Lượt xem của khách bị giới hạn

[Thơ] [Thơ Dịch] Cổ Thi: Bản Sắc Thi Ca

[Thơ] [Thơ Dịch] Cổ Thi: Bản Sắc Thi Ca
Tham gia
16/4/19
Bài viết
377
Điểm cảm xúc
543
Điểm
93
Xuân Nhật Ức Lý Bạch
Tác giả: Đỗ Phủ
***

Đôi nét về tác phẩm:
(Năm 746) Đỗ Phủ và Lý Bạch quen nhau ở Lạc Dương. Ít lâu sau Lý Bạch đi Giang Đông, Đỗ Phủ về Trường An. Về sau hai người không còn gặp lại nhau nữa. Đỗ Phủ làm bài này khi về Trường An.


春日憶李白
白也詩無敵,
飄然思不群。
清新庾開府,
俊逸鮑參軍。
渭北春天樹,
江東日暮雲。
何時一樽酒,
重與細論文?



Xuân nhật ức Lý Bạch

Bạch dã thi vô địch,
Phiêu nhiên tứ bất quần.
Thanh tân Dữu khai phủ,*
Tuấn dật Bão tham quân.**
Vị bắc*** xuân thiên thụ,
Giang Đông**** nhật mộ vân.
Hà thì nhất tôn tửu,
Trùng dữ tế luân văn?



Dịch nghĩa

Thơ Lý Bạch không có ai là địch thủ,
Tứ thơ phơi phới, nhẹ nhàng không ai bằng được.
Trong sáng, mới mẻ, giống như thơ của Dữu khai phủ,
Hào hùng phiêu dật, giống như thơ của Bão tham quân.
Lúc này tôi đang ngắm hàng cây dưới trời xuân tại Vị Bắc,
Thì bạn đang ở trong bóng mây chiều ở Giang Ðông.
Biết bao giờ được cùng nhau uống một chén rượu,
Và bàn kỹ về thơ văn?

(Tư liệu: thivien.net)

Dịch Thơ: Ngày Xuân Nhớ Lý Bạch

Lý Bạch thi ca ai danh phạm
Tài tứ phiêu nhiên khí bất phàm
Thanh tân như tựa khai phủ Dữu
Phiêu dật hào hùng Bão quân tham
Vị Bắc xuân xanh còn phủ lá
Giang Đông lấp bóng chốn mây ngàn
Đợi ngày nâng chén say rồi tỉnh
Thơ ngày cố hữu lại cùng ngâm.

Lạc Mỹ Xuyên Thu

_______

Chú thích:
*Dữu khai phủ: Tức Dữu Tín 庾信, nhà thơ đời Nam Bắc triều, làm chức khai phủ, có tài văn chương, là tác giả bài Ai Giang Nam phú nổi tiếng.
**Bão tham quân: Tức Bão Chiếu 鮑照, cũng là một nhà thơ đời Nam Bắc triều, làm chức tham quân, nổi tiếng có thi tài.
***Vị Bắc: Lúc này Đỗ Phủ đang ở Hàm Dương, phía bắc sông Vị.
****Giang Đông: Nơi Lý Bạch đang ở lúc này, nay là miền nam tỉnh Giang Tô và miền bắc tỉnh Chiết Giang.
 
Tham gia
16/4/19
Bài viết
377
Điểm cảm xúc
543
Điểm
93
Vô Đề 無題
Tác giả: Gia Các Lượng 諸葛亮
***

Giới thiệu tác giả:
Gia Cát Lượng 諸葛亮 (181-234) tự Khổng Minh 孔明, người Dương Đô, Lang Gia (nay là huyện Nghi Nam, tỉnh Sơn Đông, Trung Quốc), từng làm thừa tướng cho Lưu Bị đời Tam quốc, là nhà chính trị, quân sự, phát minh, đồng thời cũng là tản văn gia trứ danh trong lịch sử Trung Quốc. Ông là một đại biểu cho lòng trung thành và của văn hoá truyền thống Trung Quốc. Thời trẻ ông còn có ngoại hiệu là Ngoạ Long 臥龍, hoặc Phục Long 伏龍.


無題
大夢誰先覺,
平生我自知。
草堂春睡足,
窗外日遲遲。

Vô đề *
Đại mộng thuỳ tiên giác,
Bình sinh ngã tự tri.
Thảo đường xuân thuỵ túc,
Song ngoại nhật trì trì.

Dịch nghĩa
Trong giấc mộng lớn, ai là người tỉnh trước?
Trong cuộc đời này ta tự biết ta.
Đang yên giấc ngủ xuân trong ngôi nhà tranh,
Bên ngoài cửa sổ mặt trời (ngày tháng) cứ chậm rãi trôi qua.


Dịch thơ: Không Đề

Giấc mộng lớn lao ai người tỉnh?
Cuộc đời bé nhỏ ta biết ta
Lều tranh yên giấc trong nhà
Mặt trời chậm rãi trôi qua ánh chiều.

Lạc Mỹ Xuyên Thu

Bản dịch: Sưu Tầm
Mộng lớn nào hay ai tỉnh sớm
Bình sinh ta tự biết tài ta
Ngày xuân no giấc nơi lều cỏ
Bóng nắng ngoài song đã xế tà.

Trương Việt Linh

Chú thích:
*Vô Đề: Khi Lưu bị đến thảo lư mời Khổng minh ra làm quân sư cho mình lần thứ ba (Tam cố thảo lư). Khổng minh sau khi ngủ dậy (không biết ngủ thật hay cố ý giả vờ ngủ) xuất khẩu thành bài thơ này.
 
Tham gia
16/4/19
Bài viết
377
Điểm cảm xúc
543
Điểm
93
Phong Kiều Dạ Bạc 楓橋夜泊
Tác giả: Trương Kế
***

Đôi nét về tác giả:

Trương Kế 張繼 (?-779) tự Ý Tôn 懿孫, người Tương Châu 襄州, đỗ tiến sĩ năm Thiên Bảo thứ 12 (754), là một nhà thơ có tiếng thời Trung Đường. Thơ của ông trong Toàn Đường thi có chép thành một quyển, nhưng chỉ một bài Phong Kiều dạ bạc 楓橋夜泊 đã giúp ông lưu danh thiên cổ.



楓橋夜泊


月落烏啼霜滿天,
江楓漁火對愁眠。
姑蘇城外寒山寺,
夜半鐘聲到客船。

Phong Kiều dạ bạc*


Nguyệt lạc ô đề sương mãn thiên,
Giang phong ngư hoả đối sầu miên.
Cô Tô thành ngoại Hàn San tự, **
Dạ bán chung thanh đáo khách thuyền.


Dịch nghĩa


Trăng lặn, quạ kêu, sương phủ đầy trời.
Hàng phong bên sông, ngọn đèn thuyền chài ở trước người đang ngủ buồn.
Ngoài thành Cô Tô là chùa Hàn San,
Tiếng chuông lúc nửa đêm vẳng đến thuyền khách.


Bản Dịch: Nửa Đêm Đậu Bến Phong Kiều

Bản 1
Trăng lặn, quạ kêu, sương phủ lối
Lửa chày thiêu giấc bãi phong trôi
Cô Tô thành phủ Hàn San tự
Canh tàn chuông gọi khách thuyền côi.

Bản 2
Trăng tàn tiếng quạ phủ trời sương
Hàng phong đèn thắp giấc mộng thường
Cô Tô bến vắng thuyền côi lẻ
Hàn San chuông gọi khách sầu vương.

Lạc Mỹ Xuyên Thu

Bản dịch: Tản Đà

Trăng tà, tiếng quạ kêu sương,
Lửa chài, cây bến, sầu vương giấc hồ.
Thuyền ai đậu bến Cô Tô,
Nửa đêm nghe tiếng chuông chùa Hàn San.

(Tư liệu: thivien.net)

Chú thích:
* Đôi nét về bối cảnh: Trong bối cảnh thành Trường An chìm trong cơn tao loạn thì nhà thơ Trương Kế, một đại quan tiến sĩ Ngự Sử đài, chẳng kịp theo đoàn hộ giá vương tôn lánh nạn mà đành lưu lạc xuống tận miền Giang Nam trên chiếc thuyền phiêu bạt. Một đêm ghé bến Phong Kiều, động mối u hoài chất chứa, gợi cảm cùng ngoại cảnh thê lương, bức xúc viết nên bài thơ tuyệt diệu, vượt qua cả không gian và thời gian, lưu truyền hậu thế.
Bài thơ gây khá nhiều tranh cãi về bối cảnh không theo lẽ thường của tác giả, có ý kiến cho rằng nhà thơ chỉ đang ghép vần nên mới có những đoạn văn không theo lẽ thường kia...
Tìm hiểu thêm

** Hàn San Tự: Ngôi chùa nằm ở phía tây trấn Phong Kiều, Tô Châu, được xây vào năm Thiên Giám (502-519) đời Lương Vũ Đế, đến năm Trinh Quán (627-649) đời Đường Thái Tông được gọi là Hàn San tự để tưởng nhớ nhà sư Hàn San cuồng sĩ đã tu ở đây. Trong chùa có tranh tượng hai nhà sư nổi tiếng Hàn San, Thập Đắc.

_____
Đôi lời: Sở dĩ có hai bản dịch là vì có một số ý kiến cho rằng những bản dịch trước của vài dịch giả vì đi theo ý của bài thơ mà đảo lộn trật tự của bản Hán Việt nên Thu đã dựa vào bản Hán Việt để dịch bản 1, tuy nhiên để dễ hiểu và lột tả được ý nghĩa của bài thơ thì Thu cho rằng như bản 2 sẽ phù hợp hơn.
Cuối cùng, ấn tượng của Thu về bài thơ này khá sâu, trước đây Thu từng hạnh ngộ với một vị cố nhân và may mắn được nghe nói về bài thơ này, vì cách nhiều năm nên Thu chỉ nhớ được khoảng đầu và tên của tác giả, cho đến vài hôm trước đột nhiên bắt gặp nên đã quyết định dịch lại bài thơ này, xem như tưởng nhớ người cố nhân kia, trước kia chẳng hiểu vì sao khi nhớ đến người nọ thì trong đầu lại bật ra hai chữ Kế Phong, đến hiện tại mới dần hiểu, đơn giản là nó gắn liền với bài thơ trên, Kế trong Trương Kế, Phong trong Phong Kiều dạ bạc...

 
Tham gia
16/4/19
Bài viết
377
Điểm cảm xúc
543
Điểm
93
Họa Khang ngũ Đình Chi
"Vọng nguyệt hữu hoài"

Tác Giả: Đỗ Thẩm Ngôn
***


Giới thiệu tác giả:
Đỗ Thẩm Ngôn 杜審言 (645-708) tự Tất Giản 必簡, thi nhân Sơ Đường. Đỗ Thẩm Ngôn chính là ông nội của Đỗ Phủ đời Thịnh Đường.



和康五庭芝望月有懷

明月高秋迥,
愁人獨夜看。
暫將弓並曲,
翻與扇俱團。
霧濯清輝苦,
風飄素影寒。
羅衣一此鑒,
頓使別离難。

Hoạ Khang ngũ Đình Chi "Vọng nguyệt hữu hoài"

Minh nguyệt cao thu huýnh,
Sầu nhân độc dạ khan.
Tạm tương cung tịnh khúc,
Phiên dữ phiến câu đoàn.
Vụ trạc thanh huy khổ,
Phong phiêu tố ảnh hàn.
La y nhất thử giám,
Đốn sứ biệt ly nan.

Dịch nghĩa


Trăng thu sáng cao xa,
Ban đêm người buồn một mình coi.
Mới đây cong như cánh cung,
Nay đã tròn như cái quạt.
Sương xuống làm ánh sáng bớt trong,
Gió thổi làm bóng trắng thêm lạnh.
Thoáng thấy như tà áo lụa,
Chợt cảm khó mà rời xa được.

Sưu tầm: thivien.net

Bản dịch: Hoạ bài "Ngắm trăng nghĩ ngợi" của bác năm Khang Đình Chi

Trăng sáng đêm thu cao vời vợi
Dáng người cô quạnh đứng chơi vơi
Vừa mới cong vành như cung tỏa
Nay lại thoắt tròn tựa quạt thoi
Sương xuống phủ mờ trăng sáng tỏ
Gió lùa thêm lạnh bóng trắng trong
Ngoảnh thấy phất phiêu tà áo lụa
Lòng chợt vấn vương chẳng nỡ rời.

Lạc Mỹ Xuyên Thu


*** Không có tư liệu giới thiệu về Khang Đình Chi, tuy nhiên có một bài "Vọng Nguyệt Hữu Hoài" của Lý Bạch sẽ được cập nhật trong phần thơ của ông.
 
Tham gia
16/4/19
Bài viết
377
Điểm cảm xúc
543
Điểm
93
LÝ BẠCH 李白
Phần Một: Cuộc Đời Và Sự Nghiệp Sáng Tác
***


☆Cuộc Đời:

Lý Bạch (chữ Hán: 李白; 701 - 762), biểu tựThái Bạch (太白), hiệu Thanh Liên cư sĩ (青莲居士), là một trong những nhà thơ theo chủ nghĩa lãng mạn nổi tiếng nhất thời Thịnh Đường nói riêng và Trung Hoa nói chung.

Suốt cuộc đời của mình, ông được tán dương là một thiên tài về thi ca, người đã mở ra một giai đoạn hưng thịnh của thơ Đường. Từ trẻ, ông đã xa gia đình để đi du lịch, tìm đường lập công danh sự nghiệp. Dẫu muốn góp phần cứu đời giúp dân song chưa bao giờ ông được toại nguyện. Ông cùng người bạn Đỗ Phủ trở thành hai biểu tượng thi văn lỗi lạc không chỉ trong phạm vi nhà Đường, mà còn trong toàn bộ lịch sử Trung Hoa, thậm chí toàn bộ khu vực Đông Á đồng văn. Do sự lỗi lạc của mình, ông được hậu bối tôn làm Thi Tiên (詩仙) hay Thi Hiệp (詩俠). Giới thi nhân bấy giờ thì rất kính nể tài uống rượu làm thơ bẩm sinh, nên gọi Lý Bạch là Tửu Tiên (酒仙) hay Trích Tiên Nhân (谪仙人). Hạ Tri Chương gọi ông là Thiên Thượng Trích Tiên (天上謫仙).

Ông đã viết cả ngàn bài thơ bất hủ.[2] Hơn ngàn bài thơ của ông được tổng hợp lại trong tập Hà Nhạc Anh Linh tập (河岳英靈集), một tuyển tập thơ rất đồ sợ thời Vãn Đường do Ân Phan (殷璠) chủ biên vào năm 753, và hơn 43 bài của ông được ghi trong Đường Thi Tam Bách Thủ (唐诗三百首) được biên bởi Tôn Thù(孫洙), một học giả thời nhà Thanh. Vào thời đại của ông, thơ của ông đã xuất hiện các bản dịch tại phương Tây, chủ đề của ông nhấn mạnh tán dương mối quan hệ bạn bè, sự thần bí của thiên nhiên, tâm trạng tĩnh mịch và thú vui uống rượu rất đặc trưng của ông.

Cuộc đời của ông đi vào truyền thuyết, với phong cách yêu rượu hiếm có, những truyện ngụ ngôn và truyền thuyết về tinh thần trượng nghĩa, cũng như điển tích nổi tiếng về việc ông đã chết đuối khi nhảy khỏi thuyền để bắt cái bóng phản chiếu của mặt trăng.

Đường Văn Tông ngự phong tán dương thi ca của Lý Bạch, kiếm vũ của Bùi Mân, thảo thưcủa Trương Húc, gọi là Tam Tuyệt (三絕)

☆☆ Sự Nghiệp Sáng Tác:

Lý Bạch xuất thân trong một gia đình thương nhân giàu có. Lúc nhỏ học đạo, múa kiếm, học ca múa, lớn lên thích giang hồ ngao du sơn thuỷ, 25 tuổi “chống kiếm viễn du”, đến núi Nga My ngắm trăng, ngâm thơ rồi xuôi Trường Giang qua hồ Động Đình, lên Sơn Tây, Sơn Đông cùng năm người bạn lên núi Thái Sơn “ẩm tửu hàm ca” (uống rượu ca hát), người đời gọi là Trúc khê lục dật. Sau đó được người bạn tiến cử với Đường Minh Hoàng, ông về kinh đô Trường An ba năm, nhưng nhà vua chỉ dùng ông như một "văn nhân ngự dụng" nên bất mãn, bỏ đi ngao du sơn thuỷ.

Đến Lạc Dương, gặp Đỗ Phủ kết làm bạn vong niên (Đỗ Phủ kém Lý Bạch 11 tuổi). Họ cùng Cao Thích vui chơi, thưởng trăng ngắm hoa, san bắn được nửa năm. Rồi ông lại tiếp tục chia tay Đỗ Phủ viễn du về phương nam. Những năm cuối đời ông ẩn cư ở Lư Sơn. Tương truyền năm 61 tuổi ông đi chơi thuyền trên sông Thái Thạch, tỉnh An Huy, uống say, thấy trăng lung linh đáy nước, nhảy xuống ôm trăng mà chết. Nay còn Tróc nguyệt đài (Đài bắt trăng) ở huyện Đăng Đồ, An Huy, là địa điểm du lịch nổi tiếng. Người đời phong danh hiệu cho ông là Thi tiên, Trích tiên, Tửu trung tiên,...

Lý Bạch là người Lũng Tây, Cam Túc; lúc mới 5 tuổi, gia đình về định cư ở làng Thanh Liên, huyện Xương Long thuộc Miên Châu (Tứ Xuyên) nên nhà thơ vẫn coi Tứ Xuyên là quê hương của mình. Theo lời Lý Bạch kể lại, ông là hậu duệ của tướng quân Lý Quảng nhà Hán, là cháu chín đời của Tây Lương Vũ Chiêu vương Lý Cảo nước Tây Lương thời Ngũ Hồ thập lục quốc. Có sách ghi ông là con cháu đời sau tông thất nhà Đường, cụ thể là hậu duệ của Ẩn Thái tử Lý Kiến Thành. Vào cuối đời nhà Tùy, một người họ Lý trốn ra Tây Vực, kết duyên cùng một Man bà (phụ nữ Tây Vực), đến năm Trường An nguyên niên sinh ra Lý Bạch (lúc này nhà Đường đang có sự biến do Võ Tắc Thiên gây ra).

Tương truyền lúc ông sắp sinh, bà mẹ nằm mộng thấy sao Tràng Canh (hay Trường Canh), vì sao này có tên là Thái Bạch nên đặt tên con là Bạch. Lý Bạch suốt thời thơ ấu được mẹ dạy cho chữ Tây Vực, cha dạy cho Kinh Thi, Kinh Thư, đến 10 tuổi đã thông thạo và thích làm thơ.

Gia đình giàu có, nên từ nhỏ Lý Bạch đã tha hồ đi đây đi đó cùng cha. Ông tỏ ra rất thích, chí hướng của ông sau này không phải quan trường, mà là thơ túi rượu bầu, thong dong tiêu sái. Đến năm 10 tuổi gia đình chuyển về huyện Chương Minh, Tứ Xuyên. Tại đây Lý Bạch say mê học kiếm thuật, trong một thời gian ngắn, tài múa kiếm và tài thơ của ông được bộc lộ rõ rệt.

Năm 15 tuổi, ông đã có bài phú ngạo Tư Mã Tương Như, bài thơ gửi Hàn Kinh Châu, khá nổi tiếng. Lúc 16 tuổi danh tiếng đã nổi khắp Tứ Xuyên, thì ông lại phát chán, bèn lên núi Đái Thiên Sơn học đạo, bắt đầu cuộc đời ẩn sĩ.

Làm ẩn sĩ trên núi được 2 năm, ông lại hạ sơn, bắt đầu làm hiệp sĩ, đi lùng hết các thắng cảnh ở Hà Bắc, Giang Tây, Trường An... Bạn đồng hành với ông lúc này là Đông Nham Tử, nhưng chỉ đi chung được 1 năm. Đến năm 20 tuổi Lý Bạch đã đi khắp nước Thục, ông lại về Tứ Xuyên với gia đình, chuẩn bị tiền đi đường và tiền mua rượu cho cuộc hành trình sắp tới. Ông đến làm dưới trướng của thứ sử Ích ChâuTô Dĩnh, được ông này khen là thiên tài, "có thể sánh với Tư Mã Tương Như".

Năm 723, Lý Bạch mặc áo trắng, đeo một bầu rượu lớn, chống kiếm lên đường viễn du. Trong khoảng ba năm, ông đã tham quan hầu hết cảnh đẹp Trung Hoa, như là hồ Động Đình, sông Tương, Kim Lăng, Dương Châu, Ngô Việt, Giang Hạ...Đến năm 726, ông đến Vân Mộngkết duyên cùng cháu gái của Hứa tướng công. Thời gian này tài năng thơ bắt đầu nở rộ. Đến 30 tuổi thì tiếng tăm đã vang đến triều đình. Được mời đi làm quan, nhưng ông không nhận.

Năm Khai Nguyên thứ 23 (735), ông đi chơi ở Thái Nguyên, gặp Quách Tử Nghi đang ở tù, ông xin giúp, Quách liền được thả. Ông lại dẫn vợ rong chơi qua nước Tề, Lỗ, rồi định cư ở Nhiệm Thành. Đến đây Lý Bạch lại được Khổng Sào Phủ, Hàn Chuẩn, Bùi Chính, Đào Cái, Trương Thúc Minh - những ẩn sĩ đương thời - rủ lên núi Tồ Lai thưởng ngoạn, rồi say sưa ở Trúc Khê. Nhóm này được người ta gọi là "Trúc Khê lục dật".

Sau khi ông qua đời, Lý Đăng Dương sưu tầm thơ ông. Theo đó thì ông làm khoảng 20.000 bài, nhưng ông không để tâm cất giữ nên nay chỉ còn khoảng 1.800 bài. Thơ ông viết về mọi đủ mọi đề tài: vịnh cảnh, thưởng hoa, tình bạn, nỗi khổ đau của người dân, nỗi cay đắng của người vợ trẻ xa chồng (chinh phụ, thương phụ), của người cung nữ, nỗi cô đơn và bất lực trước vũ trụ vô cùng vô tận, nỗi cay đắng vì có tài mà không được dùng... Đề tài nào cũng có những bài tuyệt tác.
☆☆☆ Tác Phẩm:

(Một bài thơ viết bằng chữ Hán của Lý Bạch)

Nhà thơ Bì Nhật Hưu thời vãn Đường nói rằng:"Từ khi nhà Đường dựng nghiệp đến giờ, ngữ ngôn ra ngoài trời đất, tư tưởng vượt xa quỷ thần, đọc xong thì thần ruổi tám cực, lường rồi thì lòng ôm bốn bể, lỗi lạc dị thường, không phải lời của thế gian, thì có thơ Lý Bạch".

Lý Bạch làm hơn 20.000 bài thơ cả thảy, nhưng làm bài nào vứt bài đó, nên được biết tới là nhờ dân gian ghi chép hơn cả. Sau loạn An Lộc Sơn thì mất rất nhiều. Đến khi ông mất năm 762 thì người anh họ Lý Dương Lân thu thập lại, thấy chỉ còn không tới 1/10 so với người ta truyền tụng. Sang năm 1080, Sung Minh Chiu người Cao Ly mới gom góp lại tập thơ Lý Bạch, gồm 1800 bài. Đến nay thì thơ Lý Bạch còn trên dưới 1000 bài, bài nào cũng được đánh giá rất cao, nhưng nổi tiếng trong dân gian thì có: Tương Tiến Tửu, Hiệp khách hành, Thanh Bình Điệu, Hành lộ nan...

Khác với Đỗ Phủ, thơ Lý Bạch thích viển vông, phóng túng, ít đụng chạm đến thế sự mà thường vấn vương hoài cổ (Phù phong hào sĩ ca, Hiệp khách hành, Việt trung lãm cổ...), tả cảnh thiên nhiên tươi đẹp (Cổ phong, Quan san nguyệt...), cảm thông cho người chinh phụ (Trường can hành, Khuê tình, Tử dạ thu ca...), về tình bạn hữu (Tống hữu nhân, Hoàng Hạc lâu tống Mạnh Hạo Nhiên chi Quảng Lăng, Văn Vương Xương Linh thiên Long Tiêu...), tình trai gái (Oán tình, Xuân tứ...), nhớ quê hương (Tĩnh dạ tứ, Ức Đông Sơn...). Nhưng nhiều nhất vẫn là về rượu (Tương Tiến tửu, Bả tửu vấn nguyệt, 4 bài nguyệt hạ độc chước, Xuân nhật độc chước, Đối tửu...).

Lý Bạch làm thơ lối Cổ Phong rất được yêu thích, ngoài ra còn có thơ tứ cú, bát cú.
☆☆☆☆ Tìm Hiểu Thêm:

♤ Trích Dẫn Tiêu Biểu♤

  1. "Mã nhĩ đông phong" (Tai ngựa, gió đông) - Lý Bạch viết trong bài "Nhớ mười hai đem lạnh Vua Đáp uống một mình" (荅王十二寒夜獨酌有懷): Thế nhân văn thử giai điệu đầu, hữu như đông phong xạ mã nhĩ(世人聞此皆掉頭、有如東風射馬耳), nghĩa là "Mọi người trong thế giới đều nghe ấy và lắc đầu, thật giống như gió xuân thổi qua tai ngựa".​
  2. "Kim Cốc tửu sổ" (Kim Cốc số rượu) - Từ bài thơ "Đêm xuân uống rượu trong vườn đào mận (春夜宴桃李園序)": Như thi bất thành, phạt y Kim Cốc tửu sổ (如詩不成、罰依金谷酒數), nghĩa là "Như thơ không thành, phạt theo số rượu ở Kim Cốc".​


◇ Lý Bạch Trong Đạo Cao Đài ◇

Theo giáo lý đạo Cao Đài hay Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ, Lý Bạch là danh xưng trong một kiếp xuống trần của Thái Bạch Kim Tinh, mượn kiếp này của ngài để tôn thờ một quyền năng thiêng liêng cao trọng với danh hiệu "LÝ ĐẠI TIÊN TRƯỞNG KIÊM GIÁO TÔNG ĐẠI ĐẠO TAM KỲ PHỔ ĐỘ".



"Vâng lịnh Ngọc Hư nay xuống thế,

Tam kỳ độ rỗi các nguyên nhân"

Danh xưng Thái Bạch mới có từ đời Phong Thần, đến đời nhà Đường ngài mới chiết chơn linh đầu kiếp là một đại thi hào Lý Bạch.



"Tinh quân thọ sắc thuở Phong Thần.

Cho đến Đường triều mới biến thân.

Thái Bạch Kim Tinh đang trị thế,

Trường canh trích tử đến thăm trần."


_____________


Đôi lời:

Lý Bạch xưa kia còn "Tống Biệt"
Đổ Phủ đêm trăng "Nguyệt Dạ" điền
Biệt khúc chia ly người tri kỉ
Dạ hoài mong ngóng kẻ chinh yên.
-Lạc Mỹ Xuyên Thu-


Lý Bạch, nhắc đến cái tên này tôi lại liên tưởng khá nhiều đến sự lãng mạn và cốt khí thanh tao hơn là sự tài hoa khi nói về Đỗ Phủ. Hình tượng của ông luôn là một bạch y lão nhân, không màn thế sự, không vướng bụi trần khiến người ta chỉ có thể đứng nhìn từ xa mà không dám lại gần.

Bộ thơ khổng lồ của ông thật sự làm tôi rất hoang mang khi phải lựa chọn ra những bài phù hợp với bản thân vừa có thể tách biệt được với phong cách của Đổ Phủ, họ có sự đồng điệu về tâm hồn sáng tác nhưng nếu ai có tìm hiểu về hai vị lão nhân này, chắc hẳn sẽ đôi chút phân biệt được cách ra thi từ của hai người có sự bất đồng. Hơn là những bài nói về nghiệp lớn, tôi lại thích đặt cạnh hai ông bằng những bài thơ ngẫu hứng đời thường.

Số lượng bài có thể chỉ cập nhật trong giới hạn khả năng của dịch giả, nếu thi hữu nào có lòng yêu cổ thi lẫn tác giả này, có thể đóng góp thêm nhiều bản dịch khác.

Chân thành cảm ơn các bạn đã đến với Cổ Thi!
 
Tham gia
16/4/19
Bài viết
377
Điểm cảm xúc
543
Điểm
93
Phần hai: Tác Phẩm
-*-

Tống Biệt

Tác giả: Lý Bạch
m6p-qhusxizfnghkr4uifw-1441999366-jpg.26037
***


送別

鬥酒渭城邊,
壚頭醉不眠。
梨花千樹雪,
楊葉萬條煙。
惜別傾壺醑,
臨分贈馬鞭。
看君潁上去,
新月到應圓。

Tống biệt


Đấu tửu Vị thành biên,
Lô đầu tuý bất miên.
Lê hoa thiên thụ tuyết,
Dương diệp vạn điều yên.
Tích biệt khuynh hồ tữ,
Lâm phân tặng mã tiên.
Khán quân Dĩnh thượng khứ,
Tân nguyệt đáo ứng viên.

Bản Dịch: Chia Tay

Cạn chén rượu đào trên sông Vị
Đê đầu bên bếp ngỡ rằng say
Ngàn cây lê phủ như phong tuyết
Vạn cành lá liễu tựa sương mai.
Nâng chén buồn thương người tiễn biệt
Roi da yên ngựa chẳng rời tay
Dáng người dần khuất trên sông Dĩnh
Trăng non vừa hé vẫn tròn hoài.

Lạc Mỹ Xuyên Thu
 
Tham gia
16/4/19
Bài viết
377
Điểm cảm xúc
543
Điểm
93
Hiệp Khách Hành 俠客行
Tác giả: Lý Bạch
***

YCGomoO4NmtHElRcGJ_qsA.1441999097.jpg



俠客行


趙客縵胡纓,
吳鉤霜雪明。
銀鞍照白馬,
颯沓如流星。
十步殺一人,
千里不留行。
事了拂衣去,
深藏身與名。
閑過信陵飲,
脫劍膝前橫。
將炙啖朱亥,
持觴勸侯嬴。
三杯吐然諾,
五岳倒為輕。
眼花耳熱後,
意氣素霓生。
救趙揮金鎚,
邯鄲先震驚。
千秋二壯士,
烜赫大樑城。
縱死俠骨香,
不慚世上英。
誰能書閣下,
白首太玄經。


Hiệp khách hành

Triệu khách mạn hồ anh,
Ngô câu sương tuyết minh.
Ngân an chiếu bạch mã,
Táp đạp như lưu tinh.
Thập bộ sát nhất nhân,
Thiên lý bất lưu hành.
Sự liễu phất y khứ,
Thâm tàng thân dữ danh.
Nhàn quá Tín Lăng ẩm,
Thoát kiếm tất tiền hoành.
Tương chích đạm Chu Hợi,
Trì thương khuyến Hầu Doanh.
Tam bôi thổ nhiên nặc,
Ngũ nhạc đảo vi khinh.
Nhãn hoa nhĩ nhiệt hậu,
Ý khí tố nghê sinh.
Cứu Triệu huy kim chuỳ,
Hàm Đan tiên chấn kinh.
Thiên thu nhị tráng sĩ,
Huyên hách Đại Lương thành.
Túng tử hiệp cốt hương,
Bất tàm thế thượng anh.
Thuỳ năng thư các hạ,
Bạch thủ Thái huyền kinh.

Dịch nghĩa

Khách nước Triệu đeo giải mũ thô sơ
Thanh Ngô câu sáng như sương tuyết
Yên bạc soi chiếu con ngựa trắng
Lấp loáng như sao bay
(Thanh gươm) mười bước giết một người
Cho nên không đi xa ngàn dặm
Làm xong việc rũ áo ra đi
Ẩn kín thân thế cùng danh tiếng
Lúc nhàn rỗi qua nhà Tín Lăng quân
Cởi kiếm ra để ngang trên gối
Đem chả nướng mời Chu Hợi
Cầm chén rượu mời Hầu Doanh
Uống ba ly chân thành gật đầu
Năm trái núi lớn thật xem là nhẹ
Sau khi mắt hoa, tai nóng bừng
Ý khí như cầu vồng trắng bốc sinh
Vung cây chuỳ cứu nước Triệu
Thành Hàm Đan trước tiên đã chấn kinh
Hai tráng sĩ ngàn năm sau
Thanh danh lẫy lừng thành Đại Lương
Dù cho chết xương cốt hiệp sĩ còn thơm
Không hổ thẹn với anh hùng trên thế gian
Ai là người có thể ngồi viết sách dưới gác
Bạc đầu với cuốn kinh Thái huyền

(Nguồn: thivien.net)

Bản dịch: Bài Ca Về Người Hiệp Khách

Khách nước Triệu thô sơ giải mũ
Thanh Ngô câu sáng tựa tuyết sương
Bọc lưng ngựa trắng trên đường
Yên sau ánh bạc như gương sáng ngời.

Mười bước giương gươm trừ một kẻ
Cần chi phải vội ngàn dặm xa
Việc xong rủ áo cho qua
Che danh ẩn thế biết là tiếng tăm.

Thanh nhàn ghé lại quân Lăng Tín
Tuốt kiếm nâng chân đặt gối ngồi
Chả nướng Chu Hợi cùng xơi
Rượu đào nâng chén đối mời Hầu Doanh.

Rượu cạn ba ly thân tình trọn
Núi dù năm ngọn tựa hư không
Men say hoa mắt tai bùng
Mà đâu ý chí hào hùng dậy nâng.

Đại chùy vung tay đà cứu Triệu
Hàm Đan khiếp đảm, loạn yên thành
Ngàn năm tráng sĩ hai chàng
Thanh danh lừng lẫy ngút ngàn Đại Lương.

Xác chôn, xương rạn còn danh sáng
Anh hùng nào thẹn với thế gian
Vùi ngâm chép sách bên đàn
Thái Huyền kinh sử bạc đầu người lưu.

Lạc Mỹ Xuyên Thu


Tìm hiểu thêm:
Nguỵ Vô Kỵ được anh là Nguỵ An Ly vương phong làm Tín Lăng quân. Ở thành Đại Lương, kinh đô của nước Nguỵ, có một ẩn sĩ 70 tuổi tên là Hầu Doanh. Tín Lăng quân rất trọng Hầu Doanh, tôn làm thượng khách. Hầu Doanh tiến cử người đồ tể tên là Chu Hợi, cũng là một ẩn sĩ hiền tài. Năm thứ 20 đời Nguỵ An Ly vương, quân Tần vây thành Hàm Đan của nước Triệu. Vua Nguỵ sai tướng Tấn Bỉ mang quân sang cứu Triệu, nhưng sau sợ uy thế của Tần, do đó không tiến quân. Tín Lăng quân vì bạn là Bình Nguyên quân đang bị vây ở Triệu, hết lời xin vua Nguỵ cho tiến quân, nhưng vua Nguỵ không nghe. Theo kế của Hầu Doanh, Tín Lăng quân nhờ vương phi Như Cơ, lấy trộm được binh phù của vua Nguỵ, đem đi ra lệnh cho Tấn Bỉ tiến quân. Tấn Bỉ nghi ngờ không tuân lệnh. Chu Hợi liền rút cây chuỳ sắt nặng 40 cân, giết chết Tấn Bỉ. Nhờ đó Tín Lăng quân dem quân đánh đuổi được quân Tần, cứu nguy cho thành Hàm Đan và Bình Nguyên quân.
 
Tham gia
16/4/19
Bài viết
377
Điểm cảm xúc
543
Điểm
93
Thu Tứ
Tác giả: Lý Bạch
***

秋思

燕支黃葉落,
妾望自登臺。
海上碧雲斷,
單于秋色來。
胡兵沙塞合,
漢使玉關回。
征客無歸日,
空悲蕙草摧。

Thu tứ

Yên Chi hoàng diệp lạc,
Thiếp vọng tự đăng đài.
Hải thượng bích vân đoạn,
Thiền Vu thu sắc lai.
Hồ binh sa tái hợp,
Hán sứ Ngọc Quan hồi.
Chinh khách vô quy nhật,
Không bi huệ thảo tồi.

Dịch nghĩa

Ở Yên Chi lá vàng rơi
Thiếp tự lên đài cao ngóng nhìn
Trên vùng Thanh Hải, mây biếc đứt khúc
Nơi biên ải vùng đất của rợ Hồ, sắc thu đã lại tới
Quân Hồ kéo đến đầy trước ải cát
Sứ nhà Hán từ Ngọc Môn quan trở về
Lính chinh chiến chưa biết ngày nào mới trở về
Chỉ thương cho cỏ huệ úa tàn

Ý Thu

Yên Chi đất phủ lá vàng rơi
Đài cao thiếp vọng phía chân trời
Thanh Hải biển mây chia từng đoạn
Thiền Vu thu đến chẳng sao vời
Hồ quân vây kín trời biên ải
Ngọc Môn sứ Hán cũng rã rời
Hẹn khách ra đi giờ không thấy
Loan phòng cỏ huệ úa tàn rơi...

Lạc Mỹ Xuyên Thu


 
Tham gia
16/4/19
Bài viết
377
Điểm cảm xúc
543
Điểm
93
Bả Tửu Vấn Nguyệt
Tác giả: Lý Bạch
***

把酒問月

青天有月來幾時,
我今停杯一問之。
人攀明月不可得,
月行卻與人相隨。
皎如飛鏡臨丹闕,
綠煙滅盡清輝發。
但見宵從海上來,
寧知曉向雲間沒。
白兔搗藥秋復春,
嫦娥孤棲與誰鄰。
今人不見古時月,
今月曾經照古人。
古人今人若流水,
共看明月皆如此。
唯願當歌對酒時,
月光常照金樽裡。

Bả tửu vấn nguyệt

Thanh thiên hữu nguyệt lai kỷ thì,
Ngã kim đình bôi nhất vấn chi!
Nhân phan minh nguyệt bất khả đắc,
Nguyệt hành khước dữ nhân tương tuỳ.
Kiểu như phi kính lâm đan khuyết,
Lục yên diệt tận thanh huy phát
Đãn kiến tiêu tòng hải thượng lai,
Ninh tri hiểu hướng vân gian một.
Bạch thố đảo dược thu phục xuân,
Thường nga cô thê dữ thuỳ lân.
Kim nhân bất kiến cổ thì nguyệt,
Kim nguyệt tằng kinh chiếu cổ nhân.
Cổ nhân kim nhân nhược lưu thuỷ,
Cộng khan minh nguyệt giai như thử.
Duy nguyện đương ca đối tửu thì,
Nguyệt quang thường chiếu kim tôn lý.

Dịch nghĩa

Trời xanh có vầng trăng đã bao lâu rồi?
Nay ta ngừng chén hỏi trăng đây!
Người thường không thể vin với được vầng trăng sáng,
Trăng đi đâu thì vẫn cứ theo người.
Ánh sáng trắng như gương vút tận cửa son,
Khói biếc tan đi hết, để lộ vẻ trong trẻo lan tỏa ra.
Chỉ thấy ban đêm trăng từ biển tới,
Nào hay sớm lại tan biến giữa trời mây.
Thỏ trắng giã thuốc mãi thu rồi lại xuân,
Thường Nga lẻ loi cùng ai bầu bạn?
Người ngày nay không thấy bóng trăng xưa.
Trăng nay thì đã từng soi người xưa.
Người xưa nay tựa như giòng nước chảy,
Cùng ngắm vầng trăng sáng như vậy đó.
Chỉ mong trong lúc ca say trước cuộc rượu,
Ánh trăng cứ mãi sáng soi vào chén vàng.


Bản dịch: Nâng Chén Rượu Hỏi Trăng

Trời xanh trăng có tự bao giờ
Nay ta dừng chén hỏi trăng thơ
Ai nào vin nổi trăng vầng sáng
Ta đi trăng cũng bước theo người.

Sáng tựa như gương soi lầu các
Khói mờ lung tỏa bóng trăng sang
Trời đêm chỉ thấy trăng từ biển
Sớm tỏ tan trong dấu mây ngàn.

Thỏ tuyền giã thuốc mãi xuân thu
Hằng Nga lẻ bóng, ai cùng ngụ?
Người nay chẳng thấy trăng ngày cũ
Trăng hoài vẫn đợi bóng người lưu.

Người vốn xưa nay hòa dòng chảy
Trăng trong cũng thưởng hết phen này
Mong rằng cơn say chưa tàn cuộc
Trăng vàng chén tửu đến ngày nay...

Lạc Mỹ Xuyên Thu


 
Tham gia
16/4/19
Bài viết
377
Điểm cảm xúc
543
Điểm
93
Độ Kinh Môn Tống Biệt
Tác giả: Lý Bạch
***

渡荊門送別

渡遠荊門外,
來從楚國遊。
山隨平野盡,
江入大荒流。
月下飛天鏡,
雲生結海樓。
仍憐故鄉水,
萬裡送行舟。

Độ Kinh Môn tống biệt

Độ viễn kinh môn ngoại,
Lai tòng Sở quốc du.
Sơn tuỳ bình dã tận,
Giang nhập đại hoang lưu.
Nguyệt hạ phi thiên kính,
Vân sinh kết hải lâu.
Nhưng liên cố hương thuỷ,
Vạn lý tống hành chu.

Dịch nghĩa
Vượt ra xa hẳn ngoài núi Kinh Môn
Lại ngoạn du vùng Sở quốc
Núi dài thẳng tắp miền đồng bằng
Sông đổ vào chốn đồng hoang bao la
Trăng chiếu rọi xuống như gương trời bay
Mây kết tụ tạo thành lầu đài trên mặt sông
Vẫn nhớ thương dòng nước chốn quê xưa
Đã đưa tiễn thuyền ta ra đi muôn dặm.
(Năm 724)
Núi Kinh Môn ở huyện Nghi Đô, tỉnh Hồ Bắc.

Bản dịch: Tiễn Biệt Ngoài Kinh Môn

Vượt dặm ngoài xa núi Kinh Môn
Sở quốc rong chơi tường khắp chốn
Núi dài thẳng tắp bình nguyên trải
Sông tràn biếc rộng đổ đồng hoang.
Trăng sáng như gương trời uốn lượn
Lâu đài mây tụ bóng sông buồn
Dòng nước như thương về quê cũ
Lướt thuyền tiễn biệt khách ngàn muôn.

Lạc Mỹ Xuyên Thu


 
Top