khi nghe bà Cát hỏi vậy, trong lòng cô cũng thoáng nghi ngờ.

Cho đến một hôm nào đó, vào cái tuần ngài Saumur đến đại lục, có một phong thư khẩn được gửi đến Du Ma Địa. Vì thư dính nước nên bị hư hại, lúc thưa được đưa cho bà Nguyễn, một tấm hình bất chợt rơi ra.

Trên lá thư viết bằng tiếng Pháp: Khẩn! Nhất định phải lấy gấp! Nhất định phải nhắc người nhận nhanh chóng hồi âm!

Bà Nguyễn sốt ruột nhưng lại không thể tự tiện quyết định thay ngài Saumur, thế là bà gọi Sở Vọng đến nghĩ cách hộ mình.

Sở Vọng nhìn tấm ảnh nọ.

Là một tấm ảnh đen trắng. Chủ nhân tấm ảnh trông chưa đến hai mươi tuổi, là một chàng trai tóc vàng mắt xanh, đôi mắt sâu hoắm. Chàng trai ấy nở nụ cười rất tự nhiên —— là nụ cười đúng tiêu chuẩn của bà Cát: một nụ cười quý phái.

Sau tấm ảnh đề hai cái tên bằng bút chì: Ảnh gửi Frank Luca – 1901 tại York, đến từ Saumur Perry.

Sở Vọng bừng tỉnh. Thì ra ngài Saumur không phải họ Luca, vì Luca là họ của người tên Frank này.

Đây chính là người nhận mà ngài Saumur hay gửi thư đến Pháp sao?

Bà Nguyễn áy náy nói: “Lúc thư đưa đến… Dì vô tình trông thấy nội dung, chỉ có một lời, nói là, ‘trùng tu nghĩa địa, rất nhiều di hài và tro cốt cần bố trí lại…’ “

Sở Vọng giật mình, cầm lá thư trên tay. Địa chỉ gửi thư đến từ Pháp, Loos-en-Gohelle.

Sở Vọng lại nhìn tấm ảnh kia – nụ cười tươi tắn chói lọi, nhưng vì là ảnh đen trắng nên trông có vẻ cô đơn, tựa như người ấy đã một thân một mình đứng lặng nơi đó nhiều năm, cô đơn mỉm cười đã nhiều năm.

Cô đã thấy rất nhiều tấm ảnh như thế —— trong nghĩa địa, trên bia mộ, ảnh của chủ nhân ngôi mộ.

Loos-en-Gohelle, Loos-en-Gohelle.

Đây là một thị trấn nhỏ chứa hài cốt của lính Anh đã tử trận tại Pháp trong Thế chiến thứ nhất.

Bà Nguyễn bất an nói, “Dì chỉ vô tình thấy thôi, không cố ý.”

Sở Vọng trấn an bà Nguyễn rồi lấy lại bình tĩnh, nhét ảnh vào lại phong thư hồi âm, đặt lên bàn sách của ngài Saumur. Sau đó cô lật xem trong danh sách khách hay đến Du Ma Địa gần đây có người Phúc Kiến không, hoặc là có nguyên quán ở Phúc Kiến. Mới mở ra phần thông tin địa chỉ, cô đã thấy ở cuối trang mới nhất có một người —— cô dâu sắp gả từ Phúc Kiến đến Hương Cảng.

Đằng sau có số điện thoại bốn chữ số do ngài Saumur ghi lại.

Sở Vọng vội dùng bốt điện thoại công cộng gọi điện, bình tĩnh báo cho ngài Saumur: có một lá thư được gửi đến từ Pháp, là thư khẩn, có lẽ cần ông quay về nội trong tuần này.

Ngài Saumur nghe thế, rất bình tĩnh nói: “Tôi sắp về Hương Cảng rồi. Cám ơn cháu nhiều.”
 

MUALARUNG91

Tác giả
Sưu tầm
Tham gia
25/8/19
Bài viết
4,780
Điểm cảm xúc
577
Điểm
113
Chương 63: Người bệnh (7)
Trong phòng thí nghiệm vật lý hạt nhân, không dưới 30 lần Lương Chương lấy cái đầu trên cổ ra uy hiếp, ép Từ Thiếu Khiêm và Sở Vọng biến ba trang luận văn sau khi được tóm tắt kia thành bản thảo hoàn chỉnh để gửi đến Báo Hội hoàng gia Luân Đôn.

Thử tưởng tượng nhé: một người đàn ông Đông Nam Trung Quốc điển hình không quá cao, vừa gầy vừa đen như Lương Chương cầm trong tay một xấp tài liệu gồm ba trang, ngồi trên ghế gỗ, hai mắt sáng quắc tuyên bố: “Đây có thể là bài luận mang tính vượt thời đại! Dù bài viết này có bao nhiêu chữ, bao nhiêu trang, bao nhiêu tu từ, bao nhiêu dông dài đi nữa… Đừng nói là đám người ở Bắc Kinh, Thanh Hoa hay Nam Khai, dù đến người ‘trâu bò’ ở phòng thí nghiệm Cavendish cũng chỉ thế mà thôi, không phải mất mười tám năm mà cũng chưa ra ngô ra khoai gì đấy sao? Thử hỏi xem có tập san nào dám từ chối đăng bài này không!” Anh ta vỗ vào mấy tờ giấy, dõng dạc lớn tiếng, “Ai nỡ từ chối bài viết thế này!”

Từ Thiếu Khiêm tựa vào tay vịn trên ghế, giọng điệu cực kỳ nhạt nhẽo, thái độ lạnh lùng: “Dưới điều kiện đã có hơn mười triệu người đọc qua bài viết này, cậu càng phải rõ một điều: tới bà ngoại cậu cũng không có hứng nghe cậu nói nhảm, chứ đừng nói đến đám người xem xét bản thảo chuyên bới lông tìm vết kia. Nếu cậu không muốn chúng ta bị chế giễu thì càng phải viết cho rành mạch rõ ràng vào, lời ít nhưng ý nhiều. Lương Chương, cậu phải biết rõ, bài luận văn hiện nay trong tay cậu chỉ là đồ bỏ đi. Ngoài hai chữ bỏ đi, tôi không tìm được từ nào thích hợp hơn nữa.”

Lương Chương: “… Đây là đồ bỏ đi? Dựa vào đâu hả?”

Từ Thiếu Khiêm bồi thêm một câu: “Đúng thế, là đồ bỏ đi. Bản thảo thô cậu đưa cho tôi là bullshit. Bây giờ đã đỡ hơn rồi, là đồ bỏ đi.”

Sở Vọng không ngờ khi nhắc đến chuyên ngành, Từ Thiếu Khiêm lại có thể nói ra những câu độc địa như thế. Cô như nhớ lại cơn ác mộng hồi học thạc sĩ, vị giảng viên kia cầm kính đeo lên nhiều lần, mặt lạnh tanh đọc hết luận văn của cô, đọc đến đâu lại gạch đến đấy, cũng nói với cô rất nhiều lần: “Đọc không hiểu! Đừng trả treo với tôi là vì tiếng mẹ đẻ của chị không phải là tiếng Anh! Cách chọn từ đặt câu của chị không hề logic, đây không phải vấn đề ngôn ngữ!”

Cô hiểu rất rõ cảm nhận đó.

Một chậu nước lạnh xối tắt nhiệt tình, Sở Vọng nở nụ cười đồng cảm với Lương Chương.

“Viết lại toàn bộ những câu dài thành câu đơn – không cần phải ghép câu làm gì. Viết luận văn học thuật chứ không phải học Đỗ Phủ làm thơ, học thi nhân dốc lòng ngâm nga…”

Sở Vọng xoa đầu, đang nghĩ không biết nhắc đến Đỗ Phủ và thi nhân ngâm nga làm gì, thì Lương Chương đã lập tức lệ rơi đầy mặt tiếp lời: “Hai câu làm mất ba năm. Một ngâm, lã chã hai hàng lệ rơi?”*

(*Hai câu trích trong bài Đề thi hậu của GiảĐảo, Trần Trọng San dịch.)

Từ Thiếu Khiêm có cảm giác trẻ nhỏ dễ dạy, hài lòng gật đầu, “Có thể nói như vậy.”

Sở Vọng thật sự muốn quỳ lạy hai người.

***

Chỉ vì mỗi lần gạch đi một chữ là lại như đòi mạng Lương Chương, nên nhiệm vụ sửa nốt phần luận văn còn lại rơi vào tay Từ Thiếu Khiêm. Tuy chỉ cần sửa nội dung ba trang thôi nhưng anh lại mất gần một tháng. Phải cân nhắc chi tiết lại lần nữa, rồi thử điều chỉnh những thí nghiệm sai nhiều lần, sau cùng còn tiến hành tính toán vi phân; chải chuốt dàn bài luận văn, sửa lại những câu dài và rối rắm…

Chỉ cần Sở Vọng và Lương Chương có mặt ở phòng thí nghiệm thì nhất định cũng có mặt anh; còn lúc cô không đến, thỉnh thoảng tan học đi ngang qua bên ngoài phòng thí nghiệm, cửa sổ ở chỗ Từ Thiếu Khiêm ngồi vẫn sáng đèn.

Cũng vì vậy mà trong một tháng đó, số lần chị Từ có thể thấy Từ Thiếu Khiêm ít đi rất nhiều.

Nhưng chị Từ chỉ nói: “Cứ ở với tôi làm gì? Anh ấy mà không đến trường thì tôi cũng ép anh ấy đi.”

Chị Từ thường hay bảo Sở Vọng kể vài chuyện thú vị ở phòng thí nghiệm cho chị nghe. Cô kể hai câu chuyện bản thân thấy buồn cười, nhưng kể xong lại thấy chị Từ mặt mày khó hiểu, hỏi liền mấy câu nhưng cũng không hiểu nổi buồn cười chỗ nào. Dần dần, Sở Vọng cũng không biết nói thế nào nữa, chị Từ cũng thôi hỏi chuyện.

Chị Từ cười giải vây: “Tôi vẫn thích em đến chơi với tôi hơn. Gần đây tôi khỏe hơn trước rồi, mấy tháng nay ăn nhiều nên cũng mập lên mấy cân, em xem mỡ thừa của tôi này… Ôi chao.”

Mùa Đông trôi qua, đột nhiên chị Từ có hứng thú với thời trang mùa Xuân đang thịnh hành.

Ngày hôm ấy cô mặc váy lụa màu xanh, giữa những nếp gấp ẩn hiện thạch lựu đỏ thắm diễm lệ.

Chị Từ nói: “Đẹp thì có đẹp, rất tôn màu da, nhưng trông già quá, không đẹp bằng bộ váy đỏ nhạt khoác áo màu quả trám lần trước em mặc.”

Sở Vọng cười nói: “Cô của em cũng nói thế.”

Chị Từ bảo: “Cô út của em đúng là một người tuyệt vời.”

Sở Vọng cười bảo: “Cô út chê mắt thẩm mỹ của em, hay mắng em lắm.”

Chị Từ nói: “Em nhìn xem phong cách thời trang của bà ấy với các phu nhân ngày nay, có thể phê bình gì nữa?”

Sở Vọng nghiêm túc suy nghĩ, nói: “Hiện giờ có vẻ các phu nhân đang chuộng mặc áo khoác đen. Lúc cô út đánh mạt chược, em hay thấy vài phu nhân mặc như vậy, trông rất có khí thế. Cô út hay bảo: ‘Áo quần như thế thì người phải gầy và trắng thì mặc mới đẹp. Không hiểu nổi vì sao đám người kia, cứ hễ kết hôn là lại phát tướng tăng cân, mặc thêm áo khoác lông càng làm mình mập lên. Nhưng con gái trẻ thì mặc không được, bởi vì trông khá già’.”

Thật ra nguyên văn của cô út là: “Nhưng làm vợ rồi sinh con thì sẽ có phúc.” Cô cân nhắc trước sau, quyết định lược bỏ đoạn đó đi. Sau đó lại bổ sung một câu: “Cho nên cô mặc thế này là hợp lắm rồi ạ.”

Chị Từ nghe thế thì rất vui, lại bảo cô đề cử mấy người thợ may.

Sở Vọng nói: “Tuy giờ đang đầu xuân, nhưng chỉ chớp mắt Hương Cảng sẽ vào hè. Nếu mời thợ may đến, còn chưa kịp mặc đồ đã phải may thêm quần áo mùa hè. Nên khi đến Thượng Hải, cô út thường tới tiệm thời trang thử quần áo, không cần mời thợ may làm gì.”

Chị Từ lại hỏi tên cửa hàng thời trang.

Sở Vọng nhớ lại rồi đáp, “Hình như có một tiệm tên là Lưu Du và Phẩm Phúc thì phải… Hình như tên là thế, em cũng không chắc lắm. Để hôm nào em hỏi cô út bao giờ đi Thượng Hải, nhờ cô ấy mang mấy bộ vừa số đo của cô về là được ạ. Cô em nghe nói cô và giáo sư Từ luôn quan tâm chăm sóc em, vẫn không biết nên đền đáp thế nào.”

Chị Từ cũng không từ chối. Một lúc sau, chị lại hỏi, “Mấy ngày nay trong trường bận lắm à, sao không thấy Văn Dữ đến chơi?”


Sở Vọng cười nói: “Anh ta hả, quen bạn gái rồi.”

Chị Từ cảm thấy hứng thú, hỏi là con gái nhà ai.

Sở Vọng lúng liếng đôi mắt, đối phó trả lời, “Là một cô gái từ đại lục đến, thi ca đều biết, là một cô gái rất tốt.”

Gần đây chị Từ rất có hứng thú với nhiều chuyện, nghiêm túc đặt câu hỏi, nhưng lại không có thấy có phản ứng lắm với câu trả lời của Sở Vọng. Có lẽ vì bị bệnh quanh năm suốt tháng, bây giờ thân thể khỏe hơn đôi chút, năng lượng toàn thân đều dùng để sinh trưởng tế bào nên suy nghĩ không theo kịp.

Sở Vọng ở lại nói chuyện với chị Từ cả một ngày, lúc về thì tình cờ gặp Diệp Văn Dữ đến thăm chị Từ. Hai người đối mặt, tùy ý trêu ghẹo đôi câu rồi Sở Vọng để anh ta đi vào.

“Vừa nhắc Tào Tháo thì Tào Tháo đến.” Chị Từ trông thấy anh ta, chống cằm cười cười.

Diệp Văn Dữ nói: “Thím và em ấy nói gì cháu à?”

“Có bạn gái mà còn giấu giếm, không nói gì với thím luôn hả?” chị Từ giận mắng.

Diệp Văn Dữ cười ha ha: “Gia giáo cô ấy nghiêm lắm. Mỗi lần hẹn cô ấy ra ngoài là phải dẫn theo vài ba người đi cùng, không thể làm xấu danh tiếng của cô ấy được. Xin thím giữ bí mất hộ cháu.”

Chị Từ cười gật đầu.

Qua một lúc, chị lại hỏi: “Cháu cảm thấy so với hồi Sở Vọng mới đi học thì bây giờ có gì khác không?”

Diệp Văn Dữ bật cười: “Hình như đẹp ra rất nhiều? Dạo gần đây trong trường lén lút bầu chọn hoa khôi, mấy tháng nay em ấy lại bỗng dưng nhảy ào vào bảng xếp hạng. Có lúc ở trên lớp, cánh nam sinh cứ chọn chỗ ngồi gần em ấy.” Có lẽ bình chọn hoa khôi trường là trò tiêu khiển trên lớp của các cậu chàng trong độ tuổi này. Tuy nói chỉ là đùa vui, song kết quả vẫn đáng để tham khảo.

“Vậy em ấy thế nào?”

“Em ấy hả? Cả ngày cũng chỉ biết giải phương trình vi phân và làm thí nghiệm vật lý. Hình như chưa bao giờ để ai vào mắt cả.”

Chị Từ mỉm cười, hiểu được sự thay đổi của Sở Vọng trong hơn nửa năm qua, không chỉ mỗi việc cao lên. Chính chị cũng bước ra từ thâm môn đại viện, biết rõ khuê nữ nhà giàu và nhà bình thường được dạy dỗ khác nhau như thế nào. Từ lời ăn tiếng nói của Sở Vọng toát lên sự trang nhã hiếm có. Mà sự trang nhã đó lại bao hàm rất nhiều cấp bậc lễ nghĩa của triều đại mới thể hiện qua đôi mắt sáng rực và nụ cười tự tin ấy, khác với sự khoan thai thi lễ của khuê tú thời xưa. Nhưng chị biết, những lời ăn tiếng nói đó đâu phải là giáo dưỡng do nhà bình thường dạy dỗ là ra. Với vốn từ ngữ hiện đại ít ỏi của chị Từ: đó là cử chỉ văn nhã lễ độ, là một cô gái quý tộc kiểu mới chân chính.

Ngoài sự khác biệt ở phong thái ra, điểm khác nhất còn đến từ bề ngoài của Sở Vọng. Cơ thể nảy nở cao hơn, mái tóc đen nhánh xoăn nhẹ cong lên, càng khiến dải ngân hà trong đôi mắt đen lấp lánh tinh nghịch, chóp mũi cao nom thật hoạt bát, khóe môi khẽ cong cong, dù lúc không cười cũng khiến người ta có cảm giác cô đang cười nhìn mình: là một nụ cười mỉa mai khi nhìn thấu mọi sự. Có lúc bạn sẽ rất ghét “nụ cười” đó, vậy nhưng lại chẳng thể nổi giận với một cô gái bé nhỏ như thế được, thế là đánh biến thành khiển trách, rồi dần dà sự khiển trách ấy lại vô tình biến thành yêu thích từ trong thâm tâm.

“Là một cô gái tốt. Đã đẹp lại thông minh, ai mà chẳng thích?” chị Từ cười x nói, dù có mặt người ngoài thì chị vẫn không che giấu sự yêu mến với Sở Vọng.

Mà vào những lúc như thế, Từ Văn Quân thường im lặng nhìn chị – nhìn với ánh mắt như một bác sĩ nhìn bệnh nhân bị bệnh nặng không thể nào chữa khỏi – im lặng chuẩn bị bài vở của mình, đi vào phòng.

***

Cuối cùng thì “Sự tồn tại của nơtron” được rút gọn còn một trang rưỡi.

Ngày hoàn thành bản thảo, Từ Thiếu Khiêm mời Sở Vọng và Lương Chương đến đọc qua một lượt, hai người cũng bày tỏ không cần sửa gì.

Chỉ có một điều…

Lương Chương cau mày: “Vì sao tên tác giả đầu tiên lại là tôi?”

Từ Thiếu Khiêm cười bảo: “Là ai cũng như nhau cả. Học vị của tôi không lên được nữa nên không cần thêm hư danh làm gì. Còn cậu đấy, cậu cũng nên tìm vợ mà thành gia lập thất cho rồi.”

Lương Chương nói: “Tôi không lo chuyện đó. Theo như cậu nói, không bằng đề tên bé con làm tác giả đầu tiên đi. Không phải như thế thanh danh sau này sẽ vang dội hơn sao? —— Đại học Hương Cảng có một thiên tài! Kiểu gì mọi người cũng muốn đến học cho xem.”

“Tuyệt đối không được.” Từ Thiếu Khiêm càng cau mày: “Em ấy còn nhỏ, không gánh nổi trách nhiệm ấy. Nếu sau này em ấy bị tổn thương vì chuyện đó, cậu có gánh nổi không?”

Lương Chương cười khà: “Tôi đùa thôi mà, nghiêm túc thế làm gì?”

Có điều khi cầm bản thảo đến phòng in trong trường để nhân viên đánh máy người Nga in ra, Sở Vọng và Lương Chương tự tiện quyết định, đồng lòng sửa tên tác giả đầu tiên thành hai chữ “Từ Lai”.

Đặt luận văn vào phong bì rồi dán kín, ba người bắt đầu chọn xem nên gửi đến tập san nào.

“Đương nhiên sẽ là Báo Hội hoàng gia Luân Đôn rồi!” Lương Chương phát ngôn cực kỳ đanh thép, “Để cho đám ngu si Cavendish, Viện Vật lý lý thuyết Copenhagen và sở nghiên cứu Leiden cả vú lấp miệng em phải coi chừng!”

“Không! Báo Hội hoàng gia gì chứ!” Sở Vọng như muốn lật bàn: “Phải là báo Khoa học Tự nhiên!”

“Báo Hội hoàng gia!”

“Khoa học Tự nhiên!”




Từ Thiếu Khiêm cười lắc đầu, giải thích với Lương Chương: “Đngs là học sinh ở vùng thuộc địa Anh biết về Hoàng gia Anh nhiều hơn, nhưng tôi nghĩ vẫn nên chọn Khoa học Tự nhiên thì hơn.”

Lương Chương ôm đầu gào thét: “Du học sinh Âu Mỹ các cậu toàn xem thường dân du học New England* chúng tôi! Tôi biết mà!”

(*Chú thích của tác giả: New England là cách nói của thời kỳ dân quốc khi nhắc đến New Zealand.)

Từ Thiếu Khiêm cười nói: “Không phải thế.”

“Chính cậu như vậy!”

Từ Thiếu Khiêm vẫn mỉm cười: “Tôi chỉ xem thường cậu thôi.”

Sở Vọng vỗ tay cười to.

Đến cuối cùng vẫn chọn gửi luận văn đến nhà xuất bản Khoa học Tự nhiên. Ba người bước ra khỏi bưu cục, một lần nữa Lương Chương không kìm nén nổi cơn hưng phấn, đứng ngay trên đường cười to, miệng hét lớn: “Sau này gặp mặt xin hãy ngưỡng mộ tôi! Bất luận là đại học Bắc Kinh hay đại học Nam Khai, hay thậm chí là Cavendish và Laiden!”

Anh ta vừa cười vừa chạy vòng vòng, còn khuỵu gối xuống hôn lên mặt đất: “Nơtron! Anh yêu em!”

Sở Vọng và Từ Thiếu Khiêm lặng lẽ tránh ra xa.

Dạo gần đây Từ Thiếu Khiêm khá trầm, chỉ cần yên lặng là anh lại chau mày. Có điều Sở Vọng biết, đó là trạng thái khi một người đang suy tính điều gì đấy.

Hai người bước đi cùng nhau một quãng, Sở Vọng im lặng nhìn anh, bụng nghĩ: một thời gian dài sau khi tìm ra Nơtron, cánh cửa mở ra đầu tiên chính là Vật lý thiên văn*: Sao đặc, sao nơtron, sao già và sao lùn trắng, vân vân… Nhưng về phản ứng phân hạch, phải sáu năm sau khi nhà khoa học nữ tình cờ đi dạo mới nghĩ đến**.

(*Cho những ai đã quên, Từ Thiếu Khiêm là giáo sư hai bộ môn Vật lý thiên văn và Vật lý hạt nhân.)

(*Lise Meitner trong lúc đi dạo trên bãi tuyết, bà bất chợt nghĩ đến hình ảnh các hạt nhân nguyên tử đang nhảy nhót và còn có thể nghe thấy âm thanh giòn giã khi nguyên tử bị phân chia, từ đó tìm ra nguyên nhân đằng sau việc nhiều lần thí nghiệm thất bại.)


Vậy vào lúc này, Từ Thiếu Khiêm đang nghĩ đến hằng tinh mật độ cao, hay là sau khi phân tách hạt nhân urani, thành phẩm có được lại không bằng trước?

Nếu là vế trước, vậy thì cô còn có rất nhiều thời gian để kỳ vọng “Sự tồn tại của nơtron” sẽ mang đến tiếng tăm lừng lẫy cho đại học Hương Cảng, có thể đưa đến rất nhiều người thanh danh hiển hách.

Còn nếu là vế sau, với cục diện hiện tại, phải làm thế nào thì mới thắng được các tuyển thủ mạnh trong cuộc chạy đua nước rút đây?
 

MUALARUNG91

Tác giả
Sưu tầm
Tham gia
25/8/19
Bài viết
4,780
Điểm cảm xúc
577
Điểm
113
Chương 64: Người bệnh (8)
Lúc mọi chuyện liên quan đến luận văn về nơtron khép lại thì cũng là lúc sinh viên Hương Cảng háo hức nghỉ xuân. Sở Vọng cũng được dịp nhàn rỗi ở nhà, rảnh đến mức phải vò đầu bứt tai, thế là cô thường xuyên bị bà Cát lôi đi xem mình chơi mạt chược.

Dần dà, Sở Vọng phát hiện ra mục đích xem cô út chơi bài chỉ là thứ yếu, chủ yếu là muốn cô học “tay nghề” của bà.

“Nếu cháu biết chơi thì cô đỡ phải gọi điện mời người đến, đỡ nợ người này người nọ.” Bà Cát trách móc.

Rồi bà lại nói: “Tiếp xúc với người Trung Quốc thì phải biết đối nhân xử thế, không có ngoại lệ. Hồi xảy ra chiến tranh nha phiến, chính vì nước Anh không nể mặt hoàng đế trung Quốc nên mới có đánh nhau*. Ta thua nên họ được đằng buôn bán ở đất Trung Quốc, dù là ‘bị ép’ buôn bán thì vẫn phải xã giao với người ta. Ở Trung Quốc này, lễ nghĩa chính là giang hồ**.”

(*Nguyên do cuộc chiến tranh nha phiến là do chính phủ Anh đòi quyền tự do buôn bán nha phiến từ Ấn Độ thuộc Anh sang Trung Quốc, trong khi nhà Mãn Thanh có lệnh nghiêm cấm.)

(**Đây là câu nói của Trương Tắc Lâm – cha của thiếu soái Trương Học Lương. Ý chỉ giữa người với người, dù là trong hoàn cảnh nào thì cũng phải chú trọng đạo đối nhân xử thế.)


Đối với quan điểm của bà Cát, Di Nhã hiểu rất rõ. “Vợ của thương nhân qua lại với vợ của quan chức cũng bởi vì thể diện mặt mũi, để các bà vợ quay về thổi gió bên tai, đánh động chồng mình. Nhưng người đưa ra quyết định thật sự vẫn là các ông chồng. Ở chỗ của dì Cát thì bỏ qua công đoạn các phu nhân, trực tiếp xã giao với các quý ông, đúng là chuyện đã khó lại càng khó hơn. Các phu nhân ngầm xem thường dì, nhưng đến lúc gặp dì ấy lại chen nhau nịnh nọt. Nói cho cùng vẫn là kiêng nể dì ấy thôi. Cậu nhìn bà Kiều đi, không phải đó là ví dụ điển hình nhất ư?”

Dù đã được hai người bọn họ đích thân dạy dỗ, nhưng Sở Vọng vẫn không học được cách đánh bài. Chỉ vì ngày nào cũng có rất nhiều người được mời đến biệt thự họ Cát đánh bài, mỗi người một vẻ vô cùng thú vị.

Có người phụ nữ dáng vẻ xuất chúng, da xanh mặt đầy nếp nhăn, đã ngoài năm mươi nhưng lại chỉ cho phép người ta gọi bà là “cô Trần”. “Cô Trần” rất thích cười khi đánh bài, tuy không phải tiếng cười nghe như chuông bạc của các cô gái trẻ, nhưng dẫu gì chuông cũng chỉ bị gỉ một tí, lúc cười thành tiếng rất có khí khái, có cảm giác như là đĩa nhạc đang phát. Khi thua bài bà ta hay nói: “Cô Cát à, sao cô chỉ mời toàn các tiểu thư trẻ tuổi đến? Đến một vị khách nam cũng không có, lần sau đừng mời tôi đến nữa.” Nhưng lần sau bà vẫn không mời mà đến, mỉm cười kéo tay các tiểu thư trẻ tuổi mà nói: “Màu đỏ đồng không phải là mốt mùa này đâu, mà là màu đỏ dâu tằm ấy.”

Cũng có thiếu phụ trẻ tuổi, người thì õng ẹo mà giọng cứ ỡm ờ, ấy nhưng lúc nói chuyện lại trông rất già dặn; chỉ biết cô ấy gả cho một phú thương người Macao họ Lâu, là một ông già đã gần đất xa trời, chính vì vậy nên có địa vị cao hơn so với những người ngồi đây. Mười lăm tuổi gả vào cửa đã mong chờ ngày ông ta chết đi, nhưng chớp mắt đã mười năm trôi qua, ông lão kia đã gần chín mươi mà vẫn khỏe mạnh, thậm chí trong mùa Đông còn có thể xuống biển bắt cá. “Cô Trần” muốn nịnh nọt bà hai Lâu nên thường xuyên tìm bà Cát giật dây bắc cầu, suốt ngày cứ kéo tay cô Lâu thân mật gọi một tiếng “thím”, “thím họ”.

Suốt ngày nhìn mấy người bọn họ liếc ngang liếc dọc diễn xuất còn không kịp, thì lấy đâu ra thời gian lẫn tâm tư để học chơi bài chứ?

Về sau cô Trần và bà hai Lâu đã thân nhau hơn nên không mấy khi đến nhà nữa, thế là trên bàn lại đổi người.

Có một thời gian Sở Vọng hay thấy Di Nhã đến cùng ngài Tưởng. Ngài Tưởng trông đã ngoài bốn mươi, đỉnh đầu hơi hói, có điều trông ông vẫn khá điển trai; nay tuy đã luống tuổi song lại có sự từng trải, càng làm nổi bật vẻ kiệt xuất tuổi trung niên. Điều duy nhất không đủ hoàn mỹ đó là ngài Tưởng không được cao cho lắm: Di Nhã không đi giày cao gót thì ngài Tưởng cũng chỉ cao hơn cô chút đỉnh, nhưng cô nàng lại cứ thích mặc giày cao gót mới đáng nói, hễ mặc vào là ngài Tưởng chỉ cao ngang dái tai cô, càng khiến ông trở nên bé nhỏ.

Có điều ngài Tưởng không băn khoăn vì điều đó. Ông là người nói năng nhỏ nhẹ, dịu dàng điềm đạm; dù đang ngồi giữa các quý cô đầy quyến rũ, ông vẫn chỉ đắm đuối nhìn một mình Di Nhã.

Bà Cát lén nói với Sở Vọng: “Đừng nhìn bề ngoài mà tưởng ngài Tưởng yếu đuối, hồi xưa lúc còn trẻ ông ta từng đánh nhau ở Macao đấy, hai tay nhuộm đầy máu. Nay thời thế thay đổi, ông ta rửa tay gác kiếm, giờ gặp ai cũng nhẹ nhàng lễ độ, cười híp mắt. Nhưng dáng vẻ độc địa hung ác của ông ta hồi trẻ đã ăn sâu trong lòng mọi người, không ai quên được. Mà không phải ai cũng có bản lĩnh khiến ông ta đối xử chân thành với mình đâu. Tuy nhân duyên này có phần do cô mai mối, nhưng đó cũng là con bé Di Nhã có bản lĩnh nắm được ông ta.”

Sở Vọng gật đầu, cuối cùng cũng sáng tỏ.

Cô nghe Mật Thu nói: từng có một lần, có một cô gái trẻ kéo ngài Tưởng nói chuyện, Di Nhã vẫn chỉ ngồi trong góc thong thả ăn bánh mì phết mật ong do chú Henry nướng. Một lúc sau có mấy chàng trai anh tuấn đi đến bắt chuyện với Di Nhã. Ngài Tưởng sốt ruột ra mặt, vài ba câu kết thúc cuộc nói chuyện, vội vã băng qua đám đông, hai mắt hằm hè như muốn ăn thịt người, mọi người có mặt lúc đó không ai dám nói nhiều nửa câu với ông ta. Một ngài Tưởng khát máu đi đến cạnh Di Nhã, đang định lên tiếng thì Di Nhã đã mỉm cười, nhét bánh mì phết mật ong vào miệng ngài Tưởng, hỏi: “Có ngon không?” Sau đó còn liếm mật ong dính trên tay, nói: “Ăn ngon lắm đó.” Chỉ đơn giản vậy thôi, trong nháy mắt cơn thịnh nộ của ngài Tưởng đã tan thành mây khói, ông rút khăn tay ra lau mật ong dính bên khóe môi cô, dịu dàng nói: “Ừ, thơm lắm.”

Mật Thu nói, tình cảnh lúc đó, nếu cô ấy mà là đàn ông thì kiểu gì cũng bị Di Nhã hớp hồn. Trong chuyện gió trăng ai mà không quyến rũ. Nhưng khi tạm gác quyến rũ sang một bên, phần còn lại cũng là bản lĩnh kiếm ăn của mọi người.

Nhắc đến bản lĩnh, dạo gần đây bà Cát rất hay nhắc tới Chân Chân.

“Dù có ở trong vườn nhà ta hát “Phù Sinh Lục Ký” hay “Mẫu Đơn Đình”, thì vẫn chưa đến lượt cháu sắm vai Hương Xuân*.” Bà Cát nói với Di Nhã như vậy.

(*Hương Xuân là a hoàn của Đỗ Lệ Nương trong Mẫu Đơn Đình. Đỗ Lệ Nương là một cô gái dòng dõi thư hương, chưa bao giờ dám rời khỏi khuê phòng nửa bước. A hoàn Hương Xuân cũng theo nàng cùng học, nhưng Hương Xuân rất ham chơi, thường trốn học ra ngoài và rủ Lệ Nương theo.)

Di Nhã lè lưỡi: “Làm sao cháu biết được họ Diệp kia có phải là Mộng Mai* không chứ.”

(*Liễu Mộng Mai là nhân vật trong Mẫu Đơn Đình, là người Đỗ Lệ Nương đem lòng say đắm trong lần được Hương Xuân rủ ra vườn hoa chơi.)

Bà Cát tức giận, xoa huyệt thái dương, “Nếu chuyện này không thành thì còn không phải là do ta à, cháu cũng biết tìm rắc rối cho ta thật đấy! Chỉ mong hai đứa nó có bản lĩnh hát kịch đến suốt đời!”


Bà Cát mắng Di Nhã xong, xoay người nhìn Sở Vọng đang vùi mình trên sofa.

Gần đây khoản tiền lương đầu tiên ở Pháp đã được gửi đến, bà Cát lại bù vào cho cô để được chẵn. Từ lúc đưa hóa đơn chuyển tiền cho Sở Vọng, cô cứ nhìn chằm chằm một dãy các con số kia mà cười ngốc nghếch suốt một buổi chiều.

Hai cô gái siêng đến biệt thự nhà họ Cát đã có tiền đồ riêng. Chỉ riêng Sở Vọng là vẫn cần phải vun trồng tình cảm, cứ như kẻ đầu óc thiển cận, ngoài phương trình ra thì cũng chỉ biết cầm tiền cười hề hề.

Nhưng rồi bà Cát lại nghĩ: Dù có thiển cận thì tham tiền cũng tốt. Không phải ngày xưa người đó đã dạy bà như vậy sao?

Người đó rất thú vị. Bà ấy yêu tiền, vừa hay trái ngược lại với Lâm Du. Lâm Du là người thanh cao, “xem tiền bạc như rác”. Có một thời gian nhà họ Lâm rất túng quẫn, vậy mà ông ta vẫn rất thờ ơ với tiền. Chính vì thế mà Lâm Du mới cảm thấy bà ấy “tục tằn”. Nhưng buồn cười là Lâm Du lại không thể rời bỏ tiền của bà ấy. Điều này làm cho lòng tự tôn của một văn nhân và một người đàn ông như ông ta bị chà đạp: dù xem thường vợ, nhưng lại không thể không cúi đầu trước vợ. Thậm chí về sau khi nhà họ Lâm dần đi lên, ông ta lại càng không thể ngẩng đầu đối diện với vợ mình. Vì chỉ cần nhìn thấy bà, ông ta sẽ nhớ đến vẻ bối rối khốn khó mà cả đời này mình không thoát khỏi.

Nghĩ đến đây, bà Cát đưa mắt nhìn cô ngốc đang ngồi trên sofa, càng nhìn càng thích.

***

Thư mời tuyển dụng “Sự tồn tại của nơtron” nhanh chóng được bưu điện gửi đến tay Từ Thiếu Khiêm.

Đến cùng thư mời còn có hai ký giả của hai tòa soạn báo Hương Cảng và Quảng Châu.

Từ Thiếu Khiêm đẩy Lương Chương ra ngoài đối phó với đạn bọc đường của hai tay ký giả, còn mình thì thong thả cùng Sở Vọng bàn bạc việc đặt tên mới cho viện nghiên cứu.

Lương Chương phỏng vấn xong đi vào, một lớn một nhỏ đang cãi nhau xem nên gọi là phòng thí nghiệm “khúc cong thời không” hay phòng thí nghiệm “cấp độ nguyên tử”.

“Đừng có đặt là khúc cong thời không!” Sở Vọng mặt đỏ tía tai. Người biết chuyện sẽ hiểu bọn họ làm công tác liên quan đến khúc công thời không, nhưng người không biết sẽ cho rằng phòng thí nghiệm có sức mạnh siêu nhiên, quá ngớ ngẩn!

“Nhưng em phải biết, ngoài việc nghiên cứu về nguyên tử ra, chúng ta còn nghiên cứu thêm cả lực hấp dẫn và các kết cấu quy mô cấp vũ trụ.” Từ Thiếu Khiêm cười nói

Lương Chương xoa trán, ho khan hai tiếng, thành công thu hút sự chú ý của hai người họ.

Từ Thiếu Khiêm vẫn cười hỏi: “Phỏng vấn thế nào rồi?”

Lương Chương tức giận: “Vì sao bọn họ biết chúng ta đã được tuyển dụng?!”

Từ Thiếu Khiêm bảo: “Tôi nói rồi còn gì, mọi thư từ của chúng ta đều nằm trong tay người khác, không có tính riêng tư. Bây giờ cậu đã tin chưa?”

“Điên rồi! Còn có việc gì mà bọn họ không dám làm không?”

Từ Thiếu Khiêm trấn an: “May mắn duy nhất hiện tại là bọn họ không chỉ duyệt mỗi lĩnh vực nguyên tử hạt nhân, nên tạm thời không cần lo lắng về quyền tác giả.”

Lương Chương đấm mạnh vào tường, bụi trên quạt gió rơi xuống lã chã, làm Sở Vọng bị sặc ho khù khụ.

Từ Thiếu Khiêm nói: “Nói chuyện cũng tốt. Như vậy bọn họ sẽ thông báo rộng rãi, có thể mang lại danh vọng cho chúng ta. Phải thừa nhận một điều, đó chính là thứ hôm nay chúng ta có cầu cũng không được. Không bằng mong đợi thống đốc sẽ xin một khoản kinh phí lớn cho phòng thí nghiệm, và xem khoản tiền này sẽ đưa cho ai.”

Cuối cùng viện nghiên cứu thống nhất đặt một cái tên rất mộc mạc: Viện nghiên cứu Vật lý nguyên tử hạt nhân đại học Hương Cảng.

Sở Vọng cảm thấy như thế cũng tốt.


Từ hôm đó trở đi, cô bắt đầu cẩn thận để ý đến hai tòa soạn kia. Một tuần sau, một tòa soạn ở Hương Cảng đăng tin nói cuối tuần này trên đỉnh núi Thái Bình có thể quan sát được mưa sao băng chòm Nhân Mã, Tin tức này nhanh chóng lan rộng giữa các nam thanh nữ tú ôm mộng đẹp về hiện tượng thiên văn.

Cho đến một hôm nào đó trong lớp Toán học, đột nhiên có người vỗ vào Sở Vọng, truyền một tờ giấy cho cô. Trên đó viết:

Cô Sở Vọng, liệu tôi có được vinh hạnh mời cô tối Chủ nhật tuần này lên đỉnh núi Thái Bình ngắm mưa sao băng không?

Sở Vọng đọc lướt qua rồi khoanh vào cụm từ mưa sao băng, cầm bút máy đánh dấu bên dưới: Hiện tượng thiên văn về điểm phóng xạ khi các mảnh vụn thiên thể của chòm Nhân Mã sẽ phóng vào bầu khí quyển với tốc độ cao, rồi cũng bị tiêu hủy ngay trong tầng khí quyển chính là điểm thi cuối kỳ.

Ngoài ra: Một số mảnh vụn thiên thể có thể rơi xuống bề mặt trái đất, được gọi là thiên thạch. Bất kể mưa sao băng nào cũng sẽ sót lại thiên thạch chưa bị đốt cháy trong tầng khí quyển. Tôi là người khá nhát gan nên sẽ không đi, còn cậu nếu đi thì hãy chú ý an toàn.

Sau khi tờ giấy được đưa về lại, bạn học nam mỗi lần gặp nhau là lại truyền một tờ giấy kia co giật khóe miệng, sau đó im lặng lui ra.

Sở Vọng thầm ai oán: bạn học à, tôi thật lòng muốn tốt cho bạn thôi. Bỏ qua khả năng có thể đấy sẽ là điểm thi Vật lý của cuối kỳ này, thì tôi khó mà đảm bảo sẽ không nói ra vài chuyện liên quan trong lúc cùng ngắm hiện tượng mảnh vụn thiên thể rơi với cậu: Năm sau có một người đàn ông tên là Edwin Hubble* sẽ quan sát thấy được các thiên hà ở xa đang bay ra xa chúng ta với tốc độ cực nhanh —— đấy chính là sự mở đầu cho lý thuyết vũ trụ giãn nở, mà sự kiện đó bắt đầu vào khoảng hai mươi tỉ năm trước, khi ấy vũ trụ là một thể dày đặc với mật độ lớn đến vô hạn. Về sau xảy ra Vụ nổ lớn, khái niệm thời gian có trước, đến hai mươi tỉ năm sau mới có chúng ta.

(*Nhà thiên văn học người Mỹ Edwin Hubble (1889 – 1953) được cả thế giới tôn vinh là “cha đẻ của ngành vũ trụ học quan sát”. Ông chỉ ra, vũ trụ gồm những Thiên hà đang giãn ra và phồng lên giống như một quả khinh khí cầu lớn không giới hạn, đưa ra bằng chứng đầu tiên cho thuyết Vụ nổ lớn (Big bang) mô tả quá trình hình thành và phát triển của vũ trụ. Những nghiên cứu, phát hiện của ông về vũ trụ đã đặt nền móng cho ngành khoa học về vũ trụ.)

Hoặc là: Ở chòm sao Nhân Mã bắn ra mưa sao băng, nếu chúng ta đi đến đó thì có thể quan sát được trung tâm của hệ ngân hà*.

(*chòm sao Nhân mã nằm ở trung tâm Ngân hà, đó là một hố đen siêu lớn.)

Cũng vì thế nên khi Lương Chương và Từ Thiếu Khiêm nói đến chuyện cuối tuần này muốn đến đỉnh núi Thái Bình, cô không chút do dự đồng ý ngay. Chỉ vì trong quá trình quan trắc thiên thể, một trong hai người này có lẽ sẽ đột nhiên nghĩ đến sự tồn tại của sao nơtron hoặc sao đặc.

Rồi cô lại tiếp tục thêm dầu vào lửa, kiểu gì cũng sẽ thành thôi.
 

MUALARUNG91

Tác giả
Sưu tầm
Tham gia
25/8/19
Bài viết
4,780
Điểm cảm xúc
577
Điểm
113
Chương 65: Người bệnh (9)
Luận văn về nơtron được gửi đi vào giữa tháng 2, đến cuối tháng 3 nhận được thư tuyển dụng, cuối tháng 5 được đăng nhanh lên tạp chí. Cho tới tháng 6, có rất nhiều tập san và báo chí Trung Quốc đã đăng bản dịch của luận văn “Sự tồn tại của Nơtron”.

Chỉ trong một khoảng thời gian ngắn, không biết có bao nhiều thư từ trong nước, Nhật Bản hay Singapore gửi đến đại học Hương Cảng để phỏng vấn Từ Thiếu Khiêm và Lương Chương, cũng mời Từ Thiếu Khiêm đến các trường đại học để tọa đàm… Có lẽ ngay cả Âu Mỹ cũng có lời mời, nhưng do đường xá xa xôi nên thư mời chưa kịp gửi đến.

Từ Thiếu Khiêm khéo léo từ chối từng bên một, nhưng có mấy trường học ở đại lục câu kéo quan hệ, thậm chí còn nhờ cả giáo sư cũ của anh đích thân đến Hương Cảng ra mặt, có thể nói là dốc hết tâm tư muốn mời anh cho bằng được. Từ Thiếu Khiêm không tiện từ chối nên đành phải đi hai chuyến. Và chỉ hai buổi diễn thuyết đó thôi lại được rất nhiều báo chí trắng trợn trích dẫn.

Tán dương ca ngợi cũng có, nhiều nhất là nói nội trong vòng hai hoặc ba năm tới, chắc chắn giải thưởng Nobel sẽ thuộc về bài viết đó;

Mà chê bai cũng rất nhiều, trong đó có không ít người nghi ngờ liệu khả năng nghiên cứu khoa học của đại học Hương Cảng có duy trì được toàn bộ từ thí nghiệm đến tính toán không, cũng chỉ ra rất nhiều điểm khả nghi với nội dung luận văn, nhưng rồi cuối cùng tất cả cũng phải ngậm miệng trước bài luận văn thứ hai luận chứng “Sự tồn tại của nơtron” đến từ phòng thí nghiệm Cavendish.

Kẻ mạnh trong giới Vật lý trên toàn thế giới đã lên tiếng, thì làm gì có chỗ cho đám dốt nát các người phản bác?

Đối với những lời tuyên dương hay nghi ngờ và cả chỗ dựa là phòng thí nghiệm Cavendish, Từ Thiếu Khiêm không hề bày tỏ bất cứ thái độ nào.

Sau khi quay về từ đại lục, anh chỉ hỏi Sở Vọng một câu: “Bài diễn thuyết của tôi thế nào?”

Sở Vọng xảo trá đáp trả: “Bullshit. Lương Chương nói đấy là bài diễn thuyết tệ nhất mà anh ấy từng nghe.”


Từ Thiếu Khiêm cười phá lên, cũng thành khẩn thừa nhận: “Người Trung Quốc chỉ giỏi viết văn chứ không giỏi diễn thuyết. Nếu để tôi viết thư mời hiệu trưởng vạch tội Lương Chương, chắc chắn nội dung sẽ rất phong phú, câu từ hùng hồn đanh thép.”

Hễ đến mùa ẩm ướt là Lương Chương sẽ cáo bệnh ở nhà mấy hôm, đây là bệnh kín nhiều năm của anh ta. Ngoài điều đó ra, có lẽ là vì ngồi lâu một chỗ, ăn uống không có quy luật nên Lương Chương đã bị viêm cột sống. Thời gian trước còn vùi mình ở phòng thí nghiệm nghiên cứu nơtron mấy tháng liền, cột sống đau tới mức anh ta kêu cha gọi mẹ. Từ Thiếu Khiêm bèn viết một phong thư gửi về quê anh ta, để mẹ già nhéo lỗ tai lôi anh ta ngoan ngoãn về nhà châm cứu chữa bệnh.

Sau kỳ nghỉ trở lại sân trường, số sinh viên khoa Vật lý bỗng tăng lên. Mới đầu cô còn tưởng là mình gặp ảo giác, cho đến khi vào lớp Lý thuyết Nguyên tử trong học kỳ mới. Bình thường chỉ có dăm ba sinh viên, vậy mà kỳ này đột nhiên không còn ghế trống, thậm chí cuối phòng học còn đứng đầy học sinh, màu da khác biệt chiều cao bất đồng.

Về sau nghe ban quản lý nhà trường nói, tân sinh viên năm nay nhiều gấp đôi năm trước, nhất là sinh viên khoa Vật lý. Rất nhiều sinh viên đại lục không chịu nổi chi phí du học Anh Mỹ, lại không muốn đi Nhật Bản nên đều đến Hương Cảng cả, và nhiều nhất vẫn là sinh viên thực dân Anh ở các nước Đông Nam Á.

Ngoài điều ấy ra, Từ Thiếu Khiêm còn đem đến tin tốt hơn.

Một hôm nào đó, Từ Thiếu Khiêm đang ảo não về ba bản lý lịch mà phòng nghiên cứu mới nhận được. Thấy Sở Vọng đến, anh ngoắc tay gọi cô tới, “Em cũng xem thử đi.”

Sở Vọng cầm ba bản sơ yếu lý lịch lên, nhanh chóng đọc lướt qua, tim đập thình thịch – đến rồi!

Cô đã động tâm, song vẫn quyết định hỏi ý của Từ Thiếu Khiêm trước. Về mặt nào đó thì thái độ anh chọn người sẽ quyết định xem hướng nghiên cứu trong vòng hai ba năm đến của anh sẽ là Vật lý thiên văn hay Vật lý hạt nhân. Thế là Sở Vọng hỏi ngược lại: “Thầy có nhìn trúng ai không?”

Nhưng Từ Thiếu Khiêm lại hỏi ngược lại cô: “Tôi vẫn chưa xác định được nên mới muốn hỏi ý của em.”

Sở Vọng thầm gào to: Được lắm ông anh cáo già xảo quyệt, còn trả đòn với tôi à! Thế là cô mỉm cười: “Nếu là em thì em muốn tất!”

Từ Thiếu Khiêm cười bảo: “Còn nếu là tôi, tôi sẽ ưu tiên chọn người trong nước. Chỉ vì tôi hơi nghi ngờ về quốc tịch.”

Sở Vọng lại nhìn ba bản lý lịch kia.

Subrahmanyan Chandrasekhar, vốn trong năm nay, anh chàng nghiên cứu sinh ngành Vật lý người Ấn này sẽ gặp gỡ Eddington trên đường xuất phát đến Cambridge, rồi cũng tìm ra lý thuyết Giới hạn Chandrasekhar trên con thuyền từ Ấn Độ đi Anh. Nhưng bây giờ anh ta đã thay đổi ý định, nộp bản lý lịch đến Hương Cảng ở vùng Viễn Đông.

Quý cô Vương Minh Mặc, năm nay tốt nghiệp đại học nữ sinh Kim Lăng xong sẽ nhập học ngành Vật lý ở đại học Yên Kinh, thế mà bây giờ cũng nộp lý lịch đến đây.

Rồi cả Lise Meitner…

Hai người trước chỉ mới bước chân ra đời, từ nguyên nhân nào đó mà nói thì đến Hương Cảng để cầu học cũng không phải điều kỳ lạ.

Nhưng vì sao cả Lise Meitner cũng đến? Năng lực học thuật của bà có lẽ ngang với Từ Thiếu Khiêm, nhưng bàn về kinh nghiệm thì bà hơn hẳn Từ Thiếu Khiêm. Tuy bà không có cơ hội thể hiện tài năng khi ở dưới trướng của Otto Hahn, chỉ có thể coi là “phụ tá”*… Nhưng bây giờ chỉ mới là năm 1928, Hitler vẫn chưa lên nắm quyền Đế quốc Đức, bà vẫn chưa bị tước tư cách học do thân phận người Do Thái của mình, vẫn đang giảng dạy ở Berlin**.

(*Lise Meitner đã đóng góp rất lớn vào việc phát hiện ra hiện tượng phân hạch nhưng không bao giờ được nhận Giải Nobel Vật lý, thay vào đó người nhận giải Nobel Hóa học năm 1944 lại là Otto Hahn.)


(**Hai tháng sau khi Adolf Hitler được bổ nhiệm làm thủ tướng, chính phủ Đức ban hành Luật Phục hồi cơ quan Dân sự Chuyên nghiệp vào ngày 7-4-1933 buộc những công chức nhà nước có ít nhất một ông hay bà (nội hay ngoại) là người Do Thái, hoặc là đối thủ chính trị của Đảng Quốc xã phải bị bãi nhiệm ngay lập tức.)


Mà một viện nghiên cứu Vật Lý thuộc đại học Hương Cảng mới thành lập trên vùng thực dân chưa được bốn năm, nguồn vốn vẫn chưa ổn định, chẳng qua gần đây vì bài luận văn “Sự tồn tại của nơtron” mà bắt đầu có tiếng tăm, thì có thể cho bà ấy gì đây?

Một nơi để thi triển khả năng của bản thân ư?

Tuy Sở Vọng rất hy vọng có thể có nhiều người tài đến đây, nhưng đến khi bọn họ tới thật, cô lại chần chừ muốn chất vấn: “Những thứ chúng tôi có ít hơn so với chỗ cũ trước kia của dì rất nhiều, vì sao dì lại muốn đến đây?” Hoặc sẽ là, “Dì đến sớm như thế, có phải là do người nào đó chỉ dẫn không? Hahn? Hay Heisenberg?”

Từ Thiếu Khiêm nhận ra sự khác lạ ở cô, nheo mắt hỏi: “Sao thế?”

Sở Vọng lắc đầu: “Không có gì… Mọi người… đều rất được.”

Thậm chí phải nói là không thể thiếu người này được. Nếu bà ấy không có ý nghĩ bất chợt ùa đến sau bữa ăn tối vào năm 1938, thì có lẽ rất lâu rất lâu sau phản ứng phân hạch mới ra đời. Nhưng bởi vì bà vô cùng quan trọng, lại có quan hệ thân thiết với Otto Hahn, thậm chí sau này vì thân phận Do Thái của mình mà bị bắt ở Áo, nhiều lần nguy hiểm đến tính mạng, không thể không di cư lưu lạc, thế nhưng bà vẫn lấy lý do “chủ nghĩa hòa bình” để từ chối lời mời tham gia dự án Manhattan, những việc này đều là điều Sở Vọng lo lắng. Dù cô từng nghe nói đến bom chống hạt nhân của Hahn, từ chối nghiên cứu bom nguyên tử với Đức quốc xã, nhưng cũng chỉ là “nghe nói”.

Cô không muốn làm một người hẹp hòi mưu kế đa đoan, cũng không muốn lấy dạ tiểu nhân đo lòng quân tử. Có lẽ cô đã đánh giá thấp uy lực của bài viết “Sự tồn tại của nơtron”, cũng đã đánh giá thấp thực lực của phòng thí nghiệm Vật lý Hạt nhân; thậm chí sau khi kết thúc chuyện này có thể cô phải dập đầu mười nghìn lần, nói mười nghìn lần câu “xin lỗi quý bà vĩ đại, trước đây tôi đã có suy đoán ác ý về bà”, nhưng trước đó, hễ dính đến ba chữ “Đức Quốc xã” là cô lại khuếch trương sự sợ hãi về cái phản ứng dây chuyền do “ngộ nhỡ” mang đến.

“Thầy quyết định thế nào rồi?” Sở Vọng hỏi.

“Tôi muốn cả ba.” Từ Thiếu Khiêm cười nói.

“Hở?” Nhưng không phải vừa rồi anh còn hoài nghi về quốc tịch của họ à?!

“Phải thừa nhận một điều là chúng ta đang thiếu người. Lương Chương muốn có nhiều người Trung giỏi tính toán vi phân, còn tôi thay Lương Chương hoan nghênh sự tham gia của nữ giới. Hai người này có quốc tịch nước ngoài, nhưng không thể nghi ngờ năng lực học thuật của họ được. Vì sao lại không cần?”

“Cần!” Cô lấy hơi, sau đó nói: “Nhưng tạm thời vẫn có nghi vấn đúng không?”

“Đương nhiên.” Từ Thiếu Khiêm cười đáp.

“Kiểm soát nghiêm ngặt chuyện gửi thư về nước, có đúng không!”

“Thư chúng ta gửi ra nước ngoài hay đi trong nước đều có sẵn người kiểm tra nghiêm ngặt, không cần phải lo lắng về vấn đề này. Em có thể nghi ngờ kiến thức về Vật lý nguyên tử của nhân viên tình báo, nhưng phải thừa nhận, thành tựu của bọn họ trong lĩnh vực mật mã học hơn hẳn chúng ta. Nên điểm đó cũng không cần nghĩ nhiều.”

Sau khi nói chuyện với Từ Thiếu Khiêm, Sở Vọng lại rơi vào suy nghĩ khác.

Thì ra đã có nhân viên tình báo nhúng tay vào thư do phòng nghiên cứu gửi đi ư, thậm chí bao gồm cả cô?

Cô lắc đầu, không đến mức ấy chứ?

Cô thoáng nghĩ ngợi rồi hỏi: “Thầy nói, mấy nhân viên tình báo kia… là của nước nào?”

“Nước nào cũng có,” Từ Thiếu Khiêm cười khẽ, “Anh, Nhật, Xô Viết, chính phủ Nam Kinh, và cả Đông Bắc đang dựa vào Nam Kinh… Hoặc có thể cũng có các lực lượng khác nữa. Còn về việc bên nào biết nhiều hơn thì chuyện này không nằm trong phạm vi học thuật của tôi.”

***

Không chỉ ba người ở viện nghiên cứu Vật lý là có danh tiếng vang xa tại châu Âu gần đây.

Chiếm riêng một đề mục ngay trên trang nhất báo Thượng Hải là Lâm Doãn Yên.

Tin vắn viết: Lâm Doãn Yên con gái của Lâm Du – hiệu trưởng danh dự trường đại học Thượng Hải Bác Thế – đã viết tập truyện ngắn “Người mẹ của tôi” ở Paris. Cuốn tiểu thuyết sử dụng ngôn ngữ sinh hoạt đời thường, vừa vui vẻ vừa sinh động mô tả về một người phụ nữ Trung Quốc theo triều đại mới đã vượt qua rào cản trong gia đình kiểu cũ, cùng với mối tình với một du học sinh chính trị luật pháp ở Tokyo, nhưng rồi vì gia đình rối ren mà chia cắt mỗi người một nơi trong nhiều năm, không thư từ qua lại, cuối cùng gặp lại nhau ở Paris, thực là một câu chuyện khiến người ta thở dài chặc lưỡi.

Truyện ngắn được viết bằng tiếng Pháp, lời mở đầu của tác giả đã viết: “Mẹ của tác giả chính là cô giáo dạy vỡ lòng tiếng Pháp cho tác giả, tài liệu cho câu chuyện này cũng lấy từ trong cuộc sống.” Khi được xuất bản, “Người mẹ của tôi” được đông đảo người Pháp yêu thích, gần như là một câu chuyện ai ai cũng biết đến. Nay được dịch sang tiếng Trung, đăng tải ba, bốn kỳ trên tạp chí Tiểu Thế Giới ở Thượng Hải.

Mấy ngày sau, Chân Chân nhờ người từ Thượng Hải mang tờ tạp chí đó đến, cùng lúc ấy Nhật Báo Thượng Hải lại đăng một bản tin khác rất dài.

Con trai trưởng Tư Ngôn Tang của Tư Ưng – hiệu trưởng danh dự đại học Thượng Hải – đã ở Luân Đôn viết một tập truyện ngắn tên “Thư tình châu Âu” bằng tiếng Anh. truyện viết dưới ngòi bút hài hước trào phúng, kể về các học sinh Trung Quốc du học tại châu Âu trong gần ba mươi năm qua, cùng câu chuyện “quan hệ thông gia” của họ khi còn ở trong nước. Trong đó có không ít các câu chuyện về những người đã đính hôn hoặc thành thân trước khi du học, thậm chí người vợ Trung Hoa ở quê nhà đã dạy dỗ nuôi nấng con cái trưởng thành; có người lúc rời khỏi quê đã thề thốt “sau khi tốt nghiệp sẽ về nước thành thân”, cũng có người nói “qua mấy năm nữa sẽ đón mẹ con em đến Pháp”. Nhưng dù ban đầu có làm tốt thế nào thì cũng khó giữ được đến cùng. Trong truyện viết “đàn ông thanh niên mang nhiều tư tưởng mới rằng ‘tình yêu tự do là điều cao quý’, mà châu Âu lại là cái nôi của tình yêu tự do, ở nơi đó, bọn họ còn hành động cởi mở hơn so với người châu Âu. Quan hệ nam nữ phức tạp khiến người châu Âu cũng phải ghé mắt nhìn.’ Truyện ngắn được đăng tải nhiều kỳ trên tạp chí Grand Bridge, làm chấn động toàn nước Anh, khiến người châu Âu xôn xao bàn tán.

Ôm tâm trạng đọc tác phẩm đầu tay của tiểu thư Lâm Doãn Yên, trong lúc vô tình so sánh hai bên với nhau, bài báo thứ hai đã khiến Chân Chân và Di Nhã cười bò.

Chị hai ở Paris quang minh chính đại tuyên truyền “con gái thời đại mới xông phá gông cùm, theo đuổi tình yêu lãng mạn tự do bình đẳng”, còn anh Tư ở Luân Đôn lại vạch trần sự thật ngay trên đại lục châu Âu —— “tình yêu tự do” của du học sinh Trung Quốc thực chất chỉ là một gương mặt xấu xí.

Di Nhã và Chân Chân cười ra nước mắt. Di Nhã nói: “Anh Tư đúng là đã xả giận cho chúng ta.”

Mère, đây là từ tiếng Pháp đầu tiên tôi học được, do chính mẹ đã dạy cho tôi,” Di Nhã vừa cười vừa đọc to Người mẹ của tôi, “Mẹ —— đó chính là từ đầu tiên ta học được khi chào đời. Nhưng với tôi lại không phải như vậy. Tiếng Pháp đã ban cho tôi sinh mệnh sống lần thứ hai, đến lúc choàng tỉnh, tôi thấy mẹ đang dạy tôi gọi tên bà ấy. Thế mà bà lại không thể có một cái tên họ tiếng Trung hoàn chỉnh. Cô Chu là tên tiếng Trung duy nhất của bà. Cuộc hôn nhân giữa bà và cha tôi là hôn nhân hợp pháp trong thời đại mới, được luật pháp Nhật Bản thừa nhận, nhưng luật pháp Trung Quốc lại không thể để bà theo họ của cha tôi…”

Sau đó, Chân Chân lại mở truyện Thư tình châu Âu ra, đọc hồi kết của câu chuyện đầu tiên:

“… Anh Vương khóc lóc thảm thiết. Tiếng khóc cùng với hành động tuyệt thực uy hiếp kia giống hệt năm nào anh ta từng làm, hòng ép cha mẹ ruột cho mình rời khỏi Trung Quốc quay về Pháp. Người ngoài cười hỏi: ‘Kìa cậu Vương, cậu khóc gì thế? Cậu ở Pháp bảy năm liền không chịu về nước, lần này về là cha mẹ phải nhốt cậu không cho cậu đi. Có người đến cho cậu một trăm đồng để cậu ngồi thuyền rời đi, cậu thông cảm lấy ra năm đồng đưa cho cô ấy, coi như đền bù cho việc cô ấy đã gả nhầm người mười mấy năm trước. Đó mà là bồi thường hả?’ Anh Vương vừa khóc vừa la hét: ‘Số tiền đó là cô ta lén nhờ người đưa cho tôi, dù nghèo đến chết cũng không nói cho tôi biết việc này. Phụ nữ truyền thống Trung Quốc đấy!… Cô ta đợi tôi mười mấy năm, nghĩ cách giữ tôi lại như vậy, nhưng cũng chính cô ta lại khiến tôi rời khỏi cô ấy.’ Người kia cười bảo: ‘Mau về nhà đi, đang chờ ở nhà cậu là người vợ tự do triều đại mới, là đứa trẻ biết ca múa do người vợ ấy dạy dỗ. Chắc chắn cô ấy đẹp hơn và có học vấn uyên bác hơn, còn biết đọc năm ngôn ngữ. Có lẽ cô ấy không biết rằng, một người phong độ nhanh nhẹn như cậu lại từng vì một trăm đồng tiền này mà bối rối đến thế.’ Nói đoạn, người nọ bỏ đi, không hề nhìn anh ta lấy một lần. Anh Vương thôi đau lòng, suy nghĩ chợt dừng lại. Bỗng, trong tích tắc anh ta đã quên vì sao lại đau lòng. Một giây sau, anh ta gạt nước mắt, vui vẻ ưỡn bụng cất bước đi vào nhà…”

Hai người vừa đọc vừa cười, Sở Vọng cũng vui vẻ lắng nghe. Chỉ là trong lúc nghe, cô lại để ý một mẩu quảng cáo trên Nhật báo Thượng Hải.

Bên dưới tin tức về Tư Ngôn Tang có mấy dòng chữ nhỏ:

Tư Ngôn Tang, năm 1909 chào đời ở Tokyo, từng học tại trường trung học tư thục Ramon Berlin, sau đó chuyển sang trường Sherborne ở Vương quốc Anh. Hiện anh đang học tại học viện địa chất trực thuộc đại học Oxford, đã hoàn thành văn bằng hai về luật quốc tế vào năm ngoái. Trong cùng năm đó, anh đã đăng một loạt truyện ngắn dài kỳ tên Thư tình châu Âu trên tạp chí Grand Bridge. Phiên bản tiếng Anh của Thư tình châu Âu được xuất bản vào tháng 3 năm nay, và phiên bản tiếng Trung đã được đăng tải trên tờ Diệc Báo Thượng Hải từ tháng 7.

Vừa học văn bằng hai về luật quốc tế lại vừa đăng tải tiểu thuyết, vậy chắc bận đến nỗi không có thời gian viết thư rồi.

Thế thì cũng không nên làm phiền anh nữa.

Sở Vọng nghĩ bụng.
 

MUALARUNG91

Tác giả
Sưu tầm
Tham gia
25/8/19
Bài viết
4,780
Điểm cảm xúc
577
Điểm
113
Chương 66: Người bệnh (10)
Ngày càng có nhiều nghiên cứu sinh xin vào viện nghiên cứu, mà nhiều nhất là sinh viên trong nước và Singapore.

Khi các nghiên cứu sinh lần đầu đến chỗ Lương Chương đăng ký ghi danh, anh luôn hỏi bọn họ một câu vô cùng quen thuộc: “Vì sao anh/chị lại đến chỗ tôi làm nghiên cứu?”

Rất nhiều người hùng hồn trả lời đầy khách sáo: “Đương nhiên là vì “Sự tồn tại của nơtron” rồi! Không ngờ ngoài châu Âu, Nhật Bản và Mỹ ra, ở vùng thuộc địa trong nước ta cũng có một ngôi trường thực thụ để theo học!”

Và cũng có những người khá thành thật: “Vì thuận tiện. Vé tàu đi châu Âu mất hơn 80 đồng, đi Mỹ là 60 đồng, đi Nhật thì hơn 10 đồng, còn đến Hương Cảng chỉ mất 5 đồng. Vật giá ở Hương Cảng cũng thấp hơn Thượng Hải hay Bắc Bình.”

Thậm chí còn không thiếu những cô gái mang lòng hoài xuân: “Tôi đã đọc bài báo phỏng vấn giáo sư Từ ở Nam Khai rồi, ảnh chụp đẹp trai lắm! Người thật càng có khí chất hơn ảnh!”

Nếu đến thì cũng đã đến rồi, cho dù là vì cảm thấy có tiền đồ hay vì tiết kiệm tiền, hay thậm chí là vì “quảng cáo sống” Từ Thiếu Khiêm; tóm lại là muôn hình vạn trạng, Lương Chương thở dài rồi ghi tên hết.

Chandra* từ Ấn Độ đi thuyền tới cảng, từ khi đến viện nghiên cứu báo danh, Lương Chương không có lấy một ngày an nhàn.

(*Từ đây trở đi mình sẽ sử dụng tên tắt của Subrahmanyan Chandrasekhar là Chandra để dễ đọc hơn.)

Hễ rảnh rỗi là anh ta lại túm lấy Lương Chương, thao thao bất tuyệt về các suy nghĩ của mình khi ở trên thuyền.

Anh ta nói tiếng Anh giọng Ấn nghe rất “ma tính”, lải nhải từ sáng sớm đến tận chiều hôm, lời mở đầu toàn là: “Tôi nghe nói trên đời này chỉ có ba người có thể lý giải được thuyết tương đối rộng!”

Sau đó lấy “Có giới hạn về nguyên tắc không tương thích trong thuyết tương đối rộng” làm đề tài, triển khai bài phát biểu logic rõ ràng dài tận hai tiếng đồng hồ.

Bị ma âm tiếng Anh giọng Ấn rót vào tai mấy tuần liền, Lương Chương chỉ có thể bày tỏ vô cùng lấy làm tiếc: “Hiểu biết của tôi về vật lý thiên văn còn hạn chế, không thể giải đáp được nhiều nghi hoặc của cậu, vô cùng xin lỗi! Nhưng giáo sư Từ ở phòng bên lại rất am hiểu về lĩnh vực này, tôi đề nghị cậu nên đi tìm anh ta!”

Sở Vọng ngồi bên chống đầu nhìn Chandra với ánh mắt cổ vũ, thậm chí mấy lần suýt không kìm nén được muốn nói: “Anh nói hay lắm! Nhanh như thế đã thực hiện tính toán trọng lực sao lạnh, đưa ra Giới hạn Chandrasekhar rồi! Giải Nobel tiếp theo chắc chắn sẽ là của anh!”

Viện nghiên cứu ban đầu chỉ có ba người, bây giờ đột nhiên được tiêm thêm nhiều lượng máu mới, nhất thời rối ren suốt một thời gian dài. Gần như mọi chuyện vụn vặt trong viện nghiên cứu tại thời gian này đều do Lương Chương xử lý, còn Từ Thiếu Khiêm lại khóa trái cửa phòng bên cạnh, cũng không biết đang nghiên cứu gì nữa, chỉ biết phần lớn thì giờ anh toàn đóng cửa không gặp người.

Cho tới ngày Lise đến thì mọi chuyện mới miễn cưỡng được xem là đã đâu vào đấy.

Về phần bà Lise Meitner, Lương Chương quyết định dùng lễ nghĩa cao nhất mà viện nghiên cứu hiện có để đi đón người có chức vị giáo sư này: đích thân anh ta ra bến tàu đón người.

Kết quả là ngày hôm đó, anh ta đỏ mặt quay về.

Sở Vọng vui vẻ hỏi: “Ấy?”



Từ Thiếu Khiêm cũng kết thúc sự im lặng kéo dài gần mười tuần, lần đầu tiên phá lệ bước ra khỏi phòng thí nghiệm đi tìm thành viên mới – với trạng thái sắc mặt ảm đạm, râu ria xồm xoàm chưa từng có, doạ mấy nữ sinh hay nói “ảnh chụp đẹp trai lắm! Người thật càng có khí chất hơn ảnh” phải ngậm miệng, cũng dọa Sở Vọng sợ không nhẹ.

Lương Chương nhìn anh ta thở dài, xoay người đi vào phòng thí nghiệm, ném toàn bộ bản nháp tính toán bị vo tròn vào thùng rác.

Lise Meitner dùng phát âm tiếng Anh kiểu Áo chủ động tự giới thiệu với Từ Thiếu Khiêm: “Lise Meitner. Tôi biết anh, Dr. Tusi. Luận án lượng tử của tôi có trích dẫn phỏng đoán của anh về phương trình sóng.”

Từ Thiếu Khiêm nghĩ ngợi: “Còn tôi đã trích dẫn rất nhiều luận văn của chị và tiến sĩ Hahn, không thể nói hết trong chốc lát được.”

Sở Vọng đứng bên cạnh, nhìn hai người khích lệ đối phương ở mức trình độ học thuật cao, suýt đã không kìm được mà nói xen vào: tôi không trích dẫn luận văn của hai người bởi vì lý thuyết của cả hai đều quá kinh điển, đã được ghi rõ vào sách giáo khoa, trở thành kiến thức chung. Nên khi viết luận văn thì không cần phải đánh dấu nguồn trích dẫn làm gì.

Trong tay Lise Meitner vốn có bốn, năm dự án về nguyên tử, đi cùng là hai nghiên cứu sinh tiến sĩ quốc tịch Đức cùng than gia các dự án trên. Có lẽ hai người họ đang so sánh với đại học Berlin từng làm việc ngày trước, nên không đặt chuyện nghiên cứu khoa học ở đại học Hương Cảng vào mắt. Bởi vậy mà so với người hướng dẫn khiêm tốn của họ, trông họ có vẻ rất kiêu căng ngạo mạn.

Nhưng hai hôm sau, đột nhiên Từ Thiếu Khiêm đưa ra một quyết định: phân ngành.

Hơn nữa còn nói với mọi người là: tuần trước anh đã nộp đơn xin phân ngành rồi, việc nghiên cứu của Viện được chia thành hai hướng: vật lý thiên văn quy mô lớn và vật lý hạt nhân quy mô nhỏ.

Anh chịu trách nhiệm về vật lý thiên văn.

Còn vật lý hạt nhân được toàn quyền giao cho Lise, do Lương Chương giúp đỡ.

Sau đó, hơn hai mươi sinh viên đại lục, Hương Cảng và Singapore bao gồm Chandra theo Từ Thiếu Khiêm nghiên cứu về vật lý thiên văn.

Còn hơn mười người khác thì theo Lise và Lương Chương.

Sở Vọng cũng đã từng hỏi Từ Thiếu Khiêm vì sao lại đột nhiên sắp xếp như vậy. Từ Thiếu Khiêm nói: “Chị ấy có kinh nghiệm và khả năng dẫn đội. Dưới danh tiếng của chị ấy, tôi tin rằng sẽ còn có rất nhiều sinh viên châu Âu chọn tới đội ngũ nơi này. Như thế tôi cũng có thêm nhiều thời gian để suy ngẫm về thuyết tương đối rộng. Mặt khác, xuất phát từ tâm tư cá nhân, tôi hy vọng trong tương lai Lương Chương có thể tự mình đảm đương một lĩnh vực nào đó. Từ những điều trên, đây là một lựa chọn rất có lợi mà tôi có thể đưa ra.”

Ba người hướng dẫn đều có sở trường riêng, trong tương lai xa hẳn không chỉ có mỗi một bài viết là “Sự tồn tại của nơtron”. Sở Vọng thừa nhận, đấy quả thật là lựa chọn tốt nhất với viện nghiên cứu.

Cô cũng có tính toán riêng của mình. Xuất phát từ tư lợi bản thân, cô lựa chọn phòng thí nghiệm của nữ thần và Lương Chương.

Khi biết việc này, Từ Thiếu Khiêm đã cười hỏi: “Tôi có thể hỏi nguyên nhân vì sao không?”

Im lặng một lúc, Sở Vọng đáp: “Vì em thích.”

“Thích? Thật không?”

“Thầy đã hỏi một lần rồi.”

Miễn cưỡng thu lại ánh mắt chăm chú khiến cô đứng ngồi không yên, anh xoay người đi đến phòng thí nghiệm nguyên tử bên cạnh.

***

Gửi anh Ngôn Tang,

Cám ơn bài dịch của anh.

Gần đây may mắn đọc được truyện Thư tình châu Âu của anh đăng trên tờ Diệc Báo, đọc kỹ hai lần. Người như anh Vương trong truyện là kiểu du học sinh tự phong cũng như tự xưng mình là “ nhân vật mới”. Bị ép thành thân trước khi xuất ngoại, cho rằng “vợ của tôi rất thông minh. Văn thơ hội họa không gì không biết, giỏi giang hơn tôi, lại biết được thời thế”, “Nhưng trước sau gì tôi vẫn phải đi, vạn bất đắc dĩ, tôi phải đến Pháp một mình.” Đến Pháp bốn năm, vừa có niềm vui mới là “lập tức viết thư về nói với cha rằng mình muốn ly hôn.” Suy cho cùng, chính “người tình châu Âu” đã một tay tạo nên bi kịch của người khác. Rất nhiều năm sau, đợi đến khi “người tình Trung Quốc” mang theo sắc màu bất hạnh qua đời thì bi kịch trên mới coi như chấm dứt.

Anh Ngôn Tang viết về tình người thường có sự châm biếm hài hước. Sau khi cuốn truyện được xuất bản ở châu Âu, người phương Tây đã đánh giá thế nào? Em thực sự rất muốn biết.

Những lời trên là lời nói nhảm từ một người không biết gì về sáng tác văn nghệ, xin anh đừng cười chê. Có lẽ anh không tin, nhưng em rất nghiêm túc đánh giá và đọc thuộc mỗi một bài thơ anh gửi kèm thư trước. Em rất mong đợi câu chuyện tiếp theo của Thư tình châu Âu.

Chúc anh những điều tốt lành

Sở Vọng

Ngày 9 tháng 11 năm dân quốc 17.


Viết bức thư đó xong, cô lại viết kèm một phong thư khác, bên trên đề địa chỉ của Ngôn Tang ở Luân Đôn, nhờ bà Cát lấy danh nghĩa của cô gửi đến chỗ của ngài Dupont.

Khoản tiền lương thứ hai cùng với bật lửa hồng ánh kim khắc hoa hồng đã được gửi đến. Cô lấy bật lửa trước, định đợi tháng sau tới sinh nhật bà Cát thì sẽ tặng cho bà.

Lúc không đến trường thì cô sẽ ở trong nhà, cùng bà Cát uống trà vẽ tranh trong phòng khách.

Gần đây bà Cát đột nhiên thích mua nhà ở tô giới Thượng Hải. Bà lười quen rồi nên không có thời gian đến tô giới xem nhà; còn xét từ khía cạnh khác thì bà là một người cực kỳ kén chọn. Gộp đủ nguyên nhân lại khiến cách bà mua nhà vô cùng kỳ quái lại xảo quyệt.

Bà Cát mặc trường bào tơ lụa uống trà chiều, đội khăn che đầu; nâng một tách trà, nghiêng mình ngồi trên ghế sofa. Một người môi giới bất động sản từ Thượng Hải đến tay cầm cuốn tạp chí thiết kế, lật từng trang một cho bà Cát xem.

Nhân viên nọ nói mười câu, bà Cát cùng lắm cũng chỉ nói hai ba câu, nhưng toàn là “quá lệch”, “không có thang máy”, “không có chỗ để đậu xe hơi”, “mấy căn nhà trong ngõ mà cũng đem đến lừa tôi hả?”

Đến khi nhìn hơn mười căn nhà, bà Cát lại than đau đầu. Cô nhân viên ra vẻ áy náy, vâng dạ liên tục: “Bà Cát à, đây đều là những căn được ông chủ Hứa chọn lựa cẩn thận mới dám để tôi đưa đến Hương Cảng để bà xem.”

“Chọn lựa cẩn thận? Cô nói tôi nghe, ông ta đã chọn gì hả?”

Cô nhân viên không dám lên tiếng.

Bà Cát lườm cô ta, nhấp một ngụm trà. Qua một lúc thấy bà đã bớt giận, Sở Vọng lại gần cười nói: “Cô út, hay là để cháu xem hộ cho?”


Nhân viên thấy có hy vọng, ánh mắt cứ đảo qua đảo lại giữa bà Cát và Sở Vọng. Bà Cát nể tình cô nên miễn cưỡng đồng ý.

Sở Vọng không cần cô gái kia giới thiệu, tự cầm lấy sách ngồi trong góc xem.

Không thích ở tô giới công cộng, không thích ở trong hẻm, phải có thang máy… Dùng phương pháp loại trừ lược bỏ đi rất nhiều, chốc lát sau chỉ còn lại hai căn nhà phù hợp.

Bà Cát nhận lấy nhìn, thở dài bật cười, “Đại tiểu thư của tôi ơi.”

Sở Vọng kéo sách qua, nghiêng người ngồi xuống cạnh bà: “Cô nghe cháu nói trước đã ạ. Cháu đã lược bỏ những căn nhà không phù hợp với yêu cầu của cô rồi, chỉ còn lại hai căn nhà ở tô giới Pháp. Căn đầu tiên tuy có hơi cũ, nhưng ta có thể tân trang lại. Căn thứ hai, dây điện vách tường đã hỏng, nhưng không phải còn hơn là xây thêm thang máy trong nhà không có thang máy sao?”

Còn với lý do vì sao không chọn tô giới công cộng mà chỉ có thể chọn tô giới Pháp, cô không giải thích rõ với bà Cát, chỉ cười ha ha rồi cho qua.

Bà Cát lắc đầu cười: “Căn thứ nhất nằm quá gần đường ray xe điện, ban đêm xe chạy ầm ầm thì ngủ thế nào hả? Còn căn thứ hai, chỉ có một hành lang với hai gian phòng, ngay cả phòng khách cũng không có, quá chật. Hơn nữa, hai nơi này không có chỗ đậu xe, đi lại không tiện.”

Sở Vọng quên mất bà Cát không thích đi bộ, đi đâu cũng phải có xe đưa đón, thế là cười nói: “Cũng đúng.”

Khép sách lại tính trả lại cho cô nhân viên, nhưng cô bất chợt nghĩ đến gì đó, đột nhiên hỏi: “Căn nhà thứ hai nằm trên tầng thượng chung cư có thang máy ở tô giới Pháp, có hai phòng ngủ, một phòng tắm phòng bếp và hành lang dài thì khoảng chừng bao nhiêu tiền?”

Nhân viên bất động sản vốn vâng lệnh ông chủ đến Hương Cảng lôi kéo bà Cát, nghĩ nếu có thể bán được hai căn nhà này thì ông chủ sẽ vui vẻ, và cô ta cũng có nhiều hơn mười mấy đồng tiền hoa hồng, nhưng đâu ngờ bà Cát lại là người khó đối phó như thế, đi đi lại lại giữa Thượng Hải Hương Cảng cũng không rẻ, nên cô ta không muốn chuyến đi lần này rơi vào cảnh dã tràng xe cát. Thế là dùng ánh mắt hỏi bà Cát. Nhưng bà Cát không nhìn cô ta, chỉ hỏi Sở Vọng: “Cháu thích căn nhà này à?”

Sở Vọng gật đầu, nghĩ bụng: dù gì ba bốn năm qua cô qua cũng chỉ mới tích cóp đủ chín trăm đồng, thể nào cũng phải chi tiêu trước khi lạm phát bùng nổ mới được. Trong vành đai một tại Thượng Hải là tấc đất tấc vàng, lại cách Bến Thượng Hải chỉ mười phút đi bộ; tránh được cuộc pháo kích trong Chiến tranh Thượng Hải, cũng tránh được sau cuộc giải phóng, rành rành tốt hơn so với việc mua nhà ở Quận 8 Paris, thế thì việc gì lại không mua!

Bà Cát liếc nhìn cô, nghĩ ngợi một hồi rồi hỏi nhân viên môi giới: “Giá thế nào?”

Người bán báo giá 1000 đồng.

Sở Vọng than chao ôi, không ngờ còn thiếu tận 100 đồng. Bà Cát híp mắt nhìn cô cười, rồi lại hỏi tiếp người kia: “Nếu tính theo giao tình giữa tôi và ông chủ Hứa nhà cô thì căn nhà này giá bao nhiêu?”

Người kia đâu dám đánh giá giao tình giữa bà Cát và ông chủ có giá mấy đồng tiền, nên không dám tùy tiện trả lời.

Bà Cát cười cười, đẩy trả lại cuốn sách cho cô ta, “Cô về Thượng Hải hỏi rõ ông tađi, rồi bảo ông ta gọi điện đến cho tôi.”

Người kia đảo mắt, trong đầu nghĩ: có thể ông chủ Hứa cử cô ta đến Hương Cảng chuyến này không phải là để cô bán nhà, mà là mượn danh nghĩa nhà cửa để kết thân thêm với bà Cát. Về phần giảm giá như thế nào, nếu phải về Thượng Hải hỏi ông chủ thì chắc chắn sẽ bị mắng là làm chuyện không xong. Rồi lại nghĩ, có thể với người bình thường 1000 đồng không phải là con số nhỏ, nhưng nghe nói bà Cát này có rất nhiều đất ở Hương Cảng Thượng Hải, chút tiền ít ỏi của căn nhà này chắc chắn không là gì với bà. Thế là cô ta án theo mức giá đã giảm cho một người khác trước đó, báo giá gấp bảy lần với bà Cát.

Sở Vọng thở hắt: Ít nhất phải rẻ hơn gấp 4 lần! Giá mua nhà bây giờ chém cắt cổ thế cơ á?

Bà Cát thong thả uống trà, còn chẳng thèm nâng mí mắt lên nhìn: “Chút tiền cỏn con ấy, dù tôi có đứa thì chưa chắc ông chủ Hứa nhà cô đã muốn nhận.”

Nói rồi bà gọi chú Henry đến, nhân viên đi theo ông ra ngoài. Một lát sau lại vòng về, cầm hợp đồng mua nhà đưa cho bà Cát. Bà Cát nhướn mày chỉ vào Sở Vọng, nhân viên bèn đưa cho cô.

Cô mở hợp đồng ra, thấy đã có chữ ký, mọi thứ xong xuôi hết cả rồi. Tên đề tên cô, còn tài khoản chi phiếu là của bà Cát.

Sở Vọng cầm bản hợp đồng trên tay, đang định mở miệng thì bà Cát đã nhíu mày nói: “Cũng không phải trong nhà không trả nổi chút tiền đấy, cô út cháu cũng chỉ tốn ít nước bọt là xong, đừng có phân rạch ròi của cô của cháu làm gì, người ta nghe được lại tưởng keo kiệt. Còn mấy đồng lẻ trong túi, cháu cứ giữ đấy mà tiêu vặt.”

Sở Vọng há to miệng, lời đến bên mép đã bị bà Cát chặn lại. Cô mỉm cười vâng một tiếng.

“Cháu chưa bao giờ xin cô thứ gì, được mỗi lần này là mở miệng xin. Thế thì cứ để cô mua cho cháu một căn, làm chỗ nghỉ ngơi nếu có dịp cùng bạn bè đến Thượng Hải. Lúc trước khi Kiều Mã Linh kết hôn, cũng có người nói mấy căn nhà đó là cô tặng. Nên nếu cháu kết hôn, dĩ nhiên của hồi môn không thể ít được.”

Còn lâu lắm cháu mới kết hôn mà! Sở Vọng không nhịn được bật cười. Rồi lại ồ một tiếng, hỏi: “Căn nhà lúc trước thật sự do cô út tặng ạ?”

“Cô tặng? Mơ hay nhỉ!” Bà Cát liếc nhìn căn nhà bên kia, nói: “Hồi con gái chị ta kết hôn, bà dì đây mà không tặng gì thì lại khiến người khác trách cô keo kiệt. Còn nếu tặng, thì bà bác cả của cháu lại cảm thấy dễ dàng lấy được đồ tốt từ cô, cho rằng cô đang lấy lòng chị ta, bỏ qua hiềm khích ngày trước. Còn lâu cô mới nể cái bản mặt kia của chị ta. Vừa hay huân tước Tạ không muốn con trai bảo bối kết hôn qua loa ở Hương Cảng nên đến tìm cô bàn bạc. Sau khi suy ngẫm, cô đã thảo luận với ông ta là: ‘Thật trùng hợp, tôi có một ngôi nhà trên đường Barton. Tôi đã nói rõ ý của anh với cô cháu gái nhà tôi rồi, hỏi con bé có chịu kết hôn với con trai anh không; hay là chịu đoạn tuyệt với con trai anh, lấy căn nhà này, rạng rỡ gả cho người khác tốt hơn.’ Dĩ nhiên Kiều Mã Linh tự có quyết định của mình. Rồi cô mới đề nghị với lão Tạ: ‘Căn nhà kia không lớn, đủ để hai người sống qua ngày ở Hương Cảng, thêm vài người giúp việc nữa là đủ. Tôi giảm giá căn nhà này bốn phần, nếu anh chịu thì mua đi, lấy danh con gái nuôi làm quà kết hôn tặng cho nó. Như thế, anh vừa được tiếng thơm mà nhà họ Kiều cũng không bị mất mặt.’ Chuyện này là vậy đấy. Nói cho cùng thì cô cũng chỉ giảm giá bốn phần, thế mà người khác lại cứ nói cô lấy danh nghĩa hầu tước Tạ tặng cho con bé, thôi thì cô cũng vui.”

Sở Vọng nghe thế thì ngạc nhiên ra mặt. Thì ra còn có thể xử lý như vậy sao?

Cô lại hỏi: “Hồi trước cha của anh Tạ có tìm đến cô để bàn bạc chuyện hôn sự thật ạ?”

Bà Cát hừ lạnh: “Con trai ông ta chơi ở chỗ cô từ nhỏ đến lớn, coi như do một tay cô dạy dỗ. Tính cách thằng oắt đó ra sao cô hiểu rất rõ. Cô thấy cậu ta không tệ, sao có thể để con gái của bà chị cô trúng mánh được? Nếu qua được ải của cô thì chỉ cần cô nói tốt mấy câu trước mặt lão Tạ, kiểu gì hôn sự cũng thành thôi. Nhưng cô cứ không muốn chị ta được hời đấy.”

Sở Vọng không khỏi nhớ lại khung cảnh khi mới đến Hương Cảng, ở trên lầu nghe thấy bà Cát cả vú lấp miệng em giáo huấn bà Kiều.

Huống hồ bà Cát vẫn để Kiều Mã Linh tự lựa chọn: bánh mì hay tình yêu, tự cháu chọn đi.

Chẳng qua là bà không ưa gì bà Kiều xưa nay hay khinh người quá đáng mà thôi. Cũng chính vì vậy nên không muốn tốn nước bọt, xin cả bánh mì lẫn tình yêu cho Kiều Mã Linh.

Cô không khỏi nghĩ đến những người và tình cảm trong chuyện này.

Đương nhiên Tạ lão thái gia biết bà Cát đang bòn rút của mình. Nhưng hai người có giao tình nhiều năm, biết rõ tâm tư của đối phương cùng thủ đoạn hay dùng nên không nổi nóng cũng không buồn bã, trái lại còn rất vui vẻ hợp tác; cháu gái Kiều Mã Linh vốn không có thù oán với bà Cát cầu được ước thấy, dĩ nhiên không kể đến; còn bà Kiều mà bà Cát ghét cay ghét đắng tự cho rằng đã được lợi, thực chất đã bị bà Cát bóp mạnh vào tử huyệt; còn bà Cát ư, đổi lại được cái tiếng thơm rộng lượng với bên ngoài.

Dù quan hệ tình nghĩa có phức tạp đến đâu thì bà Cát vẫn có thể thành thạo ứng xử, để ý đến cảm xúc trên mọi phương diện và đồng thời còn có thể trả thù ngay cả việc nhỏ.

Thì ra người thông minh sẽ làm như vậy. Có nguyên nhân có kết quả, có mưu có kế, mạch lạc rõ ràng.

Cô cảm thán: Thiên đạo luân hồi tốt thật.

Đáng thương cho bạn Tạ trạch Ích, đang yêu đương yên lành lại vô duyên vô cớ làm bia đỡ đạn.

***

Phòng thí nghiệm nguyên tử ngày càng có nhiều dụng cụ mới: máy phát hạt và máy phát lửa quang phổ hoàn toàn mới, thậm chí có thêm buồng sương.

Ngoài máy móc ra, một vài nguyên tố đã được tinh lọc cũng được lặng lẽ vận chuyển đến phòng thí nghiệm, bao gồm Beryllium, Plutonium và một lượng nhỏ Uranium-235 nồng độ cao.

Đương nhiên Sở Vọng biết phòng thí nghiệm muốn làm gì. Cô im lặng không nói năng gì, im lặng đứng cuối đám đông làm việc của mình: tính toán và ghi chép.

Phòng thí nghiệm bên cạnh cũng có kính viễn vọng mới. Nghe phong thanh trong trường đồn là hình như muốn lập một phòng thiên văn nhỏ trên núi Thái Bình, để tiện sau này có vốn đầy đủ sẽ phát triển thành đài thiên văn.

Lúc này báo chí đại lục bắt đầu trắng trợn nêu ra đủ loại thuyết âm mưu: “Vì sao đại học Hương Cảng lại thành lập phòng thiên văn chỉ sau khi dựng đài quan sát núi Tử Kim mấy tháng?”

Sở Vọng thở dài: chúng tôi ngồi thuyền đến nghiên cứu, các anh có thanh toán lộ phí và vé thuyền không?

Đây chính là một ngày bình thường ở phòng thí nghiệm.

Anh Chandra không dưới một lần gõ cửa tìm Sở Vọng, nét mặt ảo não, tay cầm một đống giấy nháp tính toán, cầu khẩn bằng tiếng Anh giọng Ấn: “Linzy, mau tính lực hấp dẫn và hệ số kéo theo này giùm anh với!”

Còn Lương Chương không dưới một lần vò đầu bứt tai la hét: “Vì sao không có cách nào tạo ra được Uranium nặng thế này! Vì sao toàn là chất lượng kém!”

Trong khi tính toán hệ số kéo nội bộ của ngôi sao cho Chandra, Sở Vọng bình tĩnh đưa ra đề nghị cũng như xúi giục: “Có lẽ anh nên ra ngoài đi dạo với dì Lise thử xem, giải sầu cho khuây khỏa, biết đâu có thể nghĩ ra vì sao.”

Cũng vì vậy nên Lương Chương không dưới một lần đến trước mặt Từ Thiếu Khiêm tố cáo: “Quản học trò của cậu đi! Suốt ngày con bé toàn nghi ngờ quan hệ đồng nghiệp trong sáng giữa tôi và cô Meitner, lại còn muốn gán ghép bọn tôi nữa!”

Sở Vọng cười thầm: tôi chỉ muốn đề nghị hai người ra ngoài đi dạo thôi mà. Vì trước đây, bà Lise Meitner đã nghĩ ra lý thuyết đó trong lúc tản bộ.

Còn chuyện đi dạo có làm tăng tình hữu nghị của hai người hay không thì đó cũng là chuyện tôi không ngăn cản được!

Trong tay Từ Thiếu Khiêm đã có một bản thành cảo luận văn, có điều vẫn đang trong giai đoạn bới lông tìm vết chứng minh. Anh bình tĩnh nghe xong, lại bình tĩnh cười nói: “Vậy kết quả của việc gán ghép thế nào?”

Lương Chương lớn hơn Từ Thiếu Khiêm mấy tuổi*. Nhưng vì chưa lập gia đình và có gương mặt khá non, nên Sở Vọng vẫn chỉ nghĩ anh mới 25, 26 tuổi. Về sau nghe nói Lise Meitner và anh hơn kém nhau không quá 18 tuổi, Sở Vọng mới yên tâm mạnh dạn đề nghị “tản bộ sau khi ăn”, cũng yên tâm mạnh dạn gán ghép hai người.

(*Qin: Xin lỗi các bạn vì các chương trước đã nhầm xưng hô tôi-cậu giữa Từ Thiếu Khiêm và Lương Chương, từ chương này trở đi sẽ thay đổi. Các chương trước mình sẽ sửa dần ở wordpress, mong các bạn thông cảm.)

Tuy bà Lise hơi lớn tuổi, song ở bà vẫn toát lên khí chất quý tộc độc thân, phong thái nhẹ nhàng tao nhã, nói năng có giáo dưỡng và có sức hút của một người phụ nữ trưởng thành. Phòng nghiên cứu không thiếu những cô gái trẻ tuổi, nhiều nhất là vùng duyên hải Đông Nam và Ấn Độ, Singapore, nói chung đều là các thiếu nữ chưa thành thân. Nhưng nếu đem so với bà thì có vẻ không bằng, thiếu vẻ phụ nữ.

Cũng vì vậy mà Lương Chương từng âm thầm đánh giá: “Phụ nữ da trắng đúng là ‘tay ra tay, chân ra chân’, tạng người cũng cao to hơn con gái Trung Quốc.”

Không biết từ khi nào mà câu đó đã lọt đến tai bac Lise. Cứ tưởng bà sẽ tức giận, không ngờ vào ngày nào đó sau khi làm việc xong, bà đi đến trước mặt Lương Chương, nói: “Hay là ra ngoài đi dạo nhé?”

***

Người đời sau khi làm thí nghiệm bắn phá nguyên tố sẽ mặc đồ chống phóng xạ, song người ở phòng thí nghiệm không mặc.

Sở Vọng từng đưa ra lời đề nghị, nhưng đã bị hai nghiên cứu sinh người Đức lấy lý do “các nhà khoa học làm thí nghiệm bắn phá ở phòng thí nghiệm Leiden và Cavendish không câu nệ tiểu tiết như cô” chặn họng.

Vậy là cô không đề nghị thêm nữa.

Gần đây bà Cát thấy rất nhiều cô gái mặc đồ Chiêu Quân —— mặc áo khoác lông trắng bên ngoài sườn xám hoặc áo váy. Đầu mùa Đông có lông cừu ngọc trai hoặc lông cừu tím, lấy lông chồn trắng làm lớp lông giữa, còn lớp lông dày được làm từ lông cáo bạc hoặc cáo đen… Hễ bà Cát thấy đẹp là đều mua cho cô một bộ treo trong tủ quần áo.

Nhưng vì sợ đến phòng thí nghiệm sẽ làm bẩn nên tránh để đau lòng, tới gần lễ Giáng Sinh cô mới có cơ hội mặc thử lần đầu.

Tuy đã bắt đầu vào Đông, mặc quần áo dày hơn, nhưng vùng da lộ ra ngoài vẫn xuất hiện triệu chứng nhiễm phóng xạ thời kỳ đầu, lúc nào cũng trong tình trạng thiếu ngủ. Một hôm nào đó ở nhà nghỉ trưa, đến khi tỉnh giấc thì nghe thấy dưới lầu có tiếng đàn dương cầm cùng với tiếng cười tiếng hát của các cô gái trẻ. Sở Vọng vỗ đầu, quên mất tối thứ sáu phải đến biệt thự nhà họ Kiều.

Nếu mặc đồ không thích hợp từ bên này sang bên đó, bị bà Kiều bắt gặp, thể nào cô út cũng bị bà Kiều chế giễu cho xem. Vậy là cô rửa mặt chải tóc, mặc sườn xám gấm cổ tròn, hoa văn giọt nước tối màu.

Dưới lầu đã bắt đầu sôi nổi ồn ào, tụ năm tụ ba chuyện trò. Lúc cô xuống cầu thang đi ra cửa, tất phải xuyên qua một quãng đường đầy đám đông ồn ào đó, sợ sẽ đụng phải người này người kia.

Đứng ở đầu cầu thang, Sở Vọng thở hắ ra, đang nghĩ phải làm gì mới có thể không mất thể thống lại không để người ta chú ý mình ra ngoài, bất chợt nhác thấy bên dưới có một người đứng thẳng, mặc âu phục tối màu, đứng trong bóng tối nhìn đám chim thú trong đại sảnh. Dường như để ý thấy có người đi xuống, ngẩng đầu lên nhìn, bốn mắt nhìn nhau, là một ánh mắt cô chưa từng thấy trước kia.

Tạ Trạch Ích dùng ánh mắt ga lăng tán thưởng thục nữ kiểu mới, quan sát Sở Vọng thẳng thừng tới nỗi làm cô mất tự nhiên. Cô tựa vào lan can, cười nói: “Tôi cứ tưởng sẽ không gặp lại anh Tạ ở Hương Cảng nữa.”

Tạ Trạch Ích cười, “Có lẽ vì có ai đó vô tình nhớ tôi, bảo tôi nhất định phải quay về một chuyến.”

Sở Vọng biết anh ta đang nói đùa nên không để ý nhiều.

Đúng lúc này, chợt có một vị tiên sinh chú ý đến Từ Thiếu Khiêm. Ông ta đi tới cầm ly rượu sâm panh, ngẩng đầu nhìn theo ánh mắt anh, thoáng khựng lại rồi hỏi: “Quý cô đây là…”

Tim Sở Vọng đập thịch, đang không biết phải tự giới thiệu mình với bạn của cô út thế nào thì Tạ Trạch Ích đã tiếp lời trước, tự nhiên cười nói: “Là bạn nhảy tối nay của tôi.”

Người kia gật đầu, vỗ vai Tạ Trạch Ích rồi xoay người rời đi.

Tạ Trạch Ích vươn tay ra với cô, đứng dưới cầu thang ra hiệu cô đi xuống.

Sở Vọng hiểu ý anh, đi xuống cầu thang khoác lấy tay anh. Xoay người lại, hai người sóng vai nhau, một cách tự nhiên đưa cô băng qua đại sảnh đi đến cửa.

Sở Vọng buông tay, thở ra làn khói trắng: “Cám ơn anh Tạ rất nhiều.”

Tạ Trạch Ích đút một tay trong túi áo, đứng trước gương soi, cười nói, “Không cần khách khí.”

Sở Vọng lấy chiếc áo lông cáo trắng treo trên giá mặc vào. Cổ áo trễ xuống, để lộ làn da trắng nõn. Trên cổ có mấy chấm đỏ nho nhỏ, trông như hai nốt ruồi son. Nếu là người khác thì khó mà nhận thấy. Nhưng trời sinh da cô trắng bóc, tựa như một miếng bạch ngọc trơn láng lại xuất hiện mấy chấm đỏ tì vết, song lai càng toát lên vẻ đẹp tì vết khác biệt.

Sở Vọng biết anh đang đứng sau lưng nhìn cổ mình. Cô xoay người lại, ngoái đầu nhìn vào trong gương, lập tức thấy hai chấm đỏ kia.

Cô giơ tay sờ cổ mình, nói, “À, vỡ mao mạch đấy.”

Nói đoạn, Sở Vọng xoay người bước ra khỏi cửa.

Rất nhiều năm sau, có người hỏi Tạ Trạch Ích: “Bình sinh anh có gặp người phụ nữ nào không hiểu phong tình nhất không? Là kiểu như thế nào?”

Khi ấy anh nhớ lại câu nói kia —— “À, vỡ mao mạch đấy.”

Vào mùa đông năm 1928, một cô gái cực kỳ lý trí đã bóp chết chuyện tình ngay từ trong trứng.
 

MUALARUNG91

Tác giả
Sưu tầm
Tham gia
25/8/19
Bài viết
4,780
Điểm cảm xúc
577
Điểm
113
Chương 67: Người bệnh (11)
Khi người ở phòng thí nghiệm nguyên tử đang sứt đầu mẻ trán, cảm thấy tiền đồ vô vọng, thì phòng thí nghiệm bên cạnh đã đưa ra tận hai giả thuyết.

Một là thuyết “Duy trì khối lượng của ngôi sao lạnh chống lại lực hấp dẫn của chính nó” của Chandra;

Hai là thuyết “Sao đặc có thể tồn tại” của Từ Thiếu Khiêm.

Khi Từ Thiếu Khiêm đã tiến vào trạng thái sáng tác luận văn, thì từ có thể mô tả anh chỉ còn lại hai chữ “đam mê”. Nhìn một giáo sư trẻ tuổi đẹp trai ngày càng tàn tạ, không chỉ các nữ sinh đau lòng mà đến cả Chandra cũng rất lo lắng.

Vì thế mà không dưới một lần anh ta nói bóng gió với Sở Vọng: “Không phải em cũng biết sửa luận văn à? Hay là để anh phụ em phần tính toán, còn em giúp Prof. Tusi sửa bản thảo đi?”

Sở Vọng ngẩng đầu lên từ đống giấy nháp đầy bàn, nhìn Chandra rồi ngoái đầu nhìn Lương Chương đang vò đầu bứt tai, cô khẽ lắc đầu. Bụng nghĩ: Cùng là người lớn da ngăm mắt to, nhưng anh Chandra đây đã biết phải chăm sóc lãnh đạo, còn anh thì sao hả! Mỹ nhân ở ngay bên cạnh mà trong mắt anh chỉ biết có mỗi khoa học!

Khác biệt giữa người và người thực quá to lớn!

Vào một buổi chiều ngày thứ 6 nào đó, Từ Thiếu Khiêm cầm một xấp giấy nháp trong tay, gõ cửa phòng nghiên cứu nguyên tử, áy náy nói với Sở Vọng: “Em có thể kiểm tra giúp tôi cái này được không? Gần đây vợ tôi bị bệnh nặng, tối nay phải về với cô ấy.”

Sở Vọng gật đầu, bước nhanh đến nhận lấy xấp giấy, “Cho em gửi lời hỏi thăm sức khỏe đến cô ạ.”

Từ Thiếu Khiêm mệt mỏi khoát tay, xoay người đi ra hành lang.

Sở Vọng trải giấy lên bàn. Đọc xong phần tóm tắt, cô không bật cười đầy yên tâm: về mặt nào đó mà nói, Từ Thiếu Khiêm cũng là một thiên tài bị vốn quốc gia giới hạn, bị thời đại kìm hãm.

Cho đến ngày sau khi dụng cụ thiên văn được đưa vào nước, những giả thuyết và luận chứng của anh sẽ nhanh hơn bất cứ người cùng thời đại nào!

Cô kìm nén kích động đọc tiếp, càng đọc càng muốn cười to.

Lương Chương đứng bên ngạc nhiên hỏi: “Có chuyện gì thế? Đọc luận văn mà cũng có thể cười tươi vậy à?”

Anh cũng thò đầu đến xem tiêu đề và nội dung tóm tắt trong bài luận văn. Nhìn một lúc thì bất chợt ơ lên, “Vì sao bài luận văn đầu tiên cậu ta viết lại là sao đặc?”

Sở Vọng nghe thấy anh ta nói thế thì lấy làm lạ, hỏi ngược lại: “Không phải đã chia ngành rồi à? Không phải vật lý thiên văn thì còn gì nữa?”

Lương Chương cau mày trầm ngâm, sau đó nói, “Thời gian trước cậu ta khóa cửa vùi mình trong phòng tính toán. Lúc tôi sửa bản nháp cho cậu ta, tình cờ thấy cậu ta đã gần như đưa ra kết luận về vật lý hạt nhân rồi. Tuy cậu ta vo tròn ném vào thùng rác, nhưng tôi thấy tiếc nên lấy về bỏ vào túi tài liệu rồi.”

Sở Vọng nhướn mày: “Nói về gì?”

Dừng một lúc, Lương Chương ngoắc tay với Sở Vọng, tỏ ý cô theo mình đến văn phòng của Từ Thiếu Khiêm ở bên cạnh.

Từ Thiếu Khiêm luôn là người về muộn nhất. Chiều thứ 6, các thành viên khác trong phòng thí nghiệm lục tục ra về, nay chỉ còn lại mỗi Chandra. Khi Sở Vọng và Lương Chương đến thì anh ta cũng đang dọn dẹp chuẩn bị về.

Ba người mặt đối mặt, Lương Chương đi thẳng đến tủ tài liệu phía sau bàn làm việc của Từ Thiếu Khiêm, lục tìm lấy ra một túi tài liệu.

Sở Vọng: “… Tự tiện tìm đồ của thầy ấy như vậy có ổn không?”

Lương Chương: “Đồ của cậu ta trước giờ đều do tôi sửa soạn, đây cũng là quy định mấy năm nay giữa hai người bọn tôi. Có gì tò mò à?”

Có lẽ Chandra cũng đã biết đến thói quen này của Từ Thiếu Khiêm, nên anh ta cũng không thấy lạ, chỉ ném chiếc ví tiền da bò cho Lương Chương, nói, “Giáo sư để quên ở văn phòng, Dr. Leung trả lại thầy ấy giúp em.”

Lương Chương kích động lôi một tờ giấy nháp nhăn nhúm trong túi tài liệu ra, lật từng tờ từng tờ một trong đống giấy lộn xộn, không chú ý người ngoài nói gì. Sở Vọng cười áy náy với Chandra, Chandra cũng không để bụng, mỉm cười chúc “cuối tuần vui vẻ” rồi khép cửa lại rời đi.

Lương Chương tìm một lúc lâu, cuối cùng cũng lấy ra một trang, vỗ trước mặt Sở Vọng, dõng dạc nói: “Em xem đi!”

Trên tờ giấy nháp đó là một dãy các con số lung tung, cuối tờ giấy đề ba chữ chất lượng kém. Mấy con số được vòng lại, bên cạnh chú thích: chia thành các phần tử nhẹ hơn thay vì tạo ra các phần tử nặng hơn. Vì chất lượng của quá trình phản ứng không được bảo tồn nên luôn cho ra chất lượng kém.

Phía sau những câu này được đánh dấu hỏi. Có một mũi tên bên cạnh, ở cuối mũi tên đánh dấu một ký tự: C.

Đầu Sở Vọng nổ ầm, ngay lập tức cô hiểu đã có chuyện gì xảy ra.

Mấy tháng trước khi khóa cửa nhốt mình trong văn phòng, thì ra Từ Thiếu Khiêm đã nghĩ đến phản ứng phân hạch!

Lương Chương hồ nghi nhìn Sở Vọng, đột nhiên lúc này cánh cửa bị đẩy ra. Lương Chương thấy người đi vào thì chất vấn, “Quên đồ à? Tôi hỏi cậu, vì sao luận văn lại là “Sao đặc” ——”

Anh ta còn chưa nói hết câu thì Từ Thiếu Khiêm đột nhiên nhìn thấy tờ giấy nhăn nhúm trong tay Sở Vọng, mặt lập tức biến sắc, rảo bước đi tới giật lấy tờ giấy nháp, rồi quay đầu nghiêm nghị quát lớn —— “Lương Chương?!”

Sở Vọng vẫn chưa hoàn hồn từ khiếp sợ của một khắc trước, lúc này lại bị Từ Thiếu Khiêm to tiếng làm run bắn người. Cô ngẩng đầu lên, thấy Từ Thiếu Khiêm sắc mặt ảm đạm nhưng biểu cảm vô cùng lạnh lẽo, chất vấn Lương Chương.

Lương Chương không hề sợ hãi, đập mạnh xuống bàn: “Từ Lai! Hôm nay tôi phải hỏi cậu cho ra nhẽ. Cậu đã gần có kết quả rồi đúng không… Một kết quả im lặng hơn mười năm. Nhưng vì sao cậu lại đòi chia ngành, còn bản thân thì theo vật lý thiên văn hả! “Sao đặc” là cái quái gì? Trước giả thuyết này thì nó chẳng là cái cóc khô gì cả! Cậu đã có kết luận từ lâu, nhưng suốt ngày lại lạnh lùng nhìn bọn tôi thất bại về lý thuyết này vô số lần, lần này đến lần khác nghiệm chứng một quan điểm sai lầm. Thú vị lắm hả? Vì sao!”

Đầu Sở Vọng kêu ong ong, còn chưa lấy lại bình tĩnh mà nay bên trái một tiếng tức giận, rồi bên phải là một tràng la mắng. Hai người họ một trái một phải đứng thẳng cạnh cô, khí thế mạnh mẽ như muốn ép cô tan vỡ.

Từ Thiếu Khiêm nhìn anh ta chằm chằm, sau đó bình tĩnh hỏi: “Lương Chương. Nói tôi biết, phương trình tương đương khối lượng-năng lượng là gì?”

Lương Chương khó hiểu, nhưng vẫn cắn răng nói: “Khối lượng vật chất bằng tỷ lệ năng lượng trên bình phương tốc độ ánh sáng*. Cậu hỏi tôi cái đó để làm gì?”

(*Đây là phương trình nổi tiếng E = mc2theo lý thuyết tương đối của Albert Einstein.)

Từ Thiếu Khiêm lắc đầu, nghiêng người cầm lấy quả cầu chân không đặt lên bàn cân.

Cầu chân không đập vào bàn cân kim loại kêu cái *cạch*.

Anh ngoái đầu, lại hỏi: “Tốc độ của neutron nhanh có thể đạt tới một phần tư tốc độ ánh sáng, nếu bây giờ ta bắn vào Urani 235, thì năng lượng mà mỗi nguyên tử nhận được khi bị bắn sẽ được nhân lên theo cấp số mũ trong phản ứng dây chuyền. Vậy hỏi trong vòng hai giây mức năng lượng đạt được là bao nhiêu? Trả lời tôi đi.”

Lương Chương nghe đến đoạn “một phần tư tốc độ ánh sáng” thì rơi vào bối rối. Nhanh chóng nhẩm tính một hồi, rồi anh ta loạng choạng lùi về sau hai bước, suýt đã ngã xuống ghế.

“Là… vũ khí. Nếu cũng có người nghĩ đến chuyện này,” Anh há miệng, ngập ngừng nói, “… Vậy thật sự quá đáng sợ.”

Từ Thiếu Khiêm cười nhạt, năm ngón tay chơi đùa quả cầu chân không rồi ném nó về lại vị trí cũ. Đúng lúc này anh đột nhiên ngoái đầu, điềm tĩnh nhìn Sở Vọng.

Sở Vọng bị ánh nhìn kia làm dựng ngược tóc gáy, hai tai tê rần.

Từ Thiếu Khiêm nói tiếp, “Lương Chương, ra ngoài trước đi.”

Lương Chương sững sờ.

“Tạm thời ra ngoài đã. Tôi có lời muốn nói riêng với Linzy.”

Lương Chương đã bị phản ứng dây chuyền do phương trình khối lượng-năng lượng đem lại dọa không nhẹ. Chính anh ta cũng cần có thời gian tiêu hóa kết luận này, bởi vậy không để ý Từ Thiếu Khiêm có chuyện gì muốn nói riêng với Linzy. Nên khi Từ Thiếu Khiêm yêu cầu, anh suy sụp đứng dậy, đi ra ngoài khép cửa lại.

Văn phòng trong buổi chiều hôm lại rơi vào yên ắng.

Chỉ có năm ngón tay của Từ Thiếu Khiêm là đang gõ nhẹ lên bản giấy nháp trên bàn, cạch, cạch, cạch.

“Em đã biết trước rồi,” Từ Thiếu Khiêm nhìn tờ giấy nháp bị anh vứt đi vào mấy tháng trước, ngẩng đầu nhìn Sở Vọng cười nói, “Phản ứng phân hạch Urani. Em đã biết trước kết quả này sẽ bị dùng vào việc gì, đúng không?”

“Đúng thế.”

“Nhưng em vẫn chọn vật lý hạt nhân chứ không phải vật lý thiên văn. Vì sao?”

Sở Vọng nhìn thẳng anh không chớp mắt, nói, “Sau chiến tranh thế giới thứ nhất, một đoàn thám hiểm Anh đã quan sát nhật thực ở miền Tây châu Phi, chứng minh “độ lệch của ánh sáng” của Einstein là đúng. Câu chuyện này được gán ý nghĩa to lớn “Anh-Đức giao hảo sau chiến tranh”*, nhưng bản thân nó không phải là nguyên nhân chấm dứt chiến tranh.”

(*Năm 1919, độ lệch của ánh sáng do Einstein (người Đức) tiên đoán được xác nhận bởi chính người Anh đã bác bỏ tiên đoán cổ điển bằng phương pháp của Newton. Điều này trở nên đầy kịch tính vì Anh có mối hận thù với Đức sau Thế chiến I vẫn chưa nguôi, và lại là quê hương của Newton.)

Từ Thiếu Khiêm cười.

“Vậy em dựa vào đâu mà tự tin cho rằng, đất nước đầy rẫy bi ai của chúng ta hôm nay có khả năng đi trước người ngoài về làm nổ và phóng thả?”

“Vì thầy từng hỏi em, ‘một nhà khoa học vật lý thì nên dốc sức vì quốc gia thế nào’.”

“Vì vậy?”

“Thầy nói: ‘Quốc gia đại sự ngày càng tệ hại, chiến loạn liên miên, giáo dục không được phát triển’. Nên em mới đến tìm thầy. Nói với thầy là em chọn vật lý hạt nhân, muốn đọc luận văn của thầy, cũng nêu lên luận điểm và giả thiết của em với thầy.”

“Giáo dục không được phát triển. Dù không dựa vào vật lý hạt nhân thì cũng có rất nhiều ngôi trường khác để em theo học. Tôi cũng có rất nhiều kế hoạch cho việc này, trong tương lai chúng ta sẽ nhanh chóng làm được điều đó thôi, không phải sao?”

“Không kịp.”

“Vì sao lại không kịp?”

“Xuất phát điểm của thầy là —— giáo dục không được phát triển. Nếu như dựa vào giáo dục đi lên từng chút từng chút một, ít nhất cũng cần đến hai mươi năm. Còn xuất phát điểm của em là —— chiến loạn liên miên.” Con tim Sở Vọng đập thình thịch, lòng bàn tay nóng lên, “Chúng ta không kịp nữa rồi.”

“Chiến loạn liên miên.” Từ Thiếu Khiêm trần ngâm, sau đó thấp giọng hỏi, “Là lúc nào?”

Sở Vọng nhắm mắt, mặc niệm nói: “Năm 1931, 1937, 1938, 1939, 1941, 1945, 1950.”(1)

Qua một lúc sau, Từ Thiếu Khiêm lại hỏi, “Ai?”

“Nhật Bản, nước thua trận, Mỹ.”

Từ Thiếu Khiêm cúi đầu suy tư.

Giọng Sở Vọng run rẩy, “Chúng ta không kịp nữa rồi. Dù chúng ta không nói ra, thì mười năm sau kẻ địch cũng sẽ phát hiện… Không, thậm chí là còn sớm hơn thế. Vậy vì sao ta không chuẩn bị từ sớm?”

Từ Thiếu Khiêm cười, “Dựa vào ai? Năm nay sau vụ án Đông Bắc, hai trăm nghìn đại quân đã quy phục chính phủ Nam Kinh, nhún nhường trước Nhật Bản. Dựa vào tài nguyên bọn chúng cho thì chúng ta có thể nghiên cứu được kỹ xảo làm nổ vào phóng thả, xây dựng nên một đất nước quân đội hùng mạnh ư? Không nói đến chuyện đó, giờ tôi hỏi, nếu thật sự tìm ra kỹ xảo kích nổ và phóng thả trước tiên, vậy với dã tâm của đám quyết sách kia, em cho rằng bọn chúng sẽ dùng nó vào việc gì trước?”

“Làm vũ khí, weapon. Về mặt nào đó thì nó có thể ngăn cản mối đe dọa chiến tranh. Nhưng về mặt khác, nó càng có thể là chất xúc tác chiến tranh. Đứng ở một phương diện nào đó thì loài người chúng ta chỉ là một con kiến,” Dừng một lúc rồi anh nói tiếp, “Tôi hiểu tâm trạng của em. ‘Chính trị là nhất thời, còn phương trình là vĩnh cửu’*. Nhưng chuyện này, một khi liên quan đến chính trị thì rất nguy hiểm cho quốc gia, cả tôi và em khó mà kiểm soát được.”

(*Đây là câu nói nổi tiếng của Albert Einstein.)

“Những điều thầy nói em biết chứ, em cũng nghĩ đến rồi, nhưng…”

Cô biết. Hết thảy những điều trên cô đã nghĩ tới, thậm chí lúc xe lửa Đông Bắc bị phát nổ*, có mấy lần cô đã không nhịn được muốn nói ra hết những lý luận này với Từ Thiếu Khiêm. Có điều cuối cùng cô vẫn kìm nén.

(*Tối ngày 3 tháng 6 năm 1928, Trương Tác Lâm lên xe lửa rời Bắc Kinh về Phụng Thiên. Đến sáng sớm hôm sau thì xe lửa bị phát nổ làm Trương trọng thương, về đến được Phụng Thiên thì tử vong. Cái chết của ông đã dẫn đến sự kiện Đông Bắc trở cờ do con trai Trương Học Lương dẫn đầu.)

Cô nhớ đến trong kế hoạch Manhattan, Charlie đã hỏi Frank rằng: “Nếu nó có thể kết thúc được chiến tranh lần này, vậy lần sau thì sao?”

Nhưng…

Làn mi Sở Vọng run nhẹ, môi khô khốc, “Cứ trơ mắt nhìn nó xảy ra thế sao? Biết hàng trăm hàng vạn người vô tội phải chết. Thử đặt mình vào hoàn cảnh của người khác xem. Tới năm 1941, nhiều người chúng ta đã cố gắng nỗ lực nhiều như thế ở tại nơi đây, nhưng cuối cùng mọi thứ lại trôi theo dòng nước.”*

(*Năm 1941, Nhật Bản chiếm đóng Hương Cảng, mở ra chiến tranh Thái Bình Dương trong cuộc Thế chiến lần thứ 2.)

Sau một lúc yên tĩnh.

“Hôm nay người biết đến nó chỉ có tôi, em và Lương Chương, tuyệt đối không thể để người thứ tư biết được lý thuyết này. Nếu đã biết cái giá đó thì chúng ta phải kín miệng. Bắt đầu từ ngày mai, mọi thí nghiệm liên quan đến nguyên tố nặng tạm thời trì hoãn vài tuần.” Từ Thiếu Khiêm đan tay vào nhau, thoáng trầm ngâm rồi sau đó hỏi, “Để canh giữ bí mật này cần bao nhiêu quân lực?”

“Ba ngàn.”

“Sáu ngàn.” Từ Thiếu Khiêm nói tiếp, “Tính toán kích nổ và vận chuyển thì cần bao nhiêu người?”

“Một ngàn người, số người tính toán thì gấp đôi.”

“Ừ.” Anh nghĩ ngợi một lúc, đột nhiên chân mày giãn ra, ngẩng đầu nhìn trên bàn cạnh Sở Vọng, “Đưa cho tôi một tờ giấy viết thư.”

_____

Sở Vọng nhắm mắt, mặc niệm nói: “Năm 1931, 1937, 1938, 1939, 1941, 1945, 1950.”

Các sự kiện theo thứ tự là:

1931: Nhật Bản bắt đầu xâm lược Đông bắc Trung Quốc.

1937: Quân Nhật chiếm Nam Kinh, thảm sát hơn 300.000 người Trung Quốc.

1938: Xảy ra biến cố “Đêm kính vỡ” – sự khởi đầu của làn sóng diệt chủng người Do Thái ở Đức và Áo dưới thời Đức quốc xã của Adolf Hitler.

1939: Xảy ra chiến tranh thế giới lần thứ 2, thủ phạm gây chiến là Đức, Nhật Bản và Italia.

1941: Nhật Bản chiếm đóng Hương Cảng, mở ra chiến tranh Thái Bình Dương trong cuộc Thế chiến lần thứ 2.

1945: Quả bom hạt nhân thứ nhất là Little Boy được ném xuống Hiroshima (Nhật Bản), quả sau có tên là Fat Man và được ném xuống Nagasaki.

1950: Xảy ra Chiến tranh Triều Tiên, Hoa Kỳ ném bom Bắc Triều Tiên. Vốn là cuộc nội chiến giữa Nam-Bắc Hàn, về sau quy mô cuộc chiến đã trở nên lớn khi có sự can thiệp của lực lượng của Liên hiệp quốc được Hoa Kỳ lãnh đạo và sau đó là Chí nguyện quân của Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa.

(Tác giả chú thích sự kiện chính, Qin bổ sung thêm.)
 

MUALARUNG91

Tác giả
Sưu tầm
Tham gia
25/8/19
Bài viết
4,780
Điểm cảm xúc
577
Điểm
113
Chương 68: Người bệnh (12)
“Tuy bây giờ có hơi khó khăn, nhưng không phải là không có cách. Trong tình huống bảo đảm ổn thỏa ở mức tối đa, tôi sẽ cố gắng thử xem sao. Nhưng hiện tại, tôi chỉ nghĩ được một người là có thể giữ được bí mật này.”

Từ Thiếu Khiêm nhận lấy giấy viết thư và bút máy, nhanh chóng viết một dòng tiếng Anh, sau đó ngẩng đầu đưa thư cho cô xem.

Hàng tiếng Anh là: “Dear Prof. Rutherford.”

Anh giơ tờ giấy lên, “Người có thể hiểu được sự được mất trong lý luận này, sẽ cân nhắc quyền lợi từ mọi góc nhìn; lại có khả năng đánh động nhiều nhà khoa học đáng tin, cũng có tư cách để thỉnh cầu hoàng gia điều động binh lực, như vậy tôi nghĩ chỉ có một người. Mà phẩm hạnh người này, tôi có thể dùng tính mạng để bảo đảm.”

Cô sửng sốt, hỏi ngược lại: “Rutherford này, chính là…”

“Ernest Rutherford, là ân sư của tôi ở Cambridge.”

Rutherford ở Cambridge chính là Rutherford có học trò khắp thiên hạ, trong số họ có đến gần mười người nhận được giải thưởng Nobel vật lý, ông cũng là trưởng khoa phòng thí nghiệm Cavendish và là hội trưởng hội Hoàng gia Luân Đôn.

Ông chính là cây cổ thụ trong ngành vật lý ở thời đại này. Đồng thời cũng là ân sư của hơn mười cây cổ thụ khác trong ngành vật lý trong 10 năm nữa.

Thì ra Từ Thiếu Khiêm cũng là một trong các học trò của ông.

Thán phục xong, chuyện đầu tiên Sở Vọng nghĩ đến chính là: dù là ai phát hiện ra sự tồn tại của Nơtron, thì trên đời này cũng chỉ có một Rutherford, dẫu sao cũng không thiệt thòi!


Phản ứng thứ hai chính là quay sang hỏi Từ Thiếu Khiêm: “Vì sao em không nghe thấy thầy nhắc đến?”

Từ Thiếu Khiêm ngẩng đầu lên, “Vì em chưa hỏi bao giờ. Chuyện ông ấy là thầy của tôi quan trọng lắm à?”

“Không hẳn…”

Rutherford qua đời vào năm 1937, may mắn tránh được các cuộc chiến tranh, nhưng đồng thời cũng không có cơ hội đáp ứng lời hẹn với rất nhiều học trò về một vùng nước Mỹ chưa ai biết tới và kế hoạch Manhattan.

Không đợi Sở Vọng trả lời, Từ Thiếu Khiêm tiếp tục viết mấy hàng chữ tiếng Anh lên giấy. Viết xong lại đưa cho Sở Vọng.

Sở Vọng cầm lên xem: ngoài chỗ ghi tên người nhận ra, thì dường như tất cả đều là các công thức không liên quan gì tới nhau, chẳng hạn như nguyên lý bất định hay tỉ số bắn phóng xạ.

Công thức kết nối tất cả chính là phương trình khối lượng-năng lượng: E = mc2.

Ngoài công thức ra thì chỉ lác đác vài dòng chữ:

“Chúng em phát hiện được tính nghiêm trọng trong vấn đề này nên viết thư gửi đến Anh, xin thầy tìm cách tăng viện. —— Khẩn cấp đợi thư hồi âm của thầy; Chân thành kính bút, Từ Lai.”

Sở Vọng hồ nghi hỏi: “Những công thức này nhìn như không có liên hệ với nhau, nhưng nếu rơi vào tay nhân viên tình báo, không phải kiểu gì cũng sẽ có người tìm được cách giải sao?”

Từ Thiếu Khiêm nhìn thẳng vào cô như muốn cô tự nhớ lại.

Nhưng một lúc sau, anh chán nản nói đùa, “Trên đời này chỉ có ba người hiểu được thuyết tương đối rộng.”

Dù rằng toàn thế giới không biết rốt cuộc ba người nọ là ai. Và cách nói ấy cũng khá là khoa trương.

Nhưng dù là thế nào đi nữa thì trong vòng hai mươi năm sau khi lý thuyết đó ra đời, có chọn ra một trăm nhà khoa học đứng đầu ngành vật lý trên toàn thế giới, cũng chưa chắc có lấy một người có thể hiểu được thuyết tương đối rộng.

Mà vừa hay Từ Thiếu Khiêm và Rutherford chính là độc nhất vô nhị trong số hàng vạn người kia.

Sở Vọng gật đầu nói phải: kẻ điên khoa học nên tự tin như thế!

Có điều khi Từ Thiếu Khiêm nhắc đến, cái tên Rutherford tựa ánh đèn soi lối. Trong chớp mắt, như thể có một tia sáng nhạt ở cuối con đường mịt mù phía trước.

Sở Vọng chưa hề chứng kiến bậc thầy giới học thuật này lần nào, đời sau truyền tai nhau đều là những truyền kỳ liên quan đến ông và rất nhiều học trò của ông trong lịch sử vật lý thế kỷ 19.

Có câu nhà khoa học là của toàn nhân loại. Cô tin rằng, có thể dạy nên nhiều học sinh ưu tú như Niels Bohr hay Frederick, để Từ Thiếu Khiêm “có thể dùng tính mạng đảm bảo”, Rutherford tuyệt sẽ không vì ham muốn cá nhân hay vì độc quyền quốc gia mà đánh đổi an nguy của hơn mười triệu mạng sống.

Từ Thiếu Khiêm gấp tờ giấy lại, nhét vào trong bì thư rồi viết địa chỉ.


Sau đó anh đứng dậy mặc áo khoác vào.

Sở Vọng nhìn theo anh không chớp mắt.

Từ Thiếu Khiêm nhướn mày, nhìn vào mặt cô, “Vẫn chưa yên tâm à?”

“Không phải ạ…”

“Vậy thì?”

Dừng một chút, “Vì sao thầy biết…”

Từ Thiếu Khiêm cười.

“Rất đơn giản. Còn nhớ giả thuyết “phương pháp để đạt đến độ cao cực hạn” không?”

“Có ạ.”

“Ừ. Hồi đầu tôi chỉ hơi nghi ngờ mà thôi. Cách thử kiểm chứng giả thuyết chính là gửi bài luận văn tiếng Anh đến cho em, bảo em dịch sang tiếng Trung. Kết quả của việc kiểm chứng vừa hay xác nhận đúng phỏng đoán của tôi.”

“Vì sao?”

“Tôi phát hiện em tự tạo ra một vài từ mới trong tiếng Trung. Hiện tại có rất nhiều danh từ tiếng Anh chúng tôi vẫn chưa thống nhất cách dịch. Ví dụ như Violin Hypothesis, bình thường mọi người sẽ dịch là phỏng đoán vi-ô-lông, thế nhưng em lại rất quả quyết viết một từ rất thú vị và hoàn toàn mới, chính là: giả thuyết đàn vĩ cầm. Rồi ví dụ như Robert Hutchings Goddard, mọi người hay gọi ông ấy là Rô-bớt Han-chin, nhưng em lại gọi ông ấy bằng tên phiên âm tiếng Trung trông rất chính thức. Ngày nay không có quá nhiều du học sinh về nước biết tiếng Anh, mà người thành thạo tiếng Anh như tiếng Trung lại càng ít. Mọi người thường tự phiên tiếng Anh sang chữ Hán theo sở thích cá nhân một cách tùy tiện. Còn em lại có hệ thống đặt tên rất thống nhất. Đây không phải là điều một người có thể làm được.”

“Chuyện đó… Căn cứ không đủ. Có lẽ em chính là một người có suy nghĩ mới mẻ độc đáo vượt trội thì sao?”

“Ừ. Đúng là chỉ mỗi thế thì không đủ. Nhưng thú vị hơn là những từ em tạo ra. Ví dụ như em thích gọi nước là water resource chứ không phải là water. Từ khi nào mà water trở nên thiếu thốn tới mức để gọi là tài nguyên? Tôi rất muốn đoán xem sao. Kể từ khi Cách mạng công nghiệp phát triển, có rất nhiều nguồn tài nguyên bị sử dụng một cách vô độ. Trong tương lai không xa, các tài nguyên có than đá kiểu gì cũng sẽ ở bờ vực khan hiếm. Tôi không hay nghiên cứu hóa học, nên cũng không tìm hiểu trong thời kỳ công nghệ quá độ phát triển, nước… tài nguyên nước sẽ đem lại tác dụng phụ gì. Thế mà lại em dùng từ đó như một lẽ hiển nhiên, vừa hay đã kiểm chứng phỏng về mặt nào đó. Em có rất nhiều sơ hở. Vì vậy mà các bản thảo trước kia để em kiểm tra, tôi đều phải đối chiếu lại một lượt từ đầu tới cuối.”

Chỉ từ những năm 1950 trở đi, chủ đề mối nguy hại đến môi trường mới dần xuất hiện.

Hễ là các nhà khoa học lĩnh vực vật lý hóa học thì chỉ cần thấy từ “water resource”, tất sẽ nghi ngờ.

Mình đúng là khinh suất rồi.

Nhưng… Sở Vọng nhướn mày, “Về mặt nào đó?”

“Bằng chứng mạnh nhất cho ‘về mặt nào đó’, chúng ta có thể tóm lại tương tự với “Nơtron có thể tồn tại” hay “Sao đặc có thể tồn tại” , đã cách lúc bỏ đi hai chữ ‘có thể’ gần lắm rồi.”

“Nhưn từ “Nơtron có thể tồn tại” đến “Nơtron có tồn tại” mất những 18 năm.”

Từ Thiếu Khiêm cười nói: “Chính vì bầu nhiệt huyết muốn đóng góp cho đất nước của em mà đã khiến 18 năm đó xảy ra sớm hơn.”

Trầm ngâm một hồi, Sở Vọng hỏi: “Vậy khi thầy hỏi em, ‘một nhà khoa học nên dốc sức vì đất nước như thế nào’, thì về mặt nào đó mà nói, em có thể hiểu là thầy đang giữ em lại không?”

“Dĩ nhiên rồi.”

“Thầy còn nói, ‘nếu gặp được quái nhân khoa học chuyên soi mói thì hãy phòng bị họ như cách ngày trước em phòng bị tôi’, có hải là vì sợ em để lộ sơ hở, một khi bị phát hiện thì rất có thể sẽ bị các nhà vật lý khao khát muốn biết về thuyết tương đối đem lên bàn thí nghiệm không?”

“Bao gồm cả tôi. Lần đầu tiên khi phát hiện ra em, tôi thật sự đã mừng như điên, không cách nào đè nén được. Sau khi biết rõ trình độ học vấn của em của em, dù có là ‘thiên tài’ thì với độ tuổi của em cũng như những điều từng trải, em tuyệt đối không thể đạt đến trình độ đó được. Có đôi khi tôi còn nghi ngờ, đề tài tôi với người khác thảo luận nhiều năm lại được em sử dụng làm ‘tiền đề’ một cách nhẹ nhàng. Ngay từ ban đầu tôi đã muốn tìm hiểu nhiều thêm từ em: tương lai ngành học này sẽ phát triển đến mức nào, nan đề hoang mang nhiều năm sẽ được giải quyết vào năm nào. Nhưng trong quá trình tìm hiểu, tôi lại phát hiện ra điểm đáng sợ trên mình.” Từ Thiếu Khiêm cười cười, “Tôi coi em như một đối tượng nghiên cứu chỉ vì muốn thỏa mãn ham muốn thăm dò của mình với khoa học. Điểm này không phải chỉ mỗi mình tôi, mà tất cả những người như tôi đều có. Cũng chính vì vậy nên tôi thấy rất may khi mình chỉ là một giáo sư vật lý bình thường, chứ không phải một nhà sinh vật học, bác sĩ, bác sĩ thần kinh hay bác sĩ giải phẫu…”

Sở Vọng thở dài, “Hoặc là một nhà quân sự đầy dã tâm.”

“Nên may là tôi đã giữ em lại.” Từ Thiếu Khiêm cười khổ, giơ phong thư trong tay, “Cùng chờ tin tốt nào.”

***

Tuy Rutherford – người có thể mang lại nhiều tài nguyên cho bọn họ là một nhà khoa học cực giàu và cực nổi tiếng, huy động được lực lượng to lớn, phẩm đức ưu tú xuất sắc. Song xét cho cùng, ông cũng chỉ là một nhà khoa học chứ không phải là người quyết định thân ở ngôi cao.


Ông sẽ làm gì để bảo vệ bí mật này, và ông sẽ giúp họ đối phó với nhiều bên trong nước như thế nào?

Lúc này trong đầu nhồi nhét quá nhiều thứ. Cô chậm rãi sắp xếp lại suy nghĩ, ngay đến chuyện bị Từ Thiếu Khiêm phát hiện ra mình là người tương lai cô cũng không để tâm, vô tri vô thức xuống xe ngoài nhà họ Cát.

Tuy hôm nay là thứ 6, nhưng vừa đi đến trước cửa thì Mật Thu nói với cô, tối nay với ngày mai bà Cát không có tiệc, nên cuối tuần này cô có thể ở lại biệt thự.

Vào cửa cởi áo nhung và khăn quàng cổ ra, đang định lên lầu thay đồ, lúc đi ngang qua hành lang thì bất chợt nghe thấy tiếng mạt chược trong phòng cùng với tiếng cười nói quen thuộc ——

Giọng nam trầm dịu dàng là ngài Tưởng, “Hôm nay các quý cô đây may mắn thật đấy.”

Tiếng nữ cười lanh lảnh đầy cởi mở là của Di Nhã, “Nhờ phúc của dì Cát, chỉ một buổi trưa đã thắng bạc đến mức đếm mỏi cả tay, không còn sức nữa rồi. Ván sau thua bài, không bằng chơi gì đó thú vị đi.”

Ngài Tưởng: “Ví dụ? Sau Giáng Sinh sẽ đính hôn, đêm nay ván nào em cũng là người thắng.”

Di Nhã bật cười: “Tốt xấu gì cũng đợi nghỉ xuân xong, chính thức tốt nghiệp đã.”

Một giọng nữ trung giọng khói: “Bây giờ mà kết hôn ngay thì từ hai người chơi nhập thành một người chơi mất rồi. Sao hả?” Dừng lại một lúc rồi bà nói tiếp, “Vợ chồng son hai người ve vãn hơi quá đấy, ông anh nhà cháu đang lận đận tình trường, cũng không biết để ý đến cảm xúc cậu ta.”

Di Nhã lại cười tiếp, “Anh ấy? Mọi chuyện tốt trên đời này đều bị anh ấy chiếm hết, làm gì có chuyện anh ấy gặp lận đận.”

Ngài Tưởng cũng cười, thân thiết hỏi: “Bạn gái lại bỏ nữa à?”

Vang lên theo sau là giọng Quảng Đông không quá tiêu chuẩn, anh thấp giọng cười nói, “Cũng không biết vì sao mà cứ có bạn gái là lại chia tay ngay, từ nhỏ đã vậy rồi. Có thể cả đời này phải ở không thôi. Mọi người vẫn chưa quen à? Tôi thì quen rồi.”

Sở Vọng khựng bước, bất chợt nhớ lại chuyện ngày hôm đó cô út đã nói với cô.

Có lẽ ông Tạ lại ngầm sai người làm chuyện gì đó rồi.

Cầu trời cao phù hộ cho anh.
 

MUALARUNG91

Tác giả
Sưu tầm
Tham gia
25/8/19
Bài viết
4,780
Điểm cảm xúc
577
Điểm
113
Chương 69: Người bệnh (13)
Bốn người như thể lấy ngày cưới của ngài Tưởng và Di Nhã cùng với quyền trông coi nhà trọ của bà Cát ở tô giới công cộng làm tiền cược. Ván mới vẫn chưa bắt đầu, Tuệ Tế đứng hầu bên ngoài, thấy Sở Vọng về thì mỉm cười gọi tên cô.

Bốn người ngồi trong phòng đồng loạt ngoái đầu nhìn ra.

Bà Cát dựa vào ghế, “Về đúng lúc lắm, Sở Vọng lại đây chơi thay cô một ván đi, cô còn có một cuộc gọi quan trọng.”

Sở Vọng đứng ở cửa cười, “Chỉ sợ cháu sẽ thua sạch tiền cô thắng cả đêm mất.”

Di Nhã cũng lắc đầu, “Đừng dì ơi, cháu sợ cậu ấy rồi.”

Ngài Tưởng ngẩng đầu lên, cười với Sở Vọng: “Để cô Cát đi đi, cô ấy có chuyện quan trọng. Yên tâm đừng buồn, ván sau không đánh bạc.”

Bà Cát nghĩ rồi nói, “Giờ Sở Vọng đã chơi thay tôi, đúng lúc căn nhà ở tô giới Pháp cũng cần sửa sang lại. Vẫn chưa quen chỗ ở, mà người nước ngoài tuần tra ở tô giới lại rất quá đáng, tôi đang lo đây. Trong chung cư ít nhiều cũng mười miệng ăn, vàng thau lẫn lộn, ngày nào cũng mở cửa người ra kẻ vào, thực sự không ổn. Nếu cậu ta thua, thì bao giờ cậu ta về thì phải giúp tôi để mắt đến.”

Tạ Trạch Ích cười nói: “Tôi vẫn chưa thua đâu nhé. Mọi người bắt nạt tôi quá rồi.”

Ngài Tưởng cười nói, “Không lẽ cậu thật sự muốn để phụ nữ thua bài?”

Sở Vọng ngồi đối diện Tạ Trạch Ích. Tạ Trạch Ích nhìn cô, nghiêm túc nói, “Có thể. Đã ngồi vào bàn bài thì không giữ phép nữa, đấy là quy tắc trong đời tôi.”

Anh vừa dứt lời, đến cả Tuệ Tế và Mật Thu cũng không kìm được phì cười.

Bà Cát nói: “Hừ, làm cảnh sát ở tô giới còn chưa được bao lâu mà cũng có quy tắc trong đời nữa à.”

Tạ Trạch Ích cười, “Còn không phải thế sao.”

Tuy ngoài miệng Tạ Trạch Ích nói sẽ không giữ phép tắc, nhưng vẫn âm thầm đưa bài cho cô. Sở Vọng chỉ là tay gà mờ, thế mà lần đầu tiên trong đời lại ăn với phỗng* liên tục —— tất cả đều do Tạ Trạch Ích đưa bài.

(*Trong mạt chược, thuật ngữ “ăn” dùng để chỉ ăn quân bài cùng loại cùng hàng khi đối phương đánh ra, 1 ăn 1. Còn “phỗng” là ăn quân bài do đối phương đánh ra khi trong tay có 2 quân cùng loại. Phỗng luôn luôn được ưu tiên hơn ăn.)

Ngài Tưởng cười trêu: “Cậu đúng là không giữ lại quân nào cho mình.”

Sở Vọng cũng cảm thấy buồn cười: “Làm tuần tra ở tô giới công cộng rảnh vậy sao? Anh mau tìm việc để làm đi.”

Tạ Trạch Ích đánh ra một quân, nói, “Cũng không rảnh lắm.”

Sở Vọng đang định bốc bài thì đột nhiên ngài Tưởng nói: “Có phải cô ba đã được Đại Tam Nguyên* rồi không?”

(*Là ván ù gồm 3 phỗng Trung, Phát, Bạch. Ảnh minh họa.)

c69


Cô nhìn bài, đúng là chỉ còn thiếu mỗi quân do Tạ Trạch Ích đánh ra là được Đại Tam Nguyên.

Cô bốc quân “Phát” lên, cười nói, “Đợi đến lúc về Thượng Hải là anh Tạ hết rảnh rồi.”

Tạ Trạch Ích trưng ra vẻ mặt thản nhiên, “Nhờ phúc của cô ba cả.”

Di Nhã vui vẻ, “Anh Zoe, anh nói đi, có phải vì không làm gì được cha nên hôm nay đến chỗ dì Cát kiếm chác không? Để mắt trông coi nhà trọ của dì ấy chỉ là cái danh, thực chất là để dì Cát cho anh một chỗ ở, để anh có cớ chạy ra ngoài.”

Ngài Tưởng cười nói: “Đến lính tuần Trung Quốc ở tô giới còn có chỗ ăn chỗ ở, vậy mà chính phủ Anh keo kiệt thế hả?”

Tạ Trạch Ích nói, “Cũng không phải. Chỉ là năm đầu phải đi huấn luyện cho hạ binh với sinh viên nên cần ăn chung ở chung, không tiện ra ngoài.”

Ngài Tưởng khó hiểu: “Vì sao cậu Tạ lại muốn đến Thượng Hải như vậy?”

Di Nhã nói: “Cũng không biết anh ấy nổi điên gì mà cãi một trận nảy lửa với cha, cắt hẳn chu cấp. Nếu không nghèo túng đến mức đó thì đâu tới nỗi thất tình.”

Tạ Trạch Ích cười không đáp.

Sở Vọng nhìn anh, đang định lên tiếng thì đúng lúc này bà Cát đã nghe điện thoại xong đi vào, tức giận nói: “… Cái thằng tư thiếu họ Diệp này!”

“Ai chọc tức dì Cát của chúng ta vậy?” Di Nhã ngẩng đầu: “Tư thiếu họ Diệp? Là Diệp Văn Dữ sao?”

Bà Cát tức giận hừ lạnh.

“Là nhà họ Diệp có vườn cao su Triều Sán ở Singapore à? Sao thế, muốn vào thị trường Trung Quốc rồi hả?”

Bà Cát hừ cười: “Bị anh nói trúng rồi.”

Ngài Tưởng ngạc nhiên: “Hai năm trước đến vườn cao su nhà bọn họ, tôi còn thấy trên cửa còn dán câu đối: ‘hoàng ân mênh mông, văn tự chói lòa’. Lúc ấy còn nghĩ, không phải đã vào thời kỳ dân quốc hơn mười năm rồi ư, sao lại còn hoàng ân mênh mông?”

Mọi người cười phá lên.

Bà Cát đang bận tâm đến chuyện khác nên chỉ cười rồi thôi, cau mày đi ra ngoài.

Thấy tâm trạng cô út không được tốt, Sở Vọng cũng đứng ngồi không yên. Xin phép mấy người trên bàn, ba người cũng thông cảm, bảo cô mau đi theo bà Cát.

Thấy Sở Vọng đi ra, bà Cát cũng không giấu giếm tâm sự, hỏi, “Đã lâu lắm rồi con bé Chân Chân không đến đây, rốt cuộc gần đây nó với Diệp Văn Dữ đã có chuyện gì thế?”

“Gần đây cháu cũng bận quá nên không hay sang bên bác cả, cũng không nói chuyện với chị ấy nhiều. Nhà họ Diệp làm sao ạ?”

Bà Cát cau mày rít một hơi thuốc lá, “Nhà họ Diệp muốn chuyển kinh doanh ở bên ngoài đến trong nước, nên gần đây đang tìm quan hệ, muốn để người con thứ tư nhà mình đính hôn với con gái của phó cục trưởng mới nhậm chức ở cục vận tải biển Thượng Hải. Vừa hợp bát tự lại vừa tìm người quen đến cửa làm mai, khó khăn lắm mới thuyết phục được hai nhà. Giáng sinh năm nay trong nhà gọi con trai về Sing, nhưng có vẻ cậu ta nghe được phong thanh gì đó nên không chịu về. Cha nó hỏi thăm thì biết được trước đó nó với bạn hay đến đây, tưởng nó chơi bời ở chỗ cô nên mới gọi điện đến.”

Nói đoạn, bà Cát lại cả giận.

Nhưng Sở Vọng biết không phải bà Cát giận nhà họ Diệp trách tội bà, huống hồ, nhà họ Diệp cũng không đến mức làm ra chuyện ngớ ngẩn như vậy. Nhà họ Diệp gọi điện đến chỉ đơn giản muốn biết cô gái ngáng chân con trai nhà họ là ai, trong nhà làm gì.

Tuy nhà họ Tiết có tiền, nhưng tiền là tiền, cùng với chuyện có thể để nhà họ Diệp thuận lợi trong việc vận tải ngoại thương là hai chuyện khác nhau; nếu Diệp Văn Dữ nói rõ ràng với trong nhà chuyện mình và Chân Chân yêu nhau, chưa chắc nhà họ Diệp và nhà họ Tiết đã thành, lại còn làm tổn hại đến thanh danh của Chân Chân; còn nếu không nói, nhà họ Diệp chắc chắn sẽ bắt Diệp Văn Dữ kết hôn.

Mà chính bà cũng sốt ruột thay đôi trẻ này. Cũng muốn giúp nhưng thứ nhất là không biết hai người họ nghĩ gì, thứ hai là không phải người thân hay bạn bè, cho nên không có quyền để đưa ra quyết định.

Sở Vọng nghĩ ngợi rồi nói, “Cô đừng lo quá. Tới lúc đó tìm một buổi lễ nào đấy nghiêm túc đông người, gọi hai bọn họ tới để người ta tự biết ẩn ý, không phải là tốt rồi?”

Hầu hết các bữa tiệc ở biệt thự nhà họ Cát đều không nằm trong phạm vi “nghiêm túc”, không phải là sân khấu thích hợp để Chân Chân và Diệp Văn Dữ ra sân. Bà Cát nghĩ rồi nói, “Vì Chân Chân mà tính toán cả hôn lễ của con bé, không sợ nó sẽ giận cháu à?”

Sở Vọng nghĩ rồi đáp: “Xét cho cùng, chuyện này ban đầu cũng do Di Nhã cố ý kết hợp, cũng coi như cậu ấy có tội một phần. Tính toán cậu ấy một chút, chắc cũng không đến mức giận đâu nhỉ?”

Bà Cát vui vẻ trở lại, thôi thì cứ tuỳ ông trời vậy.

Quay vào nhà, Sở Vọng bảo Tuệ Tế lấy khăn quàng của bà Cát tới. Dặn dò đâu vào đấy, cô vòng vào hành lang dài, lờ mờ trông thấy một bóng dáng cao gầy đứng giữa hành lang, đang dựa vào cửa hút thuốc. Chắc có lẽ vì cả Sở Vọng và bà Cát đều ra ngoài, Tạ Trạch Ích đang độc thân cũng không muốn ở trong phòng nhìn hai người kia âu yếm tình cảm nên đành ra ngoài này hút thuốc.

Cảm thấy có người đi tới, Tạ Trạch Ích nghiêng đầu, thấy là Sở Vọng thì đưa tay cầm thuốc ra xa.

Sở Vọng bước đến, hỏi, “Cám ơn anh Tạ đã nhường bài.”

“Hử?” Tạ Trạch Ích nghiêng đầu, vờ như không nghe hiểu, còn nói, “Mới chơi bài, vận may cũng khá đấy.”

Sở Vọng cười, “Ván sau ngài Tưởng là nhà cái.”

“Ừ?”

Sở Vọng vẫn cười, “Có lẽ còn phải làm phiền anh Tạ thêm.”

“Ồ,” Lần này Tạ Trạch Ích đã hiểu, “Vậy em định cám ơn tôi thế nào đây?”

Sở Vọng đang nghĩ xem nên cám ơn thế nào thì Tạ Trạch Ích cười cười ném điếu thuốc vào trong thùng rác.

Không đợi cô trả lời, anh xoay người kéo cửa hành lang ra, mời Sở Vọng vào nhà.

***

Ngày hôm đó, Sở Vọng và Tạ Trạch Ích liên thủ với nhau thắng ngài Tưởng ba ván, thành công đẩy lùi ngày đính hôn đến sau Giáng Sinh, vào ngày thứ hai của năm mới. Di Nhã tức giận mắng Sở Vọng và Tạ Trạch Ích cấu kết ăn cây táo rào cây sung, còn ngài Tưởng chỉ trấn an cảm xúc của cô vợ nhỏ, lại cười hứa sẽ tặng món quà lớn cho Sở Vọng và Tạ Trạch Ích.

Vì trước đó ông Tạ đã nhận hàm hiệp sĩ, từ Anh quay về Hương Cảng vô cùng vẻ vang, vì muốn có thể diện hơn nữa nên đã quyên cho giáo hội Cơ Đốc một căn biệt thự có vườn hoa và ruộng đất ở trấn Nguyên Lãng. Ngài Tưởng hỏi thăm được chuyện này, vì muốn để cha vợ đại nhân thêm thể diện nên cố ý cử hành lễ đính hôn của hai người ở trấn Nguyên Lãng.

Vì chuyện với Văn Quân và Leon lần trước nên Sở Vọng cứ luôn áy náy với Tạ Trạch Ích. Nghe bảo tạm thời anh đang túng thiếu đến mức không có chỗ ở, Sở Vọng nghĩ ngợi, sau đó nói với bà Cát: “Nếu chỗ kia đã tu sửa xong rồi thì hay là cho anh Tạ ở tạm đi? Dù gì cháu cũng không đến Thượng Hải, không nỡ cho người khác thuê, mà để không thì cũng uổng. Không phải vì chuyện này nên anh ta mới đến tìm cô sao? Cô cứ lấy danh nghĩa của mình cho anh ta ở tạm, đừng bảo là cháu nói.”

Bà Cát vừa ngạc nhiên vừa thấy buồn cười: “Cháu còn chưa vào ở mà muốn cho người khác ở trước hả?”

Sở Vọng nghiêm túc suy nghĩ, bổ sung một câu: “Bảo anh ta đừng dẫn bạn gái về là được.”

Ngày kết hôn của Di Nhã đã được ấn định, vì vậy mà cứ hai ba hôm là bà Cát lại giục Sở Vọng: “Còn mấy tháng nữa là cháu cũng mười lăm rồi. Cháu định bao giờ để cô uống rượu mừng đây hả?”

Sở Vọng cười cười: “Cô chớ sốt ruột. Huống hồ chuyện này cháu không thể quyết định được.”

Bà Cát nói, “Rốt cuộc bao giờ thì cái cậu Tư kia tốt nghiệp hả, lâu thế rồi mà không thấy tin tức gì, sốt ruột chết đi được. Hay là để cô gửi điện báo đến trường cậu ta hỏi?”

Sở Vọng vui vẻ: “Sao cô không nhờ người đăng tin giục cưới lên báo Thames?”

Bà Cát nhìn cô, “Ý kiến này không tệ, vậy bảo Tuệ Tế đi đăng báo đi.”

Thấy bà Cát định làm thật, Sở Vọng vội kéo bà lại, cười to: “Cô tha cho cháu đi! Anh ấy học hai bằng đấy, cháu cũng phải chờ thi xong chính thức tốt nghiệp đã, bây giờ chưa vội!”

Tuy hai cô cháu nói đùa nhưng Sở Vọng cũng biết, đã lâu rồi mà không có thư từ Anh gửi đến, còn câu chuyện trên Diệc báo vẫn đăng tải đều đều. Thấy ngoài mặt cô không nói nên bà Cát mới muốn kích cô, để xem cô không sốt ruột thật hay chỉ đang làm dáng.

Nói không sốt ruột thì cũng không đúng. Dù một trăm năm sau khi thông tin phát triển, hai người rảnh rỗi muốn liên lạc với nhau thì vẫn chênh lệch thời gian bảy tám tiếng; còn nếu ai cũng bận thì có khi hai ba tháng cũng không nói chuyện với nhau được mấy lần, huống gì là thời đại này.

Chỉ là lâu quá rồi không có tin tức, muốn biết tình hình gần đây thế nào cũng không được, vì vậy mới bận lòng.

Có điều Sở Vọng cũng có rất nhiều chuyện muốn làm, thỉnh thoảng qua tờ Diệc Báo biết được anh vẫn đang hoạt động ở đầu kia trái đất, thế là tốt lắm rồi.


***

Từ Thiếu Khiêm thông báo “trước khi hội trưởng mới đến Hương Cảng, mọi công việc ở phòng thí nghiệm vật lý hạt nhân tạm thời trì hoãn”, tuy các thành viên khá bất mãn nhưng cũng bận chuyện nhà nên không nói nhiều, mà cũng vì vậy nên đã hai tuần rồi Sở Vọng chưa gặp Từ Thiếu Khiêm.

Trong hai tuần đó, nhà họ Từ cũng không gọi điện tới gọi cô đi dạy.

Sở Vọng vừa nhớ xem Cambridge có thư hồi âm không, vừa nhớ đến chuyện Chân Chân, nghĩ bụng có lẽ thử hỏi chị Từ xem người nhà Diệp Văn Dữ có ý gì không, thế là tìm thời gian gọi điện đến nhà họ Từ.

Tiếp tuyến viên nghe máy, một lúc lâu sau mới nối máy được.

Đầu dây điện thoại im lặng một lúc rất lâu rồi mới có người nghe máy. Là Từ Văn Quân, vẫn là giọng lạnh lùng lời ít ý nhiều như thường: “Tốt nhất đợt này chị đừng đến.”

Giọng của cậu rất nhẹ, nghe lại mơ hồ, như thể dùng tay che ống nghe để nói chuyện. Tuy đã che lại nhưng cô vẫn loáng thoáng nghe được tiếng hét và tiếng rên rỉ của người nữ truyền đến, đi đôi là tiếng khóc sụt sùi nặng nề, nghe mà chấn động.

Tuy âm thanh đã bị bóp méo, song Sở Vọng vẫn nhận ra: là chị Từ.

Cô hít sâu, hỏi, “Cô Từ làm sao thế?”

Từ Văn Quân không đáp.

Cô lại hỏi: “Giáo sư Từ đâu rồi?”

“Nghe điện thoại xong thì ra ngoài rồi,” Cậu dừng lại, “Hôm khác chị hẵng gọi đến.”

Nói rồi, Từ Văn Quân cúp máy.

Điện thoại ngắt kết nối, bên tai Sở Vọng vẫn quanh quẩn tiếng khóc thê lương và tiếng gào thét.

Cô siết ống nghe, tim đập thình thịch.

Đang định nhấc ống nghe lên thì điện thoại lại đổ chuông, con tim cô nhảy lên tận cuống họng.

Cô nghe máy, vẫn là Từ Văn Quân.

Chỉ là vừa rồi cậu còn có thể miễn cưỡng giữ bình tĩnh, nhưng lúc này đã khóc nấc lên vì sợ hãi, giọng đứt quãng run run ——

“… Chị có thể, có thể đến đây một chuyến ngay được không? Thím nổi điên rồi… Dì Văn, dì Văn với em không trói được thím… Em sợ lắm. Em không biết phải tìm ai cả…”

Sở Vọng thấp giọng an ủi cậu. Cúp máy xong, cô chạy nhanh ra tìm chú Henry, gọi điện bảo tài xế của nhà đến.

Ngồi lên xe, gió thổi vù vù. Trong cuộc gọi thứ hai, tiếng gào thét đã biến thành tiếng mắng chửi, mắng dì Văn, mắng Văn Quân, mắng rất khó nghe, khó nghe tới mức đến người ngoài như Sở Vọng cũng không chịu nổi chứ đừng nói gì đến Văn Quân. Những câu nguyền rủa ác độc lướt qua đầu, khiến cô cảm thấy ngay cả tiếng gió ngoài xe cũng biến thành tiếng đàn bà gào thét.

Có lẽ cơn nghiện đã phát tác.

Cô từng thấy tuyên truyền tránh xa ma tuý trên tạp chí nên cũng thấy con nghiện trông như thế nào —— nhưng chưa bao giờ tận mắt thấy một người nghiện lên cơn bao giờ. Vừa sợ gặp chị Từ, vừa lo không có Từ Thiếu Khiêm ở nhà, Văn Quân và dì Văn không làm gì được chị ấy, sợ chị Từ làm bị thương người khác, trong lòng vô cùng thấp thỏm.

Xe chạy đến đường Liên Hoa, tài xế đã được chú Henry dặn trước, thấy cô vùi mặt vào khuỷu tay thì ân cần hỏi han, “Cô ba có cần tôi giúp gì không?”

Sở Vọng lắc đầu, cố lấy lại bình tĩnh.

Vì đây là chuyện nhà người khác, tuy được Văn Quân nhờ nhưng dẫu gì cô cũng là người ngoài, càng không thể để người khác can thiệp được, chỉ dặn anh ta chờ mình ngoài cửa, nếu thật sự không có cách gì thì sẽ tìm anh ta sau.

Xuống xe nhấn chuông cửa, dì Văn quần áo xộc xệch tóc tai rối bù chạy ra.

Vừa thấy cô thì sốt ruột hô lên: “Sao cô lại đến đây?” Rồi lại khóc thút thít kéo cửa ra cho cô vào, “Cậu chủ đi vắng không về ngay được, vào với cậu Văn Quân cũng tốt.”

Nhà họ Từ là nhà cũ, phòng liền kề nhau, mỗi một căn phòng đều dẫn thẳng ra sân. Dì Văn dẫn Sở Vọng đi băng qua sân đến trước cửa phòng Văn Quân, gõ cửa mời cô vào phòng, đúng lúc này nghe chị Từ mắng dì Văn: “Mười tuổi bà đã làm nô bộc cho nhà tôi! Giờ tôi đập đầu tự tử ở đây, thì bà phải biết sau này đừng hòng sống yên ổn ——”

Văn Quân đứng trong phòng, mặt giàn dụa nước mắt, nhưng vẫn lạnh lùng nhìn chằm chằm cánh cửa kia, giận dữ hét lớn: “Bác sĩ đã nói với thím từ lâu rồi còn gì: nếu giờ thím còn hút nữa thì sẽ chết…”

Lập tức phòng bên gào thét: “… Các người cứ giết tôi đi! Tôi cũng không cần cái mạng này nữa ——”

Chỉ nghe thấy tiếng cửa gỗ đập rầm rầm, không biết là dùng vị trí nào trên cơ thể, dì Văn đau lòng khóc ròng rã. Cách một bức tường, Sở Vọng cẩn thận trấn an: “Cô à, bọn họ không chịu nói, vậy cô có thể nói cho em biết bọn họ giấu thuốc ở đâu không?”

Cô vừa nói vừa nháy mắt với Sở Vọng.

Bên kia dần yên tĩnh. Sở Vọng lại thấp giọng giả vờ nói tiếp: “Cô à, em đang tìm cho cô đây, cô đừng cuống —— đợi em tìm đã.”

Lúc này, ở bên cánh cửa yếu ớt nói: “… Vậy… Em tìm nhanh đi…”

Sở Vọng bảo dì Văn canh giữ cửa, còn mình kéo Văn Quân vào trong góc, nhỏ tiếng hỏi: “Gần đây cô hay thế lắm hả?”

Văn Quân lau nước mắt: “Hồi đầu trong nhà lấy dây trói thím, thím lại vùng vẫy làm tay chân trầy xước máu me be bét, chú đau lòng nên đóng cửa trông nom thím. Có lúc đỡ hơn, nằm yên trên giường đại tiện tiểu tiện, còn tệ thì, giống như bây giờ… Trước khi ăn tối thím vẫn bình thường, chú cho thím uống thuốc, mới nghe điện thoại ra ngoài thì thím lại nổi điên.”

Trong tình huống bình thường, sức mạnh của phái nữ chỉ bằng 30% so với nam giới; nhưng giờ chị Từ lên cơn liều mạng, mà Văn Quân chỉ mới mười tuổi, còn dì Văn lại già rồi.

Trước đó có nghe nói Từ Thiếu Khiêm không thích thuê nhiều người giúp việc; hơn nữa chị Từ vốn không khỏe, mời người ngoài đến lại thành nhiều người lắm miệng. Cho nên chị Từ đến Hương Cảng cũng chỉ dẫn theo một mình dì Văn.

Thế nên trước mắt, trong nhà cũng chỉ có mỗi Từ Thiếu Khiêm là có thể khống chế được chị, nhưng với điều kiện là chị đang ở trạng thái bình thường.

Sở Vọng trầm ngâm, sau đó thấp giọng hỏi: “Trong phòng em có dây thừng không?”

Văn Quân gật đầu, lôi một cuộn dây thừng ở trong ngăn kéo ra.

“Lát nữa chị và dì Văn sẽ giữ tay chân cô Từ, còn em trói cô lại. Chúng ta vừa trông cô, vừa đợi giáo sư về thì cởi trói, em thấy có được không?”

Văn Quân lắc đầu, “Thím điên lên là sức lớn lắm, còn đập phá đồ nữa. Có gì đập nấy: lọ hoa, ghế, kéo… Em với dì Văn mà giữ thím là thím sẽ lấy đồ đập người.”

Sở Vọng suy nghĩ, “Tài xế nhà chị đang ở ngoài, đàn ông sức sẽ lớn hơn. Chị mời anh ta vào, đến lúc đó chị cho anh ta thêm tiền, lại dặn mấy câu, chắc chắn anh ta sẽ không tiết lộ chuyện…”

Sở Vọng còn chưa nói hết câu thì đột nhiên, ở bên kia cánh cửa chị Tưd cao giọng hét lên, “Em không tìm thuốc mà làm gì đấy hả? Tôi nghe thấy hai đứa nói chuyện rồi.”

Dì Văn cuống lên: “Hai đứa nó đang tìm ạ!”

Đầu kia im lặng lại, một lúc sau, chị bật cười ha hả khiến tóc gáy Sở Vọng dựng ngược. Cười xong, chị Từ nghiêm nghị quát: “Các người đang lừa tôi! Tôi sắp chết đến nơi rồi, các người cũng đừng hòng chết được tử tế ——”

Cửa lại bị đập mạnh bình bịch, mấy thanh gỗ ghép lại đang dần nứt ra.

Văn Quân sợ hãi, nép vào Sở Vọng run lên bần bật. Dì Văn liên tục thở dài, lẩm bẩm: “Đằng nào cũng chết! Cùng lắm hút thêm lần này nữa!”

Thấy bà run run toan mở cửa, Sở Vọng lao đến chặn dì Văn lại: “Đã cai mấy ngày rồi, giờ dì định hủy hoại hết sao?” Không đợi dì Văn mở miệng, cô đã nói tiếp, “Tài xế nhà cháu đang ở ngoài. Đàn ông sức lớn, nhờ anh ta đến giúp thì nhất định có thể trói cô lại, đợi thầy về.”

“Sao có thể dễ dàng để người ngoài trông thấy bộ dạng đó của cô chủ được…” Dì Văn rưng rưng lắc đầu, nhìn chằm chằm vào cánh cửa sắp nứt.

Nhưng sau đó lại dài, nghiêng đầu đi, cuối cùng vẫn thỏa hiệp với Sở Vọng: “Làm phiền cô gọi cậu ta vào.”

Sở Vọng đẩy cửa chạy ra ngoài. Bên ngoài trời tối đen như mực, đèn xe chói lóa ở ngoài sân càng khiến cô không thấy đường. Đêm qua có mưa nên trên mặt đất toàn bùn lầy trơn trượt. Sở Vọng vừa chạy ra ngoài vừa gọi tên tài xế, đúng lúc va phải một người ở trong sân, suýt nữa đã ngã xuống.

Người kia níu chặt tay cô, không để Sở Vọng ngã.

Cô vẫn không thấy gì, nhưng người kia đã kéo cô lại, khó hiểu hỏi, “Lâm Trí? Sao giờ này em lại đến đây?”

Người kia nhìn cô chằm chằm mấy giây, đột nhiên nhận ra điều gì đấy, vội buông cô ra rảo bước vào nhà. Sở Vọng dụi mặt, chợt nhận ra đó là Từ Thiếu Khiêm, bèn nghiêng đầu theo anh đi vào.

Từ Thiếu Khiêm mở cánh cửa kia ra, chợt một bóng đen lao về phía cửa, nhưng đã bị anh duỗi tay chặn lại ——

Chị Từ đầu tóc rối bù, con ngươi long sòng sọc, quần áo xộc xệch, cắn lên tay anh khiến Từ Thiếu Khiêm phải rên lên, túm lấy tay kia của chị kéo ra. Từ Thiếu Khiêm ngoái đầu nhìn Sở Vọng, mồ hôi trên trán càng sáng lên trong đêm. Anh nghiêng đầu, cắn răng nói: “Vào phòng bên đi, đừng ra ngoài này.”

Sở Vọng đáp vâng, chạy nhanh vào phòng của Văn Quân.

Cánh cửa bên cạnh đóng lại cái sầm, thỉnh thoảng phát ra tiếng khóc ai oán cùng những câu nguyền rủa Từ Thiếu Khiêm đầy đáng sợ.

Từ Thiếu Khiêm vẫn dịu dàng an ủi vợ. Còn chị Từ nôn khan điên cuồng, tiếng khóc cũng dần ngớt.

Phòng bên này im ắng đến mức đáng sợ, Văn Quân ôm tay Sở Vọng run lẩy bẩy, con tim Sở Vọng cũng đập thình thịch, không biết rốt cuộc chị Từ đã đỡ hơn hay là ngất xỉu, hay là tắt thở rồi.

Chỉ chốc lát sau, mùi bài tiết với mùi nôn mửa chua chua hôi thối bay đến. Dạ dày Sở Vọng cuộn trào lên xuống, suýt nữa cũng nôn ọe.

Một lúc trôi qua, phòng bên truyền đến âm thanh nghẹn ngào của chị Từ: “… Em… Em khó chịu lắm, để em chết sớm đi cho rồi…”

Từ Thiếu Khiêm thấp giọng vỗ về: “Chết cái gì chứ? Đừng lo. Không phải bác sĩ đã nói rồi sao? Đợi cai được thuốc rồi bồi dưỡng khoẻ lại, anh sẽ dẫn em ra ngoài đi chơi. Không phải em vẫn muốn đi Mã Lai đấy à?”

Chị Từ sụt sịt, “Em… Sao em có thể nói những lời độc địa như thế, em cũng không biết mình đã nói như vậy bao nhiêu lần rồi…”

“Không sao. Nếu em đã ổn rồi thì xin lỗi Văn Quân và dì Văn là được, bọn họ sẽ không trách em đâu.”

“Em ổn chỗ nào chứ?” Chị Từ nghẹn ngào, “Em ba phần người ba phần quỷ, anh còn giữ em lại làm gì? Nhân lúc còn sớm để em xuôi tay về trời, để em làm cô hồn dã quỷ đi.”

“Là ai ngày trước đã thề thốt với tổ tông: ‘Sinh làm người họ Từ, chết cũng làm ma nhà họ Từ’ hả?”

“Đến mụn con cũng không có, tổ tông họ Từ đâu có nhận em?”

Từ Thiếu Khiêm cười chị, “Thế thì phải chóng khỏe lên, sinh nhiều đứa cho anh.”



Chị Từ đã bình thường trở lại, Sở Vọng cũng yên tâm phần nào. Nhưng vô tình nghe được những lời riêng tư của vợ chồng họ, cô có hơi xấu hổ.

Từ Văn Quân đứng trong góc, thấp giọng cay nghiệt, “Chết sớm không phải tốt sao?!”

Cậu nói lời này chỉ cho Sở Vọng nghe, ngay đến dì Văn cũng không nghe rõ thì phòng bên kia cũng không thể nào nghe được.

Sở Vọng nghiêng đầu tính giáo huấn cậu, song lại thấy cậu cuộn tròn mình, vùi mặt xuống bàn òa khóc.

Cũng chỉ là một đứa trẻ mà thôi. Còn nhỏ mà đã phải chịu nhiều kích thích như thế, Sở Vọng không khỏi nhói lòng.

Sở Vọng im lặng nhìn cậu khóc, đợi đến khi trong nhà đã ổn, cũng không nghe thấy bên cạnh có động tĩnh gì nữa, cô mới dì Văn lát nữa chuyển lời chào của cô đến thầy cô.

Vừa ra khỏi cửa thì thấy có người đang ngồi dưới mái hiên.

Thấy Sở Vọng đi ra, Từ Thiếu Khiêm ngẩng đầu lên, cũng đúng lúc Sở Vọng đang nhìn anh. Chỉ một cái nhìn đã làm cô lập tức giật mình.

Dưới ánh trăng, trên mặt anh lấp lánh, phản chiếu một tầng sáng nhạt.

Từ Thiếu Khiêm đang khóc.

Người đàn ông thường mặc áo sơ mi trắng không vấy bẩn, nay bên trên lại dính đầy vết bẩn và nước ố vàng. Anh ngồi nơi đấy, quần áo thì nhếch nhác, dáng vẻ chán nản suy sụp.

Từ Thiếu Khiêm vẫn cứ ngồi một chỗ, không tránh đi mà chỉ ngỡ ngàng nhìn cô.

Trong ấn tượng của Sở Vọng, Từ Thiếu Khiêm phải là một người tư tưởng nhạy bén sâu sắc, khí chất nho nhã toàn thân sạch sẽ. Nếu là trước kia, Sở Vọng quyết sẽ không tin anh có dính dáng đến mấy chữ như dơ bẩn bốc mùi hay chán nản suy sụp như thế.

Trước ngày hôm nay, nếu có người chạy đến nói với cô rằng: “Từ Thiếu Khiêm đang mặc một bộ đồ bẩn thỉu, dính đầy phân nước tiểu với vật ô uế. Anh ta mặc đồ bẩn ngồi dưới đất khóc.”

Nhất định cô sẽ đá bay người đó.

Nhưng nay chính mắt cô chứng kiến, thế mà vẫn hồ nghi không tin người đang ngồi dưới hiên chính là Từ Thiếu Khiêm.

Cô chưa thấy một Từ Thiếu Khiêm như vậy bao giờ, Sở Vọng ngẩn ngơ chôn chân tại chỗ, con tim rung động, thậm chí không biết nên đi thế nào mới phải.

Lúc đang ngơ ngác đứng giữa sân, không hiểu sao cô bất chợt nhớ đến chuyện chị Từ kể, là chuyện lần đầu tiên chị theo Từ Thiếu Khiêm đi thuyền đến Marseilles, Từ Thiếu Khiêm mười sáu tuổi vì con chết yểu vợ ốm yếu mà đã tuyệt vọng tìm kiếm cứu trợ khắp thuyền, có lẽ anh của lúc đó cũng như hôm nay.

Cô nhớ lại lần đầu mình xuất ngoại, dường như cũng đang ở độ tuổi ấy. Có điều chỉ đi máy bay đường dài mười mấy tiếng mà thôi, vẫn bình an khỏe mạnh, dù tạm thời chia xa người nhà mấy tháng thì vẫn có thể gọi video trò chuyện —— nên cô chỉ khóc từ cửa hải quan lên máy bay, làn mi dính lệ, ngã đầu ngủ hơn mười tiếng.

Còn anh lúc ấy chỉ mới là cậu bé chưa lớn, thế mà đã trải qua ngăn cách sinh tử chưa ai trải qua, cầu cứu cũng không được.

Sở Vọng đứng lặng tại chỗ, không biết đã đứng bao lâu, rốt cuộc cũng nghe thấy một tiếng rất khẽ rất nhẹ ——

“Dọa em rồi à?”

Sở Vọng lắc đầu.

Từ Thiếu Khiêm cười trấn an, “Hôm nay kéo em vào chuyện này, lại để em thấy cảnh đó, tôi xin lỗi.”

“Văn Quân cũng bị dọa sợ nên mới gọi em đến. Chuyện hôm nay em sẽ coi như chưa thấy gì.” Dừng một lúc, Sở Vọng lại hỏi, “Cô đã đỡ chưa ạ?”

“Đỡ rồi, giờ đang ngủ.”

“Thế thì tốt quá.”

“Người nghiện thuốc đều vậy, sau này em gặp cô ấy… không cần phải sợ.”

“Em không sợ.”

“Chỉ là cô ấy quá đau đớn thôi.”

“Em biết mà.”

Từ Thiếu Khiêm im lặng ngồi tại chỗ, nhưng Sở Vọng lại có cảm giác anh muốn tâm sự với ai đó, thế là đến gần, ngồi xuống cạnh anh.

Đợi đến khi ngồi xuống, cô mới thấy anh vuốt phẳng một tấm ảnh trong tay. Ví tiền rơi dưới đất, chắc hẳn tấm ảnh được lấy ra từ đó.

Thấy cô ngồi xuống, Từ Thiếu Khiêm bèn đưa tấm ảnh cho cô xem. Trên ảnh là một cậu chàng nụ cười rạng rỡ, ăn mặc trang điểm theo phong cách Vãn Thanh, nhưng tóc không cạo mà để kiểu tóc thời nhà Minh, cài một cây trâm trên đầu. Sở Vọng tưởng là Từ Thiếu Khiêm khi còn trẻ, lúc dân quốc vừa mới thành lập, nhưng nhìn kỹ lại thì người trên ảnh là nữ giả nam, cô gái ấy chị là chị Từ ngày xưa.

Sở Vọng ồ lên, Từ Thiếu Khiêm cười nói, “Tuy cô ấy xuất thân từ gia đình kiểu cũ nhưng lại y hệt một đứa con trai. Tôi hay lấy chuyện này đùa cô ấy, bảo, ‘ngày trước khi bà mai đến làm mối với mẹ anh, nói là một khuê tú dịu dàng trang nhã, sao giờ lại là em?’ ”

Sở Vọng bật cười, không biết nên nói gì cho phải.

Cả hai rơi vào im lặng kéo dài.

Một lúc sau, Từ Thiếu Khiêm không chắc chắn hỏi, “Sẽ khá hơn đúng không?”

“Cai được thuốc rồi từ từ dưỡng bệnh là ổn.” Bản thân Sở Vọng cũng là người giấu bệnh sợ thầy, càng không quá tin tưởng vào trình độ chữa bệnh ở thời đại này, nên chỉ có thể thuận miệng an ủi.

Từ Thiếu Khiêm gật đầu, “ừ” một tiếng. Dường như anh đã rất mệt, cúi thấp đầu cất ảnh đi, sau đó đưa một bức điện báo cho cô đọc.

“Tối nay điện báo ở Anh mới đến, trong trường gửi điện bảo tôi đi lấy. Không ngờ chỉ trong khoảng thời gian đó, cô ấy lại xảy ra chuyện,” Từ Thiếu Khiêm cười gượng, “Thuyền của bọn họ sắp tới rồi. Hôm nay đã làm phiền em rồi, tối muộn vậy mà còn đến đây. Về sớm đi, sau này… còn có rất nhiều chuyện quan trọng hơn phải làm.”

___

*Qin: Chương sau còn dài hơn chương này (10k chữ) nên tối nay và mai có thể sẽ không có chương mới nhé.
 
Trạng thái
Không mở trả lời sau này.
Top